Ánh sao - Chương 3 & 4

Chương 3

Có tiếng chân bước mạnh trong hành lang và một giọng ồ ề vui vẻ báo hiệu ông Sprigg đã về. Hai mẹ con thu dọn đồ thêu để sắp đặt bữa ăn tối. Trong lúc mẹ cô dọn bàn, như thường lệ, cô bé chạy ra hành lang ôm hôn cha nuôi.

Dáng người vạm vỡ cao lớn, trên 60 tuổi, tuy nhiên suốt nửa thế kỷ lao tác ông Sprigg vẫn còn cường tráng ; đôi vai hơi cong một chút, khuôn mặt sạm nắng dưới mớ tóc mầu hung rất dày. Cặp mắt xanh mở rộng phía trước, tóc rũ xuống che lấp cái trán hói, đôi mắt xanh lơ làm ta liên tưởng đến hai cánh cửa sổ mở rộng dưới đôi mày dài rậm như mái hiên một ngôi nhà tranh. Răng trắng bóng, ông ăn rất khỏe. Tính nóng như lửa thật xứng với bộ tóc mầu hung. Gần ông người ta nhận ra ở ông một sự kiên nhẫn vô biên và lòng dũng cảm đáng phục. Trong cơn hoạn nạn lời nói của ông có thể làm ta lo ngại, song cách cư xử của ông thì đúng là một thánh nhân.

Ông Sprigg yêu đất đai, nông trại như chính bản thân. Khi kế nghiệp cha, trang trại Week đang hồi suy sụp, mà rồi chỉ sau thời gian mười năm canh tác, ông biến nó thành một nông trại trù phú nhất vùng này. Sprigg giống như vợ: tuy không để ý đến thời trang song ông giữ được một bề ngoài khá chỉnh: áo quần của ông, bộ cho ngày lễ, bộ đi săn, bộ quân phục dân binh, bộ đi chợ, tất cả đều bằng thứ vải tốt, cắt khéo. Trừ bộ quân phục, mấy bộ kia trước vốn của cha ông, may dễ trên 20 năm, song với tài giặt ủi kỹ lưỡng của má Sprigg nó vẫn còn hoàn hảo lắm.

Người cha kêu lên khi ôm con gái vào lòng. Cô bé nhỏ nhắn như con chim sẻ:

- Từ từ chứ! Con gái của ba! Con làm ba ngã bây giờ đấy!

Stella cười ròn rã, rúc vào ngực cha. Áo lông thơm mùi khói rừng (một mùi hương đặc biệt của mùa thu). Và cô bé chồm ra sau lưng cha, đưa tay, kêu khẽ:

-Hodge! Lại đây!

Con chó dúi cái mõm lạnh ngắt vào bàn tay tiểu chủ, lè lưỡi liếm tay cô một cách âu yếm. Stella cảm thấy mình thật đầy đủ, sung sướng khi bên cạnh có cha yêu quí và con vật trung thành.

Mùi súp thơm ngát xông tận cửa, cả ba vội vàng vào bếp trong lúc mẹ cô bé đang múc súp ra những cái chén mầu nâu bằng sành. Con mèo Séraphine vươn vai chỗi dậy, cùng một lúc, chị Madge (người tớ gái) từ nơi trữ sữa mang vào nào bơ, nào phô ma và kèm một bình kem.

Solomon-Dod, một bác giúp việc nữa, già khụ, cùng về một lượt với chủ nhân đang ngồi chỗ thường lệ của ông ta cạnh lò sưởi, miệng ngậm ống điếu bằng đất, đôi tay chai cứng đặt lên đầu gối. Trang trại có nhiều người giúp việc, song chỉ có Madge và già Solomon ở lại trong gia đình ông Sprigg mà thôi.

