Chương 05
Trên một thế kỷ nay, trường Trung học cổ kính với vách đá xám, tháp vuông cao có gắn đồng hồ cũng vuông vức, những bậc thềm cũ kỹ, những hành lang thăm thẳm ẩm ướt, những lớp học vàng ố bay mùi bụi phấn và khí đốt lò không thay đổi.
Cổng trường nằm ngay trên đại lộ gồm một vòm cong phía trên trông tối tăm và đồ sộ. Óc tưởng tượng phong phú của tôi chưa chi đã so sánh cổng này với khe núi Hamelin!
Buổi sáng trước khi vào cổng trường, tôi thức dậy, hồi hộp và nôn nao vô tả. Bà tôi cho tôi hay là bộ áo quần mới đã sẵn sàng. Bà rất hài lòng, dắt tôi đến cái tủ thấp kê dưới khung cửa sổ. Bà cố ý gây cho tôi một bất ngờ nên đã trải bộ áo quần trên tờ giấy lụa.
Thoạt nhìn qua bộ áo quần mong đợi, tôi kinh ngạc đến nỗi há hốc miệng ra: nó là thứ mầu xanh lá cây, trời ạ! Không, không phải mầu xanh dương sậm kín đáo của kẻ nam nhi mà là thứ mầu xanh tươi, chói lọi, hí hửng của thứ đồ con gái! Thật ra tôi cũng đã thấy bà cắt và may đấy chứ, nhưng tôi ngu ngốc quá, cứ ngỡ là bà may lót lớp trong!
- Cháu mặc vào xem nào!
Bà dịu dàng bảo tôi. Bộ quần áo rộng thùng thình: áo thì trùm vào thân trên như cái bao, còn quần thì như gần là quần dài của người lớn cắt ngang dưới gối mà kêu là quần soọc!
- Tốt lắm! Hoàn toàn nhé! Bà may hơi... rộng một tị, nhưng rồi cháu sẽ còn lớn lên là vừa. Con nít may ra, bà già may vô mà lại.
Bà tôi vừa vỗ vai tôi thân mật, âu yếm nói, vừa kéo bên này vai áo một chút, vuốt chéo áo bên kia một cái, dáng đắc ý. Tôi nói như rên:
- Nhưng thưa, cái mầu này...
Tôi cứng miệng lại vì bà cắt lời tôi:
- Cái mầu này đã làm sao, kia chứ?
Ngậm một cái kim cúc nơi miệng và rút mấy sợi chỉ lượt còn sót trên bộ quần áo – một kỳ công của bà – bà tiếp, giọng dịu hơn một tị:
- Mầu này thì có làm sao mà con chê? Hàng tốt lắm, không cần ủi, lại đứng áo quần con ạ!
Tôi tái mặt khi đưa tay áo lên nhìn kỹ, tôi khám phá ra hàng còn có những đóa hoa hồng be bé nổi lên. Chúa ơi! Đã mầu xanh còn điểm thêm hoa hồng, đích thị là hàng dành cho con gái đàn bà. Tôi nuốt nước bọt khó khăn, nói:
- Sáng nay bà cho cháu mặc bộ áo quần cũ một bữa nữa, bà nhé!
- Nhảm! Bộ áo quần cũ bà đã cắt ra làm giẻ lau chiều qua rồi.
Hãnh diện về công trình của mình, bà tôi không quan tâm đến mối ưu tư của tôi. Bà đẩy tôi ra khỏi phòng, tưởng đã thuyết phục được tôi rồi. Nào ngờ đâu, gặp cậu Murdoch bao nhiêu tự tin còn lại trong tôi tiêu tan nốt:
- Ái chà! Mùa xuân đến rồi! Mùa xuân tươi đẹp, tưng bừng quá!
Cậu dừng lại nơi cầu thang, lấy tay che mắt vẻ kinh ngạc rồi dựa hẳn vào tay vịn cười ngặt nghẽo, nói.
Trong bếp, mẹ tôi tế nhị hơn: bà lẳng lặng dọn điểm tâm cho tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt chứa chan âu yếm, song bà vẫn không giúp tôi vững bụng chút nào.
