Tủ sách Tuổi Hoa - 1972
(Truyện phóng tác)
Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm & đánh máy
--------------------
Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh
Chương 01
MỘT CHUYỆN QUÁI GỠ
Chúng tôi bỗng nghe những tiếng gõ cửa. Những tiếng gõ cửa ngập ngừng, dè dặt. Đồng hồ chỉ đúng ba giờ thiếu 10. Tôi bảo Thiết Lộc:
- Chắc là không phải cô ta.
Thiết Lộc lắc đầu:
- Chính là cô ta đó.
Rồi anh nói tiếp:
- Khi người ta có chuyện lo, người ta thường đến trước giờ đã định. Chúng ta hẹn với cô ta 3 giờ mà nay 3 giờ kém 10 cũng chẳng có gì quá sớm, đối với tâm trạng của cô Mộng Lan lúc này. Hơn nữa anh có nghe tiếng gõ cửa đấy không? Tiếng gõ nhẹ nhàng của một thiếu nữ với những băn khoăn, e ngại của người đang cần giúp đỡ.
Bao giờ Thiết Lộc cũng có một lối nhận xét tinh nhạy, rõ ràng như thế. Và những nhận xét của anh, dù nhỏ, dù lớn, bao giờ cũng ăn khớp với lại sự thật. Vừa nói dứt lời, anh đã quay về phía cửa nói lớn:
- Xin mời cô vào.
Thoáng chốc, cô Mộng Lan đã xăm xăm đi vào trong phòng. Đó là một thiếu nữ nhỏ nhắn, xinh xinh, ăn mặc giản dị nhưng chăm chút rất kỹ lưỡng. Áo dài xanh nhạt đã ngả màu xám. Vành khăn trên đầu cũng màu nhàn nhạt. Cô ta không đẹp ở lối ăn vận sơ sài, cũng không ở màu da sáng mà ở nét mặt vui vẻ dịu dàng, ở trong đôi mắt xanh lơ nhìn thẳng.
Thiết Lộc đưa chiếc ghế nhỏ, mời cô ta ngồi. Tôi bỗng lưu ý đến đôi môi cô mấp máy rồi mấy ngón tay cô lại biểu lộ một sự bối rối trong lòng. Thiết Lộc nhìn cô, nói rất dịu dàng:
- Chúng tôi đã chờ đợi cô đến cho biết rõ đầu đuôi sự việc. Đã tin cậy vào chúng tôi, cô hãy thực lòng. Sự việc ra sao, cô cứ thật thà kể lại. Nào, chúng tôi xin nghe.
Thiết Lộc quay nhìn nơi khác, hơi nghiêng nghiêng đầu về phía cô gái. Tôi cũng chồm người về trước, hai cánh tay chống lên đùi, trong một tư thế đợi chờ. Và cô Mộng Lan bắt đầu câu chuyện:
- Sự việc xảy ra như thế này đây: Ba tôi là một Sĩ Quan được biệt phái sang Ấn Độ khi tôi chưa sinh ra đời. Đến lúc tôi lên 5 tuổi thì ông đưa mẹ con tôi về ở bên Anh để tôi tiện việc học hành và gần Ông Bà của tôi. Khi tôi lên 15 tuổi thì má tôi chết và ông bà tôi cũng đã qua đời. Tôi không còn có bà con thân thích nào cả. Tôi phải ngụ ở nhà một người quen để mà tiếp tục học hành và ở đây cho đến năm lên 17 tuổi. Vào năm 1878, ba tôi bấy giờ là một Đại Úy, được nghỉ phép 12 tháng và định về đây thăm tôi. Khi tới Luân Đôn, ông vội đánh điện cho tôi hay là ông đã đến nơi và đang chờ tôi tại khách sạn Lăng Hoa. Lời lẽ ở trong điện tín thật là dịu dàng. Tôi vội tìm tới khách sạn thì người ta cho tôi hay Đại úy Mộ Tân có đến, ở phòng 16, nhưng ông đã đi từ sáng và tới bây giờ vẫn chưa trở về. Tôi phải ở lại chờ đợi suốt ngày hôm ấy nhưng vẫn không thấy ba tôi. Tối đến, theo lời khuyên của ông chủ khách sạn, tôi đi báo tin cho Sở Cảnh Sát. Qua sáng hôm sau, các tờ nhật báo ở đây đều có đăng lời rao về việc này. Người ta cũng đã tốn công tìm kiếm khắp nơi nhưng mà vô hiệu. Kể từ ngày ấy, tôi không còn nhận được tin tức gì của ba tôi nữa. Sau một thời gian dài xa cách quê hương, lại vất vả vì công vụ, cha tôi quay về xứ sở, hy vọng tìm sự nghỉ ngơi và niềm an ủi nhưng ông lại gặp…
Đến đây, cô vội đưa tay ôm mặt, nấc lên những tiếng nghẹn ngào không còn nói gì được nữa.
