RẮN THẦN XUẤT HIỆN
Một chiều hè nồng nực. Bạch Huệ mệt mỏi nằm dài trên cỏ, thở khó khăn như cá ra khỏi nước. Ngồi bên em, Thiện Chí tay nâng cằm, dáng điệu uể oải lười biếng. Cái nóng nung người nóng nóng ghê ! Những bầy ruồi nhỏ bay chậm chạp trên mặt nước vo ve như tuồng ngái ngủ, nước thác đổ xuống chạm sỏi đá vang lên tiếng động đều đều buồn tẻ.
Bạch Huệ nhìn bầu trời trong xanh không gợn tý mây :
- Tôi mong trời đổ trận mưa rào. Không nhờ hơi mát ở thác nước, chắc tôi chịu không thấu cơn nóng bức oi nồng. Anh nghe chăng tiếng reo kỳ lạ của thác nước ? Nơi đây nhiều sỏi đá, ta càng nghe rõ vọng lên hai tiếng nói. Tôi đã thí nghiệm nhiều phen !
Thiện Chí nhướng đôi mắt nặng trĩu :
- Thí nghiệm những “tiên lùn” của Huệ hả ? Nhiều trí tưởng tượng quá !
- Vâng, những chuyện cổ tích “tiên lùn” ở Ái Nhĩ Lan.
- Trời nóng bức thế nầy nghe chuyện cổ tích cũng vui thú. Trong lúc mơ mơ màng màng ta có thể tin chuyện thần tiên thành câu chuyện thật.
Bạch Huệ duỗi thẳng hai chân, hai tay gối dưới đầu, nói nho nhỏ :
- Ở Ái Nhĩ Lan, có nhiều tiên lún thích sống trong các suối nước, nhất là nơi nào giòng nước chảy xiết, tiên lùn nhảy nhót nô đùa giữa sỏi đá trắng nõn, nói lên rồi lặp lại hai tiếng giống nhau. Nếu ai nghe được hai tiếng nói ấy của tiên lùn để đáp ứng tiếng nói thứ ba, thời tiên lùn xuất hiện thoả mãn mọi điều thỉnh cầu. Một hôm có gã mục dồng đến gần thác nước định xin các tiên lùn một ân huệ. Gã ngồi bên thác chờ đợi tiếng nói tiên lùn. Ban đầu gã chỉ nghe tiếng nước chảy róc rách, nhưng gã vẫn tin đó là tiếng nói của tiên lùn trong sỏi đá, chớ không phải tiếng nước. Gã kiên nhẫn ngồi lắng tai chăm chú nghe. Quả nhiên một tiên lùn nhảy ra khỏi mặt nước đứng trên phiến đá hát lên : “Thứ hai, thứ ba ! Thứ hai, thứ ba ! Thứ hai, thứ ba !” Tiên lùn ngừng giây lát chờ đợi người ta đáp lời. Tiên lùn lặp lại : “Thứ hai, thứ ba”. Chờ tiên lùn lặp lại 10 lần hai câu nói trên, gã mục đồng mới đánh bạo đáp lời “thứ tư”. Tiên lùn liền hát tiếp ba lần : “thứ hai, thứ ba”. Mỗi lần tiên lùn nói xong một câu, gã mục đồng đều đáp : “thứ tư”. Tiên lùn cười rộ, vỗ tay ra hiệu, tức thì trong các ngách sỏi đá ở khe nước xuất hiện một đoàn tiên lùn khác. Một tiên lùn hỏi gã mục đồng thích muốn điều gì ? Mục đồng trả lời xin một chuông nhỏ vì bò của gã vừa rơi mất chuông. Tiên lùn cười khì, cầm chiếc mũ đỏ trên đầu vứt vào khe nước rồi cùng đoàn tiên lùn biến mất.
Bỗng gã mục đồng nghe trong lùm cây trước mặt tiếng nhạc rổn rảng và nhìn thấy con bò của gã nơi cổ đeo tòn ten một chiếc chuông vàng. Từ hôm được chuông vàng, bầy bò của gã mục đồng sinh sôi nẩy nở đầy đàn. Gã trở nên giàu có, giúp đỡ những người nghèo khó ; nhưng gã tuyệt nhiên bưng bít câu chuyện chuông vàng, sợ người ta kéo đến quấy rầy các chú tiên lùn.
Thiện Chí nghiêng tai bên giòng thác thử nghe tiếng nước reo trong sỏi đá có gì khác thường chăng !
- Sao Bạch Huệ không nói lên những câu thần chú để gọi các tiên lùn ?