Vợ chồng chủ nhân cùng con gái, hai người làm công, với chó Hodge và mèo Séraphine tạo nên một cộng đồng mà sự hòa hợp không diễn tả nên lời được, tuy nhiên mỗi người đều thông cảm sức mạnh của cộng đồng này. Solomon già đến nỗi ông ta quên cả ngày sinh và cũng quên tuốt cả việc mình có được rửa tội hay không? Ông chỉ biết có một điều chính xác nhất: ông đã sinh tại đây, làm việc, ăn uống, vui vẻ, hòa thuận với chủ nhân và cũng chính tại trại Week này, ông sẽ nằm xuống. Ngoài ra, ông còn nhớ rằng khi ông Sprigg ra đời, ông không còn trẻ lắm vì đã mang chứng phong thấp mấy năm rồi. Chứng bệnh quái quỉ này đè nặng trên lưng ông, đến nỗi mỗi khi thấy ông chống gậy khập khiễng bước lúc trời trở gió, Stella đã ví ông như cây dâu già cỗi ngoài vườn. Thực vậy, nom già Solomon giống một cây khô hơn một con người: chân tay khẳng khiu, da mặt nhăn nheo đen sạm như vỏ cây, bộ râu thì xám bạc tựa đám rong bám trên mấy cây bom.

Giọng nói của già Solomon mòn mỏi với thời gian, lại vì răng rụng hết nên khàn khàn tựa tiếng quạ kêu, song đôi mắt vẫn sáng quắc và tính còn thích khôi hài. Một điều buồn cười và khó tin là già vẫn còn đủ sức để cày một luống đất và hát, bằng cái giọng khao khao ấy cùng với tên phụ việc một bài hát, mà tất cả nông dân miền Devon đều thuộc lòng để khuyến khích lũ bò. Lũ bò ở trại Week, chỉ chịu bước đều khi có tiếng hát của Sol. Nếu già Sol. ngừng lại thì lập tức, chúng cũng ngừng lại giống như bầy hải âu bay lượn phía sau. Tiếng hát quen thuộc của người nông dân già sai khiến được lũ bò kéo cày cũng như người ta nói rằng tiếng thì thầm của các vì sao tạo nên sự nhịp nhàng cho sự tuần hoàn của vũ trụ.

Riêng chị Madge, chẳng có gì bí mật về tông tích chị. Chị thuộc một gia đình nghèo và đông con, cha mẹ chị mất vào lúc chị lên 10 và vào tuổi đó chị phải ở trong một viện mồ côi. Ông bà Sprigg là người đầu tiên đối xử tử tế với chị. Từ 20 năm qua, chị Madge giúp việc tại đây, một người giúp việc tận tâm. Dáng người thô, khỏe mạnh, mũi hơi hếch, mặt đầy tàn nhang ; ít nói nhưng vui tính, lúc nào như cũng sẵn sàng để cười với bất cứ ai. Madge không biết đọc, không biết viết, không biết bốn phép tính thông thường – tóm lại, nói một cách văn vẻ thì chị... mù chữ – song khắp vùng này, khó có một người đảm đang, nhanh nhẹn hơn chị.

Cô mèo Séraphine và chú chó Hodge cũng là một trong thành phần của gia đình.

Bữa ăn trôi qua trong im lặng, vì ai nấy đều mệt nhoài sau một ngày làm việc từ sáng tinh mơ. Chỉ có ông Sprigg kể chuyện một tên lạ mặt đến xin việc.

- Chao ôi! Trong đời tôi, tôi thề là chưa thấy đứa con trai mà gầy guộc, ốm yếu kiểu đó. Bộ tướng gió thổi cũng xiêu. Theo tôi, chắc là một tên vô lại...

- Ba không cho hắn làm việc sao, ba?

Giọng cô con gái tràn thương cảm, cô buồn rầu khi nghĩ đến cảnh khốn đốn của gã thiếu niên ốm yếu gầy còm... Người cha đáp:

- Thật ra, cha không đuổi gã này vì thấy gã ốm yếu, mà vì... vì hắn có vẻ tù vượt ngục quá. Ta không muốn dây vào với nhà chức trách. Chấp chứa tù vượt ngục con biết tội gì không?

- Hodge cũng đồng ý với ba sao?

Stella ngây thơ hỏi. Ông Sprigg nhìn con gái, gằn giọng:

- Hodge không có mặt lúc đó, nó đang giúp già Sol. đuổi bò về, nhưng sao mày lại hỏi như vậy? Dễ mày cho là ba mày không bằng con chó Hodge ư?

- Con tin tài quan sát của nó...

