Lữ Quán Giết Người Chương 5 & 6

Chương 5

Đêm ấy xe ngựa trở lại. Nàng thức giấc lúc hai giờ sáng. Nhìn ra cửa sổ, cô gái thấy chỉ có hai xe thôi. Cỡ sáu người tất cả. Những xe ngựa có vẻ kỳ bí và giống như xe tang. Bóng người di động trên sân lặng lẽ. Mary tưởng như đó là hình ảnh của một ảo mộng.

Nhưng đó là sự thật, các xe đều trống rỗng, hàng hóa từ trong phòng được khuân ra, chất ngập xe.

Tại Helford, ít ai nói tới chuyện buôn lậu, mà có nói đến thì bằng nháy mắt và nụ cười khoan thứ, y như những chai rượu lậu chỉ là một xa xí phẩm vô hại chứ không phải là một tội ác đè nặng lương tâm. Đây khác hẳn: bọn bất lương đã nhúng tay vào máu người. Kẻ nào thấy lương tâm cắn rứt, thì sẽ lãnh một sợi dây tròng vào cổ như nàng đã thấy.

Tổ chức của Joss nhu một vòng xích sắt: không có khoen nào được yếu. Bỗng Mary có cảm tượng Jean đến với mục đích rõ ràng: Hắn báo trước cho anh biết xe đến đêm nay. Mary chợt giận mình quá đỗi, vậy mà nàng tưởng sẽ là bạn với Jean. Anh em họ cộng tác với nhau, rõ ràng quá. Chắc một điểm lương tâm vùng dậy, ngo ngoe trong chốc lát, xui anh ta quan tâm đến số phận Mary, khuyên nàng rời lữ quán, vì anh ta biết rõ cái gì đợi Mary.

Vậy mà cô lại vướng víu bà dì như vướng bận đứa con nhỏ còn ẵm ngửa, có bực không?

Các xe đã đầy nhóc hàng hóa, chúng lặng lẽ lần lượt rời lữ quán.

Công việc đêm nay nhanh chóng hơn lần trước. Cũng không có ai đột nhập bí mật vào như lần trước, trò chuyện cùng chủ quán...

Nhiều ngày tiếp theo, không có gì xảy ra. Những chuyến xe chạy ngang, lủi nhanh như một con bọ hung bị đuổi.

Một sáng kia trời lạnh, đá phủ ngập sân, mặt trời le lói giữa bầu trời trong sáng. Núi đá sừng sững mầu xanh thẫm, các vũng lầy thường ẩm và nâu hôm nay cũng hóa trắng, lấp lánh ánh nắng chan hòa.

Gió thổi nhẹ. Mary bớt nản khi thấy mặt trời. Nàng mang áo quần đi giặt. Nước ấm và bọt xà phòng làm nàng thích thú, vừa hát vừa làm việc. Sáng nay, Joss lên ngựa ra đi.

Mỗi lần lão đi, Mary thấy nhẹ nhõm lạ. Bỗng có tiếng gõ vội vàng nơi cửa kính. Mary quay lại nhìn, dì nàng tái xanh ra hiệu cho nàng vào nhà. Mary vội chùi tay vào tập dề, chạy vào cửa sau, dì ôm lấy Mary run rẩy, lắp bắp không ra tiếng. Mary trấn an dì:

- Có gì vậy, thưa dì? Đừng sợ, dì cứ thong thả nói... Dì ngồi xuống đi!

Nàng nói và dìu lại ghế. Dì Patience cắn môi, hất hàm chỉ ra cửa, thì thào:

- Ông Bassat đến! Ông đến với một người nữa! Chúa ơi! Ta làm sao đây, hở Mary?

Tiếng dì nghẹn trong cổ họng trong lúc tiếng gõ cửa cấp bách hơn. Dì nói như rên:

- Ông tới làm chi hở trời? Ông ấy có tới đây bao giò đâu? Chắc ông ấy nghe chuyện gi rồi. Mary! Làm sao?

Mary suy nghĩ thật nhanh: nếu đại diện pháp luật đến thì còn đợi gì nữa? Nàng sẽ kể hết, sẽ tố cáo không sót một chi tiết nhỏ. Nhưng dì nàng run rẩy nắm chặt tay nàng, van vỉ:

- Mary! Cháu hãy cứu dì! Cháu hãy thương dì... Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ấy, dì chết mất! Cháu ơi! Mary...

Tiếng gõ cửa càng gấp. Mary nói:

- Dì cứ yên tâm. Ta phải mở cửa cho họ vô nhưng dì đừng kể lôi thôi chi cả. Cứ nói chú đi vắng và dì không biết gì là yên. Có cháu đứng bên dì, đừng sợ.

Mary lại mở cửa. Hai người lại đứng ở cổng. Một người to lớn cưỡi con ngựa ô tuyệt đẹp, mặc áo choàng, mũ gần kín mắt, khoảng 50. Ông quát:

- Làm gì lâu lắc vậy? Coi bộ lữ quán này không muốn tiếp khách hàng phải không? Chủ nhân đâu?

Dì Patience đẩy cháu tới trước. Mary điềm tĩnh:

- Ông Merlyn đi vắng. Nếu ông muốn giải khát, xin mời hai ông vào, chúng tôi xin hầu...

- Hừ! Hết chỗ rồi sao đến đây giải khát? Ta muốn gặp chủ nhân. Bà này là vợ Merlyn, bao giờ chồng bà về?

