Bộ Khuy Kỳ Lạ - Chương 7 & 8

Chương 7

Un-Sa-Cơ nghe ngóng

Việt Kim buông người phịch xuống một tấm nệm sát cạnh Á Minh, thở một hơi dài:

- Cho chị ly nước trà, Á Minh! Uống cho đỡ bực mình một chút!

- Sao vậy chị Kim? Chị có điều gì khó chịu thế?

- Không, khó chịu gì đâu? Có điều đầu óc chị cứ rối bung lên thôi! Nhiều cái khó hiểu quá!

Hà Khâm bưng ly trà đặt trước mặt em:

- Kỹ sư Hoàng khi nghe chị Kim báo tin là bà Hoàng Mỹ sớm muộn cũng được trả tự do chắc mừng lắm?

Việt Kim nhấm nháp nước trà thơm:

- Đúng! Có đều khi được báo tin là vợ bị bắt giữ, ông ta đã điếng cả người lên.

Hà Khâm ngạc nhiên:

- Ủa! Vậy ra kỹ sư Hoàng không biết bà Mỹ bị giữ sao?

Việt Kim nhếch mép:

- Tôi cũng nghĩ như vậy!

Đúng lúc đó, Un Sa Cơ lại xuất hiện. Lão ta tiến đến bàn của ba người, cúi thấp lưng, dáng điệu lễ phép, khách sáo rất giả tạo: một nụ cười xã giao để lộ hàm răng trắng bóng nhọn hoắt như răng chó sói. Lão ngũ đoản hướng về Á Minh:

- Trại chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp cô cùng quý hôn phu! Dạ, kính thưa ái nữ của Lư thủ tướng, quý vị tới đột ngột quá thành thử chúng tôi không kịp tổ chức nghênh tiếp. Kính xin... dạ... dạ...

Chưa nói hết câu, tay ngũ đoản họ Un đã quay sang Việt Kim:

- Còn cô đây là con gái yêu của ký giả lừng danh thế giới, Hải Âu! Mong cô tha lỗi cho nếu vừa rồi chúng tôi có điều gì sơ sót. Cứ buổi sáng dậy là công việc ở trại bề bộn ghê lắm. Trong lúc vội vàng, e có điều thất lễ, mong cô...

Việt Kim nghiêm nét mặt, lịch sự ngả đầu thật lễ phép và cũng thật... lạnh lùng.

Un Sa Cơ lại thao thao:

- Tôi sẽ cố gắng hết sức để thời gian thăm viếng của quý vị tại đây được muôn phần hào hứng. Kỹ sư Hoàng đề nghị và tôi cũng rất tán đồng là sẽ tổ chức một cuộc đi thăm khu vực khảo cổ ở xa đây một chút. Tại đó có nhiều cái lạ vô cùng, chắc chắn quý vị sẽ được hài lòng... Hề, hề! Và tôi xin xung phong làm hướng đạo để toàn quyền quý vị... sai phái... hề, hề!

Á Minh bản tính trẻ nít, vỗ tay reo lên:

- Ồ! Vậy thì thích quá! Hà Khâm chịu đi! Đi nghe anh, chiều em chút nghe! Chúng mình có gì cần phải quay về Ba-ga-ra gấp đâu. Chịu nghe, Hà Khâm!

Việt Kim nhìn thẳng mắt Un Sa Cơ:

- Kỹ sư Hoàng cũng cùng đi chứ?

Lão Un lùn khẽ lắc đầu:

- Có lẽ ông không đi được. Ông phải ở lại trại viết phúc trình và chờ bà vợ. Nhưng xin cam đoan với quý vị rằng tôi đây cũng là một nhà khảo cổ và có thể giải đáp tất cả mọi thắc mắc của quý vị.

Hà Khâm nhìn Việt Kim từ tốn:

- Xét kỹ ra thì cũng là một cái hay, phải không chị Việt Kim? Chị là tai là mắt của ký giả Hải Âu mà! Cuộc thăm viếng khu vực đào bới này hẳn sẽ có nhiều điều bổ ích cho thiên phóng sự của ông nhà.

Việt Kim gật đầu:

- Hà Khâm nói đúng! Vậy bao giờ đi?

Un Sa Cơ:

- Ngay bây giờ!

Dứt lời, ông ta hăm hở bước ra dẫn đầu. Việt Kim theo sát gót, còn Á Minh và Hà Khâm vừa nô giỡn ở phía sau.

Việt Kim gợi chuyện với Un Sa Cơ:

- Đã đào được cái gì hay chưa hả ông?

- Cũng kha khá! Mới đầu chúng tôi chắc mẩm sẽ tìm được những di tích kinh thành cổ của Du-Ráp, nhưng những thứ đào bới được lại mang đầy dấu tích của một nếp sống thời thái cổ. Kỹ sư Hoàng đã thâu góp được những cục đá toại thạch (đá lửa) những mảnh vật dụng bằng đất nung và một cái lưỡi cầy rất cổ quái. - Và ông kết luận đó là những di vật còn sót lại của một thời nông tang xa xưa lắm, có tới khoảng 11.000 năm rồi.

