Minh Đăng xuất bản - 1974
Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm & đánh máy
----------------------
Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh
Chương 01
San chào đời tại một làng nhỏ giữa rừng sâu, cách Vạt-xô-vi 50 cây số. San không giữ được một kỷ niệm nhỏ về mẹ mình vì bà mất khi San còn bé lắm, chưa đến thời kỳ dứt sữa. Tuy vậy, San vẫn nói thông hai thứ tiếng Pháp và Ba Lan – mẹ San là người Pháp – và gia nhân cũng thế.
Tam A, vú già trung tín của gia đình đã chăm sóc San suốt thời thơ ấu một cách tận tâm, từ khi cha San ở Vạt-xô-vi cho đến khi, vì lý do sức khỏe của San, cha cậu lại đưa cậu về làng Ất, nơi cậu mở mắt chào đời.
San lớn phổng lên như thổi trong khung cảnh thiên nhiên hoang dã ấy.
Cha San vốn là một y sĩ, song người ta rất ngạc nhiên mà thấy ông không mấy chú tâm đến việc hành nghề thủ lợi lại dành hết thì giờ cho một cái phòng thí nghiệm dưới hầm, đặt tại nhà riêng của ông tại Vạt-xô-vi. Ông ở lỳ trong đó ngày cũng như đêm để tìm tòi, nghiên cứu cùng với một phụ tá và cũng là bạn chí thân : bác Minh Sơn.
Minh Sơn, một người đàn ông khoảng trung niên, vạm vỡ và có sức khỏe đặc biệt. San vẫn giữ mãi kỷ niệm về bác ấy : bác ưa đặt San ngồi lên lòng bàn tay hộ pháp của mình, còn tay kia chỉ đưa lên, xa xa để cốt giữ thăng bằng nếu San có tỏ ra sợ hãi hay ngồi không vững.
Bác có đôi mắt mầu xanh nhạt, bộ tóc hoe đỏ và luôn luôn bù rối, che khuất vầng trán phẳng, thông minh.
San đã sống những chuỗi ngày vui vẻ, hồn nhiên trong ngôi nhà nhỏ với vú Tam A, mà thế giới của cậu là khu vườn có nhiều nai, hoẵng. Cậu đinh ninh mình rất mực tự do, không chút nghi ngờ thắc mắc, cậu không hay biết rằng sự thực thì Bách, người lão bộc trung thành vẫn ngày đêm canh chừng cho tiểu chủ không rời.
San vẫn cỡi con ngựa nhỏ, xinh đẹp mà bác Minh Sơn cho cậu trong dịp sinh nhật năm rồi. Bộ lông mượt như tơ, dày kịt, dày hơn lông gấu, con ngựa Phi Tiễn thật xứng với tên, nhất là khi nào San thúc nó phi nước đại vượt rừng rậm, gai góc, đuổi theo những con hoẵng lanh tựa loài chồn ! Luôn luôn, sau những lần như vậy, người ngựa trở về, San thì mặt mày tay chân sây sát, sướt máu, còn ngựa thì mồ hôi ướt đẫm cả bộ lông.
- San ơi ! Con ngựa này thật là ghê gớm, nó có thể đuổi theo gió đó, nghe !
Bách vừa nói với tiểu chủ vừa thở hào hển và rời khỏi lưng con lừa xám cũng sùi bọt mép vì mệt ngất ngư sau khi đuổi theo Phi Tiễn và San trong rừng rậm.
San thích thú cười dòn :
- Ai bảo bác rượt theo tôi làm chi ? Bác già rồi, coi chừng có bữa đứng tim đa ! Tôi đi chơi một mình có sao đâu ? Bác làm như tôi là đứa mới lên năm ấy !
***
Một sáng kia, San lẻn xuống chuồng ngựa : cậu muốn đi chơi mà không có mặt lão bộc già bên cạnh. San biết khu rừng thưa gần nhà có nhiều heo rừng, cậu lại nghĩ ra một cách săn táo bạo giống như cha và bác Minh Sơn đã làm mỗi chúa nhật về chơi : đó là cách săn không dùng súng mà dùng dáo đâm heo ! San sẽ sàng thắng yên con Phi Tiễn, ép nó ngậm lấy khớp và mặc cho nó nhảy chồm lên ra khỏi chuồng trong khi con lừa xám to lớn cất tiếng hí vang, ý chừng muốn báo cho lão bộc hay tin.
Khu rừng thưa hiện ra ở phía cuối vườn sau thoáng chốc, một giòng suối trong vắt quanh co chảy giữa những cây phong thấp. San thúc Phi Tiễn vượt qua suối, đạp mạnh chân đinh vào hông nó và cho phi nước đại. Trước mặt San, một đôi mang nhảy băng qua đường, sừng chấm sát vai, Phi Tiễn chú ý đến và muốn đuổi theo, nhưng San không cho. Sáng nay cậu muốn săn heo rừng, thứ heo rừng dữ tợn và to lớn kia. Chao ! Cây dáo dài và lưỡi dáo mỏng làm sao ! Nhưng nó cũng khá nặng đối với thiếu niên (trong lúc phi ngựa, cậu giữ cây dáo dọc theo yên, cán cắm vào bàn đạp).
San có cảm tưởng mình là một vị đế vương vi hành, dưới vó ngựa đất lạnh như lên tiếng chào mừng cậu con trai dũng cảm ! Cậu sắp vượt qua khỏi khu rừng này và đến chỗ có nhiều heo rừng. Quả vậy : ba con vật lố nhố, mầu lông đen nổi bật lên giữa màn sương, chúng đang chúi mõm ủi đất bên cái hồ nhỏ. San rút cây dáo định tấn công, bỗng cậu nghe có tiếng vó ngựa sau lưng và tiếng động đó làm ba chú heo rừng lủi mất trong nháy mắt. San hết sức bất bình, ném phăng cây dáo vào bụi rậm, quay nhìn ra phía sau : bóng dáng to lớn của lão bộc già lờ mờ hiện ra, qua màn sương dày đặc cách cậu cỡ vài trăm thước. San nghe rõ cả tiếng con vật thở hổn hển và tiếng roi quất vun vút vào không khí. A ! San phải trả thù ! Phải làm cho bác đổ mồ hôi vì San ! Tại làm sao mà bác cứ ưa can thiệp vào việc riêng của San như thế chứ ? Đã mất mồi săn, San liền đổi trò chơi : đuổi chạy cũng thích như săn heo rừng vậy !