Sáng hôm đó trời xám xịt, lạnh lẽo. Tôi chán nản rời nhà, ý thức rằng giữa miền quê Tô Cách Lan này với sương mù ảm đạm của mùa đông, chỉ mình tôi có dấu hiệu mùa xuân.
Ngoài đường, thiên hạ quay lại trố mắt nhìn tôi sau khi vượt qua rồi. Tôi xấu hổ tránh đường lớn, lách vào đường nhỏ vắng người và xa hơn, vì vậy tôi đến trường bị trễ.
Sau khi lạc trong mấy hành lang, tôi cũng tìm được lớp mình một cách khó khăn. Dì Kate ghi tên tôi vào lớp này. Ông Dalgish – thầy giáo – đã bắt đầu giảng bài. Tôi định lẻn vào một chỗ còn trống nhưng nửa đường thì bị ông bắt gặp, chận lại. Sau này tôi mới hiểu rõ là ông không độc ác, nhưng lúc này thì... (Có những hôm vui vẻ, ông dạy thật hăng, thật hay, nhưng có những lúc ông như bị quỷ ám, ma làm không bằng). Tôi kinh hoàng khi nhìn ông, nom cái cách ông giận dữ giật râu, tôi biết ngay là ông không được dễ chịu.
Tôi chờ đợi một cơn giông tố. Tôi đợi ông trừng phạt tội đi trễ, nhưng đáng sợ thay: ông không rầy la chi cả. Rời bục, ông đến cạnh tôi, hơi nghiêng đầu, vẻ thản nhiên trong khi lũ học trò rướn mình lên... chắc chúng cũng đang chờ đợi? Giây lâu sau ông mới mở miệng:
- Thì ra cậu học trò mới đây! Thoạt nhìn là biết ngay bộ đồ mới. Kỷ nguyên phép lạ hẳn chưa chấm dứt.
Có nhiều tiếng cười dè dặt, rúc rích nổi lên. Tôi nhột nhạt đứng im. Ông lại tiếp:
- Nào! Lại gần đây xem! Đừng phật ý, cậu! Bộ đồ này mua ở đâu vậy hở? Hợp tác xã hay trong hiệu Miller danh tiếng đây?
Mặt tái ngắt, tôi ấp úng:
- Thưa thầy, bà cố con may cho con.
Cả lớp cười rộ lên. Nhà giáo đỏ ngầu mắt nhìn tôi trừng trừng, bước quanh tôi như thể tôi là một kỳ quan cần ngắm kỹ, gật gù:
- Hà! Mày nổi bật lên, nổi bật! Theo cung cách này ta biết mày thuộc gốc gác Ái Nhĩ Lan, đúng không?
Tiếng cười càng to thêm. Lớp học như biến thành đấu trường rộng lớn. Tuy nhiên, giữa những khuôn mặt chế giễu ấy, tôi vẫn nhận ra hai trò không hợp tác trong trò vui quái ác với bạn bè và thầy: Gavin-Blair ngồi bàn đầu, nhìn ông giáo bằng đôi mắt lạnh lùng, khinh bỉ và đôi mắt nâu của Alison Keith như bồn chồn lo lắng hộ tôi: nó cúi gầm mặt trên cuốn sách rồi liếc nhanh về phía tôi. Vẫn chưa buông tha tôi, nhà mô phạm hỏi gặng:
- Này, hãy trả lời câu hỏi của ta: mày là đồ đệ của thánh Patrick hở?
- Thưa thầy, con... không biết.
Tôi càng xám ngoét thêm, trả lời. Giọng ông ta lần này mỉa mai:
- Cha chả, thật đáng tiếc!... Nó không biết, các trò thấy không?
Cả lớp lại cười ầm như coi trò xiếc trong khi ông ta vờ ngạc nhiên nói. Rồi ông ghẹo thêm:
- Lão thánh Patrick của dân Ái Nhĩ Lan chuyên mặc áo xanh lá cây, mày hiểu ra chưa?
Xem chừng vui đùa chán rồi, ông ta quay lại trừng mắt, lũ học trò im lặng liền. Lần này giọng ông ta bình tĩnh trở lại:
- Mẹ mày là học trò cũ của ta. Song nhìn mày, ta e rằng ta sẽ phí công dạy dỗ thôi, con ạ! Đủ rồi! Về chỗ ngồi!