Việt Kim đưa ra câu hỏi trên không phải là không có dụng ý. Em được đọc một cái thơ kỹ sư Hoàng viết cho ký giả Hải Âu báo tin đã đào được một số cổ vật rất bổ ích cho cuộc nghiên cứu, đồng thời cho ba em biết rằng việc thu hoạch quý báu đó được hoàn toàn giữ bí mật chưa hề tiết lộ. Vậy mà không hiểu sao, tay Un Sa Cơ này lại biết được. Thiệt lạ!

Con người khó hiểu nói luôn miệng:

- Chỗ chúng ta tới đây tuy xa một chút nhưng có nhiều cái hay lắm. Rồi quý vị sẽ thấy, và tôi dám chắc rằng không một ai sẽ phải thất vọng, tiếc công đi đâu. Cố lên một chút nữa, chúng ta sẽ dừng chân khi mặt trời nắng to.

Khoảng giữa trưa, bốn người ngồi xuống nghỉ mệt. Việt Kim phải ngầm công nhận Un Sa Cơ quả là một tay hướng đạo hết sức lành nghề. Ông ta nói chuyện rất hấp dẫn, kể cho mọi người nghe những cuộc du lịch, những xứ sở kỳ lạ ông đã đặt chân tới. Đối với sa mạc mênh mông cát bỏng, tay lùn mập này cũng tỏ ra rất sành. Dẫn chứng cụ thể: nơi bốn người ngồi nghỉ chân, một cái lều vải thật chắc chắn, tươm tất, mà chỉ cần mấy cái gậy chống và hai, ba tấm "chador" nhẹ nhàng, trong nháy mắt, Un Sa Cơ đã dựng xong. Ông ta lại còn chu đáo, đem theo cả nước uống và trái cây cho mọi người giải khát nữa.

Hà Khâm và Á Minh có vẻ hoàn toàn tin tưởng ông họ Un này lắm. Riêng Việt Kim, em vẫn phấp phỏng chẳng yên, nhưng ngoài mặt vẫn vờ thản nhiên nói cười bắt chuyện vui vẻ. Thỉnh thoảng liếc nhanh mắt, em lại bắt chợt những tia nhìn lạnh lẽo của tay "ngũ đoản" chiếu lên mặt mình thật lẹ. Rồi những giây phút không ai để ý, lão ta, ngồi thần mặt ra, khoé mép đôi lúc nhếch lên coi thật dữ tợn, khác hẳn với sắc diện niềm nở khi cùng nhau đối thoại. Việt Kim lên tiếng:

- Có phải kia là những giếng dầu hỏa không, ông Un?

- Đúng đó cô Việt Kim! Úi chà! Mắt cô tinh thật! Nhiều người, hễ cứ ra tới đây là không còn nhìn xa được như thế nữa đâu. Nơi sa mạc bao giờ cũng có hiện tượng phản xạ ánh sáng mặt trời. Và hiện tượng này nó nguy hiểm ở chỗ khiến người ta "trông thấy" được những sự vật chỉ có... trong tưởng tượng. Bị khát chẳng hạn, ta nghĩ ngay đến một giòng suối nước trong vắt. Óc tưởng tượng làm việc ngay và ta trông thấy rõ ràng con suối đang lững lờ chảy qua những khe đá mát rượi. Thế là mắt ngó đăm đăm, chân hăm hở bước tới để chỉ thấy cát, toàn là cát và... ánh nắng mặt trời như thiêu đốt... Hà, hà! Cát và ánh nắng sa mạc không buông tha những kẻ dại khờ bao giờ...

Mấy phút sau, bốn người đã đặt chân tới một dẫy lều vải bạt dựng theo hình bán nguyệt vây quanh một cái hố lớn đào sâu vào trong cát. Miệng hố há hốc như miệng quái vật che sơ sài một tấm vải quét nhựa thông. Không thấy bóng dáng một công nhân nào làm việc. Quang cảnh hoang vắng vô cùng.

Như đoán được ý nghĩ thầm kín của Việt Kim, Un Sa Cơ giải thích:

- Trong khu vực chính của Can Pác, bữa qua đã lộ ra một vài dấu vết hứa hẹn lắm. Thành thử hôm nay thợ và các cai đều tập trung ở đó cả.

Mọi người xuống ngựa bước theo Un Sa Cơ, nghe ông ta giảng giải cách thức đào bới các di tích cổ ra sao và nâng nhẹ các vật đó ra khỏi cát như thế nào cho khỏi vở bể nát vụn.

Việt Kim ngấm ngầm nhận xét thì thấy Sa Cơ có ý dẫn ba người đi xa dần chỗ cắm lều; lừa một phút không ai để ý, em tách khỏi đoàn lẻn đứng khuất sau một căn ngay gần đó.