- Thôi! Stella! Đừng cãi lời ba. Hãy ăn súp đi kẻo nguội.

Món súp hành ngon tuyệt: có hành tây, lúa mạch, thịt bằm, đinh hương, sữa tươi và lá quế, tất cả quyện vào nhau, tạo thành một chất sóng sánh, thơm ngát mũi.

Ba, má, Stella, và Madge ngồi ăn quanh bàn, hai con vật nằm hai bên ghế của cô tiểu chủ (có món gì ngon, Stella lén tiếp tế cho chúng), già Sol. luôn luôn ngồi chỗ cố hữu của ông: một góc gần lò sưởi, bát súp đặt trên gối ; tuy thích ăn riêng như thế, ông vẫn góp chuyện với cả nhà. Đó cũng là một đặc điểm của trại Week, như tiếng hát nho nhỏ của Madge, tiếng sủa của Hodge, tiếng đồng hồ gõ, tiếng kim may của má Sprigg chạm sần sật vào đê, tiếng giày nặng nề của ông Sprigg kéo trên sàn gạch và tiếng gió xào xạc ngoài vườn. Stella nghĩ là sau này, dù có đi đâu xa, cô chả bao giờ quên được những âm thanh quen thuộc ấy. Nó cũng thân thiết, gần gũi cô như bàn tay, giọng ru và ánh mắt dịu hiền của mẹ cô.

Dưới ánh nến tỏa rộng ấm cúng, Stella ăn bánh, bom và kem, trông cô bé rạng rỡ như đóa hồng trong nắng sớm.

Bữa ăn chấm dứt, cô bé phụ với mẹ và chị Madge dọn bàn. Cha cô thư thả dạo tới, dạo lui một lúc rồi đến kệ tủ rút cuốn Thánh kinh. Ông đặt sách lên bàn một cách trân trọng, ngồi xuống, dùng một góc khăn quàng cổ lau kính, đoạn ông thấm nước bọt vào đầu ngón tay và bắt đầu lật từng trang sách... cử chỉ ông chững chạc, trang trọng. Cho đến khi lật đến trang sách có đóa hoa cẩm chướng khô, ép vào sách đánh dấu...

Mẹ con bà Sprigg trở về chỗ ngồi ở bàn, chắp hai tay trên gối. Già Sol. vẫn ngồi chỗ cũ nhưng dùng tay làm như một cái loa để nghe. Tại trại Week, Kinh và Kinh Thánh là những cuốn sách độc nhất hiện có. Theo truyền thống, gia chủ phải đọc một đoạn Kinh Thánh trước khi đi ngủ cho cả nhà nghe. Thói quen đó được xem như một phận sự và được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Khó mà phân tách sự ích lợi của những buổi đọc Kinh Thánh. Có thể cả nhà đều ngầm xem thói quen này như một liều thuốc ngủ trước khi lên giường.

Nhiều bận, hai phụ nữ ngủ gục trong khi Stella sáng ngời mắt, theo dõi từng câu. Nhiều chữ làm cô bé hân hoan, phấn khởi. Tối hôm ấy, ông Sprigg đọc đến chương II.

"... Đó là một vùng đồi và thung lũng, thấm ướt nhờ nước từ trời. Chúa che chở đất này... luôn luôn Ngài hướng về đây..."

Những dòng chữ ấy gợi cho cô bé hình ảnh quê hương cô: trên những đồi non rải rác vài đàn súc vật, có suối chảy, thung lũng trồng cây ăn trái, những cánh đồng cỏ đất đỏ, những nông trại, những thánh đường cổ với tường đá xám. Stella thấy thời tiết đổi thay, luân phiên mưa nắng, lúa mọc lên cao đầy đồng, vườn cây đầy trái... Hương hoa và tiếng chim hót lanh lảnh mỗi sáng khác nào cũng dâng lên lời ca ngợi Chúa Toàn Năng! Chao! Nếu Chúa quay mặt đi, ắt nơi này chỉ còn ngập tràn bóng tối và hỗn độn. May thay, chẳng bao giờ xảy ra điều bất hạnh này...

