Chương 13
Bupert tỏ ra là một bạn tốt đối với Zachary, anh ta lo lắng đủ cách để Zachary được gia nhập Hải quân trên một chiếc tàu khác mà không gặp sự phản đối của thuyền trưởng O' Connell.
Lần này Zachary phục vụ trên một tàu thuộc hạm đội đóng ngoài khơi bể Manche. Bạn cậu tin là một thời gian không lâu, Zachary sẽ quen với kỷ luật và trưởng thành. Trên tàu này kỷ luật chặt chẽ nhưng không có sự hung bạo tàn ác như tàu cũ của cậu. Vài sĩ quan tỏ ra thương mến người bạn mới, nhưng Zachary vẫn còn ghét bể như ngày nào, vẫn khổ sở vì say sóng, cậu tin là mình sinh ra không để làm thủy thủ mà để sinh sống trên đất liền. Cậu không dám để lòng mình hướng về Stella, về bác sĩ cha nuôi, vì nỗi nhớ nhung còn làm cậu đau đớn hơn bể cả hành hạ cậu. Tuy nhiên, cậu vẫn cố chu toàn phận sự và giữ một bề ngoài vui vẻ, thản nhiên.
Ngày tháng trôi qua, cậu đã theo hạm đội đi khắp nơi trên bể Manche và Địa-trung-hải. Cậu tham dự trận đánh Trafalgar. Hạm đội Anh do Đề đốc Nelson điều khiển, sau cả tháng ròng săn đuổi mới chạm trán với tàu chiến Pháp.
Lúc đầu, cậu sợ ghê gớm, chỉ chực lủi trốn, nhưng rồi cảnh oai hùng của trận chiến, sự dũng cảm của đồng đội và lời kêu gọi: "Tổ quốc tin tưởng chúng ta sẽ hết lòng làm tròn phận sự" làm Zachary kính nể các bạn và hăng say chiến đấu.
Mặt trời lặn, trận chiến cũng tàn. Quân Anh thoàn thắng! Bây giờ, mọi người mới cảm thấy mệt rũ ra. Bên dưới các y sĩ vẫn còn bận rộn luôn tay với các thương binh và xác chết.
Tàu Pháp đại bại đã chạy trốn, tàu Anh thì nhiều chiếc gãy cột buồm và buồm rách tả tơi.
Dưới bể, những kẻ sống sót đang bám vào những mảnh ván, người ta vội vàng thả ca nô xuống vớt họ.
Trên tàu đèn được thắp sáng trưng, lấp lánh ánh sáng chiếu xuống mặt nước đen ngòm. Đảo mắt nhìn một lượt, Zachary chợt nhận ra tàu của Đề đốc Nelson vẫn tối mịt, không một đốm lửa, thanh niên hốt hoảng, níu tay một người bạn bên cạnh:
- Nhìn tàu Victory xem kìa!
Người bạn nhìn thoe tay Zachary và cũng giật mình. Các tàu khó liên lạc với nhau cho nên họ chưa biết tin tức của nhau, anh ta sững sờ lẩm bẩm:
- Không có đèn trên tàu!
Trong chốc lát, các tàu khác đều hướng về chiếc Victory... Rồi thì càng về khuya, tin mừng chiến thắng càng lắng xuống và sự đau đớn dâng lên: tang tóc bao trùm họ: Đề đốc Nelson đã từ trần!
*
Vài ngày sau khi hay tin trận Trafalgar kết thúc, cha De Colbert ngã bệnh. Ông sổ mũi và ho liên miên, trên bàn làm việc của ông luôn luôn có một chồng khăn giấy. Vì thế, ông đành đình cuộc viếng thăm bác sĩ như dự định, ông sợ lây bệnh cho người khác.
Đầu nhức như có búa gõ vào, ông vẫn không cho phép mình được nghỉ ngơi. Bệnh cúm kéo dài hơn tuần lễ, cho đến một hôm, linh mục sau một đêm thức trắng, cảm thấy ngực nặng khó thở, tứ chi rũ liệt không thể gượng ngồi lên. Ông giật chuông gọi người giúp việc vào.
- Nếu có thể, mời bác sĩ Crane đến hộ tôi, ông Jewell đi được đấy!