Hai chân run rẩy, tôi cúi gằm mặt lủi vào chỗ ngồi, thầm nghĩ vậy là giai đoạn khổ nhục đã qua.
Nào ngờ đâu, đó chỉ là mới bắt đầu.
Giờ ra chơi, học trò vây quanh tôi la hét,cười nhạo không ngừng. Từ đầu, người ta đã cho tôi là không giống ai, nhưng bây giờ tệ hơn: tôi biến thành con chiên ghẻ trong bầy.
Jamieson và Boay là hai đứa độc ác hơn cả:
- Mầu lá cây là mầu của nó! Mầu da trời là mầu của Đức Mẹ toàn thánh.
Những lời chế nhạo của chúng so với ông giáo thì cũng một nguồn, song chúng thô lỗ hơn và bộ áo quần xanh lá cây là cớ cho sự kỳ thị chủng tộc và tôn giáo trong lòng lũ trẻ.
Giờ nghỉ trưa, tôi chui vào nhà tiêu, không buồn đụng đến ổ bánh mì phết mứt ngọt mẹ tôi đã gói theo cho tôi trong cặp. Vậy mà chúng vẫn chưa tha, chúng khám phá ra chỗ tôi trốn nấp, lôi tôi ra.
Giờ thể dục do ông gác dan, vốn là cựu trung sĩ đoàn quân tình nguyện, dạy trong gian phòng rộng nhất trường.
Bắt chước các bạn, tôi cởi áo ra trong lúc Boay và Jamieson tiến lại, vẻ đe dọa:
- Giờ bãi học, mày sẽ biết tay ta!
Boay là đứa vũ phu, trán vồ, hung tợn, luôn luôn chạy theo trêu ghẹo bạn gái cùng lớp. Tôi kinh ngạc lắp bắp hỏi:
- Tại sao vậy? Sao mấy trò...
- Tại sao hả? – Chúng cười hề hề khả ố – Đặng cho mày đi theo Đức Giáo Hoàng của mày chớ tại sao.
Suốt thời gian tập, tôi co chân, duỗi tay theo nhịp, không ngừng run rẩy. Sau giờ thể dục, thầy đi khỏi đó tức thì bọn chúng chặn tôi lại trong phòng móc áo, hầu hết tụi lớn đều có mặt. Chúng đấm đá túi bụi vào người tôi như một quả bóng vô tri, đến nỗi tôi phải lùi vào một góc. Jamieson nắm tay tôi bẻ quặt ra sau lưng, tôi kêu lên oai oái, trượt chân ngã nhoài xuống đất, nó liền cỡi lên ngực tôi và nắm đầu tôi dộng xuống đất trong lúc bạn nó giữ chân tôi. Nhiều thằng khác reo hò cổ võ:
- Nữa! Nữa đi! Để coi có gì trong sọ nó.
Câu này làm tăng thêm sáng kiến cho Jam, nó buông đầu tôi ra, nhìn lũ bạn hỏi:
- Đứa nào có dao không? Tao muốn xem thử óc nó có xanh như áo quần nó không.
Tim tôi nhảy đùng đùng, may thay: đúng lúc đó chuông rung lên, chúng đành buông tôi ra. Khi tôi đến gần cửa lớp, ông giáo Dal đứng đợi tay còn nắm dây chuông, trông thấy tôi tóc bù xù, áo quần lem luốc bèn hỏi:
- À! Tụi bay bày trò gì nữa đó?
- Thưa thầy, đâu có gì.
Cả lớp cùng một giọng đáp. Và từ dưới cuối lớp, thằng bé Howie, hý hởn lấc cấc như con cóc, thêm vô:
- Chúng con chỉ chiêm ngưỡng bộ đồ xanh của nó thôi, ạ!
Vị giáo sư nhếch mép.