Ông Sprigg vừa gập sách lại. Mọi người cúi đầu trong lúc ông đọc kinh cám ơn và chấm dứt bằng tiếng "Amen" thật lớn. Sau cùng, thở phào nhẹ nhõm, tuồng như ngầm hãnh diện đã chu toàn xong bổn phận khó khăn, ông đứng lên, vươn vai, ưỡn ngực.

Má Sprigg đưa tay dụi mắt. Madge có vẻ linh động trở lại, vội vàng lo đặt bàn cho bữa ăn sáng hôm sau.

Stella nhảy phóc xuống ghế, kêu to:

- Hodge! Séraphine! Ra đây!

Hai con vật được phép ngủ trong nhà, nhưng mỗi tối sau khi đọc kinh, Stella cho chúng ra ngoài giây lát. Cô bé ôm con mèo nhỏ nhắn trong tay, chạy bay ra ngoài, Hodge theo bén gót. Men theo hành lang, họ đến nơi trữ sữa, cô bé vứt mạnh con mèo xuống, đá con chó một cái (hai con vật biết tiểu chủ đùa nên không hề giận dữ) rồi với tay vào tủ chén bát lấy một cái dĩa và một cái chén. Cô vặn sữa ở bình vào chén, dĩa rồi trở lại tủ đựng thức ăn, lấy mỗi món một ít cho thêm vào chén dĩa, sau, đặt cả hai xuống thềm.

Nghe tiếng ho khàn khàn và mùi thuốc lá, cô biết là già Sol. đang đợi để khóa cửa. Đi ngang già, cô bé tinh nghịch đưa tay bẹo má già và không quên chúc già ngủ ngon. Hai con vật cũng theo sau cô bé, vô nhà.

Vô đến gian bếp, cô bé thấy cha đang lên dây đồng hồ, chị Madge còn bận đặt bàn và mẹ thì lo thắp nến. Và xong việc, họ vẫn chưa đi ngủ, già Sol. và hai ông bà bàn tính về công việc nông trại, đất đai. Cô gái bé hôn từng người, đoạn cầm nến của mình lên lầu. Theo sau cô là chó Hodge – hai ông bà không bằng lòng cho Hodge ngủ trong phòng con gái, nhưng Stella nài nỉ mãi nên họ xiêu lòng. Với cô bé, rời nhà dưới sau một ngày làm việc, nói cười, lo lắng, đụng chạm để lên lầu đi ngủ vào đêm thật không khác nào một thiên thần lên trời. Và cô bước nhè lên các bực thang, lòng lâng lâng với cái cảm giác mình là một thiên thần đang lên cao dần, cao dần. Trước mặt cô, chỗ thang lầu rẽ đôi, có một cửa sổ khá lớn nhìn xuyên qua khung kính, cô bé thấy vòm trời lấp lánh đầy sao, đêm thật lặng lẽ, yên tĩnh, cô bé dừng lại trước cửa sổ, không nghĩ ngợi gì, cô tận hưởng sự êm đẹp của ánh sáng và sự huyền diệu của đêm sao.

Hình như con chó cũng cùng tâm trạng chủ: nó nghếch mõm lên khung cửa sổ, và đến khi Stella quay vào phòng, nó còn nán lại hít một hơi dài trước khi chạy theo cô.

Chương 4

Phòng của Stella nhỏ ăn thông với phòng cha mẹ. Phòng cha mẹ cô nom có vẻ nghiêm chỉnh, to lớn với cái giường rộng phủ màn nâu, một ngăn kéo xinh xẻo và một tủ gỗ mun chạm trổ đánh bóng.

Phòng Stella nom tựa bên trong của cái vỏ ốc hay một cánh hoa: má cô may màn phủ giường cho con gái bằng hàng mềm trắng và ren giường bằng lụa xanh nhạt thêu hoa. Ông bố tự tay đóng cho con gái yêu một bàn chải tóc, ghế và tủ nhỏ thật đẹp, tất cả đều được sơn mầu xanh lá cây nhạt. Cửa sổ treo màn vải hoa in trang nhã. Tường quét vôi trắng, nổi bật trong phòng là tấm thảm sặc sỡ chỗ Hodge ngủ và và cái áo choàng đỏ của cô bé, treo sau cánh cửa.

