Tiếng hú trên đỉnh non Chà-Hóc

Truyện Mạo Hiểm Đường Rừng

Đăng nhiều kỳ trên báo Thiếu Nhi số 103 -> 109 (năm 1973)

Chương 1 & 2

    Chương 9 & 10 

Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm & đánh máy

----------------------

Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh

EPUB

MOBI

PDF

Chương 01

Tiếng hú kéo dài rền rĩ, rồi biến thành một tiếng rống ghê rợn bao trùm những dãy nhà sàn cheo leo ngủ yên ở trên sườn núi Ca-Tha.

Ông chúa làng Bu-Then chống tay run rẩy ngồi dậy, chong tai ngồi nghe giữa khoảng tối dày. Từ khi bắt đầu bập bẹ những tiếng đầu tiên cho đến bây giờ, mái tóc bạc phau và lưng còng lại như cây gáo già ở trước cổng buôn, ông chưa bao giờ nghe một tiếng hú lạ lùng như thế.

Cố gắng chống lại một cơn cảm sốt làm ông rũ liệt đã nhiều ngày rồi, ông choàng tấm "dồ" lên mình, sờ soạng bước ra đầu nhà.

Tiếng hú vẫn cứ vang dài như chạy lông lốc trên đầu các ngọn cây cao, rồi tỏa tứ bề, lẫn lộn những lời khóc than kể lể và khi dịu lại nghe như tiếng rên của một người sắp xuống mồ. Ông Bu-Then quờ quạng bám tay vào tấm phên che, chỗ lối xuống lên, ngồi nhẹ xuống sàn như sợ ngôi nhà sụp đổ, giương đôi mắt đã đục lờ, hõm sâu, thảng thốt nhìn về một hướng núi xa.

Có lẽ tiếng hú xuất phát từ đỉnh Chà Hóc cao nghệu, hoang vu, dân làng chưa ai bén mảng đến đấy bao giờ. Những câu chuyện về ma quỉ, về thần núi do lão phù thủy Sa-Keo kể lể khiến họ sợ hãi, chỉ đứng xa nhìn đỉnh núi như ngắm nhìn con quái vật linh thiêng.

Gió khuya ướt đẫm mùi sương khua động rạt rào cây lá, bốc thổi từng luồng lạnh ngắt, khiến ông chúa làng co rút mình lại, kéo tấm "dồ" lên phủ kín đôi vai. Mặt trăng đã chìm sau núi, chỉ còn le lói đôi vệt sáng mờ sau rặng cây xa, đẩy vùng bóng tối đen dày của ngọn Ca-Tha phủ kín lấy buôn Nước Ràng.

Ông Bu-Then nhướng mắt nhìn quanh, không một bóng người thấp thoáng, không tiếng động nào vang lên giữa cảnh âm thầm. Dân làng có lẽ bị chôn vùi trong giấc ngủ nặng nề sau ngày làm việc nhọc mệt trong rẫy, trên nương, hoặc đang co rúm trên các sàn nhà, nín thở lắng nghe tiếng hú kỳ quái bất thần nổi dậy giữa đêm lạnh lẽo tối tăm.

Ông chúa làng nhớ mấy ngày trước đây, khói đen bốc tỏa mờ mịt về phía Chà Hóc như báo một điềm chẳng lành. Tai họa sẽ giáng xuống dân Nước Ràng hay sao? Ông thấy xúc động nghẹn ngào và buông một tiếng thở dài.

Tiếng hú, sau hồi thét vang rùng rợn, bỗng như khàn hơi ngừng bặt. Cả vùng núi rừng bao la chìm đắm trong sự câm lặng nặng nề. Tất cả sinh hoạt về đêm thường khi cựa quậy rộn ràng, bây giờ nén lại trong sự chờ đợi hồi hộp. Ông chúa làng nghe rõ tim đập dồn dập trong lồng ngực mình. Lâu lắm ông mới nhận được từ xa tiếng suối Nậm Nui rì rầm luồn qua khe đá. Và chim cheo-meo chiêm chiếp thảm thiết ở trong bụi rậm sau buôn.