- Đừng, thưa cha, ông ấy ở xa lắc, gọi được bác sĩ đến ông ta sẽ bịnh luôn, tôi làm sao săn sóc nổi hai người đây chớ? Để tôi gọi Parker tới lể cho cha là xong, lể hay lắm...
- Không, tôi biết hơn bà mà! Mời hộ bác sĩ cho tôi.
Bà giúp việc càu nhàu, hai tay giơ lên đầu:
- Chúa ơi! Bây giờ cha lại bắt chước tụi quí tộc, bày đặt mời bác sĩ...
Tuy phàn nàn như thế, nhưng một chốc sau, bà trở lại với cốc sữa nóng, lễ phép báo tin là đã mời bác sĩ rồi. Linh mục uống sữa và nằm ngay xuống...
Ông ngủ một giấc ngủ chập chờn, mơ về dĩ vãng xa xôi: ông thấy lại cái ngày lâu đài của gia đình ông bị đốt phá, tất cả thân nhân ông bị tàn sát bất ngờ, ông, may mắn được cứu thoát do một linh mục già khả kính và một nữ tu sĩ săn sóc tận tình. Sau đó, vị nữ tu cùng ông tìm cách về Toulon vì nhà dòng cũng bị tàn phá. Cha sở tại đây giấu ông trong nhà thờ, không may có người mách nên chính quyền đến bắt ông, lúc ấy, ông đang dạo trong rừng phía sau nhà thờ, lần này ông lại thoát chết, song cha sở bị thay thế mạng ông.
Nữ tu sĩ Thérèse bơ vơ, ông hứa sẽ giúp cô tìm về với gia đình. Hai người vượt bao nhiêu hiểm nguy để rồi về đến nơi thấy lâu đài nhà cô hoang vắng như bãi tha ma. Trong lúc tuyệt vọng, cô chỉ còn trông cậy vào ông, sau cùng họ trốn sang Anh quốc.
Sống cạnh nhau nhiều ngày, chia xẻ khổ nhục, Charles thầm yêu Thérèse và vị nữ tu, không muốn làm thất vọng người đã cùng mình nếm trải gian lao, nên sau cùng, cô hy sinh đời sống tu hành. Họ thành hôn tại Luân Đôn.
Để vui lòng chồng, Thérèse trang điểm trở lại, giao thiệp với xã hội quí phái trên đất Anh, nơi họ đang sống. Charles dạy học và viết sách, Thérèse thêu thùa lấy công, đời sống khá phong lưu, họ sống với nhau thật hạnh phúc.
Hai năm sau, họ có một con gái rất xinh, nhưng Thérèse sau những ngày cực nhọc vì tránh trốn, sức khỏe suy giảm rõ rệt.
Nghĩ rằng khí hậu Anh quốc không hợp với vợ mình, Charles không do dự khi có người bạn giới thiệu chàng đến dạy con một nhà quí tộc ở Ái-nhĩ-lan, vì chàng cho là một dịp để vợ chàng phục hồi sức khỏe. Ngày nhận việc đến mà vợ chàng lại đang đau. Sau khi bàn tính, họ bằng lòng với nhau để chồng đi trước, nhận việc và lo chỗ ăn, chỗ ở rồi trở lại đón vợ con.
Mọi việc tiến hành tốt đẹp, chàng bằng lòng chỗ làm việc và cũng vừa được thư vợ báo tin mạnh khỏe. Thérèse còn nói rằng sẽ đưa con sang bằng tàu Amphion, chàng không phải trở về tốn công, vì viên sĩ quan trên tàu này vốn có họ với mình, mọi việc sẽ dễ dàng.
Và tàu Amphion nổ... Được tin dữ, chàng trở về Plymouth tìm vợ con, nhưng đến nơi công việc cứu cấp và an táng đã hoàn tất. Charles điên cuồng tìm kiếm dò hỏi khắp nơi. Cuối cùng một thủy thủ cho chàng hay là có một đứa bé cỡ con chàng và một người mẹ trẻ đã chết khi được vớt lên!
Charles không chết vì đau khổ tức thì. Chàng vốn có một sức khỏe dồi dào và ý chí sắt đá, song từ đó, chàng khép kín như con ốc chui vào vỏ. Chàng trở lại dạy học và làm phận sự một cách chu đáo, nhưng không bao giờ còn tìm thấy nguồn vui.
