Lần thứ nhất, Tuấn đi Sàigòn. Chiếc xe đò chạy như bay trên xa lộ rộng thênh thang. Tuấn thích thú nhìn ra hai bên : xe cộ ngược xuôi như mắc cửi. Càng gần đến thành phố, nhà cửa hai bên càng chi chít.
Đến bến xa lộ, xe dừng lại, mọi người tranh nhau xuống. Tuấn chờ cho mọi người xuống gần hết, mới xách cặp bước xuống. Cậu đứng vào vệ đường, tần ngần nhìn kẻ qua người lại. Chỉ trong vòng mười phút, chiếc xe đò cậu vừa đi, đã đầy người, đang quay đầu trở về Thủ Đức.
Tuấn rảo bước đi vào thành phố Sàigòn. Vừa đi, cậu vừa móc túi lấy lá thư bà Tư gởi để xem địa chỉ. Tuấn ngạc nhiên, vì không thấy lá thư đâu cả. Cậu bỏ cặp xuống đất, lục hết túi trên, túi dưới, cũng chẳng thấy ! Tuấn lo sợ lẩm bẩm một mình :
- Chết cha, lá thư rơi đâu mất ! Mình đã cẩn thận cặp chung với mấy trăm bạc. Bạc còn đây, sao lá thư lại mất nhỉ ?
Tuấn bỗng nhớ ra :
- Phải rồi, có lẽ mình làm rơi trên xe đò, khi mình lấy tiền trả tiền xe ! Bây giờ mình biết làm sao mà tìm cho ra nhà bà Bích Hà đây ?
Tuấn đứng lại phân vân một lúc, rồi tiếp tục đi :
- Mình cứ đi qua cầu đến đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, rẽ sang phía trái, đi thêm một quãng độ một cây số, mình sẽ hỏi thăm nhà bà Bích Hà, chắc có người biết. Nếu tìm không ra, thì chiều mình trở về nhà lại !
Bụng nghĩ thế, nhưng Tuấn cũng hơi sợ, lỡ về nhà mà ông Tư Bá bắt gặp thì nguy !
Qua cầu, đến ngã tư, Tuấn thấy có tấm bảng treo trên cột điện, đề “Đường Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tuấn mừng rỡ, rẽ sang phía trái. Cậu vừa đi vừa đếm bước chân để đo đường. Độ hơn một cây số, như lời bà Tư dặn, cậu đón đường một người đàn ông đang đi ngược chiều, lễ phép hỏi :
- Thưa ông, ông có biết nhà bà Bích Hà ở đâu đây không ?
Người đàn ông đứng lại nhìn kỹ Tuấn, ngạc nhiên :
- Em hỏi như vậy, không ai biết đâu ! Thế em không biết số nhà bà ta sao ? Em ở quê mới tới phải không ?
Tuấn vững bụng, trả lời :
- Thưa ông, vâng, cháu ở Thủ Đức lên. Cháu cầm bức thơ có ghi địa chỉ nhà bà Bích Hà , nhưng rủi cháu làm rơi trên xe đò rồi !
Người đàn ông lắc đầu :
- Như vậy thì khó tìm lắm ! Hay là em thử hỏi mấy người ở trong dãy nhà này xem. Tôi ở xa không quen biết ai ở đây.
Nói rồi người đàn ông bỏ đi một mạch. Tuấn tần ngần một lúc, rồi lại đi :
- Thây kệ ! Mình cứ lang thang đây, thấy ai ở trong mấy nhà nầy đi ra, mình sẽ hỏi thăm, chứ đường đột vô nhà người ta, lỡ may chó cắn thì khổ !
Đi thêm một quãng, bỗng Tuấn thấy ba, bốn cậu ở trong hẻm trước mặt đi ra đường, rồi quẹo trái, cùng một chiều với Tuấn. Tuấn mừng rỡ chạy theo. Nghe tiếng chân thình thịch phía sau, một cậu lớn nhất, đứng lại nhìn. Tuấn vừa chạy đến, rụt rè hỏi :
- Thưa anh, anh ở đoạn đường này, anh có biết nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây không ?
Cậu kia vừa nghe xong, đã giơ hai tay lên trời, cười ha hả :
- Chú em hỏi thăm nhà kiểu đó, thì có Trời mới biết ! Miền quê thì được, chớ ở thành phố, nếu không biết số nhà thì đành chịu thôi !
Cả bọn đi trước cũng đứng lại nhìn lui. Cậu kia vừa trả lời Tuấn xong, bỏ chạy theo các bạn. Một cậu nhỏ hơn, hỏi :
- Nó nói gì mà mầy cười ha hả thế ?
- Nó hỏi thăm nhà bà Bích Hà, có chồng làm cảnh sát ở đâu đây ? Hỏi như thế mà không tức cười sao được, mầy ? Thật đúng là mán ở rừng mới về thành phố !
Cậu nhỏ kia thấy Tuấn đứng tần ngần, tuyệt vọng, lấy làm thương hại :
- Thôi, mấy anh đi tắm trước đi, để tôi lại giúp nó một chút. Cạnh nhà tôi, có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được.