*
Tuần lễ đầu trôi qua nặng nề. Tôi chịu đủ mọi khổ hình mà lũ bạn hành hạ vẫn chưa thấy chán. Mỗi lần tan học là đã có một băng đông đảo chực sẵn đón tôi ở cổng trước nhà thờ Saints – Anges. Tôi không hề đi lễ ở nhà thờ này, song chúng buộc tôi phải vào xưng tội, hôn chân cha sở và vô số trò khác. Bọn chúng không hề tỏ ra biết thương hại một chút nào. Đôi khi quá uất ức, tôi đánh trả, nhưng rốt cuộc lần nào tôi cũng chịu thua vì sức yếu, thế cô.
Lấm la lấm lét, tôi trốn chui trốn nhủi như một con lươn. Đi và về, tôi chọn những con đường nhỏ vắng vẻ như con đường đi ngang xưởng thiếc, để được yên thân.
Dù vậy, tôi vẫn không thoát khỏi những lời chế giễu tàn nhẫn của mọi người. Mấy anh thợ tre trẻ thấy tôi đi ngang, kêu to:
- Ê! Cọng cải! Mẹ mày trang hoàng cho mày vậy đó hử!
Có lẽ họ không ác ý, họ vui miệng nói thế thôi, song tôi, tôi đã quá tuyệt vọng, không phân biệt được một lời trêu chọc vô tâm với một lời sỉ nhục.
Càng ngày tôi càng chán nản, tuyệt vọng, bài vở bỏ bê, vào lớp tôi rẩy mực đầy tập; trở nên... hầu như tôi trở nên một tên đần.
Một hôm thầy giáo gọi tôi lên trả bài, một bài thơ tôi thuộc lòng từ lâu. Thế mà tôi ấp a, ấp úng lâu lắc đến nỗi ông sốt ruột, quát lên.
- Còn chờ gì nữa! Ông phỗng đá?
Đầu óc hoang mang, tôi trả lời như cái máy:
- Thưa thầy, bộ đồ xanh! Bộ đồ xanh của con!
Sau đó là sự kinh ngạc trong phút chốc rồi một trận cười bằng thích vang dội cả lớp.
Tôi nghĩ là điều này không thể kéo dài mãi, tôi không chịu nổi. Vì vậy, tối hôm ấy tôi vào phòng ông tôi với tất cả cương quyết.
Cái mùi âm ẩm, mông mốc trong phòng ông quả là một thứ mùi khó chịu song nó quen thuộc đối với tôi, quen thuộc thân yêu đến nỗi vừa nhận ra nó tôi trào nước mắt vì xúc động.
(Kể từ khi bà tôi chiếm đoạt tôi cho đến nay hai ông cháu không hề có dịp trò chuyện cùng nhau. Và phần tôi, tuy tôi đã tha thứ những lời huênh hoang giả dối của ông từ lâu mà ông nào có biết; mỗi bận đi ngang tôi, ông ngẩng đầu lên cao và môi ông điểm một nụ cười khinh khỉnh, khó chịu.
Tôi bối rối, toan tìm lời biện hộ thì ông đã lạnh lùng nói:
- Cháu muốn ngủ với ai thì ngủ, chẳng việc gì đến ta!)
Tối hôm ấy, ông tôi ngồi trong ghế dựa, nhàn rỗi, vẻ lãnh đạm như một triết gia.
- Ông ơi! Cháu...
Tôi chỉ nói được có thế rồi khóc ròng. Ông tôi chậm rãi quay lại. Hình như mắt ông sáng lên – đâu có lý tôi lầm? Tôi tinh mắt lắm mà! – Ông nhìn tôi, im lặng một lúc rồi chậm rãi nói:
- Ông biết, ông biết sớm muộn gì cháu cũng về với ông mà!
Tôi khựng lại trong khi ông thích thú ngâm lên một câu ngạn ngữ:
- Sa cơ mới biết bạn hiền là ai!
Chương 06
Bấy giờ tôi đã ngồi gọn trong lòng ông. Ông cháu tôi đã làm hòa rồi, thưa các bạn! Tôi liền mang hết những gì đè nặng trong lòng ra kể với ông. Ông lặng lẽ nghe, không thốt một lời.
Sau đó giây lâu ông từ từ rút ống điếu hút một hơi đoạn mới bảo tôi:
- Có một điều con phải làm, nhưng vấn đề là con có chịu làm hay không đây?