Rồi một lần kia, Charles đến thăm một tu viện và cảm thấy thanh thản trong lòng. Một ý nghĩ phát sinh chàng quyết định hiến dâng những ngày còn lại của mình cho Chúa, thay Thérèse, người đã vì chàng mà hy sinh đời sống tu hành.
Trở thành linh mục De Colbert, Charles vẫn lạnh lùng đối với xung quanh. Ông nghĩ rằng họ đâu có đau khổ, mất mát như ông, và chính đau khổ đó đã là hố sâu, trong nhiều năm liên tiếp cách ngăn ông với mọi người.
Tại Luân Đôn, càng ngày thần kinh ông càng căng thẳng nên ông xin đổi về Torouya, nơi đây chỉ là một họ đạo nhỏ. Ông lại có nhiều thì giờ rỗi rãi để nghiên cứu sách vở...
Vẻ đẹp và sự yên tĩnh ở đây làm ông cảm thấy thanh nhã trong lòng, rồi chợt đâu, ông gặp cô bé Stella...
*
- Này! Sao không đốt đèn lên? Phòng ốc gì tối om như một cái hầm...
Một giọng nói to, giận dữ, và giọng khác, giọng của bà già giúp việc cho linh mục, cũng giận dữ không kém cạnh:
- Tôi không có thì giờ! Tôi chỉ có hai tay. Ông Jewell thì đi mời bác sĩ, ai giúp tôi đem củi lên đây chớ?
Linh mục mở choàng mắt, qua ánh sáng lờ mờ, ông thấy khuôn mặt sạm nắng của bác sĩ Crane đang nghiêng trên mình ông, trán đầy nếp nhăn, mắt đầy lo lắng. Linh mục mỉm cười xã giao, tức thì cơn giận của bác sĩ được dịp bùng ra:
- Bộ cha điên sao không gọi tôi sớm hơn?
Linh mục bối rối, chưa kịp đáp, bác sĩ đã lại la lên:
- Cha tưởng cha còn trẻ lắm sao mà tự chống chọi nổi với bệnh cúm chớ?
Bà giúp việc chen vô:
- Nếu cha nghe lời con, gọi người lể thì có phải yên không...
- Thôi! Bà có đi tìm củi đốt không thì nói cho tôi biết?
Bác sĩ quát to lần nữa và bà già riu ríu rút lui lấy củi. Bác sĩ cúi xuống khám bệnh. Một lát sau, ông lau mồ hôi, hắng giọng:
- Bệnh cha nặng đấy, tôi sẽ cố sức nhưng nếu cha không giúp tôi thì tôi cũng đến bó tay thôi. Tôi có cảm tưởng là cha không muốn khỏi...
Từ lâu rồi, đối với linh mục thì chết là sự giải thoát, nhưng giờ đây trước sự tận tâm của bác sĩ, nhất là tình bạn bác sĩ dành cho ông, ông không muốn làm bác sĩ thất vọng:
- Thưa bác sĩ, tôi sẽ cố gắng để công việc chữa trị dễ dàng.
Và linh mục giữ lời hứa. Đôi bên đã chống trả kịch liệt với cơn bệnh suốt tuần. Sau cùng, vào một buổi sáng, bác sĩ khám lại cho linh mục, vui vẻ tuyên bố:
- Cha khỏi rồi đấy, nhưng phải tĩnh dưỡng khá lâu mới phục hồi sức khỏe. Tôi không để cha ở đây được, cha không thể tự lo mà bà ở của cha, xin lỗi, cho tôi nói thật, thì càng tệ hơn. Cha phải đến đằng tôi ở dưỡng bệnh và ăn Noel luôn...
Cảm ơn bác sĩ nhiều lắm, tôi cũng muốn thế, song trong mùa Giáng Sinh, tôi không thể bỏ tín đồ và công việc mà đi.
- Cha khỏi thắc mắc, cha còn cả một đời để lo cho bổn đạo, nếu cha chết hôm nọ rồi thì ai lo đây? Tôi đã tin cho bề trên hay rồi, từ nay đến đầu năm mới cha còn yếu, không thể làm việc được. Bề trên cũng sắp phái một linh mục khác đến thay cha trong thời gian cha nghỉ dưỡng sức.