Mấy cậu kia cười hề hề, bỏ đi trước. Cậu nhỏ trở lại chỗ Tuấn đứng :
- Anh hỏi thăm nhà bà Bích Hà có chồng làm cảnh sát, mà anh không biết số nhà bà ta, thì làm sao mà tìm được?
Tuấn thấy cậu nhỏ này có vẻ thiện cảm, liền đem sự thật bày tỏ hết. Nghe xong, cậu nhỏ bảo Tuấn :
- Tôi tên là Minh, gần nhà tôi có ông làm cảnh sát, may ra hỏi thăm được. Bây giờ, tụi tôi đi tắm nơi hồ tắm gần đây. Anh đi chơi theo tôi, chốc nữa, tôi về hỏi thăm nhà cho anh.
Tuấn mừng rỡ, cám ơn rối rít, rồi lẽo đẽo xách cặp đi theo Minh. Khi cả hai tới nơi, thì bọn kia đang vùng vẫy dưới nước. Minh quay lại hỏi Tuấn :
- Tuấn có tắm không, để tôi mua cho cái vé ? Bọn tôi thì đã có “cạc” tháng rồi !
Tuấn không hiểu mua “vé”, mua “cạc” gì, nhưng cậu không muốn tắm, nên lắc đầu :
- Anh cứ tắm đi, tôi ngồi chơi chờ anh.
Minh bỏ áo xống cạnh Tuấn rồi nhảy ùm xuống nước với các bạn. cả bọn bày trò chơi tạt nước vào mặt nhau, xem ai chịu đựng được lâu. Có cậu bị tạt nước ào ào, rát quá, la oai oái. Chơi chán, các cậu lại bàn nhau bơi thi. Minh kêu Tuấn nhờ làm trong tài ra hiệu để cả bọn chơi. Tuấn thấy vui vui, đứng lên vỗ tay làm hiệu.
Tức thì “ầm, ầm” cả bọn nhào xuống bơi lấy bơi để. Đứa thì bơi ếch, đứa bơi sải, đủ kiểu. Đang bơi, bỗng Minh kêu thét lên :
- Tao bị vọp bẻ, bây ơi ! Chao ôi, đau quá !
Thấy Minh quặn người, hai tay ôm lấy chân, rồi chìm nghỉm, cả bọn sợ quá, bơi vội vào bờ, kêu cứu vang lên. Nhưng rủi người gác đi chơi đâu, kêu mãi mà không thấy ai ra tiếp cứu hết. Tuấn đứng trên bờ, thấy vậy, để nguyên áo quần, nhảy ùm xuống hồ.
Tuấn vốn bơi giỏi và biết cách cấp cứu người chết đuối, nên cậu cẩn thận lặn xuống sâu để xem xét. Cậu thấy Minh, hai tay quờ quạng dưới đáy hồ. Tuấn bơi nhẹ nhẹ đến phía sau lưng Minh, đỡ bổng Minh lên mặt nước. Tuy cẩn thận thế, mà suýt nữa tay Minh nắm phải đầu Tuấn.
Tuấn đẩy Minh vào đến bờ hồ, cả bọn xúm lại kéo Minh lên, thì người gác cũng vừa chạy đến cấp cứu. Tuấn trèo lên bờ. Tuy không bị uống nước, nhưng vì nín thở quá lâu và phải vật lộn với Minh, nên Tuấn mệt lử. Cậu đang ngồi thở dốc, thì cha mẹ Minh - nhờ một cậu chạy về báo tin - cuống cuồng chạy tới.
Thấy con đã tỉnh táo, ông bà sung sướng trào nước mắt. Khi nghe các bạn Minh thuật chuyện lại, ông bà vội vàng chạy đến, nắm lấy tay Tuấn, cám ơn rối rít. Minh cũng đến ôm choàng lấy Tuấn. Thấy áo quần Tuấn ướt mèm, ông thân của Minh nói với Tuấn :
- Cháu à, việc trước hết là cháu về nhà ông bà để thay áo xống đã, kẻo bị cảm. Chuyện gì khác sẽ hay !
***
Sau khi nghe Tuấn kể hoàn cảnh, ông thân của Minh ôn tồn bảo Tuấn :
- Cháu quả thật là một cậu bé đầy lòng vị tha và can đảm, ông bà cảm phục cháu lắm. Bây giờ, ông bà bàn với cháu như thế này :
Cháu chả cần đi tìm nhà bà Bích Hà làm gì nữa, cháu cứ ở lại đây với ông bà. Ông bà nhận cháu làm con nuôi, cho cháu đi học với em Minh.
Ông trầm ngâm một lúc rồi nói tiếp :
- Nói cho cháu rõ : Ông là ông Thái Phong, làm chủ chiếc tàu buôn Nam Hải. Ông bà không giàu có lắm, nhưng nhờ Trời cũng dư ăn. Ông bà hiếm hoi, chỉ sinh được một mình em Minh đó mà thôi ! Vậy mà hôm nay, nếu không có cháu, thì em Minh đâu còn nữa ? Cho nên, chính cháu là cứu tinh của gia đình ông bà đó !
