Lưới Trời - Chương 3 & 4

Chương 03

Sáng hôm sau, Phát hý hửng cỡi ngựa của anh mình đi từ sớm tinh sương. Con đường xuyên qua khu đất có hầm đá, cạnh cái nhà vắng vẻ mà bác San cư ngụ mười mấy năm nay tại làng Vệ.

Chao! Cảnh vật sao mà tiêu điều, nom đến thảm! Lão san thật ngu độn nên mới chọn chỗ này mà dựng nhà. Phát nghĩ thầm. Hầm đá bỏ hoang, nước mưa lẫn bùn sình ngập dễ đến nửa hầm. Cây cối xung quanh thì khẳng khiu, héo úa, cành chia chĩa lên trời trông xa như những cánh tay giơ lên kêu cứu vậy! “Có các tiền vàng, ta cũng không thèm ở chỗ đèo heo hút gió thế này!”

Chợt, Phát nghĩ thêm : mà thằng cha thợ dệt căm cụi suốt ngày làm việc nhiều, ăn tiêu ít đó dùng tiền vào việc gì kìa? Chậc! Lão siêng năng đấy chứ! Mới tinh mơ đã kẽo kẹt trên khung cửi. Ngu thậm là ngu! Không biết tận hưởng cuộc đời, chết để của cho ai? Đưa mình tiêu cho lại hóa hay!

Ngồi trên lưng con ngựa quí của anh, hắn vừa thả lỏng dây cương, vừa băn khoăn thắc thỏm về số tiền của bác San. Chả mấy chốc Phát đên hội săn.

Quả nhiên, từ xa, Kỳ và Bích thấy dạng con Công Chúa vội vàng ra đón. Họ nhận ra Phát, ngạc nhiên:

- Chào Phát! Hôm nay mặt trời mọc hướng tây, lạ nhỉ?

Phát ỡm ờ:

- Thế nào là mặt trời mọc hướng tây?

Hai người trẻ tuổi cùng cười khúc khích:

- Thì cái việc anh chịu rời sòng bạc, quán rượu để đi săn với tụi này. Nhất là anh Tấn vui lòng cho anh mượn ngựa.

- Cho mượn? Các anh nói nghe tức dội cả tai. Ông anh cả của tôi mà hạ cố cho tôi mượn ngựa!

- Thì anh cỡi nó kia thôi?

- Ạ! – giọng tự thị, Phát nói – ông ấy trả nợ cho tôi đấy chứ, hai anh lầm rồi.

- Ra thế! Anh được ngựa này thì nhất rồi.

Kỳ gật đầu nói. Phát tấn công:

- Hôm kia, có người trả tôi mười ba ngàn đấy, anh Kỳ ạ, nhưng tôi không muốn bán. Con Công Chúa này ít nhất cũng mười lăm ngàn, mười bốn là giá chót…

Kỳ biết rõ Phát muốn dạm bán ngựa nhưng còn vờ vịt, anh ta nghĩ thầm trong bụng : “Thôi! Tớ biết tỏng ra rồi! Đằng ấy đừng hòng qua mặt tớ, còn lâu tớ mới bị lừa”. Và anh ta nói lớn lên:

- Thế à? Mười bốn ngàn là phải rồi, anh còn cầm lại làm chi? Cả làng Vệ này, chắc không ai trả đến cái giá mười hai ngàn…

- Ai bảo anh là tôi cầm giá? Thằng Phát này có phải lái ngựa đâu?

Ông nói gà, bà bảo vịt, nhùng nhằng, nhũng nhẵng hàng giờ, sau cùng hắn thuận bán cho Kỳ với giá mười hai ngàn. Kỳ khấp khởi mừng, vì anh ta biết rằng Công Chúa là ngựa quí, đáng giá hơn. Chắc Phát cần tiền? Trông cái mặt hốc hác thế kia thì biết, không chừng vừa thua bạc cũng nên. Nhưng Kỳ vốn cẩn thận, anh do dự về quyền sở hữu con vật. Anh không tin Tấn thiếu nợ em. Cách tốt nhất là để hỏi dò Tấn xem. Xa lạ chi cho cam, thà hỏi qua Tấn một câu, kẻo sau này mang tiếng là ham rẻ, mất lòng bạn bè… Có thể, vì túng tiền Phát lấy trộm ngựa của anh đem bán cũng nên. Sao không? Cờ bạc mà… phương ngôn có câu : Cờ bạc là bác thằng bần, cửa nhà bán hết… Ha! Cửa nhà còn bán được thay, tiếc chi con ngựa, dù nó là ngựa quí, và là ngựa của anh mình!