Linh mục xúc động vì sự chu đáo của người bạn mới. Ông chưa kịp mở miệng nói cám ơn thì bác sĩ khôi hài:
- Cha đừng lo tôi bắt cóc cha đi xa Chúa. Mỗi tuần tôi sẽ đưa cha đến nhà thờ nhưng nhớ là chỉ đến xem lễ thôi. Tôi phải giữ cha cho đến khi cha thật mạnh.
Linh mục cũng hớn hở gật đầu:
- Vâng, tôi sẽ đóng vai đứa trẻ bên bác sĩ cho đến ngày nào bác sĩ chán, đuổi tôi đi!
Linh mục đến nhà bác sĩ một tháng trước Noel. Biết ông thích yên tĩnh nên chủ tớ bác sĩ thường để ông một mình với sách vở bao quanh.
Chỉ vào buổi tối, đôi khi bác sĩ nán lại văn phòng nói chuyện với ông. Câu chuyện vô tình quay về Zachary và Stella. Nhưng bác sĩ lại ngỡ ông không ưa trẻ em, nhất là trẻ gái, bác sĩ thường nói đến Zachary bằng giọng nồng nhiệt, hãnh diện của một người cha.
Phần Tom, anh ta cố gắng để dọn những bữa ăn ngon miệng. Sự thay đổi không khí này quả có lợi cho sức khỏe linh mục rất nhiều. Dần dần, thần kinh ông lắng dịu, một sức sống mới cơ hồ bừng dậy trong người ông.
Trời đã sang đông nhưng vẫn còn những ngày có mặt trời, nắng ấm áp dễ chịu. Những hôm đó, linh mục dạo quanh vườn nhà, có khi xuống tận làng.
Stella vì bận rộn sắp đặt lễ Noel với mẹ nên nghỉ học ở nhà bác sĩ, còn bác sĩ thì thắc thỏm vì lo con nuôi và cô bé buồn, nhất là ông biết Zachary không có mặt trong dịp này được. Sau chiến thắng Trafalgar, Zachary có thư báo tin vẫn mạnh khỏe nhưng hạm đội cậu vẫn đóng ở Địa-trung-hải cho qua năm tới.
- Tội hai đứa nhỏ, chúng trông ngóng gặp nhau biết bao nhiêu!
Linh mục kiếm lời an ủi bác sĩ, vì ông biết chính bác sĩ buồn nhớ Zachary.
Hôm áp lễ Giáng Sinh trời thật tốt và sức khỏe linh mục thật khả quan. Bác sĩ đề nghị ông đi với mình đến thăm trại Week một chuyến cho vui:
- Thưa cha, tất cả những nông trại lớn ở miền này đều ăn lễ rất lớn. Bất cứ ai cũng có thể tham dự bữa ăn bày dưới những gốc cây bom. Nếu cha vui lòng đi với tôi thì tuyệt... người ta sẽ mừng lắm...
Bác sĩ nói mà không tin lời mình được linh mục nghe theo (từ lâu ông biết linh mục chỉ ưa nơi yên tịnh) nào ngờ đâu, ông ngạc nhiên thấy linh mục hớn hở trả lời:
- Còn gì hay hơn! Tôi cũng có quà cho cô bé đây, bác sĩ ạ!
Bác sĩ rất vui. Chiều 24 trời lạnh và khô ráo, họ dùng xe ngựa lên trại Week, đúng như dự tính, có cả Tom theo.
Trong lúc đó, Stella ngồi cạnh già Sol, Hodge dưới chân cô gái ; Stella đang học thêu, lò sưởi rực lửa. Già Sol bây giờ quá suy yếu, không thể đi lại nếu không ai giúp cho, suốt ngày già ngồi tư lự cạnh lò sưởi, tối đến ba cô bé bế già lên giường. Già được săn sóc tử tế như đối với đứa trẻ. Tuy không ai nói với cô bé là già sắp chết, nhưng cô tiên cảm là già không còn sống bao lâu nữa, cô ở cạnh già trong khi đọc sách, may vá, thêu thùa và khi thì kể chuyện cho già nghe. Đôi khi, cô biết già không chú ý đến câu chuyện nhưng cô không phật lòng, vì cô biết già cần có mình bên cạnh. Những lúc ngẩng đầu lên, cô luôn luôn gặp đôi mắt lờ đờ mệt mỏi của già âu yếm nhìn mình.