Cháu cứ yên tâm ở lại đây, chỉ viết thư về cho má cháu rõ, để má cháu cho bà Tư hay. Mai mốt yên yên, ông sẽ đem cháu về thăm má và em cháu.
Tuấn cảm động, khóc sụt sùi : Cậu không ngờ hạnh phúc lại đến với mình một cách quá đột ngột như thế. Cậu nghẹn ngào, không nói lên được lời gì.
Bà Thái Phong thấy Tuấn làm thinh, bà nghĩ thầm : có khi nó sợ bà gượng ép theo ý muốn của ông, nên bà vuốt tóc Tuấn, ngọt ngào :
- Con đừng nghĩ ngợi gì hết. Tuy mới biết con, nhưng ông bà thương con cũng như thương em Minh vậy !
Minh cũng nắm lấy tay Tuấn :
- Anh Tuấn ở lại đây với em đi. Anh em mình sẽ đi học với nhau !
Tuấn ngước mắt đẫm lệ nhìn ông bà, đầy vẻ biết ơn :
- Thưa hai bác, cháu không dám nghi ngờ lòng tốt của hai bác đâu, nhưng vì cháu sung sướng quá, nên không nói ra được đó thôi ! Cháu được hai bác thương nhận làm con, cháu đội ơn hai bác không biết chừng nào !
Bốn năm trôi qua…
Tuấn được ông bà Thái Phong nuôi cho ăn học. Thỉnh thoảng, Tuấn về thăm má và em, nhưng về tránh trút, vì sợ ông Tư Bá bắt gặp.
Tuấn và Minh cùng học chung một lớp. Ý ông bà Thái Phong muốn cho cả hai học đến Đại học, nhưng Tuấn thấy mang ơn cha mẹ nuôi quá nhiều. Vả lại, ý Tuấn không muốn chọn một nghề cần bằng cấp cao. Ước vọng của cậu là một mảnh vườn trồng cây ăn quả và vài mẫu ruộng cấy lúa, để vui sống cạnh mẹ già, em dại, thế là cậu mãn nguyện.
Vì thế, cậu giấu cha mẹ nuôi, nạp đơn xin dự kỳ thi Trung học tráng niên và cậu đã được kết quả như ý. Mãi đến ngày ghi tên vào Đệ Tam, Tuấn mới tỏ thật với cha mẹ nuôi để xin thôi học. Ông Thái Phong ngạc nhiên hỏi :
- Con mới 16 tuổi, còn học hành được, tại sao lại thôi ? Con định làm gì ?
Tuấn nhỏ nhẹ :
- Thưa bác, từ lâu, con chỉ ước mong học đến Đệ Tứ. Cái chết của ba con đã làm cho con tưởng là tuyệt vọng. Nhưng may Trời dun dủi cho con được gặp hai bác thương giúp. Nay con học được như thế này, là con đã mãn nguyện lắm rồi.
Trong tương lai, con không có tham vọng làm việc gì cần bằng cấp cao, mà con chỉ thích làm ruộng, làm vườn. Vì thế, con xin bác cho con được đi theo tàu bác điều khiển vài năm, trước là con được đi đây đi đó để học hỏi thêm những điều tai nghe mắt thấy, sau là con có thể dành dụm được ít tiền cho má con mua một miếng vườn, để mẹ con sống với nhau.
Ông Thái Phong nghe Tuấn giãi bày, ông cảm động nắm lấy tay Tuấn :
- Bác thấy con có hiếu, bác mừng lắm ! Nếu con không muốn học nữa thì bác cho con đi với bác !
***
Thế là ít lâu sau, Tuấn trở thành một thủy thủ trẻ tuổi làm việc dưới tàu Nam Hải.
Tàu Nam Hải trọng tải trung bình, nhưng được kể vào hạng tàu lớn do người Việt Nam làm chủ. Tháng nào, tàu Nam Hải cũng chở hàng từ Sàigòn đi Tân Gia Ba và lãnh hàng ở đó chở về Sàigòn. Và cứ sáu tháng, tàu lại đi một chuyến qua Nhật và một chuyến sang Ấn Độ. Về mùa biển hay động mạnh, tàu được kéo vào ụ để xem xét, sửa chữa và sơn quét lại.
Ngoài ông Thái Phong là Thuyền trưởng, còn có một phụ tá và một số thuỷ thủ chừng 15 người.
Công việc của Tuấn cùng các bạn : chùi rửa tàu mỗi ngày, xem sóc tất cả các phòng và kho hàng. Những ngày tàu bốc hàng và dở hàng, thì công việc của thuỷ thủ vất vả khó nhọc hơn ngày thường.
