Ánh sao

Tựa đề truyện này được Tủ sách Tuổi Hoa trước 1975 đăng trong danh sách các truyện loại HOA ĐỎ sắp phát hành nhưng do biến cố 30-4 nên ngưng lại. 

Truyện Phiêu Lưu Mạo Hiểm

(Đăng nhiều kỳ trên báo Ngàn Thông)

Chương 1 & 2

Chương 3 & 4

  Chương 5 & 6 

 Chương 7 & 8

   Chương 9 & 10

     Chương 11 & 12

      Chương 13 & 14

         Chương 15 & cuối

Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm & đánh máy

----------------------

Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh

AZW3

EPUB

MOBI

Chương 1

Buổi chiều của một ngày tháng tám, trời thật đẹp. Hạm đội tiến vào Torbay, nương theo làn gió nhẹ thuận chiều. Dân chài các làng quanh đấy mê say ngắm cảnh tượng hùng vĩ, quên cả công việc hằng ngày. Một tay che mắt, mỗi người như cố để thu nhận những hình ảnh ấy. Đó là những kỷ niệm quí báu mà họ sẽ gìn giữ đến mãn đời.

 Thật ra thì đã có nhiều hạm đội đến và đi, nhưng những lần đi đến đã qua chỉ có thuyền buồm bình thản tiến vào giữa những tia nắng cuối cùng của một hoàng hôn rực rỡ. Mấy ngọn đồi xanh phía tây vàng ửng. Đầu ngọn sóng, ánh sáng tụ lại, kết thành một chuỗi lửa lập lòe và mặt bể xanh sẫm.

 Đất và biển đều lặng lẽ, vài con hải âu trắng giương đôi cánh viền vàng chao lượn êm ả trên không. Sóng dịu nhẹ như lời ru, thì thầm và tan loãng vào vô tận.

 Nom to lớn nhưng tàu tiến rất nhanh, những chỗ mạ đồng nơi vỏ tàu sáng chói, sàn tàu bằng gỗ vàng tươi cũng bóng loáng, các bánh lái chạm trổ công phu, tỉ mỉ ; những khung cửa sổ tròn lấp lánh ánh nắng. Đẹp nhất là những cột buồm cao vút và những cánh buồm rộng, trông có vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng song sức mạnh rất đáng kể. Cao hơn nữa là những lá cờ phất phơ dưới nắng chói. Sau mỗi đuôi tàu, một làn bọt nước trắng xóa.

 Rồi thì mặt trời khuất dạng, ánh sáng vàng rực lên một lúc trước khi tắt hẳn. Tàu lần lượt bỏ neo, và đêm xuống.

 Trên tàu cũng như trên đất liền đèn lần lượt thắp sáng, sao lấp lánh trên nền trời cao rộng và yên tĩnh.

 Từ bờ biển, người ta trông thấy ánh sáng lập lòe ẩn hiện trên các tàu, trong khi dưới tàu nhìn thấy ánh sáng trên đất liền và đôi bên đều ao ước thèm muốn chỗ của nhau. Đó là thông lệ : không ai bằng lòng chỗ của mình!

 Có một người trên tàu cũng trong tâm trạng ao ước đất liền nhưng không phải là những kẻ "đứng núi này trông núi nọ cao" mà vì anh đang chịu một hình phạt của kẻ ngủ gục trong canh gác: bị trói vào cột buồm, đầu nóng bừng, mình lạnh ngắt vì xô nước vừa tạt vào mình. Thần kinh căng thẳng như sắp đứt.

 Anthony L. M. buồn, tức và tuyệt vọng, không chịu nổi những bất công. Phải! Cậu có tội, nhưng theo luật Hải quân thì hình phạt chỉ có thể là phơi nắng hoặc dội nước, không bao giờ cả hai. Nhưng  tàu này làm gì có công bằng, luật... tàu này là chiếc tệ nhất của Hải quân Anh (Hải quân Anh quốc ít có tàu tệ, nhưng ít không có nghĩa là không có).

 Với Anthony thì chiếc tàu này thực sự chỉ là một cửa địa ngục, các sĩ quan chỉ huy là một lũ ác quỉ, hung thần ; còn thủy thủ chỉ là bầy chuột sống.

 Anthony cố cử động, tức thì sống lưng đau rát tựa như có ai đặt lên một cái bàn ủi nóng và cậu cố gắng để nén rên rỉ.

 Gia nhập Hải quân vừa đúng 8 tuần lễ mà cậu có cảm tưởng là suốt 15 năm đầu tiên trong đời cậu, chưa hề chuẩn bị để chịu đựng cực nhọc thử thách trong hai tháng vừa qua.

 Anthony lớn lên trong khu vực Bath quí phái, được bà nội nuôi nấng và giáo dục kỹ càng. Bà là một người thuộc quí tộc Ái Nhĩ Lan, tuy không có tài sản đồ sộ nhưng bà được trọng vọng trong một xã hội mà một đầu tóc sang trọng chải chuốt nhất vẫn không gây được sự chú ý nhỏ nếu bộ tóc đó bên trong chứa một bộ óc nghèo nàn kém cỏi. Xã hội này, người khách xách đến một túi vàng không chắc được đón tiếp niềm nở hơn là mang đến một cây đàn.

 Anthony là con trai độc nhất của một người con trai – cũng độc nhất – của bà. Nó là lẽ sống của bà. Giống như cha: cậu bé thông minh, nhạy cảm. Cha cậu được học ở Trung học Harrow rồi Đại học Oxford. Song một nết xấu làm cho tiêu tán sản nghiệp đồ sộ của ông, vì ông quá mê những cuộc đỏ đen. Một người họ ngoại giúp cha Anthony làm một chuyến du lịch Âu châu để nguôi sầu muộn. Ghé lại Ba-lê, cha Anthony say mê một thiếu nữ đẹp quên cả mẹ lẫn quê hương và sau cùng, cả hai bị tán mạng vì cuộc cách mạng của xứ này.

 Anthony còn đỏ hỏn trong bọc tã, may mắn nhờ những nhà quí tộc bạn thân của cha chàng mang đi trốn và đem về Anh quốc cho bà nội. Từ đấy, bà thề rằng không chểnh mảng để xảy ra một lần nữa tình trạng đáng phiền trên cho đứa cháu thân yêu độc nhất của bà, nó sẽ không hư hỏng vì ảnh hưởng xấu của học đường và bè bạn ; nó sẽ trở nên một chính nhân (Gentleman) như ông nội bà mới hài lòng.

