Dấu tử thần - Phần 3 & 4

Phần 3

Trong những lúc như thế, tôi thấy mặt bác ướt đẫm mồ hôi : Như vừa nhúng vào một chậu nước vậy.

Đến đây tôi xin vắn tắt để khỏi làm ông sốt ruột, thưa ông Sĩ Lâm. Một đêm kia, bác tôi cũng lại say sưa như vậy nữa, nhưng ông chết ngay trong đêm đó. Khi chúng tôi đi tìm, thì thấy ông nằm cắm đầu vào một cái ao nhỏ nước xanh lè ở cuối vườn. Trên mình ông không có một vết tích, và nước ao chỉ sâu có sáu mươi phân. Vì thế mà quan tòa, biết rõ tính tình kỳ dị của ông, đã nói rằng ông tự sát chết. Nhưng tôi, tôi biết rằng ông rất thù ghét ý nghĩ rằng một ngày kia sẽ phải chết, và tôi không tin nổi là ông đã cố tâm đi tìm cái chết trong vụ này. Tuy vậy câu chuyện cũng qua đi và sau đó cha tôi lãnh căn trại và lối mười bốn nghìn bảng mà bác tôi để lại trong ngân hàng.

Sĩ Lâm can thiệp:

- Xin lỗi ông một chút. Câu chuyện ông đang thuật thật hết sức đặc biệt trong số những câu chuyện mà tôi đã được nghe. Bác ông nhận được bức thư vào ngày nào và ông… tự tử vào ngày nào?

- Bức thư tới ngày 10 tháng ba năm 1883. Ông mất bảy tuần sau đó, trong đêm 2 tháng năm.

- Cám ơn. Xin ông thuật tiếp đi.

- Khi cha tôi đã tới nhận căn nhà ở Hồ Sam, thì tôi có yêu cầu ông xem xét kỹ căn phòng kho dưới mái nhà, cửa vẫn khóa chặt. Chúng tôi thấy có một cái rương đồng, dầu giấy tờ chứa bên trong đã bị đốt hết. Phía trong nắp rương có mang một tờ nhãn hiệu, với ba chữ K. K. K. và những chữ : “Thư từ, sổ sách, biên lai, hồ sơ” viết bên dưới, chắc là để chỉ dẫn về loại của những thứ giấy tờ đã bị bác tôi đốt. Phần còn lại trong phòng thì không có gì đặc sắc hết, trừ những tuần báo và nhật báo, có nói về bác tôi hồi bác sống bên Mỹ. Vài tờ có từ hồi chiến tranh và chứng tỏ rằng bác đã làm hết bổn phận, và được ngợi khen là một người can đảm. Tờ khác, ra hồi thiết lập lại chế độ ở miền Nam Hoa Kỳ, và toàn nói về chính trị, vì bác tôi hồi ấy đã kịch liệt chống lại những ứng cử dân biểu nguồn gốc miền Bắc.

Hồi đầu năm 1884, cha tôi tới ở Hồ Sam, và mọi việc rất tốt đẹp cho đến tháng giêng năm 1885. Ngày mồng bốn đầu năm, khi chúng tôi vừa ngồi vào bàn, tôi bỗng nghe cha tôi kêu lên một tiếng ngạc nhiên. Đến giờ đây tôi còn như thấy trước mắt hình ảnh của cha tôi, một tay cầm một bao thư, tay kia cầm năm hột cam khô. Lúc trước, khi nghe tôi kể lại chuyện này, cha tôi vẫn thường cười chế nhạo, cho là tôi bịa đặt, nhưng lần này khi nó xảy đến cho chính ông làm ông trở nên nghiêm trọng và bối rối.

- Thế này có nghĩa là gì vậy, Giang Âu?

Tim tôi như ngừng đập trong vài giây. Tôi nói:

- Đó là bọn K. K. K.

Ông nhìn vào phía trong bao thư rồi la lên:

- Đúng rồi, cũng những chữ đó… Nhưng phía trên có viết gì?

Tôi nhìn qua vai ông, đọc:

- Đặt những giấy tờ trên cái đồng hồ mặt trời.

Ba tôi nói:

- Nhưng tờ nào? Đồng hồ mặt trời nào?

Tôi trả lời:

- Cái đồng hồ mặt trời trong vườn, chẳng có cái nào khác! Còn về giấy tờ, chắc đó là những giấy má đã bị đốt.