- Mấy lúc này tôi có gì để ước nguyện đâu mà phải cầu khẩn tiên lùn, nhưng bây giờ tôi có mối ân hận nan giải cần các tiên lùn giúp đỡ.
- Chuyện gì phiền muộn trong lòng Huệ lại giấu tôi ? Nếu tôi không đủ sức giúp đỡ, ba tôi sẽ thoả mãn Huệ, vì ba tôi quí mến Huệ lắm.
- Tôi nói ra chắc Thiện Chí không còn cảm tình với tôi nữa !
- Tôi chẳng là bạn chí thân của Bạch Huệ hay sao ?
Nhưng Bạch Huệ vẫn lắc đầu yên lặng, đôi mắt nhìn vào cõi xa xăm tưởng nhớ đến một kỷ niệm chua chát mà Hùng Tâm để lại, khiến em không bao giờ quên.
Thiện Chí chắc hẳn điều ước nguyện của Bạch Huệ quan trọng lắm nên mới giữ kín trong lòng, chớ đâu phải như điều ước nguyện tầm thường của mình chỉ thỉnh cầu tiên lùn một chiếc xe hoặc một ngựa con.
- Chúng ta có thể nhờ tiên lùn cất mọi nỗi ưu tư sầu muộn. Hãy lắng tai nghe, nếu quả tiếng nói tiên lùn, chúng ta cùng nhau đồng thanh đáp ứng, chắc tiên lùn sẽ xuất hiện. Chúng ta sẽ cầu khẩn tiên lùn một ân huệ.
Bỗng nhiên Bạch Huệ và Thiện Chí nghe rõ mồn một vang lên trong sỏi đá những câu thần chú : “Thứ hai, thứ ba ! Thứ hai, thứ ba ! Thứ hai, thứ ba !” Những tiếng nói ấy ngừng giây lát rồi tiếp tục vang lên.
Thiện Chí nắm chặt bàn tay Bạch Huệ, rồi hai đứa mạnh dạn đáp lời : “Thứ tư”.
Nhưng chẳng thấy vật gì hiện ra. Trên làn nước trong xanh từ thác chảy xuống không mảy may lay động. Trải qua những giây phút chờ đợi hồi hộp, nhưng nào đâu thấy Tiên lùn xuất hiện. Hai đứa lập đi lập lại ba lần câu nói : “Thứ tư, thứ tư”.
Bỗng nghe tiếng động sột soạt sau lưng, Thiện Chí quay đầu lui hét lên kinh hãi, cuống quít níu tay Bạch Huệ cùng chạy. Cách đó chừng vài thước, một con rắn to xuất hiện. Thân hình rắn đen thui tợ mun, trên đầu dính máu bê bết, đuôi rắn cũng mang vết thương dài rướm máu. Rắn cất đầu lên không nổi, đôi mắt mất tinh thần, miệng há hốc, thè lưỡi ra nứt nẻ đưa qua đưa lại.
Hai đứa nhỏ kinh hoàng khiếp đảm. Rắn từ ngả nào bò đến ? Làm sao rắn xuất hiện gần chúng mà tuyệt nhiên không hề nhìn thấy, không hề nghe tiếng ? Ai đã đánh nó thành thương ? Phải chăng nó đến cầu cứu hai đứa nhỏ ?
Thiện Chí nhặt một cành cây nhìn Bạch Huệ :
- Hãy hất nó vào thác nước !
Sau khi quan sát kỹ càng, Bạch Huệ thì thầm bên tai Thiện Chí sợ rắn hiểu tiếng người :
- Hãy xem, rắn nầy kỳ lạ lắm ! Thân hình sáng ngời như kim khí. Một miếng thịt vàng khè nổi trên đầu hình dáng chiếc vương miện. Đâu phải rắn tầm thường ! Đừng làm hại nó, hãy giúp rắn hàn gắn vết thương.
Bạch Huệ đến bên thác nước, lượm ngọn lá to cuộn tròn lại, múc ít nước đổ lên đầu rắn. Rắn đưa lưỡi táp những giọt nước từ từ chảy xuống đầu nó.
- Anh hãy đứng đây canh chừng. Tôi chạy về nhà kiếm sữa và một cái chậu. Phải tìm cách cứu sống nó. Tôi tin tưởng nó là rắn thần, chớ không phải rắn thường đâu ! Tôi trở lại ngay. Thỉnh thoảng anh cho nó uống nước.
Thiện Chí cầm cành cây to đứng canh chừng rắn, trong lòng nghi hoặc lời nói Bạch Huệ, nhưng cũng tò mò đợi xem phản ứng của rắn ra sao !