Kỳ làm kế hoãn binh:

- Tôi không sẵn tiền đây. Vả giờ để anh cỡi đi săn với chúng tôi cho vui. Mấy khi anh em gặp nhau. Chiều về, anh rẽ qua nhà tôi giao ngựa nhận tiền. Như thế tiện hơn.

Phát bằng lòng tuy bụng hắn không vui. Mẹ kiếp – Phát rủa thầm – thằng mắc toi, mắc dịch, mua thì mua ngay, vẽ bày nhiều chuyện, nhưng thôi, ông cũng chiều con, con ạ! Ông mà có tiền thì ông cóc chịu.

Thế là Phát nhập bọn đi săn. Nhưng Phát cố ý lùi ra sau, vì Phát biết Công Chúa là con ngựa cừ khôi, vượt lên trước mấy hồi. Đợi cho cả đoàn người ngựa gần khuất dạng, bấy giờ hắn mới ra roi. Chướng ngại vật đầu tiên mà người ngựa phải vượt qua là một cái hàng rào khá cao. Phát thúc mạnh hông con tuấn mã, mắt nhìn mục tiêu trước mặt – đoàn người ngựa mà anh ta tin là sẽ vượt qua chốc lát – Vì thế, hắn sơ ý tính lầm khoảng cách, con Công Chúa ngã chổng lên một cái cọc nhọn hoắc, nó hí lên một tiếng thê thảm, nằm huỵch xuống, hất ngã em trai của chủ mình…

Tai nạn xảy ra bất ngờ, chóng vánh, đoàn săn phía trước không hay biết. Phát đứng lên, mặt tái xanh, run bây bẩy, không tiếc thương chi con vật nhưng chỉ những nơm nớp sợ nó bị thương nặng hay què quặt thì mất số tiền mười hai ngàn. Khi nhìn con vật thở yếu ớt, cái cọc xuyên ngang mình nó như thể cái nĩa xuyên qua miếng thịt bít tết, máu nhỏ ròng ròng Phát giận sôi lên, hắn đá thốc vào mông con vật đáng thương một cái, chưởi rủa liên hồi.

Sau cùng, con vật ngừng thở, nằm lù lù một đống. Phát thôi chưởi bới mà lo phủi áo quần. Phủi xong, hắn tất tả bước mau về phía rừng thưa, không quay đầu lại.

- Rõ thật xui…

Phát lầu bầu.

*

Xui thật : đường thì xa, lại đúng vào lúc cần tiền, thế mà con Công Chúa lăn ra chết thảm. Cuốc bộ một thôi đường Phát mệt lử cò bợ, muốn quay về. Số là lúc đầu hắn đinh qua làng bên gần hơn, thuê ngựa cỡi về rồi tính sau. Song giờ hắn đổi ý : thôi chịu khó đi bộ về, ngang nhà bác San ghé lại mượn số tiền nộp cho ông già chứ không thì khổ thân (Ông già dạo này keo kiệt phát ghét!). Lão San nhiều tiền, chắc không từ chối đối với một cậu con nhà phú hộ đâu.

Gần bốn giờ chiều, sương mù bắt đầu rơi. Phát vội vã đi nhanh, quên cả mệt vì ý nghĩ vay tiền bác thợ dệt ngu si không biết xài tiền.. như hắn.

Vừa đi, Phát vừa vung roi quất mạnh vào các bụi cây bên ven đường. Chẳng có mục đích gì cả, quất là quất cho đỡ buồn tay thế thôi. Đó là cái roi rất đẹp mà anh hắn mua, thuê khắc tên mình vào để xứng đáng với con Công Chúa. Mà anh cầm theo chiếu lệ chứ chả mấy khi quất đánh ngựa yêu. Sương mù xuống càng lúc càng dày, Phát vừa vững lòng vừa lo ngại. Vững là vì như thế không ai nhận ra hắn, lo là lo có thể lạc đường.

Thoáng chốc, Phát đã đến đầu làng, Phát càng phải đề phòng : sương sa nhiều thêm, không những khó thấy đường mà còn e sa chân xuống hố. Bây giờ là lúc cần dùng roi đây. Phát dùng nó để dò đường phía trước, trên mặt đất.

Gần đến hầm đá, đường quang hơn, Phát khấp khởi mừng, hăng hái bước mau. Vài phút sau, ánh đèn từ nhà bác thợ dệt chiếu qua khe cửa.