 Bà mời gia sư dạy cháu tại nhà và kiểm soát kỹ lưỡng những bạn bè của cháu để kịp thời ngăn chặn những ảnh hưởng xấu sắp phát sinh.

 Sự giáo dục này không hề là một thất bại, cậu bé cũng biết giao thiệp một cách lịch sự. Lại bẩm sinh vốn thông minh, siêng năng nên cậu học rất tấn tới ; dù rằng thiếu bầu không khí tranh đua thuận lợi của học đường. Anthony yêu âm nhạc, mà bà nội thì giao thiệp toàn hạng người thanh lịch vì vậy bé cũng học được nơi họ những tư tưởng, cử chỉ tế nhị, phong nhã.

 Mặc dù vậy, tất cả những cố gắng của bà nội không giúp ích thiết thực cho cháu bà khi bà nằm xuống. Phải! Bà đã tiên liệu tất cả nguy hiểm có thể xảy ra cho cháu, tiên liệu đầy đủ, chu đáo, ngoại trừ cái chết của chính mình. Sức khỏe dồi dào, bà chưa kịp nghĩ đến sự chết, đinh ninh mình cũng giống mẹ: sống trên dưới 90.

 Nào có ngờ đâu, bà đột ngột từ trần vào năm 70 tuổi sau một cơn bệnh xoàng ; Anthony trở thành trơ trọi trên đời. Đề đốc Rubert, em họ của cha Anthony là người bảo hộ cậu – mà cậu gọi bằng chú – trước nay không hề thân mật gần gũi hai bà cháu ; bà cụ chỉ gặp Đề đốc vài lần khi sinh thời. Ông này lập tức trở về và hết sức giúp để số phận Anthony không đến nỗi tệ hại. Nhưng bà nội chết, Anthony trắng tay, của cải không còn chi cả. Ông bèn bổ nhậm Anthony làm sĩ quan trên tàu ông, vì ông nghĩ là chức vụ này hứa hẹn cho cháu họ mình một tương lai tốt đẹp.

 Sau đó, Đề đốc như quên bẵng Anthony đi (hoặc do ông cho là nếu ông tỏ ra chú ý đến, tư vị cháu, tình trạng nó sẽ tệ hơn?) Song thực tế, cháu ông lọt vào tay các sĩ quan tàn ác trên tàu, bọn này thô lỗ, cục cằn, ưa bắt nạt. Việc Anthony là cháu thuyền trưởng lại càng làm họ ghét bỏ, ngược đãi thiếu niên hơn. Họ trả thù vị thuyền trưởng bằng cách hành hạ đứa cháu đủ trò.

 Tội nghiệp! Anthony hay say sóng. Cuối cùng Anthony bị ngược đãi cũng do cậu mang một xâu chuỗi nơi cổ nữa, vì cậu cương quyết không vứt xâu chuỗi xuống bể để vừa lòng bọn cục súc kia. Chúng làm sao hiểu được tác phong cùng bổn phận đối với gia phong của một người quí tộc, dù người đó còn là một thiếu niên?

 Hơn tất cả, nguyên do chính làm cậu bị xử ác là vì cậu trẻ nhất trong đám sĩ quan, thật là một đại họa cho Anthony. Sống chung đụng với bọn này, thiếu niên gần điên vì những điều tai nghe, mắt thấy.. Vậy mà xưa nay, cậu vẫn ngờ rằng tội ác và hung bạo chỉ là những danh từ...

 Tuy nhiên, cậu vẫn giữ vững tinh thần và rất lấy làm bằng lòng vì cậu biết mình không thuộc vào loại người cứng cỏi. Thiếu niên tự hứa phải bám víu vào sự nhã nhặn, bình tĩnh càng lâu càng tốt như một kẻ đắm tàu bám cứng mảnh phao.

 Nhiều lần Anthony khiếp đảm nghĩ đến một ngày kia, mình kiệt lực, khi ấy tình trạng sẽ ra sao?

 Cậu sẽ thấy dễ thở hơn nếu cậu được ngủ đầy đủ, đằng này cậu chỉ chợp mắt từng chặp trong căn phòng hôi hám, ồn ào.

 Sau cùng, Anthony ngủ gục trong phiên gác và bị treo lên cột buồm. Trong 2 giờ đồng hồ bị treo, đầu và lưng cậu đau dội, nhức nhối không thể tả. Cậu phải nhắm chặt hai mắt để khỏi buồn nôn ; vì cậu biết cơn say sóng sẽ dễ chịu hơn khi ta không nhìn tàu chạy. Cậu ngất đi mươi phút và trong mươi phút đó, một cơn ác mộng chập chờn ; những điều ghê tởm cậu đã chứng kiến lần lượt diễn lại trước mắt cậu, dù cậu nhắm nghiền!

 Một lần kia, cả thủy thủ đoàn tụm lại để xem một người bị đòn cho đến chết.

 Một lần khác, thuyền trưởng đứng dưới quát tháo bọn thủy thủ đáng thương đang trèo lên giăng buồm. Kẻ nào xuống chót thường bị phạt cách tàn nhẫn nên hôm đó một thủy thủ luống cuống thế nào, sẩy tay rơi tòm xuống biển sâu. Và đoàn người đứng nhìn mặt biển nuốt trọn mạng người một cách hả hê, không thương xót. Anthony cho là bọn này dã man, lấy sự hành hạ kẻ khác và thấy cái chết thì mới vui, như người bình thường thích gia vị để thấy món ăn ngon vậy.

 Thêm vào đó, tuy chưa dự trận đánh nào, cậu lại ghét và sợ đánh nhau. Tâm hồn đa cảm, cậu luôn luôn cảm thấy bất an, một tiếng động, một sự thay đổi nhỏ nhặt, sự đau khổ, sự chết và nhất là tù ngục đều làm cho cậu sợ hãi. Thế mà, con tàu cậu phục vụ giống như một nhà tù mà mỗi phòng là một nhà giam, không hy vọng gì vượt ngục. Anthony sẽ mãi mãi bị nhốt ở đây, bị dày vò bởi bọn người hung bạo? Chúa ơi! Thà chết đi còn hơn!

 Mi mắt nặng như chì, cậu cố gắng để mở mắt ra, khỏi cảnh tượng đau lòng trước mắt, say sóng còn dễ chịu hơn...