Thế là, San nằm rạp trên lưng ngựa, buông lỏng dây cương và thúc mạnh vào hông nó, khiến nó phóng như bay qua những cụm rừng.
Những cành cây quất vào mặt San và nhiều lần – rất nhiều lần – San suýt bị bắn khỏi yên, hoặc bị các cây nghiền nát trong lúc con ngựa lồng lên, phi qua giữa khoảng hẹp của các cây ấy.
Ôm chặt cổ Phi Tiễn, San say sưa vì tốc độ, tuy nhiên phía sau cậu, lão bộc già vẫn bám theo sát, không ngần ngại, và cứ mỗi phút qua, lão như thu hẹp dần khoảng cách thêm lên.
Con đường hẹp hiện ra trước mặt, cắt ngang các bụi rậm dày. Phi Tiễn đột ngột rẽ ngoặt sang một bên để tránh cái hang chồn, San gần đánh rơi dây cương, nhưng con vật vẫn tiếp tục phi nhanh làm cho chủ nó lần này như nghẹn thở…
Thốt nhiên, có tiếng ngã đánh “huỵch” một cái, San vội quay nhìn : người ngựa phía sau ngã lăn trên đất. Vướng chân trên dây cương, con vật vùng vẫy một cách bực tức còn lão Bách thì không gượng dậy được vì một chân bị cái yên ngựa đè lên. Chắc là con vật bị gãy chân vì lọt vào một trong những cái hang chồn mà Phi Tiễn lanh mắt trông thấy ? Còn lão Bách ? San lạnh mình, vì cậu nghĩ đến chuyện lão bộc bị thương.
Cậu hết sức khó nhọc mà không sao điều khiển con vật như ý muốn, nó như điên tiết, hết biết vâng lời. Tuy nhiên, sau cùng, San cũng quày ngựa được, giục nó trở lại cứu lão bộc của mình. Cậu kêu to lên :
- Đừng sợ, cứ nằm yên, bác Bách, tôi đến đây !
Phi Tiễn vừa đến gần chỗ xảy ra tai nạn thì – trời ơi ! Bất ngờ làm sao ! – Con ngựa ngã vừa gượng đứng lên lại té quị xuống, hí lên một tiếng man rợ ; cùng lúc đó, cái yên ngựa dịch ra, kỵ sĩ bò dậy và San nhận ra khuôn mặt hung tợn của hắn : không phải là lão bộc trung thành của nhà San !
San định kêu lên mà tiếng không thoát ra khỏi cổ họng. Kẻ lạ có dáng dấp của một nông dân Nga, một bộ râu rậm mầu hung và con mắt… chao ! Con mắt đầy gân máu ! Hắn kêu lên một tràng những lời khó hiểu – nguyền rủa hay phàn nàn ? – Tận lúc đó, San mới bắt đầu biết sợ ! Trời ơi ! Kẻ lạ ấy đã đuổi theo San chứ không phải là lão bộc theo để canh chừng săn sóc cho San ?
Tức thì, cậu quày ngựa, thúc mạnh cho Phi Tiễn chạy… Chạy bất kể trời đất, bụi bờ, gai góc, hố hào…
Cho đến khi San mệt lả, thở không ra hơi và trước mặt ngôi nhà nhỏ hiện ra cậu mới tin là mình thoát hiểm.
Lão Bách cũng vừa nhận thấy tàu ngựa trống đúng lúc San về. Không để cho lão kịp gạn hỏi hay trách móc, San kể lại đầu đuôi, vừa kể vừa thở dồn, sợ hãi còn ghi đậm trên nét mặt. Kể xong, San hỏi :
- Bác Bách ơi ! Làm sao mà họ lại ghét tôi ? Tôi có làm gì hại họ đâu ?
Ánh mắt lão bộc còn kinh hoàng hơn tiểu chủ, lão lắp bắp :
- Làm sao à ? Nào biết làm sao… nhưng có một điều chắc chắn : nếu cậu bị quân dã man ấy bắt cóc hay giết đi thì tôi cũng chết theo luôn, chớ mặt mũi nào mà dám nhìn ông…
Giọng lão thê thiết cho đến nỗi San cảm thấy xấu hổ vì hành động vừa rồi. Cậu nắm tay lão, trấn an :
- Bác đừng lo ! Tôi đã thoát rồi mà ! Tôi đã về đây, bác không thấy sao ?
- Phải ! Cậu thoát lần này ! Nhưng rồi đây… Ông đã ngỡ là cậu được bình an tại khu rừng sâu hẻo lánh này, hơn là để cậu ở Vạt-xô-vi. Ngài có ngờ đâu…
- Bác yên tâm đi ! Tôi xin hứa từ nay tôi không cỡi ngựa đi chơi bậy bạ như vậy nữa, bác bằng lòng chưa ?
Nét mặt lão bộc tươi lên một chút.
Và tuy San đã làm đúng như lời hứa, lão vẫn thấp thỏm không yên. Vì vậy, khi cha San về chơi vào ngày nghỉ, lão liền báo cáo lại chuyện xảy ra.
***
Ngày 24, tháng 2, sinh nhật thứ 15 của San, cậu được cha hứa là sẽ tổ chức một cuộc săn chồn.
