Phiến Đá Hoa Cương - Chương 9 & 10

Chương 9

Khi thức giấc Cúc hé mắt nhìn thì thấy bà già Rát-Gia đang ngồi lúi húi đun sôi sùng sục một chất lỏng gì màu nâu sậm. En lo ngại tự nhủ : 

- Chẳng biết hôm nay mình có dịp trốn thoát được không đây ? Bà già này liệu có đưa mình đi chăng ? Hay cứ ở lì lại đây mãi thì nguy quá. Biết đến ngày nào… ? 

Nhưng sau đó, Cúc lại được yên tâm ngay khi ngó thấy tấm xiêm bằng lụa vàng, vòng hoa hồng treo sẵn trên một chiếc sào dài. Mụ Rát-Gia ăn mặc tươm tất khác hẳn ngày thường, lừ lừ tiến đến trước mặt em, tay bưng cái tô nhỏ đựng chất nước màu nâu hồi nãy: 

- Người Kinh, da trắng lắm, không được phép leo cầu vồng. Vì thế, già phải nhuộm da của cháu đi cho giống hệt người Thượng mới được. 

Cúc im lặng, để mặc bà già muốn làm gì thì làm. Em không có một cử chỉ hay lời nói nào để phải đối. Mụ Rát-Gia nhúng một miếng sơ dừa vào bát thuốc nhuộm rồi quét lên mặt, lên chân tay cô bé cái chất nước màu nâu nhơn nhớt nồng nặc mùi nghệ và mùi gì nữa mà Cúc không thể xác định được. Mấy phút sau, em đã biến khác hẳn, không còn là cô gái út xinh tươi của ông chủ mía Ngọc-San nữa, mà là một cô nhỏ người Thượng, nét mặt ngây ngô, chỉ có tia nhìn của đôi mắt là còn long lanh sáng. 

Giờ đây chỉ còn việc thắng bộ xiêm vàng vào, choàng lên đầu vòng hoa hồng nữa là xong. Bước ra khỏi căn lều, phải đưa mắt tìm phương hướng thuận tiện để trốn thoát mới được. Ðang hân hoan với những ý nghĩ đó, Cúc bỗng giật thót mình : Mụ Rát-Gia lại bước tới, chìa vào mặt em một cái tô khác nhỏ hơn : 

- Này cháu gái ! Uống thuốc bổ cho khỏe này ! Lẹ lên ! Rồi già dẫn cháu gái lên đồi cỏ cháy lễ tạ thần linh ! Mau lên ! 

Cô bé thản nhiên cầm bát nước. Hơi thuốc đắng chát, tê đầu lưỡi khiến Cúc nhăn mặt. Nhưng em quyết định sẽ chiều theo ý bà già để có dịp chạy trốn. 

Chất nước khó uống vừa trôi qua ống thực quản, cô bé chợt cảm thấy đôi mắt mờ hẳn đi, đồng thời, trí óc mê mụi một cách kỳ dị, tưởng chừng như thân xác mình đang lơ lửng bay bay trên chín tầng mây trắng. Nhưng, trong giây phút mơ màng nửa tỉnh nửa mê đó, Cúc cũng vẫn nghe rõ rệt tiếng vó ngựa và rõ ràng có người cởi trói chân tay cho mình. Tuy rất lờ mờ không rõ rệt, Cúc vẫn hiểu được rằng người ta sửa soạn, chải đầu tóc, mặc xiêm mới, choàng vòng hoa lên đầu cho êm để đưa đi lễ tạ thần linh. Chưa đầy năm phút sau, thần trí và thể xác cô bé chợt nhẹ bổng như sợi tơ trời theo gió bay vào cõi mênh mông vô tận. 

Cúc đã mê hẳn đi rồi… 

Khi em giật mình thức tỉnh, đôi mắt mở thao láo, bốn phía đã đông nghẹt những người. Thanh niên thiếu nữ người Thượng đông vô kể, người nào người nấy đều quấn vòng hoa trên đầu, đứng im phăng phắc. Hơi thở họ cũng nhẹ hẳn đi, mắt người lên tầng không cao vút như hướng về một vị thần thiêng liêng nào đó. Bên tai, tiếng trống đồng bập bung, tiếng kèn lau rền rĩ hòa âm, đồng tấu một nhạc khúc dị kỳ. 

Cô bé lại ngất đi, không biết gì nữa. Cúc không nghe cả tiếng ồn ào phía xa xa, không nghe cả tiếng mụ Rát-Gia đang vừa gọi vừa đập thật mạnh vào tay em để đánh thức. 

Cuộc lễ thần bắt đầu. Theo tập tục, tạ thần linh bao giờ cũng được tổ chức trước khi mặt trời ló dạng. Trước cửa ngôi đền thờ rêu phong cỏ mọc có tới hai chục bậc thềm đá, một cái cầu tre được bắc qua con suối rộng chừng năm thước. Nói là cầu để cho có cái tên gọi mà thôi. Thực ra, đó chỉ là một cây tre lớn, thẳng tap, vỏ còn xanh nguyên, bắc từ bờ bên này qua bờ bên kia suối. Cây cầu gối đầu lên hai bờ cỏ non xanh êm, không có tay vịn gì hết ngoài một sợi dây bằng mây rừng giăng ngang, cao hơn mặt cây tre chừng một thước. Mỗi cơn gió thổi, sợi mây lại trao trao như võng đưa trông rùng rợn vô cùng. Mực nước suối không sâu nhưng chẩy xiết, bọt tung trắng xóa. 

Ðối diện với sân đền bên kia bờ suối, đám người tụ tập đông đảo, hầu hết là đồng bào Thượng sùng bái thần linh, lẫn lộn khoảng gần hai chục người Kinh, những chủ nhân hoặc người nhà, con cháu các nhà doanh điền trong vùng, hiếu kỳ đến dự kiến. Mọi người hồi hộp đợi chờ. Nhất là mấy đồng bào Kinh. Họ băn khoăn tự hỏi : ’’Cây cầu chênh vênh, bất trắc thế kia, lại bôi đất sét ướt, trơn trợt như đổ mỡ, làm cách nào đám tín đồ này đi qua cho nổi. Nhất là những thiếu nữ xiêm vàng lướt thướt, cứ đi trên mặt đất bằng phẳng rộng rãi cũng đã đủ vướng rồi, huống hồ lại leo cầu vồng. Ngã tòm xuống suối là một điều chắc chắn. Tuy không đến nỗi chết đuối nhưng nhất định là sẽ bị uống nước no. Và gẫy chân, trẹo tay khi đụng phải đá ngầm dưới lòng suối là một điều chưa ai biết thế nào mà nói trước. 

Các tín đồ được vinh dự leo cầu vồng tại đồi cỏ cháy hết thẩy đều đã phải niệm kinh, ăn kiêng cữ, dùng toàn cơm lạt, nghĩa là phải rất thanh tịnh mới được bước lên cầu. 

Giờ đây, họ đang sắp một hàng dọc diễn hành chung quanh một cây đa cổ thụ ở bên kia bờ suối, mắt đăm đăm hướng về đầu cầu bên này, nơi tọa lạc đền thờ thần linh. Kẻ thì sắc diện ngơ ngơ ngẩn ngẩn như người mất hồn, có cô thiếu nữ lại lộ vẻ sợ hãi, chân tay run rẩy như mắc chứng kinh phong. 

Cuộc diễn hành kéo dài chừng nửa tiếng đồng hồ mới chấm dứt, theo hiệu lệnh bằng tiếng phèn la của ông chủ lễ. Ông chủ lễ là một nhân vật đã có tuổi, không phải người niên trưởng trong thôn bản, nhưng tư cách, tác phong cũng như dáng điệu, cử chỉ có vẻ như một ông thầy phù thủy, một ông thủ từ chuyên trông coi đền đài miếu mạo trong khu vực. 

Khai mạc cuộc lễ tạ leo cầu vồng vinh dự ấy bao giờ cũng dành phần ông? Hai cẳng chân ông thầy khẳng khiu gầy guộc nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Ông nhẹ nhàng bước trên cây tre trơn trượt, đôi mắt nhìn thẳng đền thờ, nhãn quang hiện rõ vẻ sùng kính tôn nghiêm như được thần linh phò hộ, đặt bàn chân thật chính xác, thật vững vàng trên cây tre, đạt chân xuống đất liền, tiến tới chân bậc đá, quỳ gối lễ tạ. 

Thế rồi, thanh niên, thiếu nữ, ai nấy đều noi gương ông thủ từ làm lễ leo cầu vồng. Phái nam được đi trước. Năm sáu người, nét mặt rạng rỡ, đôi mắt long lanh hướng về ngôi đền cổ, thỉnh thoảng mới liếc thật nhanh ngó xuống cây tre. Họ thành công giữa sự kính phục hầu như nín cả hơi thở của đám người đứng dự kiến. Có người trổ tài, khi leo cầu vồng, lại đặt lên vai hai đứa con nít mà bước đi vẫn dễ dàng tới đích giữa tiếng hoan hô thích thú của mọi người. 

Chợt có tiếng xì xào mỗi lúc một lớn. Một ứng viên tín đồ, chắc hẳn không tập dượt, không ăn chay niệm kinh, chuẩn bị đầy đủ trước, mới đặt chân lên đầu ‘’cầu vồng’’ đã luống cuống trông rất tức cười. Tiếng la ó từ đám đông nổi lên khiến anh ta không dám rút lui. Sau mấy giây ngập ngừng do dự, đương sự chệnh choạng, bước chưa được hai bước đã trượt chân, ngã tòm xuống suối. Sự kiện đó, theo quan niệm của các tín đồ, chứng tỏ thần linh chưa chấp nhận anh ta hoàn toàn trong sạch. Lần tới sẽ phải tiếp tục thử thách nữa sau một thời gian ăn chay, niệm kinh lại. Ðám khán giả lên tiếng chê bai. Vị chủ tế tức giận ra mặt, đứng bên kia đầu cầu la hét, chỉ tay xuống suối xua đuổi người tín đồ bị thần linh trách phạt ấy không chút nương tình. Tín đố kế tiếp được gọi lên thay thế. Anh này leo cầu vồng một cách nhẹ nhàng thành thạo, qua tới đích. Tiếng hoan hô lại nổi lên rầm rộ. Sau đó, cuộc lễ, cùng một lúc với thời gian ông chủ từ bước vào trong đền, tạm ngừng lại để ai nấy nghỉ giải lao. 

Ðột nhiên, có tiếng ồn ào từ phía đầu cầu. Trong đám khán giả có người lên tiếng hỏi : 

- Chi vậy ? Cuộc lễ đến đây là chấm dứt hả ? 

Có tiếng người khác trả lời : 

- Không phải ! Hình như có một bà già điên dại đang cãi cọ gì đó với ông chủ lễ thì phải. Ông thầy từ chối không nhận tín đồ bà ta đưa tới. 

Bà già điên đó đúng là mụ Rát-Gia. Và nữ tín đồ do mụ đưa tới để xin dự lễ ‘’leo cầu vồng’’ không phải ai khác : đúng là Cúc, con gái út con ông chủ đồn điền mía Ngọc-San. 

Mụ Rát-Gia hét lớn át cả mọi tiếng xì xào từ đám đông hai bên bờ suối : 

- Cháu gái tôi ! Nó là cháu gái tôi mà ! Tôi đã sửa soạn xiêm y cho nó chu đáo, bắt nó ăn chay niệm kinh đâu vào đấy rồi mà. Nhất định thầy phải cho nó leo cầu vồng. Thần Linh đã ghi tên chờ đợi nó mà ! Từ chối không cho sao được ! 