 Cậu không hay tàu đã vào bến. Cậu mở mắt đúng vào lúc dân chài trên bờ nhìn ra khơi theo dõi đoàn tàu uy dũng. Nhìn lên bờ, cậu thấy một quang cảnh mà cậu cho là suốt đời cậu không quên: đồi thoai thoải bao quanh vịnh và rừng cây dưới các thung lũng lấp lánh ánh nắng vàng. Sau dãy đồi, khung trời ráng hồng, qua đầu sóng trắng xóa, một làng chài có vẻ an lành trong thung lũng xa trông tựa trong lòng một chiếc cốc. Hình như làng này có tên là Torbay? Sau bờ bể hình cong như lưỡi liềm, một cánh đồng xanh ngắt, trải dài đến chân đồi ; xa xa, giữa các vườn hoa rải rác 6, 7 căn nhà nhỏ nổi bật lên và từ ống khói, từng cuộn khói lam nhạt tỏa ra, ấm cúng thân mật. Bên phải, con suối xuyên qua cánh đồng chảy ra bể, một cái cầu đá bắc ngang.

 Anthony đoán là ngôi nhà quét vôi trắng cạnh chiếc cầu kia hẳn là một lữ quán vì cậu thấy một tấm bảng đong đưa theo gió. Bên phải cầu và lữ quán có vài xưởng đóng tàu và vài ngôi nhà xinh xắn nằm dọc theo bến. Tàu đánh cá và tàu lớn neo lại bến chao lên chao xuống theo nhịp sóng. Hải âu bay là đà quanh đó. Anthony nhìn mê mải, quên cả đau cả sợ.

 Tim cậu rộn đập trong lồng ngực khi nghĩ đến mình được lên bờ. Thường thì thủy thủ đoàn chỉ được đổ bộ vào những dịp đặc biệt vì lẽ họ hay đào ngũ.

 Nhưng ta là thành phần sĩ quan mà! Chắc chắn sĩ quan được rời tàu chứ! Cậu tự nhủ. Anthony tưởng tượng đến lúc mình ngồi trong xuồng nhỏ, mỗi quật chèo sẽ đưa cậu tiến gần đất liền hơn, rồi giây lát sau cậu đặt chân lên vùng đất thần tiên, bước đi một cách vững vàng, mạnh mẽ, không bập bềnh vì sóng. Đất chắc nịch dưới chân, ấm áp, đáng yêu. Cậu qua cầu, đến lữ quán dùng tách sữa, dạo trong khu vườn đầy hoa, rồi ngược dòng suối đến tận mái nhà tranh cũ kỹ mang đầy dây leo dưới chân ngọn đồi tím xinh xinh, đến tận... Chân phải cậu chợt đau điếng, thì ra viên sĩ quan trẻ có phận sự mở trói cho cậu vừa đập cậu một phát thân thiện, nhưng phát đập thân thiện này lại nhằm vào vết bầm trên mình cậu.

- Nào cô bé! Xong hai giờ của cô đó! Tha cho!

- Thưa ông! – Anthony lễ phép – chúng ta có thể lên bờ chứ?... Tôi muốn nói các sĩ quan...

- Thôi đi! Mày đã ngủ quên khi gác, vả lại, đừng tưởng mày đã là sĩ quan, còn là khuya, cô bé ạ! Bận sau mà còn ngủ gục khi gác, mày sẽ được cột vào miệng đại bác cho xuống bể ngủ luôn, khỏi dậy!

 Anh ta nói một thôi, một hồi đoạn phát lên vai Anthony lần nữa rồi biến mất. Anthony ngồi bệt xuống sàn tàu, choáng váng mất một lúc. Nghe đồng hồ đổ tám tiếng, cậu biết giờ ăn đã qua rồi. Cậu không tiếc bữa ăn vì tình trạng dạ dày với thực phẩm đều tồi tệ. Cổ khô rốc, cậu cố lê xuống phòng dưới kiếm nước ngọt. Phải lê ngay, vì đến khuya lại phải tới phiên gác của mình. Phòng dưới quả là một địa ngục, nhưng có nước, mà Anthony thì cháy cổ lúc này. May ra, cậu sẽ có chanh đường và nếu họ để yên cho cậu sẽ lên đây đánh một giấc. Anthony bò lê khó nhọc xuống phòng. Căn phòng hôi hám không quá hai thước bề cao, bốn thước bề rộng, chất chứa trăm thứ bà nhằng: bàn ăn cho sĩ quan, cũng là bàn mổ cho các binh sĩ khi lâm trận, rương áo quần của các sĩ quan, vật dụng của họ và cả võng, trên võng có cả người!

 Mùi hôi hám tỏa rộng, đặc đậm, cộng với mùi bơ, phô ma cũ làm Anthony lại muốn nôn. Cậu tự hỏi làm sao chịu nổi trong bốn tiếng tiếp đây? Các sĩ quan trẻ thì nằm vắt vẻo trên võng, còn các đàn anh của họ lại đang nhậu một cách ồn ào vui vẻ, thỏa thuê. Anthony được tiếp đón bằng những câu chửi thề và huýt sáo. Cũng may là chỉ có chừng đó mà thôi, vì hình như họ cũng hiểu rằng Anthony đã quá sức chịu đựng rồi.

 Không một cánh tay nào đưa ra giúp cậu treo võng hay đưa cho cậu cái ca. Tất cả cố gắng khó nhọc của Anthony làm cho họ vui... Sau cùng, họ cũng để yên cho cậu ngủ.

 Toàn thân nhức nhối, rã rời mà rồi Anthony chỉ ngủ có hai tiếng đồng hồ. Sau đó, cậu tỉnh phắt dậy, đầu óc sáng suốt một cách kỳ lạ. Đột nhiên, cậu quyết định: "Phải rời tàu bằng bất cứ giá nào. Mình đã quá sức chịu đựng rồi".

 - Anthony!

 Trong lúc còn đang miên man suy tính thì bị gọi tên vì đến phiên gác. Cậu lảo đảo leo lên boong tàu. Trời tối mịt, một lớp sương mù dày bao phủ tất cả, Torbay bây giờ chỉ còn nhận ra nhờ bởi ánh đèn trong lữ quán và trên bến. Còn lúc nào thuận tiện cho dự tính của cậu hơn đêm nay? Với ánh sáng yếu ớt kia, cậu sẽ được hướng dẫn vào bờ, khó có ai nhận được khi cậu còn dưới nước.

 Anthony biết rõ mình phải làm gì. Phiên gác diễn ra như thường lệ, vì tàu đã được neo và không có gì đáng đề phòng nên viên sĩ quan đi tuần cũng ngồi yên một chỗ mơ màng, thường, ông ta xách gậy đi vòng vòng để nện vào đầu anh nào gục ngủ trong phiên gác. Chả một tiếng động nào ngoài tiếng nước vỗ đều vào mạn tàu và tiếng tên gác hét lên từng lúc "yên ổn".