- Dạ thưa ngài, nhà tôi đi từ sáng sớm và không biết có về kịp tối nay không?

- Phiền chưa! Tôi muốn nói chuyện với ông ta. Này, bà Joss! Dù chồng bà đã lừa tôi mua được lữ quán này, nhưng tôi cũng không đến đây vì chuyện đó nữa. Điều tôi không dung được là đất đai quanh đây của tôi bị mang tiếng vì chuyện bất lương xảy ra khắp vùng...

- Thưa, tôi không hiểu ngài muốn nói chi? Chúng tôi sống thật yên tĩnh. Có cháu tôi đây, biết rõ...

Hai tay đan vào nhau, dì Patience nói:

- Thôi! Tôi không ngu đâu. Tôi để ý lữ quán này lâu rồi. Lữ quán này làm cho dân quanh đây đến tận bờ bể đều khiếp đảm. Chớ giở trò đóng kịch với tôi.

Tên giúp việc nắm cương ngựa cho chủ nhân bước xuống. Ông Bassat nói:

- Nhân dịp này, ta cần xem xét khắp nhà. Bà đừng phản đối vô ích. Ta là quan tòa, có giấy khám nhà đây.

Ông vượt qua hai người, bước vào trong. Bà dì giơ tay ngăn, nhưng cháu bà khuyên:

- Dì nên để ông ấy khám. Ngăn lại chỉ tổ ông nổi giận lên.

- Chúa ơi! – Ông Bassat kêu to – Sao mà giống nhà mồ quá! Các người làm sao nên nỗi này? Xưa kia lữ quán xinh xắn bao nhiêu! Bàn ghế đâu?

Ông xông vào phòng khách và trỏ những vách ẩm ướt:

- Không bao lâu nữa mái nhà sẽ đổ ập xuống cho xem! Đời tôi, tôi chưa từng thấy sự bê bối đến mức này. Nào! bà đưa tôi lên lầu coi.

Mặt tái xanh, dì Patience quay về phía cầu thang mắt tìm Mary để trấn tĩnh. Mỗi góc nhà đều được ông Bassast ghé mắt nhìn, ông giở từng cái bao cũ, quan sát đống khoai tây. Miệng ông không ngớt quát tháo vì kinh tởm và giận dữ:

- Đây là lữ quán ư? Không có lấy một cái giường? Mọt ăn từ trên xuống dưới, bẩn thỉu hôi hám... Bà hóa câm rồi sao, bà Merlyn?

Dì Patience chỉ lắc đầu, ông Bassat quay sang cô gái:

- Vậy còn cô? Cô có gì nói không?

- Thưa, tôi mới đến đây, mẹ tôi mất nên tôi đến ở với dì tôi. Dì tôi không được mạnh trong mình, thần kinh yếu...

- Sống ở đây thì thần kinh yếu là phải. Nào, cô dẫn tôi đến căn phòng kín mịt dưới kia xem!

Dì Patience nhìn Mary trân trối. Mary gượng làm gan:

- Thưa, ông muốn nói căn phòng làm kho phải không ạ? Chú tôi đã khóa lại trước khi đi, và tôi không biết chìa khóa ông ấy để đâu hay mang theo.

- Vậy thì hỏi coi bà ấy có cất hay không?

Dì Patience lắc đầu lặng lẽ.

- Được! Không sao! Ta đập gãy cửa mà vào!

Nói xong, ông ra sân gọi người giúp việc. Mary nắm tay dì thật chặt:

- Dì đừng run, người ta biết. Cứ phớt tỉnh. May ra...

Gã người làm cầm thanh sắt lăm lăm trong tay. Gã có vẻ hài lòng vì công tác chủ giao phó. Mary hẳn sung sướng nếu không có dì bên cạnh. Lần đầu, nàng được ghé mắt vào căn phòng bí mật. Nhưng nếu họ khám phá ra cái gì thì hai dì cháu sẽ liên lụy, làm sao chứng minh là mình vô tội? Ai tin được nàng, khi dì nàng mù quáng bênh vực kẻ bất lương? Nàng bối rối đứng nhìn thanh sắt đập đùng đùng vào then cửa, tiếng động vang lên chát chúa. Khá lâu cửa mới gãy nghe răng rắc và bật ra. Dì nàng kêu lên trong lúc ông Bassat đẩy bà qua một bên, lấy lối đi vào. Richards vuốt mồ hôi bò dài xuống mặt.

Căn phòng tràn bóng tối, mấy chồng bao sắp dọc theo cửa sổ đóng kín. Ông tòa hét:

- Đem cho ta mẩu nến coi! Y như đáy giếng...

Richards rút trong túi mẩu nến bật diêm đốt lên trao cho chủ, ông cầm giơ cao lên bước tới.

Ông soi vào từng góc, trong lúc tất cả lặng im. Ông tỏ vẻ tức tối vì thất vọng:

- Lạ thật! Không có gì cả!

Trừ chồng bao trong gốc, phòng trống trơn. Bụi và mạng nhện chen nhau trải khắp phòng. Không bàn, không ghế, không tủ giường chi hết. Ống khói cũng bịt kín mít. Trên chồng bao, có sợi dây thừng.

- Được! Lần này tôi thua lão Merlyn! Nhưng có một ngày, hắn sẽ đền tội xứng đáng!