Tinh sương hôm ấy, San đã dán mũi vào cửa kính, nong nả đợi chiếc xe cha xuất hiện, chiếc xe với những con ngựa ô to lớn thường được cha San dong cương bằng một tốc độ ghê hồn.
Trên tấm khăn bàn trắng tinh khôi, vú già Tam A đặt một cái bánh sinh nhật với 15 ngọn đèn sáp mầu xanh cắm theo hình kim tự tháp. Nhà cửa có vẻ khang trang sáng sủa hẳn lên.
Thời khắc như không trôi mà ngưng đọng lại. Trận mưa tuyết dữ dội đêm qua kèm với những ngọn cuồng phong làm những cành cây trong vườn oằn xuống. San sốt ruột kinh khủng : khác với lệ thường, cha cậu không về vào buổi sáng với bác Minh Sơn. Mặt trời đứng bóng rồi…
Chợt bầy chó sủa vang lên rồi chiếc xe chở cha San và Minh Sơn xuất hiện. Xe ngừng ở thềm cửa, hai người bước xuống, mình mặc áo choàng dày cộp, tay lăm lẳm súng săn.
Trông thấy hai người, San đã nghĩ ngay đến cuộc săn đầy hào hứng mà mình sắp được dự chốc nữa đây, vì cậu vốn biết tính cha : ông luôn luôn giữ đúng lời hứa với con trai.
Song San hết sức ngạc nhiên mà thấy hình như… cha cậu không quan tâm đến ngày sinh nhật của mình. Nét mặt đăm chiêu, ông ra lệnh mà không nhìn ai cả :
- Tam A ! Bảo Bách tháo ngựa ngay, đưa vô chuồng lau cho chúng được khô và cho chúng lúa mạch, khẩu phần gấp đôi mọi ngày, nghe !
- Thưa vâng ạ ! Tôi sẽ bảo bác ấy ngay !
Tam A nói và sắp quay đi thì ông chủ chặn lại :
- Chưa xong, nghe đây : còn vú thì sửa soạn ngay cho chúng tôi một giỏ thức ăn, cả rượu vô-ka nữa, y như… y như đi săn vậy.
San nghẹn lại vì tức tối : y như đi săn ! Cha cậu nói thế có nghĩa là hôm nay ông bãi bỏ cuộc săn như đã hứa với cậu ư ? Dễ nghe chưa ? San toan hỏi thì vú Tam A cất tiếng :
- Thưa ông chủ, chắc ông chủ định… định không đi săn hôm nay, phải không ạ ?
- Đừng gạn hỏi lôi thôi ! Hãy làm ngay điều ta bảo, và làm càng mau càng tốt, Tam A !
Rồi ông chợt đổi giọng, thấp xuống :
- Ta sẽ giải thích cho vú hiểu sau.
- Vậy, ông chủ không dùng bữa trưa tại nhà sao ?
- Phải, không đủ thì giờ (ông quay sang con trai) này, con !...
San đến gần cha, thầm lo ngại, cậu đưa mắt nhìn vú Tam A đang run rẩy vì xúc động rồi lại nhìn bác Minh Sơn trong lúc bác đặt cây súng xuống bàn cạnh cái bánh sinh nhật có 15 ngọn đèn sáp xanh lơ. Khi San nhìn cha, cậu bắt gặp mắt ông sáng lên một cách dị thường, cậu linh cảm là có điều quan trọng xảy ra làm gián đoạn cuộc vui. Giọng cha cậu buồn rầu :
- San ơi ! Cha con ta sắp phải rời nơi này. Một cuộc hành trình xa… xa lắm !
Chợt ông ngừng lại, nhìn bác Minh Sơn, tiếp :
- Cả ba chúng ta, cả bác Minh Sơn nữa, con ạ !
Cậu con trai muốn mở miệng mà không thể nói ra lời. Quyết định của cha cậu đột ngột quá, bất ngờ quá, vượt trên sức tưởng tượng của thiếu niên.
- Tam A sẽ chuẩn bị đủ thứ cho con : áo lông thú, áo mưa và ủng. Hãy giúp vú một tay, San con !
San lặng lẽ làm theo lời cha. Khi cậu trở lại phòng khách, cậu thấy cha cùng bác Minh Sơn lôi những tập giấy dày từ các ngăn tủ ra đốt trong lò sưởi. Trên bàn chỉ còn lại vài tờ rời, nét chữ nguệch ngoạc rất khó đọc. Vài tờ khác, chép những công thức rắc rối, nhiều ký hiệu với phương trình và con số giống như những trang đầy các bài tính mà hai người vừa đốt xong.
Bằng vài câu vắn tắt, cha San nói cho con biết những tài liệu quan trọng này là đầu mối của cuộc hành trình đột ngột hôm nay, những công thức đó đã bắt buộc họ phải tức tốc rời khỏi đất Ba Lan yêu dấu. Thì ra, cha San và bác Minh Sơn là những nhà bác học nguyên tử đầu tiên. Họ đi rất xa trong công cuộc nghiên cứu. Từ năm tuần nay, họ được biết là họ bị theo dõi, kiểm soát và sắp bị uy hiếp. Cách đây hai ngày, họ tìm thấy người gác tin cẩn bị đánh bất tỉnh, cửa phòng bị bẻ khóa và có nhiều dấu vết chứng tỏ phòng thí nghiệm của họ bị lục soát không chừa một cái xó xỉnh nào.
San nhớ lại căn phòng rộng mênh mông với các cửa kính đầy tuyết đọng, cái lò sưởi cao ngập than hồng… đến nét mặt trang trọng và chăm chú của cha cũng như của bác Minh Sơn, họ đều như quên thời gian trôi bên ngoài, say sưa vì công việc…
Tam A đứng nép trong một góc, không buồn lau nước mắt đang giọt giọt trên đôi má nhăn nheo. Tuy vậy, bà ta vẫn gắng gượng – trong khi tay run run – để đốt cháy 15 ngọn đèn sáp trên cái bánh sinh nhật của San. Minh Sơn mỉm cười gượng gạo :
- Nào ! San ! Hãy thổi một cái sao cho tắt hết các ngọn nến đi xem ! Can đảm lên !