Khi ông lấy lại được sự bình tĩnh, chống tay lom khom đứng dậy thì tiếng hú lại bắt đầu vang lên. Đó là những tiếng gào khan như thoát ra từ cổ họng của một con người to lớn dị thường, và con người ấy tưởng có thể nuốt dễ dàng được cả cây rừng, đá núi. Rồi tiếng gào ấy chuyển sang tiếng thét dữ dội như muốn phá tung lòng núi thẳm sâu để trút hết nỗi căm hờn chất chứa đời đời kiếp kiếp. Lúc tiếng thét đã dịu lại, trở thành tiếng hú, máu trong người ông Bu-Then như ngừng chảy hẳn. Ông ngã khuỵu xuống sàn nhà, tê lạnh người đi vì nỗi hãi hùng. Tiếng hú thê thảm quái gở như tụ hội hết hồn ma, vía quỉ lạc loài trong chốn rừng hoang. Tiếng hú ghê rợn độc ác như cào cấu trên da thịt con người, xuyên thủng màng tai, xoắn lấy não tủy.

Như cây gáo già sống trước cổng buôn gặp cơn bão rừng thổi mẹp vẫn luôn cố gắng chống lại mưa gió phũ phàng, ông đã từng đem sinh lực cường tráng giúp cho dân làng xua rạt bao loài thú dữ để rời lũng sâu ẩm thấp mà về bám trên sườn núi Ca-Tha đất rẫy phì nhiêu. Khi sinh lực ấy mỏi mòn, ông đã đem sự khôn ngoan của kẻ trải nhiều bất trắc gian lao giúp cho dân làng trồng trọt, dạy cho dân làng thuận hòa, biết thương rẫy lúa, nương ngô, suối nước, cây rừng. Bây giờ chúa làng Bu-Then lại để tiếng hú ma quái xô ngã như cành củi mục hay sao? Chúa làng Bu-Then để mặc cho bao nhiêu người run rẩy trong cơn khiếp đảm hãi hùng hay sao?

Ông già Bu-Then loạng choạng đứng lên, cố chống lại sự hoảng hốt xáo trộn lòng mình. Bám chặt bàn tay gầy gò vào khung cửa liếp, ông lần mò leo xuống chiếc thang gỗ làm bằng thân cây cốc rừng được đẽo hõm vào nhiều nấc để đặt bàn chân. Gió núi thổi tạt từng luồng lạnh buốt, bật tung tấm "dồ" khỏi cái thân hình xương xẩu, muốn kéo ngã ông xuống dưới sân buôn. Ông đi sờ soạng, nghe chân tê nhức ở trên nền đất khô cằn. Trăng đã chìm hẳn, chút sáng nhợt nhạt trên vùng cây xa cũng tắt từ lâu.

Ông già Bu-Then tìm về cuối buôn, chỗ nhà phù thủy Sa-Keo. Phải đi hỏi lão, vì chỉ có lão là biết ý định của loài ma quỉ.

Lên đến nấc cuối của cây thang gỗ, ông chúa làng thấy qua tấm liếp che trống trải, Sa-Keo đang ngồi im lặng trước một bếp lửa đã tàn, chỉ còn âm ỉ một ít than hồng đỏ rực. Đầu lão to lớn quấn vành khăn rộng xồ xề, trông như một chiếc cối giã lắc lư nhè nhẹ, trong khi hai cánh tay dài loeo ngoeo quấn chặt lấy cặp đầu  gối xương xẩu nhô lên đụng tới chân cằm.

Ông già đưa tay đẩy mạnh tấm liếp. Sa-Keo như chợt bừng tỉnh, mở rộng đôi mắt ốc nhồi thao láo nhìn về phía cửa, cất giọng khàn khàn:

- Ai đó?

Ông già đáp lại như trong hơi thở:

- Ta đây... Bu-Then.

- A, ông chúa làng. Khuya lắm rồi mà.

Ông Bu-Then lại gần bếp lửa, ngồi xuống, hơ tay lên chút ánh sáng hoi hóp:

- Này, Sa-Keo, tiếng hú gì thế?

Lão phù thủy giương mắt nhìn chăm chắm vào khoảng tối dày sâu thẳm ở ngoài cửa liếp, không trả lời lại. Tiếng hú chừng như cũng vừa đánh thức lão dậy, và lão bó gối ngồi chong bên bếp lửa tàn, lắng nghe vọng về một thứ âm thanh kỳ lạ chưa từng nghe thấy trong đời.

Tiếng hú còn đó, át hẳn mọi tiếng xao động của chốn rừng già, tiếp tục gieo rắc kinh hoàng, gợi lên bao nhiêu hình ảnh chết chóc.

