Những ngày xanh - Chương 19 - 20 & 21 (hết)

Chương 19

Khi bớt sưng và màng tách ra, bệnh yết hầu cũng lui dần, sắp khỏi. Sau mấy ngày sốt dữ dội, tôi thiêm thiếp một cách dễ chịu: mạch đập yếu, thần kinh giãn ra, thoải mái. Bệnh tôi không nặng lắm, bác sĩ bảo tôi có thể dậy sau hai tuần. 

Sau nhiều ngày tháng cố gắng quá mức, bây giờ tôi cảm thấy sung sướng được nằm trên giường êm ái, hai tay buông lỏng trên chăn, mắt dõi theo tia nắng, tia nắng chiếu có lũ bụi tung tăng, xuyên qua khe cửa sổ nhỏ trong phòng và thay đổi dần khi lên cao. 

Các bạn đừng nghĩ là tôi buồn rầu chán nán... vì sợ hỏng thi. Không đâu: tôi rất tin tưởng, tin tưởng ở lòng tốt của Thượng Đế. Ngài công bình, lẽ nào Ngài nỡ hủy hoại tương lai đứa trẻ hết lòng kính yêu Ngài và ngày đêm hằng khẩn cầu Ngài? Không! Tôi không dám mơ phép lạ, tôi chỉ mong Ngài công minh thôi. Tôi mong các giám khảo cho tôi điểm trung bình bài thi mà tôi vắng mặt. Thầy Reid bảo rằng trường hợp như vậy không phải là không hề có. Nghĩ đến điều này, tôi nhắm mắt lại, môi nở nụ cười yếu ớt và tin tưởng. Rồi tôi cầu nguyện thì thầm. 

Ba mẹ vẫn chưa về, theo các bưu thiếp mẹ gửi cho ông, chúng tôi hiểu là những ngày ở Luân Đôn ba mẹ thành công. Mẹ cho hay là ba hùn tiền khai thác ngôi nhà cậu Adam. Cú làm ăn này khiến ba tôi hứng thú lắm, và vì vậy bận về hai ông bà sẽ ghé lại thăm gia đình người bà con ở Kilmarnock rồi cùng về với bà cố tôi trong vòng 10 ngày nữa. 

Ông tôi giở lịch ra, tính toán và biết là tôi có thể ngồi dậy được trước ngày họ trở về. Điều này làm chúng tôi rất mừng. 

Ông tôi là một người nuôi bệnh giỏi. Trong cơn mê sảng lúc đầu, tôi mơ màng thấy ông nghiêng mình trên tôi, cho tôi uống thuốc hay xức thuốc trong cổ tôi. Vài lần khác, bên ngoài cánh cửa tẩm thuốc sát trùng, tôi nghe tiếng bà Bosomley mang đến cho tôi lọ mứt mà bà làm riêng cho tôi. 

Dù bệnh tôi theo nguyên tắc đang thời kỳ truyền nhiễm, vẫn có nhiều người đến thăm: bác sĩ Galbraith, cộc cằn, ít nói đến mỗi ngày. Dì Kate nhiều lần đến thăm tôi, nhưng không dám vào hẳn trong phòng, vì sợ lây bệnh cho cháu bé. Cậu Murdoch thì không cần thận trọng như thế và tôi hết sức cảm động vì sự lui tới thường xuyên của cậu. Tôi vui mừng mỗi khi nghe tiếng bước chân quen thuộc nặng nề của cậu lên cầu thang. Tôi mê say nghe những câu chuyện đứt đoạn của cậu, có khi khôi hài, khi thì cậu kể về đặc tính của giống cẩm chướng do cậu mới gây. 

Gavin đòi thăm tôi song bị ông cương quyết chối từ, điều này khiến tôi buồn quá đỗi. Tôi đành tự an ủi là mình sắp bình phục, vài ngày nữa mình có thể gặp Gavin.

*

Bây giờ tôi phải nhắc đến ngày 20 tháng 7, cái ngày định mệnh mà tôi ghi khắc vào tâm não (và ba năm sau, tôi còn có dịp nhớ lại nữa). 

Buổi sáng thứ tư trôi qua như thường, không có gì xảy ra. Đến trưa, lần đầu tiên tôi thay quần áo, rời phòng đi dạo ngoài vườn. Sau bữa ăn, trời nắng thật tốt nên ông tôi đặt một ghế xếp trên bồn cỏ cho tôi. Ngồi trên đó, tôi gác chân trên mảnh ván và đắp chăn, tận hưởng ngọn nắng ấm. Lòng nhẹ nhõm tôi vui mừng sau khi bình phục, thấy đời sống đối với mình đẹp như tiếng chim hót trên bầu trời quang đãng sau cơn dông. 

Trong nhà, ông cắm cúi thu dọn, hủy các vết tích còn lại do cơn bệnh của tôi gây ra, sợ có thể làm ba bực mình. Vì ông hiểu rằng dù thầy Reid đã hứng chịu mọi phí tổn về thuốc men, bác sĩ v.v... cũng không nên để ba phải bận lòng khi nghĩ đến điều này. 

Đang lúc đó, tôi nghe tiếng bước chân sào sạo trên con đường sỏi và nhận ra thầy Reid đang tới gần. Thầy hiện ra từ góc nhà, mỉm cười và ngồi xuống chỗ chân tôi: 

- Sao, khỏe chứ? 

- Thưa thầy, con khỏe lắm rồi. 

Thầy gật đầu, tay ngắt một cọng cỏ, vứt xuống rồi im lặng một lúc lâu, có vẻ như đang bận tâm suy nghĩ gì đó. Đoạn, đưa mắt nhìn ra khu vườn, thầy nói: 

- Robert, con can đảm lắm! Hơn ta nhiều! Thú thật cho con biết: hôm con ngã bệnh, máu gần trào ra cùng với nước mắt ta... Nhưng ta phải biết vươn lên trên mọi thất vọng, thế mới là khôn ngoan. Robert! Con đã đọc Candide chưa? 

- Thưa thầy, chưa ạ. 

- Được rồi, ta sẽ cho con mượn. Con sẽ thấy rằng do sự sắp đặt của Thượng đế, mọi sự trên đời này đều tốt đẹp. 

Tôi không rõ thầy muốn nói gì, trố mắt nhìn thầy. Những lời thầy làm tôi như lạc hướng. Thầy điềm đạm tiếp: 

- Kết quả kỳ thi sẽ được loan báo sau tuần lễ này nhưng thầy vừa gặp giáo sư Grant, ông có ghi số điểm... 

Tuy bác sĩ cho tôi nhiều thuốc bổ, tôi vẫn tưởng tim tôi sắp ngừng đập: chắp hai tay vào nhau, tôi lắng tai, nghẹn thở trong lúc thầy nói nhanh bằng giọng chua xót ít gặp nơi ông và đôi mắt ông nhìn tôi thương cảm: 

- Robert ơi! Mc Evan đấy! 

Thằng bé thần đồng đã thắng! Hạng trẻ này luôn luôn được cuộc, dù thắng lợi của chúng đổi bằng rủi ro, bất hạnh của thí sinh khác! Tim tôi thắt lại, tôi nhìn sững thầy, còn ông thì vẫn tiếp tục ngắt cỏ vứt ra xa: 

- Nó chỉ được 920 điểm. 

Tôi lờ mờ thấy ông tôi xuất hiện trên thềm nhà bếp và đến gần chúng tôi, dáng bộ thiểu não. Chắc chắn là ông cũng biết rồi. Tôi cúi đầu, đau đớn đến lặng đi. Mặt tôi tái xanh. Sau cùng tôi cố gắng hỏi thầy: 

- Thưa, ai hạng nhì, thầy? 

- Con! Con chỉ thua nó có 25 điểm và thiếu bài vật lý. Ta tìm đủ mọi cách. Ta gần sụp xuống lạy họ để họ cho điểm trung bình bài vật lý. Ta đề nghị sẽ đưa sổ điểm toàn niên của con cho họ xem. Ta cam đoan với họ, con không chỉ được 25 thôi mà đến những 95 kia... nhưng vô ích (giọng thầy lần này thêm xót xa) họ không thể, họ không muốn phá lệ một lần. 

Tôi im lặng. Tận phút này tôi vẫn chưa chịu tin là mình hỏng. Thầy Reid muốn tôi khuây khỏa nên cho hay tiếp: 

- Con hơn điểm Gavin: nó thua con đấy. 

Hình ảnh hai đứa con trai trong chiếc thuyền, trên mặt hồ dưới ánh trăng xanh biếc, huyền hoặc... Những lời ước hẹn chắc nịch và tràn hy vọng cùng một loạt như hiển hiện trước mặt, trong tai tôi cùng với khung cảnh đêm trăng. 

Tưởng tượng đến nỗi thất vọng của Gavin nên trong một lúc, tôi quên đi đau khổ của riêng mình. 