San bước lại bàn thổi phụt một cái, 15 ngọn nến cùng tắt đi một loạt. Có tiếng vỗ tay nổi lên, song San không thấy thích thú chút nào. Cậu nghẹn ngào khi chạnh nghĩ đến ngày mai và tiên cảm rằng cùng với những ngọn nến mà cậu mới thổi tắt, cậu cũng vừa chấm dứt, xóa tan những tháng năm đẹp đẽ của tuổi thơ từ phút này đây ! Mắt San như mờ đi…
- Cháu sẵn sàng chưa ?
- Thưa bác, đã…
- Còn ngựa ?
- Ngựa thắng rồi !
- Hôn vú Tam A của con đi, San ! Có thể, con không còn được gặp vú nữa đâu, San ạ !
Rồi ông chữa lại :
- Còn lâu lắm, ta mới được trở về đất Ba Lan…
Vú Tam A giữ chặt cậu con trai trong vòng tay mình, khóc lặng, nghẹn ngào không thành tiếng.
Bác sĩ Vệ nhét vội vào túi trong của cái áo da một cái ví bằng da thuộc, mầu đỏ trong đó cất đầy những giấy tờ quí giá, xếp nhỏ. Ngang hông, ông thắt một dây lưng da giống như bọc đạn chứa đầy nhóc tiền vàng.
- Thôi ! Ta lên đường ! Đừng bịn rịn quá, Tam A !
Ngoài sân, mấy con ngựa hung hí lên như giục giã, chúng được mắc vào trong cỗ xe lớn, kéo mui bằng da thú dày, có đóng đinh đồng sáng loáng. Một tấm lắc bằng bạc gắn vào sườn xe – sườn bằng gỗ đen bóng – trên đó khắc một con báo đang đùa với ba trái cầu vàng (tượng trưng cho gia đình San).
Tam A ôm chặt San lần nữa, rưng rưng nước mắt rồi bà ấn cái mũ dạ của San xuống sâu hơn, đến tận mang tai đoạn đi cùng tiểu chủ ra sân. San trèo lên xe ngồi giữa cha và bác Minh Sơn trên cái ghế thấp xung quanh đầy chăn và áo choàng.
Dưới chân cậu là hai khẩu súng đặt song song, súng ngắn của cha cậu và súng hai nòng của Minh Sơn. Từng cơn gió rít lên qua các rặng thông, trận cuồng phong đang tiếp diễn. Minh Sơn quất ngựa cho phi nước đại trong lặng lẽ vì trước đó, lão bộc đã tháo các chuông ở cổ ngựa ra.
Minh Sơn bảo bạn, giọng trầm hẳn xuống :
- Mưa tuyết sẽ giúp chúng ta !
Mà thực vậy, bánh xe vừa qua khỏi là lập tức tuyết phủ ngập, che lấp vết xe, cũng khó mà nghe được tiếng vó ngựa dẫm lên mặt tuyết.
Con đường mờ mịt kéo dài trước mặt, làm thiếu niên cảm thấy buồn thấm thía trong lòng. Giờ này – cậu thở dài nghĩ thầm – đáng ra ta đang ở trong khung cửa kính cắt bánh sinh nhật, sinh nhật thứ mười lăm…
***
Tối đó, họ dừng lại trong một cái quán nhỏ cho ngựa nghỉ giây lát lấy sức rồi lại ra đi, song lần này, họ cho đi chậm hơn. Họ tránh những đường lớn. Lợi dụng lúc ngựa nghỉ, Minh Sơn chiếu đèn bấm lên bản đồ để tìm một lối mòn băng qua các cánh đồng trống và các khu rừng bất tận. Rồi họ băng qua những con sông đông cứng.
Đến cuối ngày thứ hai của cuộc trốn chạy vất vả này, ngựa hoàn toàn kiệt lực. Dùng một nắm tiền vàng, cha San đem đổi lấy hai đôi khác, nom dáng bộ chúng, San đoán ngay là chúng không phải ngựa nòi, nhưng biết sao hơn !
San rất tiếc phải bỏ hai đôi ngựa đẹp của cha lại cho đám nông dân xa lạ, cậu đứng cạnh lò sưởi, nghẹn ngào cố nuốt vội món xúp luễnh loãng cho xong bữa. Khi họ lên xe, cha San khám phá ra khẩu súng hai nòng của Minh Sơn đã biến mất, song phải cắn răng tiếp tục cuộc hành trình.
Tuyết bắt đầu ngừng rơi, đêm sáng rỡ và lạnh rợi. Đất cứng khua vang dưới vó ngựa. Cha San vừa quất vừa la to để giục ngựa đi. San được dịp chứng tỏ là mình đoán đúng về đôi ngựa tồi tệ. Mờ mờ sáng hôm sau, cha San phải rời đường mòn, đánh xe vào các lùm cây… Minh Sơn cười nhưng không phản đối.
Chợt San trông thấy hai kỵ mã nằm rạp trên lưng ngựa vút qua như hai mũi tên. Họ có phải là những kẻ muốn ám hại cha con San chăng ? Cha San nói :
- Nếu định săn chúng ta, bọn chúng phải đợi ở các nhà ga, không nên nghi ngờ quá…
- Phải, tôi cũng nghĩ như anh, họ đón ta ở các nhà ga và ngang biên giới…
- Này, Minh Sơn ! Anh biết rõ vùng này phải không ?