Vị thủ từ cương quyết : 

- Tôi đã bảo là không được ! Bà nói con nhỏ này đã sẵn sàng ? Ai làm chứng cho bà đây ? Không thấy ‘’kẻ không trong sạch’’ hồi nẫy bị quở phạt đó sao ? 

- Cháu gái tôi đã niệm kinh, đã ăn chay tại nhà tôi mãi rồi. Thầy phải chấp thuận cho nó leo cầu vồng. 

- Bà nên nhớ là : tôi chỉ thâu nhận các nam nữ tín đồ thành tâm với Thần Linh mà thôi Còn những kẻ nào chưa đến lễ tại đền thì không thể được coi là trong sạch được. Về đi ! Về ! 

Từ đám đông có tiếng la ó nổi lên : 

- Đúng đó ! Ẩu quá ! Dám coi thường thầy ! Dám xúc phạm tới thần linh hả ? Ô hê ! Này thầy, thầy à ! Cô nhỏ này không phải là người Thượng. Ô hê ! Ai đã nhuộm da cho cô ta để giả mạo đây này ! Coi kỹ lại đi này ! 

Hơn một trăm nam nữ tín đồ người Thượng đứng lẫn lộn với người đi xem cũng lên tiếng hò hét dữ dội : 

- Hê ! Hê ! Bắt mụ già và cô nhỏ đó lại ! Ngửa mặt chúng lên coi ! Xúc phạm đến thần linh ! Gớm thật ! Liệng hai kẻ đó xuống suối ! Liệng đi ! 

Trong chớp mắt, mấy chục bậc thang trước cửa đền đã đông nghẹt thiện nam tín nữ. Hai thanh niên người Thượng, một người túm chặt em Cúc, một người nhấc bổng mụ Rát-Gia, người trước, người sau phăng phắc bước tới phía cầu tre. 

Trong đám khán giả người Kinh, chợt có tiếng con gái la thảng thốt : 

- Ý kìa ! Em Cúc ! 

Nhiều tiếng kêu gọi vang vang tiếp theo tiếng la ấy ! Chớp mắt, mấy thanh niên thiếu nữ người Kinh đã chạy ùa về phía cô bé giả người Thượng. Đúng là ba cô gái con ông Ngọc-San : Huệ, Trà, Mai, có Hinh và Huy đi kèm hai bên. Hai cậu trai chen vai thích cánh rẽ đám đông lấy lối cho ba chị em tiến phăng phăng. Chưa hết ! Theo sát đàng sau, kìa, rõ ràng bác An, bác Mẫn và anh Giang. Hinh giơ hai cánh tay khỏe mạnh đỡ Cúc. Cô bé còn say vì bát thuốc lá của mụ Rát-Gia. Ánh mắt nhìn vẫn ngây dại, tứ chi rũ xuống như đã kiệt hết hơi sức. 

Hinh ghé vào tai cô bạn nhỏ : 

- Cúc ! Cúc ! Tỉnh chưa Cúc ? Hinh đây. Hinh này. Chị Huệ, chị Trà, chị Mai đây này ! Cúc, Cúc tỉnh chưa ? Tỉnh chưa, Cúc ? 

Nghe đến tên các chị Huệ, Trà, Mai, đôi mắt Cúc máy động. Đôi môi mỉm một nụ cười gượng gạo. Tiếng nói cô bé nhẹ phào như hơi thở. 

- Đưa em chạy trốn ngay đi ! 

Đám người đông đảo sán đến gần. Có tiếng sì sào : các cô nhỏ này không phải tín đồ mà sao lại tới đây ? Nhiều người sắc diện lộ vẻ giận dữ. Một số khác lại tò mò muốn xem rõ mặt cô gái Kinh ngụy trang thành thiếu nữ Thượng. Hinh và Huy phải hết sức vận dụng sức mạnh lên cánh tay mới dìu được Cúc đi quá đám tụ tập. Mai nói nhanh : 

- Đừng sợ gì hết, nghe Cúc ! Tụi mình đông lắm ! Cúc yên tâm ! Chút xíu nữa là em đã về tới nhà với ba được rồi. 

Cúc mơ màng lẩm bẩm : 

- Về với ba ! Về với ba ! Về trại mía Ngọc-San !... Hà… à…à ! 

Và cô bé gục đầu vào tay chị, ngất lịm đi. 

Bốn Trung sĩ Cảnh Sát giơ tay gạt đám đông, miệng hô lớn : 

- Dang ra ! Dang ra ! Yêu cầu đồng bào giải tán đi ! Giải tán ! 

Một số người hốt hoảng lùi lại. Viên thủ từ lên tiếng nói với một nhân viên công lực : 

- Chúng tôi tổ chức lễ tạ tại đền thờ trong bản của chúng tôi mà. Có mắc mớ gì mà… 

Viên Trung sĩ Cảng Sát nghiêm sắc mặt : 

- Tôi biết ! tôi biết ! Nhưng tại sao có một cô gái người Kinh ăn mặc như thế này lẫn lộn ở đây ? 

Viên thủ từ đưa tay chỉ mụ Rát-Gia : 

- Trăm điều rắc rối đều do bà kia cả. Mụ vẫn thường lai vãng tới đâu quấy phá đủ thứ. Tôi nghi mụ ta khùng đó ! Các ông có cần điều tra gì xin cứ việc hỏi mụ. 

Viên Trung sĩ gật đầu : 

- Thôi được ! Chút nữa sẽ hay ! Bây giờ các ông hãy dang ra, để chúng tôi đưa cô bé này về đã. Ngất đi rồi kia kìa ! 

Dứt lời, ông ta khẽ ra hiệu cho hai bác An, Mẫn. Hai người đỡ vai đưa Cúc ra phía ngoài. Bốn nhân viên công lực kèm sát hai bên. 

Có tiếng xì xào : 

- Cô út con ông chủ mía Ngọc-San đấy ! 

- Ồ, phải rồi, nhưng tại sao lại lạc vào đây chứ ? 

Khi đã đem Cúc ra tới quãng trống, mấy nhân viên công lực châu đầu thảo luận rất nhanh. Rồi, hai người đứng lại cùng với toán người nhà trông coi Cúc, hai người quay bước trở lại đám đông, bắt giữ mụ Rát-Gia. Hinh và Huy xin phép được đi theo. 

Viên thủ từ nhắc lại câu nói hồi nãy : 

- Mụ này điên thật đó các ông ! Tôi đã ráng hỏi mà y thị không chịu nói gì hết trơn. Thật là lạ lùng : Không hiểu tại sao cô nhỏ kia lại lạc vào trong tay mụ được ? 

Viên chức Cảnh sát trưởng toán : 

- Chúng tôi cũng cần biết rõ điều đó ! Để đưa mụ ta về cuộc, chúng tôi sẽ hỏi cho ra. 

Bỗng một thanh niên người Thượng, rẽ đám đông săm săm chạy tới bên mấy nhân viên công lực : 

- Xin các ông đừng bắt giam bà già này. Tội nghiệp ! Bà nội tôi đó ! Bà nội tôi mắc bệnh dở người chẳng biết phải trái gì đâu. 

Cậu trai út, con ông Mộng Bảo thoáng giật mình, khẽ nói vào tai anh : 

- Gô-Ban ! Tên này là Gô-Ban đó, anh Huy ! A, thì ra Gô-Ban là cháu nội bà già quái ác này ! Chính gã là thủ phạm trong vụ bắt cóc Cúc đấy ! 

Dứt lời, sắc mặt đỏ gay, đôi mắt quắc lên, tia nhìn thật thẳng, Hinh tiến lên một bước, dõng dạc nói với nhân viên công lực : 

- Xin trình để mấy ông rõ. Chính gã này mới đích thực là thủ phạm trong vụ này. Xin các ông bắt giữ hắn ngay dùm. Các ông hỏi, gã sẽ phải khai hết sự thật. Chính gã đã nhúng tay trong vụ bắt cóc cô gái hồi nãy rồi đưa đến giao cho bà già này.

Một viên Trung sĩ cảnh sát nhận ra Hinh là con ông Mộng Bảo : 

- Do đâu chú em lại biết được như thế ? 

- Tôi biết rõ tên này vẫn thù nghịch với các người bên trại mía Ngọc-San. Đã có lần tôi bắt được quả tang hắn âm mưu bàn soạn tìm cách làm hại ông Ngọc-San mà. Các ông cứ hỏi, chắc chắn gã sẽ phải nói hết 

Bốn nhân viên công lực quay hỏi Gô-Ban. Gã lắc đầu không nói gì hết. Viên chức trưởng toán ra lệnh cho nhân viên dưới quyền dẫn Gô-Ban đi. Hắn không dám làm một cử chỉ gì để phản kháng. Mát-Ta cũng có mặt trong đám đông. Cô gái đáng thương chạy tới năn nỉ nhân viên công lực : 

- Xin các ông tha cho anh ấy ! Anh ấy là chồng chưa cưới của tôi đó ! Anh không làm điều gì xằng bậy đâu, các ông ơi ! Chính anh ấy lại còn muốn che chở bảo vệ cho cô nhỏ kia nữa đó. Xin các ông tha cho anh ấy. Dù các ông có hỏi, chắc là anh cũng không dám nói gì hết đâu. 

Viên chức trưởng toán nghiêm giọng : 

- Không dám nói gì hết ? Được, để chúng tôi coi ! Nếu anh ta vô tội chúng tôi sẽ thả ngay. Cô cứ yên trí ! Anh ta không đi mất đâu mà lo. 

Cảnh Sát dẫn mụ Rát-Gia và Gô-Ban đi rồi, đám tín đồ nam nữ người Thượng xúm lại bàn tán với ông thủ từ một lúc nữa rồi cuộc lễ lại tiếp tục như thường. 

Trong lúc đó, chiếc xe hơi của ông Ngọc-San do anh Giang lái đưa Cúc và các bạn trẻ của chúng ta lăn bánh êm êm trên con đường đất đỏ tiến về trại mía. Cô gái út vừa thoát khỏi trại giam, được các chị cho uống mấy chai nước cam vàng, ăn hai ba chiếc bánh sữa, đã lấy lại được đôi phần sức lực. Trí nhớ của em cũng lần lần tươi mát trở lại. 

Mai hỏi em : 

- Lúc ở cây phượng hoa vàng, ai đã chộp bắt và rồi ai đã đưa Cúc tới chỗ bà già kỳ dị ấy ? 

- Tụi bắt cóc em đều bịt mặt bằng vải đen. Nhưng về sau em cũng nhận ra được đôi mắt nhìn lạ lùng của Gô-Ban. 

Huệ, cô chị lớn lẩm bẩm : 

- Vậy thì lạ quá ! Bác An đã cho biết là Gô-Ban làm việc chăm chỉ và tận tâm lắm kia mà. Nhất là khi lửa cháy, anh ta đã tỏ ra sốt sắng can đảm hơn ai hết. Thật là khó hiểu vô cùng. 

Chẳng mấy chốc, xe về tới địa phận trại mía. Phút sau, đã ngừng bánh trước khu nhà ở. Chị Dung chạy ra la lên như người điên. Chị điên vì vui mừng quá sức. Hai tay cứ đấm vào ngực bình bịch : 

- Ý, trời ! Em Cúc đã về rồi kìa ! Cúc về rồi kia ! Chị Dung biết ngay là hôm nay thế nào nhà mình cũng vui lắm mà ! Trống ngực chị Dung cứ đập thình thình báo tin mừng suốt từ sáng sớm tới giờ ! Trời ơi ! Thú quá !... Ấy, mà sao em lại nhuộm nâu mặt đi và mặc xiên y như gái Thượng vậy, hả ? 