Ba tôi gắng gượng giữ can đảm. Ông nói:

- Kệ. Mình đang ở đây trong một xứ văn minh chả nên để ý đến thứ chuyện bịp bợm như vậy. Thư gửi tới từ nơi nào?

- Ở Đăng Đế.

Ông nói:

- Trò chơi vớ vẩn. Ta thì ăn nhập gì đến cái đồng hồ mặt trời và những giấy tờ đó? Ba không thèm để ý đến chuyện ngu ngốc đó!

Tôi e ngại:

- Ba phải đi báo cảnh sát mới được.

- Để cả xứ họ cười cho ấy à? Không khi nào!

- Thế để con đi báo.

- Không, ba cấm con. Ba không muốn gây rắc rối vì một chuyện ngốc nghếch như vậy.

Vì ba tôi rất cứng đầu, tôi hiểu rằng không nên nói thêm nữa. Nhưng tôi vẫn cảm thấy tâm hồn nặng trĩu.

Ba ngày sau khi nhận được lá thư đó, ba tôi đi thăm một người bạn cũ, ở một ngọn đồi gần đấy. Tôi rất lấy làm mừng về chuyến thăm viếng này của ba tôi, vì tôi nghĩ là nếu ông đi xa nhà thì sẽ bớt nguy hiểm cho ông hơn. Ngày hôm sau khi ba tôi đi, thì tôi nhận được một bức điện tín của ông bạn ba tôi, bảo tôi phải tới ngay. Ba tôi đã bị ngã xuống một cái vực đá vôi và ở quanh vùng có rất nhiều vực như vậy. Lúc người ta mang lên thì ông đã bất động, sọ bị vỡ! Tôi tới ngay, nhưng ông mất luôn sau đó, không tỉnh lại nữa. Trông bề ngoài thì ông đang trên đường về nhà, vào buổi chiều, và ông không quen đường xá, cái vực lại không có hàng rào chắc chắn ; vì thế không ngần ngại, quan tòa nói ông bị tai nạn chết. Tôi cố gắng gán ghép lại tất cả những chuyện liên quan đến cái chết của ông, mà cũng không tìm ra dấu hiệu nào chứng tỏ rằng ông đã bị giết.

Phần 4

Không có dấu hiệu bạo hành nào, không có dấu chân người, ông không bị móc túi và người ta cũng không thấy có kẻ lạ mặt đi dạo quanh vùng. Nhưng chắc chả cần nói, ông cũng hiểu rằng tôi không tìm thấy sự yên ổn, và tôi vẫn tin chắc rằng ông là nạn nhân của một vụ mưu sát.

Cha tôi mất tháng giêng năm 1885. Hai năm và tám tháng đã trôi qua. Tôi ở Hồ Sam yên lành, và bắt đầu mong chuyện xui xẻo đó không còn xảy đến cho gia đình tôi nữa, và nó đã chấm dứt, cùng lúc với sự chết chóc thảm thương của những người trong thế hệ trước. Nhưng hỡi ôi, tôi đã tin tưởng vội quá. Sáng qua, chuyện đã xảy ra cho cha tôi, lại đến với tôi.

Người thanh niên rút trong túi áo khoác ra một bao thư nhàu nát, và đổ trong ấy ra năm hột cam đã khô. Anh ta tiếp:

- Đây là cái bao thư, dấu in trên con niêm là ở Luân Đôn. Ở trong cũng có ba chữ K. K. K. và những chữ : “Đặt các giấy tờ trên cái đồng hồ mặt trời” như những chữ cha tôi đã nhận được.

Sĩ Lâm hỏi:

- Thế anh đã làm gì rồi?

- Chưa làm gì cả.

- Chưa làm gì?

Anh ta giấu mặt vào đôi bàn tay, thầm thì:

- Để trút cạn hết nỗi lòng cho ông nghe, tôi cảm thấy tuyệt vọng rồi! Y hệt như những con thú đã bị một con rắn thôi miên, tôi có cảm giác như rơi vào trong vùng quyền lực của một hung thần mà tôi không thể nào chống cự nổi và đề phòng cách nào thì tôi cũng sẽ bị hại.