Các bạn thuỷ thủ, ai cũng biết Tuấn là con nuôi ông Thuyền trưởng, nhưng Tuấn không vì thế mà lên mặt với ai. Cậu coi mình như một thuỷ thủ tập sự, tận tâm làm việc dưới quyền điều khiển của những bậc đàn anh. Bởi đó, nhân viên trong tàu, ai cũng quý mến cậu. Trong số các bạn thuỷ thủ, Tuấn rất thân với Dũng. Tàu cập bến một hải cảng nào, nếu được phép đi dạo phố, thế nào Tuấn Dũng cũng đi cặp với nhau. Dũng đã làm việc dưới tàu Nam Hải lâu năm, đã đi đây đi đó ; nhờ Dũng mà Tuấn học hỏi được thêm nhiều điều hữu ích. Ông Thái Phong cũng muốn cho Dũng chỉ vẽ cho Tuấn trong bước đầu mới vào nghề, vì ông nhận thấy Dũng là một thanh niên đứng đắn.
Đến kỳ tàu sắp sửa chở hàng xuất cảng sang Nhật, ông Thái Phong đưa tin cho nhân viên biết. Tuấn mừng thầm, vì được dịp đi xem một nước mà kỹ nghệ đã nổi tiếng nhất nhì miền Đông Nam Á.
Một tuần trước khi tàu nhổ neo, ông Thái Phong cho Tuấn về thăm nhà. Bà Hai dặn dò con, cố gắng làm việc cho tử tế và ăn ở hoà nhã với mọi người, Em Hiền bá cổ anh, nhõng nhẽo :
- Anh Hai đi Nhật, nhớ mua quà Nhật cho em, nghe anh !
Tuấn hôn lên hai má lúm đồng tiền của em, hứa hẹn :
- Ừ, anh sẽ mua cho má một cái “radô”, chạy bằng “bin” để má nghe cải lương nè ! Còn em, anh sẽ mua cho em một cái máy thu băng, để em thu tiếng em hát, em cười vào trong máy, rồi mở ra nghe lại, y hệt tiếng em vậy !
Hiền tưởng anh nói đùa, xịu mặt xuống :
- Thôi, nghỉ chơi với anh Hai đi, em không tin đâu ! Máy gì mà lạ vậy ?
Tuấn ôm lấy em, vỗ về :
- Tại em chưa thấy, nên em lấy làm lạ, chớ anh đã thấy rồi. Nhiều kiểu lắm, có thứ nhỏ xíu hà, bằng cuốn tập thôi !
Bà Hai cũng chưa hề thấy loại máy lạ đó :
- Máy gì mà hay quá nhỉ ? Mà có mắc tiền lắm không con ?
Tuấn cười :
- Ở Sàigòn, người ta cũng có bán mà mắc. Còn như bên Nhật là nơi họ chế tạo ra, chắc rẻ hơn nhiều.
***
Suốt mấy ngày bốc hàng lên tàu, Tuấn và các bạn làm việc không ngừng tay. Những chiếc xe vận tải hạng nặng, nối đuôi nhau chở từng kiện hàng to tướng, cặp sát vào hông tàu. Người điều khiển cần cẩu, móc hàng lên rồi bỏ xuống kho. Một số người đứng trong kho, khiêng sắp các kiện hàng cho có thứ tự. Họ phải cẩn thận, nhẹ nhàng, khi di chuyển những kiện hàng có chữ đỏ to tướng : “DỄ VỠ”.
Hàng chất vào kho tàu xong xuôi, các thuỷ thủ được nghỉ ngơi một ngày. Sáng hôm khởi hành, nhân viên quan thuế lên tàu kiểm soát một lần chót, đoạn cho lệnh nhổ neo.
Chiếc thang lên tàu đươc xếp gọn vào hông tàu và chiếc neo khổng lồ vừa kéo lên, thì máy tàu chuyển động mạnh hơn. Tàu từ từ ra khỏi bến, để lại đằng sau, những giòng nước xoáy trắng xoá. Từ bến Sàigòn ra đến cửa biển Vũng tàu, chiếc Nam Hải do một hoa tiêu riêng cầm lái. Hoa tiêu này do hội Hoa Tiêu chuyên môn lái tàu trên quãng sông Sàigòn- Vũng Tàu, vì họ biết rõ lòng sông. Ra đến biển, họ giao tay lái cho hoa tiêu của tàu rồi trở lại Sàigòn bằng tàu riêng của họ.
Lênh đênh hơn một tuần lễ trên mặt biển rộng mênh mông, Tuấn tuy không bị say sóng, nhưng cậu cảm thấy buồn bã, vì suốt ngày chỉ quanh quẩn trên tàu. Các thuỷ thủ khác, vui vẻ hơn, vì họ đã quen đi như thế nhiều lần.
Tàu cập bến Yokohama vào một buổi sáng. Hải cảng này lớn gấp mấy lần hải cảng Sàigòn. Tàu thuỷ, cái lớn, cái nhỏ, đậu chi chít. Tuấn so sánh chiếc Nam Hải với mấy chiếc tàu dầu đang đậu gần đó, thật chẳng khác gì con chó với con voi !
Các thủ tục xong xuôi, tàu Nam Hải hạ neo và bỏ thang xuống bến. Trong việc giao dịch với người ngoại quốc, dân Nhật dùng tiếng Anh, còn khi họ tiếp xúc với nhau, họ dùng tiếng bản xứ. Tuấn để ý nghe hai người Nhật nói chuyện với nhau : giọng họ nói cũng na ná như mấy ông Ba Tàu ở Chợ lớn nói chuyện với nhau vậy.