Ông Bu-Then hỏi lại:

- Tiếng hú gì thế, Sa-Keo?

Lão phù thủy gỡ tay khỏi đầu gối, vuốt mặt chầm chậm rồi nghiêng lại gần tai ông chúa làng, nói nhỏ:

- Chắc là tiếng của ma quỉ.

- Xưa nay chưa nghe nó mà.

- Chưa ai nghe cả, ông Bu-Then à. Nó từ hang sâu thăm thẳm trồi lên, nó từ rừng hoang lạc loài chạy tới, đói khát tìm mồi.

- Dân làng ta sống nổi không? Dân làng ta có khổ sở đấy không, Sa-Keo?

Sa-Keo im lặng, nheo mắt nhìn vào vùng tối trước mặt. Giây lâu lão mới cất giọng khàn khàn đáp lại một cách chậm chạp:

- Ma quỉ muốn gì, chưa biết rõ cái bụng nghĩ của nó được đâu. Chờ một đêm nay đã mà. Nó kêu mệt nhọc rồi nò nằm nghỉ. Ngày mai Sa-Keo tìm hỏi cây rừng, núi đá, tìm hỏi hồn ma, vía quỉ lang thang...

Lão dừng lại, nhìn vào mặt ông chúa làng chăm chắm, rồi tiếp:

- Giao ngựa của ông Bu-Then cho Sa-Keo dùng.

Ông chúa làng im lặng gật đầu. Rồi lão phù thủy khoanh tay bó gối, cặp mắt riu ríu dần lại và đầu lắc lư.

Ông già Bu-Then cũng ngồi yên lặng một lát bên vùng ánh sáng hắt heo của bếp lửa tàn. Rồi ông chệnh choạng đứng dậy:

- Về đây, Sa Keo.

Lão phù thủy vẫn im lặng.

Ông già lần mò tiến ra phía cửa. Gió hắt từng luồng lạnh buốt. Tiếng hú dịu dần, bây giờ kéo dài thành lời than vãn xen lẫn tiếng khóc, tiếng rên buồn thảm lạ lùng.

Ông chúa làng cũng buồn lòng hết sức. Đã lâu, dân buôn không còn mấy ai tin cậy ở lão Sa Keo. Khỏe mạnh mà lười biếng, lão chẳng chịu làm khổ nhọc như là dân buôn. Thèm uống nhiều rượu, thèm ăn nhiều thịt, tính tình nóng giận bất thường, lão sống cô độc trong ngôi nhà sàn cuối buôn. Thỉnh thoảng có những con bệnh không thể chữa lành bằng các lá rừng, thì lão được thỉnh cậy đến xua đuổi tà ma ám ảnh. Nhưng chẳng mấy khi con bệnh được khỏi, và lão Sa Keo cho rằng ma quỉ muốn đưa họ về một cõi đời khác tốt hơn, no hơn, khỏi làm mệt nhọc mà cũng có ăn, có uống hàng ngày. Ở cõi đời ấy, có sẵn nhiều rượu, nhiều thịt, nhiều lắm lắm đó. Đừng có buồn mà. Lão nói như vậy, nhưng những bà con của kẻ qua đời vẫn khóc như mưa như gió.

Ban ngày, Sa Keo lẩn quẩn trong rừng, trong núi, hái lá, đào củ hoặc lặn lội xuống các buônphía dưới đổi chác vật dụng, đến mùa tỉa lúa, trồng bắp mới thấy có mặt trên nương, trên rẫy vài hôm. Nghĩ rằng lão tiếp xúc được với loài ma quỉ nên có những lối đi lại, nói năng kỳ dị, dân làng vẫn sợ hãi lão, cho lão thức ăn, thức uống hàng ngày, nhưng không ai dám gần gũi.

Thế mà bây giờ chúa làng Bu Then phải đến hỏi lão, và khi chào lão ra về, lão không thèm nói một lời. Trước cái tiếng hú ma quái, ông già Bu Then cảm thấy chừng như uy quyền của mình đã bị Sa Keo lấn át mất rồi.