"Hôm nay 24 rồi đây!" co gái nghĩ. Cô buồn vì sự vắng mặt của Zachary và sự bệnh hoạn của già Sol trong dịp Giáng Sinh. Gian bếp được trang hoàng rực rỡ và ngập tràn bánh trái hoa quả: công trình làm việc của hai mẹ con cô bé trong rất nhiều ngày. Thình lình, có tiếng má cô gọi từ sân:
- Stella! Có bác sĩ và một ông khách đến!
Stella đặt tay lên vai già Sol, rồi thu xếp khăn thêu vào hộp, vuốt lại áo (chiếc áo mới má cô vừa may cho để đón Noel, bằng hàng len xám mềm mại có in những cánh hồng tươi tắn), chạy ra đón khách, con Hodge theo sau.
Cô gái cúi chào khách thật lễ phép. Bác sĩ tươi cười:
- Stella! Con nhận ra cha De Colbert chứ?
Thưa bác sĩ, con vẫn nhớ...
Khuôn mặt nâu hồng của Stella tươi vui khi ngẩng lên, cô đưa tay cho linh mục, ông nắm lấy và im lặng mỉm cười, nét mặt linh mục chợt rạng rỡ lạ thường – Bác sĩ chưa bao giờ thấy linh mục hân hoan đến mức đó, ông hết sức ngạc nhiên.
Khách được chủ nhân tiếp đón niềm nở. Một chốc sau, có nhiều khách khác đến, họ là những nông dân trong làng. Trong khi bác sĩ trò chuyện với họ, Stella cùng linh mục đến ngồi trên thành cửa sổ, xa cách tiếng cười đùa trò chuyện của mọi người.
Cô gái sung sướng mở gói quà, đôi má cô hồng lên và đôi môi như nụ hoa sắp nở. Linh mục hỏi nhỏ khi thấy Stella loay hoay chưa mở được dây:
- Con muốn ta cắt dây giúp con chứ?
- Thưa cha, không đâu. Dây này tốt lắm, con sẽ thư thả mở...
Cô gái được dạy không nên bỏ phí vật gì và không nên hấp tấp. Trong thoáng chốc, cô mở được các mối dây, vuốt giấy lại phẳng phiu, xếp gọn, cuộn dây ; mắt cô lại rực sáng lên nhìn lần giấy bạc bên trong và cô kêu lên nho nhỏ khi hộp đồ thêu xinh đẹp nằm gọn trên tay.
Stella nâng niu từng món trong hộp, lòng sung sướng không thể tả.
- Con gái của má có cái hộp thật quí!
Người mẹ đứng trước mặt cô con tự bao giờ. Bà kinh ngạc quá.
- Thưa má, của cha De Colbert cho con đấy!
- Chao! Cái hộp dành cho một công chúa cũng chưa chắc đẹp hơn!
Người mẹ buột miệng khen, bà rất vui vì con gái được quí mến, tuy vậy, bà hơi tiếc rẻ: bà không được cái vinh dự có món quà như thế để chính bà tặng con gái yêu của mình.
Tự nhiên bà không giữ được giọng dịu dàng:
- Stella! Con đã cảm ơn linh mục chứ?
Stella bối rối:
- Thưa mẹ, con quên mất...
- Vậy ư? Con vô ơn quá thôi!
Giọng bà hằn học đến nỗi Stella ứa nước mắt, thốt nhiên, cô gái nắm tay linh mục, nửa như muốn xin che chở, nửa tỏ ra hối tiếc về sự sơ ý của mình. Linh mục đỡ lời:
- Thưa bà, không đâu, tôi chưa thấy ai cảm ơn tôi một cách dễ thương như cháu.
Bà mẹ càng phật ý, bà cảm thấy ghét người khách trước mặt quá thể, mà lại là một ông khách ngoại quốc nữa chứ! Bà liếc nhìn khách lần nữa: tự nhiên tim bà như thắt lại vì thấy ông ta và con gái mình đứng cạnh nhau thân mật, trìu mến như thể cha con ruột, càng ghét hơn nữa hai người đều có những cặp mắt xám và trong sáng giống nhau!