Bước chân lên đất Nhật, điều Tuấn nhận thấy trước tiên là sạch sẽ. Bến tàu, nhà cửa, đường sá đều sạch sẽ.
Chuyến đi Nhật lần này, ông Thái Phong theo đài khí tượng tiên đoán, sợ có giông bão xẩy đến, nên đã quyết dịnh rút ngắn thời gian ở đất Nhật, để trở về Sàigòn sớm hơn dự định. Bởi đó, sau khi dở hàng xuống bến, ông Thái Phong cho Dũng dẫn Tuấn đi xem thành phố Tokyo (Đông Kinh) một ngày, để trở về cho kịp.
Sáng sớm, Dũng đưa Tuấn lên tàu điện. Dũng đổi một số tiền kền Nhật, để mua vé. Cậu xem giá tiền xe đi Tokyo , rồi bỏ tiền vào “ghi sê” có ghi chữ Tokyo , vài giây sau, một cái vé xe lòi ra cùng với số tiền lẻ thối lại. Dũng bỏ tiền lần nữa, để mua một vé khác cho Tuấn.
Một lát sau, tàu đến, Dũng léo Tuấn bước vội lên tàu, vì chỉ trong mấy phút là tàu sẽ tự động đóng cửa và chạy ngay. Khi tàu bắt đầu chạy, Dũng cắt nghĩa cho Tuấn hiểu :
- Tàu điện ở đây cứ độ mươi phút là có một chuyến. Đường tàu đi và về khác nhau, nên không bao giờ đụng nhau. Ghi sê bán vé tự động chớ không có người. Mình muốn đi đâu, cứ theo giá tiền ghi trên bảng, mà nhét tiền vào “ghi sê”, máy sẽ tự động đưa vé ra cho mình. Và nếu mình đưa dư tiền nó cũng sẽ thối tiền lẻ lại. Điều cần nhất là mình phải dùng tiền Nhật bằng kền, mới mua vé được. Bởi thế, chính phủ Nhật đúc tiền kền từ 1 đồng đến 100 đồng, trên 100 đồng mới in bằng giấy.
Tuấn gật gù khen :
- Kể ra kỹ nghệ họ tiến quá, nên cái gì họ cũng xài máy móc, bớt được nhiều nhân công. Mà đồng tiền Nhật gọi tên là gì, anh nhỉ ?
Dũng cầm một đồng tiền Nhật giơ lên :
- Gọi là đồng Yen. Đồng Yen của Nhật, nhờ mức xuất cảng trong nước mạnh, nên có giá trị quốc tế, không phải như đồng bạc Việt Nam mình phải dựa vào đồng Mỹ kim.
Bỗng có tiếng cô chiêu đãi viên nói, phát ra từ máy phóng thanh gắn trong mỗi toa xe. Dũng nhìn ra hai bên đường, rồi chỉ tay bảo Tuấn :
- Thường tàu đi qua chỗ nào có di tích lịch sử, đền thờ hoặc thắng cảnh gì, thì nhân viên trong tàu lại chỉ dẫn cho du khách hiểu. Vừa rồi là họ lưu ý chúng ta xem về phía Tây Bắc, có ngọn núi Phú Sĩ, mà dân chúng Nhật Bản tôn thờ, quý trọng. Ngọn núi này khá cao, xưa kia là một núi phun lửa, nhưng đã tắt từ lâu. Trên đỉnh núi luôn luôn có tuyết bao phủ. Về mùa hè, có người leo lên tận đỉnh núi, nhưng số đông, chỉ lên tới lưng chừng.
Tuấn vừa nghe Dũng kể, vừa phóng tầm mắt nhìn hai bên. Nhà cửa san sát, cái cao, cái thấp. Các đường xe hơi chạy rộng rãi, có thể chạy mỗi chiều 3, 4 chiếc thong thả. Xe đến các ngã tư, không phải dừng, vì có cầu bắc ngang trên cao, có đường dọc phía dưới, thật rất tiện lợi, đỡ mất thì giờ và bớt tai nạn lưu thông. Bỗng Tuấn quay lại hỏi Dũng :
- Anh Dũng nè, hình như ở đây họ lái xe đi bên trái, chứ không phải đi bên mặt như bên nước mình, phải không anh ?
Dũng gật đầu :
- Phải ! Ở Nhật, Hồngkông, bên Anh và một số nước khác, họ lái xe đi phía tay trái. Vì thế, xe cộ ở các xứ đó, bánh lái thường nằm bên phải, còn như bên mình, bánh lái để bên trái.
Xe chạy chừng nửa giờ, có lúc xe đi qua giữa phố xá, có lúc chạy gần biển, phong cảnh thật đẹp mắt. Tuấn đang mơ màng thì Dũng lay gọi :
- Tuấn ơi, đến Tokyo rồi, xuống mau !