- Như biết rõ bàn tay tôi mấy ngón vậy, đừng lo. Phía nam kia là vùng đầm lầy, hiện thì đông cứng, ta có thể cho ngựa phi qua dễ dàng. Không có làng mạc gì cả.
- Như thế có làm cho xa thêm không ?
- Dĩ nhiên là hơi xa, song an toàn hơn, vì tôi cam đoan không ai đón chúng ta ở đó cả. Tôi chỉ ngại là gặp viên chức nhà Đoan lưu động…
- Và bầy chó nữa, phải không ?
- Đừng quá e ngại, chúng ta có súng mà !
Đến giữa rừng, họ dừng xe, dùng hết số thực phẩm do Tam A soạn theo cho họ. San lạnh cóng và cậu nốc cạn cốc lớn rượu vô-ka như uống một ly nước ngọt không do dự, đoạn quấn kỹ chăn, cậu đánh một giấc, gác hết mọi lo âu.
Lần cuối cùng, họ dừng lại một thôn nhỏ lơ thơ mươi bếp lửa, cạnh biên giới, nơi họ sẽ vượt qua đêm nay. Họ không tiếc rơm cũng như lúa mạch, nên ra roi lần đầu, đôi ngựa đã phi nhanh.
Đêm phủ xuống khi họ ra khỏi khu rừng đưa xuống một cánh đồng cói và rồi khu sình lầy hiện ra. Đôi ngựa do dự, dùng móng dò dẫm trên mặt băng, sợ băng vỡ ra dưới sức nặng của người và xe. Minh Sơn nhảy phóc ra khỏi xe, vừa chạy vừa kéo mạnh dây cương để khuyến khích con ngựa đầu đàn vì nó muốn lồng lên hơn là bước tới. Mặt băng vẫn cứng và rồi xe có trớn, lướt nhanh. Minh Sơn thở hào hển, chạy theo và toan lên xe. Bỗng hai tiếng súng khô khan nổ lên, khô đến nỗi người ta có thể lẫn tiếng nổ với tiếng roi ngựa… Có lẽ phát ra từ xa, nên không ai nghe thấy đạn xé trong không khí. Rồi thì con ngựa đầu đàn vấp chân, song cố gượng, hí dài một tiếng và sau cùng quị xuống như một thân cây bị lưỡi rìu sắc phạt ngang.
Tức thì, Minh Sơn lao đến, dùng dao săn cắt lìa những sợi dây buộc con vật vào xe. Nó lăn qua lăn lại, vùng vẫy một cách tuyệt vọng, bốn vó chổng lên trời, quờ quạng nom thật thảm thương.
- Đưa khẩu súng của bác đây ! Nhanh lên !
San lúng túng giây lâu làm Minh Sơn sốt ruột, giục lại. Cha cậu bảo bạn :
- Tôi quên cho anh hay, súng hai nòng của anh bị quân gian cuỗm mất từ…
- Chúa ơi ! Ngồi đó mà kể lể… đưa ngay cái súng của anh cho tôi, coi nào !
Bác sĩ Vệ kêu thất thanh :
- Anh làm gì vậy ? Lên xe ngay ! Minh Sơn ơi, tôi không muốn anh hứng chịu…
- Vô ích ! Tôi biết rõ sức ngựa hơn anh. Họ sẽ đuổi kịp ta nếu có tôi. Để tôi chặn đường chúng. Anh và San đi ngay đi thì hơn.
- Đừng nói chuyện điên rồ ! Minh Sơn ! Lên xe ngay !
Cha San nói và đưa tay chực kéo bạn, giọng ông nghẹn lại vì quá xúc động. Minh Sơn khăng khăng :
- Để tôi ở lại. Tôi thề rằng chúng không qua được khi anh và thằng bé chưa thoát hiểm ! Đi đi ! Đừng làm như bọn phụ nữ hèn yếu… Vệ à ! Đừng do dự. Anh phải nghe tôi ! Đừng cãi lại ý định chính đáng của tôi, đừng làm cho sự cố gắng của tôi hóa thành vô ích ! Thúc ngựa nhanh lên ! Vệ!
San chỉ còn trông thấy nét mặt cương nghị của Minh Sơn – mũ lông cừu của ông ta rơi mất từ bao giờ – với tóc mầu hung đỏ rối bời trước gió… Một viên đạn nã vào ông, ông vội vàng giấu cánh tay đang tuôn máu ròng ròng ra sau lưng, giục bạn :
- Đi mau đi ! Vệ ! Chúng không bắt sống được tôi đâu ! Đừng sợ hão !
Giọng đẫm nước mắt, San kêu lên :
- Bác Minh Sơn ! Cháu không muốn bác hy sinh…
Minh Sơn quát lên :
- Chúng nó sắp đến kìa ! Đi đi thôi ! Gia roi mạnh vào, Vệ ! Ta sẽ gặp nhau mà San ! Tạm biệt nhé? Chúc may mắn, nhé? Đừng khóc San !
Bác sĩ Vệ giơ cao ngọn roi, cậu thiếu niên hoa mắt lên. Chiếc xe lao tới như một mũi tên. Trong đám sương mờ phủ vây quanh họ, cậu còn kịp nom thấy lằn đạn từ nòng súng của Minh Sơn phát ra : một trong số hai tên kỵ mã từ sườn núi trờ ra bị rớt khỏi yên ngựa, chân hắn bị vướng trong bàn đạp và trong cơn hoảng hốt, con ngựa cuống cuồng kéo lê xác hắn chạy một đoạn dài. Chiếc xe chở cha con cậu khuất xa, tiếng súng loạn xạ không ngừng nổ chứng tỏ Minh Sơn vẫn chiến đấu gạn dạ để cứu bạn và thiếu niên…
Rồi thì im bặt : yên lặng như thể không có gì xảy ra. San biết rằng bác Minh Sơn liều mạng, khó lòng thoát chết và cậu nghe đau nhói tận tim, song cậu không dám khóc, vì muốn xứng đáng với gan dạ bác ta.