- Gavin biết chưa thầy? 

- Chưa, con ạ! 

Bằng giọng run run buồn thảm, giọng của một người từng đau khổ buộc lòng phải báo tin buồn, ông tôi chen vào: 

- Ông Thị trưởng đang trong lúc xui xẻo quá sức... ông bị phá sản. 

Tôi sững sờ vì tin cuối cùng này. Cha Gavin bị phá sản? Khổ sở, nhục nhã ngần nào đối với Gavin? Chuyện nó thi hỏng thật không đáng gì so với tai họa tày trời của cha nó. Tôi liên tưởng đến nét mặt xanh xao cương nghị của Gavin... 

Tôi cảm thấy cần gặp nó ngay nhưng cũng nhanh trí không cho ai hay quyết định này. Đợi cho ông và thầy Reid vào nhà, tôi run rẩy đứng dậy, không cần xin phép, chạy ra đường. Tôi vẫn còn yếu, đi đứng hơi khó khăn, nhưng tôi chỉ nghĩ đến một điều cần thiết: gặp bạn ngay càng sớm càng tốt. 

Gavin không có nhà. Trong tư thất ông Thị trưởng không một bóng người, không bồi bếp, không người làm vườn. Tôi gõ bốn lần tiếp mới thấy chị Julia hé cửa ra, chị như sợ hãi một tai họa nào hiện đến bất ngờ nữa vậy. 

Chị nghẹn ngào cho tôi hay là Gavin mấy hôm nay ở Ardfillan với mấy người bạn và chị đã điện thoại cho nó, nó sẽ về đến đây bốn giờ chiều, tàu hỏa. Tôi biết ngay bạn sẽ xuống trạm gần nhất. Trời xanh ngắt. Trên đường, bộ hành cởi áo vét tông, phe phẩy mũ rơm. Tôi chống lại sự yếu đuối, lê chân đến cổng xe lửa vừa khi xe vào sân ga. Mắt chói lòa vì bụi và và ánh nắng phản chiếu trên đường rầy, tôi chờ bạn ở chỗ thường lệ. 

Quả tôi không lầm: xe vừa ngừng, Gavin nhảy xuống và băng qua bến, chưa kịp thấy tôi. Nét mặt xanh xao, đăm chiêu của nó báo cho tôi biết là bạn tôi đã biết mình rớt rồi. 

Viên trưởng trạm huýt còi và phất cái mũ xanh trong tay. Một đầu máy kéo các toa hàng hóa nổ xình xịch. Từ trên một toa, người ta chuyển mấy bao khoai tây xuống mấy xe bò. Hình ảnh này khắc ghi trong trí tôi mãi mãi... 

Xe chở hành khách vừa chạy. Gavin băng qua các đường rầy. Mải lo nghĩ, buồn bã, bạn tôi không trông thấy cái đầu máy kéo các toa hàng hóa đang đổi hướng. Đầu cúi, nó đi thẳng về hướng cái đầu máy đang chạy tới. Tôi hốt hoảng thét to lên, nghe tiếng hét của tôi, Gavin giật mình ngẩng lên và nhận ra cái đầu máy gần tới... Nhưng Chúa ơi! Nó như dính chặt tại chỗ: giày nó vướng vào ghi đường rầy. Nó cúi xuống vùng vẫy, cố hết sức để rút chân ra trong lúc tôi kêu rú lên và đâm bổ lại. 

Đôi mắt đen láy trên khuôn mặt xanh xao của Gavin gặp mắt tôi. Nó tận lực rút chân khỏi đường rầy nhưng vô ích. Cái đầu máy lao sầm tới. Gavin hét lên, tiếng hét nó to hơn cả tiếng tôi và một bức màn đỏ rũ xuống trước mắt tôi ngay lúc đó...

*

Khi tôi tỉnh lại, sân ga náo loạn, ồn ào kinh khủng. Người thợ máy khoa tay phân bua với cảnh sát rằng không phải lỗi anh ta. Nhiều người kêu lên bằng giọng xót xa, đau đớn: 

- Bi thảm quá! Nghĩ coi, cha nó vừa mới... 

Họ cho là Gavin đã tự tử. 

Tôi dựa theo các vách tường lần về nhà, cắn chặt răng để nén đau, mà niềm đau cứ cuồn cuộn dâng lên. Bây giờ, tôi chỉ ao ước có một điều: được nấp trong bóng tối, trong im lặng. Đừng thấy ai, đừng nghe ai... Nhưng rồi đêm xuống, tôi không chợp mắt được. Tâm hồn tôi như nổi loạn. Hy vọng trong tôi đã chết. Thế giới chỉ đầy dẫy bất công thôi. 

Sáng hôm sau ba mẹ và bà cố về. Giam mình trong phòng tôi nghe tiếng ồn ào bên ngoài. Bà gọi tôi nhưng tôi không buồn đáp. 

Tránh tất cả, tôi rời nhà, chầm chậm ra đường. Ngang ba cây dẻ nổi bật trên nền trời, tôi hướng về phía nhà ông Thị trưởng. 

Ngôi nhà cửa nẻo đóng im ỉm như cách biệt hẳn với sinh hoạt bên ngoài. 

Gavin nằm trong phòng, trên giường. Bạn tôi đã ngủ, giấc ngủ cuối cùng của cuộc đời. Mắt nhắm nghiền vẻ bình thản không thay đổi, như chìm trong mơ. Nó nằm đó, vẫn hãnh diện và quả quyết song quá xa vời, tôi làm sao trò chuyện, tâm sự được, kể từ nay? Chúng tôi vĩnh viễn mất nhau... 

Chị Julia, mắt đỏ mọng, lặng lẽ chỉ cho tôi chiếc giày rách phân nửa vì Gavin đã cố gắng rút chân ra. Không, bạn tôi không đầu hàng! Nó đã chiến đấu tới cùng, Gavin đã nằm xuống song không phải là kẻ chiến bại. Tôi tin thế. 

Chương 20

Một buổi chiều tháng hai, tôi từ xưởng thép ra về, gót giày đinh nện mạnh lên nền đất cứng. Tôi gặp Luke, con dì Kate đang chờ ba má nó ở cổng. Đội cái két xanh dương, mặc đồng phục trường học, vẻ hãnh diện của đứa con trai mới đến trường lần đầu làm tôi bồi hồi tưởng nhớ ngày thơ ấu của mình. Thời gian trôi thật mau, tôi nghĩ thầm. Trời ơi! Tôi đã 18 tuổi rồi! 

- Robert! Cho em một đồng đi! 

Thằng bé chạy lại bên tôi. Nom nó mạnh khỏe, hồng hào, hai mắt sáng ngời. Thọc tay vào túi quần nhem nhuốc, tôi tìm một đồng cho nó. 

- Này, Luke! Phải nói "thưa anh". 

- Thưa anh. 

- Mày biết lúc bằng tuổi mày, ai cho tao tiền không? 

Tôi nói như giọng một ông cụ, còn nó thì mải nhìn đồng tiền trong tay chả cần để ý lời tôi. Nhưng cần gì, trong cuộc sống nặng nề, buồn bã của tôi, cái tương lai đen tối sẽ đến với tôi không gì hứa hẹn; việc cho nó tiền mua kẹo, dắt nó đi xem đá banh chiều thứ bảy là những an ủi nho nhỏ đối với tôi. 

- Ba mày sắp ra đó, Luke ơi! Chiều nay ba mày sẽ về nhà sớm. 

- Để đi nghe hòa nhạc phải không anh? 

Tôi gật đầu đoạn bước nhanh vào bóng tối, song nghĩ đến điều này, lòng tôi thấy vui vui, bước chân bớt nặng nề đôi chút. Tối nay, tôi sẽ khỏi ngủ gục sau bữa ăn.

*

Đó là buổi trình diễn phước thiện đặt dưới sự chủ tọa của giới chức cao cấp trong tỉnh, mục đích để gây quỹ xây cất một bệnh viện mới. 

Khi tôi đến, quan khách đã khá đông, tôi chọn một ghế dưới chót tận trong một xó, lấy vẻ bất cần của một gã con trai "bất đắc chí", ngồi một mình nhìn thính giả đầy nghẹt gian phòng rộng lớn. Người ta đặt thêm ghế xúp dọc theo các tường và trang trí hoa giấy, dây băng mầu rực rỡ. Dì tôi và chồng ngồi trầm ngâm ở hàng ghế giữa. Có cả luật sư Mc Kellar. Chao! Lại có cả Jamieson, tóc đầy bi-ăng-tin bóng loáng, mặc áo cổ cao, hồ cứng ngắc đi với hai cô gái thật xinh. 