... Rồi chợt, bà cảm thấy mình nhỏ nhen, ích kỷ, bà vội vàng đổi nét mặt vui vẻ:
- Xin mời cha! Đã đến lúc ra ngoài trời, bữa ăn sẵn sàng rồi!
Chương 14
Zachary nằm trên võng, nhắm mắt, đầu gác trên cánh tay. Tiếng củi nổ lách tách làm chàng trai nhớ đến gian bếp ấm cúng ở nông trại Week, đến Stella, đến dĩa thịt thỏ hầm bốc khói thơm nức mũi. Zachary nhíu mũi hít vào khoan khoái.
- Làm gì kỳ vậy bạn? Bộ anh đang ngồi trước bàn ăn sao chớ?
Zachary mở choàng mắt, nhìn Michael Gurke nằm cạnh mình. Trong các bạn, Zachary yêu nhất anh này, người gầy nhom, tính vui vẻ, ồn ào và thẳng thắn ; thấy một bất công, Burke phải can thiệp mới bằng lòng.
- Chúng ta đang ngồi trên dòng Tamise, ngày mai sẽ đến Londres và tám ngày nữa, ta sẽ về nhà!
Trả lời Zachary, chỉ có tiếng ngáy. Zachary cầu nhầu:
- Người vô tư quá! Mới nói đó đã ngủ say rồi!
Thì giờ trôi qua rất chậm vì rảnh rỗi, nhưng sau cùng họ cũng đến Luân Đôn. Thành phố này không mang lại cho Zachary chút thích thú nào, chàng trai chỉ nôn nả thấy lại đồng cỏ xanh, đàn cừu và dòng suối, ngọn đồi.
Nhưng luôn luôn Burke lôi kéo chàng dạo phố. Tối thứ bảy Burke nài nỉ bạn đi chơi bữa cuối để mai chia tay. Thấy Zachary ngần ngừ, Burke cố thuyết:
- Chỉ tối hôm nay thôi! Ngày mai, tôi sẽ trả anh lại cho nông trại, cho người yêu! Đừng để tôi nài nỉ mãi, giảm thọ bây giờ đấy!
Zachary nể bạn, đành phải nhận lời, song khi sắp lên đường, Zachary bực mình vì Burke nhất định đem cái tù và của già Sol theo, trong túi, Zachary nghiêm giọng:
- Burke! Hãy nghe tôi! Để cái tù và đó ở nhà! Đem theo xui xẻo cho mà xem!
Burke cười rộ, chế giễu:
- Anh mà cũng tin nhảm đến thế ư? Cứ để tôi mang theo, có gì tôi chịu cho!
Giằng co một lúc, Burke vẫn không đổi ý. Zachary giận căm trong lúc Burke thủ cái tù và vào túi, chạy trước ra đường, chàng trai chạy theo sau.
Vào đến tiệm ăn, cả hai không nói với nhau một tiếng nào. 10 phút sau, cả chục sĩ quan khác bước vào hiệu, nhận ra bạn, họ ập tới bàn hai người, hò hét inh tai.
Sau đó, họ kéo nhau đi, cho đến gần sáng, cả bọn say khướt, trừ Zachary tỉnh táo. Lúc ra về, đi ngang con hẻm, bỗng một bọn du đãng ùa ra chặn đường, gây sự, hai bên quần nhau chí tử. Ở Luân Đôn trò đánh nhau như thế này thường như cơm bữa, không có chi đáng quan tâm.
Đột nhiên, Burke nảy ra sáng kiến kỳ quái: anh ta lấy tù và ra thổi mong áp đảo tinh thần đối thủ. Nào ngờ đâu, bọn du côn thay vì sợ tiếng tù và lại tỏ ra thích thú hơn. Và sau cùng, chúng như bị kích thích vì tiếng tù và ấy, bỏ hết các người kia, vây quanh mỗi Burke mà thôi. Zachary hoảng hốt thấy bọn này quật ngã bạn mình và giật luôn cả ví, cả tù và, bỏ chạy, không kịp phản ứng, sự tức giận làm cho Burke hóa cuồng không suy nghĩ, anh ta rượt theo nhanh như thể vừa mọc cánh. Zachary và các bạn khác chạy theo, nhưng trong lòng Zachary hết sức sợ hãi, một tiếng nói đâu đó cất lên: "Hãy trở về! Đừng dính vào đây. Mày đã ngăn nó đem tù và theo mà nó không nghe, tự chuốc vạ vào thân. Còn thì giờ đấy, đừng do dự! Hãy lui thôi!"