Mặc dầu trời nóng bức, sức khoẻ yếu đuối, nhưng Bạch Huệ chạy nhanh về lâu đài và sau nửa tiếng đồng hồ đã mang ra một bình sữa, một cái muỗng, một chậu nhỏ bằng sành và hai kẹp sắt.
- Làm gì với những vật nầy ?
- Rồi anh xem, vật nào cũng hữu dụng. Chúng ta không thể để rắn nằm đây, ai thấy nó sẽ đập chết. Dưới gốc cây sên, có một hốc cây rất thuận tiện cho rắn nằm dưỡng bệnh. Chúng ta đem nó bỏ vào gốc cây, dầm đuôi nó vào chậu nước rồi cho nó uống một tý sữa. Tôi chắc rắn sẽ lành mạnh. Rắn thần xuất hiện nhất định liên quan đến các tiên lùn.
Thiện Chí đâu dám bác bỏ ý kiến của Bạch Huệ, vì nó là dân thị thành sao am hiểu rành mạch vấn đề nầy bằng Bạch Huệ đã sinh trưởng lâu năm ở đồng quê rừng núi. Hai đứa đến moi móc những lá cây mục nát trong hốc cây đoạn nhét vào những cỏ tơ mềm mại. Còn việc khó khăn hơn hết : làm cách nào đưa rắn vào hốc cây ! Đến gần rắn để kẹp nó vào hai kẹp sắt, làm sao nó khỏi vùng vẫy mổ cắn. Hai đứa đi vòng quanh rắn nằm bất động giữa cỏ. Nhưng không thể chần chừ ! Đôi mắt rắn đã hết thần sắc, đầu mang thương tích, rắn nằm khoanh tròn thở thoi thóp, chốc chốc thè lưỡi ra khỏi miệng.
Hai đứa đưa tay làm dấu thánh giá, hồi hộp cầm kẹp sắt kẹp rắn, nhưng thân hình rắn trơn nên rắn tuột xuống. Nhưng rồi, sau cùng chúng đã kẹp được rắn, chạy một mạch đến cây chuồi rắn trên đồng cỏ, bỏ vào chậu nước lã để ngâm đuôi rắn đang ri rỉ chảy máu. Bạch Huệ đổ sữa vào cái muỗng lớn đặt trước miệng rắn. Hai đứa ngồi trước gốc cây chờ đợi lo lắng. Nhờ nước mát thấm vào đuôi, rắn đã lần hồi tỉnh lại. Nó ngửi mùi sữa, khó khăn ngẩng đầu lên, thè lưỡi ra, lại yếu đuối gục đầu xuống đất. Rồi nó gắng gượng đưa miệng dầm vào muỗng sữa, chậm chạp uống từng hớp. Uống xong, rắn ngẩng đầu lên, đôi mắt sáng rực như hồng ngọc nhìn chăm chú Bạch Huệ, làn nhãn quan của rắn có gì khác thường khiến Bạch Huệ rùng mình như thể một luồng điện chạy khắp thân hình em.
Bỗng mây đen tứ phía từ đâu ùn ùn kéo đến. Gió rung chuyển cây cối răng rắc. Đàn chim vỗ cánh bay xào xạc tìm nơi trú ẩn. Những làn chớp sáng loang loáng xé tan đám mây đen, rồi những hạt mưa bắt đầu thưa, sau càng nặng hột. Giây lát, trận mưa to trút xuống ào ào như thác đổ, phủ loà bầu trời một màu trắng đục. Mưa càng to, gió càng mạnh, chung quanh lâu đài nước chảy lai láng như một hồ rộng mênh mông.
Thiện Chí và Bạch Huệ nín thở, chân không bén đất chạy một mạch về nhà, áo quần chỉ ướt chút đỉnh. Chúng bước vào phòng khách đã thấy Xuân Lan, Thu Cúc và Đỗ Quyên quây quần nói cười vui vẻ.
Thiện Chí kể lại chuyện hắc xà hiện hình trong lúc Bạch Huệ đang cầu khẩn tiên lùn một ân huệ. Rắn thần xuất hiện ! Điềm lành hay dữ, ai nấy đều mong nghe Bạch Huệ phát biểu ý kiến, nhưng em lặng thinh, tâm hồn của em mơ mộng đâu đâu !
Ngày mai, trời quang mưa tạnh. Bạch Huệ, Thiện Chí nóng lòng chạy ra hốc cây thăm sức khoẻ hắc xà. Xuân Lan, Thu Cúc, Đỗ Quyên cũng đi theo Bạch Huệ, nhìn mặt rắn thần. Nhưng gần đến hốc cây, ba chị em Xuân Lan đứng xa xa nhìn tới, chỉ Thiện Chí và Bạch Huệ đến gần rắn thám sát tình hình.