Phát dừng lại để moi óc tìm sao cho ra lời lẽ êm dịu xuôi tai hầu có thể moi tiền bác San. Hắn vốn quen hách dịch, ba gai, chế giễu và cục súc, không dễ gì có thể thốt được những lời mềm mỏng, lễ phép. Dù sao, mình phải cố gắng, mình sẽ hứa hẹn trả lời nhiều cho lão ngu, chắc chắn lão sẽ ham tiền mà đưa ngay. Phát tự nhủ thầm, và rồi chưa chi hắn đã thấy tiếc số tiền lời phải trả. Hắn lại nghĩ tiếp : “Chào! Hơi đâu, tiền đâu mà trả lãi trả lời? Có họa là điên. Lão không dám đòi đâu, mà cho dù lão dám đòi cũng không bao giờ dám đến nhà mình. Quán rượu thì lão không tới rồi, khỏi lo. Sòng bạc còn lâu lão mới tới. Chỉ lo lão gặp ngoài đường. Ừ! Ngoài đường… mà cũng chả việc gì phải lo : nếu vắng vẻ, ta lại thả mồi cho lão vài câu là êm xuôi tức khắc. Nếu lão dại dột đòi tiền ta giữa mọi người, ta sẽ giở mặt, mắng cho mấy câu, mọi người sẽ cười vào mặt lão ta. Ta, công tử Hoàng Đình Phát, con trai út của đại điền chủ Hoàng Đình Cẩm mà hạ mình đi mượn tiền lão thợ dệt nửa điên nửa khùng ư? Có chó nó tin! Ta sẽ quát lên : “Ê! Lão điên, xích ra cho ta đi! Coi chừng ngựa nó dẫm nát óc bây giờ đó!” Vừa nói ta vừa giơ ngọn roi lên dọa lão, mắt ta quắc lên thế này“… Hắn hạ roi xuống, kéo cao cổ áo lên, vì lạnh. Rồi Phát làm điệu bộ như đang ngồi trên lưng ngựa thật – Ý hẳn là một con ngựa quí hơn Công Chúa – vung roi lên như thể sắp đánh kẻ đã dại dột cho hắn mượn tiền. Thế là Phát thích thú quá, cười to lên, quên cả giữ ý, vì mình đã đến thềm nhà bác San.

Phát dọn một nét mặt bứt rứt, bực bõ song hiền lành để tấn công bác thợ dệt cho có kết quả, hắn vuốt lại áo quần cho phẳng phiu rồi đàng hoàng gõ cửa. Phát gõ thực mạnh, vừa gõ vừa nhủ thầm : chắc lão đến khiếp chứ không chơi!

Gõ mãi, không nghe động tĩnh gì cả. Kỳ quái nhỉ? Hay lão ngủ rồi? Ngủ gì như gà thế? Mà đã ngủ sao còn chong đèn? Thế thì quá thậm ngu, ai lại sơ ý vậy bao giờ. Sau cùng, không do dự, Phát thò tay vào cái lỗ nhỏ, cốt ý là để nắm lấy cánh cửa lay cho dễ, bất ngờ làm sao, cửa không gài bên trong nên bật ngay ra.

Phát kinh ngạc về điều này, ngẩn người một giây rồi hắn bình tĩnh lại, xô mạnh cửa, bước vô nhà. Lửa sáng rực, nổ lóc bóc trong lò, lửa soi sáng khắp mọi góc, giường, bàn, ghế, khung cửi, vài cái soong chảo, cái ấm nấu nước! Đó, tất cả gia sản của lão thợ dệt bày ra trước mắt cậu con nhà giàu. Đang đi ngoài sương lạnh tối om om, thấy lửa ấm, công tử sà ngay đến, vì với Phát, lúc này lửa quí hơn mọi của báu trên thế gian. Khi đủ ấm rồi, Phát mới bình tĩnh để quan sát xung quanh lần nữa và lần này thì Phát nhận ra sự lạ : chủ nhân đi vắng mà không đóng cửa! Hay lão đi kiếm củi? Ờ! Có thể là lão đi kiếm củi, chắc không xa đâu, chờ một tị, không nên sốt ruột.

Nhưng rồi đợi mãi chả thấy bóng bác San về. Chao ơi! Hay là lão sa chân rơi xuống chỗ hầm đá chết tốt rồi, cũng nên? Một tia sáng lóe lên trong mắt Phát : hắn mong cái giả thuyết hắn vừa đặt ra xảy đến, và như thế thì ai là người thừa hưởng số tiền lão ky cóp lâu nay? Ai! Ai hả? Ai có quyền thừa hưởng? Nếu Phát nhớ không lầm thì trong suốt mười lăm năm cư ngụ tại đây – từ lúc Phát còn bé xíu vẫn thập thò trước cửa nhà lão đùa nghịch – Phát chưa hề thấy mà cũng chẳng nghe ai kể lại rằng có một người đến thăm viếng bác ta.