Giọng ông tôi bình thản nhưng âu yếm. Chao! Giọng nói làm tôi yên lòng biết chừng nào sau những ngày dài sống cô đơn trong hỏa ngục! Tôi sốt sắng:
- Thưa ông, con làm chứ. Con xin hứa với ông con sẽ làm!
Tuy không biết mình sẽ phải làm gì, tôi vẫn trả lời với giọng tự tin. Ông tôi rít vài hơi thuốc nữa:
- Trong lớp con, đứa nào khỏe nhất, can đảm nhất. Cương quyết nhất?
Tôi không cần phải do dự:
- Gavin-Blair thưa ông.
- Con trai ông Thị trưởng, hở?
- Thưa vâng.
- Trường hợp này, con phải đánh nhau với Blair!
Tôi nhìn ông kinh ngạc: Gavin không hề trêu chọc tôi. Nó luôn luôn tránh xa trò đùa bỉ ổi này. Từ khi vào trường, tôi chỉ trò chuyện với nó hai bận. Nó là một học trò giỏi nhưng dè dặt, không mấy cởi mở. Luôn luôn đứng nhất, được bạn học nể trọng, kể cả giáo sư, ngay cả các môn thể thao nó cũng thuộc hàng đầu. Học trò kháo nhau rằng chỉ với một tay nó có thể hạ Jamieson! Bỗng không mà tôi gây sự đánh nhau với nó ư? Vô lý quá! Vì thế, tôi giải thích với ông tôi điều này. Ông cười khẩy, khích tới:
- Như vậy, nghĩa là con từ chối? Con sợ nó chứ gì?
Tôi cúi đầu tưởng tượng đến thân hình dẻo dai, nhanh nhẹn, cái cằm cứng rắn, đôi mắt xám sáng ngời của Gavin. Phải! Tôi không phải Ec-quyn, cũng không phải Xam-xông. Tôi không phải là các bậc anh hùng trong cổ tích, tôi sợ lắm!
Nhưng mặt mũi nào mà nói toạc ra như thế với ông? Tôi lắp bắp:
- Thưa ông, con chưa biết đánh.
- Ông sẽ dạy cho! Chỉ một tuần lễ là xong. Sức mạnh và vóc dáng không đáng kể, điều cần nhất là nhiệt tâm...
Thấy tôi im lặng, ông nhún vai, thêm:
- Dĩ nhiên, nếu con hèn quá, thì ông có thể viết thư thẳng cho giáo sư, nhờ ông can thiệp... con sẽ khỏi bị hành hạ, nhưng như thế chúng càng khinh con thêm. Theo nguyên tắc, con phải liều đánh với một đứa, đứa mạnh nhất, tiêu biểu, đại diện cho cả lớp. Sao? Dám không?
Tôi rùng mình, tuy nhiên có điều lạ này: trong bước đường cùng, tôi tưởng có thể đủ can đảm để liều lĩnh nhẩy từ mái nhà xuống đất, bất cần nguy hiểm đón chờ.
Thế rồi tối hôm đó, sau khi phụ rửa bát với mẹ xong, tôi bắt đầu tập dượt dưới sự hướng dẫn của ông tôi. Câu chuyện được giữ kín, bà tôi không hay biết tí ti.
Ông tập cho tôi thế đứng cứng chắc, nắm tay đưa ra trước, cằm rút cao đến nỗi tôi chỉ còn thấy mũi giầy thôi. Đứng đối diện tôi, cũng thủ thế như tôi, ông tôi hạ lệnh cho tôi thoi bên trái. Tôi tức thì tuân theo, vội vàng, hăng hái đến nỗi đấm vào bụng dưới của ông một thoi đáng đích. Ông tôi gập người lại, ngồi phệch trên ghế dựa, thở hổn hển. Tôi hoảng hồn, hỏi:
- Ông ơi! Con làm ông đau lắm hở?
Ông tôi tỏ ra giận dữ – không phải vì tôi đấm ông đau mà vì tôi đấm sai phương pháp. Đợi đến khi bớt đau, ông nghiêm trang dạy tôi một bài học chuyên biệt về những cú đấm. Sau đó ông bắt tôi chạy bộ từ nhà đến trường để luyện cặp giò.