Ông lọ thọ đi từng bước, nghĩ đến số phận ngày mai của dân buôn, xót thương cho họ. Chúa làng Bu Then già rồi, chết đi cũng chẳng làm sao. Nhưng còn biết bao con trai, con gái tốt tươi, khỏe mạnh như khóm là ngà ven suối, biết bao trẻ con xinh đẹp như những  hoa rừng, dễ thương như những lộc non vừa hé sau mùa mưa lạnh vừa tàn. Chúng nó không thể bị hủy diệt đi lúc còn sức trẻ. Chúng phải được sống, được lớn cao lên rồi được già đi sau khi sinh sôi nảy nở ra nhiều lớp khác khỏe mạnh và tốt tươi hơn, cho người Mơ-Nông mãi mãi vẫn còn xanh thắm như những cây rừng.

Ông già Bu Then nghe lòng xúc động, bước đi chậm lại, vội đưa cánh tay khẳng khiu, buốt lạnh lau dòng nước mắt lăn dài xuống đôi má hõm khô gầy.

Khi đi ngang nhà Xiu Bân, ông thấy một cái bóng đen ngồi ở đầu hè. Đây đó những bóng đen khác hiện lên trên khoảng sàn nhà trống trải nhô ra nơi bậc thang lên. Rồi những nhà khác, những bóng đen khác âm thầm xuất hiện. Ông già dừng lại. Dân làng cũng thao thức như ông, cũng đang lo sợ như ông khi nghe tiếng hú lạ lùng.

Ông thấy nhiều bóng đen xuống thang gỗ, lần lượt, lặng lẽ vây quanh lấy ông. Giữa vùng tối lạnh mênh mông chỉ được soi sáng từ xa bởi đôi vì sao le lói, ông Bu Then thấy rõ mình vẫn còn là một chỗ dựa cho dân Nước Ràng. Nỗi lo sợ ở nơi ông được xua tan đi, và ông chúa làng tiếp được những hơi thở ấm của dân làng mình. Ông nói gần như thì thầm:

- Hãy ngồi xuống đi.

Những cái bóng đen nhẹ nhàng ngồi xuống, tạo thành vòng tròn vây bọc quanh ông. Im lặng. Tiếng hú yếu dần, vẳng lại như một tiếng rên mệt nhọc của kẻ đuối sức. Rồi nó tắt lịm đột ngột, khiến cảnh âm u của chốn rừng đêm trở thành u uất nặng nề. Giây lâu người ta lại nghe tiếng suối Nậm Nui rì rầm tuôn qua khe đá. Và chim cheo meo cất những tiếng kêu thảm thiết trong những bụi rậm sau buôn.

Ông già Bu Then ôn tồn bảo với dân làng:

- Ta đã đến nhờ Sa Keo ngày mai tìm hỏi hồn ma, vía quỉ tiếng hú từ đâu mà đến buôn ta. Không còn sống được ở đây, chúng ta sẽ kéo nhau đi về ngọn núi khác. Đừng có lo buồn. Chúa làng Bu Then sẽ sống chết với các người. Hãy nghe lời ta, về nhà nằm ngủ cho yên, đừng có nói chuyện ồn ào, đừng có khêu cao ngọn lửa. Ngày mai lên rẫy, lên nương, đừng đi một mình. Con gái mang theo rựa trành, con trai mang theo cung nỏ.

Ông dừng lại, nhìn quanh. Rồi bảo:

- Về đi!

Những cái bóng đen từ từ đứng dậy, âm thầm lặng lẽ tiến qua mấy dãy nhà sàn, dần dần mất hút trong các vũng tối đen dày.

Ông Bu Then lại thấy mình trơ trọi giữa vạt sân buôn, kéo tấm dồ che kín cổ để tránh gió lạnh từ xa thổi đến đã nghe khua động rạt rào.

Ông đi chậm chạp về nhà. Và cùng với hơi gió ấy, tiếng hú từ xa vẳng lại, mỗi lúc càng rõ dần hơn như tiếng hốt hoảng kêu gào của loài ma quái giãy giụa giữa những vòng dây trói chặt.

Chương 02

Mặt trời lên đã khá cao, nhuộm vàng cây cối, nhưng dân Nước Ràng chưa ai dám lên nương rẫy. Tiếng hú đã tắt từ khi bìm bịp trở canh báo hiệu ngày về.

Thằng Kha Li thập thò trên cửa nhà sàn, nhiều lần muốn leo xuống đất đi lấy nước suối nhưng vẫn không dám quyết định. Bà Bù Đốp, mẹ của thằng bé, bảo con:

- Nhịn uống một bữa. Đừng ra suối nước bây giờ.