Ông quay ra. Gã Richards dắt ngựa lại cho chủ. Ông lại hỏi cô gái:

- Này, cô nên nghe tôi, dì cô chắc câm và không còn trí nhớ. Cô hiểu tiếng Anh chứ? Đừng giả vờ không biết gì cả về hành động cũng Merlyn. Hãy cho tôi biết có ai đến đây, ngày hoặc đêm?

Mary nhìn thẳng vào mắt nguời hỏi (lần thứ nhất vì dì nàng, nàng nói dối trơn tru):

- Quả thật chưa bao giờ tôi thấy ai đến, ngày cũng như đêm. Vả lại tôi ngủ say quá, vì vất vả cả ngày.

- Cô biết vì sao phòng kia kín mít? Cô đã vào lần nào chưa?

- Dạ chưa và tôi không hiểu ý chủ nhân nổi, ông là một người kỳ lạ.

- Đúng, kỳ lạ lắm: lữ quán mà không tiếp khách... Kỳ lại đến nỗi dân quanh đây chỉ có thể yên giấc khi Merlyn bị treo cổ như cha hắn trước kia. Cô nói lại với hắn khi hắn trở về, nói y như tôi nói, nghe?

- Thưa ông, tôi sẽ nói đúng như ông dặn.

- Này, cô không ngán phải sống với một người khùng như bà Merlyn ư?

- Thưa ông, đó là em ruột mẹ tôi...

- Cô thông minh, nhanh trí lắm. Nhưng tôi không ao ước làm cha mẹ cô. Thà tôi thấy con tôi nằm dưới đất còn hơn để sống trong lữ quán Giao Mai với kẻ bất lương. À, quên, (ông đã bước ra rồi lại quay vào) cô có thấy Jean Merlyn, em ruột chủ quán không?

- Thưa ông, chưa. Tôi chưa hề nghe đến tên này.

- Thật ư? Tốt lắm. Thôi, chào cô!

Đợi cho người ngựa khuất sau đồi, Mary mới nói với dì, giọng hằn học trong lúc bà ngồi bệt xuống thở hổn hển:

- Thôi, hết nguy hiểm rồi. Dì nên bình tĩnh lại. Dì chú đã qua mặt ông tòa mà khỏi bóp kèn... Tài quá!

Nàng rót nước uống một hơi, mất hết cả dịu dàng, kiên nhẫn. Nàng đã nói dối để cứu kẻ ác, trong lúc nàng chỉ muốn khai toạc hết sự thật. Nàng đã thấy sợi dây, nàng muốn Joss bị treo cổ bằng chính sợi dây hắn dùng treo cổ kẻ lạ trong đêm... Nàng muốn... nhưng vì dì nàng, nàng đã không dám tố cáo kẻ bất lương. Thật ghê tởm: Mary là đồng lõa của quân gian? Uống đến cốc nước thứ hai, Mary lại nhớ mình còn nói dối để cứu Jean, tên trộm ngựa. Nhục nhã, xấu hổ biết ngần nào?

*

Trưa đó, Joss trở về, được vợ đón ở cửa bằng một tràng dài, tiếng nọ dính tiếng kia. Mary ngồi yên ngoài vườn. Nàng thấy chẳng việc gì phải chen vô.

Thỉnh thoảng, Joss gặng hỏi lại đôi câu, giọng bẳn gắt. Rồi ông ta đến cửa sổ, vẫy nàng, mặt cau có:

- Về đây! Kể đầu đuôi nghe coi. Một con vẹt còn nói rõ hơn dì cô...

Mary bình tĩnh kể lại câu chuyện, trừ chuyện ông tòa hỏi Jean. Sau cùng Mary nhắc lại lời ông tòa dặn nàng. Joss im lặng nghe, chờ Mary dứt lời, lão đá cái ghế ra tận cửa, gầm to:

- Đồ hèn! Nó làm gì có quyền xét nhà? Trát tòa gì! Bịa! Vậy mà hai con ngu cũng để nó vô. Sáng nay mà có tao coi, nó sẽ về North Hill mà ngay vợ nó cũng không nhận ra và nó sẽ không còn ra người nữa. Đồ chó má! Nó có quyền sinh sát với ai kìa, chớ tao thì...còn lâu. Rồi nó sẽ van lạy tao cho mà coi. Chà! Hai con ngu sợ dữ, há? Có ngày tao đốt nhà nó cho coi...

Joss la to đến nỗi Mary tưởng tai mình điếc luôn. Nhưng cô gái không sợ tí ti nào. Cô biết đó là một cách...để đỡ tức, không có gì nguy hiểm. (Chỉ khi nào con người này thì thầm mới đáng gớm.) Có thể lão đang sợ cũng nên? Mary lấy làm thú vị và nghĩ đến điều này.

- Lấy gì ăn coi! Ta còn phải đi có việc đây. Patience! Câm họng lại, bà khóc làm ta điên thêm. Mary cô khá lắm. Ta biết ơn cô đó!

- Bộ chú tưởng tôi làm vậy vì chú chắc?

Mary nhìn thẳng vào Joss, hỏi.

- Vì ai thì vì, ta không cần biết. Cắt miếng bánh coi! Đừng nói nhiều.

