Bức Mật Thư - Chương 5 & 6

Chương 05

CÔNG TÁC HIỂM NGHÈO

Thú thật với các anh chị em Tuổi Hoa, từ thuở bé cho đến bây giờ, chưa bao giờ tôi bị làm một công tác, tuy bề ngoài coi bộ rất thường, nhưng thực ra bên trong lại muôn phần hiểm nghèo đến như thế. Các bạn thử tưởng tượng xem, na cái thùng các-tông, gói giấy dầu, buộc dây gai kỹ càng, không nặng nhọc gì cho lắm, nhưng… lỡ một cái là… nguy hiểm hơn cả một thùng thuốc nổ đấy. Đây nhé : ví dụ, đặt bước chân đúng một chỗ đất bùn trơn trượt chẳng hạn, loạng choạng, thùng các-tông chao mạnh một cái. Đúng lúc đó, gặp người quen biết, đồng thời "ông Nghị" ở trong hộp tối bị lắc mạnh, đột ngột thét lên : "Hãy cắt cổ nó, hãy cắt cổ nó !…" Úi chao ! Lúc đó chắc tôi chỉ còn một nước là độn thổ.

Cũng may là từ nhà Mai-Điên băng qua bãi cỏ, tôi nhẹ nhàng cất bước, hai tay thận trọng bưng cái thùng đựng ông Nghị, chẳng hề chạm trán với một ai. Nhưng khi đi tới quãng đường tráng nhựa dài khoảng bốn trăm thước, sắp sửa rẽ vào đường tắt qua bãi tha ma để về khu Trí và tôi ở thì phải cẩn thận lắm mới được. Trong lòng chỉ nóng muốn về tới nhà Trí sớm phút nào hay phút ấy để xem anh và Khiết đi đường có gặp rắc rối gì không và đã về tới Phòng Thí Nghiệm chưa. Thực tình, chạm trán ai ở giữa đường tôi cũng không ngại, chỉ ngán nhất là gặp… má tôi.

Đi được một quãng kha khá, chợt ngẩng đầu lên, tôi hơi choáng người khi nhận ra là đã tới trước cửa nhà thầy Linh, Hiệu Trưởng trường tôi và Trí. Thầy Linh đứng ngay trên bậc hè dưới mái hiên cùng với một ông khách và một bà khách nữa. Nhác trông thấy tôi, thầy vui vẻ lên tiếng gọi :

- A ! Chiêm ! Đi đâu về thế, con ?

Hai chân tôi tự động bước nhanh trong khi thân mình hơi ngả, đầu cúi xuống thật thấp để chào thầy Hiệu Trưởng. Hai cánh tay tôi run lên như cặp lò-xo bị bật chốt. "Ông Nghị" đã cựa quậy lạch xạch trong thùng. Chưa hết run, tôi đã nghe thầy Linh gọi to :

- Này, Chiêm ! Đứng lại một chút coi ! Để thầy giới thiệu với ông bà đây đã nào !

Chết rồi ! Dù muốn dù không, tôi cũng phải dừng bước, đợi lệnh thầy. Ngay đến thầy giáo hướng dẫn, gần gũi với tụi tôi hàng ngày thân mật như thế, Trí và tôi còn chưa dám trái lệnh, huống hồ là thầy Hiệu trưởng.

Thầy Linh nhanh nhẹn bước tới, ông bà khách kèm sát hai bên :

- Trò Chiêm ! Thầy giới thiệu với con : đây là thầy Cần. Thầy Cần sẽ thay thế thầy Võ, giáo sư hướng dẫn của con, sau vụ nghỉ hè này đấy. Thầy Cần thích gặp mặt một vài trò thuộc lớp thầy sẽ phụ trách lắm đó.

Trong lòng tôi âm thầm kêu khổ. Trong trường hợp công tác hiểm nghèo thế này, gặp ai chẳng gặp lại chạm trán ngay với… giáo sư hướng dẫn, nhất là giáo sư mới đổi về, chưa biết hiền dữ ra sao thì thật đúng là… chết một cửa tử rồi còn gì.

Thầy Cần reo lên vui vẻ :

- Thế nào trò Chiêm ? Nghỉ hè vui chớ ! Sang năm cố học nghe !

Rồi thầy quay lại giới thiệu tên học trò mới với bà vợ. Bà Cần tươi cười, cất tiếng nói trong vắt :

- Trò Chiêm ôm cái thùng gì mà to thế ? Có nặng lắm không, hả ?

Thôi chết tôi rồi ! Chưa kịp sợ hãi đã thấy bà vợ giáo sư Cần nhẹ đưa bàn tay thon nhỏ trắng muốt lên xoa xoa trên mặt thùng giấy. Tim tôi đập như muốn vỡ lồng ngực luôn. Đôi mắt tôi trợn trừng, nếu lúc đó soi gương chắc phải là ngộ lắm. Thấy vậy, người thiếu phụ trẻ đẹp lại bật cười như nắc nẻ :

- Coi ! Coi ! Thùng đựng gì thế trò Chiêm ?… Chắc có cái gì bí mật lắm nên trò mới nhẹ nâng như nâng trứng ấy hả … ? Hí, hí !

Giật nẩy người, tôi thối lui một bước cho chiếc thùng đựng "ông Nghị" khỏi đụng tay bà. Nếu không nó "nổ" một cái thì nguy. Miệng tôi lắp bắp :

- Dạ, thưa… thưa… đây là một cái máy bay đó thôi ạ !

Trong lúc cuống quýt, tôi trả lời đại như thế mà chẳng kịp suy nghĩ. Giờ đây xét lại thì câu trả lời đó kể cũng không sai mấy. Và tôi tìm cách tháo lui thật nhanh :

- Thưa hai thầy và bà cho con xin phép về kẻo ở nhà chờ cơm.

Thầy Cần lại cười vui :

- Ừ, ừ ! Thôi trò về đi ! Trò Chiêm ngoan lắm ! Được biết học trò tương lai của lớp thầy, thầy vui lắm. Thôi về ăn cơm đi. Tốt lắm. Hà ! hà !

- Kính hai thầy ! Kính bà !

Và tôi quay ngoắt đi, bước thật nhanh. Vẳng theo gió, tiếng bà Cần léo nhéo :

- Học trò của các anh coi dễ thương quá !

Rồi tiếng thầy hiệu trưởng :

- Anh chị sẽ thấy học trò tôi tại khu Ba Chuông này, hầu hết đều ngoan ngoãn học giỏi và làm việc chăm chỉ lắm…

Ngay lúc đó, tôi vấp mũi giầy trúng một cục đá trên vỉa hè. Lập tức ông Nghị hét toáng lên :

- Thằng cha đó có thuốc lá không đấy hả ?