Hàng thứ hai, sau ông bà Marshall và các nghị viên hội đồng tỉnh, tôi trông thấy thầy Reid ngồi cạnh mẹ Alison, cô Cramb – cô giáo dạy hát cho Alison – và một người lạ nữa, có bộ râu xám dài. Tôi nhận ra vị nhạc trưởng danh tiếng của ban hợp ca Winton. Cạnh thầy Reid còn một ghế trống, tôi hiểu là thầy dành cho tôi. Thỉnh thoảng, thầy quay lại nhìn dáo dác tìm kiếm. Lòng tôi rộn lên một chút sung sướng vì sự ưu ái của thầy đối với tôi. Song tôi vẫn cúi đầu tránh ánh mắt thầy, nhất quyết ngồi yên trong xó này như một tên bần cùng, tự ý và gàn dở tách rời khỏi mọi người thân. 

Buổi hòa nhạc thành công mỹ mãn. Alison là cây đinh của buổi lễ. Mình cô đã hát 4 bản bằng cái giọng trẻ trung, cao vút. Tiếng vỗ tay cơ hồ vỡ rạp, không dứt đến nỗi Alison phải chào đi, chào lại nhiều lần và để đáp lại những tiếng hoan hô nồng nhiệt ấy, Alison hát thêm một bài nữa. Điều tôi cảm động là nàng đã chọn bài dân ca Tô Cách Lan mà tôi thích nhất. Lời ca thơ mộng, tuyệt vời như du tôi vào một cơn mơ, một thế giới chỉ có hai đứa tôi nắm tay nhau sánh bước. Tôi nhớ lại những buổi đi chơi với Alison... và xa hơn nữa, tôi nhớ lại những lần đến kèm toán cho cô bạn dễ thương cách đây đã ba năm, trước khi thi học bổng Marshall. 

Khi nốt nhạc cuối cùng tắt, im lặng bao trùm gian phòng. Cả cử tọa như bị thôi miên. Rồi tiếng vỗ tay nổi lên như sấm dậy. Tôi cũng cổ võ hết mình. 

Sau đó, đoàn người lũ lượt ra về. Tên Alison được nhắc trên môi mọi người. Tôi sắp ra về thì chợt có bàn tay ai đặt lên vai và giọng tức tối của thầy Reid vang lên: 

- Nãy giờ trốn đâu? Báo hại người ta tìm suốt buổi... 

Mặt thầy còn đượm vẻ hài lòng về thành công của Alison. 

- Thưa thầy, con muốn ngồi một mình. 

Thầy nhíu mày, nhìn tôi chăm chú trong khi tôi định cáo từ. Rồi thầy giữ tay tôi: 

- Robert, đừng giở trò điên! Nhất là tối hôm nay. Thomas rất hài lòng tài nghệ bạn cậu, vào đây với ta, ta muốn giới thiệu cậu với ông ấy. 

Không để tôi có thì giờ thoái thác, thầy lôi bừa tôi đi. Thầy có vẻ thích thú lắm. Thầy vốn say mê âm nhạc, hết lòng săn sóc cho Alison, chính điều này đã đưa thầy lại gần mẹ Alison. Chính thầy đã mời vị nhạc trưởng ca đoàn Winton đến dự lần ra mắt này của Alison. 

Gần đến nơi, thầy cười hiền hòa bảo tôi: 

- Alison xoay sở khá lắm. A! Họ kia rồi! Robert! Con làm ơn bỏ bộ mặt đưa đám một chút coi! 

Thầy và tôi vào đến phòng sau sân khấu. Các nghệ sĩ, thân hữu và các nhân vật quan trọng của Levenford đều có mặt tại đó. Các bà trong nhóm Bảo trợ Xây cất Bệnh viện đang dọn tiệc trà. 

Một đám đông vây lấy Alison. Nàng có vẻ bình thản giữa đám người ồn ào kia. Đứng lặng yên, tay vụng về cầm đóa hoa trắng, nàng lơ đãng nhìn quanh phòng như thể muốn tìm vật gì quen thuộc. Bốn mắt chúng tôi chợt gặp nhau, Alison sáng ngời mắt lên, mỉm cười với tôi. 

Tôi chịu đựng khổ hình được giới thiệu với ông Thomas, ông bắt tay tôi, mỉm cười và lại tiếp tục trò chuyện với cô Cramb. Lần thứ nhất, tôi thấy cô ấy có vẻ được uống sữa chứ không phải bị uống dấm! Tôi từ chối tách trà bà Keith trao cho vì sợ đôi tay run rẩy, tôi sẽ làm vỡ tách mất. Mắt không rời Alison, tôi đứng tách riêng không buồn góp chuyện với một ai cả. 

Cuối cùng, tôi cũng đến được gần nàng. Lòng vui rộn, môi khô, cổ nghẹn, dù vậy tôi cũng ấp úng mấy lời khen bạn. Alison lắc đầu, tỏ vẻ không hài lòng mấy về mình. Cô nói: 

- Vậy mà tôi được mời hát trong ca đoàn Winton đó anh. 

- Solo hẳn? 

- Vâng! 

- Ồ, thế thì tuyệt rồi. 

- Mới là bước đầu thôi, anh ạ! 

Alison ngẩng mặt, vẻ quả quyết, bảo tôi. Im lặng. Nhiều người cài khuy áo măng tô, cột khăn quàng cổ, sửa soạn ra về. Tôi thu hết can đảm, nói mau: 

- Tối nay, tôi đưa em về, nhé? 

- Tại sao không? 

Alison trả lời vẻ bình thản như thường lệ, đoạn nhìn quanh, tiếp: 

- Mọi người sắp về hết. Tôi lại tin cho mẹ hay. 

Tối nay bà Keith thật xinh đẹp trong cái áo xám óng ả, cổ đeo vòng hạt trang nhã. Tôi nhìn Alison trao bó hoa cho mẹ, choàng măng tô vào và cột tóc bằng cái khăn voan trắng. Mẹ Alison cười với tôi, nụ cười hơi mai mỉa mất hết hảo ý như hồi trước. Tôi đỏ mặt tiến ra cửa trong lúc cô bạn nán lại chào hết mọi người. Cuối cùng Alison cũng ra với tôi và chúng tôi cùng sóng bước bên nhau. Alison bảo tôi: 

- Robert, tôi tức ghê, lúc nãy tôi suýt khóc đó chứ, may mà gượng kịp. 

- Đã làm sao? Lần hát ra mắt người ta sẽ thấy Alison dễ thương hơn khi Alison nhỏ vài giọt lệ vì cảm động. 

- Thôi đi, kỳ cục lắm. Tôi rất ghét những kẻ lố bịch. 

Tôi không cãi với bạn. Tôi bắt đầu cảm thấy giữa hai đứa có nhiều ý nghĩ khác nhau. Tính Alison dè dặt trầm tĩnh, khác tôi. Nàng không thông minh lắm và không có óc hài hước, và dù hơi chậm chạp, nàng rất thực tế. Alison cũng có tham vọng, nhưng không quá đáng và vô trật tự như tôi, nàng biết lợi dụng năng khiếu đến mức tối đa. Alison hiểu rằng nghề ca hát phải luyện tập lâu dài khó nhọc, phải hy sinh nhiều và biết chấp nhận. Bề ngoài bình thản, song dưới vầng trán nhẵn kia ẩn một ý chí sắt đá. 

Mỗi bước chân bước tới làm tôi cảm thấy sắp xa Alison thêm nên run giọng: 

- Alison, lên đồi một chút đi! Buổi tối trời đẹp quá... 

Giọng khẩn thiết của tôi làm cô bạn gái mỉm cười: 

- Trời ẩm và lạnh thế này có thể sắp mưa. Vả lại, mẹ đợi tôi, mẹ có mời vài người bạn đến nhà, anh ạ! 

Cổ tôi thắt lại, trong cơn tức tối, tôi tưởng có thể chết được vì Alison thế mà nàng thản nhiên nói đến "vài người bạn" sắp chen vào giữa chúng tôi? 

Tôi lầm bẩm: 

- Em có thèm nghĩ đến tôi đâu? Tưởng đến chuyện phải xa em suốt mùa đông... dài dặc... 

Tôi hậm hực nói vì nghĩ đến trọn mùa đông mẹ con Alison ở Ardfillan với mẹ con Louisa. 

- Nghe anh nói, người ta dám tưởng Ardfillan ở đâu xa tận bên kia trái đất ấy. Dễ anh không thể đến thăm tôi hay sao? Này, sẽ có các buổi khiêu vũ và đặc biệt là có buổi khiêu vũ của các thiếu nữ... 

- Thôi đi, tôi không biết nhảy. 

- Thì anh hãy học đi! 

- Đừng lo chuyện đó cho tôi. Alison sẽ không thiếu bạn để nhảy đâu. Tất cả bạn của hai người: của Alison và Louisa nữa. 