Thiết Lộc giở cuốn sổ tay rồi hỏi:
- Cô cho tôi biết thân phụ của cô mất tích ngày nào?
- Thưa ông, đó là ngày 3 tháng 10 năm 1878, tính cho đến nay đã gần 10 năm.
- Ông có bạn bè nào ở thành phố này không?
- Tôi biết ba tôi chỉ có mỗi người bạn thân ở đây, đó là ông Tham Mưu Trưởng Sơn Tôn cùng ở Trung Đoàn 34 Bộ Binh đóng tại Bom Bay. Ông này giải ngũ từ trước, bây giờ đang sống một nơi gần đây. Sau khi không tìm kiếm được ba tôi, tôi đã có đến hỏi thăm ông ta nhưng ông cho biết ông cũng không hay cha tôi trở về Luân Đôn.
Thiết Lộc bỗng nói:
- Lạ thật.
Cô Mộng Lan đã lấy lại bình tĩnh, tiếp tục trình bày:
- Tôi chưa nói cho ông rõ cái phần bí hiểm nhất của chuyện này. Cách đây 6 năm, vào ngày mồng 4 tháng 5 của năm 1882, ở trên tờ báo Thời Sự có đăng lời rao hỏi địa chỉ tôi. Lời rao nhấn mạnh rằng tôi nên cho biết rõ thì sẽ có lợi rất nhiều. Ở dưới lời rao chẳng có tên tuổi và địa chỉ nào. Bấy giờ tôi mới vào giúp việc trong cửa hiệu của bà Lệ Trinh. Tôi đem việc ấy hỏi ý kiến bà, và bà khuyên tôi cứ đăng địa chỉ của tôi lên báo. Sau khi đăng xong, qua vài ngày sau, nhà bưu điện gọi tôi đến nhận một cái hộp bằng bìa cứng, bên trong có một viên ngọc thật lớn, thật đẹp. Ngoài ra, không còn có gì nữa. Về sau, mỗi năm, cứ vào ngày đó tôi lại nhận được bưu kiện chứa một viên ngọc giống y như thế nhưng cũng chẳng có một ghi chú nào của người gởi cả. Tôi đã nhờ những người sành về các bảo vật coi hộ mấy viên ngọc đó và họ cho tôi biết rằng những viên ngọc ấy thuộc loại hiếm có và thật quý giá. Ông xem đây nè, đẹp chưa?
Cô Mộng Lan mở cái hộp mỏng, đưa cho chúng tôi xem 6 viên ngọc quý. Tôi chưa từng thấy những viên ngọc đẹp như thế. Màu ngọc trong vắt, long lanh. Thiết Lộc chỉ nhìn liếc qua những viên ngọc ấy rồi nói:
- Thôi cô hãy cất lại đi. Câu chuyện của cô lạ lắm. Còn gì khác nữa hay không?
- Còn ạ. Có một sự việc mới xảy ra ngày hôm nay bắt buộc tôi phải tìm ông. Sáng nay tôi nhận được một lá thư.
Vừa nói cô Mộng Lan lôi từ trong chiếc xắc cầm tay một cái phong thư màu vàng, lôi từ bên trong một mảnh giấy trắng và đưa cho nhà thám tử. Thiết Lộc bèn nói:
- Cám ơn. Xin cho tôi xem luôn cái phong bì và cái con dấu bưu cục.
Rồi anh cầm đọc:
- Luân Đôn, Khu Tây Nam , ngày 7 tháng 7. Hừ! Có dấu ngón tay ở một góc này, có lẽ là của nhân viên đưa thư. Phong bì và giấy thuộc loại hảo hạng. Không có địa chỉ. “Bẩy giờ tối nay cô đến đường phố Thành Lễ, ở gần cột đèn thứ 3 về phía bên trái lối đi. Nếu cô có gì e ngại thì cô có thể rủ thêm hai người bạn nữa cùng đi. Tưởng nói cho cô biết rõ, cô là nạn nhân của vụ bất công sắp được sáng tỏ. Vậy cô không nên đưa Cảnh Sát đến làm gì. Nếu cô không chịu nghe theo lời dặn thì mọi việc sẽ hỏng hết. Người bạn không quen của cô.” À, quả đây là một câu chuyện lạ lùng. Này cô Mộng Lan, cô định thế nào.