Đáng lẽ thay áo ngủ, cô bé lại mặc thêm áo ấm vào rồi mở cửa sổ – cửa sổ này được khoét trong mái nhà – chỗ ấy, mái tranh hơi lài lài, rất dễ đi. Ngày nào hầu như cô bé cũng trèo lên đó. Stella có tài trèo nhanh như con mèo, Hodge cũng làm theo (con vật vốn hay theo tiểu chủ khắp mọi nơi). Cả người và vật bám sát vào mái nhà, men tới chỗ cây hoàng đậu, Stella khom mình, thoăn thoắt như một con sóc. Cây hoàng đậu cũng già như mái nhà, cành to, đầy mắc, cô bé đu lên một cành chĩa tận mái nhà tuột xuống dễ dàng như xuống bằng thang. Hodge có vẻ khó khăn hơn, song sau rốt cũng xong, nhờ tiểu chủ giữ chặt cổ nó. Chỉ giây lát sau, cả hai đã ở dưới sân. Stella bưng dĩa đồ ăn mà cô giấu lúc nãy đến chuồng Daniel.

Ở trại Week, có một điều làm Stella phật lòng, cô bé xem như là một bất công: trong khi mèo Séraphine và chó Hodge được mọi người cưng quí thì chó Daniel và mấy con mèo kia chẳng bao giờ được bén mảng vào gian bếp hay trong nhà. Để bù lại sự thiệt thòi đó, đêm nào cô cũng lẻn mang thức ăn ra cho chúng mặc dù ở đây không bao giờ người hay vật phải thiếu ăn. Thức ăn do cô bé mang ra luôn luôn được chiếu cố, mấy con vật quấn lấy cô bé, mừng rỡ. Con chó Daniel liếm sạch thức ăn trong dĩa trong lúc cô quì cạnh nó, vuốt ve, thì thầm:

- Đừng buồn nghe Daniel, ngày mai tao sẽ dắt đi chơi!

Daniel không thông minh bằng chó Hodge song nghe giọng Stella, nó như cũng đoán được đó là lời hứa hẹn chi đây, nên vẫy đuôi  tỏ dấu vui mừng và lùi vào.

Stella lại lấy chén sữa, nhẹ nhàng đem đến chuồng ngựa, chỗ mấy con mèo hoang đang đợi cô theo thói quen. Cửa chuồng ngựa không khóa, Hodge đứng bằng hai chân dùng mõm đẩy bật chốt cửa cài sơ. Trong bóng tối, cô bé thấy có nhiều đôi mắt rực sáng xanh lơ và cô vừa bước vào thì lũ mèo đã ào ra dụi đầu vào chân cô, cất tiếng: "meo meo" chào đón Stella đặt chén sữa xuống đất. Im lặng một giây rồi ba cái đầu nhỏ xíu chụm vào hớp sữa nghe "chanh chách" thật ngon lành. Stella kiên nhẫn đứng chờ, tay đặt lên lưng Hodge, âu yếm ngắm chúng trong bóng tối.

Đột nhiên, Stella rùng mình, còn Hodge thì dựng đứng lông lên và gầm gừ nho nhỏ. Stella thấy chó Hodge nhìn sững mái nhà, nơi ô cửa tò vò. Ánh trăng bị ngăn lại bởi một đầu người đàn ông, khuôn mặt nổi bật lên, thoáng thấy, cô bé tưởng tượng đến một tấm ảnh lồng trong khung kính. Cô bé hãi quá, toan kêu mà không thành tiếng, mọi vật xung quanh cô như đảo lộn. Trời ơi! Chắc tụi Pháp đổ bộ đây mà! Stella nghẹn ngào tự nhủ.

Đằng sau cuộc sống hạnh phúc ở trại Week, gia đình cô cũng như tất cả dân làng, luôn luôn sống trong lo sợ triền miên: sự xâm chiếm của quân đội Pháp! Biển Manche, hàng rào che chắn Anh quốc với nước thù nghịch cách có vài dặm.