Cậu quay nhìn cha, nét mặt ông ủ dột quá cho đến nỗi, cậu nghĩ rằng im lặng để chia xẻ nỗi lòng ông hơn là cất tiếng nói một câu gì, dù là một câu đề cao người bạn thiết của cha.
Chương 02
San tưởng chừng như thời gian chạy trốn kéo dài vô tận, không phải là thời gian tính bằng tuần, bằng ngày hay đêm như những người không bị rình rập, săn đuổi không ngừng.
Thoạt đầu, cha con cậu sang Đức. Trên những chuyến xe tốc hành, San luôn luôn thấy cha nhìn đăm đắm về phía cửa kính mở ra dọc hành lang, hành khách hay qua lại. Cậu cũng nơm nớp sợ, nhất là mỗi lần nghĩ đến việc đã xảy ra, son rồi cậu thiếp đi vì quá mệt mỏi. Trong cơn mơ, cậu thấy mình bị rượt trên cánh đồng băng giá, máu kẻ thù và máu của cha con cậu loang loáng trên mặt tuyết, và cậu tỉnh giấc tức thì.
Trên giường ngủ của toa tàu, qua ngọn đèn xanh nhỏ, San nhìn thấy đôi mắt cha sáng quắc, ông không ngủ vì ông phải thức canh chừng tất cả những người qua lại ngoài hành lang. Biết đâu trong số đó lại không có kẻ đang rình rập tìm kiếm cha con ông !
- Ngủ đi con !
Giọng người cha trầm trầm âu yếm, nhưng cậu con trai đang sợ hãi vì cuộc rượt đuổi rùng rợn trong mơ.
Trời mưa khi tàu đến Bá Linh. Bác sĩ Vệ nắm tay con trai bước mau qua những con đường tối mịt – không, phải nói là ông lôi tuột cậu đi mới đúng. Đến một hiệu may, cha con cậu cởi bỏ áo choàng lông thú, ủng và mặc một thứ y phục khác, sang hơn. Họ cũng giữ một phòng tại khách sạn.
Và rồi, San ngạc nhiên thấy cha lại lôi mình đi hết trạm này đến trạm khác, nhiều lần thay đổi hướng đi trong hầm tàu điện ngầm, sau cùng họ đến ngủ ở một khách sạn khác. Tuy nhiên, San không dám hỏi cha.
Tại biên giới Pháp-Đức, trời cũng mưa tầm tã khi nhà Đoan khám xét hành lý hai cha con. Mưa vẫn rơi đều trên những cánh đồng và những khu rừng trọc dọc theo thiết lộ, con tàu ngừng lại hầu hết các ga nhỏ giây lát rồi lại đi, tiếng còi rít lên như một quái vật lạc trong sương đang dò dẫm tìm đường giữa những làng mạc thưa thớt của đồng quê xứ Pháp.
San không biết tên thành phố cha con cậu đặt chân xuống. Những mái nhà lợp bằng đá xanh, lấp lánh dưới cơn mưa.
Từ nhà ga đến thành phố phải đi ngang một cái đập nước, qua một con kinh nhỏ, mầu nước vàng đục, chạy suốt ngoại ô, vài chiếc thuyền máy đậu trên bến vắng. Ông Vệ phải dừng lại vài bận để hỏi thăm đường. Đến một con hẻm hẹp phía sau nhà thờ, có khu vườn, ông đến trước một cửa hàng bán đổ cổ và đẩy cửa bước vào. Cái chuông cửa reo lên. Một ông lão nhỏ bé, lưng còng tiến lại mở cửa. Trong kho ngổn ngang những thứ nhập nhằng không tên tuổi. Dưới cái mũ nồi cũ kỹ, nom ông ta cũng phong trần như mớ đồ cổ chất trong phòng. Bộ râu thưa và cặp mắt thì, chao ơi ! Thoạt nhìn, San chợt nhớ đến đôi mắt sắc lạnh của bác Minh Sơn khi ra lệnh cho cha cậu ra roi. Nắm chặt tay cha San, ông lão nói :
- Rất khó nhận ra anh, Vệ ạ ! Hãy coi nhà Lê Đích này như là nhà của chính anh, tôi rất mừng được tiếp cha con anh.
- Tôi sẽ không ở đây lâu.
- Thì đã hẳn…
- Bác có nhận được điện tôi gửi từ Bá Linh chớ ?
- Có, có ! Và tôi đã cố gắng hết sức mình, tuy thì giờ rất hạn hẹp. Anh yên tâm đi ! Mọi việc đậu vào đấy như ý anh, Vệ ạ !
- Lê Đích này, anh biết chớ, tôi không quan tâm đến mạng sống tôi nhưng…
- Dĩ nhiên…
- … Anh biết chớ ? Tôi không có quyền tiêu hủy công trình nghiên cứu của tôi, tôi sẵn sàng chết nếu biết rằng kết quả công trình đó không lọt vào tay bọn Quốc Xã khát máu.
- Làm sao chúng dò biết được công việc của anh ?
- Làm sao à ? Màn lưới gián điệp của chúng giăng khắp Âu Châu… và còn xa hơn nữa. Lê Đích ơi ! Rồi anh xem, chiến tranh sắp bùng nổ nay mai.
- Chiến tranh ?
Giọng ông già hơi run. Bác sĩ Vệ gằn từng tiếng :
- Phải ! Ba Lan yêu quí của chúng ta sẽ là nước đầu tiên bị chiếm…
- Còn những bí mật của anh ? Anh chưa cho tôi biết chi hết ?