Chẳng hiểu thầy Linh, thầy Cần và bà vợ có nghe tiếng câu nói quái ác đó không? Và nếu nghe được, các thầy, cô sẽ nghĩ sao ? Tôi hoảng hồn chẳng dám nghĩ ngợi lôi thôi gì nữa, cứ thế co cẳng cắm đầu chạy một mạch không dám quay cổ lại.

Rõ khổ ! Vừa tránh khỏi vỏ dưa lại gặp ngay vỏ dừa. Đúng lúc sắp bước vào lối cửa sau nhà Trí, tôi bỗng đụng đầu ngay với Tâm Sứt. Chợt thấy bóng tôi, thằng nỡm này đã gọi ầm lên :

- Ê hê ! Chiêm ! Chiêm !

Không muốn để Tâm Sứt nghi ngờ rắc rối gì, tôi bắt buộc phải dừng chân. Tâm Sứt nhìn tôi trừng trừng, giọng nói của nó ngạc nhiên :

- Ơ, lạ quá ! Sao mày đã lại ở đây rồi ? Rõ ràng tao vừa thấy mày đi với thằng Trí phía cửa trước nhà nó mà !

Thôi nguy quá ! Thằng Tâm Sứt chắc hẳn đã trông thấy Khiết đi với Trí, và nó đã lầm Khiết là tôi rồi. Tôi phải giả bộ thản nhiên :

- Ờ đúng rồi ! Tao vừa đi với Trí, xong đi vòng lại phía cổng sau này đây ! Tao chạy nhanh ghê lắm ! Bộ mày không biết sao ?

Tâm Sứt gật gù nhưng có vẻ nghi ngờ :

- À thế đấy ! Ghê nhỉ ! Mày chạy nhanh hơn cả xe đạp của tao kia à ! Tao đạp xe đâu có dở, hả Chiêm ? Mà mày lại còn có cả thì giờ thay quần áo khác nữa chứ !

Kể Tâm sứt cũng có óc nhận xét khá tinh vi. Bí quá hóa liều, tôi liền "hù" nó một chầu để đánh trống lấp phứa đi :

- Thế đã ăn thua gì ! Tao còn làm được nhiều cái "ác" hơn nhiều. Không "bết" như mày đâu !

Dứt lời, tôi quay đi thật nhanh để kệ Tâm Sứt chưng hửng đứng ngây người, mồm há hốc, đôi mắt trợn tròn bên cạnh chiếc xe đạp của nó. Dọa cho nó bị một phen điếng người, tôi khoái lắm. Cái thằng Sứt này là rắc rối ghê hồn.

Mấy phút sau, tôi đã về tới nhà kho để dụng cụ làm vườn nhà Trí. Anh và Khiết đã về tới nơi trước tôi có tới 10 phút. Khiết đưa mắt quan sát gian Phòng Thí Nghiệm. Vẻ khâm phục hiện rõ trên nét mặt. "Sếp" tôi đang hân hoan chỉ dẫn cho Khiết các dụng cụ khoa học thiết trí trong đó thì chuông điện thoại reo vang. Trí nhấc ống nghe trong khi tôi quay ra giúp Khiết tháo giây mở thùng đem ông Nghị két Phi Châu ra.

Tiếng người nói trong ống nghe của Trí vang lên lồng lộng :

- Chính (1) đấy hả ? Đi đâu mà mất tăm mất hút mãi bây giờ mới mò về thế ?

Nguy quá ! Đúng bà Năm Rằng, vị nữ quản gia rất khó tính của nhà Trí. "Sếp" CT1 láy mắt nhìn tôi :

- Dạ, dạ, cháu đi chơi với Chiêm chút xíu đó mà, dì Năm !

Giọng nói của vị nữ tướng này luôn luôn khiến tôi nổi da gà :

- Á, à ! Đi chơi với Chiêm hả ? Thế Chiêm cũng ở đó hả ? Bảo nó về ngay ! Đằng nhà đang đợi về ăn cơm đó ! Liệu mà về mau lên ! Còn Chính cũng xuống ăn cơm đi chứ! Đợi cái gì nữa ? Cơm dọn có tới hơn nửa giờ rồi đó !… Hứ ! Không hiểu cháu làm cái gì mà suốt ngày cứ chúi đầu ở trên đó chứ ? Thế nào cũng có ngày…

- Câm mồm !

Chết rồi ! Đúng lúc đó, ông Nghị được tôi và Khiết đem từ trong thùng ra, ngoác mỏ thét lên chát chúa hai tiếng : "Câm mồm". Trí và tôi tái mặt, miệng há hốc, hai mắt trợn tròn vo đứng ngây như tượng gỗ. Không khí trong phòng Thí Nghiệm của hãng Thám Tử tư CT2 im lặng nặng nề. Khiết thấy hai đứa tôi trong tình trạng như vậy cũng ngơ ngẩn ngạc nhiên không dám cả thở mạnh. Nhưng chỉ mấy giây sau, "sếp" tôi đã chống chế được ngay. Anh giả bộ :

- Dạ, dạ ! Thưa dì Năm bảo gì cháu ạ ! Cháu có dám nói gì đâu mà dì Năm la "câm mồm" ? Dạ, thưa dì Năm cháu… cháu… vâng ! Cháu xuống ăn cơm liền đây ạ !

Tiếng bà nữ quản gia :

- Ủa ! Dì có nói "câm mồm" hồi nào đâu ?… Sao kỳ vậy ?

"Sếp" tôi miệng lanh lắm :

- Dạ, thưa dì Năm ! Cháu nghe rõ ràng dì Năm quát bảo cháu "câm mồm" mà dì Năm !

Qua ống nghe của Trí, không nghe tiếng bà Năm Rằng nói gì nữa, nhưng tiếng thở hổn hển của bà nghe rõ rệt như ống bễ lò rèn. Gần phút sau mới nghe bà… rít lên giận dữ :

- Chính dì cũng nghe tiếng ai quát : "câm mồm" và dì tưởng là cháu nói đó chớ !

"Sếp" tôi kêu toáng lên :

- Dạ đâu có, đâu có ! Dì Năm ! Có bao giờ cháu lại dám nói hỗn với dì Năm như vậy đâu. Ngay cả khi ngủ mê, cháu còn không dám nói vậy huống hồ… là lúc thức, phải không dì Năm ?

Tiếng bà Năm lẩm bẩm :

- À, nếu vậy thì lạ quá nhỉ ? Thật tình dì cũng không còn hiểu vì sao nữa chứ !

"Sếp" tôi liến láu giải thích :

- Vâng ! Nếu thế thì chắc ở đâu họ cắm giây lộn rồi đó dì Năm. Để cháu sẽ đi coi lại coi. Thôi để cháu báo cho Chiêm biết nhà đang chờ cơm nghe dì Năm. Và cháu xuống liền đây dì Năm à !