Mỗi chúa nhật, cha cô bé cũng như tất cả đàn ông trong làng đều tập dượt quân sự trước sân nhà thờ, sau thánh lễ. Và từ cửa sổ, mỗi khi nhìn ra, Stella đều có thể thấy ngọn đồi Beacon, nơi dân làng đã chất sẵn củi khô. Trong trường hợp tàu Pháp đổ bộ, tức thì người gác tại đấy nổi lửa báo nguy cho dân chúng.

Đúng rồi! Khuôn mặt trên ô cửa là khuôn mặt của một tên quân Pháp. Tai họa tới rồi ư? Đêm nay êm ả, đẹp trời quá kia mà! Chúng sẽ bao vây làng, đốt phá, bắn giết??? Chúa ơi! Người gác ngủ gục sao?

- Sữa đâu mà đem phung phí cho mấy con mèo xấu xí như vậy? Bao tử ta thì dính sát vào lưng, ta đói meo đây! Ta...

Khuôn mặt kia lên tiếng, giọng bực tức, nhưng chợt nhận ra bóng người nhỏ nhắn đứng đó là con gái, hắn chợt im một giây. Trong lúc Stella nhận ra kẻ đó là một tên nhãi người Anh, chứ không phải Pháp, cô vững lòng một chút, thì hắn cất giọng kẻ cả:

- Em bé kia, giờ này mà chưa đi ngủ hay sao?

- Còn anh?

Cô bé hỏi lại, giọng chững chạc vì cô đã hết run. Gã con trai cười để lộ hai hàm răng trắng bóng:

- Ta ấy ư? Ta ngủ ngoài đường! Ai buộc ta vào giường nổi khi ta chưa thích!

Stella nghĩ đến bức tường trơn tuột của chuồng ngựa, hỏi thêm:

- Làm sao anh leo được tới đó?

- Nhờ mấy kẽ nứt trong vách, ta định chui vào tìm cái gì ăn tạm mà cửa tò vò hẹp quá...

Stella cảm thấy nê nể con người có tài leo trèo như mình, không! – cô bé tự cãi lại – hơn mình nhiều chứ! Mình làm gì trèo lên tường nổi? Cô bé liếc nhìn con chó khôn ngoan trong khi Hodge vẫy đuôi như có vẻ công nhận kẻ lạ mặt là một người lương thiện sa cơ chứ không phải phường bất lương đáng ghét. Stella càng vững lòng hơn:

- Thôi, anh xuống ngay đi kẻo té đấy! Tôi mang thức ăn ra cho.

- Thật không? Em đừng kêu ông chủ nhé? (giọng van lơn, gã con trai tiếp) Hồi chiều ổng đã đuổi ta, ổng dọa sẽ kêu cảnh sát nếu gặp ta lần nữa.

Stella xao xuyến khi nghĩ đến nỗi lo lắng của đứa con trai. Cô nhìn thẳng vào mặt kẻ lạ:

- Đừng sợ! Anh cứ tin tôi.

Nói xong, cô cúi xuống vuốt ve lũ mèo trước khi bưng chén trở vào.

Thế là lần thứ hai trong một ngày, cô bé ăn cắp thức ăn trong tủ. Stella biết rằng sáng mai má cô sẽ phát giác ra sự mất mát đáng kể này: một miếng ba tê to, một miếng phó mát, một ổ bánh mì và hai trái bom bay biến trong đêm. Làm sao qua mắt bà nổi? Thường thì bà tỏ ra rộng rãi, bà lờ đi như tuồng không biết con gái ăn cắp sữa và thức ăn cho chó Daniel và mèo hoang. Nhưng hôm nay... Stella chặc lưỡi "Mình sẵn sàng nhận tội, người lạ mặt còn đáng thương hơn cả Daniel và lũ mèo này".

Dĩa thức ăn đầy ngập và bình sữa trên tay, cô bé cùng con chó tiến lại phía cổng rào. Cổng là cánh cửa gỗ kiên cố có cây chắn thực to. Làm sao rút được cây chắn này đây? Gian bếp có cửa ăn thông ra ngoài, nhưng giờ này cha mẹ còn ngồi đó. Cha mẹ cô tốt bụng, nhưng mấy năm loạn lạc vừa qua, trong làng đã gặp nhiều phiền phức vì bọn lính đào ngũ, bọn tù vượt ngục hay gián điệp nên họ trở thành dè dặt, rất ngại chấp chứa kẻ lạ mặt đi ngang.