Bấy giờ đầu óc Phát làm việc dữ dội – Ít khi hắn ta làm việc dữ dội như thế, trừ khi ngồi vào sòng bạc – với mục đích tìm cho ra số tiền bác San cất giấu đâu đây. Tiền giấu chỗ nào? Chôn dưới đất, nhét trên xà nhà, hay ngoài bụi rậm? (Phải tìm cho ra, tìm cho kỳ được, việc này quan trọng lắm đây!) Hay là lão nhét kỹ trong gối, trong nệm rơm?

Mãi say sưa nghĩ cách tìm tiền của bác thợ dệt, Phát quên đi một điều quan trọng hơn : đó là hắn mặc nhiên coi như bác đã chết thật rồi!

Phát đứng lên, đóng cửa kỹ càng, bắt đầu lục lọi. Trước hết Phát lục ở giường ngủ chủ nhân, hắn xé tung cả lớp vải bọc gối, cả lớp vải bọc nệm, rơm thòi ra trông gớm ghiếc. Nếu không vì tiền, có bao giờ Phát lại nhúng tay vào một việc thế này? Chả thấy tiền đâu. Hắn nằm sấp xuống, nhìn kỹ từng viên gạch dưới gậm giường, không có gì khả nghi. Phát đứng lên, lại gần bếp, cho thêm củi vào rồi lại tiếp tục việc lục kiếm. Phát giở từng cái soong, lấy đầu gốc cái roi gõ còng cọc lên mặt gạch, ở các góc nhà.

Sau cùng, hắn thất vọng toan xoay hướng, tìm phía trên thì chợt mắt hắn trông thấy những hạt cát vương vãi dưới khung cửi, những hạt cát lóng lánh như có lẫn vàng dưới ánh sáng rực rỡ của ngọn lửa vừa được hắn châm thêm. Phát bật kêu lên một tiếng, dùng đầu roi, thăm thú kỹ vùng đất ngay khung cửi. Ngay dưới khung cửi, tiếng roi chạm vào mặt gạch kêu lạ hơn mấy chỗ khác, tiếng kêu đó chứng tỏ bên dưới trống lốc.

Phát ngưng tay lại, cúi nhìn kỹ : khắp quanh đó, mấy khe gạch đều có cát song rất ít, chỉ riêng chỗ Phát vừa thăm dò, cát phủ rất dày, nhìn kỹ hơn Phát còn nhận thấy trên mặt gạch chỗ ấy cũng có cát và có cả dấu tay chà chà lên gạch như cốt để đùa cát xuống mấy khe gạch hở.

Phát mừng run, vội vàng quì xuống thò tay cạy thử viên gạch khả nghi, và không chút khó nhọc, chỉ một giây, Phát đã nâng lên, vứt ra một bên hai viên gạch đậy hờ. Phát thò tay khoắng vào khoảng trống tối om, tay hắn chạm phải một cái túi da, ô không! Những hai cái! Và thử nhấc lên không nổi, Phát biết ngay là thứ mình tìm quả có.

Phát phải dùng cả hai tay mới nhấc được hai túi ấy, và cẩn thận khoắng kỹ lần nữa xem dưới lỗ có còn gì không, đoạn mới đặt hai viên gạch lên chỗ cũ, hai tay xoa xoa vào nhau, lẩm bẩm : “ Chúa quả thương mình! Có Chúa! Cảm ơn Chúa! Cảm ơn! Con tưởng Chúa ghét bỏ con kia đấy!”

Chỉ trong năm phút, tên trộm đã hoàn thành công tác và chỉ mất năm phút nữa để sắp xếp gối nệm ở giường cho y nguyên như cũ rồi hắn chuồn êm ra khỏi nhà bác thợ dệt ngay. Ra khỏi nhà, hắn đóng cửa lại liền, để tránh ánh sáng bên trong soi thấy hắn, còn cái ánh sáng bên trên cửa sổ thì hắn không ngại gì.

Chỉ vài bước là bóng tối đủ che chở hắn, Phát rất yên lòng.

Mưa càng lúc càng nặng hạt, gió hun hút thổi. Hai túi bạc – hay vàng – quá nặng, gây trở ngại cho hắn, chưa kể cái roi ngựa của anh, nhưng hắn không dám vứt roi đi, cái mới rầy! Phát biết roi ngựa có khắc tên anh mình và vết khắc rất sâu, ai bắt được thì tông tích kẻ trộm sẽ phơi ra ánh sáng rất dễ dàng. Bây giờ Phát đã sáng suốt để mà hiểu rằng cái giả thuyết bác San chết không đứng vững, song đến lúc này, bác chết hay sống hắn cũng không quan tâm, vì hắn đã đạt được ước muốn rồi.

Cảm ơn đêm tối, đêm tối che chở cho ta! Hắn thì thầm.