Dứt lời, Trí gác ống nghe. Anh đưa mắt nháy chúng tôi, mỉm cười tinh quái :

- Thoát hiểm rồi, may quá ! Cứ biết là thoát hiểm được bữa nay cái đã. Rồi ra hậu xét ! Bà dì tôi chưa chịu để yên chuyện này đâu. Thế nào bà cũng điều tra tìm hiểu cho coi. Thôi được, cứ biết thế đã. Có gì sẽ tính sau. Thôi, Chiêm ! Bây giờ thay quần áo lẹ đi rồi về kẻo nhà đợi cơm. Mình cũng phải xuống ăn cơm đây. Khiết chịu khó ở trong này chờ tụi tôi. Đừng buồn nghe. Tình thế bắt buộc chúng ta phải như vậy, nghe Khiết ! Tụi này ăn lẹ lắm. Ăn xong, sẽ đem đồ ăn tới cho Khiết ! Trong khi chờ đợi, Khiết thay quần áo rồi nằm nghỉ đi. Nhớ cho ông Nghị mấy hạt gạo trộn trứng nghe !

Trí và tôi trèo xuống. Hai đứa dừng lại trước cửa nhà kho. Trí bảo tôi :

- Tôi muốn lục tìm trong cái rương và cái ba-lô của Khiết. Bức mật thư chắc chỉ cất giấu trong mớ đồ vặt vãnh của ba má Khiết mà thôi chứ chẳng ở đâu xa, Chiêm phải giúp mình một tay mới được. Ăn cơm xong, đến liền nghe !

Khi về đến nhà, một sự việc xẩy ra khiến tôi khẽ giật mình lo ngại cho chương trình hành động của tôi và Trí. Nguyên do là ba má tôi sửa soạn đi Vũng Tàu thăm chị An hiện đang nghỉ mát tại trại Hè ngoài đó. Nếu là ngày thường, được đi Cấp với ba má, tôi đã sướng phát điên lên. Nhưng trong trường hợp này, tôi chẳng muốn đi chút nào. Việc điều tra của hãng còn bừa ra đó. Tôi liền viện cớ phải đi đưa báo và kiếm thêm khách hàng mua báo tháng để dự cuộc thi ăn giải thưởng của Tòa Soạn. Rốt cuộc, ba má tôi đã thông cảm, cho phép tôi được ở lại khỏi phải đi, nhưng với điều kiện là tôi phải qua ở bên nhà bà Bích Tâm trong hai ngày ba má tôi đi vắng.

Má tôi quay số điện thoại nói với má Trí về chuyện xin gởi tôi hai ngày, thời gian các cụ đi vắng. Bà Bích Trâm vui vẻ nhận lời ngay.

Ăn cơm xong, tôi sốt sắng liệng bộ Pi-da-ma vào cái sắc vải dầy, bàn chải, thuốc đánh răng. Quay ra chào ba má xong, tôi lướt nhanh xuống bếp, quơ lẹ mấy hộp cá, thịt, một miếng "bơ" lớn và 5 quả trứng gà.

Khi đến nơi, đã thấy Trí trong Phòng Thí Nghiệm. Anh chỉ ngẩng lên chút xíu gật đầu chào tôi rồi lại cúi ngay xuống : anh đang lúi húi đóng một cái chuồng "hãm thanh" cho ông Nghị. Tôi im lặng, tôn trọng sự làm việc của anh. Chuồng đóng xong, tôi giúp Khiết "bưng" ông Nghị vào nhà mới.

Trí quay nhìn Khiết :

- Nào, bây giờ Khiết cho tôi và vị phụ tá đây lục soát cái rương quý của Khiết, cái rương của ba má để lại cho Khiết đó !

Chú bé mồ côi sốt sắng gật đầu :

- Ừ, lục soát đi ! Phải đấy !… À, nhưng mà Bình-Be và tôi cũng đã lục tìm kỹ lắm, thọc cả que sắt vào từng khe rương, móc máy từng lỗ khóa, nẹp đồng, mà cũng không thấy gì hết mà.

- Tụi này muốn lục soát một lần nữa, may ra… Vậy Khiết bằng lòng không ?

- Bằng lòng chứ ! Và mình chỉ cầu mong Trí và Chiêm tìm ra được cái giấy quý hóa ấy của ba mình. Có cái đó mới mong chống lại tên Đỗ-văn-Tể được.

Từ lúc về tới Phòng Thí Nghiệm cho đến bây giờ thấy Khiết vui mừng đã tưởng nó quên đi niềm sợ hãi âu lo. Giờ phút này, nhắc đến tên Đồ-Tể sắc mặt Khiết lại lộ vẻ kinh hoàng y như lúc bị tên Dậu ghẻ bắt cóc hụt vậy.

Trí nhẹ tay kéo cái rương ra giữa nhà. Cái rương không lớn lắm, nhỏ xinh là đằng khác, nhưng chỗ bụng phình ra, nẹp và 8 đầu góc bịt đồng dầy sáng loáng coi bộ rất chắc chắn. Hai quai, chỗ tay xách cũng làm bằng đồng nhẵn nhụi. Ngay chính giữa quai xách là một cục tròn bằng đồng. Tôi cúi xuống nhìn kỹ : cục đồng đó chạm trổ thành hình một cái mặt, một cái mặt chú hề trong gánh xiếc, miệng rộng cười toe toét.

Tiếng nhỏ Khiết :

- Phù hiệu gánh xiếc của ba tôi đấy ! Ba tôi thuê thợ bạc làm một lô mặt hề đó lắp vào mọi thứ đồ dùng của ông : khuy áo, đầu "ba toong", ổ khóa giây lưng, ổ khóa va li, đủ thứ…, cái gì cũng lắp cái đầu chú hề riễu vào. Mặt chú Bình-Be đấy !

Đúng như lời Khiết nói. Các đồ lặt vặt trong rương, cái nào cái nấy đều có mặt hề riễu Bình Be cả. Sau khi lục soát hơn một tiếng đồng hồ, tôi và Trí đã mệt nhoài. Kết quả: không thấy bức mật thư đâu cả.

Khiết nét mặt buồn rầu, đặt bước đi đi lại lại trong gian phòng thí nghiệm. Thấy Trí phủi tay đứng lên, nó sán lại gần :

- Sao, Trí ? Không thấy gì sao ?

"Sếp" tôi lắc đầu. Nhỏ Khiết quay nhanh mặt ngó ra chỗ khác. Một lúc sau, nó mới trầm trầm cất tiếng :

- Giá tôi đừng bỏ chú Bình Be và thím bà Chúa thì phải. Tội ghê ! Tên Đỗ-văn-Tể mò đến mà không thấy tôi ở đó, chắc thế nào nó cũng tra khảo chú thím ấy thì tội nghiệp quá đi. Thằng đó ác lắm. Nó dám đánh đập hành hạ vợ chồng chú cho tới khi khai ra chỗ trốn ẩn của tôi mới nghe đó.