- Đấy là câu tôi muốn nhờ ông khuyên bảo.
- Được rồi, chúng ta sẽ đến nơi hẹn. Tôi nói chúng ta là gồm có cô, tôi và nhà báo Hoàng Hà đây nữa. Bức thư cho cô có thể dẫn theo hai người, như thế chúng tôi cùng đi với cô được rồi. Anh bạn tôi đây và tôi đã từng hợp tác với nhau lâu ngày. Thôi được, chiều nay đúng 6 giờ nhé.Cô cứ để tôi giữ lấy mấy mẩu giấy này. Bây giờ mới 3 giờ rưỡi, và tôi cũng cần đến chúng, trước khi cô lại.
- Xin chào các ông.
- Chào cô. Xin cô hãy cứ yên tâm, đừng lo nghĩ nhiều.
Cô Mộng Lan cất cái hộp đựng ngọc, mỉm một nụ cười khả ái rồi bước ra ngoài. Đợi người khách kia ra về độ chừng 5 phút, Thiết Lộc quay lại bảo tôi:
- Chiều nay chúng ta sẽ dùng bữa sớm hơn thường lệ. Bây giờ anh nằm nhà chờ tôi nhé. Tôi cần đi một chút việc rồi trở về ngay.
Chỉ trong một tiếng đồng hồ sau đó đã thấy Thiết Lộc quay về, nét mặt có vẻ tươi vui. Tôi biết tính tình của nhà thám tử này lắm. Anh có khả năng suy luận nhanh chóng và thật sắc bén. Vốn có tinh thần ưa chuộng khoa học, say mê lý tưởng công bằng xã hội mà anh bước vào nghề này. Nhưng Thiết Lộc là con người phóng khoáng và độc lập, anh chỉ làm việc với những điều kiện của anh chứ không lệ thuộc vào một cơ quan hữu trách nào cả. Chính tinh thần đó khiến anh là người cởi mở, đáng yêu, đưa đến tình bạn thắm thiết với tôi trong nhiều năm rồi. Tôi hỏi:
- Có thấy được chút ánh sáng nào không? Kể ra câu chuyện vừa rồi cũng bí mật nhỉ?
Anh đáp:
- Chẳng có gì là bí mật lắm đâu.
- Sao? Anh đã tìm được lời giải rồi sao?
Thiết Lộc có vẻ suy nghĩ, trả lời:
- Có lẽ còn lâu mới biết sự thực. Nhưng bây giờ đây tôi đã nắm được một cái sự kiện thật là quan trọng. Chỉ cần thêm ít chi tiết là có thể biết rõ hết.
Tôi vội vàng hỏi:
- Sự kiện gì thế?
- Tôi vừa mới ở Tòa Soạn của Báo Thời Sự về đây. Tôi đã tra cứu tài liệu báo đó và được biết Tham Mưu Trưởng Sơn Tôn, cựu Sĩ quan của Trung đoàn 34, đã chết vào ngày 28 tháng 4, năm 1882.
Thiết Lộc dừng lại, nhìn tôi. Tôi lắc đầu, nói:
- Tôi chậm hiểu lắm. Bởi tôi chẳng thấy chút gì tiêu biểu ở trong cái chết đó cả.
Đôi mắt Thiết Lộc sáng lên và anh hăm hở đáp lại:
- Không thấy gì sao? Lạ chưa! Này nhé, Anh hãy chịu khó để ý đến sự kiện cô Mộng Lan vừa cho chúng ta biết: Đại Úy Mộ Tân mất tích, người quen duy nhất của ông ở thành phố này là Tham mưu trưởng Sơn Tôn, vậy mà ông này lại quả quyết rằng không biết bạn mình đã đến Luân Đôn. Rồi bốn năm sau, Sơn Tôn qua đời. Chỉ trong vòng một tuần lễ, sau khi ông chết, cô con gái của Đại Úy Mộ Tân lại nhận được một món quà quý giá và mỗi năm lại nhận được như thế. Rồi đến lá thư hôm nay nhìn nhận Mộng Lan là một nạn nhân một vụ bất công. Vậy người con gái này đã chịu thiệt thòi nào, sau khi cha nàng mất tích? Tại sao quà tặng bắt đầu có ngay sau khi Sơn Tôn qua đời? Có phải là người kế nghiệp của ông Sơn Tôn biết được một chuyện lầm lỗi gì đó nên đã muốn bù đắp lại? Tôi nghĩ, nếu không nhận định như thế thì không còn cách nào tìm được lý lẽ khác phù hợp với lại việc này.