Giọng tôi chua chát. Alison cũng không vừa: 

- Cảm ơn. Hy vọng vậy. Một điều chắc chắn là họ sẽ dễ mến hơn một người. 

Tim tôi muốn vỡ tung. Thốt nhiên sự tức giận nhường chỗ cho tuyệt vọng. Giọng tôi rưng rưng: 

- Alison ơi! Đừng cãi nhau! Tôi yêu em biết bao nhiêu! 

Alison im lặng một lúc rồi mới nói, giọng run run, âu yếm và dè dặt: 

- Anh biết mà, tôi cũng yêu anh – giọng nàng thấp hơn – yêu nhiều lắm. 

- Vậy sao em không đứng đây với tôi một lát? 

- Tại vì em đói quá. Từ bốn giờ chiều đến giờ em đã ăn gì đâu. 

Alison bật cười, nói. Hai đứa đã đến cổng. 

- Sao anh không vào trong? Mọi người sắp đến rồi đó. Mẹ đãi nước ngọt. Chắc vui lắm à. 

Tôi mím môi, lòng dâng tràn chán nản vì nghĩ trước đến những câu chuyện tầm thường của khách khứa, tôi sẽ khó góp lời vì nhút nhát – kiêu hãnh nữa. Trong các cuộc họp mặt loại này, tôi không biết vui đùa, nếu gượng cười lại càng nghe trống rỗng. Tôi xịu mặt: 

- Mẹ em đâu có mời tôi? Vả lại, vô làm gì? Tôi không thích dự. 

- Vậy chứ anh thích gì nào? 

Alison dừng lại dưới một gốc cây dẻ trong lối đi, nhìn sâu vào mắt tôi, gặng hỏi. Tôi thì thầm đáp: 

- Anh thích chỉ có hai đứa chúng mình thôi. Anh chỉ thích được cầm tay em. Bao lâu anh ở gần em... 

Tôi ngừng lại. Làm sao có thể tả cho Alison biết rõ cảm giác tôi trong khi tình cảm rối loạn vì những ao ước hết sức mơ hồ? Alison cảm động, đôi môi run run cố gắng mỉm cười: 

- Không bao lâu anh sẽ chán cầm tay em. 

- Ồ! Alison! Không bao giờ! 

Để chứng tỏ, tôi nắm lấy hai bàn tay mềm mại của nàng, tim đập loạn trong lồng ngực. Alison không rút tay ra, nàng lướt môi lên má tôi và mỉm cười ranh mãnh: 

- Thôi, chúc anh ngủ ngon, nhé? 

Đứng yên trong bóng tối, tôi nhìn nàng chạy ù lên thềm nhà. Vừa say sưa vừa thất vọng, tôi mong nàng trở lại, gọi tôi vào. Tôi điên nên mới từ chối lời mời của nàng lúc nãy. Bây giờ tôi sẵn sàng theo nàng vào nhà, nhưng vô ích. Alison không trở ra nữa. 

Niềm vui chợt tắt, tôi kéo cao cổ áo, tiếc rẻ quay đi. Nhiều bận tôi quay lại nhìn những khung cửa sổ sáng trưng, lòng buồn bã. 

Một ngọn gió mạnh quất vào mặt tôi, quả Alison có lý: trời lạnh và sắp đổ mưa.

*

Đúng như lời mẹ nói: Levenford là một thành phố nhỏ, cũ kỹ, đầy ống khói. Nhưng vùng ngoại ô với những đồi, những rừng, những suối phong cảnh rất đẹp. Chỉ cần đóng mỗi năm một số tiền nhỏ, tôi có thể trở thành hội viên của các câu lạc bộ đầy dẫy trong tỉnh. Họ thường tổ chức các cuộc du ngoạn hay các giải thưởng cho nhiếp ảnh viên tài tử. Song dù dì Kate và chú Jamie thúc giục, mặc bà khuyến khích, tôi vẫn lắc đầu và tiếp tục nằm nhà đọc sách trong mấy ngày chúa nhật hay ngày lễ. 

Ngày trước tôi thường chạy rong khắp các ngọn đồi lộng gió, song từ bao nhiêu năm tháng qua tôi không hề đặt chân lên đó nữa. 

Vậy mà, buổi sáng mùa xuân này, vừa thức giấc, tôi chợt thấy cái thú của những buổi đi dạo trước kia. 

Có một điều là ở Tô Cách Lan này luôn luôn người ta gặp kẻ thù đáng sợ: thời tiết xấu. Mặc quần áo, tôi vừa hồi hộp vừa lo lắng nhìn bầu trời xám xịt. Lại mưa suốt ngày chăng? Lại một ngày đáng ghét làm hỏng cả bữa nghỉ lễ tôi mong đợi chăng? 

Trên đường đến ga, tôi cầu nhầu thầm không ngớt. Một đám người đi du ngoạn đứng đợi trên sân ga ẩm ướt, ai cũng có vẻ bực bội như tôi. Chợt sân ga như sáng lên: Alison đã đến từ bao giờ, đang trò chuyện với thầy Reid. 

Mặc một cái áo mưa xinh xắn, trên mái tóc nâu dày, một cái mũ bê rê xanh dương. Chỉ cần sự hiện diện của Alison, tim tôi đập rộn lên. Tôi len giữa đám đông tiến đến hai người. Thầy Reid cười vui vẻ: 

- Robert! Tốt lắm! Ta không đi theo hai người đâu. 

Alison vuốt những hạt nước mưa long lanh trên mặt và mím môi, hỏi tôi: 

- Anh thấy trời mưa không? Ta có thể đi chơi không? 

- Được mà, được chứ, Alison! 

Tôi vội vàng đáp vì mong ước được đi với nàng, dù có phải hứng mưa đá sáng nay đi nữa. Thầy Reid vui vẻ khuyến khích: 

- Không sao đâu, đừng bỏ cuộc. Nhưng nhớ cẩn thận đừng đi xa quá là đủ. 

Hai năm sau này thầy Reid đã bỏ tính buồn rầu. Tôi ao ước cái khả năng không khuất phục trở ngại của thầy... cái khả năng này, khổ thay: tôi không có! Sáng nay thầy đi Winton lo vài việc giúp mẹ Alison. Nói chuyện một chốc, thầy băng qua bên kia, lên tàu. 

Hình như vào lúc đó, thầy đưa mắt về phía Alison... một tia nhìn như ngầm dặn dò chi đó, song tôi không tìm hiểu lâu la làm chi, vội vàng – với tính vội vàng cố hữu – đến ngay quầy ghi vé. 

Sau một lộ trình ngắn bằng tàu hỏa đến Ardfillan, chúng tôi lại bến tàu. Chiếc tàu thủy nhỏ sẽ đưa chúng tôi đến Ardencaple. Boong tàu chất đầy dây thừng và thùng. Sau khi đi dạo một vòng khắp trên tàu, ngắm nghía máy móc chán, hai đứa tìm được một chỗ khá kín đáo trên boong. 

Chỉ giây lát chuông rung, tàu nhổ neo, các chân vịt quạt nước, tàu từ từ rời bến. Tôi đưa tay che bớt những bọt nước bắn tung tóe và bị gió tạt vào mặt chúng tôi. Quay sang bạn, tôi hỏi: 

- Nếu em muốn, ta có thể xuống dưới. 

Hai má Alison tươi lên, cái bê rê long lanh mấy hạt nước, vui vẻ trả lời tôi: 

- Không đâu, em thích ở đây hơn. 

Nàng nói thật to để át tiếng gió và chỉ cho tôi thấy mầu xanh vừa hiện ra do đám mây nứt rạn. Vết nứt thứ hai để lộ một mảng da trời xanh khác. Hai đứa hồi hộp nhìn hai đốm xanh hợp lại thành một và lớn dần. 

Rồi cuối cùng, mặt trời hiện ra ấm và sáng rỡ. Thoáng chốc, mây đen tan hết, boong tàu khô ráo thật nhanh. Tôi hăng hái nói: 

- Chúng ta sẽ hưởng một ngày tuyệt diệu. 

Và kéo Alison ra trước mũi tàu. Tàu phăng phăng rẽ nước, dừng lại vài bến để chở khoai tây hay lấy thêm vài bác nông dân dắt trừu ra chợ. Tôi thật hài lòng vì có Alison bên cạnh và chỉ cho riêng tôi. 

Đứng tựa vào lan can tàu mỗi khi tàu chòng chành, tôi cảm thấy thân mình Alison chạm vào tôi và tôi say sưa với hạnh phúc đơn giản đó. 

Một giờ trưa, chúng tôi đến Ardencaple. Nghĩ đến ba tiếng đồng hồ sống riêng biệt với Alison trong khung cảnh nên thơ này, tôi thích thú hết sức. 