Trí :

- Đừng lo chuyện đó nghe Khiết. Tôi dám chắc là Bình-Be và Bà Chúa đủ sức chống lại tụi Đồ Tể mà.

- … Ồ, kìa ! Hơn 4 giờ chiều rồi kìa, CT3 !

Tôi vội vàng :

- À, vâng, "sếp" !

Trí tiếp :

- Đến giờ đi đưa báo rồi đó, CT3 ! Và chớ quên vị thân chủ mới nhất của CT3 đó nghe !

- Yên chí ! Quên sao được, sếp !

- Tôi đã viết xong bản tin tức để CT3 thông báo cho ông Bình-Be rồi đây : "Tàu thủy đã tới bờ, không bị sóng gió gì cả". Đó, như vậy lỡ ra tờ báo có sa vào tay địch, tụi chúng cũng không thể khám phá ra chỗ trốn của Khiết đâu, nghe !

Sa vào tay địch ! "Sếp" tôi sao cứ hay có cái lối nói nghe mà phát ớn.

Trí lại nói tiếp :

- CT3 ! Viết ngay bản tin tức đó vào trang 2 của tờ báo. Khi đến nơi, đặt ngay nơi khe cửa nhà Bình-Be ấy, nghe ! Và nhớ lật tấm sơ dừa chùi chân xem có gì ở dưới không? Thôi lên đường đi ! Tụi này nóng ruột chờ tin lắm rồi đây ! Đi, đi… và chúc may mắn nhé !

Đứng dậy, sửa soạn bước ra mà lòng tôi se lại. Trước hết, tôi rẽ qua về nhà lấy xe đạp rồi đạp lên tòa soạn Chuông Vàng lãnh phần báo vẫn dành riêng cho tôi. Ông quản lý nhận tờ cam kết mua báo tháng do ông Bình-Be ghi hồi sớm mai, điền vào sổ lớn và khen tôi hết lời.

Tôi lại đạp xe đi đưa báo một vòng, phóng lên cả Thủ Đức rồi trước khi đạp về, tôi vòng lên nhà Mai-Điên. Xe bon bon trên con đường vắng dẫn tới chỗ của ông Bình-Be thì đồng hồ tay của tôi đã chỉ gần 6 giờ chiều. Con đường này, đối với tôi đã có vẻ quen thuộc lắm. Trước mặt và đằng sau cũng như hai bên vắng hoe, không một bóng người. Tôi đàng hoàng giở rộng tờ báo, lấy bút chì ghi lẹ vào trang 2 bản thông tin bí mật của xếp CT1. Bốn bên vẫn im lặng… im lặng… một cách khác thường khiến trong lòng tôi cảm thấy hơi lo. Đột nhiên, có tiếng chó sủa inh ỏi. Đúng tiếng sủa của con Lát-Si, tiếng sủa càng dữ bao nhiêu tôi lại càng thấy yên tâm bấy nhiêu. Xuống xe, tôi tiến đến, lẹ làng đặt tờ báo, luồn một nửa vào khe cửa, kế bên tấm sơ dừa. Quái ! Sao chẳng thấy bóng dáng ông Bình-Be và bà Chúa đâu cả ? Đặt tờ báo xong, tiện tay tôi nhấc ngay tấm sơ dừa: một tấm giấy trắng nhỏ gấp tư nằm ngoan ngoãn trên mặt đất.

Chợt cảm thấy toàn thân nổi da gà, tôi quơ tấm giấy thật lẹ. Một tiếng động từ phía trong nhà khẽ vang lên khiến tôi giật nẩy người. Ngẩng phắt đầu lên : khuôn mặt hề riễu của ông Bình-Be xuất hiện nơi một ô cửa sổ tầng nhà dưới. Ông Bình-Be tươi cười, giơ một tay ra hiệu cho tôi biết là mọi sự bình yên cả. Trong lòng nhẹ nhõm, tôi nháy mắt cho ông hề tỏ ý đã hiểu rồi dắt xe đạp lui ra. Thận trọng đề phòng vốn là đức tính chung của nhân viên hãng CT2. Dắt xe đạp đi bộ một quãng xa, tôi mới mở bản tin moi từ dưới tấm sơ dừa ra, liếc mắt lẩm nhẩm đọc : "Không một khách lạ viếng thăm. Tình hình yên tỉnh".

Vững bụng, tôi nhẩy phóc lên yên xe, cắm đầu đạp. Đột nhiên, quang cảnh trước mắt khiến trống ngực tôi đập thình thịch. Một chiếc xe hơi từ phía Ba Chuông lao tới. Chiếc xe hơi màu xanh, mui trần, chạy thật nhanh, hốt lên một đám bụi mù. Cẩn thận, tôi cho xe đạp ôm sát lề bên phải. Nhưng khi đến gần chiếc xe bốn bánh chạy chậm hẳn lại. Nhờ xe không mui, tôi trông rõ người ngồi bên trong. Ồ lạ! hai người ngồi xe cũng nhìn tôi đăm đăm. Người lái xe mập ù, mặt tròn vành vạnh, mặc một cái áo sơ mi màu vàng cam, đầu đội mũ phớt trắng. A! cái ông này, lần đầu tiên tôi mới thấy, chẳng biết ông ta là ai.

Người ngồi bên cạnh ông ta vóc dáng gầy ốm tong teo, mặt mỏng dài và cong như cái lưỡi cầy. Không nhìn rõ mặt nên chẳng rõ là người nào, nhưng bộ áo quần gã mặc trên người có vẻ quen lắm: sơ mi đen, mũ đen... Thôi đúng rồi! Tên Dậu ghẻ!...

Sau khi lướt qua trước mặt tôi, chiếc xe hơi lại gia tăng tốc lực phóng vút đi. Tôi quay mặt lại ngó theo. Quả nhiên tôi đoán đúng: chiếc xe tới gần chỗ rẽ liền thắng gấp, bánh rít lên ken két và mũi xe từ từ... hướng vào phía nhà Mai-Điên.

______________________________________________________

[1] người nhà Trí vẫn gọi anh bằng tên thật : Chính. (coi Đồng Tiền Giả)

Chương 06

ĐỐM ĐÈN BÁO ĐỘNG

Tin tức quan trọng do tôi đem về đã khiến Trí và Khiết ngây người bối rối. Nhỏ Khiết xoắn hai bàn tay vào nhau :

- Trời ơi! Biết thế tôi đừng bỏ mặc chú Bình-Be và thím bà Chúa thì có phải chú thím ấy đỡ lo không.