Tôi gật gù nói:
- Biết vậy, nhưng thưởng cho sự mất tích của cha người ta là chuyện quái gở. Hơn nữa, tại sao câu chuyện xảy ra đã 6 năm rồi mà ngày hôm nay mới chịu viết thư? Cuối cùng, nếu gọi đây là vấn đề đền bù một sự bất công thì đền bù như thế nào? Trả lại người cha cho Mộng Lan sao? Không thể tin rằng Đại Úy Mộ Tân còn sống.
Thiết Lộc lẩm bẩm:
- Hẳn là còn nhiều nỗi khó khăn thật. Nhưng tôi tin rằng, tối nay, cuộc gặp gỡ sẽ giải đáp tất cả.
Chương 02
CÂU CHUYỆN BÍ MẬT TRONG GIA ĐÌNH SƠN TÔN
Bấy giờ vào khoảng tháng 9, ban đêm cũng ảm đạm như ban ngày. Sương mù dày đặc, ẩm lạnh, che kín thành phố. Những đám mây xám lướt thướt kéo qua các vũng nước bùn. Ở hai bên đường, những cây trụ đèn chỉ còn là những chấm sáng lờ mờ tỏa những vệt sáng tròn nhỏ trên mặt đường ướt. Tôi nhìn khung cảnh chung quanh thấy có một màu huyền hoặc, kỳ ảo lạ thường.
Tâm trạng của cô Mộng Lan chẳng khác gì tôi. Riêng về Thiết Lộc, tôi nghĩ hẳn anh đã vượt lên trên những loại cảm giác tầm thường. Đặt cuốn sổ mở sẵn trên đầu gối, và dưới ánh sáng cây đèn ở trong xe ngựa chao đảo chập chờn, anh ta thỉnh thoảng cúi xuống ghi mấy hàng chữ và mấy con số.
Đến chỗ đã hẹn, chúng tôi bước tới cây cột thứ 3. Một người nhỏ bé mặc bộ đồ nâu kiểu thợ đánh xe xuất hiện, giữ chúng tôi lại. Gã hỏi:
- Có phải các ông đi theo cô Mộng Lan không?
Cô Mộng Lan bảo:
- Phải rồi, tôi chính là Mộng Lan đây. Còn hai ông này là bạn của tôi.
Gã ngẩng lên nhìn chúng tôi một cách dò xét rồi gã hút còi se sẽ. Một đứa bé đánh chiếc xe nhà đến, mở cửa, mời chúng tôi lên. Chúng tôi vào ngồi bên trong, người ban nãy leo lên trên ghế đánh xe. Chúng tôi vừa chớm ngồi xuống, người kia đã vội ra roi quất ngựa cho xe chạy như bay trên đường sương mù mờ mịt.
Chúng tôi qua nhiều khu phố có những dãy nhà bằng gạch một kiểu như nhau, thỉnh thoảng mới thấy hiện ra vài quán giải khát ở ngả tư đường. Rồi đến những ngôi biệt thự hai tầng với những vườn nhỏ bọc quanh. Đây lại là một dãy nhà gồm những ngôi nhà mới cất trông giống như những vòi lớn vươn ra bốn phía cánh đồng. Chiếc xe dừng lại ở trước gian nhà thứ ba, trong một con đường mới rẽ. Các ngôi nhà khác chung quanh dường như không có người ở. Ngôi nhà trước mặt chúng tôi trông cũng tối tăm như các nhà khác nhưng bên khung cửa nhà bếp có chút ánh đèn le lói. Người kia vừa gõ vào cửa thì cánh cửa được mở ngay, chúng tôi trông thấy một người da đen xuất hiện. Gã quấn một lượt khăn vàng, mặc áo quần rộng thùng thình, thắt lưng cũng một màu vàng. Gã nói:
- Ông chủ đang chờ các ông.