Nhưng Zachary lại không thể bỏ bạn giữa đường – các người kia say khướt, có người nằm lăn ở một góc phố – Và vì vậy, chàng trai cãi lại lời cảnh cáo thầm lặng. Zachary không nhớ là mình đã chạy qua bao nhiêu đường phố, bao nhiêu con hẻm tối ngoằn ngoèo. Tiếng hò hét vọng lại tai chàng trai từ những ngôi nhà tối om, cũ kỹ. Thỉnh thoảng mới có một ngọn đèn vàng vọt, soi hình dáng của những kẻ rượt đuổi nhau, từ phía trước. Dần dần, chỉ còn có ba người: Burke, tên du đãng giật ví anh và phía sau Zachary không nỡ bỏ bạn một mình trong đêm tối, giữa thành phố đầy tội ác.
Nhiều lần, Zachary ngã quị trên những đống rác, nhưng đứng lên rồi lại chạy theo, con hẻm sâu hun hút, tối mịt đầy đe dọa ; nhưng chàng trai không còn sợ nữa, cuộc rượt đuổi làm Zachary sôi máu lên trở thành hăng hái...
Cuộc rượt đuổi kết thúc đột ngột: tên du đãng cùng đường ; trước mặt hắn là một bức tường cao án ngữ, phía sau là hai gã thanh niên. Hắn đứng dừng lại lưng tựa cửa, tù và và ví của Burek cho vào túi, mím môi quắc mắt đứng chờ địch thủ trong dáng bộ liều lĩnh khác thường.
Nhìn đôi mắt đầy lửa của tên này, Zachary sợ sẽ đổ máu nên cố tìm lời ngăn bạn:
- Thôi! Burke! Hãy nghe tôi, ta đi thôi!
Nhưng than ôi! Burke không còn biết phải trái gì nữa, anh hét lên:
- Nếu anh sợ, hãy lui ra. Mặc tôi với nó!
Trông dáng bộ hung hãn của đôi bên, Zachary nghĩ là phải ngăn cuộc xung đột sắp xảy ra bằng mọi giá. Vì vậy chàng trai chồm đến trước, chặn giữa bạn và tên du đãng. Burke tức giận, kêu lên:
- Xích ra! Tôi bảo anh đừng dính vô đây...
Nhưng anh ta chưa dứt câu đã lãnh ngay một cú đấm nơi cằm. Anh ta gầm lên
- Đồ phản bạn!
Mặc bạn tức giận, Zachary vẫn cố che chở cho tên du đãng làm Burke không còn tự chủ được nữa, lao vào Zachary ; rồi thì những cú đấm chắc nịch hung tợn bổ tới, phóng vào vây quanh Zachary như một màn lưới. Zachary tán đởm, kêu lên:
- Thôi! Đủ rồi! Tôi đây mà, anh không nhận ra sao?
Burke không nghe gì nữa, Zachary đành phải tự vệ, Burke tuy gầy nhưng rất khôn, một phần vì sự tức giận làm anh ta điên lên – và trong lúc đó, tên du đãng khôn lanh đã chuồn mất, mặc cho hai người bạn đấm nhau.
Dần dần, Zachary có vẻ thắng, vì anh tỉnh táo hơn bạn – Zachary không ưa rượu, chỉ uống bia nhẹ trong bữa ăn – hơn nữa, bài học của cha con lão Jacob cũng giúp Zachary vài kinh nghiệm... đáng kể.