Kha Li hỏi mẹ:

- Rồi ta nhịn suốt ngày nay, ngày mai, nhịn luôn được sao, hả mẹ?

- Phải uống nước chứ. Nhưng đợi người ta cùng đi với mình.

- Đợi đến bao giờ, hả mẹ? Hồi khuya đã nghe mẹ kêu khát nước nhiều rồi, mà mấy cái ống lồ ồ không còn một giọt. Để gọi thằng Ray xem sao.

Rồi nó thò đầu ra cửa, hướng về nhà sàn trước mặt, kêu to:

- Ray ơi, đi lấy nước suối không mày?

Tiếng lảnh lót của thằng bé vang lên trong buổi sớm mai, phá tan cả sự im lặng nặng nề. Ông Kiu ở nhà bên cạnh trợn mắt nhìn về phía nó. Ông định bảo nó im đi, nhưng thằng Ray đã đáp lại:

- Đi chớ. Tao khát nước nhiều lắm đấy, Kha Li. Gọi anh Xiu Bân đi với bọn mình, gọi thằng Min Pay, cả thằng Cha Rít, Cha Reo đi nữa.

Giọng của thằng Ray ngọng nghịu, ồ ồ vang lên giữa buôn mang chút không khí tươi tỉnh đối với mọi người. Ông Kiu lại rụt đầu vào. Đây đó có tiếng bọn trẻ ồn ào xao động.

Anh Xiu Bân đã từ xa đi lại, vai mang mấy ống lồ ồ dài ngoằng, tay cầm một chiếc dáo dài chĩa lưỡi nhọn hoắt đã được mài sáng, lóng lánh ánh nắng ban mai. Anh là thanh niên khỏe mạnh, cao lớn, đôi vai rắn chắc như con gấu rừng, dáng đi khoan thai vững vàng như con cọp núi. Anh yêu lũ trẻ, kính các người già, được lòng thương mến của các dân buôn. Ông già Bu Then thường trách anh quá hung dữ những khi nổi giận. Nhưng khi cơn giận qua rồi, anh lại hiền lành như một con nai.

Xiu Bân đứng thẳng giữa sân, tay cầm cây dáo chống trên nền đất, gọi to:

- Ra suối lấy nước!

Tiếng anh truyền đi như một mệnh lệnh. Những đứa trẻ nhỏ chạy ra trước tiên, rồi các chàng trai và những cô gái, mỗi người mang ở trên vai nhiều ống lồ ồ choàng bằng một sợi dây mây. Nơi tay mỗi người đều có cây dáo hoặc chiếc rựa trành.

Đám người tiến ra phía cổng rồi rẽ bên trái, đổ xuống một triền dốc xuôi dẫn về suối nước. Ông già Bu Then im lặng theo họ cho đến đầu dốc và đứng lặng yên chong tai về phía đỉnh non Chà Hóc bây giờ chói chang ánh nắng ban mai. Chỉ có tiếng rừng xào xạc, tiếng suối rì rầm và những tiếng chim vỗ cánh trong những lùm cây vọng lại.

Suốt ngày dân buôn sống trong đợi chờ thắc thỏm về một tai họa lớn lao có thể giáng xuống bất cứ lúc nào. Trời vừa nghiêng bóng về chiều, khi màu xanh của đỉnh non Chà Hóc đã chuyển sang màu tím đậm, nỗi thắc thỏm ấy trở thành một sự hốt hoảng mỗi lúc càng tăng. Phù thủy Sa Keo ra đi từ lúc mờ sáng khi tiếng hú vừa lịm tắt, núi rừng còn phủ dày đặc khói đá mịt mù, cho đến bây giờ vẫn chưa thấy lão trở về. Chẳng biết lão có hỏi được chút tin tức gì về tiếng hú không? Chẳng biết lão còn hay lão đã chết? Mọi ngày ít ai quan tâm đến lão, bây giờ lão thành một nỗi mong đợi của cả dân làng.

Khi nắng vừa tắt, hoàng hôn choàng tấm màn đen u ám lên trên cây lá và ngọn gió lạnh lao xao từ các đỉnh xa quẳng xuống ồ ạt dưới các lũng sâu  báo hiệu ngày tàn, thì lão phù thủy xuất hiện ở ngoài cổng buôn. Lão bước xuống ngựa, thả cho con vật tự nó đi về ngôi nhà của ông chúa làng. Lão đi chệnh choạng nặng nhọc như tuồng mệt mỏi sau cuộc  ẩu đả với loài ác quỉ, tấm dồ bung ra lòng thòng chực rơi xuống đất.