Huệ, cô chị lớn gạt ngay đi : 

- Có im miệng đi không ? Chị Dung chớ làm ồn lên ! Chị không thấy em Cúc đang mệt lả người đi đây sao ? 

Mai chạy như bay vào hàng ba, reo to : 

- Ba ơi, Cúc đã về này ! Cúc về đây này, ba ! 

Ông Ngọc-San đang nằm nghỉ trên giường, chờ đợi các con. Để quên đi sự mong chờ khắc khoải, ông vùi đầu vào đọc báo. Nghe tiếng Mai la, ông hồi hộp buông tờ báo xuống. Hai cánh tay ông tự động giơ lên. Miệng ông bật thốt : 

- Cúc, gái út của ba ! 

Cửa phòng mở toang. Cúc lao vào, ngã vật trong tay cha, sung sướng khóc nức nở. 

Người cha ôm đầu con, đôi mắt nhìn mặt con chăm chú. Ông gượng cười ra tiếng để che giấu niềm xúc động trong lòng. 

- Ý chà ! Con gái ba trông đẹp quá ! Kẻ nào dám thay hình đổi dạng con như thế này, hả ? 

Huệ cười vui nhìn cha : 

- Thôi, để mai Cúc sẽ kể chuyện cho ba nghe. Bây giờ em nó còn mệt lắm. Cần phải tắm một cái, sau đó ngủ một giấc cho lại sức. Chị Dung ! Hộ em một tay đi ! 

- Ừ, con nói đúng ! Bây giờ ba yên trí quá rồi ! Muốn chờ tới bao giờ thì chờ. Đúng là Trời Phật đã nghe thấu lời nguyện cầu của ba, khiến xui tai họa không còn giáng xuống đôi vai gầy yếu của các con nữa. Đi tắm, rồi ngủ một giấc đi con, Cúc ! Sáng mai kể chuyện từ đầu tới cuối cho ba nghe ! 

Sáng hôm sau, từ nơi hàng ba trong tư thất của ông chủ mía Ngọc-San, lại như hồi nào, vang vang những tiếng nói chuyện cười vui của bốn cô con gái, nữ tứ tử cưng chiều của nhà điền chủ. 

Bốn chị em kéo nhau lên phòng cha. Sau khi đã kể lại cho ông Ngọc-San nghe từ đầu tới cuối vụ bị bắt đi, đưa đến căn lều tối tăm ẩm thấp của bà già khùng Rát-Gia, bị bà ta bắt ép ‘’leo cầu Vồng’’ trên đồi cỏ cháy ra sao… Cúc ngưng nói, im lặng nhìn cha và các chị tới gần một phút. Rồi, em hắng giọng, sắc diện nghiêm hẳn lại : 

- Ba ơi, chị Mai và con có một câu chuyện này muốn thú thực với ba ! 

Ông Ngọc-San cau cặp chân mày nhình đứa con yêu. Nội tâm người cha chợt vấn lên một niềm lo ngại : 

- Được, con cứ nói, ba nghe đây. Việc gì thế ? 

- Về việc ‘’cây phượng hoa vàng’’ đó ba ! Con muốn nói rõ cho ba biết vì lý do gì chị Mai và con đã trái lệnh ba…, - cô bé đưa mắt nhìn hai cô chị lớn, - cả các chị nữa. Em muốn thưa với ba và hai chị biết rằng, hai đứa em đã khám phá được một kho tàng báu vật chôn dấu trong khu vực sở mía của nhà ta. Nếu những điều chúng em giả thiết mà trở thành sự thật cả, thì kho tàng đó sẽ làm cho ba của chúng ta giàu có nhất trong vùng Đức Trọng này. 

Ông Ngọc-San mỉm một nụ cười bao dung : 

- Ồ ! Hai con nhỏ gái út của ba sắp nói chuyện lăng nhăng… Thôi được, các con cứ nói đi, ba nghe ! 

Mai, đôi mắt sáng ngời, nói thay em : 

- Bữa xẩy ra giông bão lớn đó ba. Bác sĩ Bích đuổi chúng con ra khỏi phòng không cho ở lại săn sóc ba. Buồn quá, chúng con mời lần mò ra coi cây xoài trốc gốc đổ saềp trúng xe ba ra sao ! Ngay dười gốc, chúng con thấy một phiến đá hoa cương trên mặt khắc đầy chữ nho, ba à. Nhưng bên dưới những giòng chữ nho ấy lại có ghi chữ số chỉ tháng 3 năm 1916 và ba chữ Lầm chí Khả bằng quốc ngữ. 

Ông Ngọc-San và hai cô chị lớn bật thốt : 

- Lầm chí Khả ! 

Cúc, cô gái út điềm nhiên tiếp tục : 

- Trong khi chờ đợi nhờ người đọc và giảng nghĩa dùm, chúng con mới đem cất giấu phiến đá đó để người khác không thấy được. Mà chỗ cất giấu thì còn đâu tốt và kín hơn gốc cây phượng hoa vàng ? Chắc chắn không một người nào dám héo hánh tới đó vì từ trước đến nay ai ai cũng cho rằng cây ấy là của thần linh. Thế rồi, sau khi cất giấu xong xuôi, chúng con cứ lén tới gốc cây phượng hoa vàng luôn để lo việc tìm hiểu những hàng chữ nho ấy. 

Người cha nghe câu chuyện con kể có vẻ hay hay, bắt đầu chú ý : 

- Tìm hiểu ? Tìm hiểu bằng cách nào ? Các con có đứa nào biết chữ nho đâu ? 

- Đúng thế đó ba ! Nhưng chúng con đã nói cho Hinh, con trai út bác Mộng bảo biết vụ phát giác của chúng con. Hình liền đưa hai đứa con lên Liên Khương nhờ cụ đồ Khải đọc, giảng nghĩa cho nghe. Và để bảo vệ bí mật, chúng con chứ chép ba chữ một. Đầu một chữ, giữa một chữ, cuối một chữ. Chúng con cứ làm đảo lộn thứ tự như thế. Nhưng ghi chép từ chữ thì chúng con ghi rất cẩn thận, không để sót một nét, không để sai một cái chấm nào. 

Ông Ngọc-San mỗi lúc lại mỗi cảm thấy câu chuyện có một cái gì lạ lắm. Nhưng ngoài mặt vẫn không để lộ ý nghĩ thầm kín trong lòng, ông chỉ mỉm cười, vui vẻ lắc đầu bảo hai cô con lớn : 

- Huệ, Trà, thấy các em con tinh không ? Rồi sao ? Những giòng chữ nho ấy nói gì vậy ? 

Cúc, ánh mắt sáng ngời, lôi từ trong túi ra một mảnh giấy gấp tư. 

- Đây, ba nghe, nghe ! Từ chỗ này đi về hướng Đông, đếm ba chục bước. Sáu bộ dưới đất, có một kho báu vật. Lầm chí Khả. Tháng 3-1916. 

Mai : 

- Chúng con đã đi từ gốc cây xoài đổ, chỗ cũ của phiến đá, thử đi thử lại có tới hai mươi lần. Lần nào như lần nấy, đều tới đúng gốc cây phượng hoa vàng hết, ba à ! 

Người cha gật đầu, trầm ngâm : 

- Sự kiện này có điều rắc rối đây ! Cây đó, ba đã có lệnh cấm không ai được lại gần. Nếu muốn đào bới thì phải làm sao đây ? Cái này cần phải suy nghĩ cho thật cẩn thận mới được. 

Huệ nghiêm sắc mặt nhìn hai cô em út : 

- Gớm thật ! Vậy mà Mai, Cúc không hở môi nói cho các chị biết chút xíu gì nghe ! Có tới gần ba tháng nay, hai em ‘’gạt’’ chị và Trà ra ngoài, không tin tưởng gì hai chị gì nữa hết, nghe ! 

Cúc cười khanh khách : 

- Chúng em phải ‘’trả thù’’ chứ ! Hai chị cứ dành làm toàn việc lớn, không cho tụi em tham gia các gì hết trơn. Lại còn đuổi hai đứa đi chỗ khác chơi nữa. Thì đi chỗ khác chơi ! Nhưng chúng em lại làm được việc hay : tìm ra phiến đá báo tin bí mật của cụ Lầm Chí Khả vị hải khấu anh hùng có họ hàng hơi hướm với nhà ta, chôn vùi dưới đất đã hơn nửa thế kỷ… Ha ! Ha ! Các chị thua rồi ! 

Trà, cô chị thứ hai gật đầu : 

- Được, được ! Các chị thua hai em ! Nhưng chị muốn biết điều nầy ! Tại sao khi biết được ý nghĩa bản tin tức đó rồi, các em lại để mãi đến tận hôm nay mới nói ra? 

Mai cười ranh mãnh : 

- Chúng em dành độc quyền làm vụ này mà. Chúng em cũng thích sớm ôm về cho ba những thoi vàng, thoi bạc để các chị ngán một phen chứ. Cái gì cũng “hai con nhỏ”, “hai đứa bé tí” đó ! Nhưng Hinh lại khuyên chúng em nên chờ đợi đến khi nào các công nhân vui vẻ đi làm lại cái đã. Lúc đó mới có thể tổ chức đào bới tìm kiếm kho tàng được. Trong khi chờ đợi, em và Cúc cứ phải lén đến dòm chừng luôn luôn chỗ dấu phiến đá xem có còn nguyên vẹn không. Do đó, mọi việc đều phải giữ tuyệt đối bí mật. 

Trà bĩu môi riễu cợt : 

- Tuyệt đối bí mật ! Tuyệt đối bí mật để đến nỗi bị bọn người bí mật xuất hiện rồi bắt em Cúc đem đi ! 

Ông Ngọc-San âu yếm nhìn hai cô gái nhỏ, bảo Trà : 

- Thôi, đừng trêu em nữa ! Hiện thời ba rất thắc mắc về câu chuyện các em con vừa kể. Phiến đá thông tin bí mật ghi tháng ba năm 1916. Điểm đó quả nhiên trùng hợp với thời gian cụ Lầm lưu lạc rồi tá túc tại vùng này. 

Cúc, vẻ mặt nghiêm trọng : 

- Đúng thế đó, ba ! Con cũng vừa định nói cho ba chú ý đến chỗ đó thì ba đã biết trước rồi. Ngoài ra, chúng con lại còn nhờ Hinh, con bác Mộng Bảo đi hỏi một vị giáo sư dạy Sử Địa tại Liên Khương để xem ông ấy có tài liệu gì đặc biệt nói về đời tư vị bộ tướng này của Hùm Thiêng Yên Thế không. Kết quả hay lắm ba ơi ! Đúng như lời ba vừa nói, Cụ Lầm có tới vùng Đức Trọng này vào năm 1916. 

Mai kết luận một câu thật gọn : 

- Vậy thì nhất định cụ đã đào đất cất giấu của cải ở đây rồi. 

Người cha rạng rỡ nét mặt : 

- Ba không ngờ hai đứa con gái ba lại thông minh tháo vát đến thế. Hai đứa lớn thì gần như là đảm đương hoàn toàn công việc trong xưởng nấu đường, ngoài bãi mía, hai con nhỏ út của ba lại lập kỳ công, khám phá, phát giác được phiến đá chúc thư bí mật của vị hải khấu anh hùng Lầm Chí Khả. Ba sung sướng khen ngợi các con. Rồi, bây giờ hai đứa lớn báo cáo công việc cho ba nghe coi ! Tình trạng các anh em công nhân ra sao ? Ngoài bãi mía rồi trong xưởng đường. 