Xong bữa ăn, Joss ra chuồng ngựa. Mary tưởng lão cỡi ngựa đi, nhưng lão lại thôi, ra bếp, leo rào và đi bộ, băng qua đồng hoang phía sau, tiến về phía núi đá Telbo-Hough. Nàng do dự, không biết có nên thực hiện điều dự tính chăng? Sau cùng, Mary cởi tạp dề, khoác khăn len, chạy theo Joss. Đến đỉnh đồi cô phải nấp sau tảng đá, chờ Joss đi khuất thật xa mới dám theo sau. Cô rẽ cỏ dại, bước tràn trên đá sỏi. Nàng nghi là sự có mặt ông tòa bất ngờ làm cho Joss thay đổi chương trình. Bây giờ đang xế trưa, rất dễ cho nàng theo dõi lão. Đất hơi khô, đá đông cứng, nhưng Mary đã có kinh nghiệm qua những bận đi dạo trước.

Sau vài dặm, cuộc theo dõi bắt đầu khó hơn: nàng phải giữ khoảng cách khá xa mà Joss thì lại đi nhanh. Khỏi núi đá Codda, Merlyn rẽ qua hướng đông, lão chỉ là một chấm đen nhỏ giữa đồng hoang bao la nâu sẫm, dù lão vốn cao lớn.

Chốc chốc, Mary phải dừng chân, lấy tay gạt mồ hôi trán. Trót theo khá xa, Mary không thể bỏ cuộc, ít ra phải khám phá được điều gì mới bõ công chứ? Nàng dẫm trên mặt đất nâu và đầy sình lầy, nước ngấm vào giầy vừa lạnh vừa nặng. Váy nàng bị rách lai vài chỗ và cũng ngấm nước. Đã qua đoạn đường nguy hiểm và phía trước, Joss mờ mờ qua đám cỏ gai rồi khuất sau tảng đá đen ngòm, mất hút.

Giữa bụi rậm và bùn, Mary mất dấu Joss, phần sợ sa lầy nàng phải vòng lên trên và trượt chân mấy bận. Càng lúc đá lởm chởm thêm. Vài con dê rừng nghe tiếng động thò đầu nhìn Mary. Mặt trời núp sau những đám mây từ hướng tây tụ lại. Đồng hoang đổi màu. Im lặng một cách dễ sợ. Khi Mary lên đến ngọn núi, xung quanh toàn mầu xám. Từ các vũng bùn, những làn hơi trắng mờ nhẹ bay lên. Trời như sắp tối. Joss biến mất tăm. Mary tuyệt vọng. Đành quay về thôi, nếu chần chờ, đêm nay nàng sẽ lạc giữa núi đá hay đồng hoang mất. Quả mình ngu - Mary thầm nghĩ. Trời tháng chạp mau tối, hoàng hôn trên đồng rất ngắn, đêm xuống mau không có giai đoạn chuyển tiếp. Mà sương mù càng nguy hiểm: y như một hàng rào trắng dày, che phủ mặt, cách năm tấc, có khi không thấy chi hết.

Mary chạy bổ xuống núi, bóng tối như đuổi gấp sau lưng. Ngay dưới chân nàng là nguồn sông Fowey. Phải tránh nơi đó, vì mặt đất quanh đó rất dễ lún sâu.

Vòng phía trái, Mary thận trọng mỗi bước chân. Khi cô xuống đến đồng bằng, bỏ sau lưng ngọn Brow Willy uy nghi, cô độc thì sương mù và bóng đêm đã ngự trị khắp nơi, làm nàng không sao tìm ra phương hướng.

Nàng cố trấn tĩnh tìm lối về nhà. Quấn chặt khăn quàng và kéo váy lên cao Mary bước nhanh. Bỗng nàng bị con suối chắn ngang, lúc đi đâu có suối? Nàng biết mình lạc đường rồi nhưng vẫn can đảm lội qua, nước lên tới gối. Nàng cho là mình rất may, vì suối không sâu hơn. Mặt đất cao dần; Mary yên lòng bước tới...

Đường như dài bất tận, dẫn đến một ngã rẽ về phía phải. Cỏ mọc um tùm chứng tỏ ít người qua lại nhưng cũng có vết xe ngựa.

Bớt lo lắng, nàng mới thấy mệt lử, cô gái lầm lũi bước, tim đập rộn ràng, hơi thở hổn hển. Nàng nôn nả mong thấy ống khói của lữ quán Giao Mai, như mong gặp bạn thân, nhưng một con đường khác nữa băng ngang giữa lối đi và nàng phân vân không biết nên theo lối nào. Cùng một lúc, có vó ngựa lại gần. Mary đứng lại giữa đường, chờ đợi. Thoáng chốc, bóng ngựa rõ dần, có người trên lưng. Người cỡi ngựa có vẻ sợ khi thấy Mary kêu lên:

- Ai đó? Có người phải không?

Rồi nhận ra Mary, ông ta kinh ngạc, hỏi:

- Một phụ nữ? Trời ơi! Bà đi đâu vậy?

Mary nắm cương ngựa:

- Xin ông chỉ giúp đường về, tôi đi lạc...

- Nhưng cô ở đâu? Tôi sẽ giúp cô.

Giọng ông ta chậm rãi, dịu dàng, Mary đoán là một người có thế lực.

- Thưa ông, tôi ở lữ quán Giao Mai...

Lỡ lời Mary chợt hối. Nghe tiếng đó, chắc ông giục ngựa dông thẳng mất? Người kia im lặng. Mary càng hoảng. Nhưng ông ta lại cất giọng dịu dàng, không thay đổi:

- Vậy thì cô đang cách đó rất xa. Hiện đây là sườn đồi Hendra...