Chúng tôi kéo nhau vào quán ăn duy nhất trong vùng, một tòa nhà khá to hơi cũ kỹ. Bà bồi bàn vẻ mặt nhăn nhó đưa chúng tôi vào một phòng ăn dài, lạnh ngắt. Vách trang trí đầu hươu, sừng nai, và những con cá kỳ dị. 

- Mùa này không có gì ăn. Chúng tôi chỉ có thể dọn cho cô cậu một bữa ăn nguội. Mỗi phần bốn shillings sáu. 

- Robert! Anh thích chỗ này ư? 

Tôi giật mình, đỏ mặt nhưng cũng đủ can đảm lắc đầu. 

- Em cũng vậy. 

Alison kéo ghế đứng lên và nói với bà ta một cách tự nhiên: 

- Phiền bà, chúng tôi đổi ý, không ăn ở đây nữa. 

Mặc bà ta và viên quản lý nài nỉ, chúng tôi nhanh nhẹn đi ra. Băng qua đường, Alison kéo tôi vào quán tạp hóa duy nhất trong vùng. Sau một hồi xem xét, Alison bảo cô bán hàng làm cho 6 miếng xăng uých, trongkhi chờ đợi, Alison chọn thêm ít táo, mấy quả chuối, thỏi chocolat và hai chai nước ngọt. 

Tất cả được cho vào một cái xách bằng giấy nâu dày, phải trả có 2 shillings 6. Chúng tôi thư thả theo một đường mòn lên đồi rồi men theo bờ thác Ardencaple đi qua rừng thông và cỏ dại. Sau cùng đến một khoảng rừng thưa, giữa là một con suối róc rách chảy, hai bên bờ cỏ mọc xanh rờn, điểm những cánh hoa dại. Hoa rơi rụng trôi theo dòng nước như những cái thuyền con mong manh. Chúng tôi ngồi tựa lưng vào một tảng đá nhẵn, trên cỏ khô. 

Ánh nắng ấm áp xuyên qua các khe lá chiếu đến tận chỗ chúng tôi. Tôi vui vẻ cho hai chai nước ngọt xuống suối cho mát còn Alison thì lo cởi áo mưa dọn bữa ăn. Thật là một bữa ăn ngon lành, đầy thi vị, nước dầm dưới suối mát rượi. 

Alison bắt tôi ăn hết mấy quả chuối, và nụ cười trên môi duyên dáng thêm lên, cô bạn bảo tôi: 

- Ăn như thế này anh thấy có thích hơn cái quán ăn ban nãy không? Cái quán chi đâu vừa đắt vừa... 

Tôi gật đầu đồng ý, phục sáng kiến Alison. Cô thở dài khoan khoái, giở mũ ra, tựa lưng vào phiến đá, nhắm hai mắt lại: 

- Ở đây thích thật, em muốn ngủ một giấc quá, Robert ạ! 

Alison nói và vươn vai, thân hình trẻ trung, khỏe mạnh, dịu dàng. Mớ tóc nâu dài, óng ánh vây quanh khuôn mặt ửng hồng vì nắng. Đôi mi cong vút, cái cổ trắng ngần... Lòng tôi lâng lâng nhẹ... 

Tôi xích lại gần bạn, kê tay sau gáy Alison và bảo: 

- Alison ạ, thế này sẽ dễ chịu hơn. 

Alison bình thản nhắm mắt lại, nụ cười phớt nhẹ trên môi. Nàng thì thầm: 

- Robert! Tim anh đập to ghê gớm. Nghe điếc cả tai! 

Ôi! Nhập đề tế nhị biết bao cho một sự tỏ tình? Nhưng sao tôi không thể nào mở miệng nói được một lời? Sao tôi không dám ôm Alison vào lòng? Sao tôi vụng về đến mức này? Tôi yêu nàng biết bao! 

Không, tôi muốn giữ nguyên giây phút thần tiên huyền diệu ấy, tôi không muốn bằng một cử động nhỏ nào, phá vỡ sự ngây ngất tuyệt vời hiện có trong tôi. Run rẩy vì cảm động, tôi giữ yên đầu nàng trên vai. Giọng tôi thấp nhỏ: 

- Alison nhớ không? Hôm nọ anh nói chỉ muốn được ngồi riêng với em, như thế này này... 

- Nhưng nếu trời mưa thì sao? 

- Mặc kệ trời mưa... – tôi bảo bạn bằng giọng nồng nhiệt – Bao lâu chúng ta... 

Tôi im lặng đột ngột trong lúc Alison mở to mắt nhìn tôi, vẻ âu lo. Rồi ngồi bật lên như thể đã quyết định điều quan trọng: 

- Robert! Em có chuyện đứng đắn... 

- Anh có bao giờ không đứng đắn đâu? 

- Đừng giỡn. Em lo cho anh lắm. Thầy Reid cũng vậy, anh ạ! 

Rõ ràng là tôi không lầm: ban sáng trên sân ga tôi đã thấy ánh mắt hai người nhìn nhau. Vì vậy, dù buồn vì Alison ngồi xích ra tôi, tôi cũng hãnh diện vì họ chú ý nhiều đến tôi. Alison trang nghiêm: 

- Trước hết, chúng tôi cho rằng anh mất thì giờ một cách đáng buồn trong xưởng thép. Anh sẽ quên dần những gì đã thu thập được về sinh vật học. Anh biết rõ chứ: người ta muốn Caruso thành thợ máy nhưng ông ta đâu chịu vậy? 

- Alison! Anh hiện có chỗ làm tốt, anh rất hài lòng số phận mình... 

Tôi nhún vai ra vẻ bất cần, lời nói trở thành phản nghĩa. Bạn tôi nhìn ra xa im lặng làm tôi áy náy, thấy cần xoa dịu câu nói vừa rồi: 

- Anh biết công việc cực nhọc, thỉnh thoảng lại bị đứt tay vì các dụng cụ. Và còn... bị bụi sắt làm mình ho... 

Alison quay phắt lại nhìn tôi làm tôi bối rối, nàng lắc đầu: 

- Robert ạ, anh thật khó hiểu. 

Lòng tôi chĩu nặng, hoang mang không hiểu mình đã nói gì. Tại sao Alison nhìn tôi hiền hòa nhưng đầy trách cứ? Cả hai đứa im lặng sau đó, chỉ có tiếng nước chảy róc rách. Tim tôi như thôi đập mạnh mà yếu hẳn đi: 

- Em ghét anh? 

- Sao lại ghét anh? – Alison cắn môi – Nhưng thú thật, anh làm em thấy chúng ta quá khác nhau. Em thì ở dưới đất, quá thực tế, còn anh, anh như sống trên mây. Có trời biết, anh sẽ ra sao khi thầy Reid rời Levenford... 

Tôi hốt hoảng hỏi dồn: 

- Thầy Reid sắp rời tỉnh? Thầy nói với em à? Thật không? 

Alison cúi mặt, vò nát cọng cỏ trong tay: 

- Thầy đã đưa đơn xin dạy ở Trung học Norsham. Ông ở Levenford lâu quá rồi còn gì? Chỗ thầy đang xin không danh tiếng mấy, nhưng tại đó họ áp dụng phương pháp giáo dục mới, sẽ có tương lai hơn, hợp với thầy hơn. 

- Thầy đã được nhận lời chưa? 

- Rồi. Thầy có ý định cho anh hay tối nay. 

Chân tay tôi lạnh toát, choáng váng cả mặt mày. Dù thầy Reid có đôi lần nói bóng gió đến chuyện ra đi, song tôi không ngờ là ông ra đi sớm thế. Thật là một cú đấm bất ngờ làm tôi tối tăm mặt mũi. Trời ơi! Sao thầy sắp đặt mọi điều mà không cho tôi hay biết rõ ràng? Sao thầy không cho tôi biết trước để tôi đủ sức mà chịu đựng cái tin ghê gớm này? Tôi khổ sở, đau đớn, có cảm tưởng như mình bị loại bỏ, bị gạt ra... Có thể như thế chăng? Alison tránh tia nhìn của tôi. 

- Em biết anh buồn vì thầy Reid đi xa, xa những người thân yêu là một điều đau đớn, nhưng Robert ạ, ta vẫn còn có thể liên lạc nhau, kia mà. 

Nói xong, Alison ngồi buồn bã, tôi cũng im lặng theo. Tôi còn biết nói gì đây? 

- Robert! – Đột nhiên, cô ngẩng lên, nói mau – Mẹ và em cũng sắp ra đi. 

- Đi đâu? 

Tôi tái mặt, khô môi chỉ thốt ra được hai tiếng ngắn. Giọng Alison cương quyết: 

- Em phải nghĩ đến tương lai em. Mẹ cũng đồng ý là điều này quan trọng. Cô Cramb không còn gì để truyền dạy cho em. Mà ở Winton chả có giáo sư nào thật trội. Mẹ quyết định ghi tên em vào Học viện Hoàng gia Luân Đôn. 

- Luân Đôn?! 