- Khá lắm rồi ba ơi ! Mọi người giờ đây đã vui vẻ, vừa làm vừa chuyện trò ca hát vui lắm. Mấy ngày xáo trộn đó kể như đã hết. Hết hẳn rồi ba à. 

Ông Ngọc-San nghiêm giọng, trách hai chị em : 

- Bữa đó xẩy ra chuyện tày trời như vậy mà hai đứa dám giấu nhẹm đi không cho ba biết gì cả. Nếu hai anh em An, Mẫn không nói ra thì ba cũng chẳng biết trời trăng gì hết trơn. Đến nỗi ba cứ tưởng rằng mọi việc vẫn chạy đều, đâu đó vẫn êm đẹp cả. 

Trà vui vẻ nhìn cha : 

- Bây giờ thì đâu lại vào đấy như cũ rồi ! Thêm nữa, việc em Cúc bị bắt đã khiến các anh em công nhân người Thượng xúc động vô cùng. Đa số họ cho là quá đáng cái lối trừng phạt tàn bạo đó. Xúc phạm đến chỗ đất cấm là không được, nhưng đối với người lớn kìa. Chớ với một em nhỏ gái, cái đó thật là ác quá. 

Nhà điền chủ trở mình, gật đầu : 

- Vậy thì, nếu mình có tổ chức đào bới tìm kho tàng chôn dấu dưới gốc cây phượng hoa vàng, chắc chắn sẽ không sợ họ nổi lòng căm phẫn nữa. Cha con mình có thể yên tâm về mặt đó. Thế nào ? Bây giờ, hai đứa gái bé của ba ! Các con vừa nói đến một vị giáo sư nào đó hiện đang dạy môn Sử Địa tại Liên Khương. Ba muốn gặp ông ta. Ông ta đọc nhiều sách chắc hẳn thế nào cũng biết tình hình dân cư tại vùng Đức Trọng này hồi năm 1915-1916. Và rồi may ra, ông ta có thể giúp chúng ta trong việc thi hành lời di ngôn của cụ Lầm Chí Khả. 

Cúc sốt sắng : 

- Ba muốn gặp ông giáo sư ấy ? Có khó gì đâu ! Chúng con chỉ việc báo cho anh Hinh biết. Anh ấy sẽ chỉ cách tìm gặp ông ta, ba à ! 

Ông Ngọc-San mỉm cười vui vẻ : 

- Tìm được rồi, dẫn ông ấy đến nhà mình chơi. Và con nhớ bảo cả Hinh tới đây nữa, nghe ! Theo ba nghĩ, thằng nhỏ con bác Mộng Bảo chắc thích thú khi được tham gia công việc khám phá mà chính nó cũng đã có công lớn trong lúc khởi đầu. Các con nghĩ sao ? 

Cúc nhào tới, ôm cổ cha, cười khanh khách : 

- Ba đúng là ông bụt ! Ông bụt yêu quý của chúng con ! Đúng thế ! Hinh thật là một người bạn tốt vô cùng. Trong việc này, anh ấy đã bày cách, khuyên nhủ chúng con nhiều điều rất khôn ngoan. 

Ông Ngọc-San gật gật đầu, tia mắt chăm chú nhìn vào một điểm vô hình nào đó trên trần nhà. 

- Và ba cũng chưa quên là chính Hinh và anh Huy nó đã trợ lực cho các chị con hôm đi cứu con về đó. Kể cũng đáng bật cười ! Ông Mộng Bảo thường xuyên kình chống với ba. Nếu bây giờ biết được rằng các con mình lại rất thân thiết với mấy đứa con gái ‘’trâng tráo sấn sổ như con trai’’ chắc hẳn ông ta sẽ nổi trận lôi đình phải biết. 

Người cha chấm dứt câu nói bằng một tiếng cười vui. Bốn cô con gái cũng bật cười như phá. Không hẹn mà bốn em cùng nhớ lại ngày ông láng giềng khó tính sang bên trại Ngọc-San, gây điều xích mích, ngang nhiên mạt sát các em chẳng chút nương tình. Năm cha con đang hàn huyên tâm sự, cánh cửa lắp ô kính đầu hàng ba chợt mở hé. Chị Dung bước vào, dắt theo một cô gái Kinh lai Thượng : Mát-Ta con gái bác An . Mát-Ta theo chị gia nhân, bước vào phòng ông chủ lớn, ngồi thụp xuống bên chân Huệ, cất giọng nói như người sắp khóc : 

- Cô chủ ! Tội nghiệp tôi mà cô chủ ! Khổ quá ! Cảnh sát bắt anh Gô-Ban đi rồi, cô chủ ơi ! Tội nghiệp tôi mà cô chủ ! Cô chủ từ trước đến nay vẫn tử tế lắm, tốt lắm, không làm hại ai bao giờ. Vậy, cô chủ xin cho chồng tôi về đi, nghe ! Ngoài mặt thì anh ta đúng là kẻ nhúng tay làm mấy việc ác đó, nhưng sự thực anh ấy không phải kẻ thù của ông chủ lớn, của các cô chủ nhỏ đâu. Tôi nói thật đó ! Tôi thề với các cô như vậy ! 

Cúc nổi giận, mặt đỏ gay : 

- Không phải kẻ thù ? Không phải kẻ thù thì tại sao lại bắt cóc tôi rồi đem giao cho mụ phù thủy bà nội anh ta ! Tôi nhận ra anh ta rõ ràng mà. 

Mát-Ta khóc sụt sịt : 

- Phải rồi ! Đúng thế ! Đúng Gô-Ban đã cùng một người nữa bắt cô chủ út đấy. Nhưng là do lệnh của lão Khu-Ma-Ra. Lão Khu thuê tiền anh ấy để quấy phá trại mía Ngọc-San mà. Thực ra, Gô-Ban không muốn làm hại ông chủ lớn và các cô chủ nhỏ đâu. Mỗi lần phá hoại xong là anh ấy lại lập tức tìm cách chạy chữa cho ông chủ lớn đỡ bị thiệt hại. Và trước khi làm các việc xấu theo lệnh của lão Khu, bao giờ anh ấy cũng sai tôi đi báo cho các cô chủ biết đặng đề phòng đó. 

Huệ hơi cảm động, đặt tay lên vai cô gái Thượng : 

- Được rồi ! Mát-Ta đứng lên đi ! Và nói lại cho thật rõ ràng để ông chủ lớn và chúng tôi nghe coi ! 

Ông Ngọc-San đưa mắt nhìn nghiêm khắc : 

- Ừ, nói lại cho rõ coi ! Tại sao lão Khu lại dính líu tới vụ này chứ ? Hả ? 

Mát-Ta tái xanh sắc mặt : 

- Thưa ông chủ lớn ! Gô-Ban đã nói cho tôi biết là ông Khu-Ma-Ra chỉ muốn cho tất cả các công nhân bên trại này nổi lên chống đối, bỏ việc làm để mía, đường phải hư hết. Nhất là từ khi ông chủ lớn bị tai nạn thì lão mừng lắm. Lão cho rằng trại Ngọc-San thế nào cũng suy sụp. Thế là lão liền sai Gô-Ban gây ra điều rắc rối cho trại của ông chủ suy sụp lẹ hơn. Nhưng, ông ta quên không tính đến chuyện các cô chủ nhỏ rất can đảm. Thế rồi, xẩy ra chuyện cây thiêng bị xúc phạm. Chuyện đó có lợi cho việc làm xấu của lão lắm. 

Ông Ngọc-San giận quá la lớn : 

- Và cái tên Gô-Ban đã nghe lời lão quỷ ấy xúi giục thợ bên này đình công rồi chính nó đã phóng hỏa đốt xưởng đường của ta phải không ? Hừ ! Thằng chồng chưa cưới của mày đúng là đồ bất lương độc ác, nghe chưa Mát-Ta ? Ta không hiểu tại sao cha mày lại không biết điều ấy chứ ! 

Mát-Ta run rẩy nắm tay ông chủ : 

- Ông chủ lớn đừng la, đừng la ! Nghe tôi nói này, ông chủ lớn ! Gô-Ban bảo với tôi rằng : nếu anh ta từ chối không nghe lời lão Khu, lão sẽ tìm kẻ khác. Rồi lỡ kẻ khác ấy lại ra công gắng sức làm cho được việc thì còn tai hại không biết chừng nào. Chắc các cô chủ nhỏ còn nhớ chứ ? Cứ mỗi lần sắp xẩy ra chuyện gì là các cô lại được báo tin trước, có đúng thế không ? Gởi thơ báo tin về sức khỏe của cô chủ út lúc bị bắt đi cũng là do tôi đấy. 

Huệ gật đầu, ánh mắt xót thương. Nhưng chỉ một thoáng, giọng nói của em lại gay gắt : 

- Nhưng chính Gô-Ban đã bắt và dẫn em Cúc tới chỗ bà già điên ! Điều đó không thể tha thứ được ! 

Mát-Ta ngồi gục mặt buồn rầu thất vọng vì không thuyết phục được người nghe. Giọng nói của nàng ta run run thiểu não : 

- Anh ấy đưa cô chủ tới đó vì anh biết trước rằng thế nào bà cụ cũng sẽ đưa cô chủ tới đồi cỏ cháy. Một mặt, anh ấy sai tôi tới báo ngầm cho các cô chủ nhỏ biết để tổ chức cứu thoát cô chủ út. 

Ông Ngọc-San dịu hẳn nét mặt : 

- Thôi được ! Ông chủ tin Mát-Ta ! Để nhờ Cảnh Sát hỏi lại Gô-Ban. Nếu hắn chịu thú thật hết, hắn sẽ được tha về. Và ông chủ cũng sẽ rút đơn, thôi không khiếu nại nữa. 

Cô gái Thượng sung sướng đưa hai bàn tay nắm chặt tay ông chủ, miệng nói láu táu : 

- Cám ơn ! Cám ơn ông chủ lớn ! Cám ơn bốn cô chủ nhỏ ! Gô-Ban hứa với cháu là thôi không nghe lời lão Khu-Ma-Ra và cũng chẳng thèm lấy tiền bạc của ông ta nữa. Anh ấy bảo rằng chỉ thích được về làm việc với ông chủ lớn mà thôi. 

Dứt lời, Mát-Ta đứng dậy, cúi đầu chào, quay nhanh ra cửa, chạy xuống cầu thang. Hai xâu vòng đồng, vòng bạc ở cổ chân kêu leng keng như tiếng reo vui. 

Huệ mỉm cười nói với cha : 

- Mát-Ta nó quý tụi con lắm, ba à ! Quả thực nó cũng đã nhiều lần cố gắng vớt vát lại các điều lầm lỗi do chồng chưa cưới của nó gây ra. 

Ông chủ mía nói với các con : 

- Để ba gọi dây nói cho Cảnh Sát. Ba cho rằng rồi đây Gô-Ban sẽ quay về làm việc với chúng ta một cách tận tâm tận lực. Bây giờ, hai đứa út của ba lo việc đi liên lạc tìm gặp vị giáo sư trẻ tuổi dạy Sử Địa, hai chị lớn ai lo việc nấy. Đi đi các con ! Ba có cảm tưởng sở trại của cha con mình lại bắt đầu vui vẻ như những ngày nào. 