Dân làng muốn chạy ra để hỏi lão nhưng không ai dám rời khỏi khung của nhà sàn. Khi lão chân thấp chân cao tiến vào giữa sân thì ông Bu Then cũng đã xuống khỏi thang gỗ, đi về phía lão.

Sa Keo dừng lại, hơi thở mệt nhọc, nồng nặc mùi rượu.

- Thế nào, Sa Keo? Có biết thêm được gì không?

Lão phù thủy nheo mắt nhìn ông chúa làng, im lặng. Ông Bu Then cũng chăm chắm nhìn vào mặt lão, đợi chờ. Một lát lão mới cất giọng khàn khàn nói lớn:

- Cho gọi dân làng ra đây!

Ông chúa làng quay về các ngôi nhà sàn kéo dài, đối diện hai bên sân buôn, cất giọng run run của một con người cố nén tức giận, gọi to:

- Ra hết ngoài này!

Lập tức người ta lũ lượt kéo đến vây tròn lấy ông chúa làng và lão Sa Keo. Lão phù thủy bảo:

- Đốt lửa lên đi!

Xiu Bân và một số người trai trẻ chạy đi vác củi dồn thành một đống giữa sân. Thoáng chốc lửa được nhóm lên, dần dần lè các lưỡi vàng liếm các thớ gỗ, bốc cao, tỏa sáng một vùng rộng lớn, soi tỏ đây đó những gương mặt đầy khắc khoải điểm những cặp mắt long lanh chờ đợi.

Ông Bu Then từ từ đến gần đống lửa, cầm lấy một cành củi lớn đang cháy rừng rực, quơ lên ra dấu cho mọi người im:

- Dân làng nghe đây! Sa Keo có chuyện nói với các người. Các người ngồi xuống, nghe Sa Keo nói.

Rồi ông chậm chạp lùi lại, đứng ở một góc. Sa Keo lảo đảo tiến ra, khuôn mặt đỏ bầm vì rượu càng được ngọn lửa chiếu đỏ rực lên một cách quái đản. Lão nhìn vòng quanh dân làng, đảo đi đảo lại đôi mắt ốc nhồi dưới những chân mày đen sậm xếch ngược, rồi với giọng nói của kẻ bề trên, lão ta truyền lệnh:

- Hỡi dân Mơ-Nông, ở buôn Nước Ràng, lắng nghe lời ta khuyên bảo!

Lão dừng lại, đằng hắng sửa giọng, lắc lư cái đầu, nói tiếp:

- Đêm qua tiếng hú từ ngọn núi cao thổi luồng ma quái về đây, đe dọa dân làng. Tiếng hú báo hiệu tai họa, báo hiệu chết chóc, các người biết không? Tiếng hú có thể giết hết chúng ta, nhổ hết cây rừng, xô hết đá núi, tiếng hú có thể vùi lấp chúng ta xuống những hố sâu thăm thẳm như lòng địa ngục.

Lão lại dừng lời, ưỡn ẹo thân mình, nhảy múa nặng nề trước lửa, rọi cái hình bóng chập chờn quái đản trên mặt sân buôn. Trong khi đôi tay khuỳnh lên trên đầu, đôi chân bước tới bước lui gập gãy với một nhịp điệu lảo đảo thì miệng lão đọc không ngừng những tiếng líu lo xa lạ, những câu bùa chú bí hiểm mà những dân buôn chỉ biết im lặng ngồi nghe với lòng thành kính.

Rồi lão nghỉ múa, nhìn quanh, nói tiếp:

- Sa Keo thương cho dân làng, đi suốt ngày nay đón hỏi hồn ma, vía quỉ lạc loài trong núi. Sa Keo đã hỏi những cây cà tang già nhất trong rừng, đã hỏi những tảng đá chồng cao nhất trên non, những gì hiểu được cuộc sống âm u bí ẩn của chốn rừng thiêng. Sa Keo cũng đã hỏi gió, hỏi mây, nghe những tiếng chim trò chuyện, đón những tiếng suối thì thầm. Sa Keo muốn biết vì đâu mà có tai họa lớn lao giáng xuống làng ta. Một ngày vất vả từ sáng đến chiều, Sa Keo thật đói thật khát, nhưng không kể gì khó nhọc. Hãy cho ta một hũ rượu để cho ta có sức mà nói tiếp lời.