 Anthony ngồi gác trước mũi tàu. Đợi đến một lúc không ai nhìn về phía mình nữa, bấy giờ cậu cởi áo khoác ngoài, khăn quấn cổ, mũ, dao găm, quấn tròn tất cả lại nhét vào một góc. Cậu chỉ giữ lại quần và áo sơ mi vải dày, đôi giầy nhẹ thì cho vào túi quần rồi len qua cửa quầy tàu xuống sàn dưới đến giữa thân tàu. Đem mát mẻ nên cửa sổ thành tàu được mở rộng. Nhờ vốn nhỏ gầy, cậu bám lấy thành cửa sổ đoạn buông tay ra. Cậu đoán là buông rơi mình cách mặt nước có một khoảng ngắn như thế chắc tiếng động không đáng kể, song đến lúc mình cậu chạm mặt nước cậu tưởng như một tiếng đại bác vừa nổ bên tai. Tuy nhiên, lúc trồi lên mặt nước, hốt hoảng gần nghẹn tim, cậu vẫn không thấy động tĩnh gì chứng tỏ có người lưu ý đến tiếng động do cậu gây ra. Thật ra, có người nghe, song họ lại ngỡ là tên đầu bếp vứt rác xuống bể, vì vào giờ đó, gã bắt đầu làm việc.

 Thở phào nhẹ nhõm, Anthony bơi thẳng vào bờ, nương theo ánh đèn lấp lánh xa xa. Thoạt tiên, cậu rất tin tưởng vào tài bơi lội của mình, nhưng chỉ mươi phút, tay chân cậu tợ như treo chì và buốt không chịu nổi.

 Dù sao đi nữa, Anthony không thể thối lui ; chết hay vào bờ, cậu phải lựa một, và cậu bằng lòng cả hai, vì cậu ao ước được thoát cái địa ngục nổi đã giam cầm cậu trong tám tuần liền.

 Anthony như được tiếp sức, phấn khởi lên sau một lúc buông thả mình nằm ngửa bập bềnh, và cậu lại tiếp tục bơi.

 Sau cùng cậu vào được bờ, bám lấy cái khoen sắt trên bến, rồi bước từng bước theo các bực cấp, đi lên.

 Trời còn mờ tối, nhưng nhớ đến khung cảnh đã quan sát hôm qua, cậu tiến về phía các xưởng đóng tàu. Đến nơi, Anthony ngồi nép mình dưới một chiếc tàu đóng dở, không quên mang đôi giày ướt đẫm vào chân, rồi nắm chuồi xuống chờ sáng.

 Một lúc sau, bình minh trở lại. ánh sáng như mang đến sinh khí và niềm tin, tiếng động và hương thơm thoang thoảng dâng lên, rồi tiếng sóng vỗ nhẹ dưới bến, tiếng suối thì thầm và tiếng hát đâu đó từ một khung cửa sổ. Sau cùng, tiếng chuông nhà thờ ngân nga thong thả, tất cả hợp thành một khúc ca du dương làm Anthony tưởng như tất cả được làm bằng ánh sáng lóng lánh màu xà cừ.

 Mùi ngai ngái của rong bể, mùi thơm nhẹ của bánh mì nướng, mùi hoa dại đẫm sương mai, mùi khói rừng và đồng xanh hòa lẫn nhau thành một thứ hương đặc biệt, khó tả của một bình minh đầy hứa hẹn.

 Anthony thấy dễ chịu và tin tưởng hơn lên. Cậu cẩn thận chui ra khỏi chỗ nấp, đảo mắt nhìn quanh. Nắng trải rộng, chan hòa khắp nơi làm cậu phải lấy tay che mắt để tránh tia sáng phản chiếu đỏ rực trên mặt bể. Cậu hướng mắt về phía mấy vườn hoa, nơi rải rác những ngôi nhà trắng xinh xẻo ; giòng sông lượn lờ dưới cầu như một giải lụa mầu bạc, rồi những cánh đồng, những ngọn đồi và những thung lũng đầy bóng mát. Thung lũng chạy dọc theo ven sông, nom có vẻ trù mật. Giữa màu xanh của cỏ cây, nhiều ngôi nhà trắng nổi bật lên.

 Anthony không dám tiến đến mái nhà tranh có dây leo, nằm giữa đám biệt thự xinh xắn ấy, vì cậu nghĩ biết đâu một trong những biệt thự này chẳng có vài sĩ quan đi phép ghé vào? Dù áo quần mình rách nát thảm thương nhưng với con mắt nhà nghề cậu sẽ bị nhận diện dễ dàng ; Anthony rùng mình nghĩ đến những hình phạt dành cho kẻ đào ngũ.

 Anthony đói tợn song cậu biết tốt nhất là nên tìm đến xin những kẻ nghèo, dù họ có nhận ra tông tích mình, họ cũng không nỡ tố cáo. Một đợt khói nhẹ thoát ra khỏi miệng ống khói có vẻ ấm cúng mời mọc. Thêm vào đó, cửa lữ quán mở rộng, mùi bánh nướng thơm ngát mũi cùng bay ra đến tận tai cậu cùng với một giọng hát đàn ông. A! Không phải là một bài hát tiếng Anh! Quay nhìn ra bến, cậu thấy một thuyền Tây Ban Nha neo chen giữa đám thuyền đánh cá, nhìn kỹ thuyền ấy có vẻ tồi tàn chứng tỏ từng nhiều lần vượt bể, chắc họ ghé vào đây để sửa chữa chi chăng?

 Anthony hiểu là không rời làng này ngay rất có thể nguy hiểm cho thân song khốn nỗi: cậu sẽ không lê chân nổi nữa, nếu không có gì đỡ dạ. Và cậu lại tin rằng bọn thủy thủ ngoại quốc này sẽ cho cậu ăn uống tử tế. Vì vậy, Anthony dừng lại nhìn vào lữ quán, ngôi nhà được quét vôi trắng nằm giữa vườn hoa, ngay chân cầu. Bảng hiệu cũ kỹ, đong đưa theo gió, bốn chữ gợi nhớ đến trùng dương đầy sóng gió: "Lữ Quán Hải Hồ"!