Bốn chị em quay ra. Ông Ngọc-San đưa mắt nhìn theo các con mãi cho tới khi tất cả đi khuất nơi đầu cầu thang. Đưa tay nhấc ống điện thoại, ông quay số gọi Cuộc Cảnh Sát Đức Trọng. Trong đầu ông chủ mía âm vang một ý nghĩ thật vui : “Lão quỷ Khu-Ma-Ra phen này thấy tên đồng lõa được trả tự do chắc phải lo lắng phát ốm lên được. Rồi thì “gậy ông lại đập lưng ông” ! Gô-Ban, một khi hối cãi, sẽ quay lại tố giác lão, tất nhiên mình sẽ được biết nhiều tin tức hay…” 

Trong khi tại trại mía Ngọc-San, chủ nhân, qua dây nói, nói chuyện với các nhân viên công lực, thì lão Khu-Ma-Ra, tay gian hùng, ngồi tỉ tê tâm sự với ông Mộng Bảo : 

- Thú thực với ông anh, trong vụ bắt cóc đứa con gái của ông Ngọc-San, tôi có phần nào dính líu. Cũng tưởng là lao tâm khổ trí tất nhiên sẽ đạt được mục đích mong muốn. Ai ngờ công cuộc làm ăn lại kết thúc một cách thật tréo cẳng ngỗng tại đồi cỏ cháy. Chán quá ! Mà rồi lại còn những hậu quả không hay nữa chứ. Tôi đang lo sốt vó lên đây. 

Ông Mộng Bảo cau mày : 

- Trời ơi ! Bây giờ ông lại cả gan tổ chức bắt cóc con cái người ta. Mà nhất lại là con gái nữa ! Sao ông vong mạng làm liều quá vậy ? Mà thử hỏi, kết quả có lợi gì không ? 

- Ông yên tâm đi mà ! Tôi có đích thân nhúng tay vào việc đó đâu mà lo ! Nhưng thằng gà chết ấy lần này làm hư việc hết trơn rồi ! Bắt được con bé, đem đi đâu giấu giếm không đem, nó lại dẫn tới gởi bà nội nó. Mụ già điên khùng đó lại dở rồ dở dại đem nó tới đồi cỏ cháy. Thế là đổ bể tùm lum để đến nỗi mất cả chì lẫn chài. Mụ khùng lại bị bắt luôn với thằng cháu nội gà chết nữa chứ ! Trời ơi ! Tôi cứ đinh ninh nó khôn lanh lắm mà lớ ngớ thế nào để đến nỗi… Nguy quá ! Tôi lo ngại vô cùng. Cảnh Sát hỏi mà nó phun ra sự thật ! Ai xúi bẩy, ai cho tiền để làm việc đó là chết tôi một cửa tứ rồi còn gì. 

- À, thì ra chính ông đã gài thằng Gô-Ban qua bên trại Ngọc-San để thi hành thủ đoạn phá hoại đấy ? 

Lão Khu gật đầu ra vẻ đắc chí : 

- Chứ còn gì nữa ! Ông nói đứng ! Và chắc ông anh vẫn chưa quên có một lần, tôi đã nói : “một khi con sâu đã nằm sẵn trong trái cây…” 

- Tất nhiên trái cây ấy thế nào cũng sẽ bị thối ủng ! Phải, phải ! Tôi vẫn nhớ câu ông nói bữa nào. Tuy nhiên, việc ông làm hơi có vẻ quá đáng đấy nhé ! Ông Khu-Ma-Ra ạ ! Đối với Ngọc-San tôi vẫn có ý đố kỵ gần như là ghen tức vậy đó. Nhưng chỉ có vậy thôi. Đâu đến nỗi phải lợi dụng lúc ông ta ốm đau hoạn nạn, xuống tay tác hại đến cả lũ con gái ngây thơ vô tội của ông ta. Tôi không thể tán thành việc làm ám muội của ông. 

Tay họ Khu bật cười rộ : 

- Trời đất ! Người Kinh các ông không thực tế chút nào. Thử hỏi : một khi trại mía Ngọc-San bị nguy ngập, đe dọa thường xuyên, hết tai họa này đến rủi ro khác, chủ lớn, chủ nhỏ bỏ đi hết trọi, không ai trông coi săn sóc, phải gọi người bán tống bán tháo đi. Lúc đó ông và tôi bỏ tí tiền mua lại với cái giá rẻ mạt thì ông có khoái không ? Ông lại còn “không tán thành “ với “việc làm ám muội “ nữa. Các ông chỉ biết nói cho sướng cái miệng không hà ! 

Ông Mộng Bảo bực tức ra mặt : 

- Cái đó là ý kiến riêng của ông ! Phần tôi, không bao giờ tôi lại tranh đấu một cách ám muội như thế hết. 

- Thôi đi mà ! Tranh đấu ? Tranh đấu cái gì ? Có gì nữa mà tranh đấu. Phe mình thua đứt đuôi rồi còn gì ! Con chim đầu đàn bị thương nặng, đã đứng ngoài vòng chiến. Đúng như vậy ! Nhưng, nào ngờ lại còn có “nữ tứ tử” của lão ta. Mà phải công nhận là bốn con nhỏ chiến đấu rất hăng, rất lợi hại mới nguy cho bên mình chứ.

Chương 10

Cái hàng ba rộng dài mát rợi trong tư thất của ông chủ trại Ngọc-San bữa đó vui vẻ tưng bừng như mở hội. Những tàu lá dừa tươi, hàng rào dâm bụt lá xanh ngắt điểm hoa đỏ rực rỡ. Qua trận mưa lúc rạng đông, tất cả như được gội rửa hết bụi bậm, lả ngọn, đùa với làn gió sớm đưa nhè nhẹ. Trên hai chiếc bàn dài trải khăn trắng nõn, những chiếc tách kiểu men Nhật Bản sáng loáng bên những cái ấm tích bằng sứ Giang tây. Cha con ông Ngọc-San vui vẻ chờ đón giáo sư Phúc và cậu trai tên Hinh, con ông Mộng Bảo. 

Năm dài trên ghế xích đu, người cha có vẻ nóng ruột : 

- Ba chỉ mong hai người khách quý đừng có hoãn lại buổi họp mặt này. 

Cúc chẩu môi : 

- Ba cứ nghĩ thế ! Anh Hinh con bác Mộng Bảo rất thú vị khi được mời đến dự cuộc vui này. Còn giáo sư Phúc, thì… con cũng chưa biết sao đây ! 

Đột nhiên, cô bé đứng phắt dậy, khẽ reo : 

- Kìa, khách tới rồi kìa ! 

Quả nhiên, tiếng đá cuội trên đuờng đi từ cổng lớn vào tới hàng ba kêu rào rạo dưới chân người bước. Cánh cửa bật mở. Hinh và một thanh niên trẻ tuổi, khoảng hai mươi bốn, hai mươi lăm, mái tóc đen nhánh dợn sóng tự nhiên, nét mặt đều đặn, thanh tú, bước vào. Cả hai ngả nón chào chủ nhân và bốn cô con gái. 

Ông Ngọc-San cười thật tươi, sốt sắng chìa tay cho người thanh niên mà ông tin chắc là Phúc, giáo sư dạy môn Sử Địa tại Liên Khương. 

- Hân hạnh được biết ông! Bốn cháu con gái tôi có nói chuyện về ông nhiều lắm. Còn cháu Hinh ! Bác đã được biết cháu từ lâu ! Cháu ngồi đi !... Xin mời giáo sư ngồi chơi! 

Hinh tươi hẳn nét mặt nói lời cám ơn. Rồi quay sang nhìn bốn cô “nữ tứ tử” đang đứng xếp một hàng dọc do thói quen, theo thứ tự từ cao đến thấp, trông như bốn nữ sĩ quan đang trình diện trước mặt vị chỉ huy. 

- Thưa, đây là giáo sư Phúc !... Và thưa giáo sư, đây là cô Huệ, cô Trà, Mai và em Cúc con bác Ngọc-San. Mai, Cúc, bạn đồng học với em. 

Có tiếng ông Ngọc-San : 

- Xin mời tất cả cùng ngồi ! Cha con tôi mong mỏi khách đến để chúng ta cùng uống nước trà, thưởng thức bánh đậu xanh. Rồi, tôi đề nghị, ta vừa uống nước, vừa ăn bánh cho ngọt giọng và nói ngay vào chuyện. Chắc cháu Hinh cũng đã thưa để giáo sư Phúc biết qua sự việc rồi chứ ? 

- Dạ có ! Em Hinh cũng đã nói rõ nội vụ cho tôi biết. Và thực tình, tôi cũng thấy vấn đề này có một cái gì ly kỳ lắm. Một kho tàng cất giấu từ lâu trong khu vực đất đai của ông chủ. Sự kiện đó là một việc không thể xem thường được. 

Ông Ngọc-San vui vẻ : 

- Nói cho đúng hơn thì là đất đai của tổ tiên, ông bà của chúng tôi để lại. Sở mía này, từ đời nọ tới đời kia của giòng họ Nguyễn Ngọc, nối tiếp nhau duy trì, khai thác kể từ năm 1890 kia đấy, thưa giáo sư… Theo ý giáo sư thì phiến đá hoa cương, có thể nói thẳng là bản thông tin bí mật của vị hải khấu họ Lầm, do hai cháu Mai, Cúc con gái tôi và cháu Hinh phát giác được đó, là điều có thật ? Một kho tàng chôn sáu bộ dưới đất sạu, chuyện đó, giáo sư tin là có thật không ? 

- Dạ tin lắm chứ ạ ! Nhất là điểm ghi tháng năm: tháng 3 năm 1916. Thời đó, đúng là thời kỳ “tướng giặc bể” họ Lầm giong buồm từ ngoài khơi Bắc Việt, lênh đênh trên mặt biển vào mãi tận tới bờ biển Vũng Tàu. Sở dĩ cụ Lầm mò vào tới mãi bờ biển Vũng Tàu vì trong số bộ hạ của cụ có người quê hương xứ sở tại đây. Họ biết rõ đường đi nước bước tại vùng này. Rồi cũng vì lý do giới chức cai trị đương thời kiểm soát gắt gao các thuyền bè vượt biển, cụ Lầm đã khôn khéo không cho đoàn hải thuyền cập bến mà chỉ đậu lơ lửng xa tít ngoài khơi. Đêm đêm, cùng các bộ hạ, cụ chuyển dần vàng, báu vật lên bộ, chia cho mỗi người một số. Còn lại một số lớn, với sự vui lòng thỏa thuận của các thuộc hạ, cụ phụ trách lưu giữ để chờ một ngày nào đó, thời cơ thuận tiện, sẽ đem ra xử dụng làm phương tiện hoạt động. Vì đã ở biển lâu ngày, cụ thấy chán nản, chỉ ưa thích tìm về vùng núi non rừng rú, bạn với cây cỏ, dã thú chim muông. Lầm Chí Khả giả dạng lái buôn gánh đôi bồ thuốc lá từ miệt Vũng tàu thả bước lần hồi trên con đường luân lạc. Hai bồ thuốc rất lớn, mỗi bồ có hai đáy. Dước lớp đáy giả xếp đầy thoi vàng và bảo vật trân châu. Một ngày kia, cụ dừng gót giang hồ tại vùng Đức Trọng… 

Giáo sư Phúc nhấp một ngụm nước trà, hắng giọng nói tiếp : 

- Thế rồi khi được biết gia đình ông chủ có họ hàng bà con xa với vị hải khấu anh hùng, chúng tôi mạo muội xin đưa ra giả thuết : khi tới Đức Trọng, một phần do cảnh vật nơi đây lôi cuốn, mặt khác, cụ Lầm đã gặp được thân nhân giòng họ tại chốn này. Cụ liền định cư tại đây. Ở yên chỗ rồi, việc đầu tiên cần làm là chôn giấu kho tàng báu vật. Nhưng rồi, sau một thời gian ngắn, có người về rủ, cụ lại lên đường du ngoạn hoặc với mục đích gì không rõ. Chỉ biết Lầm Chí Khả lại ra đi. Và để khỏi quên chỗ chôn giấu kho tàng, cụ mới dùng phiến đá hoa cương ghi cách thức tìm lại địa điểm bí mật… 

Cúc sung sướng vỗ tay reo : 

- Đó ! Chính chúng tôi cũng đã nghĩ như thế. Có lý nào cụ Lầm lại mất công khắc chữ vào đá, chôn dấu công phu dưới gốc cây xoài cổ thụ khơi khơi như vậy để giỡn chơi. Nhất định là phải có cái gì rồi. Chúng ta nên tổ chức đào gấp mới được ! 