Luân Đôn! Tôi tưởng như đó là một địa danh xa xôi tận bên kia quả đất. 

- Và trường trung học Norsham miền Sussex rất gần Luân Đôn. Mặt Alison đỏ bừng, có vẻ hết sức bối rối: 

- Anh là người học trò thông minh nhất mà thầy Reid thường nhắc đến và rất yêu, nhưng em thấy anh thật tệ... không để ý gì cả. Em cho anh hay chỉ mình anh là không biết tin này: mẹ em và thầy Reid sắp thành hôn. 

Tôi ngạc nhiên dữ. Không thể chối cãi bà Keith còn duyên dáng và hôn nhân giữa thầy Reid với bà thật đáng mừng, song tôi không khỏi sững sờ. Giây lâu tôi mới nói bằng giọng tuyệt vọng: 

- Nếu vậy, anh chả còn ai... 

- Em đâu có đi luôn? Anh cũng hiểu rằng em phải lo cho nghề nghiệp. Em có đi tận cùng thế giới đâu? Đừng nản lòng, anh ạ. Anh nên nhớ anh còn cả một tương lai trước mặt. 

Phải! Nhưng tương lai đó nào có hứa hẹn gì? Tôi buồn rầu cảm thấy ngay bây giờ cái viễn tượng mờ mịt, đen tối và cô độc đang đón đợi tôi. Nhìn sững phía trước tôi thấy mặt trời ngả dần sau đồi. Từ bến tàu, có tiếng còi rú lên ba lần, báo hiệu chiếc tàu chở chúng tôi sẵn sàng tách bến. 

Alison giục giã: 

- Tàu sắp nhổ neo, anh! 

Cô bạn mỉm cười với tôi như an ủi, như van nài đoạn đứng dậy, kéo tay tôi. Rồi, trong khi nắm tay nhau xuống đồi, tôi chợt có cảm tưởng rằng bề ngoài vững vàng, bình thản của Alison che giấu một hoài nghi, ngờ vực ở ngày mai. 

Tiếng còi tàu lại rú lên dài hơn khiến tôi nhớ đến tiếng hụ trong xưởng thép. 

Một ngày nghỉ đã hết. Bỗng nhiên, tim tôi nặng chĩu. Cái cảm tưởng cô đơn bị mọi người bỏ rơi lại ám ảnh tôi. Tương lai đen tối lại hiện ra sừng sững như bức tường cao, dày, không sao vượt thoát.

Chương cuối

xưởng thép tôi không phải làm việc đến mệt lử, nhưng vì không phải sở thích nên tôi khổ sở vô cùng. Xưởng chuyên sản xuất các máy móc cho tàu bè và những ống bơm hút để xuất cảng. Tôi bắt đầu học việc trong xưởng đúc. Trong nhiều tháng, phận sự tôi là mài rồi chà rửa bằng bàn chải thép những thỏi gang nguyên. Công việc khó khăn này làm hư hai bàn tay ưa tìm tòi nghiên cứu của tôi. 

Jamie tốt bụng, hễ có dịp là tìm cách giúp tôi, song vì vốn có liên hệ họ hàng cho nên sự ưu đãi này có thể gây bất mãn trong xưởng. Chỗ làm việc của tôi gần mấy khuôn cát, nơi người ta đổ sắt, thép nấu chảy vào. Sức nóng nhiều khi làm tôi chịu không nổi và những hôm có gió, cát bay tung tóe khiến tôi ho sặc lên. 

Ít lâu sau, tôi được chuyển sang xưởng máy, tại đây người ta dùng nhiều máy để đánh bóng thỏi gang. Tiếng đe búa và máy đùng đùng, xình xịch không ngớt. Các bạn cùng lứa tôi đều vui tính, họ say mê đá bóng, đua ngựa và chuyên khoe thành tích tán gái. Sau bốn năm học việc, một số sẽ xin làm thợ máy trên tàu và một số khác ở lại làm trong xưởng. 

Công bình mà nói, ban đầu tôi cũng muốn kết bạn với họ, vì tôi đang cần tình bạn, song bản tính nhút nhát, vụng về tôi thấy thật khó khăn. Vài bận tôi đi chơi với họ, song những câu chuyện của họ, ồn ào và sôi nổi về đức tính một con chó săn và giải thưởng cho con ngựa thắng cuộc đua không bao lâu làm tôi đâm chán. Trời ơi! Tôi ao ước có một người bạn như Gavin để bàn về sách vở, nhạc, về những tư tưởng mới thường cuốn hút, hấp dẫn tôi và đồng thời làm tôi sờ sợ. Với các đồng nghiệp này, mỗi khi tôi đá động đến vấn đề, họ liền cho tôi lên mặt trí thức, thế là tôi im ngay. 

Nhờ có họ với Jamie và bản tính trầm lặng – một đức tính được yêu chuộng ở Tô Cách Lan – tôi vừa lòng hầu hết mọi người. Vả lại tuy không yêu việc, tôi vẫn là người chăm chỉ, phải cái đây không là sở trường của tôi. Mỗi lần nghĩ đến hàng năm, hàng năm dài trôi qua như thế, tôi nản tột cùng. 

18 tháng ròng trôi qua và tôi cảm thấy sức chịu đựng hao mòn. Bề ngoài tôi tỏ vẻ bất cần, nhưng thú thật lòng tôi hết cả can đảm và kiên nhẫn. Tôi sẽ không bao giờ được nghiên cứu, tìm tòi để đạt tới mục đích như xưa kia từng đã vạch ra sao? 

Tôi vừa đi vừa miên man suy nghĩ và về đến nhà không kịp nhận ra. Trên bàn ăn, ba thận trọng trải lớp mác-ga-rin trên lát bánh. Ông lơ đãng đón tôi bằng cái gật đầu. 

Tôi đi thẳng ra sau rửa mặt, rửa tay trong khi bà cố nhanh nhẹn, lặng lẽ dọn bữa ăn cho tôi, thức ăn được giữ nóng trong lò. 

Nhìn đôi bàn tay khéo léo của bà, tôi chạnh nhớ đến mẹ, linh hồn của gia đình đã mất rồi. Vâng! Tôi quên kể cho các bạn biết thêm một hạt trong chuỗi dây bất hạnh của đời tôi: mẹ đã mất rồi! 

Một buổi chiều đông, cơn đau tim bất ngờ đã chấm dứt cuộc sống của mẹ sau một trận cãi vã kịch liệt với ba về bức thư của cậu Adam. Mẹ, từ lâu vẫn lặng lẽ không nói cho ai hay là mình mang chứng đau tim. Chao ơi! Bây giờ đây mỗi khi nghĩ lại, tôi cảm thấy hối hận vì đã không mảy may chú ý khi thấy mỗi lần mệt hay giận, mẹ thường đặt tay lên ngực trái như muốn đè nén một cơn đau hay nâng nhẹ quả tim suy yếu. 

Hôm đó, khi bước vào phòng khách, tôi thấy mẹ đang ôm ngực, thở hổn hển và gương mặt xám xanh. Tôi kinh hoàng la lên: 

- Mẹ! Để con mời bác sĩ, trông mẹ yếu nhiều... 

- Đừng! Đừng chọc giận ba con thêm... 

Mẹ nói bằng giọng khó nhọc, khổ sở. 

- Không! Mẹ đau nhiều, con biết mà! 

Tôi nói và hộc tốc chạy tìm bác sĩ. Khi tôi và ông vô nhà, mẹ đã ngất rồi. Thăm mạch xong, bác sĩ nói bằng giọng lạnh băng, tàn nhẫn: 

- Muộn rồi! 

- Mai bác sĩ có trở lại không? 

Ba hỏi giọng yếu ớt. Ông lo lắng thực đó. Song ông còn lo tốn tiền hơn! 

- Chắc chắn là không. Ngày mai, bà sẽ hết thở. Tôi không đòi khám nghiệm xác là may cho ông rồi. 

Tôi nghẹn ngào nghĩ đến thi thể mẹ nằm trên bàn đá trong nhà mồ... 

Nhiều tuần trôi qua... Còn ba? 

Ba rất hãnh diện về số tràng hoa phúng điếu. Và ông còn phàn nàn không ngớt về điều bà dám cả gan bỏ ông mà đi trước. 

Tôi rất ngạc nhiên thấy với tính keo kiệt đặc biệt của ông mà sao ông không bán đồ dùng của mẹ tôi. Mỗi chiều chúa nhật ông vào phòng bà, lấy vài cái áo trong tủ ra, chải cẩn thận rồi treo lên móc, dáng bộ tẩn mẩn thật đáng thương. Lần thứ nhất kể từ lâu lắm, tôi thấy ông đáng thương. Tôi tin là ông cảm thấy thiếu bà. 