Trí cũng băn khoăn không kém. Anh đưa mắt ngó Khiết đăm đăm, lo lắng vô cùng khi thấy thằng nhỏ hoang mang đến mức đó. Một lúc sau, không chịu đựng nổi nữa, Khiết nói gần như khóc :

- Thôi! Tôi về với chú Bình-Be nghe!

Trí đứng phắt lên :

- Điên à? Khiết điên rồi hả Khiết? Khiết bỏ về là mọi sự hỏng hết đấy! Tụi này cần phải được rảnh tay để hành động chứ! Mà muốn được rảnh tay thì Khiết phải ở một chỗ an toàn, tức là ở đây, Khiết thấy rõ chưa? Chúng mình, giờ đây chỉ còn mỗi cách cuối cùng là tìm bằng được bức mật thư của ba Khiết mới mong tố cáo các việc làm ám muội bất nhân của tên Tể được. Đến mai, tôi sẽ tiếp tục lục soát trong cái rương này, và chúng mình phải chịu khó ở yên trong nhà chờ đến chiều coi tin tức của chú Bình-Be và bà Chúa ra sao đã. Bây giờ đừng có dại mà lang bang mò đến nhà Mai Điên. Nguy lắm! Để Khiết phải lo lắng hoang mang, tôi cũng buồn quá, nhưng không thể làm gì khác hơn được. Cứ bình tĩnh, nằm nghỉ đi, nghe Khiết!

Qua điện thoại, trên bàn làm việc của Trí lại có tiếng của ông Bích-Tâm gọi chúng tôi xuống ăn cơm. Sau khi căn dặn Khiết đừng có vén "ri-đô", Trí quay ra trèo xuống. Tôi cũng vội vã nối gót anh.

Bữa cơm thật ngon, lại có bánh bông lan phết kem ăn tráng miệng nữa. Phải công nhận bà Năm Rằng tính nết tuy có phần nào rắc rối, nhưng tài làm bếp của bà thì đúng là nhất rồi.

Ăn xong, Trí và tôi chỉ nóng ruột lên phòng Thí Nghiệm chơi với Khiết cho nó đỡ buồn. Rủi quá, bữa đó không hiểu sao, ông Bích-Tâm xưa nay vẫn nổi tiếng là chỉ mở miệng nói những khi nào cần thiết, lại hứng trí kể chuyện "ơn đền oán trả" trong tác phẩm trứ danh "Kích-Tôn-Sơn Bá Tước". Câu chuyện hay thật, nhưng hai anh em chẳng còn tâm trí nào để theo dõi. Liếc nhìn đồng hồ tay: tám giờ tối. Bỗng chuông điện thoại reo vang, may quá! Ông Bích-Tâm đứng dậy tới bên bàn, nhấc ống nghe. Trí liếc nhanh mắt cho tôi. Hai anh em quay lại xin phép má Trí để lên phòng Thí Nghiệm.

- Được rồi! Má cho phép. Hai anh em đi đi. Nhưng liệu mà đi ngủ sớm đó, nghe. Các con có vẻ mệt mỏi lắm rồi đấy!

Trí và tôi mừng rỡ quay ra. Trí nói to :

- Ê, Chiêm! Ra ngoài chờ tôi một lát. Tôi uống miếng nước đã.

Và hạ thấp giọng, anh tiếp :

- Chờ tôi tại cửa sổ dưới bếp!

Tôi liếc nhanh mắt dòm chừng bà Năm Rằng. Bà Nữ tướng quản gia này đang ngồi nhận xét, phê bình với má Trí các việc làm kỳ quái của Trí tại gian gác tầng trên gian nhà kho. Bà Bích-Tâm im lặng ngồi nghe, miệng mỉm cười âu yếm. Từ lâu, bà đã biết cái tật kỹ càng khó tính nhưng lại rất chu đáo trung thành của vị nữ quản gia này. Nụ cười trìu mến khoan dung của má Trí khiến chúng tôi yên dạ.

Nhanh như con sóc, nhẩy nhẹ mấy bước, tôi đã tới bên cửa sổ nhà bếp. Chẳng hiểu Trí bảo tôi đứng chờ ở đó làm gì. Mãi sau mới hiểu ý định của anh. Thì ra anh nhờ tôi tiếp một tay trong việc lấy đồ ăn cho Khiết. Trí chuyền qua ô cửa sổ và tôi đỡ ngay lấy một chiếc đĩa tây trên có nửa chiếc bánh bông lan và một chiếc bánh kem ngọt lừ còn nguyên cả cái.

Tiếng Trí thì thầm trong bóng tối :

- Cầm chắc nghe, Chiêm! Mau lên!

Dứt lời, đã thấy anh nhẩy nhẹ qua cửa sổ sáp tới bên tôi.

Khiết đói bụng nên ăn ngon miệng lắm. Ông Nghị cũng đậu trên cành "ngồi" dự tiệc. Ông ngốn từng miếng bánh bông lan bự, cái đầu nghiêng ngả, đôi mắt nhấp nháy tinh ranh không để đâu hết. Chưa hết! Nuốt xong một phần bánh to, "ông" lại ngoắc mỏ đòi "hút xì gà". Vẫn cái giọng khàn khàn như người ngạt mũi.

Trí loay hoay với cái rương đồ của Khiết. Anh nhẹ tay nhấc ra từng món đưa lên mắt nhận xét thật kỹ, mẩu giây kẽm trên tay không ngớt cậy từng cái khe. Kết quả vẫn là con số "không" buồn nản.

Vừa đậy xong nắp rương, chợt nghe chuông điện thoaị reo. Lại tiếng the thé của bà Năm gọi ra lệnh cho hai anh em, Trí và tôi mau xuống đi ngủ.

Trí :

- Vâng, vâng, dì năm, chúng cháu xuống liền dây!

Tưởng thế là yên chuyện, nào ngờ, tiếng bà nữ tướng nghe còn khiếp hơn :

- Này, Chính! Còn nửa cái bánh bông lan và nguyên cái bánh kem dì Năm để trong trạn đâu? Hay đứa nào đã ăn rồi thì cũng nói cho dì biết chứ!

- Dạ, đâu có, dì Năm!

- A, thế thì lạ quá nhỉ?... Nguy quá! Vậy có lẽ mấy thằng ranh nào bên hàng xóm tinh nghịch chạy qua vườn, lẻn vào lấy ăn đây! Hừ! Cái này... cái này, phải báo cho Cảnh Sát để họ truy cho ra mới được. Tức quá!

Trí nháy mắt cho Khiết:

- Thôi mà, dì Năm! Chắc có tay nào đói bụng, kiến bò dữ quá, vớ được bánh của dì Năm đang ngon lành đánh chén đó dì Năm. Thôi, có đáng gì, dì Năm bỏ qua đi nghe, dì Năm !