Lão dứt tiếng nói, thở nghe khò khè mệt nhọc, rồi lại loạng choạng đến ngồi bên lửa, riu ríu nhắm mắt. Ông cụ Y Rít vội vã kéo theo một gã trai trẻ về ngôi nhà sàn của mình khệ nệ bê ra một hũ rượu cần đầy ắp. Ông đặt vò rượu trước mặt lão phù thủy, chìa cái cần trúc chạm vào môi lão. Sa Keo giật mình, choàng mở to mắt, hai tay cầm vội lấy cái cần rượu cho vào trong miệng nuốt lấy ừng ực. Một lát chừng đã no đầy, lão lại chuếnh choáng đứng lên, khạc mấy tiếng lớn nói tiếp:

- Hồn ma, vía quỉ, đá núi, cây rừng, và chim, và suối tất cả đã cho ta biết sự thực về tiếng hú rồi. Các người có biết tiếng hú từ đâu mà đến đây không? Cho đến khi nào con suối ngược dòng về đỉnh non cao, và đá trổ hoa kết trái các người cũng không thể nào biết được. Chỉ có một mình Sa Keo hiểu rõ điều đó mà thôi. Sa Keo có thể nghe biết tiếng nói ma quỉ và của muôn loài.

Lão lại cúi xuống, ừng ực nốc rượu, đoạn thở phì phò, nói tiếp:

- Hãy nghe ta nói, hỡi dân Nước Ràng khốn khổ! Tiếng hú vang động đất trời là của một loài quỉ lớn. Con quỉ đã bị ngọn núi Chà Hóc đè bẹp từ một ngày xưa, khi con người chưa mọc đôi tai và thú rừng còn chưa có đôi mắt. Nó có cái đầu to bằng nhà làng của ta, cái miệng rộng bằng vũng nước Ca Lang mà trâu ta vẫn xuống nằm. Những cái răng nó to hơn các cây nhiều tuổi mọc cao trong bụng rừng già, tiếng thở của nó có thể biến thành giông bão xô ngã những gì bám trên mặt đát, sườn non. Bây giờ con quỉ ấy đã ngoi đầu lên được khỏi chân núi, nhưng cái mình nó thì còn lún sâu ở dưới đất đen. Nó kêu thảm thiết vì nó đau nhức và nó đói khát. Mới trồi dậy được nó đã nhúng đầu uống cạn dòng suối Tồ-ôi quanh năm vẫn chảy dưới sườn Chà Hóc. Con quỉ uống cạn không còn một giọt, đến nỗi con người đi giữa Tồ-ôi như đi giữa khoảng sân buôn. Rồi cũng có lúc con quỉ nó vùng dậy được, nó sẽ luồn lõi đi trong rừng già, chạy nhảy trên các sườn non, phá phách nương rẫy chúng ta. Lúc đó chúng ta sống làm sao được? Chúng ta sẽ phải chết hết.

Dân làng ngồi yên nghe lão Sa Keo vừa nói vừa uống rượu cần, vừa đi lảo đảo chập chờn bên đống lửa hồng. Câu chuyện của lão làm cho mọi người cảm thấy ớn lạnh, mặc dầu ngọn lửa vẫn rừng rực cháy tỏa nồng hơi nóng chung quanh. Ông già Bu Then đứng im như một cây khô, cặp mắt hõm sâu vẫn nhìn chăm chắm vào tên phù thủy. Khi lão Sa Keo ngừng lời, cúi xuống ngậm vào cần rượu, ông chúa làng mới ôn tồn hỏi lão:

- Sa Keo, nói đã hết lời chưa đấy?

Lão phù thủy vẫn cắm cúi nuốt rượu ừng ực không buồn trả lời. Ông già hỏi lại:

- Sa Keo, còn gì để nói nữa không?

Tức thì Sa Keo ngẩng đầu, giương to cặp mắt ốc nhồi đỏ lòm gân máu đảo nhìn chung quanh, hai tay dài nghêu ôm lấy vò rượu và nói bằng giọng giận dữ khác thường:

- Ta nói chưa xong!