- Những nhà bác học khác đang cố gắng trong phạm vi mỗi người để tìm tòi… nghiên cứu. Rồi đây, khoa học nguyên tử sẽ phát giác nhiều điều làm đảo lộn thế giới. Còn tôi thì… tôi đã tìm thấy rồi, tôi sắp đến đích, tôi đi trước họ. Nhưng tôi không bán công trình nghiên cứu của tôi cho bọn phi nhân, dù là chúng đã đề nghị trả cho tôi rất nhiều vàng. Vì vậy, chúng đã lẻn đến lục tìm trong phòng giấy tôi để ăn cắp tài liệu mật ấy, chúng đã phá đập của tôi nhiều thứ - sau khi không thuyết phục tôi sang Bá Linh để làm việc cho chúng được. Anh ngạc nhiên hả ? Chưa hết đâu : chúng còn âm mưu bắt cóc thằng San khi nó cỡi ngựa dạo trong rừng…
- Chúa ơi !
- Chúng không từ một hành động ghê tởm nào. Đáng ra, tôi phải rời Ba Lan sớm hơn…
- Thế giờ anh định ở đâu đây ? Ở đâu cha con anh khỏi bị đe dọa, hả Vệ ?
- Tôi đã suy tính kỹ và bây giờ chỉ còn một chỗ : Phi Châu !
- Nhưng anh có quen ai không đã chứ ?
- Trước đây, mỗi năm tôi đều có nghỉ hè ở Soudan, Lobi và quen với những tay săn bắn ở đó…
- Ờ, tôi quên anh là tay thiện xạ. Thế thì yên tâm lắm. Này, tôi đưa giấy tờ cho anh ngay chứ ?
Vừa nói, ông ta vừa kéo một cái ngăn tủ lấy giấy tờ căn cước giả cho cha San. Ghé mắt nhìn vào một lúc, cha San gật gù :
- Được quá đi chớ, chỉ thiếu hình ảnh và con dấu.
- Anh đưa ảnh anh đây cho tôi dán vào, còn con dấu thì khỏi lo, ngay đêm nay tôi sẽ khắc xong. Anh đừng nghi ngờ những ngón tay nhà nghề của tôi, dù rằng thú thật với anh, chúng có hơi run…
- Tôi biết… tôi biết mà Lê Đích, làm sao tôi lại không nhớ anh là thợ khắc con dấu tại Ngân Hàng Quốc Gia Vạt-xô-vi chớ ! Nhờ anh, cha con tôi sẽ là dân Pháp, tôi có thể qua mặt bọn chó săn một cách dễ dàng. À, Lê Đích, anh đặt cho con tôi tên mới là gì đấy ? Tên thật nó là San, Hoàng Đình San đó nghe !
- Hoàng Đình San ! Tên tốt đấy, nhưng từ nay nó sẽ là Lê Hữu Hà, chịu không ?
Thế là lần đầu tiên, San bị đổi tên, dùng thông hành giả mạo để tránh con mắt bọn gián điệp Quốc Xã theo dõi cha con cậu từ đầu cuộc hành trình.
Mặc dù trời chưa hết mưa, vẫn có những cô cậu ngụy trang đi ngang phố vừa hát vừa thổi sáo. San dán mắt qua khung kính mờ đục ẩm ướt, cậu thấy họ dừng lại trước mỗi nhà, xin bột, trứng, đường để dùng làm bánh trong đêm Phục Sinh.
Chốc chốc, chuông cửa nhà Lê Đích lại reo lên : một khách hàng hỏi thuê thứ y phục dùng để hóa trang làm một tên hề hay vị bá tước chẳng hạn. Lê Đích vui vẻ mở tủ lớn ra, mùi long não thơm ngát ùa ra khỏi cửa kính, ập vào mũi mọi người. Lê Đích cũng đưa cho San một cái mặt nạ, mắt trắng dã, môi dày và tím sẫm, da đen sì. Nhìn vào gương thiếu niên chợt phì cười quên cả lo âu đè nặng trong tim.
Cha con cậu dùng cơm tối với Lê Đích nhưng không nghỉ đêm tại nhà này.
- Thế là dại dột đấy, Vệ ơi ! Ở đây an toàn mà…
- Tôi cảm ơn anh, nhưng không thể chần chờ. Mấy giờ có tàu đêm ?
- Có nhiều chuyến tàu đêm và một chuyến tốc hành đi Ba-lê vào nửa đêm.
- Tôi sẽ đi chuyến tốc hành đêm nay.
- Không nên ! Đừng để chúng được dịp may. Bọn chúng có nhiều tai mắt. Hãy đợi trời thật tối tôi sẽ đóng cửa hiệu rồi đưa cha con anh ra vườn song không phải để đến nhà ga…
- Anh nói gì vậy ? Tôi không hiểu nổi, nói rõ xem, nào !
- Nghe đây, Vệ ! Những người bị săn đuổi luôn luôn vội vàng nóng nảy : tìm cho bằng được mọi cách để thoát hiểm, thế là lao đầu vào bẫy. Phải bình tĩnh : phải tránh những chuyến tàu tốc hành, những nhà ga… Khi con mồi chạy sau con chó săn thì ít nguy hiểm hơn, anh hiểu ý tôi chưa ?
- Hiểu ! Nhưng tôi hỏi anh, chả lẽ cha con tôi cuốc bộ giữa quốc lộ ?
- Không ! Đừng dùng đường bộ, những cái xuồng máy chậm chạp dọc theo các con kênh, theo sông…
Ông ngừng nói vì một chú bé vào hỏi mua mặt nạ, ông già chộp lấy cơ hội tốt :
- Tao sắp đóng cửa không buôn bán gì nữa, nhưng tao có thể cho mày cái mặt nạ với điều kiện mày giúp tao một việc nhỏ, rất dễ dàng. Nghe đây ! Đạp xe xuống kênh xem chiếc Ngọc Mai còn đó hay đã nhổ neo.
- Tưởng gì, thế thì khỏi phải đi, vì chính tôi ở gần đập nước, khi đến đây tôi trông thấy nó còn buông neo chỗ mỏm đất đen.