Khi mắt đã quen với bóng tối bên trong, em đưa mắt quét một vòng ngó chung quanh. Trong lều có vẻ ngổn ngang đồ đạc tuy chỉ có một cái sập bằng gỗ, một cái bàn nhỏ và một cái ghế loại xếp lại được và một cái kệ. Tia mắt em đụng tới một tấm mền dạ lớn treo rủ nơi cuối lều như có vẻ che dấu một cái gì đó. Đưa tay kéo lẹ, vẹt ra một bên. Một khoảng trống lộ ra chất những trục lớn quấn đầy dây điện. Một góc xếp những bình chứa điện (ắc quy) có giây truyền ra một dụng cụ gì kỳ cục lắm nằm lù lù ở giữa. Trên một tấm kệ thấp rất chắc chắn nằm xếp hàng những hòm điện từ thiết (nam châm phát điện) rồi một mặt "đồng hồ" lớn bên ngoài có hộp kiếng sáng trong vắt bao kín. Mặt "đồng hồ" có một lỗ vuông lớn cũng bao mặt kính để lộ một cuốn giấy trắng quay chầm chậm. Quay tới đâu, mặt giấy trắng lại in hình một đường đen biểu diễn do một ngòi bút đặc biệt chạy từ từ trên cuốn giấy.

Đang mải mê ngắm nghía, bỗng tiếng chân đi trên cát nghe lạo xạo khiến em giật mình quay lại. Việt Kim chỉ đủ thời giờ buông lẹ tay cho tấm mền dạ lại buông rủ xuống như cũ, đồng thời đứng ngay người giữa căn lều giả vờ đưa mắt thản nhiên nhìn vơ vẩn chung quanh. Un Sa Cơ đã sừng sững giữa cửa lều vải. Ông ta đưa tay mở rộng thêm tấm bạt che cửa để cho ánh mặt trời soi sáng rõ thêm bên trong.

- À cô nhỏ tò mò coi kỹ quá nhỉ! ... Đó cô thấy không, anh em chúng tôi ở đây, sống như Lỗ Bình Sơn trên hoang đảo vậy đó! Thiếu thốn đủ mọi thứ, vất vả lắm cô à! - Miệng nói tía lia làm ra bộ vô tư vui vẻ, nhưng Việt Kim nhận ra ngay tính chất giận dữ trong âm thanh giọng nói của Un Sa Cơ và bắt chợt tia mắt lo lắng của lão liếc rất nhanh lên tấm mền buông kín phía cuối lều.

Việt Kim chưa kịp bắt chuyện đã nghe tiếng Á Minh gọi lớn ở bên ngoài:

- Ông Un ơi, tôi mới đào được cái này hay lắm! Ra mà coi này.

Thời gian mấy giây đồng hồ mà Việt Kim tưởng như dài có tới một thế kỷ, Un Sa Cơ chiếu tia mắt nhìn thẳng mặt em. Tia nhìn lạnh lùng, thật kỳ dị, rất dữ dội, nhưng chỉ chớp mắt đã lại biến ngay để nhường chổ cho một cái cười. Cái cười giả tao, âm thanh không chân thực mà Việt Kim vẫn ghét cay ghét đắng:

- Chúng ta chạy ra xem cô Á Minh khảo cổ được cái gì đi, cô Việt Kim!

Phút sau, Việt Kim đã cúi nhìn ngắm nghía cái vật Á Minh lượm được. Thì ra chỉ là một miếng giấy mạ kim nhũ có chữ S nằm trên, in hình nổi rất đẹp. Un Sa Cơ ngửa đầu ra phía sau. Lại tiếng cười rỗng tuếch: "Hề, hề!" - Việt Kim cũng mỉm cười vui vẻ bảo Á Minh:

- Em biết cái này là cái gì không? Đây chỉ là một cái nắp hộp kẹo mè sửng, thổ sản của Việt Nam, kẹo mè sửng sản xuất tại Huế, kinh đô cũ của xứ sở chị, làm bằng mật mía, trộn với đậu phụng, trên mặt rắc hột vừng ăn ngon lắm. Loại ngon nhất được sắc thành từng miếng vuông vức đựng trong những hộp giấy cứng xinh xinh trên đậy bằng cái nắp nầy. Chữ S là hình thể nước Việt Nam, quê hương chị đó.

Un Sa Cơ xen vào:

- Cám ơn cô Á Minh nhé! Cái này của tôi vô ý để lọt túi đấy. Chẳng có gì đáng giá nhưng là một kỷ niệm nên quý lắm. Xin cô cho lại.

Việt Kim nhìn tay lùn mập:

- Ông cũng đã ở Việt Nam?

- Dạ không! Một người bạn tôi ở bên ấy lâu năm, lúc về đem theo cho tôi đó!

Rồi lão Un ba hoa nói mãi, Việt Kim vờ chăm chú nghe, ừ ào cho qua chuyện trong khi đầu óc em cứ mãi vấn vương vì số dụng cụ kỳ quái bắt gặp trong lều của Un Sa Cơ hồi nãy.

Chợt một tia sáng loé lên trong bộ não thông minh: "Máy địa chấn kế! A đúng rồi! Đúng là một cái máy đo địa chấn các nhà thám hiểm đi tìm giếng dầu hỏa vẫn dùng! Không sai! Máy đo địa chấn để dò mỏ ngầm dầu hỏa... hừ!" - Em nhớ đích là đã được một đôi lần coi qua trong sách báo.

Quay ra, Việt Kim đưa tay nhắc một góc tấm vải dầu che cái lỗ to đào sâu vào trong cát:

- Những cái gì đây hả ông?