Vị giáo sư trẻ tuổi nhìn cô gái con út của nhà điền chủ, cười vui vẻ : 

- Khoan đã ! Làm gấp không được đâu cô Cúc à ! Em Hinh đã nói chuyện với tôi về “cây phượng hoa vàng”. Thực ra cái cây thần bí này tôi cũng đã biết từ lâu. Chúng ta cần phải biết chắc chắn đã mới khỏi bỏ công đụng chạm vào tín ngưỡng của đồng bào. Nếu quả thật có một kho tàng chôn giấu ở đó, nhất định bên ngoài phải là một cái thùng hay hộp, hoặc két sắt gì đó chớ không đâu. Về thời ấy, những người giàu có thường hay dùng loại hộp hay két làm bằng sắt dầy có khóa rất chắc chắn. Với thời gian, nằm mãi dưới đất ẩm, hộp hay két đó bị rỉ sét đi. Chất ốc-xít-sắt từ đó mà ra, thấm dần vào đất lan tràn chung quanh chỗ chôn dấu. Việc cần làm trước là phải thám sát đất ở chỗ đó đã, lấy một ít đem về phân tích rồi mới có thể chắc chắn được. 

Ông Ngọc-San gật đầu tán thành : 

- Đúng ! Lý luận rất đúng ! 

- Quanh vùng Đức Trọng này, tôi cũng đã dự vào nhiều cuộc đào tìm cổ vật của các vị tiền nhân để lại. Nhưng rốt cuộc không đem lại kết quả gì hết. 

Mai, sắc mặt đỏ bừng : 

- Riêng lần nầy, chúng tôi tin là thế nào cũng phải có một cái gì. Tôi linh cảm thấy chắc chắn như thế. 

Cúc với Hinh đồng thanh : 

- Đúng như thế ! Thế nào cũng phải có một cái gì chớ không không được ! 

Nhà trồng tỉa nhè nhẹ gật đầu ngó vị giáo sư : 

- Vậy thì chúng ta cứ thử thời vận một phen xem sao. Giáo sư Phúc có thể giúp chúng tôi việc thám sát đất đai trong khu vực khả nghi đó chứ ? 

- Dĩ nhiên là phải thế rồi, thưa ông chủ ! Tôi sẽ bắt tay vào việc ngay. Tôi sẽ đích thân mời một người chuyên viên địa chất giúp cho một tay. Và chúng tôi sẽ tiến hành công việc về ban đêm, tiện hơn. Em Hinh làm hướng đạo vì biết địa điểm rõ lắm. 

Cúc phùng má, chẩu môi : 

- Thế còn chúng tôi ? Tôi và chị Mai lại bị gạt ra rìa sao ? Thử hỏi ai đã tìm ra phiến đá ấy chứ ? 

Ông Ngọc-San lại phải nói cười vui vẻ để khỏa lấp những lời oán giận của cô con gái út. Người cha chỉ e ngại ông khách quý mếch lòng : 

- Không, Cúc, Mai không thể đi được đâu, các con ! Nếu ba để cho các con, ban đêm lần mò ra khỏi nhà, chị Dung nó lại làm ồn lên thì đổ bể tùm lum, đến tai mọi người, phiền lắm ! 

Mai tỏ vẻ hiểu biết hơn em : 

- Ba nói đúng ! Chúng mình đừng đi, Cúc ạ ! Hinh thay thế chị em mình cũng đủ rồi. 

Cậu con trai ông Mộng Bảo nhìn hai bạn thân cười ròn rã : 

- Mai, Cúc cứ yên tâm. Tôi sẽ cố gắng làm việc thật cẩn thận, thật kín đáo, không sợ xẩy ra rắc rối như mấy lần trước đâu.

Huệ vui vẻ bảo mọi người : 

- Trong khi chờ đợi đoàn người thám hiểm trong đêm tối, bây giờ xin hãy uống nước trà thơm, thưởng thức bánh đậu xanh đã, kẻo nguội hết, mất ngon. 

Giáo sư Phúc tính tình vui vẻ cởi mở, đã chinh phục được cảm tình của toàn thể gia đình ông Ngọc-San. Rồi đây công việc trinh sát, phân tích mẫu đất nơi nghi ngờ có kho tàng sẽ khiến ông năng lui tới trại mía. Mối cảm tình liên lạc lại càng thêm thắm thiết. Cha con nhà trồng tỉa, mỗi khi nghĩ đến điều đó lại cảm thấy vui vẻ ấm áp trong lòng. 

Ông Ngọc-San đưa tay bắt tay giáo sư Phúc thật nồng nhiệt : 

- May mắn nhờ cháu Hinh con ông Mộng Bảo mà cha con tôi mới được biết giáo sư. Phiến đá kỳ lạ mấy cháu nhỏ phát giác được khiến chúng tôi sẽ được dịp tiếp xúc với giáo sư luôn luôn. Vậy, có tin tức gì hay, cửa nhà chúng tôi lúc nào cũng rộng mở giáo sư cứ tùy tiện đến bất cứ lúc nào. 

Giáo sư Phúc cười tươi : 

- Thưa vâng ! Ông chủ cứ an tâm nằm tĩnh dưỡng. Công việc kết quả ra sao, chúng tôi xin sẽ chạy tới báo tin ngay. 

Tất cả mọi người bên trại mía Ngọc-San đều hết sức quan tâm đến việc thám sát đất đai nơi gốc cây phượng hoa vàng. Sau mấy ngày sốt ruột đợi chờ, một buổi sáng sớm, cả nhà chưa ai thức giấc, Cúc, Mai đã sồng sộc chạy vào phòng cha reo mừng ầm ĩ. Huệ, Trà ngủ phòng bên, cũng giật mình thức giấc. 

Cúc chạy lại ghé vào tai cha : 

- Ba ơi ! Dậy, dậy đi ba ! Bản đá thông tin đã nói thật rồi ba ơi ! Đất tại gốc cây phượng hoa vàng quả có nhiều chất ốc-xít-sắt, ba à ! Việc thám sát, phân tích cho biết như thế. Nhất định ở dưới đất phải có két sắt rồi, ba ơi ! 

Ông Ngọc-San dụi nhanh đôi mắt ngái ngủ : 

- Thật không con ? Chắc chắn chứ? 

- Chắc chắn rồi ba ! Hinh vừa mới cho con biết và giáo sư Phúc chút nữa thế nào cũng tới nói rõ cho ba hay đó. Trời ơi ! Thú quá ! 

- Được rồi ! Để ba đợi ông Phúc. Và rồi ba sẽ thảo luận với ông ấy cách thức đào bới sao cho chu đáo mọi bề. Chỉ mong sao các ông ấy không bị “bé cái lầm” ! Biết đâu chất ốc-xít-sắt lại chẳng do một cái soong hay cái nồi nát của ai liệng bỏ ở đó từ lâu. 

Cúc phụng phịu : 

- Ba kỳ quá hà ! Ba nói vậy làm con cụt hứng hết trơn rồi ! 

- Ừ thì thôi ! Đừng có nặng mặt ra thế kia, đi cưng ! Thật tình ba cũng tin lời di ngôn của cụ Lầm lắm và dưới gốc cây phượng kia chắc thế nào cũng phải có một cái gì. 

Cúc sung sướng nhẩy tưng tưng : 

- Chị Mai ơi ! Thế là ba đã về phe với tụi mình rồi đó, thấy chưa ? Bây giờ chỉ còn chờ giáo sư Phúc tới nữa thôi. Chà ! Giáo sư Phúc, ông vua Sử Địa, cháu cưng của hai nhà sản xuất ‘’bánh cuốn chả lụa’’ ! 

Mai bật cười sằng sặc : 

- Cúc ồn quá hà ! Coi chừng ! Mọi người còn ngủ, làm ồn lên thế chị Dung ‘’bà chằn’’ lại hùng hục xuất hiện la toáng lên bây giờ. 

Người cha cũng vui lây cái vui của các con. Ông trợn mắt, lắc đầu, le lưỡi : 

- Ấy ! Ấy ! Cái gì chớ ‘’bà chằn lửa’’ thì ngay cả ba cũng phải ớn luôn đó ! 

Mãi đến xế chiều, giáo sư Phúc mới tới. Anh Giang đưa nhà mô phạm trẻ tuổi vào hàng ba. Ở đó, mọi người trong gia đình đã tề tựu đông đủ. Ông chủ cũng đã được gia nhân bồng xuống đặt nghỉ trên tấm ghế ngựa. Thấy khách bước vào, ông vui vẻ giơ tay : 

- Kính chào giáo sư Phúc ! Các con tôi đã được biết tin vui ! Cuộc thám sát, phân tích chỗ đất khả nghi có kết quả tốt rồi, phải vậy chăng, thưa giáo sư ? 

- Dạ, đúng như thế, thưa ông chủ ! Dưới đất chỗ ấy, quả có một loại hộp hay thùng gì đó bắng kim khí, chôn lâu ngày, tan rã biến thành chất ốc-xít-sắt. Bây giờ chỉ còn lo tính việc đào bới tìm tòi mà thôi. Ấn định ngày giờ bắt tay vào việc, xin để ông chủ ra lệnh ! 

Giọng nói ông Ngọc-San chợt run run : 

- Dạ được, để tôi nghĩ kỹ chút coi ! 

Sắc diện ông chủ đột nhiên biến đổi khác thường. Từ lúc giáo sư Phúc bước vào nhà, ông chủ đã có một cảm giác rất lạ. Cái cảm giác kỳ quái ấy cứ tăng dần cường độ để đến giây phút này khiến ông xúc động đến mức đầu váng mắt hoa. 

- Dạ… giáo sư miễn chấp cho sự bất thường của một người đau nặng mới khỏi. Đột nhiên, chẳng hiểu sao, tôi bỗng thấy xây xẩm cả mặt mày, không còn đủ hơi sức để bàn soạn công việc nữa. Cảm phiền giáo sư hãy thảo luận cùng các cháu, con gái tôi. Các cháu cũng biết được nhiều điều, và tụi nó rất thích thú khi hầu chuyện giáo sư. 

Huệ cô chị cả lo ngại vì cơn mệt đột ngột của cha : 

- Ba tôi nói rất đúng ! Xin mời giáo sư tới đầu kia để chúng tôi được hầu chuyện. Chị em chúng tôi còn nhiều điểm chi tiết liên hệ tới phiến đá bí mật cần được phân tích rõ rệt. Hai em Mai và Cúc đây đã trình bày để giáo sư giải thích dùm cho. 

Cúc reo lên : 

- Có thế chứ ! Chúng em cũng có quyền phát biểu ý kiến chứ bộ ! Bây giờ xin giáo sư Phúc cho chúng tôi biết những công việc gì đã được tiến hành hồi đêm qua. 