  Tay chân run bây bẩy, tai ù đặc, mắt hoa lên nhưng cậu cố tựa vào tường và giữ cho khỏi ngã, nhìn vào trong. Sáu thủy thủ ngồi quanh bàn, ăn uống ngon lành, bia và thịt nướng bày la liệt, người nào cũng mang khoen vàng ở tai và hai cánh tay trần của họ lộ rõ những bắp thịt rắn chắc và mầu da nâu bóng. Một gã có vẻ như... ca sĩ, xong bữa ăn trước các bạn, bắt đầu trổ tài và cứ sau mỗi bài hát, anh ta lại tợp luôn cả nửa ly bia.

 Áo quần cả bọn đều sạch sẽ, râu cạo nhẵn và anh nào nom cũng tươi tỉnh, vui vẻ.

 Trong bếp ngăn nắp, ấm cúng, một chị đàn bà đang lăng xăng cạnh lò lửa đang rực cháy. Khung cảnh có cái gì thân mật, dễ dãi như là một ngày lễ... Anthony nuốt nước bọt một cách khó khăn... Bỗng, y như một tấm màn đen vừa phủ xuống, cậu tối tăm mặt mũi ngã khuỵu bên hè.

 Khi tỉnh tại, Anthony thấy mình nằm trên ghế dài cạnh lò lửa, bên mình cậu là người đàn bà, tay bưng ly nước, vẻ mặt lo lắng. Bà ta có vẻ mừng rỡ thấy cậu tỉnh lại, vội vàng kê ly vào miệng Anthony, dịu giọng:

 - Em chịu khó uống chút trà nóng cho khỏe, nào!

 Anthony ngoan ngoãn vâng lời người đàn bà, uống cạn một hơi, rồi chống tay ngồi dậy, dụi mắt nhìn quanh mình, ngượng ngập cười với mọi người.

 Người đàn bà kêu lên, giọng thương xót:

 - Áo quần em ướt đẫm thế kia, thảo nào! Lại đây! Em phải sưởi cho khô bớt rồi ăn vào một chút gì là khỏe ngay ấy mà!

 Bà ta nói và mang lại cho cậu bánh mì, thịt băm và kèm thêm tách sữa nóng. Sự tiếp đãi niềm nở của bà ta cũng như vẻ thân thiện của đám thủy thủ làm Anthony vững bụng. Quả là một liều thuốc làm dịu bao nhiêu thống khổ, nhục nhằn mà cậu đã hứng chịu 8 tuần lễ liền trên cái địa ngục nổi đáng ghét kia.

 Anthony thấy người đàn bà nhìn xâu chuỗi mình mang ở cổ và cùng một lúc, cậu lại thấy những thủy thủ Tây Ban Nha đều cũng có mỗi người một chuỗi như mình. (Bà ta ngỡ là Anthony cùng bọn với đám thủy thủ) Cả bọn lại cười với Anthony như có vẻ quen biết, Anthony cười đáp lễ đoạn ăn uống tự nhiên, ngon lành.

 - Em tên gì?

 Người đàn bà hỏi sau khi cậu ăn xong. Anthony rụt rè đáp nhỏ:

 - Thưa bà, Anthony!

 Người đàn bà nghe không rõ, hỏi lại:

 - Cái gì? Zachary hẳn? Lạ quá: đúng là một tên Anh chính cống!

 Anthony không đính chính. Với cậu bây giờ thì mang cái tên Anthony càng thêm nguy hiểm mà thôi. Ờ! Cái gì ngăn cậu lấy tên Zachary? Được lắm chứ! Trong cuộc hành trình đến ngả rẽ của cuộc đời mới, Anthony muốn khai tử tên cũ của mình. Mang tên Zachary cũng là một cách đánh dấu sự may mắn đầu tiên cùng là cảm ơn người đàn bà tốt bụng.

 Đám thủy thủ đứng lên, Zachary nối gót theo họ. Người đàn bà đưa cả bọn ra tận cửa và chỉ đường đến nhà nguyện Saint-Michel, theo lời họ yêu cầu.

 - Đây nhé: qua khỏi cầu, đi thẳng một đoạn rồi rẽ lên dốc. Đến đỉnh đồi, các ông sẽ thấy nhà nguyện Thánh Michel. Chúc các ông đi bình an. Cả em nữa, Zachary!

 Đoàn người theo lời bà chủ quán chỉ. Họ ca hát, cười đùa vang dậy. Ngang những hàng rào nở hoa đỏ ối, họ ngừng lại, nghiêng mình, kiễng chân ngắt hoa của những nhà hai bên đường, giắt lên tai. Một người có hảo ý quẳng cho Zachary một đóa. Zachary không thể vô tư như thế nhưng cậu vẫn không rời đám thủy thủ vui tính ngay được ; cậu phải dùng họ làm tấm mộc để chắn giữa biển và cậu. Vừa rời lữ quán, nom thấy tàu bè, nỗi sợ hãi dấy lên trong lòng cậu.

 Thức ăn và lòng tốt của bà chủ quán làm cậu dễ chịu đôi chút nhưng hiện đầu óc cậu vẫn còn váng vất, rối mù. Và trong lúc chưa có quyết định gì dứt khoát, cậu còn phải bám theo đoàn người. Cảnh trí trên dốc tuyệt đẹp, song Zachary không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Cậu buông mình xuống một phiến đá khi lên đến nơi. Tiếng trầm trồ ca ngợi vang lên bên tai cậu. Một lúc sau đó, khi bình tĩnh lại cậu nhìn quanh: khung cảnh quả nên thơ, bên dưới vịnh rực rỡ trong nắng sớm, uốn cong giữa vòng đồi non bao quanh, hướng tây nhiều ngọn cây cao ngất nổi bật trên nền trời. Giữa bể và núi, một dãy đồi xen kẽ với thung lũng. Rải rác đây kia là những cánh đồng cỏ tươi mát, nhà, rừng và vườn cây ăn trái.

 Chợt, cậu cảm thấy lòng dạt dào yêu mến khi nhìn thấy những nông trại trước mặt. Cậu chưa từng sống ở đồng quê, chỉ biết có Bath, khu vực quí phái và con tàu địa ngục trong đời. Vậy mà Zachary lại cả quyết rằng mình sẽ được dung thân ở một trong số những nông trại ấy, cậu sẽ được an toàn và thoải mái. Cậu sẽ xin việc làm tại đó: cày bừa? vắt sữa bò? xén lông cừu? Được! Việc gì cậu cũng không chê.