Phải mở cho kỳ được cánh cửa này hay từ bỏ ý định. Cô gái dùng cả đầu và vai để đẩy, kéo, Hodge phụ lực cùng tiểu chủ, cả hai mệt lả, gần đuối sức. Sau cùng Stella nâng cây chắn được, đặt nhẹ xuống đất, run rẩy, tay chân rã rời. Cô phải ngồi nghỉ một lát, đoạn cương quyết đứng lên, cố sức lần nữa để đẩy cánh cửa to lớn ra.

Men dọc theo con đường mòn đến sau chuồng ngựa, cô bé đặt các thức trên một phiến đá, ngồi bệt xuống đất thở hổn hển. Một bàn tay xương xẩu đặt lên vai cô dịu dàng:

- Sao em không kêu người lớn? Tội nghiệp! Em mệt lắm phải không?

Stella trả lời, giọng đứt quãng:

- Tôi sợ ba má hay, từ khi loạn lạc, ở đây người ta rất sợ kẻ lạ mặt.

- Thế em? Em không sợ kẻ lạ sao?

- Sợ chứ! Nhưng tôi biết anh là người Anh thì còn sợ gì nữa? Vả lại, chó Hodge bảo tôi có thể tin anh.

Người con trai quay nhìn con vật đứng cạnh đang ve vẩy đuôi. Đoạn, cậu lại nhìn cô bé. Trăng xuống dần, cậu thấy rõ những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán cô bé. Stella ngạc nhiên thấy cậu ta than đói meo mà lại không có vẻ vội vã gì. Cậu làm dấu thánh giá, cảm ơn Stella xong mới bắt đầu ăn.

Cô bé ngồi nhìn cậu ta ăn một cách ngon lành, từ tốn, cảm thấy đây là một người được giáo dục chu đáo. Lạ quá! Một người như thế mà lại sống vất vưởng ngoài đường, tại sao vậy chứ?

Dù trước nay, cô bé chưa từng quen biết cậu ta, Stella lấy làm ngạc nhiên mà thấy mình không bị ngăn cách với cậu ta như đối với lũ trẻ trong làng, cảm giác của cô bé lúc này thật hết sức thoải mái, tựa hồ đôi bên đã là bạn thân, đã quen nhau đâu từ tiền kiếp...

Thiếu niên khá cao, một cái sơ mi rách và cái quần thủng nhiều lỗ không đủ che trọn thân hình gầy ốm, khẳng khiu làm cho cậu ta có vẻ giông giống như một con bù nhìn giữ lúa ngoài đồng. Mặc dù cử chỉ lúng túng vụng về, cậu ta vẫn có một vẻ chững chạc. Mái tóc nâu rối bù buông rũ xuống trán và khuôn mặc rám nắng nhưng vài chỗ áo quần rách lại bày ra một làn da trắng trẻo. Lông mày rậm, đôi mắt đen, mũi và miệng nhỏ, thanh tú, mỗi khi cậu cười đôi mắt như cũng cười theo. Bàn tay thì nhiều móng gãy, nhiều chỗ chai nhưng vẫn suông óng như tay con gái. Những mâu thuẫn ở cậu trai hợp lại làm cho cậu có vẻ đặc biệt khác thường, chứng tỏ không phải xuất thân từ chỗ bần bách hay bất lương. Đôi chân giấu trong giày rách lấm bùn. Ăn xong, cậu chùi tay cẩn thận vào cỏ, đoạn quay sang cô bé, hỏi:

- Em có khăn tay không?

Stella lôi từ túi ra một cái khăn bằng phin nõn đưa cho cậu ta. Cậu dùng khăn đó hỉ mũi một cách thích thú và tuyên bố giọng trang trọng:

- Dùng ngón tay hỉ mũi là điều tồi tệ nhất, em ạ!

- Can gì!... Già Sol. vẫn hỉ mũi bằng mấy ngón tay luôn ấy chứ, mà già khéo tay lắm kia.

- Già Sol. là ai vậy?