Ông nhìn chăm chăm cô gái, tiếp:

- Cô kiệt sức rồi. Làm sao đi nổi? Vả tôi cũng không nỡ bỏ cô ở đây một mình. Đây không xa làng mấy. Hãy theo tôi, lên ngựa. Đây! Tôi đỡ cô lên!

Mary tuân lời người lạ.

- Hãy về nhà tôi, sưởi ấm và khô giầy áo, ăn chút gì đỡ lòng rồi tôi đưa cô về lữ quán.

Giọng ông ta âu yếm nhưng trang nghiêm, Mary muốn quên hết, tuân theo để được nghỉ ngơi giây lát. Nàng cho là may mắn nàng đã gặp người khả kính. Khi ông ngước mắt nhìn lên, Mary thấy rõ mặt ông ta: đôi mắt lạ lùng, trong như thủy tinh, gần trắng nhợt. Mary cảm thấy ông ta soi thấu tâm can mình. Tóc ông ta cũng trắng toát. Kỳ quá: ông ta đã già đâu? Khuôn mặt, giọng nói đều chứng tỏ ông ta còn trẻ. Nàng bối rối trong một thoáng khi nhận ra điều này: ông ta bị chứng bạch tạng.

Người lạ giở mũ, nghiêng mình, tự giới thiệu:

- Mặc dù cuộc gặp gỡ bất ngờ, tôi cũng cho cô biết: tôi là Francis Davey, linh mục phó xứ Altarnun.

Chương 6

Khung cảnh trong nhà êm ả, đặc biệt làm Mary tưởng đây là một căn nhà trong truyện cổ: có hàng rào gai mà anh hùng trong truyện sẽ chặt để lấy lối đi, bên trong là vườn hoa đủ loại. Dưới khung cửa sổ, hoa mọc từng khóm và huệ trắng vươn cao, dây leo mọc phủ vách, che khuất luôn cổng ra vào và ngôi nhà như... yên ngủ từ lâu lắm.

Mary chợt mỉm cười vì tưởng tượng của mình. Nàng lại đưa tay hơ trên lò sưởi. Sự im lặng làm nàng thích thú, thấy khoẻ và hết sợ. Khác xa lữ quán Giao Mai: không nặng nề, bừa bãi, đầy đe dọa. Tủ ghế, bàn, cả những tranh treo trên vách đều tỏa ra sự ấm cúng tuy không thân mật.

Xưa kia, chắc đây đã có một cuộc sống bình thản và hạnh phúc. Giờ, những kẻ ấy đã nằm yên trong nghĩa địa, tên họ trên bia đá bị rong phủ kín và người còn lại tôn trọng họ, giữ nguyên mọi vật trong nhà?

Mary chăm chú nhìn Francis trong lúc ông ta dọn bàn ăn, rồi lại quan sát khắp phòng. Nàng không thấy vách treo tượng ảnh các vì Thánh và tượng Chúa như thông thường. Bàn làm việc bóng nhẵn, không giấy tờ chi.

Trong một góc, có một giá vẽ, trên có tấm tranh chưa hoàn thành. Bức vẽ ao bùn Dozmary. Hình như cảnh vẽ trong một ngày u ám nên trời đầy mây và nước mầu xám, không có gió. Mary không biết gì nhiều về hội họa, nhưng cô công nhận bức vẽ này tràn sức mạnh. Như có mưa tạt vào mặt nàng.

Linh mục để ý đến hướng nhìn cô gái, ông lại gần, úp giá vẽ xuống:

- Đừng nhìn bức này. Tôi vẽ vội vàng và cũng không rảnh để hoàn thành nó. Nếu như cô muốn xem tranh, sẽ có bức khá hơn. Nhưng hãy ăn đã.

Có người dọn cho ăn là một chuyện lạ với cô gái quê. Nhưng vẻ tự nhiên của linh mục làm cô yên lòng, ông nói:

- Hannah ở dưới làng. Cứ đến 4 giờ chiều là bà về. Tôi thích một mình hơn. Cũng may, bữa nay bà ấy có làm một ổ bánh táo. Hy vọng cô nuốt trôi, vì bánh bà ta làm tệ lắm kìa.

Ông pha trà và kèm cho Mary muỗng kem! Nàng vẫn còn lạ với mầu tóc, đôi mắt ông. Chúng khác hẳn giọng nói. Cái áo dòng đen càng làm nổi bật chúng lên. Mary mệt và lạ, nên linh mục để nàng ăn từ từ chậm rãi. Có lúc nàng thấy như mắt ông là mắt người mù. Khi thì cái nhìn sắc lạnh nhu xoi bói. Ông nói:

- Cũng may mà tôi gặp cô giữa đồng hoang. Vì công việc, đôi khi tôi phải đi xa. Bữa nay tôi đến giúp một sản phụ. Người ở đồng quê chất phác lắm. Tôi rất quí họ.

Mary không nói gì. Mary đang nhớ đến bọn người hung bạo đến lữ quán trong đêm. Linh mục hỏi:

- Cô đi đâu mà lạc vậy?

Mary nhìn linh mục, thốt nhiên nàng thấy cần giao phó mọi sự trong tay ông:

- Con có điều lo quá. Đôi khi con sợ sẽ giống dì con. Chắc cha đã nghe người ta nói đến lữ quán Giao Mai? Con ở đó một tháng mà như 20 năm! Chỉ vì dì con mà con không thể ra khỏi đó...