 Về hướng tây, một lâu đài cổ nằm cạnh một tu viện đổ nát. Bên ngoài khu vườn lộng lẫy là một bãi cỏ xanh, vài con nai thơ thẩn gặm cỏ. Tất cả như được bảo vệ kỹ càng bằng một vòng thành đá kiên cố bao quanh.

 Giữa tu viện và gành đá của bờ biển còn có nhiều đồi, đồi gần nhất tại đó rất thấp. Vài ngôi nhà nhỏ, một thánh đường cũ kỹ, tường xám xịt, nghĩa địa cạnh thánh đường. Có lẽ tiếng chuông ngân trong lúc bình minh mà Zachary đã nghe là tiếng chuông của thánh đường này, vì bây giờ tiếng chuông lại vừa ngân lên trong vắt, ấm cúng hòa lẫn trong tiếng be be của đàn cừu.

 Các thủy thủ Tây Ban Nha trịnh trọng bước vào thánh đường S.Michel. Họ kính cẩn quì gối cảm ơn Chúa đã che chở họ vượt qua những cơn giông bão trên bể cả. Nhà nguyện bấy giờ chỉ còn vang lên tiếng tràng hạt và tiếng kêu của vài con hải âu bay lượn quanh nóc thánh đường.

 Zachary cũng quì gối cạnh cửa ra vào song không đọc được một câu kinh nào. Nhìn qua cửa sổ, cậu thấy cánh hải âu nổi bật giữa nền trời xanh ngắt và cậu tận hưởng sự an toàn quên cả thực tại bấp bênh. Cậu như tìm được bình yên mỗi khi không thấy bóng dáng tàu bè. Và cậu quỳ mãi đó trong khi các thủy thủ lần lượt rút lui, tâm hồn bình thản, nhẹ lâng.

 Chợt, cậu giật mình tự nhủ: phải đi ngay, tìm đến một nông trại để được an toàn bảo đảm. Thánh đường này không phải là chỗ dung thân vĩnh viễn. Zachary đứng lên, ra khỏi nguyện đường, cẩn thận men theo vách đổ dốc, xuống đồi. Nắng ấm như tiếp sức cho cậu.

 Dù cho những giờ sắp đến chưa biết sẽ có gì đón đợi mình, Zachary vẫn vững tin là không đến nỗi tồi tệ như những ngày qua.

Chương 2

Từ khi chớm có trí khôn, Stella hay thắc mắc về một quá khứ sâu đậm khó quên ; quá khứ đó có hai kỷ niệm trái ngược nhau, một kỷ niệm mơ hồ nhưng khủng khiếp và một kỷ niệm nữa dịu dàng, êm ái, êm ái như vòng tay của má Sprigg hiện nay.

 Đầu tiên là một tiếng nổ to dữ dội như xé màng tai, rồi mầu đỏ rực của lửa, rồi một bể nước đen ngòm phủ chụp lấy Stella. Thứ đến là sự lặng lẽ của một đêm đầy sao, mùi thơm của một khu vườn hoa, không khí mát rợi của đêm và vòng tay thân ái, chở che...

 Trong những đêm sâu, lặng lẽ, cô bé thường giật mình giữa giấc ngủ thần tiên vì một cơn mê khủng khiếp : có ánh lửa sáng rực, có nước bể đen ngòm, rồi sóng dữ quật chìm cô bé và cô thét lên làm má Sprigg vội vàng xô cửa vào phòng...

 Một hôm, Stella ngập ngừng hỏi má:

 - Má ơi! Con không phải là con ruột của má, phải không?

 Má Sprigg và Stella đang ngồi thêu cạnh lò sưởi, thời tiết vào thu thật dễ chịu. Dưới chân hai má con là con mèo Séraphine. Ngọn lửa nhảy nhót reo vui, nổ tí tách, tiếng tích tắc của đồng hồ và tiếng kim chạm vào đê. Hoàng hôn xuống chậm trong bầu không khí tĩnh mịch, êm đềm.

 Trong khi làm việc, cô bé thường đặt những câu hỏi liến thoắng và má cô vui vẻ trả lời song đôi bên không ngừng tay, rồi từng chuỗi cười ròn rã nổi lên, làm cho bầu không khí quanh hai mẹ con thêm phần ấm cúng, thân mật.

 Nhưng hôm nay, câu hỏi của cô bé làm bà mẹ lúng túng, mũi kim đâm vào tay, một dòng máu chảy ra làm hoen tấm vải trắng tinh khôi. Stella hết sức kinh ngạc, cô bé từng thấy mẹ ngồi thờ thẫn với dáng bộ đó (đã lâu lắm) khi cha cô bị con bò điên húc phải ; bác sĩ đã buộc bà phải rời phòng để ông nằm một nơi cho bác sĩ khám bệnh. May thay: cha cô thoát nguy lần đó, nếu không, cô bé e rằng mẹ cô sẽ ngồi bất động như vậy, lặng lẽ im lìm, mắt dán vào lò sưởi...

 Stella chợt cảm thấy rằng mẹ cô đang chịu đựng một nỗi thống khổ ghê gớm... Sự im lặng làm Stella nghĩ là mình đã làm phiền mẹ và cô hối hận vì thương mẹ quá đi thôi. Cô bé chồm đến đặt đôi bàn tay nhỏ nhắn, hồng hào của mình lên bàn tay chai ngắt của mẹ, âu yếm:

 - Má giận con sao? Thưa má?

 Má Sprigg tháo kính đeo mắt, nhìn sâu vào mắt con gái, buồn rầu hỏi lại:

 - Tại sao con hỏi má điều này?

 Bà đau đớn mà nhận Stella sớm khôn và nó tự nhận thấy những tương phản giữa hai mẹ con do một bản năng thầm kín, khó phân tách rõ.

 Stella nói thật nhanh như muốn trút đi một lần những u ẩn chất chứa trong lòng:

 - Con cảm thấy như là con từ một nơi khác đến đây. Con nhớ...

 Người mẹ hỏi dồn:

 - Con nhớ những gì, nào?

 - Thưa má, con nhớ một tiếng nổ dữ dội, con bị siết cứng gần ngạt thở và nước đen ngòm phủ kín con...

 Má Sprigg xúc động rõ rệt và giọng Stella chậm rãi, dịu dàng:

 - Rồi thì vòm trời đầy sao êm ả và vòng tay má ấm áp...

 Stella chưa bao giờ tỏ bày tình yêu, lòng biết ơn cha mẹ một cách lộ liễu song với đôi mắt, đôi bàn tay, vài câu nói cũng đủ làm má Sprigg hài lòng.