Những ngày kế tiếp, ông kiên nhẫn dạy tôi nghệ thuật quyền Anh, buộc tôi cẩn thận khi uống nước, uống rất ít, hay đừng uống tốt hơn để da được săn chắc.
Hy sinh phần phô ma buổi chiều, thức ăn mà ông thích nhất, ông cho tôi. Ông lại bắt tôi ngồi trước mặt ông nhai chậm rãi cho dễ tiêu – ông bảo thế – và tôi biết rằng ông tôi thèm đến rỏ dãi ra.
Ông vui vẻ bảo tôi:
- Không gì bổ hơn phó mát Dunlop con ạ! Ăn nhiều vào cho mau lớn. Ông bảo đảm đó!
Tôi cũng tin lời ông, song những ngày kế tôi xót ruột ghê gớm.
Chiều thứ bảy, ông dắt tôi đến nghĩa địa để biểu diễn cho các bạn ông cùng thưởng thức tài nghệ.
Tôi dang tay, dạng chân múa may những thế độc diễn khác nhau trong lúc ông hứng khởi giải thích lý do của trận đấu dự định bằng giọng văn chương để các bạn hiểu.
- Ủa, anh quên mớ lý thuyết nằm lòng trứ danh của anh rồi hả? Anh luôn luôn khuyên người ta phải sống vui vẻ, giờ lại phản chính anh, xui thằng bé đánh nhau là nghĩa lý gì?
Ông tôi, bằng giọng cao xa, bóng bẩy trả lời:
- Anh Boay này, đôi khi ở đời người ta cần phải đánh nhau để được yên thân mà sống vui vẻ, hiểu chưa?
Ông bạn không chống đối lời nào, song nom cái cách ông nhìn chúng tôi, tôi hiểu rằng ông ta cho là chúng tôi khó thành công.
*
Ngày định mệnh đã tới. Khi tôi đi ngang phòng, ông gọi tôi vào, trang trọng siết chặt tay tôi như truyền hết niềm tin tưởng, nhiệt tâm vào đó. Nhìn thẳng tôi, ông bảo:
- Con nên nhớ điều này: con làm gì tùy ý, được hết, trừ sợ hãi.
Tôi suýt bật khóc, vì thú thật với các bạn: dù đã ăn khá nhiều phô ma của ông, tôi khó mà quên được những năm sống êm đềm cạnh mẹ cha tôi.
Hơn nữa, lúc sau này Gavin hình như muốn bênh vực tôi: đã có lần trong lúc chơi nhảy cừu, Jamieson nhân dịp đó chạy đến húc mạnh vào tôi khiến tôi ngã lăn, Gavin liền trị nó một trận ra trò. Và lần khác, trong giờ học thấy tôi tìm mãi tẩy không ra, Gavin đã lặng lẽ đưa cho tôi viên tẩy. Tôi quả không có cớ gì để gây sự đánh nhau với Gavin-Blair. Song tôi đã trót hứa với ông tôi làm sao có thể thả trôi lời hứa dễ dàng?
Huấn luyện viên của tôi đã khẳng định rằng bốn giờ chiều tan học là lúc rất thuận tiện cho trận thư hùng, tôi chỉ còn biết tuân theo.
Suốt ngày hôm ấy tôi lo lắng bồn chồn quá đỗi không ngớt lén quan sát khuôn mặt bình thản và thông minh của Gavin ngồi ở góc lớp đối diện tôi, nó có đôi lông mày thật đẹp hai hàng lông mi rậm, dài, môi trên ngắn, hãnh diện.
Vài lần tôi không cầm lòng được, ném về phía nó một tia nhìn van lơn kỳ lạ. Tôi buồn rầu khi nghĩ rằng tôi bắt đầu yên mến nó như một bạn thân, vậy mà lại phải sắp đánh nhau với nó, theo đúng kế hoạch ông tôi.
Đồng hồ trên tháp trường thong thả gõ bốn tiếng. Tôi còn hy vọng hão huyền là ông giáo sẽ giữ tôi lại phạt về lỗi gì đó. Nhưng vô ích: tôi rời lớp cùng một lượt với các bạn, đi ngang sân chơi. Gavin bước mau phía trước, cặp vắt trên vai.