Và rồi, Burke nằm gục xuống chân bạn, đầu tóe máu, giống như những cái xác mà Zachary thấy trên tàu. Burke chết rồi ư? Đôi mắt anh ta nhắm nghiền và mặt tái nhợt dưới ánh trăng. Zachary như người mê, không nghe tiếng còi của cảnh sát, tiếng chân chạy trốn của những người vây quanh để xem – vì sợ phải liên lụy đến thân, mà bản thân chúng vốn là bọn bất lương. Bây giờ, quanh Zachary chợt yên tĩnh một cách đáng sợ. Khi cái còng của cảnh sát tra vào tay mình, hơi lạnh của vòng sắt làm Zachary rùng mình, kêu lên nho nhỏ, nghẹn ngào:
- Chúa ơi! Tôi chỉ muốn ngăn bạn giết người mà... trở thành sát nhân ư?
Rồi khi bị cảnh sát điệu đi ra khỏi hẻm, đôi mắt Zachary vẫn không rời cái xác tái nhợt đẫm máu dưới trăng.
*
Ánh trăng soi sáng trận đánh giữa đôi bạn thân trong hẻm tại Luân Đôn cùng một lúc cũng làm cho Stella thao thức trong căn phòng nhỏ. Cô gái linh cảm một tai nạn ghê gớm đã xảy đến với Zachary, trăng được chứng kiến và đang tìm cách báo tin cho cô, cô thức trắng đêm.
Sáng hôm sau, đầu trĩu nặng, mắt thâm quầng, cô gái không cảm thấy háo hức như thường lệ vào những sáng chúa nhật. Già Sol trở bệnh càng làm cô gái buồn thêm. Suốt sáng, cô ngồi bên già canh chừng, lòng chĩu ưu phiền.
Lại một đêm mất ngủ. Sáng thứ hai, bác sĩ đến thăm già Sol và đưa cô đến nhà ông để học như thường lệ. Trông nét mặt cô gái, bác sĩ không khỏi động lòng. Ông gạn hỏi và được biết cô gái bận tâm vì Zachary...
- Ừ! Anh con không thích bể, nhưng rồi trước sau gì nó chả trở về. Cũng sắp rồi.
- Không phải thế! Con nằm mơ, một giấc mơ kinh dị, con thấy anh ấy không phải ở trên bể, mà ở một chỗ ghê tởm quá ; tối mịt, hôi hám, không có gối kê đầu, áo quần rách mướp, xung quanh đầy bọn bất lương, hung tợn và có song sắt vây quanh cả bọn họ lẫn anh...
- Con gặp ác mộng rồi. Tối qua con ăn gì? Thịt thỏ hầm, hử? Mấy món ăn nặng bụng khó tiêu hay gây ác mộng...
- Thưa, con không ăn thịt thỏ, con chỉ ăn bánh mật và uống sữa...
- Lại càng quá tội, bánh mật nặng bụng lắm. Thảo nào. Con đừng nghĩ vẩn vơ, hãy nghe ta: nếu có gì xảy đến cho anh con, ta có tin ngay... quân đội có địa chỉ ta...
- Bác có thể đến Luân Đôn tìm anh không?
- Luân Đôn? Tại sao chứ?
Bác sĩ ngạc nhiên hỏi lại.
- Vì con nghe cha De Colbert kể rằng Luân Đôn là thành phố chứa đầy hư hỏng và tội ác, con nghi chỗ anh ấy gặp nạn phải là Luân Đôn.
- Này con, con phải biết điều một chút. Ta làm thế nào dám bỏ bệnh nhân ở đây mà đến Luân Đôn chỉ vì một giấc mơ của con? Già Sol trở bệnh, Baxter sắp sinh, Jo cũng ốm, chưa kể một đứa bé sốt tinh hồng nhiệt...
- Vâng! Bác không thể đi, con biết, bác đi, mấy người đó chết mất. Nhưng cha De Colbert sẽ đi Luân Đôn thay vì đi Exeter...
- Cha đi làm gì?
- Cha đi in sách...
- Làm sao con dám quả quyết rằng cha sẽ hủy chuyến đi Exeter mà đi Luân Đôn vì con và Zachary?
- Cha sẽ đi vì con, con biết, bác tin đi!
Bác sĩ trố mắt nhìn cô gái. Ông không tin có sự thân mật, tin cẩn giữa một linh mục Pháp vốn thuộc dòng quí phái và một cô gái nhỏ con của một trại chủ nông dân Anh.