Cùng ngay lúc đó, một giọng the thé cất lên từ phía bên trong:
- Đưa họ vào đi.
Chúng tôi theo người da đen qua một dãy hành lang dài tối tăm. Rồi gã mở một cánh cửa bên phải. Một luồng ánh sáng vàng vọt hắt vào chúng tôi. Bên trong chúng tôi nhìn thấy một người đàn ông thấp bé, chiếc đầu trọc nhẵn láng bóng chỉ còn vành tóc hung hung mọc ở chung quanh trong giống đỉnh núi nhô lên giữa rừng thông rậm.
Y tiến đến chào chúng tôi rồi tự giới thiệu:
- Tôi là Diệp Tôn, con thứ của Tham mưu Trưởng Sơn Tôn. Còn cô… cô là Mộng Lan đấy nhỉ?
Cô Mộng Lan nói:
- Vâng, và hai người này đều là bạn thân của tôi.
Y nói:
- Hân hạnh.
Rồi mời chúng tôi ngồi xuống, rót nước, mời chúng tôi uống. Xong rồi, y mới vào đề:
- Này cô Mộng Lan, tôi sẽ nói rõ mọi sự cho cô được biết và tôi không dấu diếm gì. Tưởng là đã đến lúc mọi việc cần phải phơi bày và tốt hơn hết tôi xin đi ngay vào chuyện cho khỏi mất thêm thì giờ. Tôi cũng mong đem lại sự công bình cho cô, dù anh cả tôi là ông Mân Tôn phản đối thế nào cũng mặc. May mắn có hai người bạn cô đây, họ sẽ làm chứng cho điều tôi sắp trình bày cũng như sắp làm. Bây giờ trước khi đi gặp anh tôi, xin hãy nghe tôi kể chuyện.
Y dừng lời lại, uống thêm ngụm nước, rồi tiếp tục kể:
- Tôi là Diệp Tôn và anh cả tôi, Mân Tôn, là con sinh đôi độc nhất của Tham Mưu Trưởng Sơn Tôn. Cha tôi giải ngũ, trở về Anh Quốc lập nghiệp đến nay đã 11 năm. Ông có khá nhiều tài sản quý giá mang về từ bên Ấn Độ đã giúp cho ông tậu nhà, mua vườn, sống một cuộc sống xa hoa. Đến khi chúng tôi được tin Đại Úy Mộ Tân biệt tích, anh em chúng tôi hết sức kinh ngạc. Chúng tôi tìm đọc tất cả chi tiết việc này ở trên mặt báo và bởi ông là bạn thân của cha tôi nên chúng tôi tha hồ bàn tán về trường hợp này ở trước mặt ông. Ông cũng bàn góp với anh em tôi về bí mật này. Hai anh em tôi không ai ngờ được rằng chính ông đang dấu kín cái bí mật ấy trong lòng. Theo chúng tôi biết thì kể từ đó cha tôi có điều gì lo sợ lắm. Ông không hề dám đi đâu một mình và đã thuê hai võ sĩ có hạng làm người gác cổng.
Cha tôi không muốn chúng tôi biết nguyên do sự lo sợ ấy của ông, nhưng có một điều là ông rất ghét những người nào đi chân gỗ. Đến nỗi một hôm ông đã chĩa súng bắn vào một người chống nạng và chúng tôi phải xuất một số tiền khá lớn để mà bồi thường cho y. Hai anh em tôi yên trí rằng đấy chỉ là một sự đổi tính của ông trong lúc về già bị chứng thần kinh suy nhược.
Đầu năm 1882, cha tôi nhận được một bức thư ở Ấn Độ gởi đến. Đọc thư, ông hoảng sợ suýt ngất đi, và từ đó ngày một yếu dần. Chúng tôi không sao hiểu được trong thư nói gì, và cuối tháng tư năm ấy ông đau mê man, muốn gặp chúng tôi một lần cuối cùng.