- À, đây là những dụng cụ máy khoan để đào giếng lấy nước ăn đó mà...! Cô cũng... tò mò khiếp nhỉ!

Câu nói vui vẻ gượng gạo kèm theo một tiếng cười giả dối nhưng tia mắt lão Un nhìn nhanh Việt Kim lạnh lùng dữ dội như mắt rắn hổ. Em vờ như không biết gì, cất tiếng bảo hai bạn:

- Á Minh, Hà Khâm! Đứng ra đây cho tôi chụp mấy tấm hình hai người cùng với quang cảnh đào bới đồ cổ ở đây đi. Chịu khó đứng chút, lẹ lên, kẻo sắp hết ánh sáng rồi. Cả ông Un nữa, phiền ông cho phép, xin ông một "pô" về dán album làm kỷ niệm ghi nhớ mãi vụ đi chơi thú vị này. Tiếp theo câu nói là cái cười thật tươi, rất lịch sự khiến ông "ngũ đoản"... khó nghĩ:

- Tôi không ăn ảnh, chụp uổng phim của cô đi. Mà đứng bên hai bạn của cô thì thật quả đúng là cú đứng cạnh tiên, xấu mất ảnh đi.

- Ối chà! Ông cứ nói vậy! Phiền ông chút xíu thôi mà, chẳng mấy khi được có dịp như thế này! Dạ mời ông... Xin ông đứng ngay trước cửa lều giùm cho.

Nhếch miệng cố nở nụ cười vui, nhưng giọng nói của lão Un đanh lại:

- Thôi, không tiện đâu cô! Cô cứ chụp cô Á Minh cùng vị này đi, còn tôi thì... xin miễn cho. À, đây, cô lấy cảnh sa mạc mênh mông làm "phông" có phải đẹp hơn không.

Miệng nói, tay ông ta chỉ phía trước mặt chỉ có cát trắng một màu phẳng lì buồn tẻ, đối diện với căn lều.

Việt Kim không muốn tranh luận lôi thôi mãi liền sửa soạn máy hình, bấm liên tiếp mấy cái, đôi chân di động trên mặt cát không ngừng mắt ngó đăm đăm vào mặt kiến phản chiếu rõ phong cảnh. Em muốn có ý thu vào hình đủ mọi góc cạnh quang cảnh khu trại khảo cổ này.

Un Sa Cơ liếc đôi mắt sằc theo dõi đăm đăm. Và Việt Kim thì cố gắng xoay sở sao cho hình ông lùn mập lọt vào tấm kính ngắm. Em nói to bảo Á Minh:

- Chờ một phút, nghe Á Minh! Chờ chị thay cuốn phim đã! Hai "pô" nữa thôi!

Rồi quay lưng về phía mặt trời, em thủ máy ảnh kín vào trong tấm chador, mở nắp thay phim Việt Kim nhấc cuốn phim chụp rồi ra, thè lưỡi thấm nước miếng lên mép giấy có keo sẵn rồi dán lại thật chắc.

Bỗng một bàn tay thân mật vỗ vào vai em... khá mạnh. Cái vỗ đột ngột khiến cuốn phim em đang cầm nơi tay rớt ngay xuống cát. Tên Un Sa Cơ đứng sát bên cạnh Việt Kim từ lúc nào. Và cái vỗ vai thân mật "quá trớn" vừa rồi đúng là do lão.

- Ối chà! Xin lỗi cô bé! Chậc! Chậc! ... Để tôi lượm giùm!

Việt Kim chưa kịp làm gì, chưa kịp nói gì, tay lùn mập đã quỳ lẹ gối xuống cát đưa tay bới loạn lên để lượm cuốn phim. Chưa đầy mấy giây đồng hồ, ông ta đã reo lớn:

- Đây rồi! ...Và Un Sa Cơ đứng dậy. Cuốn phim xổ tung, dài thượt theo gió đu đưa, lủng lẳng thảm hại nơi đầu ngón tay lão "tóc bàn chải" Miệng lão tía lia:

- Ấy, ấy! Ôi chà! Cô không dán kỹ, sổ tuột ra hỏng hết rồi. Rõ thật phí quá.

Việt Kim đứng lịm người, không nói một tiếng. "Không dán kỹ"! Hừ! "Không dán kỹ để cuốn phim sổ tuột ra!" Vô lý! Em biết rõ là lão lùn nói láo. Và chính lão đã chủ trương phá hỏng, lợi dụng lúc cúi lượm, lẹ tay bóc tuột đầu giấy dán keo cho cuốn phim sổ ra, trắng lốp hết.

Em rít qua kẽ răng, nhưng vẫn cố dịu giọng:

- Thôi được, không sao! Để tôi lắp cuốn này vào chụp lại, cố chụp lấy vài "pô" khác vậy!

Un Sa Cơ gạt ngay đi:

- Trễ rồi đó cô bé! Chiều xế rồi kìa. Ta liệu ra về kẻo bị tối giữa đường mất.

Quả vậy, mặt trời biến đâu mất. Trên mấy ngọn cồn cát cao đã thấp thoáng những bóng tối đen buồn thảm.