Tuấn vội đứng lên đi theo bạn. Thành phố Tokyo thât đẹp. Đường sá rộng và sạch sẽ như được lau chùi cẩn thận ! Phố xá, cái thấp, cái cao, có nhiều dãy cao ngất, có lẽ đến 40, 50 tầng, Tuấn nhìn ngợp mắt !
Cả hai đi vào một lề phố. Người qua lại tấp nập. Đàn ông hầu hết bận âu phục. Còn phụ nữ, có người bận đầm, có người bận Kimono. Trông bề ngoài, người Nhật có vẻ nhanh nhẹn, đi lại vội vã, hình như họ ít thì giờ nhàn rỗi.
Dũng quay lại bảo Tuấn :
- Muốn sang dãy phố bên kia, phải theo đường riêng, chứ không băng ngang qua chỗ nào cũng được, như bên xứ mình đâu ! Cậu xem kìa, giữa đường xe chạy có thấy người đi bộ nào đâu !
Tuấn gật đầu :
- Kể ra họ tổ chức thật đàng hoàng, nhưng đáng phục nhất là người dân biết tôn trọng trật tự công cộng mới được như thế này.
Dũng xem đồng hồ, bảo Tuấn :
- Gần 11 giờ rồi. Chúng ta không có thì giờ để đi xem nhiều nơi đâu, Tuấn à ! Bây giờ, chúng ta vào siêu thị gần đây xem. Trong siêu thị này, anh muốn mua gì cũng có : từ cây kim, sợi chỉ cho đến chiếc xe hơi. Ở Tokyo , hầu như dãy phố nào cũng có một siêu thị.
Đi qua một căn phố trống, phía trong có bậc thang đi xuống hầm, Dũng chỉ tay bảo Tuấn :
- Đây là đường hầm đào sâu dưới đất cho tàu điện chạy khắp thành phố. Cứ 5 phút có một chuyến. Ai muốn đi xa xa, di chuyển bằng tàu điện, đỡ tốn hơn đi tắc xi.
Hai người đi đến một toà nhà cao 14 tầng, Dũng vui vẻ bảo Tuấn :
- Siêu thị Phú Sĩ đây rồi, cậu muốn mua máy móc gì, vào đây xem.
Vừa bước vào, Tuấn đã thấy hoa cả mắt, vì cảnh rộng lớn, sáng sủa của ngôi nhà. Hàng hoá bày la liệt, nhưng rất ngăn nắp thứ tự, trông thật hấp dẫn. Dũng đọc bảng chỉ dẫn rồi cắt nghĩa cho Tuấn :
- Đây là bảng ghi cho biết tầng nào bán những thứ gì :
Tầng dưới hết, bán thực phẩm. Tầng 1, bán đồ chơi trẻ con. Tầng 2, bán máy móc, Tivi, Radio, máy thu băng, quạt máy, tủ lạnh v.v… Tầng 3, bán dụng cụ về điện. Tầng 4, bán…
Tuấn la lên :
- Thôi, thôi… biết chỗ bán radio là được rồi ! Mình lên xem, mua xong, nếu còn giờ thì đi coi mấy tầng kia, không thì thôi !
Dũng cười :
- Thì ít nữa cậu đi một vòng dưới này xem họ bán thực phẩm ra sao đã !
Nhiều hàng tủ dài, có máy lạnh, chứa các thứ rau tươi, trái cây. Các đồ hộp chất cao, loại nào theo loại ấy. Tuấn thấy các bà nội trợ đẩy xe đi vòng quanh, lấy thứ này, thứ kia, chất vào xe. Cậu ngạc nhiên, quay sang hỏi dũng:
- Sao không thấy người bán đâu cả ? Họ không sợ mất à ?
Dũng thản nhiên đáp :
- Cửa hàng rộng lớn như thế này, nhưng nhân viên rất ít. Người mua tự do chọn lựa những hàng mình thích, chất lên xe, đẩy tới văn phòng gần cửa ra. Ở đó, có nhân viên kiểm hàng và làm hoá đơn. Họ tính bằng máy điện tử, nên rất nhanh. Trả tiền xong, có người đưa ra tận xe cho khách.
Siêu thị lại còn tổ chức đem hàng đến tận nhà cho khách nữa. Các bà nội trợ, bận việc, chỉ gọi dây nói tới xin thứ này, thứ kia, trong chốc lát, có xe đưa hàng đến.
Tuấn buột miệng khen :
- Tuyệt quá nhỉ ! Tổ chức chu đáo như vậy, vừa tiện vừa lợi !
Dũng gật đầu :
- Còn việc anh hỏi : Sao họ không sợ bị mất ? Đó là anh chưa hiểu bản tính người Nhật. Người Nhật rất ghét tính trộm cắp. Có thể nói được rằng, cả triệu dân Nhật, mới có một vài người có tính tham. Bởi đó, không ai lo nạn mất cắp.