Rắn thần còn đó, nó chưa rời nệm cỏ êm ái trong hốc cây. Muỗng sữa hết sạch, chậu nước lã đen sì vì máu ở đuôi rắn chảy ra. Ba chị em Xuân Lan đánh bạo lại gần nhìn rắn cung kính sợ hãi :
- Rắn thần đen ghê !
- Rắn thần to ghê !
Trên đầu rắn nổi lên miếng thịt hình dáng vương miện, chắc hẳn là xà vương. Bạch Huệ dùng hai kẹp sắt kéo cái muỗng ra đổ đầy sữa và thay một chậu nước sạch. Lúc đầu, rắn có vẻ sợ hãi vì trông thấy đông người, nhưng khi nhìn ra Bạch Huệ, rắn yên tâm uống sữa.
Giây lát, bốn chị em Bạch Huệ đều phân tán vào rừng để rắn thần yên tĩnh dưỡng bệnh, thỉnh thoảng trở lui xem chừng rắn.
Hai ngày đầu, xà vương nằm lỳ trong gốc cây. Nhờ Bạch Huệ ân cần săn sóc, nên vết thương trên đầu và đuôi rắn đã bình phục. Đến ngày thứ ba, đột nhiên rắn bò lần ra khỏi gốc cây, khiến bọn trẻ hoảng sợ chạy tản mát. Bạch Huệ vẫn bình tĩnh đứng lại nhìn rắn.
Rắn uốn mình qua lại nhiều vòng như muốn thử thân hình còn mềm dẻo uyển chuyển không ? Đoạn rắn chậm rãi bò đi, thỉnh thoảng quay đầu lui như muốn rủ rê mời mọc Bạch Huệ cùng theo nó. Bạch Huệ cầm tay Thiện Chí cách quãng thủng thẳng bước theo rắn. Rắn thần bò đến gần một bụi cây rậm rạp, ngừng lại cuộn tròn thân hình, ngẩng cao đầu, thè lưỡi nhọn đỏ hỏn, đưa đôi mắt loè sáng nhìn Bạch Huệ.
Thoạt nhiên Thiện Chí liên tưởng đến chuyện nhiệm mầu của Tiên lùn :
- Tuồng như rắn chờ ta ước nguyện điều gì ? Hãy cầu xin rắn thần một ân huệ.
Nét mặt bừng nở một tia hy vọng, Bạch Huệ do dự giây lát đoạn quỳ gối xuống đất, hai tay đưa lên trời, thành kính cầu khẩn :
- Rắn thần, truyền lệnh Hùng Tâm trả lại vĩ cầm. Hãy ban tôi ân huệ ấy.
Rắn thần ngẩng cao đầu đưa qua đưa lại, đôi mắt sáng ngời như hai hạt kim cương. Miếng thịt trên đầu rắn thần nổi phồng lên giống vương miện. Lúc nầy, trông hình dáng xà vương thực ngạo nghễ oai vệ khác thường ! Đoạn rắn thần thè lưỡi đỏ như huyết, huýt một tiếng dài như tiếng sáo đồng, hạ thấp đầu xuống, chồm tới phía trước, lủi lần vào bụi rậm mất hút.
Bạch Huệ đứng ngẩn ngơ hồi lâu nhìn theo rắn thần luyến tiếc như thể đánh mất một vật quý giá.
Bạch Huệ, Thiện Chí và các chị em Xuân Lan kéo nhau trở về lâu đài, bên tai còn văng vẳng âm thanh tiếng huýt gió của rắn thần.
***
Sáng mai, một chiếc xe song mã ngừng trước lâu đài.
Bạch Huệ càu nhàu hỏi cô Giạ Hương :
- Lại khách nào đó nữa !
- Một ông khách lạ đem theo một chú nhỏ. Mới vào nhà, ông khách đã hỏi thăm sức khoẻ em.
- Ai hỏi em thế kìa !
- Chú nhỏ cùng đi với ông khách cũng nói đến đây tìm Bạch Huệ. Họ đang ngồi chuyện vãn tại phòng khách, Thiện Chí cũng có mặt với ông bà Thiện Căn. Em lên mau, kẻo ba má đợi.