Chương 8

Tù nhân của Áp-Đun-Bây

Hà Khâm cũng tán đồng ý kiến của Un Sa Cơ hối thúc mọi người ra về.

Cả bọn lên ngựa ra roi cho ngựa rảo bước. Ai cũng mong cho mau về tới nơi và không một người nào nghĩ đến việc có thể bất ngờ lỡ độ đường phải ngủ ngay trên sa mạc.

Un Sa Cơ lên tiếng:

- Để tôi dẫn đầu soi đường đi cho dễ. Có sẵn đèn bấm đây. Cẩn thận chút xíu. Quãng này có mấy đám cát "lỏng" nguy hiểm lắm đó. Nhưng quý vị có thể yên tâm, tôi nhớ chổ hết.

Nói xong tên lùn mập cho ngựa phi nước đại. Ba người bạn phóng theo. Việt Kim luôn luôn đưa tia mắt ngó chừng Un Sa Cơ. Lão mập lùn chốc chốc lại loáng tia đèn bấm quét lên ba người. Không ai rỉ răng nói một lời. Việt Kim lắng đọng suy tư. Em chậm rãi tổng hợp mọi ý nghĩ chợt hiện ra trong đầu óc và tin tưởng một cách chắc chắn là Un Sa Cơ chẳng màng gì tới vấn đề nghiên cứu tìm hiểu vương quốc Du-Ráp cổ xưa hết. Trái hẳn thế, y chỉ chú trọng đến nguồn tài nguyên phong phú nơi đây hiện có, mà lại có nhiều vô kể, còn ở ngầm dưới cát, nghĩa là: những giếng dầu lửa. Em rất tiếc là đã không xem xét các dụng cụ tại căn lều của Un Sa Cơ một cách tỉ mỉ hơn nữa. Việt Kim lẩm bẩm: "Nếu ở đây mà lại có cái giàn thang bằng thép cao nghệu thì là đúng đấy." Tiếc rằng không thấy đâu cả. Nhưng em lại biết chắc rằng kỹ sư Hoàng không dùng cái lưỡi khoan đó để sới đào, khảo cổ. Ký ức Việt Kim cố điểm lại một lượt mọi dụng cụ em đã được đích mắt trông thấy ở ngoài trại chính. Và em nhớ được là trong một cái thơ viết cho ký giả Hải Âu, ba em, kỹ sư Hoàng có than phiền nhiều về vấn đề thiếu hẳn dụng cụ máy móc nên cứ phải đào bới một cách thủ công nghiệp, từng ly từng tấc một... Vậy mà tại sao lại có đồ nghề cơ khí, những lưỡi khoan cất giấu tại một khu hẻo lánh Un Sa Cơ mới dẫn mọi người tới đó.

Tư tưởng miên man, em lại nghĩ tới vợ chồng kỹ sư Hoàng. Ông bà này kể cũng hơi kỳ lạ. Nhất là ông chồng. Tại sao ông ta lại không ra chào tiễn bốn người khi cả bọn lên ngựa đi thăm khu trại phụ xa xôi. Un Sa Cơ nói rằng sáng kiến tổ chức cho ba người khách đi thăm là của ông Hoàng mà tại sao lại không thấy ông này nói gì hết? Thế rồi tại sao nơi lỗ đào sâu hun hút như cái giếng đó lại không thấy bóng dáng một người thợ nào cả?

Bao nhiêu thắc mắc dồn dập làm nhức nhối khiến đầu em nhức như búa bổ. Á kìa! Sao lại lạ thế kia? Đèn bấm soi đường chiếu xuống mặt cát sao không chiếu mà lại chiếu lên trời loang loáng, tắt sáng, tắt sáng như làm hiệu vậy. Hay là Un Sa Cơ bấm đèn ra dấu cho mọi người ở trại chính là bốn người đi thăm khu trại trong đã về tới.

Chưa kịp hiểu sự thực ra sao, Việt Kim đã nghe có nhiều tiếng vó ngựa đập lộp cộp, lạo xạo trên cát. Ánh đèn "pin" lấp loé soi rõ bóng người lố nhố đang phi ngựa lao tới. Un Sa Cơ dừng ngay lại giữa đám bụi mù. Việt Kim nói nhanh báo tin cho Hà Khâm, Á Minh biết, đồng thời trống ngực em đập thình thịch mà em chẳng hiểu tại sao. Liếc mắt nhìn nhanh, hơn mười bó đuốc lập loè như ma trơi nắm chắc trong tay của những người ăn mặc nhơm nhuếch bẩn thỉu, râu ria xồm xoàm, mặt mũi dữ tợn. Đúng là dân thảo khấu của một bộ lạc du mục nào đó rồi. Hai tên xấn tới lôi tuột Á Minh và Hà Khâm xuống khỏi lưng ngựa. Một tên thứ ba sáp lại bên Việt Kim thì bị em giật cương cho ngựa chồm tới hất hai chân trước lên. Em định cho ngựa đá tung vào mặt nó, nhưng vô ích, tên cướp mạnh và nhanh như con beo, nghiêng đầu né khỏi, vươn tay ra rất lẹ nắm cứng lấy đai da gần hàm thiếc ghì chặt đầu ngựa lại. Tay y hất mạnh một cái, Việt Kim đã mất đà ngã lộn xuống mặt cát. Rồi vai y chỉ hích nhẹ, em đã bị xô bắn lại phía Hà Khâm và Á Minh đang run rẩy đứng dựa lưng vào nhau.