Tôi hiểu rằng giờ hành động đã điểm, nếu tôi không muốn phải xấu hổ trước mặt huấn luyện viên của mình: tôi phóng tới và xô mạnh Gavin. Gavin quay lại hơi ngạc nhiên nhưng cũng nhận ra tôi đang khiêu khích nó; hai nắm tay tôi đặt lên nhau trước ngực như đang cầm đèn rước kiệu.
Tức thì bọn học trò bao quanh hai đứa tôi kinh ngạc và thích thú reo to:
- Lại xem tụi bay! Gavin và Robert sắp đánh nhau!
Gavin đỏ bừng mặt, nó bực bội nhìn bọn con trai vây quanh. Nó không thể gạt bỏ sự thách thức của tôi, dù là một đứa yếu xìu. Với một tay, nó đủ gạt luôn một lượt hai quả đấm của tôi gửi đến cho nó.
Tôi quên cả những bài học của ông. Đôi cánh tay gầy nhom khoa như những cánh quạt. Tôi đánh trúng nó song vào những chỗ cứng như cùi chỏ, gò má hay những cúc áo bằng đồng vuông vức, vì thế mỗi lần đánh trúng tôi lại bị đau hơn địch thủ.
Gavin trái lại, luôn luôn đánh trúng những nơi có thể làm địch thủ đau nhất. Hai lần, tôi ngã sấp giữa những tiếng cổ võ của bọn học trò vây quanh.
Cả hai đứa cùng lem luốc và thở như những cái đầu máy xe lửa cũ kỹ rán lên dốc. Tuy vậy, tôi càng lúc càng hăng cho đến nỗi một thằng bạn lớn nhất cũng phải kêu to lên:
- Cha! Cọng cải chơi trội chớ phải lơ mơ đâu, tụi bay? Coi nó hăng thua gì sư tử?
Trận đấu kết thúc khi tôi nhận một cú húc đầu của địch và máu cam chảy ròng ròng. Máu làm miệng tôi ấm và mằn mặn. Chỉ giây lát thân áo trước tôi nhòe nhoẹt máu. Tôi không ngờ thân thể gầy còm nhỏ nhắn của tôi mà chứa nhiều máu đến mức đó, mà kỳ lạ: tôi không thấy khó chịu chi cả. Trái lại, tôi có vẻ như sáng suốt hơn, bình tĩnh hơn dù đôi chân quả có run rẩy.
Vẫn tiếp tục chiến đấu, tôi vung tay tiến tới tuy mắt tôi như tóe lửa. Bỗng, tôi có cảm tưởng bị ai kéo lùi về phía sau. Gavin cũng vậy. Một anh lớn nhất kêu lên:
- Thôi! Đủ rồi! Bắt tay nhau đi! Tụi bay đánh nhau khá lắm! Đứa nào lấy chìa khóa cổng coi! Robert chảy máu như bò bị thọc huyết đây nè!
Tôi được đặt nằm ngửa trong sân chơi, trên mặt sỏi, cái chìa khóa to, lạnh ngắt đặt dưới ót trong khi Gavin nhem nhuốc và lo lắng, quì cạnh tôi. Áo tôi đẫm ướt và mấy anh đầu bò nhất cũng bắt đầu lo sợ khi thấy máu không ngừng chảy. Họ lăng quăng cứu cấp, sau cùng nhờ mảnh khăn tay thấm nước nhét vào hai lỗ mũi, máu cầm lại...
- Em nằm yên mươi lăm phút nữa nhé?
Họ dặn dò và rời chúng tôi. Các bạn học cùng lớp cũng đã ra về, trừ Gavin. Sân trường vắng vẻ chỉ còn lại hai đứa. Đầu choáng váng song tôi cũng cố gắng mỉm cười với Gavin một cách khó khăn – vì mũi bị bịt kín và máu khô cứng trên mặt – Gavin khe khẽ bảo:
- Đừng động đậy! Không phải tao cố ý muốn húc đầu vào mũi mày đâu, như vậy trái luật...
Tôi lắc đầu dù biết rằng làm vậy máu có thể tuôn ra và cố gắng mỉm cười:
- Còn tao, tao cũng buồn vì đánh trúng mắt mày.