Bạch Huệ miễn cưỡng nối gót cô Giạ Hương, mặt không kịp rửa, tóc bù rối dính đầy cọng rơm. Em đứng ngập ngừng bên cửa nhìn vào phòng khách, dáng điệu rụt rè ngơ ngác, khiến mọi người không thể nín cười. Nhưng chú nhỏ theo ông khách lại không cười, tỏ vẻ xúc động khi nhìn thấy Bạch Huệ. Da dẻ sạm nắng, đôi mắt đen nhánh, chú nhỏ đứng nép bên ông già tóc bạc hoa râm. Bạch Huệ gặp làn nhãn quan nồng nhiệt của chú nhỏ khiến em không thể nhìn lâu ; và khuôn mặt ngổ ngáo nhưng dịu hiền nầy em đã từng thấy đâu, nay trí nhớ em lại quên lửng.
Bỗng từ buồng phổi em phát ra hai tiếng mãnh liệt :
- Hùng Tâm.
Em nhìn thấy một vật gì hình dáng dài bọc trong miếng vải hồng đặt trên đầu gối ông khách già. Niềm vui sướng vô tả làm em buột miệng hét lớn :
- Vĩ cầm.
Em đứng giữa gian phòng hai tay chụi mắt nhìn kỹ có phải vật đó là chiếc vĩ cầm hay là một giấc chiêm bao ! Em bước đến gần ông già đưa tay sờ mó chiếc đàn. Em không muốn khóc, nhưng em nghẹn ngào tự nhiên nước mắt tuôn trào. Những giọt lệ giải thoát một nỗi uất ức chồng chất bấy lâu.
Hùng Tâm đến sát bên Bạch Huệ, cảm động không nói nên lời. Ông khách tóc hoa râm nở nụ cười hân hoan cởi mở như đã thoả mãn một việc đẹp đẽ tốt lành.
Ba má Bạch Huệ vội vàng hỏi con :
- Chuyện gì thế hở con ?
Ông già đỡ lời :
- Hùng Tâm đem trả vĩ cầm đã đánh cắp của Bạch Huệ. Hùng Tâm, con đến thưa đầu đuôi câu chuyện để ông bà rõ.
Hùng Tâm kể lại mọi việc : lúc Bạch Huệ giải thoát ra khỏi nhà xe, lúc Bạch Huệ cho mượn vĩ cầm, lúc cướp đàn và hành hung Bạch Huệ vân vân…
Đến lượt ông khách tiếp nối Hùng Tâm kể niềm tâm sự. Tuổi đã già lại không con, ông thích âm nhạc, mến nhạc sĩ. Ông từng du lịch khắp nơi. Cách đây vài mươi dặm, ông có ngôi biệt thự đồ sộ mà hằng năm ông đến trú ngụ độ vài ba tháng. Mùa xuân mới rồi, sau một chuyến du lịch từ xa về, ông dừng chân lại một thị trấn. Ông dạo xem phố xá, tình cờ gặp một chú nhỏ đang kéo vĩ cầm kiếm tiền ở vỉa hè. Ông đem nhạc sĩ tí hon về khách sạn cho ăn uống no nê và bảo kéo đàn ít bản nghe thử.
- Trong đời tôi đã nghe nhiều tiếng đàn, nhưng thực chưa có tiếng đàn nào làm rung động bằng tiếng đàn của thằng bé man dại nầy. Quả tiếng đàn thiên phú, trong âm điệu tiết tấu chứa đựng một tâm hồn chân nghệ sĩ. Hỏi nó không cha không mẹ, tôi đem nó theo và sau vài tuần lễ sống chung, chúng tôi đồng ý rằng định mệnh đã ràng buộc với nhau một già một trẻ. Hùng Tâm, con vua du mục, nhạc sĩ tý hon, từ nay mang dòng họ tôi và chắc nó cũng không hối tiếc. Nó đem đến cho tuổi già tôi một niềm an vui, còn tôi phải bao bọc nuôi nấng nó suốt đời, không để nó thiếu thốn một thức gì.
Để tỏ lòng biết ơn cha nuôi, Hùng Tâm trìu mến hôn tay ông già. Ba má Bạch Huệ không ngờ chú bé lễ độ, y phục sạch sẽ trước mặt lại là tên du mục đen đủi nhơ bẩn trước đây đã bị giam trong nhà xe.
Ông khách già đến ôm Bạch Huệ lộ vẻ cảm động :
- Tôi và Hùng Tâm không bao giờ quên em đã giúp đỡ nó. Chúng tôi sắp đi du lịch nơi xa, mong em nhận vật kỷ niệm nầy để chứng tỏ tình bằng hữu thân mật giữa em và Hùng Tâm.
Ông lấy trong hộp ra một sợi dây chuyền vàng đính chiếc thánh giá đeo vào cổ Bạch Huệ.