Linh mục nhìn nàng vẻ âu yếm và khuyến khích. Maary tuần tự kể hết mọi điều: bọn người lạ, những kiện hàng, sợi dây, cái chết của người đàn ông, ông Bassat... và dự tính của nàng.

Nhưng chợt, Mary dừng lại. Nàng có cảm tưởng như mình kể chuyện hoang đường, như linh mục cố gắng để khỏi chế giễu nàng. Ngay cả nàng, nàng cũng cảm thấy như... mình bịa chuyện. Tại sao thế? Có lẽ vì đôi mắt kỳ dị của linh mục chăng? Hay thái độ bình tĩnh kín đáo của ông khi nghe câu chuyện? Lạ quá, ông có thể là một người 20 tuổi và cũng có thể là một cụ già 60... Ông quả là một tác phẩm độc đáo của Tạo Hóa. Trước mặt ông, Mary cảm thấy những điều nàng kể trở thành vô lý, nhưng quá muộn.

Khi cô gái kể xong, ông đứng lên, đi đi lại lại trong phòng. Tay vân vê khuy áo rồi tựa lưng vào lò sưởi nhìn nàng chăm chú. Giọng ông đều đều:

- Đừng nghĩ rằng cha không tin con. Con không có vẻ loạn trí hay bịa đặt. Song nếu ra giữa tòa, câu chuyện có vẻ huyền hoặc quá. Hơn thế, tuy luật lệ cấm buôn lậu nhưng nó lại xảy ra như cơm bữa trong vùng. Cha cũng biết ông Bassat, ông lương thiện và có thiện chí, nhưng phải thành thật mà nói: ông ta hơi ngốc. Lại huênh hoang nữa kia. Nếu mọi người biết ông vào lữ quán và ra tay không, người ta sẽ cười vào mũi ông. Có một điều con nên yên tâm: chắc từ nay Merlyn sẽ không dám làm bậy và lữ quán sẽ yên tĩnh vì sự thăm viếng của ông Bassat, cha đoán thế.

Mary phục thái độ trầm tĩnh của linh mục quá đỗi. Nàng ngỡ là ông sẽ không tin hay ngược lại, ông sẽ sợ hãi lắm. Nào ngờ ông tỉnh táo quá. Ông tiếp:

- Nếu con muốn, cha có thể đưa con đến gặp ông Bassat, để con kể lại đầu đuôi, nhưng ít ra phải bắt được Joss tại trận với tang chứng kìa. Cha không giúp con được gì, vì hiện giờ tình thế rất... tế nhị về mọi mặt. Hơn nữa, cha biết rằng con không muốn dì con ngồi tù vì tội ác của chồng, phải không?

- Thưa cha, theo ý cha, con phải làm sao?

- Nếu cha là con, cha sẽ chờ đợi. Hãy để ý chú Joss thật kỹ. Khi nào thấy xe đến, và nếu con có thể tin cha thì cho cha hay.

- Còn người bị treo cổ? Cha có nghĩ đến tìm cách đưa vụ này ra phát luật không? Con cảm thấy có tội vì không cứu được người lương thiện...

- Đừng thắc mắc. Con không thể làm gì được. Con có chứng kiến tận mắt ông ta bị treo cổ đâu? Con chỉ thấy khúc dây, phải không? (Mary gật đầu.) Con đừng buồn, cha phải thành thật mà nói rằng con... tưởng tượng quá nhiều. Con không đáng trách có lẽ vì không khí trong lữ quán hại tới thần kinh con. Nếu mắt con thấy ông ta bị thương hay bị treo thì lại là chuyện khác.

- Con nghe rõ ràng Merlyn đe dọa ông ta mà, thưa cha?

- Con khờ lắm. Người ta đe dọa nhau hằng ngày ấy chứ, nhưng dễ gì treo cổ được nhau? Hãy nghe cha, từ nay có gì đáng lo, báo cho cha biết. Hay con muốn cha đưa về và nói hộ vài tiếng với Joss? Cha sẽ không ngại đâu.

- Chết! Lạy cha! Ông ta sẽ giết con và cả cha nữa, chưa chừng. Ông ta hung bạo lắm, không phải như cha tưởng đâu. Cha đưa con về rồi mặc con xoay xở lấy. Cha không nên ra mặt, nguy hiểm quá!

Nói xong, nghĩ đến lúc đối diện với Merlyn, Mary thấy mệt mỏi chợt đến. Chị còn một điều an ủi: nàng có thể trở lại đây bất cứ giờ nào. Và chắc gì Joss trở về trước mình? Có thể, lão về và ngỡ mình đã ngủ yên? Lão có đến phòng mình làm chi đâu? Lão đã cảm ơn mình ban trưa mà! Mary vững tâm lại trong khi linh mục đi thắng ngựa. Một con ngựa khác con ngựa vừa rồi, có vẻ mạnh mẽ hơn.

Dáng bộ trầm ngâm của linh mục làm Mary tưởng như ông là một người của thế giới khác. Mary nhớ lại vị linh mục làng mình: người hiền lành, nhỏ nhắn, dễ dãi quen thuộc với nàng biết bao nhiêu!