Khi chúng tôi bước vào phòng, ông đã ngồi tựa vào một đống gối chất phía sau lưng và thở khó nhọc. Ông bảo chúng tôi khóa chặt cửa lại và đến bên giường của ông. Nắm tay chúng tôi, ông kể lại một câu chuyện như sau:
- Một việc còn làm cho ta áy náy trong phút cuối cùng của cuộc đời ta, đó là cách ta đối xử với người con gái đại úy Mộ Tân quá cố. Lòng tham nhơ nhuốc đã làm ta phạm vào một tội lỗi nặng nề: ta đã giành lấy một mình kho của mà đáng lẽ ra người con gái ấy phải được giữ lấy nửa phần. Chỉ vì cuộc tranh đoạt kho của ấy quá đỗi gay go nên ta không đành lòng chia bớt nó cho ai. Các con có thấy tràng ngọc để ở bên cạnh chai thuốc kia không? Cha không nỡ rời nó được. Tuy vậy cha đã quyết định lấy ra gởi cho cô gái ấy. Và các con phải chia đều cho nó một phần kho vàng An Hạ. Nhưng các con nhớ đừng gởi cho nó một cái gì hết, cả chuỗi ngọc kia cũng vậy, trước khi ta lìa cõi đời.
Bây giờ ta nói cho các con biết Mộ Tân chết như thế nào. Ông ấy đau tim từ lâu nhưng không cho ai hay biết. Lúc ở Ấn Độ, nhân một sự tình cờ kỳ quái, ta và ông ấy cùng khám phá được một kho của quí. Ta chuyển kho của ấy về Anh Quốc, và ngay chiều hôm vừa đến Luân Đôn, Mộ Tân đã đến tìm ta bảo hãy chia phần.
Ta cùng với y bàn nhau về sự chia kho của ấy rồi cãi nhau rất kịch liệt. Trong lúc tức giận cực độ, Mộ Tân đã đứng phắt lên, nhưng y bỗng đưa tay ra ôm ngực, mặt tái dần và ngã ngửa ra sau. Lúc ngã, đầu y va mạnh vào một góc tủ. Lúc cúi xuống xem, ta kinh hoàng thấy y đã chết rồi.
Ta đứng lặng một hồi lâu trước chiếc bành, đầu óc choáng váng không biết làm sao. Ý nghĩ đầu tiên của ta là muốn tìm người cấp cứu. Nhưng làm sao tránh khỏi tiếng sát nhân? Vì y chết trong một cuộc gây gổ với ta rõ ràng! Và trên đầu y mang một thương tích nặng nề như thế, bao nhiêu là những ức đoán sai lầm nguy hiểm cho ta. Hơn nữa cuộc điều tra sẽ phát giác ra nhiều điều cần giữ kín về kho của này. Vậy ta và kẻ tâm phúc đem dấu tử thi ngay trong đêm đó. Độ vài ngày sau, báo chí Luân Đôn nhao nhao về vụ đại úy Mộ Tân biệt tích. Các con xem đấy, cái chết của y có đáng quy trách vào lỗi ta đâu? Ta chỉ có lỗi là không những đã dấu kín xác y mà còn dấu luôn phần của thuộc quyền của y. Vậy ta mong rằng các con sẽ hoàn trả lại cho con cháu y. Các con hãy đến gần đây. Kho của ta giấu trong…
Ngay lúc đó, sắc mặt ông hiện lên vẻ khủng khiếp cực độ, cặp mắt nhớn nhác và mồm há hốc. Ông kêu rú lên thất thanh chỉ nói một câu mà tôi không sao quên được:
- Đuổi nó đi ngay! Trời ơi, hãy đuổi nó đi!
Chúng tôi cùng quay lại phía cửa sổ mà ông đang ngó trừng trừng. Một mặt người hiện giữa bóng tối đen ngòm đang nhìn chúng tôi. Cái mũi trắng bệch áp sát mặt kính, tóc râu xồm xoàm, cặp mắt long lên sòng sọc, như đang giận dữ ghê gớm. Chúng tôi chạy xổ lại bên cửa nhưng người kia đã biến mất. Lúc lại bên giường cha tôi, thì mạch người đã ngừng đập, cằm người sệ xuống.
Cả đêm hôm đó chúng tôi lùng kiếm quanh vườn chẳng thấy gì hết ngoài vết bàn chân dẫm trên khóm hoa. Nếu không có vết chân này thì có lẽ chúng tôi đã yên trí rằng bộ mặt dữ dằn kia chỉ là do trí tưởng tượng chúng tôi tạo ra. Tuy vậy chúng tôi còn được một bằng chứng rõ rệt nữa cho biết rằng có nhiều kẻ thù còn lẩn quẩn chung quanh.
Sáng hôm sau, cánh cửa sổ buồng cha tôi mở toang, các hộp giấy có ngăn kéo đều bị xáo trộn lung tung, và trên ngực của cha tôi có gắn một mảnh giấy ghi mấy chữ nguệch ngoạc: “Dấu hiệu của Tứ Hiệp”. Chúng tôi không hiểu ý nghĩa của dòng chữ đó, mà chẳng biết ai gởi đến.