Châu về hợp phố, Bạch Huệ đem chiếc vĩ cầm cất vào tủ bà nội, chiếc đàn không ai ngờ đã phiêu bạt giang hồ khắp nơi, nay trở về cố chủ. Ba má Bạch Huệ không nỡ la mắng em và bây giờ má em mới rõ nguồn cơn vì sao mấy tháng nay em buồn phiền mất ăn mất ngủ.
Ông bà mời hai cha con Hùng Tâm ở lại dùng cơm trưa cùng gia đình.
Cơm xong, Bạch Huệ rủ Hùng Tâm vào rừng dạo chơi. Từ hôm tiếng độc tấu vĩ cầm vang lừng nơi rừng rú, lần đầu tiên hai trẻ lại gặp nhau. Bạch Huệ không quên kể Hùng Tâm nghe câu chuyện Tiên lùn và rắn thần đã giúp đỡ thâu hồi vĩ cầm. Em kết thúc :
- Thật chẳng khác một chuyện thần tiên !
Hùng Tâm rút trong túi áo một hộp nhỏ, rụt rè trao Bạch Huệ :
- Phần riêng tôi, xin tặng Bạch Huệ một vật lưu niệm. Nhờ chiếc vĩ cầm của Bạch Huệ, tôi kiếm ra tiền và với tiền đó tôi đã mua vật này. Huệ hãy giữ lấy để nhớ tiếng đàn của tên du mục Hùng Tâm.
Nó mở hộp, Bạch Huệ nhìn thấy một búp bê : thằng mọi con nhỏ bằng ngón tay, tóc đen nhánh, mặc áo màu sặc sỡ.
Bạch Huệ vỗ tay reo mừng vì em chưa bao giờ thấy một búp bê ngộ nghĩnh lạ lùng như vậy. Em thích mọi con nầy hơn sợi dây chuyền thánh giá sáng loè đeo nơi cổ.
- Cảm ơn Hùng Tâm, Huệ không bao giờ rời nó.
Đến chiều, hai cha con Hùng Tâm từ biệt ba má Bạch Huệ, nhắc nhở luôn luôn tấm lòng quí hoá hiếm có của em.
Còn 8 ngày nữa hết hè, Thiện Chí phải trở lại kinh thành. Hôm nay trời đẹp tạnh nắng, Thiện Chí lại thơ thẩn một mình không tham gia những trò chơi hấp dẫn với chúng bạn. Nguyên do vì đâu khiến nó chẳng thích nô đùa ? Vì nó muốn chia xẻ cùng Bạch Huệ nỗi buồn phiền sầu muộn. Chẳng phải Bạch Huệ gắt gỏng khó tính xa lánh bạn bè, nhưng một tin khủng khiếp đã làm em bủn rủn tay chân. Lâu đài thân mến của gia đình Bạch Huệ sắp sang tay người khác. Ba em quyết định bán ngôi nhà họ Nguyễn cho một công ty để biến đổi thành nơi nghỉ mát cho du khách.
Hỏi sao em chẳng buồn phiền ! Trong gia đình, em là người tha thiết nhất ngôi nhà em đã sinh trưởng, em mến từng căn phòng từng cánh cửa. Còn khu rừng em quen thuộc từng lá cây ngọn cỏ, nay bỏ đi sao khỏi luyến tiếc ! Bạch Huệ buồn, Thiện Chí cũng buồn theo. Ước gì có tiền rừng bạc bể, nó bỏ ra chuộc lại lâu đài họ Nguyễn. Rồi hè đến, nó về nghỉ mát cùng Bạch Huệ, rong chơi khắp nơi rừng rú để mơ tưởng những câu chuyện thần tiên.
Đang nghĩ ngợi vẩn vơ, nó đã nghe tiếng nói Bạch Huệ sau lưng :
- Thiện Chí, tôi sắp từ giã cõi đời. Mùa xuân năm ngoái, bệnh tim tái phát, bác sĩ cho biết nếu gặp việc buồn phiền, khó lòng sống nổi. Sang hè, bệnh tình thuyên giảm, nhưng nay gần đến mùa thu, tôi cảm thấy trong mình quá mệt nhọc yếu đuối. Tôi ngỡ đã chết hôm qua, khỏi phải từ biệt lâu đài thân mến.
- Sao Bạch Huệ lại nói lên những lời ích kỷ như thế ! Sao còn trẻ nhỏ đã vội chán đời ! Tôi không ngờ lời nói vừa rồi lại phát xuất ở một người nhiều từ tâm thiện chí như Bạch Huệ !
- Sao anh gọi tôi ích kỷ ?
- Tất cả mọi người trong gia đình, Huệ thương mến ai hơn hết ?