Cậu trai tò mò hỏi. Stella vui vẻ giải thích:

- Là người giúp việc cho ba tôi. Già Sol. già lắm, già như cây ngoài vườn kia.

- Chắc già ấy phải tập dượt lâu lắm nhỉ? Này em, em có thể vui lòng... cho tôi giữ... liệu tôi có thể giữ cái khăn này không?

Cậu ta có vẻ xúc động song cố bình tĩnh. Stella mỉm cười gật đầu. Thiếu niên cất khăn vào túi, nét vui lộ trên mặt.

- Tôi tên Stella. Còn anh?

- Zachary!

Cậu đáp không do dự. Cô bé gặng hỏi:

- Zachary? Nhưng Zachary gì chứ? Chả lẽ Zachary không thôi?

- Ừ! Tên tôi thế đấy.

- Ủa, thế anh không có họ ư?

- Không, em ạ!

Stella buồn bã nhìn cậu con trai. Không có họ? Như thế có nghĩa là không có gia đình chăng? Stella chạnh lòng nghĩ đến thân mình: nếu không nhờ cha mẹ nuôi, số phận cô hẳn không khác chi Zachary, cô không hề biết tên người mẹ xấu số của mình. Ý nghĩ đó làm cô thấy thân thiết với Zachary hơn. Cô đặt tay lên gối bạn mới:

- Anh từ đâu đến vậy?

Zachary đáp liều:

- Tôi từ mặt trăng xuống. Em có thấy tôi trên ấy bao giờ chưa?

Ngộ nghĩnh thực! Cô bé vốn rất yêu mặt trăng. Khi còn bé tí xíu, những khi buồn vì không có bạn, cô ưa tha thẩn một mình và ao ước được chơi với người trên trăng. Stella cười to, thích thú:

- Zachary mặt trăng!

- Phải rồi! Người ở mặt trăng làm gì có họ?

Zachary nói và đặt tay lên vai cô bé, tiếp:

- Tôi từ mặt trăng xuống, còn em giống như vì sao, chúng ta gặp nhau vào ban đêm. Hay quá, phải không?

Cả hai im lặng giây lâu, rồi cậu trai bảo:

- Thôi, em không nên ở ngoài khuya quá. Sương xuống...

Cậu đứng lên. Bước chân cậu khập khiễng, cậu thu nhặt dĩa và bình đưa cho cô bé:

- Lại đây anh giúp em leo qua rào.

Giọng cậu chững chạc như một người anh cả nói với cô em bé của mình. Stella ngoan ngoãn đứng lên, nắm tay cậu, bước thoăn thoắt, nhanh nhẹn trong khi cậu con trai khó nhọc lê chân. Hodge lẽo đẽo phía sau. Tới thành rào cậu đỡ Stella và con chó leo qua, sau đó cậu đưa bình và dĩa cho cô bé, nói:

- Cảm ơn em, Stella! Từ khi rời mặt trăng, tôi chưa được một bữa ăn ngon như hôm nay. Vĩnh biệt em! Vĩnh biệt Hodge!

Giọng cậu nghẹn ngào làm Stella hoảng hốt:

- Không! Zachary! Em không muốn vĩnh biệt!

Zachary nhìn đăm đăm khuôn mặt nhỏ nhắn, đôi bàn tay thanh thanh của cô bé rồi nhìn cái mõm con Hodge kê giữa hai song rào. Stella vẫn còn đu trên rào, hai tay bám vào đó, thò mặt ra. Trong khoảng khắc, cô bé thấy như có bóng mây án ngữ trên mặt Zachary làm mặt cậu sầm tối lại, cậu thở dài như định nói gì đó song rồi cậu lặng lẽ quay đi.

Stella lủi thủi quay về với Hodge. Cô bé khóc vì thương xót Zachary, cô lo cho cậu, cô tin là cậu đã khổ sở và sẽ còn phải khổ sở hơn trong những ngày sắp đến. Chao ôi! Nếu ba cô không xua đuổi, Zachary có thể ở lại với cô... "Ta đã để anh ấy biến mất trong bóng tối mà không làm gì để giúp anh được cả" Stella lẩm bẩm một mình.

Xem tiếp chương 5 & 6