Dứt lời anh gác ống nghe, rồi nhìn Khiết :

- Thôi, tụi này phải xuống đi ngủ, nghe Khiết ! Và Khiết ăn xong cũng liệu đi nằm cho khỏe. Cái giường tốt và êm lắm đó !

Khiết ngơ ngác nhìn quanh, miệng lẩm bẩm :

- Giường ? Giường nào nhỉ ? Có thấy cái giường nào đâu kìa ?

Không nói một tiếng, Trí tiến lại bàn giấy anh vẫn ngồi làm việc hàng ngày, đưa tay xoay xoay một cái núm gì trên mặt bàn mà chúng tôi cứ đinh đinh là lọ mực. Trước hai cặp mắt ngạc nhiên quá sức của Khiết và của tôi, một mảng vách gỗ trong phòng Thí Nghiệm chợt nhúc nhích rồi nhẹ nhàng lật xuống, hai bên có hai sợi giây cao su lớn kềm chắc chắn. Một lỗ hổng lộ ra trông như cái đáy hộp khổng lồ có nệm mút bọc vải trắng tinh. Đúng là một chiếc giường con, kiểu giường ngủ xinh xinh ta thường thấy trên các toa xe lửa hạng nhì và hạng nhất chạy đường Saigon-Đalat.

Trí mỉm cười nhìn Khiết, tay không ngớt ấn và xoay mấy cái nút nhỏ trên mặt bàn :

- Khiết có thể yên trí ! Ngoài cái giường nằm rất êm kia, còn cả một hệ thống báo động rất tối tân để đề phòng kẻ gian nữa. Hệ thống báo động này hoạt động nhờ mấy đường giây kẽm nhỏ như sợi tóc tôi bố trí sẵn chung quanh căn kho dưới nhà. Địch lẻn vào, vô tình chạm đến những đường giây thép bí mật đó sẽ tác động vào một cái chuông nhỏ ở đầu giường Khiết, đồng thời khiến bóng đèn con trên mặt bàn này nhấp nháy báo động liên hồi. Khiết đã hiểu chưa nào ?

Tiếng nói chú bé mồ côi vẫn còn run :

- Hiểu... hiểu rồi ! Nhưng liệu tên Đồ-Tể đã dò ra chỗ trốn của tôi chưa và có thể y mò tới đây đêm nay không ?

Trí thẳng thắn nói ngay. Và lời nói thẳng của anh, trấn an Khiết đâu chẳng thấy, trái hẳn thế, càng khiến Khiết toát mồ hôi lạnh :

- Cũng chưa biết được. Hãng của tụi này thường hay gặp nhiều chuyện bất ngờ, tùy cơ ứng biến, lắm phen nên cũng đã quen rồi. Cần dặn Khiết một điều là nếu có dấu hiệu báo nguy thì chớ có hoảng hốt, nằm đâu cứ việc nằm đó, yên trí. Tôi cũng có một cái đèn báo động trên phòng ngủ nhà trên. Có động dụng gì là tôi biết ngay, chạy xuống với Khiết liền.

Trí dứt lời, cùng tôi khép cửa gian phòng Thí Nghiệm xong, leo cầu thang, trèo xuống, để Khiết ở lại. Sắc diện nó lộ vẻ lo lắng trông tội nghiệp vô cùng.

-Không sao đâu, CT3 ! Mệt quá rồi cậu chàng cũng phải lăn ra ngủ khò mà, lo gì !

Liếc nhìn quanh, tôi thấy nét mặt "xếp" vẫn vô cùng bình tĩnh thản nhiên. Vào tới phòng ngủ, sau khi kéo kín màn gió, anh cắm giây điện nối liền hệ thống báo động dưới phòng Thí Nghiệm truyền vào đằng sau cái radio cũ nhưng rất xinh đặt trên bàn ngủ.

Trí kéo chăn lên tận cổ :

- Thôi được ! Có sự gì xẩy ra tại nhà Mai Điên, ngày mai sẽ biết, CT3 ! Mình mong sao ngày mai, khi đến nhà Mai Điên đưa báo, CT3 không đến nỗi bị gặp tại đó... toàn xác chết nghe !

Dứt lời, Trí vói tay tắt đèn.

Sáng hôm sau, Trí lại tiếp tục lục lọi trong cái rương đồ của Khiết. Nhưng coi bộ cũng không có gì hứa hẹn cho lắm. Anh lại cẩn thận hỏi ý kiến Khiết trước khi đục mấy lỗ, trước khi soi thủng hai quai tay cầm và tháo rời hẳn cái đầu hề riễu ra. Kết quả : hai quai xách rỗng không, cái đầu hề riễu chỉ là một cục đồng tròn đặc, nặng chình chịch. Không một kẽ hở, không một khe nẹp nào khiến có thể hy vọng là nơi cất dấu bức thư bí mật được.

Ngoảnh đi ngoảnh lại, trời đã xế chiều, tới giờ tôi đưa báo. Năm giờ rưỡi, ở Thủ Đức về, xe đạp bon thẳng hướng nhà Mai-Điên, trong lòng tôi khắc khoải chẳng yên, chỉ lo đã xẩy ra sự gì ghê gớm. Bốn bề vắng vẻ quạnh hiu. Trong trang hai tờ báo tôi đã ghi sẵn bản tin tức để thông báo cho ông Bình-Be : "Nhiệt độ bình thường. Không sốt".

Vừa xuống xe đạp, tôi đã cảm thấy ngay có một đám lông gì mềm mềm ướt sát cổ chân. Thì ra là con chó Lát-Si. Ngay lúc đó, lại nghe tiếng người gọi lớn :

- Lát-Si. Về đây ! Về !

Bóng dáng ai như ông Bình-Be xuất hiện tại một góc sân nhà. Có phải ông Bình-Be đó không ? Ồ, sao trông ông lạ quá khiến tôi không nhận ra được nữa chứ. Một miếng băng trắng lù lù nằm che kín gần hết cái trán rộng, một con mắt sưng húp đỏ au. Ông Bình-Be, nhìn kỹ thì đúng là ông thật rồi, hất đầu ra hiệu cho tôi. Đoạn cúi nhanh xuống bồng con Lát-Si lên tay, ông quay quả bước vào trong nhà mất hút. Trong đầu óc sôi sục của tôi, nổi lên nhiều câu hỏi không lời giải đáp.

Tên Đồ-Tể đã mò tới đây ? Và cả tên Dậu ghẻ ? Liệng tờ nhật báo Chuông Vàng xuống bậc cửa, tôi đưa tay lật nhanh tấm xơ dừa chùi chân. Bản tin tức đã ngoan ngoãn nằm đó từ bao giờ. Quay ra, quơ tay dắt xe đạp, tôi rảo bước tiến ra ngoài lối đi. Một tiếng động khẽ từ phía trong nhà khiến tôi quay nhanh đầu ngó lại. Bà chúa Huyền-Trân tha thuớt lướt qua ô cửa sổ. Có thế chứ ! May quá, hai vợ chồng ông Hề chưa người nào bị hại cả.