- Rừng núi.
- Tôi hỏi thương người nào, chớ rừng núi đâu phải là người.
- Thương bé Út, má tôi và cả anh nữa !
- Rõ ràng chưa ! Rừng núi đâu có cần đến Huệ. Bé Út mới cần đến Huệ. Nó thấy Huệ thì đưa tay đòi bế. Thế là nó thương Huệ. Chẳng những bé Út, còn bao nhiêu người thân mến trong gia đình đều thương Huệ, nhưng Huệ ích kỷ nên không nhận thấy. Nói nghe dễ dàng, nhưng người can đảm phải sống để cùng nhau chia xẻ mọi khó khăn cực khổ ở đời. Nếu biết phụng sự xã hội, chúng ta đều hữu ích. Phải sống ! Bạch Huệ, phải sống !
***
Đang ngồi ăn, Bạch Huệ nhìn ba lo lắng :
- Nai vàng bỏ lại đây, ai săn sóc nuôi dưỡng nó ?
- Ừ, ba cũng quên chuyện đó. Chúng ta khó lòng đem nó lên đô thành, vì nai không thể sống tù túng trong căn phòng chật hẹp. Thôi được, ba sẽ gởi nai nhờ bà Thanh Nga nuôi nấng. Biệt thự bà ta ở gần đây, sau nhà có khu vườn rộng rãi.
Một đoàn thợ rừng đến đốn cây trong vườn sau lâu đài để xây dựng thêm những căn phòng nghỉ mát cho du khách. Tiếng cưa xẻ gỗ, tiếng búa đóng đinh vang động như xé nát tâm can Bạch Huệ.
Thiện Chí nhìn nét mặt Bạch Huệ buồn rầu áo não :
- Làm sao kiếm tiền để chuộc lại lâu đài ?
- Chúng ta còn nhỏ kiếm đâu ra tiền !
- Hôm qua, tôi chợt nảy ra một sáng kiến. Nghe ba tôi kể chuyện cách đây vài cây số có một lâu đài sụp đổ vì trận động đất xảy ra vài chục năm nay. Lâu đài thuộc quyền sở hữu một bá tước già không con. Ông sống trơ trọi một mình với một lão bộc trong ngôi nhà thênh thang vắng vẻ. Lúc lâu đài sụp đổ, ông bị chôn vùi trong gạch đá với người lão bộc trung thành. Người ta đồn dưới hầm chứa rượu trong lâu đài có tàng trữ một kho vàng, nhưng ban đêm thỉnh thoảng thấy ông bá tước hiện lên với người lão bộc, nên không ai dám bén mảng đến gần. đêm nay trăng sáng, chúng ta thử mạo hiểm đến đó, biết đâu chẳng tìm ra kho vàng. Bạch Huệ đủ can đảm không ? Biết đâu Tiên lùn và rắn thần lại không giúp đỡ chúng ta một phen nữa !
- Sợ gì ! Nhưng làm sao tôi lẻn ra khỏi nhà mà chẳng ai trông thấy ?
- Đợi mọi người ngủ say, Huệ trốn ra. Hãy chuẩn bị sẵn sàng, lúc nào nghe tiếng huýt gió, Huệ nhảy qua cửa sổ đã có tôi chờ đợi ở ngoài. Chỉ chừng ba tiếng đồng hồ. Đi, về mất hai tiếng, thám hiểm trong lâu đài độ một tiếng. Chúng ta có thể trở về trước lúc mặt trời mọc.
Hai đứa hẹn nhau đến tối sẽ thi hành kế hoạch tìm vàng.
Nghe tiếng huýt gió, Bạch Huệ từ trên cửa sổ trụt xuống, tay cầm đôi giày đã thấy Thiện Chí sẵn đó. Dưới ánh trăng vằng vặc, chúng lẳng lặng dắt nhau rời khỏi lâu đài tiến bước. Thiện Chí đã một lần cùng ba nó ngang qua lâu đài, nên thuộc chừng đường sá. Nó kéo Bạch Huệ băng qua một cánh đồng đến một khu rừng rồi đi mải miết. Chúng hy vọng tìm thấy kho vàng nên quên cả mệt nhọc sợ hãi. Đi gần một tiếng đồng hồ, chúng đã trông thấy trước mặt lù lù một đống gạch đá khổng lồ ngổn ngang trên nền nhà rộng rãi bám đầy rêu cỏ. Đó là lâu đài của ông bá tước đã bỏ hoang vắng từ lâu.