Tôi còn nhớ năm trước đây, ông chủ và tôi lên Tokyo có việc cần. Chúng tôi thuê phòng ở khách sạn, rồi đi phố. Khi trở về khách sạn, ông chủ quên cái cặp đựng nhiều giấy tờ quan hệ trong xe tắc xi. Đang lo lắng, chưa biết trình báo thế nào, thì bỗng có tiếng gõ cửa, tôi chạy ra mở : Ba nhân viên Cảnh sát bước vào hỏi tên ông chủ và giao trả cái cặp. Họ cắt nghĩa :
- Vừa rồi, một tài xế tắc xi, đến trình báo họ là có hai người Việt Nam đi xe anh ta, bỏ quên lại cái cặp trong xe, nhưng anh ta không biết địa chỉ của chủ nó. Nhân viên chúng tôi hội lại, mở cặp ra xem và thấy trong cặp có địa chỉ ghi số phòng ở khách sạn này.
Ông chủ mừng quá, cám ơn rối rít và ngỏ ý xin đưa một số tiền để thưởng công người tài xế tắc xi. Nhưng họ lễ phép từ chối :
- Đó là bổn phận của mọi công dân Nhật !
Nghe bạn nói xong, Tuấn cất mũ, cúi đầu một cách trịnh trọng :
- Thiệt tôi xin bái phục đức tính cao quý ấy của họ. Theo tôi nghĩ, họ được như thế này là nhờ một truyền thống hào hùng từ ngàn xưa để lại và nhất là từ thơ ấu, họ đã được giáo dục cho biết : đức tính thật thà là cao quý và trộm cắp, gian tham, là một cái gì đáng ghê tởm. Nhờ đó, họ cầm hãm được lòng tham của.
Dũng gật đầu, đồng ý :
- Anh nhận xét rất đúng ! Chính nhờ gương tốt của tiền nhân họ và nền giáo dục vững chắc đã đào tạo họ được đức tính cao quý đó !
Rồi Dũng vỗ vai Tuấn :
- Thôi, tụi mình lên tầng hai mua máy và đi ăn cơm trưa. Xong, chúng ta sẽ đi xem vài công viên, để trở về Yokohama , kẻo ông chủ mong.
Cả hai đi thang máy lên tầng hai. Tuấn loá mắt vì đủ mọi thứ máy. Nguyên chỗ chưng bày Radio mà cũng đã hàng ngàn kiểu khác nhau. Tuấn và Dũng chọn một cái Radio nhỏ và một máy thu băng xinh xinh, vừa cầm, đưa đến quầy trả tiền.
Trước khi gói, họ thử cho thấy là máy tốt và chỉ dẫn cách sử dụng rất chu đáo. Đến khi trả tiền, vì họ biết hai anh là người ngoại quốc, nên họ bảo :
- Nếu hai ông có giấy thông hành, đưa cho chúng tôi ghi vào hoá đơn, chúng tôi sẽ bớt cho được hai chục phần trăm.
Dũng và Tuấn nghe vậy, khoái quá, lục túi lấy giấy thông hành đưa cho họ. Tuấn vui vẻ bảo Dũng :
- Giá bán ở đây rẻ hơn Sàigòn nhiều, lại còn được bớt nữa, đỡ quá chừng !
Mua xong, Dũng hỏi Tuấn còn muốn lên xem mấy tầng kia nữa không ? Tuấn lắc đầu :
- Xem cái gì cũng thích, mà không có tiền mua, buồn chết ! Thôi đi ăn cơm đã anh. Mọi sự hậu bàn !
Cả hai tươi cười trở xuống, đi tìm hàng cơm. Hàng cơm ở đây cũng nhiều. Tuỳ hạng sang, nghèo, nhưng hàng nào cũng rất sạch sẽ, thứ tự. Đủ các thứ món ăn Tây, Tàu , Nhật, tuỳ thích mỗi người. Dũng bảo Tuấn ăn thử cơm Nhật cho biết mùi vị. Nhật cũng dùng đũa như ở Việt Nam nhưng món ăn có vẻ khác. Các cô bồi bàn, y phục toàn trắng, tiếp đãi rất lịch sự, nhưng đứng đắn.
Cơm nước xong, Dũng đưa Tuấn tới một công viên nghỉ trưa. Công viên này khá rộng. Phía mặt tiền, một hàng cây anh đào đang trổ hoa, trông hết sức thơ mộng. Tiếp đến là bồn hoa chạy dài, trồng nhiều loại hoa quý, màu sắc rực rỡ mà Tuấn chưa hề thấy. Ở giữa công viên là một hồ sen, có hàng chục vòi nước phun liên lỉ, có nhiều loại cá vàng thật đẹp. 4 đường hình chữ thập rải sỏi trắng đi vào hồ. Ngoài ra là một thảm cỏ lúc nào cũng xanh mướt.
Phía cuối công viên là những cây cao, cành lá sum sê, rợp bóng mát. Dưới mỗi gốc cây, sắp rải rác nhiều ghế đá cho du khách nghỉ chân, ngắm cảnh.