Trong lúc đó, bác San cũng chỉ còn cách nhà non trăm thước. Tay cầm đèn, vai khoác cái bao tải làm áo khoác, bác thong thả trở về, tuy mưa nặng hạt và bác đã mỏi chân.

Chương 04

Bác San không thấy lạnh vì tâm trí đang mơ tưởng đến bữa ăn nóng sốt, ngon lành. Thú nhất là bác chẳng tốn tiền mua, chính cô Bích Huệ, chị của Mỵ Lan đã biếu bác sau khi mua vải. Con người mới xinh đẹp và tử tế làm sao! Nhưng mà… suy cho cùng, cô ta cũng là phụ nữ, mà phụ nữ thì… không thể tin được.

Bây giờ bác lại nghĩ đến bữa ăn tối, thường thường, bữa ăn tối là bữa ăn bác San thích nhất, không vội vàng như bữa điểm tâm, cũng không đạm bạc quá như bữa ăn trưa. Bữa tối, bác có thể ngồi kề cà, thong thả, vừa ăn vừa nghĩ đến vàng! Vàng sáng lóe, xinh đẹp, trung thành, không mè nheo, quấy phá. Vàng! Đẹp hơn mặt trời lúc bình minh, hơn cả trăng đêm giữa tháng, lửa ấm chiều đông và hoa xuân buổi sáng đều không so sánh được với vàng!

Có khi cao hứng, bác khuân vàng ra, đổ lên bàn, vừa ăn vừa ngắm, thật không thú nào hơn thú ngắm vàng.

Đáng ra, bác không vội gì mà dầm thân trong mưa gió thế này, số là sau khi cô Bích Huệ mua vải bác, khen đẹp lại dặn bác dệt gấp cho cô một số nữa, y như thế đặng cô biếu người chị họ của chồng cô.

Lên khung sắp dệt, bác nhận ra là bác thiếu mất một thứ sợi đặc biệt để dựng đường biên, thiếu thứ sợi đó, tấm vải mất đi chút ít giá trị, nó chứng tỏ đó là vải của bác San, người thợ dệt mười lăm năm cư ngụ tại làng Vệ, vải đẹp, tốt, bền có thể so sánh với thứ vải đặc biệt từ các thị trấn lớn đem về, mà các thứ từ thị trấn lớn đem về lại đắt hơn!

Thế là, bác San băng đồng xuống phố, mua. Không cần gài cửa, vì bác chẳng đi lâu lắm, vả lại, ai mà thèm đến nhà bác vào đêm mưa gió tối tăm thế này? Còn tụi đạo chích thì chúng đâu có điên mà lò dò ngang hầm đá? Rủi lọt chân xuống đó có mà bỏ đời. Bác San rất yên tâm.

Về đến nhà, bác San không nhận thấy dấu vết gì cả, mắt bác kém quá. Bác lo thêm dầu vô đèn rồi cất mũ, dẹp bao; đoạn ngồi lại, sửa soạn làm món thịt ngon mà không tốn xu nào, vừa sưởi ấm một cách nhàn nhã.

Trong lúc chờ cho thịt ăn được, bác nghĩ đây chính là lúc ngắm vàng. Cửa nẻo đã đóng chặt, ma nào lảng vảng đến đây mà lo? Bác sẽ đổ hai túi vàng bạc lên một nửa bàn (còn một nửa để chừa chỗ dọn bữa) vừa ăn, vừa ngắm như thói quen dạo gần đây!

Bác San cầm đèn đi lại khung cửi, đặt lên nền gạch, hì hục bới cát cạy gạch lên, nâng bỏ qua một bên. Chúa ơi! Bên dưới rỗng không! Trống ngực đập liên hồi như trống trận, bác đờ người ra. Trời lạnh ngắt mà mồ hôi tuôn dòng dòng xuống mặt, xuống trán, người bác nóng bừng lên.

Không, bác không tin rằng vàng đã mất. Không thể có chuyện đó, vô lý quá! Bác sờ soạng thật kỹ, tưởng mình đã nhìn lầm vì mắt kém. Tay bác chạm vào khoảng trống lốc, nhưng bác cũng chưa chịu tin, cầm nến soi vào. Bấy giờ bác run bần bật, há hốc miệng mà không kêu được một lời, buông rơi ngọn nến xuống nhà, kinh hoàng tột độ… rồi lặng người đi.

Một lúc sau, lửa tàn, nến tắt, bóng tối tràn ngập cả nhà, bác San tỉnh lại vì hơi lạnh ngấm vào mình. Hai tay bưng lấy đầu, bác cố trấn tỉnh để nghĩ xem ai là kẻ trộm? Biết chừng đêm qua bác đã quên chôn vàng lại trước khi đi ngủ, bác có thể đãng trí lắm chứ, sao không? Bác San thổi lửa lại, đốt đèn lên, lục lọi giường, chăn, bếp, củi, soong, chảo không chừa một chỗ nào.