Thế là cuộc đối thoại giữa giáo sư Phúc và ”nữ tứ tử”, cứ đà ấy, nổ như bắp rang. Tiếng nói, tiếng cười vang lên rộn ràng, náo nhiệt. Ai nấy hứng trí, không chịu ngồi mà cứ đứng cả lên. Kẻ nói, người nghe đều chăm chú vào đề tài câu chuyện. Giáo sư Phúc vừa nói vừa khoa chân múa tay. Ngôn ngữ, cử chỉ rất hùng biện, lôi cuốn người nghe hết sức. 

Đôi lúc, ông ta vô tình đứng sát bên Huệ, cô gái đầu đàn, giơ tay vẽ phác sơ đồ, giải thích từng công việc đào bới sẽ thực hiện. Hai khuôn mặt giáo sư Phúc và Huệ, có nhiều nét giống nhau như tạc, lọt vào tia nhìn sắc bén của cô “tiểu kỹ sư” Trà, khiến em phải giật mình thảng thốt. 

Trà bước nhanh về phía ghế ngựa nơi ông Ngọc-San đang nằm nghỉ. Em chộp vào cổ tay cha, chỉ về phía bọn người đang mải mê nói chuyện : 

- Ba ơi ! Ba để ý mà coi ! Chị Huệ và giáo sư Phúc sao nét mặt có nhiều điểm giống nhau quá hả ba ? Đặc biệt, nơi sống mũi chỗ cách ngăn hai con mắt, và khi cười, vành môi nhếch nhẹ một bên đó ba. Ba thấy không ? Nhất là đôi mắt khì quắc lên. Trời ơi ! ba thấy không ba ? 

Tiếng nói người cha đã yếu ớt, bây giờ lại run rẩy nhiều hơn : 

- Trà, cưng của ba ! Thấy, thấy rồi ! Ba đã cảm thấy rõ rệt có một cái gì lạ lắm kể từ khi giáo sư Phúc đặt chân vào nhà ta lần đầu tiên. Chỉ có con là tinh ý đoán ra được niềm băn khoăn thầm kín nơi nội tâm ba mà thôi ! Để ba hỏi thẳng vị giáo sư trẻ tuổi này coi thử… 

Ba chị em Huệ, Mai, Cúc thấy hai cha con xầm xì vội chạy ùa đến. Huệ hốt hoảng : 

- Cái gì thế, ba ? Ba đột nhiên thấy mệt hả Ba ? Trà, ba làm sao vậy ? 

Ông Ngọc-San và Trà không trả lời. Người cha chỉ đưa tay gạt nhẹ các con ra, khẽ vẫy vẫy mời giáo sư Phúc tới gần : 

- Giáo sư cảm phiền, thứ lỗi cho tôi nhé ! Một kẻ mới ốm dậy, đôi khi thường có những cử chỉ hơi kỳ quái… Nếu không có điều gì trở ngại, xin giáo sư cho phép… được chăng ? Giáo sư làm ơn… vén dùm lọn tóc phía sau tai bên phải của giáo sư chút xíu ! 

Chàng thanh niên hơi sửng sốt ngạc nhiên, nhưng theo phép lịch sự, cũng mỉm cười, tiến lại gần người bệnh, nhẹ nhàng quỳ thấp một bên đầu gối, khẽ ngả đầu : 

- Dạ có gì đâu. Xin ông chủ cứ tự tiện ! 

Ông Ngọc-San đưa bàn tay run rẩy vén cao thêm mới tóc đen mượt bên cạnh vành tai mé phải của giáo sư Phúc, mắt nhìn chăm chú. Sắc diện ông ngây ra tới mấy giây, đầu ngả vật xuống mặt gối êm, nét mặt giao động thật kỳ lạ. Đôi môi ông mấp máy chỉ để lọt những tiếng lắp bắp rất khẽ : 

- Vết sẹo ! Vết sẹo ! Giống vết sẹo của bé Trung y hệt… ! Vết sẹo sau khi nó mổ cái nhọt bọc. Trời ơi ! Có thể thế được chăng ? 

Huệ thính tai lắm. Em ghé sát mặt hỏi cha : 

- Ba nói gì hả ba ? Trung, Trung nào ? Ba nhắc tới anh Trung bị sóng biển cuốn đi mất tích hồi mới lên một ấy hả ba ? 

- Hồi đó nghe mọi người nói thế thì ba và má con cũng chỉ biết thế. Còn bằng chứng cụ thể thì lại chẳng có gì hết. 

- Vậy để con hỏi lại giáo sư Phúc nghe ba ! Thưa giáo sư, xin giáo sư miễn chấp cho sự bất thường của ba tôi. Trong người còn yếu thành thử đôi khi chợt có những cử chỉ hơi lạ. Lại nữa, ngày xưa ba tôi cũng có một người con trai sanh trước tôi bị mất tích. Anh ấy cũng có một vết sẹo sau vành tai bên tay phải… Thưa, thế… thế, giáo sư thật là cháu đích tôn của cụ đồ Khải ? 

Giáo sư Phúc đột nhiên tái xanh sắc mặt : 

- Dạ… dạ… Tôi chỉ là cháu nuôi của hai cụ đồ Khải mà thôi. Hai cụ kể rằng đã lượm được tôi nhân một cuộc dạo chơi ngoài bãi biển. Hồi đó tôi mới được hơn một năm. Không hiểu đã bị ai vất bỏ bơ vơ ngoài đó. Hai cụ thấy vậy thương tình, đem về nuôi, rồi nhận làm cháu… 

Ông Ngọc-San run run cất tiếng hỏi ; giọng ông nghẹn ngào, hình như khó khăn lắm mới thoát ra khỏi cuống họng : 

- Và năm nay giáo sư được bao nhiêu tuổi rồi nhỉ ? 

- Dạ… hai mươi bốn, thêm hai tháng ! 

Ông chỉ mía đưa bàn tay trắng xanh lên ôm trán. Miệng ông lẩm bẩm : 

- Ta mơ chăng, hay đây đang là sự thật ? Cháu Trung, con tôi, nếu còn cũng đồng tuổi với giáo sư. Cách đây hai mươi ba năm, sau khi bị mổ cái ung nhọt, cháu nó cũng mang một vết sẹo sau vành tai bên phải y như của ông. Sau đó, chị vú người Thượng tên Tô-Lách nuôi nó, được tôi cho bồng em xuống Nha-Trang ở ít lâu để thay đổi không khí, có lợi cho sức khỏe của cháu. Thế rồi… thế rồi, một ngày kia, chị vú đặt em nằm hóng mát ngoài bãi biển, sơ ý thế nào để em bị sóng biển cuốn đi mất tích. Có thật thế chăng hay mụ ấy đã nói gạt chúng tôi. Và để làm gì chứ ? 

Trà cúi xuống cầm tay cha : 

- Có lần ba nói với tụi con rằng hiện thời Tô-Lách đang mở tiệm bán vải trên Đà-Lạt, phải không ba ? Vậy bây giờ đi tìm chị ta, hỏi kỹ lại, buộc chị ta phải nói sự thật xem thế nào ? 

Giáo sư Phúc sốt sắng : 

- Tôi xin đi tìm Tô-Lách. Nhiều sự kiện trùng hợp kỳ quái khiến ông chủ nghi ngờ cho rằng cái chết của cậu Trung là giả tạo. Những điểm ấy cũng khiến tôi thắc mắc chẳng yên lòng. Hiện thời, chị ta bán hàng vải tại Đà-Lạt phải chăng, thưa ông chủ ? 

- Đúng như thế đó, giáo sư. Cách đây mấy tháng, anh ruột của Tô-Lách, trồng rau tại đường ta chợ Đức Trọng, gặp tôi, có nói chuyện cho hay số nhà 1444 đường Hàm Nghi, Đà-Lạt. 

- Ông chủ và các cô cho phép tôi ra về. Ngay tối nay, bẩy giờ, còn chuyến xe chót lên Đà-Lạt, tôi sẽ đáp chuyến đó lên luôn. Sáng sớm mai là đã có thể đi tìm gặp chị ta được rồi. Khi về, xin sẽ đến ngay báo tin để ông chủ và các cô biết kết quả rõ rệt. 

Ông Ngọc-San cảm động không nói nên lời, chỉ giơ tay nắm chặt bàn tay giáo sư Phúc. Chàng thanh niên mô phạm giữ tay người bệnh trong tay mình một lúc lâu. Ông chủ mía nhân đức, nhưng chẳng may mắc phải bạo bệnh này biết đâu lại chẳng là cha đẻ ra mình. Ý nghĩ ấm lòng ấy khiến giáo sư Phúc cảm thấy một niềm thương yêu tràn ngập nội tâm đối với người nằm dài trên giường bệnh. Tia mắt chàng tra chợt bắt gặp bóng hình bốn cô gái con ông chủ mía đang đứng im lặng, ngây người ngạc nhiên. Nhãn quang của Huệ, Trà, Mai, Cúc ngắm nhìn người con trai, giây phút này, ánh lên những tia sáng rất lạ, thắm đượm nhiều tình cảm mới mẻ, thiêng liêng không tả được bằng lới. Giáo sư Phúc vội vàng ngả đầu, quay phắt ra, bước nhanh như người chạy trốn. Phút sau, bóng ông giáo sư trẻ đã khuất sau rặng dừa cao, bóng lá rủ buông trên con đường trải đá mờ mờ màu tím thẫm. 

Khách đi khỏi rồi, bốn chị em chạy lại bên cha. Tất cả đồng thanh cất tiếng lao xao : 

- Ba ơi ! Có thể thế được không, hả ba ? 

Ông Ngọc-San thở một hơi nhẹ, thật dái : 

- Chưa biết đâu được, các con à ! … Trăm sự xin để nhờ trời ! 

Đà-Lạt, sáng hôm sau. Lúc đó, mới vào khoảng chín giờ. Giáo sư Phúc đã đứng trước cửa tiệm vải số 1444 đường Hàm Nghi. Một thiếu phụ khoảng năm chục tuổi, ăn mặc sang trọng, theo lối người Kinh, nhưng khuôn mặt vẫn còn sót lại ít nét ngây thơ chất phác của đồng bào Thượng, đang đứng xếp lại những xấp vải ngoại quốc đắt tiền trong tủ kính. 

Vừa bước vào, chàng trai đã hỏi ngay : 

- Xin lỗi, bà là Tô-Lách ? 

Thiếu phụ nghiêng người, khẽ gật đầu xác nhận : 

- Tôi có một việc rất quan trọng muốn nói với bà. Bà có nơi nào kín đáo một chút để nói chuyện mà không ngại ai làm phiền không ? 

- Dạ, xin mời ông vào trong nhà ! 

Dứt lời, thiếu phụ đưa tay mở một cánh cửa gỗ bọc mủ, vân xanh rất đẹp. Giáo sư Phúc bước vào. Thiếu phụ chỉ chiếc ghế bành mời khách ngồi. Rồi bà kéo một chiếc gỗ cẩm lai lại gần, ngồi xuống đối diện : 

- Có việc gì ông cứ cho biết. Tôi xin nghe. 

Giáo sư Phúc, hàm răng khẽ cắn viền môi dưới, nhẹ nhàng điều hòa hơi thở, xong, đi thẳng ngay vào vấn đề : 

- Tôi muốn biết : bà sẽ nói sao nếu tôi bảo thẳng cho bà hay rằng tôi là thằng nhỏ tên Nguyễn Ngọc Trung mà cách đây hai mươi ba năm bà đã liệng bỏ trong hốc đá ngoài bãi biển Nha-Trang rồi về nói gạt cha mẹ nó rằng thằng bé đã bị sóng biển cuốn đi mất tích ? 