Xe đã thắng xong. Mary lên ngồi cạnh linh mục. Nom ông như con chim khổng lồ: áo choàng rộng bay phấp phới và hai cánh tay như đôi cánh. Giọng ông mơ hồ trong gió lộng:

- Tôi yêu đồng hoang. Lần đầu tiên cô sống nơi này và không được yên ổn nên không hiểu tôi. Nếu cô thấy nó về đông cũng như qua hạ, cô sẽ giống tôi. Không đâu quyến rũ bằng đồng hoang. Cảnh sắc như thuộc về quá khứ. Đồng hoang được tạo dựng trước rồi mới đến rừng núi, thung lũng và biển cả. Lúc mặt trời lên, ta trèo lên đỉnh núi Roughtor lắng nghe gió thổi qua khe đá... cô sẽ hiểu...

Mary không hiểu gì cả. Nàng tự nhủ: không biết ông có giảng như thế giữa nhà thờ?

*

Joss Merlyn say tiếp năm hôm. Suốt ngày ấy qua ngày khác ông ta nằm dài mê man, trên cái giường nhỏ trong bếp. Miệng há hoác và ngáy pho pho. Tiếng ngáy vang dội khắp phòng. Năm giờ chiều hôm thứ năm ông ta tỉnh dậy, kêu khát và đòi uống... rượu chát, vừa kêu vừa khóc, như đứa trẻ. Bà vợ tức thì chạy lại, vỗ về bằng những lời dịu dàng, tay bưng ly nước dỗ chồng uống; lại sửa gối, đắp chăn. Trông bà khác hẳn, nhanh nhẹn và chu đáo quá. Merlyn nhìn quanh dáo dác, run rẩy, lầu bầu không ra tiếng. Lão để yên cho vợ lau mặt, thay ra giường, chải tóc... Chỉ mươi phút sau, ông ngủ lại, mặt bầm tím, lưỡi thè ra và lại ngáy làm Mary càng tởm.

Hai dì cháu qua ở tạm gian phòng khách đầy bụi. Lần thứ nhất, Mary thấy dì vui vẻ, tỉnh táo, nhanh nhẹn. Bà nói chuyện, có khi hát nho nhỏ nữa.. Mary được biết cứ hai tháng Merlyn say bí tỉ như vậy một lần. Có khi thường hơn và lần này, cơn say là kết quả sự có mặt ông Bassat. Theo lời dì nàng, Merlyn trở về lúc 6 giờ chiều và đi thẳng vô quầy rượu, ở lỳ trong đó luôn. (May quá: lúc đó Mary đang lang thang trên đường về và lạc hướng.) Bà không biết Mary về lúc nào, và nghe Mary bảo nàng đi chơi, lạc, bà tin ngay. Bà khuyên nàng nên cẩn thận hơn, từ nay. Mary dấu tất cả mọi việc xảy ra. Và họ sống năm ngày yên tĩnh.

Thời tiết u ám nên Mary không ra khỏi cửa, nhưng đến ngày thứ sáu, khi mặt trời lên, cô gái lại tính vượt đồng hoang - dù nàng chưa quên cuộc mạo hiểm đã qua. Nhất là khi Joss tỉnh dậy la lối om sòm, khói từ bếp tràn khắp nhà và dì Patience nhanh nhẩu mang ra lại thì nàng đâm cáu kỉnh. Mary lấy một khúc bánh mì gói vào khăn, đi ra. Lần này, Mary hướng về phía tây, ngọn Kilmar. Vừa đi cô gái vừa nghĩ đến Francis, suốt buổi ông toàn nghe nàng nói, nàng nhớ đến khuôn mặt ông, đôi mắt ông, bộ tóc ông... Chà! ông có vẻ giống tiên tử Elie quá! Một người như ông, vì sao lại làm linh mục phó nhỉ? Ông có vẻ siêu phàm quá!

Vài con hải âu bay là đà trên mặt hồ. Noel sắp đến rồi. Chắc ở Helford dân chúng đang rộn rịp trang hoàng nhà cửa, cây thông, và gà ngỗng được ăn nhiều cho béo? Mấy hàng bánh trái và các cô gái hẳn đều ưa nhìn... Vị mục sư thì tươi tỉnh cưỡi ngựa đến Trekiwarreb cụng ly với giáo dân? Linh mục Francis cũng cầu Chúa ban phúc cho họ đạo?

Một điều chắc chắc: lữ quán Giao Mai chả có gì thay đổi? Hơn một giờ sau, Mary dừng lại trước con suối chảy ngang, khung cảnh không lạ lắm, trước mặt cô gái là núi đá phẳng lì và xanh rêu. Sau lưng, ngọn Kilmar hiện ra như bàn tay khổng lồ chĩa ngón lên trời. Mary ngắm kỹ đầm lầy Trewartha lần nữa. Về hướng đông nam, bộ mặt đồi núi rực rỡ dưới mặt trời. Suối kêu róc rách đâu đó. Đầm lầy trải dài bên trái. Gió hây hẩy thổi làm ngọn cỏ lung lay xào xạc, có đám xanh tươi, có đám vàng, nâu. Nom hiền lành nhưng vô cùng nguy hiểm, vì bên dưới lún sâu. Mary quay lưng lại đầm và băng suối, bước lên những mô đất cao. Trời ít mây, đồng hoang trải dài như bãi cát. Mấy con ngựa chạy từ đồi cao xuống làm cho con quạ đang rỉa lông vội vút bay lên, buông mấy tiếng “quà quạ” nghe buồn bã lạ lùng. Đàn ngựa nhảy trên đá chơm chởm, đuôi phất phơ, chen lấn nhau. Hình như chúng vừa được thả ra? Mary chợt thấy cửa rào bên trái được mở rộng. Một người đàn ông đi tới, tay xách cái xô. Thấy nàng, gã đàn ông vây vẩy, gọi tên nàng. Mary không tránh kịp: đúng là em trai chủ quán. Quần áo lem luốc bùn và lông ngựa, hắn cười thật tươi:

- Cô đến tìm tôi sớm hơn tôi nghĩ. Phải biết trước, tôi đã làm bánh thết cô. Ba ngày nay tôi ăn toàn khoai tây, khỏi mất công rửa bát.