Run run hai gối, bác cố gắng đi lại bàn, nhìn trừng trừng, mặt bàn trơ trụi, trống trơn. Bác quay ra sau lưng, đôi mắt nâu quắc lên như muốn xoi thủng xuyên qua vách tối. Cái gì cũng nguyên si đầy đủ, chỉ thiếu có vàng thôi!

Vàng nó có chân đâu, có bụng đâu mà nói rằng nó đói, nó bò đi tìm thức ăn kia chứ?

Bác San lại bưng lấy đầu bằng hai bàn tay xương xẩu run run. Bác lắp bắp kêu lên không thành tiếng gì rõ rệt trong đêm khuya, tiếng kêu thống khổ nghẹn ngào, uất ức của bác vàng lên như tiếng kêu của con vật trúng đạn bất ngờ, bị thương trí mạng kêu rên…

Khi mọi hy vọng rằng mình để quên hai bao của cải đâu đó hoàn toàn tiêu tán, bác San mới chịu tin là mình bị kẻ trộm lẻn vào trong khi bác vắng mặt, lấy đi. Hắn là ai? Bắt được hắn thì mới mong lấy lại số vàng bạc nặng chĩu trong hai cái bao da. Nhưng làm sao bắt? Trong lúc mình lục lọi hắn đã đủ thì giờ cao bay hay xa chạy mất rồi!

Như người mất hồn, bác mở rộng cửa nhìn qua bóng đêm, mưa hắt vào mình vào mặt bác, lạnh căm.

Bác quay vào, đóng ập cửa, ngồi thừ suy nghĩ. Ít nhất, phải moi óc tìm xem có kẻ nào đáng nghi ngờ rồi mới tính chuyện tìm thủ phạm. Láng giềng thì không có ai, vì nhà mình hẻo lánh quá. Người khả dĩ đáng ngờ là Dân, hắn ta là người duy nhất hay lai vãng con đường này và đôi khi gặp mình.

A! Lại có lần hắn nói đùa về tiền nong của mình nữa kia. Hắn nói thế này đây:

- Bác san, bác có định cất lại nhà không? Dệt vải được nhiều tiền, bác định dùng làm gì? Hay bác cho tôi vay vậy, nhá?

Hừ! Nếu hắn không rình rập dòm nom làm sao hắn biết mình có nhiều tiền? Cái mặt thì thớ lợ, cười cười, cợt cợt, đúng là mặt kẻ gian! Cái tên cũng dễ ghét : Dân! Tên gì lại tên dân? Chứ không làm dân, bộ mặt ấy lại tính làm quan chắc? Mà cái họ lại càng đáng ghét hơn : họ Tạ! Tạ văn Dân! Cái họ kêu lên nghe nặng nề quá đi mất! Tạ văn Dân – bác San kêu to lên – tao sẽ tóm cổ mày, đòi lại tất cả số vàng, số bạc của tao, tiền mồ hôi nước mắt… tao nhớ kỹ, không sơ suyển một đồng dù đồng nhỏ nhất trong hai cái bao ấy, Tạ văn Dân ạ!

Nói thì nói thế, bác San vẫn chưa biết làm cách nào để tóm cổ tên Tạ văn dân. Bác quả có lúng túng thật. Luật pháp, một thứ chuyện quá tầm hiểu biết của bác thợ dệt, một thứ xa vời không liên quan gì đến chuyện vải, thoi, chỉ, sợi không ngờ lại có một ngày bác thợ dệt chân phương ở làng Vệ phải cầu cứu đến. Phiền phức như thế đấy!

Suy nghĩ phát nhức đầu cũng chả ra manh mối gì rõ ràng để kết tội Dân, người mà bác San đinh ninh là thủ phạm vụ trộm ghê gớm này. Dĩ nhiên với bác thì hắn đúng là tên trộm, không chệch đi đâu, nhưng mọi người có chịu tin thế không? Nhất là luật pháp, luật pháp có tin như bác không. Phải trình làng hay lên quận rồi pháp luật sẽ lo cho chứ bác thì có biết đằng nào mà lần? Nghĩ lắm hóa đau thêm khổ.

Phải hành động tức thì trước khi thủ phạm trốn mất mới được. Thế là, chân không, đầu trần bác băng mình ra mưa gió, không thèm gài cửa vì bây giờ còn gì nữa mà cẩn thận cho nhọc lòng? Chạy một chốc, bác ngừng lại thở dài. Nhà việc giờ chắc chắn đã đóng cửa, ai tiếp bác vào đêm hôm khuya khoắt thế này? Cách tốt nhất là đến thẳng quán Ngàn sao, nơi họp mặt của hầu hết dân làng, nhất là những anh có máu mặt, có chức vị trong làng.