Nhảy phóc lên xe, đạp vun vút. Mấy phút sau, những căn nhà ở đầu khu Ba Chuông đã hiện ra. Thở một hơi dài thoải mái, tôi giở bản tin tức do ông Bình-Be viết :

"Khách đã tới thăm - Chúng tôi đã chơi trò hú tim - Khách không tìm ra - Bỏ về thất vọng - Họ sẽ tới nữa".

Vậy là rõ ràng quá rồi. Khỏi cần Trí giảng nghĩa, Khiết và tôi cũng đã hiểu ông Bình-Be cấp báo tin tức gì rồi. Khiết mặt buồn xo, lẩm bẩm :

- Không lẽ tụi mình cứ ngồi chết dí ở đây, không cựa quậy gì hết sao ? Hai tên Đồ-Tể, Dậu ghẻ thế nào cũng còn trở lại. Và lần này nhất định tụi nó phải tra khảo chú Bình-Be và thím "bà Chúa" ghê gớm lắm chứ chẳng không đâu. Nguy quá !

Trí gật đầu :

- Đúng như thế ! Cho nên, việc cần gấp là phải tìm ra bằng được bức mật thư của ba Khiết để lại. Tôi tìm kỹ lắm rồi đó. Chắc chắn không có trong chiếc rương đó đâu. Chúng mình thử đoán coi nó ở đâu đây chứ ?

Không ai có ý kiến gì. Trí cũng lặng im, cau cau vầng trán rộng. Tôi biết anh lại đang suy nghĩ, tìm cách phân tích và tổng hợp, phương pháp lý luận anh vẫn thường dùng trong những trường hợp khó khăn. Thế rồi, suốt buổi chiều hôm đó, ba đứa tôi đều trầm ngâm suy tưởng. Không khí có vẻ nặng nề khó thở vô cùng. Do đó, đến giờ đi ngủ, tôi khoan thai thở ra như người trút được một gánh nặng.

Ngả lưng xuống giường, tôi díp mắt chìm vào một giấc ngủ thật ngon... Đột nhiên, trong cơn mơ, tôi thấy rõ ràng bị một đàn ong đông lắm đuổi đốt. Muôn ngàn cánh ong vỗ vù vù, vè vè, khiến tôi giật mình mở mắt... Trên bàn đêm của Trí, chiếc radio nhỏ xinh, như một tổ ong, phát ra tiếng sè sè, đồng thời một bóng điện nhỏ chớp nháy liên hồi. Trong gian phòng tối đen, nghe tiếng kẹt giường, tôi ngoảnh sang, đã thấy Trí ngồi dậy tự bao giờ.

Tôi lắp bắp :

- Cái... cái gì vậy, Trí ?

Trí quát khẽ :

- Dậy, dậy ngay, Chiêm ! Mau lên ! Báo động ! Báo động ! Có kẻ gian lẻn vào nhà kho dưới Phòng Thí Nghiệm rồi. Dậy mau !

Tôi cứng người, ngồi im như tượng gỗ. Trí đã đứng cạnh giường, mặc quần áo rất nhanh. Thoáng thấy tôi vẫn bất động, anh khẽ la, giọng bực bội :

- Ủa, Chiêm ! Kỳ không ! Còn đợi gì nữa chứ ?

Tôi giật thót mình, quơ vội cái quần tây xanh, mặc đại vào, quay ngược phía trước ra đằng sau, cứ thế cài thắt lưng, chạy theo Trí. Anh đã nhẩy tới gần cửa sổ. Sau khi lôi một chiếc thang dây vẫn giấu trong thùng sữa để dưới gầm giường ra. Trí gài móc sắt đầu thang dây vào một cái khoen bắt dính nơi khuôn cửa sổ từ hồi nào, rồi liệng cuốn dây ra ngoài không khí. Quay nhìn tôi, anh nói nhanh :

- Kiếm cái gì làm khí giới, Chiêm ! Theo tôi ! Lẹ lên !

Liếc mắt nhìn tay anh, đã thấy anh cầm chắc một chiếc đèn "pin". Tôi biết rõ chiếc đèn này đã được anh chế biến, làm thêm một nút bấm hình vuông. Bấm nút hình tròn : đèn sáng lóe trong đêm tối. Nhưng nếu bấm cái nút hình vuông, coi chừng đó ! Địch thủ xớ rớ đứng đúng đạo đạn ắt sẽ "xơi" ngay một tia hạt tiêu bột vào mắt mũi là hết đường chạy. Hứng chí, tôi quơ nhanh một thanh gỗ, a ! Đúng là cái dùi đục, đồ nghề thợ mộc của Trí bỏ quên gần cửa sổ. Có khí giới trong tay, trong lòng tôi cảm thấy hết cả run sợ, hăng hái theo anh trèo xuống thang dây. Trong nháy mắt, hai anh em đã đặt chân trên mặt sân. Trí để một ngón tay lên miệng ra dấu cho tôi im lặng.

Bốn bề vắng vẻ tĩnh mịch. Bóng đêm bao phủ chập chùng. Gió luồn trong tàng cây rú thét rùng rợn. Từ chỗ đứng, hai anh em trông khá rõ khuôn cửa nhà kho đựng dụng cụ làm vườn nhà Trí. Nhưng kế đó lại là bóng đêm đen đặc. Đỗ-văn-Tể, Dậu ghẻ có thể ẩn trong đó cùng với một tiểu đội đồng bọn nữa mà tinh mắt đến đâu cũng không thể nhìn thấy được.

Cửa sổ trên Phòng Thí Nghiệm tối om. Khiết đã nghe lời tôi và Trí, không để đèn sáng. Chắc giây phút này, thằng nhỏ đang run rẩy đứng chết sững giữa sàn gác đợi chờ chúng tôi cứu viện.

Trí đứng dựa vào tường suy nghĩ. Tôi im lặng, cố tránh không gây tiếng động để trí óc anh được rảnh rang. Tôi vẫn biết chung quanh nhà kho, đêm nào Trí cũng căng một hệ thống dây kẽm nhỏ để phòng kẻ gian. Những sợi giây kẽm đó bị chạm đến sẽ tác động lên mấy cái bóng đèn ngầm báo hiệu là có kẻ gian đột nhập. Thế thôi ! Còn kẻ gian đột nhập lối nào, đằng sau, phía trước hay phía hai đầu hồi nhà thì... chịu, không thể biết được.