 Bà chợt quên điều khổ tâm lúc con bà đặt câu hỏi, vả lại, bà nghĩ cũng đã đến lúc thuận tiện để bà nói sự thật (mà bà không cố ý giấu giếm con, bà chỉ chờ một cơ hội thích đáng) khi chỉ có hai mẹ con ở nhà.

 - Phải! Con không phải là con ruột của má. Tuy vậy, má yêu con như chính má sinh con, con đã được đem đến cho má cách đây 19 năm, khi con còn bé, cỡ hơn hai tuổi rưỡi...

 Stella cố gắng không giục mẹ nói mau còn mẹ cô thì mơ màng ôn lại quá khứ:

 - Lúc đó má đang ngồi cạnh lò sưởi như bây giờ đây, má đang vá áo cho ba con mà trong lòng thì bồn chồn lo lắng vì ba con đi Plymouth và hẹn về lúc 8 giờ tối thứ tư ; thế mà đồng hồ gõ 10 tiếng vẫn chẳng thấy dáng ba con. Năm đó, ai cũng lo sợ bọn Pháp đổ bộ trên vùng này, mỗi ngày đều có tàu chở binh sĩ và khí giới rời Plymouth đi Ái Nhĩ Lan. Ba con đi chuyến đi ấy mục đích là để từ biệt chú con sắp theo hạm đội Amphion. Tàu có tổ chức một lễ lớn, song vì sáng thứ ba, ba con dậy trễ nên khi ông đến nơi thì lễ đã tan... song sự chậm trễ này lại là một may mắn lớn... lạy Chúa!...

 Mắt mở to, Stella hỏi dồn:

 

- May mắn làm sao kia, thưa má?

 - Tàu Amphion nổ tung, gần 300 người thiệt mạng, họ là vị hôn thê, cha mẹ, vợ con, họ hàng của binh sĩ và sĩ quan trên tàu. Người ta ngờ rằng một binh sĩ vô ý làm rơi tàn lửa trên kho đạn dưới hầm tàu... Tội nghiệp! Trong số những kẻ mất mạng này có cả chú con...

 Bà Sprigg ngừng lại, thở dài, giọng xúc động:

 - Khi đó cha con sắp đến Plymouth, ông nghe một tiếng nổ long trời và đến nơi thì thấy mọi người đang lo vớt xác các nạn nhân. Ba con liền phụ một tay trong công việc ấy. Ba con bảo ông không bao giờ quên được một cảnh thương tâm: một thiếu phụ còn trẻ và thật đẹp được ông vớt lên, hai tay bà ôm chặt lấy đứa con bụ bẫm. Thiếu phụ mặc chiếc áo mầu xanh, trên cổ có một mề đay lớn, ba con không thấy bà bị thương nhưng chỉ một lúc sau bà tắt thở, tay vẫn ôm chặt con thơ...

 - Phải con không, thưa má?

 - Phải! Chính con. Ba con cảm động lắm, làm sao không xúc động chứ, hơn nữa má vừa mất một đứa con – đứa con độc nhất của ba má – cũng vào cỡ tuổi con lúc đó. Ba má buồn khổ lắm... Khi hai thủy thủ gỡ con ra khỏi tay thiếu phụ, ba con liền giành lấy con, ôm vào lòng. Một thủy thủ bảo: "Đứa bé chết rồi" nhưng ba con lắc đầu, cả quyết là con sẽ sống. Lúc đó con ướt sũng, ông bế con đến một lữ quán gần nhất nhờ bà chủ quán săn sóc con trong khi ông trở lại tìm chú con. Chú ấy không có trong số những người may mắn sống sót.

 Hôm sau, con tỉnh táo như thường và mọi người không ai tìm ra tông tích con. Cha con liền trùm con trong áo choàng mang về cho má. Cuộc hành trình trên lưng ngựa thật vất vả, dài lâu, song con vẫn tươi tỉnh, xinh xắn như một cánh hoa xuân, con là một thiên thần...

 Stella bật cười to:

 - Chắc má ngạc nhiên lắm khi thấy ba bế con về!

 - Còn phải nói! Lúc đó chỉ một cái búng tai cũng đủ làm má ngã xuống liền. Má hồi hộp lắng nghe tiếng vó ngựa đến gần, rồi khi biết chắc là ba con, má chạy bay ra cửa rào để đón ông. Ba con xuống ngựa, trao con cho má, con choàng tỉnh, nhìn má, nhìn quanh vườn rồi lại ngủ say. Kể từ đó con sống dễ chịu tại trại Week này như là con vốn sinh ra ở đây, như con là con của má...

 - Không ai đến đòi con lại sao? Thưa má?

 - Không! Hoàn toàn không! (Má đã giục ba con trở lại Plymouth dò hỏi, nhưng không ai biết gia đình con). Trong túi áo mẹ con không có gì ngoài cái khăn thêu, chiếc nề đay lớn nơi cổ thì cất bên trong một lọn tóc nhỏ, đen mướt và mảnh giấy ghi những chữ lạ lùng không ai hiểu. Ba con an táng bà tử tế, giữ lại khăn tay và mề đay, phi ngựa nước đại  về đây báo cho má biết điều này, từ đó ba má yên tâm con thuộc về ba má...

 Tay nâng cằm, Stella nhìn đăm đăm ngọn lửa, có vẻ nghĩ ngời. Cô bé không có một lời nào tỏ vẻ thương tiếc người mẹ ruột xấu số của cô, cô đang nghĩ đến mẹ nuôi trước mặt. Đột ngột cô hỏi mẹ:

 - Má ơi, con gái đã mất của má cũng tên là Stella phải không?

 - Không con ạ! Nó tên là Eliza như bà ngoại. Ba con quý con lắm, ông muốn tìm cho con một tên đặc biệt. Ông bảo má rằng mắt con sáng như những vì sao. Và má cũng thấy con lần đầu tiên dưới ánh sao, vì vậy, tên con là Stella dù theo ý má, tên Stella không hợp mấy với họ Sprigg. Ba con còn nói "Không sao, khi nó lớn lên, đổi tên khác cũng được. Bây giờ nó là Stella yêu quí của chúng ta, sinh ngày 1 tháng 6 với ánh sao đầy trong mắt!"

 - Làm sao ba biết con sinh ngày 1 tháng 6?

 - Chó con của má khôn lắm. Ba đâu biết con sinh ngày nào, nhưng ngày 1, tháng 6 là ngày mừng chiến thắng lớn của quân đội Anh. Nhà nào cũng đèn đuốc sáng rực, trong cửa sổ nến cháy suốt đêm. Người ta tưởng như tất cả sao trên trời cùng rơi xuống và sáng hoài cho đến bình minh.