Nghĩ sao làm vậy, bác San nhắm hướng quán Ngàn Sao, cắm cúi đi đến đó.

Đến nơi, bác thợ dệt không may dừng lại trước cửa, thở cho lại sức, đoạn xô cửa bước vào trong.

Bên trong ấm cúng và sáng rực, mọi người tụm lại bàn chuyện mưa nắng từ chập tối chán rồi, họ đang xoay qua chuyện ma quái. Ma quái! Chào! Đó chính là chuyện thích thú nhất, sôi nổi nhất, không bao giờ cạn (vào thời bấy giờ chuyện ma quỉ lẫn lộn với phàm nhân là chuyện lắm kẻ tin).

Trong bọn, có hương sư Phan là người cứng cổ nhất, ai nói gì ông vẫn khăng khăng là không có ma quái.

Ực một ngụm rượu, chùi miệng bằng lai áo, đặt cốc xuống bàn một cái mạnh, ông ta hắng giọng, dõng dạc:

- Được, cứ đặt giả thuyết là có ma, thế tại sao không thấy giữa ban ngày thanh thiên bạch nhật?Sao chúng cứ lựa đêm tối, cây cao mà nấp? Trong chúng ta đây, khi đi đâu năm bảy mạng có bao giờ thấy ma không? Sao cứ hễ tướng nào đi một mình thì y như rằng có chuyện? Tôi thì tôi cho là chẳng qua thần hồn nát thần tính, trông gà hóa cáo, nhìn bụi cây lại ngỡ hình người, chỉ vì bị ám ảnh chuyện ma… Tôi ấy ư? Còn lâu tôi mới…

Người ăn học nói có khác, năm sáu cái miệng cùng há hốc ra, mười mấy cái tai cùng dỏng lên, mười mấy con mắt cùng chăm chú vào người nói. Phan đã văn chương lại hùng hồn, nguyên chỉ bốn tiếng thanh thiên bạch nhật cũng đủ cuốn hút sự chú ý cửa mọi người rồi.

Đột nhiên, mọi người cùng giật mình quay lại vì tiếng động sau lưng. Kẻ yếu bóng vía nhất suýt kêu lên, nếu Phan không điềm tĩnh nhận diện con ma lù lù xuất hiện bất ngờ. Công bình mà nói, thoạt tiên, Phan cũng hơi hãi, nhưng vốn là tay chì có tiếng, nên anh ta tỉnh táo sớm hơn hết, quan sát con ma gan góc kia, khi thấy rõ là bác thợ dệt, Phan không khỏi buồn cười, nhưng nom sắc thái người thợ dệt, anh không thể cười được.

Mọi người đều ngạc nhiên, không ai thốt được lời nào, bác San thì thở hào hển, mặt xám ngoét vì mệt và tức giận. Mãi hơn phút sau, chủ quán mới lên tiếng hỏi:

- Bác San, bác có việc gì mà đến đây khuya khoắt thế này?

- Kẻ trộm, thưa ông! Kẻ trộm! Bao nhiêu vàng bạc của tôi mất sạch rồi! Tôi phải gặp các quan! Ông cảnh sát, ông xã trưởng, ông hội đồng… Cần lắm. Các quan phải giúp tôi!

Chủ quán bảo Dân ngồi cạnh đó:

- Dân, giữ bác San lại ngay! Dễ chừng bác ấy bị ma làm hay hóa điên cũng nên! Tội nghiệp…

“Ủa, thế kia ư? Có cả Tạ văn Dân ngồi đây? Gan thật : ăn trộm cả hai bao vàng bạc của người ta rồi ung dung đến quán uống rượu, chuyện trò tỉnh như không! Gớm thiệt cái quân này!” Bác thợ dệt nghĩ thầm một cách giận dữ. Thế là nạp mạng cho hổ rồi đây mà!

Trong khi Dân chưa nhúc nhích được một phân thì bác San quắc mắt lên:

- Tạ văn Dân! Tôi tìm anh đấy!

Dân kinh ngạc hỏi:

- Bác tìm tôi có việc gì, kia chứ?