Sĩ Lâm kêu lên:

- Đâu có được! Phải hành động chứ, anh bạn, nếu không thì nguy mất. Phải giữ vững nghị lực để tự cứu lấy mình. Đây không phải là lúc để mà tuyệt vọng đâu.

- Tôi đã nói với cảnh sát.

- Vậy ư?

- Họ mỉm cười khi nghe tôi kể chuyện. Tôi chắc chắn rằng ông thanh tra đã nghĩ là những bức thư đó chỉ là trò đùa, còn bác tôi và cha tôi đã chết vì tai nạn! Chính các quan tòa đã nói thế mà. Những lời báo trước ấy không có liên hệ gì cả.

Sĩ Lâm giơ tay lên trời, la lớn:

- Thật là đồ ngu! Thật không thể tưởng tượng được.

- Thế nhưng họ cũng để một người cảnh sát ở lại nhà tôi.

- Hắn có đi với anh đến đây tối này không?

- Không, hắn được lệnh ở lại nhà.

Sĩ Lâm lại giơ tay lên trời. Anh ta hỏi:

- Tại sao anh tới kiếm tôi? Và nhất là tại sao không tới ngay?

- Tại tôi không biết. Chỉ mới hôm nay, khi kể cho Hội trưởng Phan Danh nghe về chuyện buồn của tôi thì ông ta mới khuyên tôi tới kiếm ông mà thôi.

- Anh đã nhận được lá thư từ hai ngày, đáng lẽ ra phải hành động rồi mới phải. Anh có một vật gì hay một chi tiết nào có thể giúp cho chúng ta không?

Giang Âu nói:

- Tôi chỉ có một cái này.

Anh ta tìm kiếm trong túi áo choàng và đặt lên bàn một mảnh giấy xanh nhạt đã phai mầu.

- Bữa hôm mà bác tôi đốt hết giấy tờ thì tôi nhận thấy những mẩu thừa còn sót lại không cháy hết có mang mẩu này ; và tôi lượm được tờ giấy này trên sàn phòng của bác tôi. Tôi nghĩ chắc đó phải là một trong những tờ giấy đã bay ra ngoài, nên không bị đốt. Nhưng ngoài những điều nó nói đến hột cam, tôi không thấy nó có thể giúp chúng ta bằng cách nào được. Tôi nghĩ chắc đó là một trang trong cuốn lịch nào đó. Chữ thì đúng là chữ của bác tôi.

Sĩ Lâm xoay hướng ngọn đèn, chúng tôi cúi nhìn tờ giấy : Một bên bị rách chứng tỏ nó bị xé ra từ một cuốn sổ. Trên cùng có chữ “Tháng ba 1869”, và ở dưới là những hàng chữ bí ẩn này.

“4 – Huýt Sông đã tới. Vẫn làm như trước.

“7 – Đã gửi hột cam tới cho Mác Cô-lê, Pa-ra-mo, và Xuyên ở Sanh Ô-guýt-Tin.

“9 – Mác Cô-lê đã hiểu.

“ 12 – đã viếng Pa-ra-mo. Trôi chảy.

Sĩ Lâm vừa xếp tờ giấy lại trả cho ông khách, vừa nói:

- Cám ơn! Và bây giờ anh không còn lý do nào để mất thời giờ thêm nữa. Ngay cả thì giờ để bàn cãi về những điều mà anh đã kể cho tôi nghe. Bây giờ phải về nhà anh, ngay lập tức, và hành động.

- Tôi phải làm gì?

- Chỉ có thể làm được mỗi một việc. Và anh phải làm ngay : Anh đặt tờ giấy này vào trong cái rương đồng mà anh đã tả cho chúng tôi đó. Anh cũng đặt trong đó một bức thư nói rằng tất cả những giấy tờ khác đã bị bác anh đốt cháy hết, và chỉ còn có mỗi một tờ này. Dùng những câu nói sáo cho họ phải tin anh. Sau đó anh đặt ngay chiếc rương đó trên cái đồng hồ mặt trời như họ đã ra lệnh cho anh, anh hiểu chứ?

- Vâng.

- Trong lúc này thì đừng nên nghĩ đến việc báo thù hay việc gì khác cả. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể thắng họ một cách đường hoàng, nhưng mình còn phải mất thì giờ giăng bẫy, trong khi bẫy của họ đã giăng sẵn rồi.

Xem tiếp phần 5 & 6