 Stella buột miệng ngâm lên ; giọng trang trọng khác thường:

 - "Ánh nến ban đêm dù đã tắt,

Song bình minh rực rỡ giữa mù sương"!

 - Hở? Cái gì? Con lại chúi mũi vào cuốn sách nào đó, phải không?

 Giọng người mẹ bực tức. Thực ra, bà ít khi nóng giận, nhưng bà khó mà nén lòng mỗi lần biết con gái lục lạo tủ sách của bác sĩ Crane (ông là bạn thân của gia đình bà và đảm nhiệm luôn việc dạy dỗ Stella) Tuy nhiên, bà và ông hay cãi nhau về phương pháp giáo dục cô bé. Theo đầu óc đơn giản của bà thì đứa trẻ chỉ cần biết đọc, biết viết và biết đếm... Việc nội trợ bà sẽ thân hành dạy con. Một thiếu nữ ở nông trại như con gái bà chỉ cần có thế.

 Bác sĩ Crane trái lại, ông bảo sự giáo dục phải đạt đến mức tối đa của năng khiếu. Stella đồng ý với ông: thả cô gần kệ sách, cô đọc ngấu nghiến như trẻ khác ham nhai kẹo ngọt và cô giấu mẹ những hiểu biết của mình, càng nhiều càng tốt. Thế mà, vô tình, lâu lâu bà mẹ bắt gặp cô con gái yêu đọc lên một câu văn hay, một tư tưởng đẹp bằng giọng trang trọng lạ lùng. vậy là bà nổi giận lên. Tại sao bà giận? Chính bà cũng không hiểu rõ, phải chăng sự khao khát hiểu biết nơi đứa trẻ là một đe dọa ngấm ngầm đối với bà làm bà sợ hãi, và sự sợ hãi này trở thành giận dữ...

 Stella không trả lời câu hỏi của mẹ, cũng không buồn vì sự cáu kỉnh của mẹ. Bà thở dài thất vọng. Cô bé kéo ghế ngồi gần mẹ, nhìn bà một cách âu yếm và mỉm cười.

 Đôi mắt ngây thơ, nụ cười xinh xắn với hai lúm đồng tiền trên má của con gái làm bà mẹ tan ngay cơn giận. Đặt hai tay lên gối mẹ, cô bé cất giọng nghiêm trang, âu yếm:

 - Con yêu má! Má chính là má của con!

 Nói xong, Stella kéo áo ngay ngắn và chăm chỉ ngồi thêu như muốn xóa tan kỷ niệm về chuyện quan trọng vừa nghe. Bà mẹ thở phào nhẹ nhõm. Giây phút khó khăn nhất đã qua. Những lời trần giải mà bà lo sẽ không nói được cũng xảy ra một cách tốt đẹp, êm xuôi. Tuy nhiên bà mẹ không khỏi áy náy ; bà không thấy Stella phản ứng gì cả, nó lặng lẽ hoàn toàn sau phút xúc động đầu tiên.

 Trong êm ả của một chiều thu muộn, khi ánh sáng nhập nhòe cùng bóng tối, nến đã được đốt lên trước lò sưởi của gian bếp rộng, hai mẹ con tạo thành một bức tranh linh động, ngộ nghĩnh và tương phản: bà Sprigg gần 50 nhưng vì vất vả nên nom có vẻ già trước tuổi ; nhỏ nhắn và tròn trịa, khuôn mặt rám nắng và đôi tay chai vì lao tác. Tuy nhiên bà khá đẹp nhờ ở nụ cười nhân hậu và đôi mắt nâu dịu dàng. Quanh bà tỏa ra một bầu không khí ấm cúng, nồng nàn tình mẫu tử. Cũng giống hầu hết phụ nữ đồng quê, bà Sprigg là hiện thân của sự hy sinh, ngăn nắp, sạch sẽ. Và dĩ nhiên, bà cũng có nhược điểm hơi ích kỷ trong tình thương chồng con. Bà nóng tính, bù lại được cái bà có một sức khỏe dồi dào và tâm hồn dịu ngọt như quả dâu đầu mùa vừa chín tới.

 Tuy không mấy quan tâm đến thời trang, bà quả có óc thẩm mỹ trong việc chọn lựa kiểu và mầu áo. Bà mặc cái áo len dày, mầu lá úa thanh nhã, may khéo. Nếp áo thẳng đứng, buông dài tận gót chân trong dáng ngồi ngay ngắn trên ghế có lưng tựa cao. Tạp dề, khăn choàng cổ và mũ đều trắng tinh khôi, may bằng thứ phin mỏng, mịn màng.

 Stella mặc áo mầu lá mạ, có tua ở cổ, tay ngắn, được hồ ủi cẩn thận. Cô bé cũng mang một tạp dề nhỏ, tóc cắt ngắn như con trai. Nhìn chung, cô bé không có vẻ tròn trĩnh, yếu đuối như con gái đồng lứa tuổi. Cô hơi cao, khá mảnh mai, cử chỉ nhanh nhẹn ; khuôn mặt thon, da nâu hồng, miệng luôn luôn như mỉm cười, hai lúm đồng tiền trên má. Tia nhìn của cô bé sắc bén làm kẻ đối diện phải quay đi. Đôi mắt của Stella đặc biệt nhất trên khuôn mặt: trông thấy cô bé, người ta phải chú ý ngay đến đôi mắt xám sáng như hai vì sao lấp lánh trên nền trời vào một đêm cuối tháng.

 Với bác sĩ Crane và cha mẹ nuôi thì Stella là một cô bé xinh đẹp nhất, song sự thật, mọi người trong làng lại thấy Stella là một bé gái tầm thường, trừ hai mắt mà thôi.

 Bọn trẻ trong làng ít chơi đùa với cô bé này, cho là cô làm cao. Điều này quả sai với sự thực. Stella không hề kênh kiệu như chúng nghĩ, song có một khác biệt khó hiểu ngăn cách đôi bên làm cho Stella cảm thấy rụt rè, xa lạ không thể kết thân với chúng. Stella thường tỏ ra cố gắng song bằng mọi cách cô bé vẫn không sao san bằng hố chia rẽ giữa đôi bên. Và vì vậy, cô bé đôi khi cảm thấy cô độc dù không bao giờ than thở với mẹ cha.

Xem tiếp chương 3 & 4