- Tốt quá, thôi ! Cháu chọn mặt nạ đi ! (và đợi cho chú bé chọn mặt nạ xong, đi về rồi, ông ta bảo bạn) May cho anh biết ngần nào : tôi quen người chủ cái thuyền máy này, anh ta tốt lắm và sẽ không từ chối gì đối với tôi. Đợi đó nhé : Tôi sẽ trở về ngay, tôi cần thu xếp với anh ta trước.
Quả vậy, 15 phút sau, ông ta trở về, vứt cái áo choàng ướt sũng trên ghế dựa, giọng vui vẻ :
- Mọi sự êm xuôi. Thuyền trưởng Dũng sẽ cho anh quá giang, nhưng đợi chút nữa, anh có tiền Pháp chứ ?
- Không, nhưng tôi có vàng…
- Không nên, để tôi đổi cho anh ít tiền quan cho tiện.
Cha San tháo cái thắt lưng da ra. Lê Đích kêu lên :
- Anh có cả một gia tài nhỏ, nhưng tôi không có đủ số tiền quan đổi cho anh đâu. Tôi có ít thôi.
- Không sao, anh có thể giữ hết, tôi không cần phải mang theo nhiều làm gì.
- Tại sao lại tôi giữ ? Anh phải mang theo chứ ? Ai biết cái gì xảy ra ngày mai ? Anh không định tiếp tục việc nghiên cứu sao ?
- Tôi nghĩ đến điều này luôn đấy chứ, nhưng mà… không rõ mình có tiếp tục được chăng nếu chiến tranh bùng nổ nay mai.
- Anh thì chỉ nghĩ đến chiến tranh…
- Nhưng nó sẽ là sự thật, ta không nên trốn tránh sự thật, ta phải đối mặt với nó, Lê Đích ạ !
Mưa dứt hạt, Lê Đích đưa cha con bác sĩ ra vườn. Ở khu công viên người ta nhảy múa vui vẻ, vô tư và những chùm đèn sáng rực cũng đong đưa theo gió. Cha con cậu nhập vào đám đông và được đưa theo một hình vòng tròn. Dù sao, San vẫn còn bé quá, cho nên chỉ lát sau, cậu cũng vui vẻ nhảy múa, hát reo, quên phắt mình là kẻ đang bị săn đuổi, đang trên đường trốn chạy.
San như bị vùi trong rừng hoa giấy và công-phét-ti đủ mầu. Khỏi công viên một quãng, trời trở thành tối om, những ngọn đèn đường vàng vọt cách khoảng nhau rất xa, thuận tiện cho cha con San hơn, và đưa họ về phía ngoại ô vắng vẻ.
Bờ kênh hiu quạnh, chỉ duy một chiếc thuyền thả neo xa đập, đợi chờ.
***
Thuyền trưởng Hồ Minh Dũng không có thủy thủ, ông kiêm nhiệm đủ việc trên thuyền : điều khiển máy, nấu ăn, rửa sàn tàu. San được ru ngủ bởi tiếng động cơ đều đặn. Họ trải qua ba ngày liên tiếp như thế. Ông ta rất ít lời, chỉ trao đổi những câu cần thiết với khách hàng. Đôi khi, ông trò chuyện với con mèo đực của ông, một con mèo rất lớn cứ mỗi tối, sau bữa ăn lại giương cặp mắt xanh nhìn chằm chằm vào những quân cờ của chủ (thuyền trưởng đánh cờ một mình, không có đối thủ : khi thì ông đi nước cờ trắng, khi ông đi những quân cờ đen).
Ông ta đổ cha con San tại Ba-lê, bến chỗ cạnh nhà thờ Đức Bà. Cha con San lên bộ, nghỉ đêm tại một khách sạn khu sinh viên.
Cha San dùng điện thoại giữ chỗ tại hãng Hàng không Pháp để hôm sau đi Dakar. Và sáng hôm sau, cha con cậu từ biệt Ba-lê, lên tàu tại phi trường Orly.
Với cậu bé thì những lo âu trong quá khứ như tuồng được chấm dứt và cuộc du lịch thích thú bắt đầu : Casablanca, Dakar… rồi một cuộc đổ bộ ngắn ở phi cảng để chờ máy bay nhỏ đi Bamako. Tại nơi này, máy bay lại hạ cánh giây lát rồi cất cánh một cách khó nhọc trên những ngọn đồi mầu sét rỉ vùng Koulouba, lắm lúc San như nghẹn thở vì tưởng máy bay đâm sầm vào sườn núi.
Dòng sông Niger chảy lặng lờ và trải dài như một tấm thảm bạc, rừng núi mầu hung đỏ rồi thì rừng già mênh mông xanh thẳm, đặc nghịt, lùn tịt trên mặt đất bị chia cắt do những nhánh sông, nhỏ như sợi chỉ.
Khi máy bay sà thấp, San thấy tấm thảm xanh úp xuống khu rừng nổi lên và lớn dần ra, xao động như sóng bể, vài chỗ đùn cao như những hòn đảo, những cánh đồng cỏ mầu nhạt hơn, những chấm đen của các túp lều trong làng chìm giữa khu đất hoang vu, xa lạ. Rồi thì xa hơn, những túp lều san sát liền nhau ở đáy thung lũng như một đàn voi.
- Sắp đến Bobo – Dioulasso rồi đấy, San ạ !
San thấy thành phố như một khu vườn được chăm sóc kỹ càng với những con đường bằng đất đỏ, hai bên là những cây sao. Máy bay bay dọc theo một dòng sông cạn nước, hai bên đầy những căn lều bằng đất chen chúc như ổ chuột. Vài đứa trẻ trần như nhộng giơ tay vẫy vẫy con chim sắt khổng lồ.
Đó là trạm cuối trước khi cha con San đến Lobi.