Trong bóng đêm, Việt Kim liếc mắt có ý tìm xem Un Sa Cơ đâu. Thì ra tay lùn mập đang bị hai tên cướp mặc áo đen dài lụng thụng giữ hai cánh tay đẩy mạnh tiến lại gần một tên khác, bóng dáng hùng vĩ, ngồi oai nghiêm trên lưng một con ngựa trắng. Sắc của con ngựa cao lớn như vẽ thành một vệt sáng trong bóng đêm đen. Nhất định tên này phải là tên chỉ huy.

Việt Kim hỏi nhanh:

- Dân bộ lạc nào đây, Hà Khâm?

Giọng Hà Khâm mất hẳn vẻ bình tĩnh thường ngày.

- Chịu, không biết được, chị Kim! Có lẽ là người của một bộ lạc du mục trong số các bộ lạc tự trị không chịu thần phục đức Shah đó. Họ gạt bỏ, từ chối hết viện trợ của quốc vương Du-Ráp cho nên mức sống phải lầm than, lam lũ như vậy đó. Phải công nhận họ là một sắc tộc kiêu hùng nhưng thù dai như đỉa ấy. Tôi lo lắm!

Á Minh xích lại gần để Hà Khâm quàng tay lên vai cho em đỡ sợ. Hà Khâm nói sẽ vào tai em:

- Á Minh đừng nói là con gái của Thủ Tướng nhé!

"Búp bê" ngước đôi mắt thất đảm ngó vị hôn phu, không nói gì, sẽ gật.

Việt Kim vẫn không rời mắt khỏi Un Sa Cơ và tên chúa đảng, nhân vật cưỡi ngựa trắng. Gã này nói như quát, như thét, âm thanh nghe thật dữ dội phát sờn gai ốc. Việt Kim hạ giọng bảo Hà Khâm thông dịch lại cho nghe. Chàng trai khẽ lắc đầu: "Chịu, không hiểu gì hết đâu chị Kim! Họ nói thổ ngữ riêng của họ mà!"

Một lúc sau mà ba người tưởng chừng như lâu lắm, Un Sa Cơ đi lại: - Tên chỉ huy tự xưng là Áp Đun Bây, vua chính thức của Du-Ráp. Hắn nói là sẽ giữ tụi mình làm con tin tới khi nào đức quốc vương "Shah" công nhận quyền hạn của hắn mới thôi!

Á Minh:

- Ủa! Hắn điên sao chớ! Khi nào đức Shah lại chịu nhường ngôi cho hắn.

Un Sa Cơ:

- Chúng ta phải đi theo hắn về đại bản doanh.

Hà Khâm và Việt Kim quay nhìn thật lẹ chung quanh: toán quân bí mật giờ đây có tới hai chục người ngồi im lặng lầm lì trên mình ngựa, tiếng chân ngựa đập lên mặt cát nghe lạo xạo như ngầm báo cho cả bọn biết là: "chống cự vô ích, hơn thua đã thấy rõ".

Tiếng Un Sa Cơ:

- Không thể làm gì được nữa đâu! Thôi, cứ đi theo họ cho được việc!

Gần một chục tên sáp lại khoát tay ra hiệu cho bốn người lên ngựa. Rồi chúng thúc ngựa quay thành hình vuông, giựt cương cho tuấn mã nện vó, vây bọn bốn người ở giữa. Hết đường chạy trốn.

Chưa đầy mười phút sau đã tới bản doanh của bọn người bí mật.

Tụi vệ binh hất tay ra ra dấu bảo bốn người xuống ngựa, đẩy cả bọn, bắt đi vào một căn lều đen sì, mái che bằng da dê. Đoạn, vẫn nói bằng tay, họ ra lệnh cho đàn bà con gái ở lại đây. Còn đàn ông phải theo họ đi tới một chỗ khác.

Á Minh run vì sợ và vì tiết trời về đêm ở sa mạc rất lạnh, nằm cuộn tròn sát vào Việt Kim. Em vuốt tóc cô bạn bé nhỏ:

- Đừng lo ngại gì hết nghe, Á Minh! Chị hứa với em là thế nào chúng ta cũng sẽ thoát khỏi nơi đây.

Mệt nhọc và sợ hãi khiến thể xác hai cô gái mỏi rã rời. Một lúc sau, hai chị em đã chìm sâu vào trong một giấc ngủ nặng như chì.

Sáng hôm sau, trời mới hừng Đông, toàn khu trại đã ồn ào nhộn nhịp: gia súc kêu ỏm tỏi, con nít khóc oa oa, dê cừu "be be" nhức óc, soong chảo khua rổn rảng.

Việt Kim ngồi nhỏm trên giường, hết sức nhẹ tay để Á Minh ngủ ngon.