Gavin lấy tay sờ nhẹ vào mí mắt và cười theo, nụ cười nồng hậu làm ấm lòng tôi như những ngày đông giá rét nhận được tia sáng mặt trời!
Một lát sau, nó nhẹ tay gỡ hai cuộn vải trong mũi tôi và đỡ tôi ngồi lên. Hai đứa lặng lẽ sóng bước trên đường về làng Drumbuck. Đầu tôi vẫn còn choáng váng, Gavin bảo tôi khi ngang nhà nó:
- Vào nhà tao rửa ráy sạch sẽ rồi hẵng về.
Tôi nghe lời nó rụt rè bước qua cái cổng mang huy hiệu ông Thị trưởng.
Hai đứa đi trên con đường trải sỏi, hai bên đầy hoa dẫn vào biệt thự. Khu vườn rộng thênh thang được chăm sóc kỹ lưỡng. Gavin kéo tôi ra sau, chỗ máy nước. Trong lúc hai đứa kỳ cọ, một bà bồi phòng mặc toàn đen mang tạp dề trắng nhìn thấy chúng tôi qua cửa sổ và có lẽ bà ta đi báo tin nên chỉ chốc sau, có một cô gái mặc áo nâu vội vã chạy ra:
- Tội chưa! Các em sao vậy?
Đó là chị Julia-Blair (từ khi mẹ chết, chị là nội tướng trong gia đình). Nhìn kỹ chúng tôi, chị đoán hiểu nguyên do, không gạn hỏi thêm. Chị đưa tôi vào phòng em trai, căn phòng tuyệt đẹp trang hoàng nào hình ảnh, gậy, vật dụng đi câu và vô số đồ chơi bằng gỗ do nó làm lấy. Chị giúp tôi cởi bộ áo quần đầy máu đưa cho bà bồi phòng – tôi thoáng thấy bà ta nhăn mặt – đem đi gói lại. Chị bắt tôi mặc bộ đồ mầu xám của Gavin tuyệt đẹp, chưa cũ mấy.
- Chị quen với mẹ em, Robert ạ! – Giọng chị dịu dàng – Hãy đến chơi với Gavin khi nào...
Chị quay sang thì không thấy Gavin, nó đã đi xuống bếp để được săn sóc con mắt sưng, chị ôn tồn tiếp:
- ... Khi nào hai đứa hết đau...
Và chị đưa tôi ra tận cửa, trả gói áo quần cho tôi, khuôn mặt hiền từ với tia nhìn âu yếm, ấm áp, chị cúi sát bên tôi, hơi đỏ mặt, chị bảo:
- Robert ơi! Em cứ giữ bộ áo quần này nhé? Gavin nó lớn rồi, chui không vô nữa đâu, em nhé?
Rồi chị đứng yên im sững trên thềm nhìn tôi thật lâu cho đến chừng bóng dáng còm nhom, nhỏ nhắn của tôi khuất dần... vào màn đêm.
Tận lúc ấy tôi mới thấm mệt. Trên đường về tay chân tôi ê ẩm, đầu óc quay cuồng. Tôi lê chân trong chán nản và mệt mỏi. Chán nản vì được thấy ngôi nhà sang trọng của Gavin, mệt mỏi vì trận đánh không đồng cân sức.
Đến cửa, ông tôi đã đợi sẵn, ông âu yếm nhìn tôi thật lâu. Thấy vẻ xanh xao, mệt mỏi của tôi, ông hỏi:
- Sao, con thắng chứ?
- Thưa ông, hình như... là con thua.
Ông không gặng lại câu nào nữa, nắm tay tôi dắt lên phòng, đỡ tôi ngồi lên ghế dựa. Tôi chậm rãi kể:
- ... Nhưng con không sợ, bắt đầu xong là con hết sợ liền.
Ông từ tốn hỏi kỹ mọi chuyện. Sau khi tôi kể xong, ông lặng lẽ vớ bộ quần áo – nguyên nhân thảm nhục của tôi – ném vào lò sưởi. Phải khá lâu sau đó, bộ quần áo đã biến tôi thành cọng cải mới chịu cháy hết cho, khói tỏa nồng nực khắp phòng.
Bấy giờ, ông mới bảo:
- Đó, ông nói có sai đâu!