Chúng hồi hộp, run rẩy, nắm chặt tay nhau để thêm can đảm. Chúng trèo qua đống gạch đá, dò dẫm từng bước một, nhìn thấy giữa nền nhà một lỗ hổng tròn bằng miệng giếng. Thiện Chí đoán dưới lỗ hổng là hầm rượu chứa đựng kho vàng, định bò xuống thám hiểm, nhưng ngó xuống thấy đen tối sâu thẳm, nên e ngại. Chúng không đem thang và dây thừng làm sao trụt xuống khỏi té bổ.
Đang chú mục nhìn vào hầm rượu, bỗng nhiên Thiện Chí nhảy hai chân lia lịa :
- Xem kìa, xem kìa ! Kho vàng đó Bạch Huệ thấy không ? Nó chiếu sáng loà một góc đó !
Bạch Huệ nhìn xuống hang, quả nhiên thấy một đống đen sì toả ánh sáng lấp lánh :
- Chúng ta đã tìm thấy vàng, nhưng làm cách nào đem vàng lên ?
- Không có thang, không có dây thừng, không thể nào trụt xuống hang. Chúng ta không đem đèn bấm, sợ rắn rít nguy hiểm lắm. Bây giờ đã mệt đừ, chúng ta hãy trở về. Tôi sẽ cầu cứu ba tôi giúp một tay khuân vác kho vàng.
- Nếu chúng ta rời khỏi nơi đây, kho vàng sẽ biến mất !
- Đã thấy đó rồi, biến mất sao được !
Chúng lại dắt tay nhau theo con đường cũ trở về lại lâu đài và về đến nhà vào lúc nửa đêm. Bạch Huệ tạm biệt Thiện Chí, lẹ làng leo lên cửa sổ vào phòng riêng. Sáng mai, vú già lên gác đánh thức Bạch Huệ, nhưng thấy em còn ngủ say sưa nên lại trở xuống.
Tại biệt thự, ông Thiện Căn cười rộ lên lúc nghe kể chuyện kho vàng vừa tìm thấy ở lâu đài ông bá tước. Nhưng Thiện Chí vẫn một mực khóc lóc năn nỉ cha mau đến lâu đài khuân vàng về, kẻo để lâu vàng sẽ biến mất. Ông thừa hiểu Thiện Chí nóng lòng kiếm tiền chuộc lâu đài cho Bạch Huệ, nên đã có trí tưởng tượng phong phú, nhưng ông cũng chìu lòng con, không nỡ làm tiêu tan ảo vọng của nó. Ông cùng Thiện Chí và gã đánh xe đem theo dây thừng, đèn bấm, lên xe độc mã tiến đến lâu đài ông bá tước.
Ban ngày con đường dẫn tới lâu đài bằng phẳng dễ đi, nên không đầy nửa tiếng đồng hồ, chiếc xe ông Thiện Căn đã đến nơi. Thiện Chí vội vàng xuống xe kéo ông đến miệng hầm mà nó nhất quyết có vàng ở dưới.
Ông Thiện Căn thòng sợi dây thừng để anh đánh xe trụt xuống hầm thám thính. Tay cầm đèn bấm, anh rọi khắp nơi lục lọi tìm kiếm.
Ông đứng trên hỏi xuống :
- Anh đã thấy gì chưa ?
Thiện Chí cũng nôn nức hỏi dồn :
- Chắc nhiều vàng lắm hả ?
- Gỗ mục nhiều vô số, chớ vàng không thấy đâu cả !
Gã đánh xe thấy vật gì nhúc nhích dưới đống gỗ, sợ rắn độc nên anh hoảng sợ níu dây thừng leo lên.
Ông Thiện Căn nhìn vẻ mặt thiểu não thất vọng của Thiện Chí cũng không nỡ la mắng :
- Trong đêm tối, gỗ mục toả ra ánh sáng con không hiểu sao ? Con đem trí tưởng tượng kỳ lạ để cho Bạch Huệ một niềm hy vọng hão huyền.
Thiện Chí yên lặng cúi đầu lên xe.
Hai tiếng đồng hồ sau, Thiện Chí đến tìm Bạch Huệ với vẻ mặt thiểu não.
Bạch Huệ đã đoán biết sự thật :
- Kho vàng đã biến mất từ đêm qua. Trong giấc ngủ, tôi đã chiêm bao như thế. Thiện Chí đừng buồn nữa ! Hôm nay chúng ta đừng dạo chơi trong rừng núi, chúng ta hãy du lịch một chốn xa xôi bằng trí tưởng tượng. Nai vàng đã không còn, vào rừng rú làm gì ! Chúng ta sẽ đến một cõi xa xăm không bờ bến, nơi đó không sầu muộn biệt ly !