Em bước xuống, vươn vai, tiến ra cửa lều. Một tên đứng gác giương mắt ngó nhưng không có một cử chỉ hoặc một lời nào để ngăn giữ khi em bước ra ngoài. Un Sa Cơ ngồi gần đó từ bao giờ, bên một đống lửa. Hai phụ nữ đang bưng thức ăn đến cho ông ta. Thật lạ lùng! Coi bộ lão lùn nhởn nhơ bình thản, chẳng có vẻ gì là tù nhân cả. Ông ta giơ tay ngoắc Việt Kim ra hiệu bảo tới gần. Một người đàn bà đặt vào tay Việt Kim một ly lớn đựng đầy chất lỏng gì nóng hừng hực. Em đưa lên miệng uống ngon lành cái nước đó, nóng, ngọt, không béo ngậy như sữa nhưng mùi thơm rất dễ chịu... Un Sa Cơ ghé vào tai em, nói thật nhanh bầy cho em cách đào tẩu:

- Cô lén đi tới chỗ tàu ngựa, tháo lấy một con, phóng ngược lên hướng Bắc! Lẹ đi, làm ngay đi! Còn Hà Khâm và Á Minh để tôi lo thu xếp cho trốn sau!

Liếc nhanh nhìn tàu ngựa, Việt Kim thấy có tới gần một chục người vệ binh đứng gác. Em trực cảm thấy rõ ràng lão lùn này định xúi em vào chổ chết đây. Định trả lời đốp chát vào bộ mặt nham hiểm của tên lùn mập, nhưng em lại nín kịp, vờ nở một nụ cười làm bộ như không hiểu lão nói gì. Bộ răng chó sói nhe ra, Un Sa Cơ cười sằng sặc:

- À, cô nói tiếng Pháp kém quá hả? Tôi nói thế mà không hiểu hả? Dốt quá vậy?

Việt Kim thản nhiên ngồi ăn điểm tâm, không bắt chuyện. Xong, đứng dậy, em thả bước đi loanh quanh trong khu trại có ý thăm dò xem bọn này cho phép các "tù binh" được tự do tới mức nào. Em sán gần tới bên dìa khu trại, nơi nhốt rất nhiều dê cái. Loáng tia mắt thật nhanh, em nhận thấy không một ai buồn để ý tới em hết. Một chú nhỏ chừng sáu, bẩy tuổi, trông thấy Việt Kim đang vuốt ve một con dê con, nhoẻn miệng, nhe bộ răng sún ra cười. Có lẽ khu cấm địa duy nhất chắc chỉ là... tàu ngựa.

Thời gian như ngưng lại. Ngày giờ kéo dài ra. Ba người bạn cứ loanh quanh tha thẩn giữa đám người trong bộ lạc bán khai này, chẳng biết làm gì cho đỡ sốt ruột. Ăn uống, được cung cấp đầy đủ. Có điều đặc biệt những người đến gần đối thoại với ba người chỉ toàn là... phụ nữ. Tuyệt đối không một người của phái khoẻ.

Khi chiều xế, Việt Kim ngạc nhiên vì không thấy bóng dáng Un Sa Cơ đâu. Em sực nhớ là y đã vắng mặt từ lúc trưa rồi chứ không phải mới đây đâu. Hỏi, Hà Khâm cho biết:

- Hơn một giờ trước đây tôi thấy ông ta loanh quanh gần tàu ngựa mà!

Việt Kim la khẽ:

- Ủa, sao lại thế được! Vậy ra ông ta được phép lai vãng tới chổ đó sao?

Mấy phút sau, ông mập lùn, tóc bàn chải, ở đâu chạy sồng sộc vào trong lều. Hai tay ông ta xách khệ nệ ba cái túi lớn của Việt Kim, Hà Khâm và Á Minh.

- Úi chà! Nặng quá! Tôi cố na về phòng xem ai có cần dùng gì chăng

Á Minh láu táu mừng rỡ ra mặt:

- Trời! Ông tốt quá! Tôi cần cái lược chải đầu mà tìm mượn cả ngày trời không được. Thú quá!

Việt Kim đưa tay với lấy cái "sắc" Du-Ráp đẹp Hà Khâm tặng em, nét mặt thản nhiên lạnh lùng như không. Em thầm nghĩ: "Ờ, ờ! Thú thật! Tốt thật! Nhưng kể cũng hơi lạ. Un Sa Cơ được phép lảng vảng tới khu cấm địa, không những thế mà lại còn đi sâu mãi vào phía trong để lấy được cả mấy cái của ba người ra. Tại sao ông ta lại được hưởng cái đặc ân đó chứ?"

Nhưng rồi, tuổi trẻ dễ buồn mà cũng dễ vui. Mấy cái túi đồ khiến ba người thích thú. Lấy ít đồng tiềng cắc và hơn chục cái khuy nhỏ, Việt Kim bày ra một bàn cờ chiếu tướng. Em vẽ ô lên miếng bìa bao ngoài xấp giấy viết thơ và dạy Hà Khâm, Á Minh cách đi quân.

Phút sau, hai người đã thạo các nước cờ như những người chuyên nghiệp. Hà Khâm thỉnh thoảng lại thét lên, suýt soa tiếc rẻ, mỗi khi Á Minh chặt mất quân.