Tiếng lão thét lên khiến cho mọi người nín lặng. Một số cúi đầu không dám bắt gặp cái nhìn tóe lửa từ đôi mắt lão phóng ra. Anh Xiu Bân ngồi cạnh ông chúa làng, bám chặt hai tay xuống mặt sân buôn, cố nén một sự bực tức trong lòng. Ông già Bu Then là người đáng phải được sự kính nể nhất làng, là người nắm cả vận mạng của buôn, không ai được quyền có một cử chỉ xúc phạm. Từ trước đến nay ông đã đem hết tấm lòng lo lắng cho dân làng này, ông được mọi người tôn trọng, thương yêu. Vô lễ với ông, tức là khinh miệt dân buôn, điều đó không thể nào tha thứ được. Nếu con quỉ dữ trên đỉnh Chà Hóc không làm cho anh kiêng nể Sa Keo thì Xiu Bân đã xách lão phù thủy ném ngay vào đống lửa rồi.

Sa Keo nhận thấy mọi người nín lặng trong một dáng điệu phục tùng, lấy làm bằng lòng. Lão cất tiếng cười ằng ặc rất là khoái trá, rồi lại lảo đảo đứng lên, vừa nói vừa vung đôi tay dài nghêu như hai con rắn chờn vờn:

- Hỡi dân Nước Ràng, đêm nay các người có thể ngủ yên trong các nhà sàn. Ta đã khẩn cầu ma quỉ đừng kêu gào nữa. Để mua sự yên ổn đó, dân làng của  ta cứ ba ngày một sẽ xin cúng một con trâu để cho quỉ nguôi cơn đói. Hãy nghe lời ta bảo, đem trâu mà thế mạng người!

Ông Bu Then nói:

- Trâu ăn hết rồi, lấy gì để nuôi quỉ dữ?

Sa Keo quay lại nhìn ông, cười gằn:

- Hết trâu, còn có heo đấy.

- Hết heo rồi sẽ làm sao?

- Sa Keo sẽ bảo quỉ dữ tìm ăn nơi khác. Ở khắp núi rừng còn có nhiều buôn sẵn lắm con mồi.

Ông chúa làng vẫn ôn tồn:

- Một lúc nào đó, không nơi nào còn trâu heo, lấy gì để nuôi quỉ dữ?

Sa Keo quắc mắt:

- Chúng ta sẽ nộp thịt người.

Ông Bu Then bèn đáp lớn:

- Không, không thể nộp thịt con người cho loài ma quỉ!

Sa Keo gầm gừ:

- Ma quỉ mạnh lắm, không sao chống lại được đâu, đừng có nói liều.

Ông Bu Then đáp:

- Không thể đương đầu với nó, chúng ta rời bỏ nơi đây mà đi. Chúng ta làm lại nương rẫy, dựng lại cửa nhà.

Sa Keo sặc sụa cười lớn, rồi lão lắp bắp nói như líu lưỡi:

- Đi đâu cũng không thoát khỏi ma quỉ... ở trong hơi gió, ở trên đầu non, ở dưới ngọn suối đều có ma quỉ chờ các người đó. Các người không có... bùa phép... không... chống... ma quỉ được đâu. Chỉ có Sa Keo... mới cứu nguy được... dân làng. Chỉ có Sa... Keo... Sa Keo...

Lão gục đầu xuống, lảo đảo ngã khuỵu trên nền đất, ú ớ những tiếng lạ lùng khó hiểu, miệng trào nước rượu hôi nồng.

Đống lửa đã tàn. Ông Bu Then gọi hai người lực lưỡng khiêng lão về nhà. Khi mọi người đã lần lượt ai về nhà nấy, ông thấy Xiu Bân vẫn ngồi yên bên đống lửa. Ông bước lại gần, đặt cái bàn tay xương xẩu, gầy gò lên vai khỏe mạnh của chàng trai trẻ:

- Ngồi làm gì đấy, Xiu Bân?

Xiu Bân ngước lên trìu mến nhìn ông chúa làng:

- Nghĩ về con quỉ, ông Bu Then à. Ngày mai, sẽ bắt trâu của ai đây?

- Hãy đi từ nhà đầu buôn cho đến cuối buôn. Đi hết dãy nhà bên mặt trời lên rồi đến dãy nhà bên mặt trời lặn.

Tiếng của ông già nhỏ yếu như tiếng thở dài. Xiu Bân tưởng nghe những lời thì thầm vẳng lại từ một đống lửa lụi tàn đang cố giữ chút ánh sáng thoi thóp giữa trời đêm lạnh bao la.

Xem tiếp chương 3 & 4