Các ông cũng rõ, chúng tôi hết sức băn khoăn về cái kho của cha tôi đã nói. Suốt mấy tháng liền, chúng tôi đào xới từng tấc đất trong vườn nhà mà vẫn không tìm ra của giấu đó. Chúng tôi cuống cuồng nhớ rằng chỗ bí mật kia còn ở trên môi cha tôi. Nhìn chuỗi ngọc lóng lánh kia chúng tôi cũng đoán được kho của kia quý giá ngần nào. Chúng tôi lại phải cãi nhau rất nhiều về chúng. Các viên ngọc ấy tất là đắt tiền và anh của tôi cũng không muốn rời chúng ra. Có thể nói rằng giữa hai chúng tôi thì anh ấy đã thừa hưởng cái lòng tham vô tận của người cha tôi. Nhưng anh ấy cũng hiểu rằng chuỗi ngọc sẽ bị người ta chú ý và sẽ gây cho chúng tôi nhiều cái khổ lây. Anh ấy cũng chỉ đồng ý với tôi có mỗi một điều là tôi sẽ tìm địa chỉ của cô Mộng Lan và cứ lâu lâu sẽ gởi cho cô ấy một viên ngọc để cô ấy khỏi sống nghèo khổ.
Cô Mộng Lan nói:
- Đó là nhờ lòng tử tế của ông. Tôi xin thành thật cảm ơn!
Người kia khoát tay, đáp lại:
- Không có ơn huệ gì cả. Chúng tôi chỉ là kẻ đã gởi dùm cho cô mà thôi. Tôi vẫn nghĩ thế, nhưng anh tôi thì lại không chịu đồng ý với tôi về cái điều này. Chúng tôi cũng đủ sống đầy đủ chẳng còn ao ước gì thêm. Hơn nữa đi bòn xới của một người đàn bà thì thấy nhục nhã quá lắm… Sự bất hòa giữa chúng tôi cứ mỗi ngày một tăng thêm, đến nỗi sau cùng tôi thấy nên rời khỏi chỗ mà cha và anh tôi ở để về sống trong nhà này. Nhưng hôm qua đây tôi được một tin quan trọng: kho của đã tìm ra rồi. Tôi vội vàng viết thư cho cô Mộng Lan hay và chỉ còn mỗi một việc là đưa cô ấy sang nhà anh tôi để đòi phần chia. Tôi đã trình bày ý định đó với anh tôi tối hôm qua rồi. Chúng ta đến thăm chuyến này có lẽ không làm anh ấy vừa lòng, nhưng đã được thỏa thuận rồi.
Diệp Tôn ngừng nói nhưng y không ngớt lắc lư trên chiếc ghế. Chúng tôi nín lặng, đăm chiêu nghĩ ngợi về cái đoạn cuối câu chuyện. Nhưng Thiết Lộc lên tiếng trước:
- Ông đã hành động hợp lý. Chúng tôi có thể giúp ông làm cho sáng tỏ những điều khó nghĩ của ông. Chúng ta không nên chần chờ lâu nữa hãy lên đường ngay.
Khi chúng tôi đã lên xe, Diệp Tôn nói tiếp:
- Các ông có biết anh tôi tìm ra kho của bằng cách nào không? Sau khi tìm kiếm khắp nơi, anh ấy nghĩ rằng kho của tất nhiên phải ở một nơi nào đó trong nhà. Vậy nên anh đem tất cả đồ đạc ra đối chiếu lại. Với cái cách đó thì trong nhà có chỗ nào sai biệt một phân cũng không lọt khỏi mắt anh. Anh nhận ra rằng chiều cao ngôi nhà là 25 thước, kể cả các từng bên trên. Nhưng khi đo lại thì thấy từ nền đến trần chỉ có 23 mét bảy là cùng. Vậy còn thiếu một thước ba mươi nữa. Đoạn này chỉ có thể nằm ở trên đỉnh nhà. Anh tôi liền khoét một lỗ ở trên trần nhà vào nơi cao nhất, và tìm ra một cái gác nhỏ sát mái, có tầng bọc kín từ lâu không ai biết đến. Cái tủ đựng của đặt ở trên ấy, vào ngay chính giữa, kê trên hai cây xà ngang.