Để hai bạn ham mê chặt quân, chiếu tướng, Việt Kim thừa lúc không ai để ý, cất lẻn ra đi, có ý rình rập Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản, hai tay thọc túi quần, mặt cúi nhìn mũi giầy, thẫn thờ đặt bước như một kẻ nhàn du. Đột nhiên chử chỉ ông ta thay đổi khác hẳn. Quay đầu liếc thật nhanh về phía lều ba người, Un Sa Cơ lớn bước đi như chạy về phía đầu khu trại đằng kia, nơi có tới hơn một chục chiếc lều khác, vây quanh một chiếc to cao hơn tất cả, màu trắng toát. Căn lều đặc biệt của tên chỉ huy. Việt Kim đứng ở một góc khuất tầm mắt lão Un quyết định rất lẹ: tìm hiểu bằng được tay lùn mập tới đó làm gì!

Em rút nhẹ một tấm mền len cũ của ai vắt trước cửa một căn lều, quàng đại lên đầu, cho nó rủ xuống che kín toàn thân như các thiếu phụ khác trong bộ lạc. Rồi bắt chước họ có thói quen vừa đi vừa nhảy tưng, em hết sức nhẹ nhàng khéo léo để không ai chú ý đến mình, tiến lại gần căn lều vải trắng. Đến nơi, em nằm rạp xuống mặt cát áp tai vào khe hở thầm nghe ngóng.

Tên tù trưởng nói bằng tiếng Pháp ngọng nghịu vấp váp, giọng ôn tồn:

- Sao ông đến trễ quá vậy?

Tiếng Un Sa Cơ:

- Phải nấn ná thong thả như thế tụi nó mới không nghi ngờ. Lúc nào cũng cần phải làm sao cho họ đinh ninh là tôi cũng bị bắt làm con tin như họ mới được. Sơ ý là họ nghi ngờ có liên lạc mật thiết với ông là hỏng hết, không còn làm được cái gì ở Ba-ga-ra nữa đâu. Phải cẩn thận, dè dặt đề phòng dữ lắm, nếu không là nguy đó. À, này, nhất là cái con nhỏ người Việt Nam đó. Tai và mắt nó nhanh như chớp ấy, coi chừng nó cho kỹ mới được, nghe ông!

Viên tù trưởng giọng khắc khoải:

- Sao? Ông đã tìm thấy được gì chưa?

Việt Kim hết sức đợi chờ Un Sa Cơ trả lời:

- Chắc chắn rồi! Tôi đã kiếm ra được giếng dầu! Xứ sở của tôi sẵn sàng nổi dậy nếu được ông và bộ lạc ông giúp sức. Nhưng các ông đã sẵn sàng chưa?

Tên tù trưởng gật đầu:

- Hiện tôi đang chờ ba vị tù trưởng nữa. Bao giờ họ tề tựu đông đủ, tôi sẽ bàn luận với họ rồi sẽ cho lệnh rõ rệt.

Un Sa Cơ mừng rỡ:

- Vậy thì tốt lắm! Và bây giờ ông cho người áp giải tôi về chỗ tụi nó. Bảo họ giả vờ xô đẩy quát tháo thật dữ vào nghe!...

Núp dưới tấm khăn choàng, Việt Kim nghe tiếng giằng co xô đẩy, rồi tiếng người nguyền rủa, quát tháo ầm ĩ. Hé mắt qua khe hở khăn choàng, em thấy rõ hai tên túm áo Un Sa Cơ giữ chặt tưởng chừng như sắp đánh lộn vậy. Em vội vàng bò nhanh tới căn lều kế bên, liệng trả tấm mền, cắm đầu cắm cổ chạy về chỗ Hà Khâm và Á Minh trước Un Sa Cơ. Tên ngũ đoản vừa đi vừa vùng vằng nguyền rủa hai tên vệ binh ầm ĩ.

Á Minh, Hà Khâm thò cổ qua cửa lều thì thấy hai du mục thẳng tay xô mạnh Un Sa Cơ ngã dúi xuống trước cửa căn lều. Chưa ai kịp hỏi gì, ông lùn mập đã liến láu cái miệng:

- Tụi nó bắt giữ tôi khi tôi mon men đến gần căn lều lãnh tụ của chúng. Tôi có ý định gặp tên chỉ huy này xem có thể nói chuyện ôn hòa được không. Không biết làm cách nào để tụi nó trả tự do cho anh em mình đây chứ.

Việt Kim hỏi mát:

- Chắc ông cũng đã dự tính kế hoạch cho bọn mình thoát hiểm ra sao rồi chứ?

Miệng hỏi, nhưng trong thâm tâm em nguyền rủa tên phản trắc này chẳng tiếc lời. Đồng thời em quyết định sẽ vờ như bị mắc mưu của hắn cho hắn khỏi áy náy nghi ngờ gì hết. Và cũng sẽ im lìm không cho Hà Khâm biết vội, e lộ hết.

Việt Kim nghiến răng tự nhủ:

- Thế nào cũng phải tìm cách trốn khỏi nơi đây để báo tin cho chính phủ Ba-ga-ra và đức vua biết ngay mới được.

Xem tiếp chương 9 & 10