Bác San điểm một ngón trỏ vào trán Dân, gằn giọng:

- Thôi đừng làm bộ ngây thơ, biết điều thì mang trả ngay cho tôi hai bao vàng bạc, tôi biết hết, tôi nhớ rõ tôi có bao nhiêu… trả ngay cho tôi, tôi không thưa gửi chi hết, tôi tha anh, tôi sẽ…

Dân há hốc miệng trước những lời buộc tội hùng hổ của bác thợ dệt, nhưng sau anh ta hiểu được, cơn giận bốc lên, Dân chồm tới tát một cái đánh “bốp” vào giữa mặt bác San, gầm lên:

- Câm lại, lão ngu! Nếu mà lão còn ho he bảo là ta ăn trộm tiền vàng nữa thì ta đánh cho vỡ mặt tức thì… nghe chưa? Không phải cứ mất của rồi hóa rồ lên, bạ ai cũng đổ ngờ cho người ta đâu, nhé, nhé? Ông thì ông bẻ hết răng cùng, răng cấm, răng nanh…

Chủ quán và mọi người cùng sửng sốt đứng yên không kịp can ngăn. Bác San lùi lại vì bị cái tát bất ngờ, còn Dân thì xông lên như toan làm dữ. Chủ quán vội vàng nắm tay Dân kéo lại, ôn tồn:

- Dân! Chú mày chớ nóng. Để xem đầu đuôi câu chuyện ra sao. Bác San! Bác cởi áo ra nào! Áo bác ướt sũng thế kia, lạnh chết. Hãy ngồi xuống cả hai người. Chuyện đâu còn đấy, đừng nóng nảy, không hay!

Dân hầm hầm mặt:

- Nói gì thì nói, chứ hễ còn nói tôi trộm tiền thì tôi nện cho một trận, đến đâu thì đến, đừng tưởng dễ.

- Thôi! Dân! Chú mày lắm lời thế. Để yên xem bác ấy nói gì, nào?

Bác San đã ngồi xuống theo lời chủ quán nhưng chưa cởi áo, nước mưa chảy ròng ròng xuống chân, nước mắt lặng lẽ bò dài xuống đôi má hóp, dáng bộ thiểu não làm cho mọi người trong quán đều phải động lòng. Dân nói như phân bua:

- Đời thuở nhà ai mới thấy mặt mình là đổ riệt cho mình ăn trộm…

- Thôi! Tôi đã bảo thôi, để yên bác nói xem sao…

San bình tĩnh lại, bắt đầu lên tiếng kể đầu đuôi câu chuyện, giọng bác trầm trầm, buồn bã, khổ sở, mặt bác biểu lộ tất cả thành thực; không ai có thể ngờ là bác bịa chuyện được. Khi bác dứt lời, mỗi người hỏi một câu nháo cả lên. Dân cũng dịu lại:

- Nhưng tại sao bác ngờ vào tôi?

- Thực ra tôi không dám ngờ ai hết, cả anh nữa. Nhưng mất của xót ruột, tôi cố nhớ lại xem có thể nghi ai và chỉ nhớ rằng anh có một lần đùa với tôi một câu về chuyện tôi có nhiều tiền…

- À, ra thế đấy!

Dân mát mẻ. Bác San buồn rầu:

- Dầu sao thì tôi cũng bị anh đánh một cái rồi, tôi xin lỗi anh…

- Bây giờ bác còn nghi cho tôi nữa không? Hãy hỏi mọi người ở đây thì biết tôi có mặt đây từ lúc nào.

Chủ quán nối lời Dân:

- Phải, bác San này, Dân nó có mặt đây từ chiều, khoảng thời gian ấy đích là khoảng thời gian bác rời nhà…

- Bây giờ bác tính sao đây?

Giọng khổ sở, bác San nói như rên:

- Nào còn biết làm sao, tôi rối mù cả đầu óc, phát điên lên…

Thầy giáo Phan hỏi:

- Bác có nhớ số tiền bạc là bao nhiêu không?

- Có chứ, tôi nhớ rõ lắm vì tôi mới đếm chiều hôm qua. Cả thảy là hai trăm bảy mươi ba đồng vàng, một trăm năm mươi tư đồng bạc và mười sáu đồng hào.

- Thế à? Thế thì nặng lắm, nhiều lắm, cả một gia tài của người ta. Quân nào mà ác thế, hả trời?

- Bác có thấy dấu vết gì không?

- Không, tuyệt nhiên không, vả lại…

Bác San ngừng nói đưa tay chỉ vào mắt mình, ra hiệu rằng mắt kém vì bác nghẹn lời không nói được. Mọi người xuýt xoa tiếc hộ cho bác. Phải! Ai tiếc chi một cử chỉ tỏ ra thương hại kẻ không may?

Sau một hồi bàn qua, tính lại, chủ quán vui lòng cho bác San mượn cái áo mưa của mình và một người nữa được cử ra để cùng đi với bác đến nhà ông xã trưởng làng Vệ thưa chuyện kẻ gian với ông ta.

Xem tiếp chương 5 & 6