Sau một cái tắc lưỡi, tôi nghe rõ ràng tiếng Trí :

- Thây kệ, tụi mình lao tới nghe, Chiêm !

Tiếng nói vừa dứt, bên hông tôi đã bị cùi chỏ anh hích nhẹ một cái. Thế là hai anh em cúi lom khom, lách nhẹ sau những lùm cây trong vườn, nhắm hướng cửa nhà kho tiến tới. Trí lao đi thật lẹ, còn tôi, thật khổ vì cái quần mặc ngược, cử động hết sức khó khăn. Nhưng vẫn bám sát được anh không rời nửa bước. Tới cửa nhà kho, hai anh em nằm áp bụng xuống mặt đất, im lặng đợi chờ và... xả hơi.

Mấy phút sau, không nghe tiếng gì khác lạ. Trí nhỏm đứng lên, rón rén đi men theo vách tường nhà kho. Cứ hai ba bước, anh lại dừng chân nghe ngóng, đôi mắt nhìn trừng trừng như muốn soi thủng bóng đêm.

Tôi lại bám riết lấy anh như bóng theo hình, thần kinh căng thẳng, tai vểnh lên, tóc gáy dựng đứng tưởng chừng như lúc nào cũng có thể bị xơi dùi cui của tên Dậu ghẻ vậy.

Phút sau, chúng tôi đã mò tới lối bí mật để vào gian nhà kho. Trí đưa tay rờ chân vách gỗ. Anh đẩy một cái then bí mật. Một mảnh ván vừa người đi lọt nhích sang một bên. Anh bước vào gian nhà kho tối đen như mực. Tôi vừa dợm bước định theo vào chợt một vật gì lạnh và ẩm lướt sát ngay vào mắt cá chân. Lúc khác, chắc tôi đã thét lên một tiếng rồi. Nhưng giây phút này, sợ hãi làm tôi cứng lưỡi, miệng há hốc nhưng hét chẳng ra hơi.

Như người máy, đầu tôi cúi nhanh xuống... Thì ra... là con Lát-Si ! Con chó khôn ngoan đang hỉnh mũi, đôi mắt sáng xanh trong đêm tối, chớp chớp, cái đuôi lông xù phe phẩy như có ý đợi chờ. Nó đã nhận ra tôi là bạn của tiểu chủ nó.

Tôi khẽ gọi trí :

- Coi này, "Sếp" !

Trí quay ngoắc lại, chiếc đèn bấm chĩa thẳng, ngón tay cái của anh nằm sẵn trên cái nút... vuông, sẵn sàng nhả đạn. Nhận ra con Lát-Si, anh trợn mắt ngạc nhiên. Chưa đầy phút sau, anh đã cười vui lên tiếng :

- Chắc con nỡm này lò mò đến đây, đụng vào hệ thống giây kẽm báo động của tụi mình đây. Chúng mình cứ đi thử một vòng coi lại, nhưng chắc không còn gì đáng lo nữa đâu, Chiêm !

Quả nhiên, không có gì khác lạ. Hai anh em bước vào trong nhà kho. Trí đưa tay đẩy một cái chốt ngầm dưới chân cột; lập tức cái cầu thang nhỏ bên trên đầu tự động tụt xuống, đồng thời sàn gác lộ ra một lỗ vuông vừa người chui lọt.

Đúng như chúng tôi dự đoán, Khiết đang ngơ ngẩn đứng giữa phòng chân tay run rẩy, mặt mũi tái xanh. Trí vội vàng thuật sơ lại sự việc xẩy ra và ra lệnh cho tất cả quay về đi ngủ lại để khỏi bị người trong nhà hỏi han lôi thôi... Chưa ai kịp thi hành, tôi đã nhanh chân tiến lại gần bên cửa sổ. Có lẽ tôi vẫn nơm nớp e ngại Đỗ-văn-Tể hoặc Dậu ghẻ bây giờ mới mò đến và đang rình rập đâu đây. Đưa nhanh bàn tay, tôi khẽ nhấc một góc màn gió, loáng tia mắt nhìn xuống bóng đêm trong vườn.

Mọi vật đều tối đen. Ngoài tiếng gió hú trong tàng cây, tiếng lá rơi đụng mặt đất kêu xào xạc, không còn gì khác lạ. Đột nhiên, phía cửa sổ nhà trên có ánh sáng lóe lên. Bất giác, tôi khẽ la :

- Trí ! Trên phòng ba má Trí bật đèn kìa !

Hai anh em không nói không rằng, tụt cầu thang chạy như bay ra khỏi căn nhà kho.

Để con chó Lát-Si ở lại với Khiết, chúng tôi leo thang dây, trèo vào phòng ngủ. Trí quay ra kéo thang dây lên, cuộn gọn lại nhét vào thùng sữa. anh tụt nhanh đôi giày vải. Tôi cũng cuống quýt làm theo.

Co chân nhẩy nhanh lên giường, phút sau, hai anh em đã ngoan ngoãn nằm im trên nệm, chăn đắp lên đến tận mang tai, đàng hoàng lắm.

Vừa đặt đầu lên gối êm, đã nghe ngoài hàng ba có tiếng chân người bước, rồi tiếng bà Bích-Tâm, má Trí :

- Chính, Chiêm ngủ chưa thế hả, hai anh em ? Vừa rồi có cái gì vậy ?

Hai đứa nín thinh không dám trả lời. Tôi nằm thật im, ti hí mắt nhìn ra. Cánh cửa khẽ kêu "clíc" một tiếng : bà Bích-Tâm nhẹ bước đi vào. Tiếng ngáy của Trí nổi lên đều đều. Tấm chăn mỏng nhô lên xẹp xuống khiến người nhìn yên trí là anh đã ngủ say lắm.

Lại có tiếng khép cửa, rồi có tiếng dép bước xa dần.

Ba phút sau, Trí đã nhổm dậy bật đèn sáng, cởi bộ quần áo ngoài. Tôi lẳng lặng làm theo anh, trong lòng mừng khấp khởi khi giải thoát được cái quần tây xanh mặc ngược. Hai đứa buồn ngủ díp cả mắt lại chẳng còn muốn nói chuyện nữa.

Trước khi tắt đèn, Trí bỗng bảo tôi :

- Chiêm à ! Chuyện báo động lầm đêm nay khiến mình thấy rằng cần phải tiến hành công việc thật gấp đó Chiêm. Lần này tên Đồ-Tể chưa tới, nhưng lần sau... có thể lắm. Việc cần là phải khám phá, tìm cho ra cái giấy bí mật đó ngay. Thôi được ! Để sáng mai tôi sẽ cho Chiêm biết chương trình hoạt động của chúng mình. Bây giờ nhắm mắt ngủ kỹ cho khỏe cái đã, nghe Chiêm!

Xem tiếp chương 7 & 8