Sắc mặt thiếu phụ chợt nhợt ra không khác sáp ong, toàn thân như bị điện giựt, đứng phắt lên, rời khỏi ghế ngồi. Sắc diện lộ vẻ kinh hoàng đến cực điểm, bà ta trợn mắt nhìn chàng trai không chớp, đôi chân run lẩy bẩy tự động lùi, lùi mãi cho tới khi sau lưng đụng phải mặt tường. Đôi môi bà ta run lên, tiếng nói thoát ra nghe líu ríu như người nói ngọng : 

- Tôi nói… nói… nói rằng… không… không thể như thế được ! Vô lý ! Sóng biển đã cuốn nó đi mất tích. Gia đình nhà nó, cha mẹ nó cũng đã biết thế rồi mà ! 

Giáo sư Phúc quát lên, nắm chặt cổ tay người đàn bà, đồng thời đổi cách xưng hô : 

- Khốn nạn ! Mụ nói dối ! Đứa bé đó chưa chết ! Nó hãy còn sống, biết chưa ? Và… và nó đã lớn rồi, trưởng thành rồi ! Hiện nó đang đứng trước mặt mụ, đang nói chuyện với mụ đây này. Tóm lại, tôi muốn biết sự thực, trăm phần trăm sự thực ! Nếu mụ nói hết sự thực ra, mụ sẽ khỏi lo gì cả. Tôi hứa danh dự với mụ như vậy. Nhưng, nếu mụ nói dối thì… 

Mụ Tô-Lách vội vàng : 

- Không, không ! Tôi không dám nói dối đâu ! Cậu thương hại dùm tôi. Tôi sẽ nói thật, nói tất cả sự thật, không giấu diếm mảy may ! Nói được ra như thế, có lẽ tôi sẽ hết được hối hận ray rứt lương tâm từ bấy đến nay. Cậu hãy bỏ tay tôi ra… 

- Không ! Mụ phải nói hết sự thật đã ! Tại sao mụ lại hành động như vậy chứ, hả ? 

- Trăm điều cũng do con mụ Rát-Gia mà ra cả. Con mụ điên, con mụ cuồng tín u mê ấy. Hồi đó, tôi còn trẻ, dại khờ và ngu dốt lắm. Mụ điên đã thuyết phục được tôi, nói láo rằng muốn trừ bỏ được mọi tai họa do cây phượng hoa vàng thiêng liêng kia giáng xuống trại mía Ngọc-San thì phải cúng thần linh một đứa trẻ con. Mụ đã bắt buộc tôi phải thốt lời thể : “Sẽ liệng thằng bé tên Trung, con ông Ngọc-San xuống biển”. Tôi khóc lóc, van xin, vô cùng đau khổ, nhưng vẫn phải cất lời thề nguyện. 

Chàng trai nghiến răng : 

- Khốn nạn ! 

- Thế rồi mụ Rát cứ đeo dính lấy tôi. Năm ngày, bẩy ngày lại tới dòm chừng, hối thúc tôi phải thi hành lời ước thệ. Một hôm, tôi cho mụ biết là tôi đã làm việc đó rồi. Và để mụ “phù thủy” khỏi bắt gặp thằng bé người Kinh tại nhà, tôi đã bồng nó ra ngoài bãi biển xa, thật xa, đem giấu vào một hốc đá trên bờ biển. Cũng hôm đó, vào lúc đêm khuya, tôi trở lại, mò ra hốc đá : đứa nhỏ không còn ở đấy nữa. Chắc hẳn ai đó, tình cờ bắt gặp, đã bế đi rồi ? 

Chàng thanh niên buông cổ tay thiếu phụ : 

- Thế rồi mụ còn nhẫn tâm thông báo láo khoét cho cha mẹ đứa con nít ấy là nó đã chết rồi. Mụ không thấy thương tâm khi đứng trước một người mẹ rơi nước mắt khóc đứa con yêu ? Mặt mũi mụ thế kia, mắt miệng mụ như vậy mà mụ lại có thể nói dối trắng trợn đến cỡ đó ? 

Mụ Tô-Lách úp mặt vào hai bàn tay. Âm thanh giọng nói nghẹn ngào đầy nước mắt : 

- Tôi sợ mụ Rát-Gai quá đi ! Và sợ hãi cả thần linh nữa ! 

Giáo sư Phúc cũng nghẹn ngào : 

- Thành ra chỉ tại mụ mà tôi không được biết mặt mẹ. Chỉ do mụ mà cha tôi phải nhớ thương buồn khổ suốt từng ấy năm trời. Tội lỗi của mụ thật là kinh tởm tuy mụ đã không nỡ xuống tay giết tôi chết thật. 

Thiếu phụ nức nở : 

- Cậu tha tội cho tôi, nghe cậu ! Mụ Rát-Gia mà còn sống, sự thật ghê gớm ấy tôi vẫn phải giữ kín mãi mãi trong lòng. Mụ mà biết được tôi chỉ còn một chết mà thôi. Vả lại, làm sao tôi biết được là đã có kẻ nào lượm được đứa con nít ấy ? Hoặc biết đâu nó đã chẳng bị sóng biển cuốn đi mất tiêu thật rồi ? 

- Thôi được ! Thế là đủ ! Như tôi đã hứa, chị sẽ không bị pháp luật truy tố gì hết, nhưng chị phải thú thật tất cả trước mặt ông Ngọc-San. Tôi muốn ông được nghe chính miệng chị kể lại câu chuyện vừa mới nói với tôi, nghe chưa ? 

Tô-Lách gật đầu lia lịa : 

- Dạ, dạ ! Tôi xin nghe lời cậu. Hôm nào cần xuống trại Ngọc-San, cậu nhớ báo trước cho tôi biết ! 

Giáo sư Phúc bước ra khỏi tiệm vải, tâm tư vô cùng giao động. Sự thật đã quá rõ ràng. Không còn nghi ngờ gì nữa. Ngày tháng năm, bối cảnh, vết sẹo nơi vành tai bên phải, nét mặt giống nhau y hệt… tất cả những chi tiết ấy chứng minh rõ rệt chàng đúng là đứa con trai đầu lòng của ông Ngọc-San. Đứa con mà mọi người vẫn đinh ninh là đã làm mồi cho cá biển. Vậy, chàng trai tên Phúc,… giáo sư Phúc dạy môn Sử Địa giỏi có tiếng tại trường Trung Học Liên Khương vẫn có một người cha ruột lúc nào cũng nhớ thương đứa con mất tích. 

Niềm cảm thương tràn ngập trong lòng, hân hoan dâng lên khóe mắt, biến thành hai giọt nước nóng hổi. Hai giọt nước ấy to dần, to dần, trào ra, lăn dài xuống má. Đã bao lần, chàng trai phân vân, thắc mắc về bí mật xuất xứ của mình. Cha mẹ ruột chàng là ai ? Các người còn sống hay đã chết ? Rồi lại niềm tri ân sâu xa đối với ông bà nuôi, săn sóc dưỡng dục từ lúc mình còn ẵm ngữa nằm nôi. Đến khi lớn cho ăn, đi học, để rồi có được ngày nay. 

“Ba… ! Các em gái !” Những danh từ thiêng liêng ấy, chàng lẩm bẩm với niềm hân hoan tuyệt đỉnh. Xen lẫn vào đó là sự ngạc nhiên bỡ ngỡ nhưng thích thú vô cùng. Giáo sư Phúc bỡ ngỡ vì những tiếng : Ba ! Các em gái ! Những tiếng gọi êm dịu, chưa được miệng chàng thốt ra một lần nào. “Phải báo tin cho “ba” yên trí ! Cho các “em gái” vui mừng mới được." 

Nhà bưu điện ở ngay phía bên kia đường. Chàng trai nhảy vọt sang. Hai bàn chân như có lò xo đẩy, bước nhẹ như tên. 

Một tiếng đồng hồ sau, tại tư thất của ông Ngọc-San, anh Giang đã đem vào cho chủ nhân bức điện tín màu xanh nhạt. Bên ngoài in rõ ba chữ Nguyễn-Ngọc-San. ‘’ Nữ tứ tử’’xúm lại bên giuờng cha. Năm cha con châu đầu trên mảnh giấy nhỏ bé nhưng gói ghém cả một niềm hồi hộp vô bờ. Ông Ngọc-San tay run run bóc tờ giấy. Trà hắng giọng đọc to : 

“Tô-Lách đã thú thật, xác nhận đứa bé không bị sóng biển cuốn đi. Bỏ trong hốc đá cao, được đôi vợ chồng đi tắm biển lượm về nuôi. Hiện nay là ông bà nuôi của đứa bé đã trưởng thành. Giáo sư Phúc chính là đứa bé đó. Hạnh phúc vô biên của cha con, anh em chúng ta. Sáng mai con sẽ ở trong vòng tay ba và các em gái. 

Nguyễn-Ngọc-Trung” 

Ông Ngọc-San xúc động, nói chẳng nên lời : 

- Nguyễn-Ngọc-Trung ! Trung ! Con trai yêu quý của ba ! 

Cúc reo hò ầm ĩ, đồng thời nhẩy quẩn lên như con dê con xổng chuồng. 

Huệ, nét mặt hân hoan, rạng rỡ : 

- Anh trai ! Chúng ta có anh trai ! Trời ơi ! Thú quá ! Không còn ‘’nữ tứ tử’’ nữa nghe ! Bây giờ ba có tới ‘’ngũ tử’’ ! 

Cúc hét lên : 

- Tứ tử trình làng ! Ngũ tử cướp cái ! Hí, hí ! 

Mai nói lớn : 

- Phải ăn mừng mới được, ba ơi ! Cúc bảo chị Dung đem bình rượu dâu của chị ấy ra uống mừng đi. Lẹ lên ! Chị Dung làm được một bình rượu dâu ngon lắm, dấu ở dưới bếp ấy ! 

Trà nghiêm nghị mắng các em : 

- Mai, Cúc làm ồn quá ! Các em ích kỷ thật ! Chẳng ai dòm nom gì tới ba hết trơn. Ba vui sướng trong lòng, nhưng ốm đau bệnh tật nên không thể nhẩy múa vui đùa như các em được. Coi kìa ! Ba vui mừng quá nên chảy nước mắt khóc kìa, thấy không ? 

Chớp mắt, bốn cô gái đã xúm lại bên tấm ghế ngựa. Cả bốn đồng lên tiếng thành thử không nhận ra giọng nói của ai : 

- Ba vui mừng đón rước con trai như vậy hả ba ? Phải vui lên chứ, hả ba ! Ba phải hết sức tươi cười với chúng con chứ ! Sáng mai khi về tới nhà, thấy mắt ba đỏ hoe thế kia, không biết anh Trung sẽ nói sao đây chứ ! 

Người cha dang hai tay ôm lấy tay của bốn con gái. Nét mặt ông tươi trẻ hẳn ra với nụ cười rạng rỡ điểm trên đôi môi đã nhuộm sắc hồng tươi. 

- Anh Trung các con sẽ nói gì hả ? Ồ, anh các con sẽ nói rằng : những giọt nước mắt sung sướng là những liều thuốc bổ gột rửa cho người ta hết được mọi nỗi đau khổ triền miên và khiến người ta mau chóng làm quen với hạnh phúc mới. Ba đánh cá với các con: khi được ba ôm trong vòng tay ấm áp, thằng Trung thế nào cũng sẽ ứa nước mắt khóc vì sung sướng. Rồi đó các con coi !

Xem tiếp chương 11 & 12