Tôi cũng vậy. Mẹ luôn luôn bận rộn công việc, phục dịch cho cả nhà từ trẻ đến già. Mẹ cố gắng làm những gì có thể giữ vững liên lạc gia đình, xoa dịu những cơn thịnh nộ của ba, bù đắp các thiếu thốn do tính keo kiệt của ba. Mẹ cố giữ thể diện trước khách lạ. Tôi mang ơn mẹ nặng lắm. Mẹ rụt rè, ẩn khuất nhưng cao thượng biết bao. Phải! Mẹ không toàn thiện. Những nỗi lo lắng về tiền bạc, về nỗi chịu đựng thầm lặng làm bà hay cau có. 

Nhiều bận bà nấn ná, khất hẹn giữ lại vài shillings học phí của tôi cho tận đến lúc ông Hiệu trưởng vào lớp nhìn tôi, nói to lên: "Trong lớp này còn một trò chưa đóng học phí" làm tôi xấu hổ tưởng có thể ngất đi. Vâng! Mẹ thế đấy, nhưng tôi chưa được biết người đàn bà nào cao cả hơn mẹ. Tôi buồn rầu và nhận ra rằng đã quá chậm, khi tôi hiểu tôi yêu mẹ biết ngần nào! Và cái hình ảnh mẹ hát khe khẽ khi đi Luân Đôn nghỉ hè, nụ cười tươi tỉnh hiếm có với cái khăn choàng lông thú nghèo nàn trên dây phơi trong sân nắng chói cùng một lượt hiện lên trước mắt tôi. Tôi nghẹn ngào tưởng nuốt không trôi mẩu bánh. 

Xong bữa ăn tôi lên phòng thay áo đoạn ghé vào phòng ông. Gánh nặng mẹ trao lại cho tôi là ông đấy. Ông ngồi trong ghế dựa, một tay giữ cuốn sách to trên đùi. Tay kia cầm lát bánh cặp phô ma. Ông cắn miếng bánh, ngẩng lên bảo tôi: 

- Robert này, thật khó tưởng tượng nhé: ruột người ta dài hơn một thước đó nghe! 

Bây giờ ông tôi có vẻ thích thú môn y học. Từ lâu rồi, ông Mc Kellar đã ngừng giao tài liệu cho ông chép – dù chữ ông hơi run song vẫn còn khá đẹp. Rảnh rang, ông viết thư kết bạn bốn phương với các bà góa và đôi khi còn làm thơ nữa. 

Tóc ông giờ trắng xóa như gòn. Thân thể cường tráng xưa kia nay gầy đi. Áo quần rộng xùng xình, nhưng ông nhất định là mình chưa già. Không còn chơi thân với bà Bosomley nữa, ông đón đường các nữ sinh, trêu chọc họ bằng đôi câu chuyện chớt nhã. Và, bạn thân mến ơi! Ông vẫn không chừa thói khoe khoang những thành tích tưởng tượng của mình. 

Lâu lâu, ông đấm cái ngực lép xẹp của mình, tuyên bố lớn lối: 

- Đây, cây cổ thụ chính gốc Tô Cách Lan! Ta mà ứng cử Hội đồng Thị xã đó nghe Robert, thì ta đắc cử liền! 

Cũng may là nói xong ông cười khà nên tôi biết ngay ông chỉ nói đùa. 

- Ông ơi! 

- Cái gì đó? 

Tôi chờ cho ông ngẩng lên hỏi và lợi dụng tính ưa nịnh của ông, tôi nói: 

- Ông ơi! Con muốn đi nghe hòa nhạc. Con biết ông tự trọng, không làm điều gì tệ bậy, nhưng con muốn ông hứa với con là tối nay không ra khỏi nhà. Có vậy, con mới yên tâm. 

- Dĩ nhiên! Dĩ nhiên! Yên tâm đi con trai! "Danh dự trên hết!" Tin ta đi! 

Tôi hài lòng đi xuống, để ông yên với "những bệnh của ruột non".

*

Đã khuya lắm rồi vào một đêm cuối tháng 7, không còn che giấu được nữa: ông sắp mất. Hôm qua, ngày thứ bảy, tuy không được khỏe mà ông cứ nằng nằng đi dự cuộc triển lãm hoa của cậu Murdoch. (Cậu được huy chương bạc về giống hoa cẩm chướng mới, do cậu gây giống). Và ông ngất nửa chừng, đưa về nhà ông nằm liệt luôn. Bác sĩ quả quyết ông không vượt qua lần này. Thần chết lảng vảng đâu đây, khắp gian phòng người bệnh. Cả nhà sống trong bầu không khí chờ đợi căng thẳng. 

Dưới phòng khách, cậu Murdoch, Jamie thì thầm trò chuyện với ba. Dì Kate cố giữ cho cháu bé đừng làm ồn. Trong bếp, bà cố nhón chân đi lại, trông chừng mấy vỉ bánh nướng. Lúc đêm đổ xuống, mọi người rút lui. Không ai phản đối khi tôi đòi thức canh chừng ông. 

Sự im lặng bao trùm nặng chĩu, dù tôi đã mở rộng cửa sổ, đêm tối mịt, sức nóng không làm dịu bớt sự nặng nề. Ông nằm ngửa, không rên rỉ, thở rất yếu. Khuôn mặt hóp, thân thể gầy nhom. Trước khi ngủ, bà cố đã vào lau mặt cho ông và chải bộ râu trắng xóa. 

Tôi vừa buồn rầu vừa tự an ủi là ông sắp được giải thoát. Đã đến lúc làm tổng kê đời ông. Phải chăng đấy là lúc đáng sợ trước khi ra đi vĩnh viễn mà mọi người trước sau ai cũng trải qua? 

Người đàn ông này đã phạm nhiều lầm lỗi, có bao nhiêu hành động lố bịch, điên rồ? Không ai biết rõ hơn tôi những yếu đuối, những bướng bỉnh của ông. Tôi cũng lo sợ mà cảm thấy tôi, đứa con trai cuồng nhiệt và buồn bã đã thừa hưởng của ông tôi chút tính tình. Rồi tôi lại thích thú mà nhận lấy những xung động ngầm này, vì cũng giống như ông, tôi từ chối nhắm mắt tuân theo các quy ước sắp sẵn. Ông tôi còn những đức tính đáng kể, ông khinh bỉ sự hẹp hòi, có lòng đại lượng, lòng nhân ái. Chao! Những đức tính này há không bù lại những lỗi lầm nhẹ của ông sao? 

Ngồi trên đầu giường ông, tôi thiu thiu ngủ. Đồng hồ chợt đổ ba tiếng kéo tôi ra khỏi giấc mơ. Hơi thở ông càng yếu, báo hiệu cái chết gần kề. Thình lình, bà cố tôi mở cửa, tay cầm giá nến bước vào. Do bản năng, bà đoán được cái chết đã đến. Trong giây phút nghiêm trọng này, bà không bảo tôi đọc to một đoạn Thánh kinh. Bà nhìn người hấp hối, rồi lặng lẽ ngồi xuống cái ghế mây tôi vừa đem lại cho bà. Tôi đứng lên, lại bên cửa sổ. Nghe tiếng lá cây chạm nhau xào xạc, tiếng chim đập cánh, thấy bóng mấy cây dẻ lờ mờ in hình lên nền trời, tôi đoán bình minh sắp trở về. 

Thái độ bà cố tôi thật đẹp. Trong lòng bà sự thù ghét ông tôi không còn nữa. Những tranh chấp đã làm hai người đối đầu nhau trong bao năm nay thốt nhiên xem ra ấu trĩ, không đáng lưu tâm. 

Những tháng sau này, sức khỏe ông tôi càng mong manh thì bà càng xử tốt. Bà chăm sóc cho ông tận tình, không phải vì thương hại mà vì bà hiểu sự thù ghét lúc này sẽ làm cho bà thấp hèn, bất xứng. 

Giây phút cuối cùng... một người ra đi. Cái chết của một người trẻ trung khỏe mạnh là một điều ghê sợ, đáng tiếc. Nhưng ông cố tôi mòn mỏi quá đi rồi, một con thuyền mong manh cũ nát rời bến không chút khó khăn, chấn động. Bà nhìn tôi gật đầu nhẹ và làm dấu thánh giá đoạn đứng lên. 

Sau đó, bà cột một giải băng dưới cằm ông, đặt hai đồng tiền lên hai mi mắt khép kín – một tục lệ của nông dân vùng này – Tôi buồn vô hạn khi nhìn khuôn mặt lạnh cứng của người vừa tắt thở. Ông cố tôi đã về một nơi đầy ánh sáng hay bóng tối? Song chắc chắn ông không còn lỗi lầm, cuồng dại nữa. Ông đã thoát các kẻ thù của ông, kể cả kẻ thù tệ hại nhất, là chính ông. 