Lúc hai anh em đến nơi, thì đã có nhiều người đang nghỉ trưa ở đó. Kẻ ngồi đọc báo, người nằm nghỉ, ai nấy đều im lặng. Dũng đưa Tuấn đi một vòng, chọn một ghế đá xa xa, vừa nghỉ chân vừa trò chuyện :
- Công viên này dành cho người lớn. Công viên của trẻ con thì có đủ thứ trò chơi : máy bay, xe lửa, tàu điện, xe hơi v.v… Nhưng phải công nhận là trẻ con ở đây chơi đùa rất lễ độ, biết giữ gìn đồ chơi chung chớ không phá phách như trẻ con xứ khác.
Tuấn ngồi xuống dựa lưng vào thành ghế, lấy mũ úp lên mặt, mơ màng :
- Tôi mới xem tận mắt nước Nhật được vài giờ mà đã thấy nhiều cái lạ lùng, huống chi là được xem cho hết, thì còn thấy biết bao nhiêu công cuộc, chứng tỏ họ văn minh và kỹ nghệ họ tiến vượt bực.
Dũng gật đầu :
- Đúng thế, nếu Tuấn được đi xem các nhà máy sản xuất xe hơi, máy móc truyền hình, truyền thanh, các xưởng đóng tàu thủy, máy bay v.v… lớn nhất nhì thế giới, chắc Tuấn phải hoa mắt !
Về kỹ nghệ, xét ra họ không thua gì các nước Âu Mỹ, mà về giáo dục, họ cũng có nhiều điểm tuyệt hảo. Trẻ con từ thành thị đến thôn quê đều bắt buộc phải học hết Trung học.
Về nghề nghiệp : ai muốn làm gì, cũng phải có bằng cấp chuyên môn, dù là những nghề rất tầm thường. Một người muốn đi xin việc làm, mà không có bằng chuyên môn, không mong được thâu nhận.
Người Nhật sống với nhau rất hoà nhã, ít gây sự với nhau, ngay trẻ con cũng thế. Có anh bạn kể cho tôi nghe : Anh ta đã ở gần hai năm giữa khu lao động, mà chưa hề thấy trẻ con đánh lộn nhau.
Nước Nhật có nhiều phong cảnh tuyệt đẹp, nơi thì hùng vĩ, nơi thì xinh xắn. Phong cảnh thơ mộng là nhờ có biển bao bọc tứ phía. Bờ biển thì chỗ nào cũng có cây thông mọc trên bãi cát hay cạnh những tảng đá, thân cây uốn khúc lả lướt trên mặt nước.
Phong cảnh nên thơ tạo cho đa số dân Nhật có óc thẩm mỹ. Họ rất thích bông hoa, âm nhạc và thể thao. Lối sống họ thật thanh nhã. Nhà nào dù nghèo, giàu, chật hay rộng, họ cũng sắp đặt đồ đạc trong nhà một cách rất mỹ thuật. Trên bàn, lúc nào cũng có một bình hoa tươi, đẹp mắt.
Hai anh em mải mê trỏ chuyện. Khi ngẩng đầu lên, thì công viên đã vắng hết người. Cả hai cũng đứng dậy. Dũng xem đồng hồ, bảo Tuấn :
- Gần 2 giờ chiều rồi, chúng mình đi về là vừa. Chuyến sau, tôi sẽ xin phép ông chủ đưa anh đi xem các cơ sở kỹ nghệ, để anh thấy cái đà tiến của họ.
Trên đường trở lại trạm tàu điện, Tuấn thấy một đoàn người ăn mặc sặc sỡ, họ mang trước ngực và sau lưng một tấm bảng lớn. Họ vừa đi vừa đánh trống, thổi kèn, vừa đọc nghê nga. Tuấn lấy làm lạ, quay lại hỏi :
- Họ làm gì thế anh Dũng ? Xuống đường hả ?
Dũng cười ngặt nghẽo :
- Chú mầy bị ám ảnh, hễ thấy đông người kéo nhau đi, là nghĩ đến chuyện xuống đường. Không phải đâu, họ đi quảng cáo hàng mới đó !
Ở đây, hàng hoá sản xuất do nhiều công ty khác nhau. Hãng nào muốn hàng mình bán chạy, phải quảng cáo thật hăng, đồng thời hàng phải tốt và rẻ. Trên thương trường, họ cạnh tranh nhau từng ly… nhờ đó mà dân nghèo ai cũng sắm sửa được đủ mọi tiện nghi theo thời đại mới !
***
Nhờ ông Thái Phong tiên liệu, Tàu Nam Hải vừa tới Cần Giờ, thì bão thổi mạnh từ Phi Luật Tân qua vịnh Bắc Việt.
Tuấn về đến Sàigòn, vội vã xin phép ông Thái Phong cho đi thăm má. Bà Hai được cái “radô” để nghe cải lương, bà mừng lắm. Còn bé Hiền, được anh Hai tặng cho cái máy thu băng, thích thú hơn được vàng.
Thôi thì cô bé xách máy đi thu đủ thứ : thu tiếng chúng bạn hát, reo cười v.v… cô còn thu cả tiếng bò rống, heo kêu, gà gáy ! Có lần, cô bé thấy má và anh Hai ngồi nói chuyện, cô lén thu vô băng, rồi mở ra cho má nghe, khiến bà ôm bụng cười ngặt nghẽo.