Bà bảo nhỏ tôi đóng kín cửa sổ lại. Đêm đã tàn: tôi có thể thấy các cánh đồng xa xa và trên nền trời ngả xám, in bóng ba cây dẻ. Tôi thổi ngọn nến. Đột nhiên, từ một nông trại nằm lưng chừng đồi có tiếng gà gáy ó o vang dậy, tiếng gà thúc giục như thể muốn thách thức ánh lửa tàn.

*

Sau tang lễ ông cố, chúng tôi hội họp tại phòng khách uống trà. Lễ tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng cũng không long trọng lắm nhưng cũng đủ lễ nghi. Luật sư Mc Kellar cũng đến với chúng tôi. Ông đến vì một nguyên do: số tiền hãng bảo hiểm trả lại sau khi ông cố nhắm mắt. 

Theo lời luật sư Mc Kellar số tiền lên đến 789 livres, 7shillings, 3 pences chẵn. Một số tiền khá lớn. Ba và Adam chói mắt trước khi nhận được. Tôi chợt nhớ đến ông cố: ông cho đây là một trò bịp bợm và từng cấm tôi nhắc đến trước mặt ông. Cảm ơn Thượng đế: ông cố tôi không còn đây để nghe ba cố lấy giọng bình tĩnh (mà vẫn cứ run) để hỏi ông Mc Kellar: 

- Thế bao giờ thì ông có thể trả tiền cho chúng tôi? 

- Ngay tức khắc. 

Viên luật sư đáp. Rồi ông thong thả rút giấy tờ trong túi áo ra: 

- Đây, tờ bảo hiểm nhân mạng số 57430 mang tên Alexander Gow. Và đây là di chúc ông cụ. Tôi đọc to cho quý vị nghe. 

- Thôi, khỏi cần! Lúc làm di chúc có mặt tôi, tôi thuộc lòng rồi. Khỏi! 

Adam bắt đầu sốt ruột, gạt phăng đi (chắc cậu vừa sốt ruột vừa ghét cái vẻ trang trọng của ông Mc Kellar). Ông Mc Kellar cố giấu vẻ bất bình, giọng thản nhiên: 

- Thủ tục buộc tôi phải đọc cho quý vị. Không dài lắm đâu ạ! 

Ba giảng hòa: 

- Vâng, ông cứ đọc. 

Mc Kellar mang kính vào rồi chậm rãi đọc di chúc cho mọi người nghe. Di chúc thật rõ ràng, đơn giản: ông cố để lại tất cả tiền bạc cho mẹ, trường hợp mẹ chết trước thì thuộc quyền thừa kế của ba... 

- Tốt lắm! – Ba xoa tay thở dài một cách hài lòng – Mọi việc đều đúng luật. 

- Chưa hết đâu, thưa ông... 

Mc Kellar kêu to lên thình lình, nắm tay đập lên bàn làm mọi người cùng kinh ngạc, lặng im chờ đợi. Luật sư đưa mắt nhìn hết mọi người, rồi cúi xuống tờ di chúc, một nụ cười nở nhẹ trên môi ông ta, xem ra ông có vẻ thích thú vì đã đến lúc tiết lộ sự bí mật quá lâu. 

Rồi đột nhiên, tia nhìn của ông ngừng lại khi bắt gặp mắt tôi, ông có vẻ ân cần và tiếp: 

- Còn bản bổ chính tờ di chúc, bản này viết tay ngày 20 tháng 7 năm 1910. 

Tôi cố nén để khỏi kêu to lên một tiếng: ngày 20 tháng 7! Ngày đau đớn nhất đời tôi: hỏng thi, bạn chết! Ngày ghi khắc sâu trong tim óc của tôi... không nhòa nhạt. 

Tôi cố để lắng tai nghe. Ông Mc Kellar nhấn mạnh, từng tiếng một: 

- Hôm đó, ngày 20 tháng 7, Dandie Gow đến văn phòng tôi (tôi xin được gọi ông ấy là Dandie, dù ông có nhiều lầm lỗi trong đời, tôi vẫn hãnh diện gọi ông bằng cái tên thân mật ấy, vì tôi xem ông như người bạn). Ông hỏi tôi xem có thể thêm bớt gì trong tờ bảo hiểm nhân mạng của ông không. Chúng tôi đã bàn cãi kỹ càng, lâu lắm. Và đi đến kết luận là cho đến mỗi trinh nhỏ trong số tiền to lớn ấy đều sẽ thuộc về đứa con trai ngồi đây: Robert Shannon! Để nó có thể học Y khoa ở Đại học Winton. Tôi sẽ là giám hộ. 

Im lặng rợn người. Tôi tái mặt, cổ nghẹn khô, tim thắt lại. Từ lâu, từ lâu rồi tôi cam chịu số phận đen tối này không còn dám mơ mộng, tin tưởng gì nữa đến việc được học Y khoa... Ba rên rỉ: 

- Không, ông ấy không có quyền sửa chữa như thế. 

Nụ cười trên môi ông Mc Kellar có vẻ mỉa mai: 

- Tại sao không? Không có luật lệ nào cấm ông ấy thay đổi ý kiến về quyền thừa kế trong tờ di chúc. Việc này đúng luật. 

Ba nhìn Adam tuyệt vọng, Adam hầm hầm mặt: 

- Chắc mẹ muốn thế. Nhưng theo tôi, lúc đó ông không được sáng suốt... 

- Khi ông Gow viết bản bổ chính cách đây ba năm, ông còn khỏe lắm, y như tôi và cậu vậy, Adam ơi! 

- Tôi chống lại điều này! Tôi sẽ kiện! – Giọng ba nghẹn ngào – Tôi sẽ kiện! Rồi ông xem! 

- Cứ làm những gì ông muốn! Cứ kiện đi! 

Lần này vị luật sư không cười nữa mà nhìn ba và Adam bằng tia nhìn thách thức: 

- Các người cứ kiện, tôi sẽ đứng ra biện hộ cho Robert Shannon. Và ông Leckie này! Ông nên nhớ ông sẽ ở vào tình trạng không mấy tốt đẹp. Ông sẽ tiêu tan cái hy vọng giữ chức Giám đốc Thủy cục, tôi cho ông hay trước đó! 

Mc Kellar ngừng lại một lúc, thích thú vì vai trò mới mẻ của mình, vai trò khá gay go sau nhiều năm nhàm chán vì công việc không hứng thú: 

- Vợ ông không hề mong được thừa hưởng số tiền bảo hiểm này, dù là tự tay bà đóng góp phần lớn mỗi tháng. Còn ông Gow, bạn già của tôi cũng không hề đụng đến một trinh con. Nguyện vọng chính đáng cuối cùng của ông ấy là số tiền đó được sử dụng một cách ích lợi, công bình. Tôi quyết thực hiện ý muốn đó, nếu không, tôi không còn là Mc Kellar nữa, thưa ông! 

Chúa ơi! Có thể như vậy sao? Ông cố tôi đã di tặng ân huệ cuối cùng và tuyệt vời này cho tôi? Vậy mà bao nhiêu năm tháng không hé răng nói ra một tiếng nào cho tôi biết. Không tiết lộ ý định để tôi có thể cảm ơn ông! Cao quý biết chừng nào! Hai má nóng bừng, mặt cúi gầm, hơi thở đứt quãng, tôi ngồi lặng... Bỗng tôi cảm thấy bàn tay êm dịu của dì Kate đặt lên vai: 

- Dì không biết mọi người nghĩ sao, chớ phần dì, dì chịu lắm! Món tiền được sử dụng rất hợp lý, không có cách nào hay hơn. 

- Rất đúng! Rất đúng!

Chồng dì chen vào, hớn hở ra mặt. Chao! Dì Kate thân yêu với tính tình bộc trực nóng nảy và Jamie tốt bụng, chồng dì đều cũng tán thành. Tôi đoán là tiền trong tay họ sẽ trở nên sạch sẽ hữu ích, con họ chắc nên người dễ dàng hơn tôi nhiều. 

Murdoch sáng ngời mắt, tán đồng trong lặng lẽ. 

Ông Mc Kellar thu xếp giấy tờ, đứng dậy nói với tôi: 

- Ngày mai, ta chờ con ở văn phòng lúc 10 giờ. Bây giờ, đi với ta một đoạn đường. Thở chút không khí thoáng mát xem, tốt lắm, Robert! 

Tôi rời gian phòng khách khó thở. Vẫn còn bàng hoàng. Thần kinh căng thẳng quá mức gần như không chịu đựng nổi. 

Song vừa bước ra đường vắng, tôi bình tĩnh trở lại ngay. Bước chân tôi và luật sư Mc Kellar vọng lại tai tôi rõ ràng, mạnh dạn đầy tin tưởng. 

Tôi gọi thầm hai tiếng: "Ông ơi!".

Sàigòn 23 tháng 9-72  

MINH QUÂN – MỸ LAN