Mary chưa kịp phản ứng, anh ta đã đưa cái xô cho nàng và lội nước lùa ngựa.

- Ra khỏi đây! Tụi bay làm đục nước uống của tao. Liệu hồn!

Rồi anh ta nhặt cái xô cạnh đó vào bảo Mary trả xô nàng đang cầm, xách cả hai cái xuống suối, múc đầy nước rồi nhăn răng trắng bóng ra, cười nữa:

- Nếu không gặp tôi, cô làm gì nào?

- Tôi không có ý định tìm anh. Nếu biết, tôi đã quẹo sang hướng khác.

- Tôi không tin cô. Nhưng dù sao, cô đã đến đây là tốt rồi. Ở lại ăn trưa với tôi, nghe? Có thịt trừu.

Cả hai trở về căn nhà tranh nằm lưng chừng đồi. Từ ống khói, một làn khói mỏng thoát ra. Sau nhà, còn những mảnh ván ghép sơ để làm rào nuôi súc vật và một khoảnh đất trồng khoai tây.

- Tôi nhóm lửa rồi, giờ chỉ cần nướng thịt. Cô biết cách làm chứ?

Mary nhìn Jean từ đầu tới chân:

- Anh mời khách kiểu gì vậy?

- Tôi ít có dịp mời khách lắm. Từ lúc mẹ tôi chết, tôi sống một mình. Mời cô vô nhà!

Mary cúi xuống để chui qua cánh cửa thấp. Gian phòng nhỏ vuông bằng nửa gian bếp của dì nàng. Ống khói trong góc thật rộng. Sân nhà dơ bẩn, đầy rác: vỏ khoai ruột bánh, vài cọng rau giá và tro bếp phủ cùng khắp. Mary kinh hoảng hỏi:

- Anh không bao giờ lau nhà hở? Bếp như chuồng heo! Anh không biết xấu hổ gì hết chắc? Đưa tôi cái chổi coi. Tôi không thể ăn tại một chỗ thế này!

Trong nửa giờ gian bếp sạch sẽ, sân nhà ướt và bóng nhoáng, rác rến biến mất. Mary dọn quét, lau một cách hăng hái. Rồi nàng soạn trong tủ ra, lấy bát dĩa dọn bàn. Thịt trừu và khoai tây hầm trong bếp bốc mùi thơm ngát. Jean từ ngoài cửa hít hà, nói chõ vô:

- Tôi cần một người đàn bà. Cô có muốn rời Lữ quán khốn nạn đến ở với tôi không?

- Anh không đủ tiền trả công cho tôi đâu.

- Chà! Đàn bà chúa hà tiện. Họ để tiền làm chi chớ? Mẹ tôi cũng vậy. Bà dấu tiền trong vớ, tôi chưa được thấy nó mầu gì. Thôi đói quá rồi... Dọn lẹ lẹ...

- Anh bất lịch sự quá! Không cám ơn đầu bếp, lấy tay đi, dĩa nóng lắm đó!

- Chắc ở Helford cô học được nhiều điều hay? Tôi cho là đàn bà mới nứt mắt chả cần học ai cũng biết làm bếp... Cho tôi ly nước đi! Cô khéo tay quá! Nào, chúng ta cùng ăn, nhé? Mời cô, cứ tự nhiên, tôi dốt phép xã giao...

Hai người bắt đầu ăn. Mary nhỏ nhẹ, còn Jean nhai ngấu nghiến và không ngớt khen ngon:

- Từ khi mẹ tôi chết, giờ mới được ăn ngon một lần; (giọng tâm sự) chúng tôi đều sinh ra ở đây, trên gác kia. Nhưng hai anh lớn lắm tôi mới ra đời. Cha tôi đi vắng luôn. Mà hễ về là kiếm chuyện đánh mẹ tôi. Một lần tôi suýt ngất vì thấy ông cầm dao ném vào mặt mẹ tôi, máu chảy ròng ròng. Tôi thấy mẹ tôi vẫn điềm nhiên dọn bữa cho ông. Bà cưng tôi nhất nhà, vì vậy hai anh hay đánh tôi, hễ mẹ tôi quay lưng là tôi bị đòn rồi...

- Mẹ anh mất bao lâu?

- Bảy năm, trong dịp Noel. Sau khi cha tôi bị treo cổ, Matt chết đuối, Joss qua Mỹ châu. Mẹ tôi trở lại đạo, đọc kinh tối ngày, làm tôi bực quá, bỏ đi. Tôi tính làm thủy thủ nhưng bể không hợp với tôi nên tôi trở về. Mẹ tôi như bộ xương. Tôi bảo: “Mẹ ăn nhiều nhiều vào” mà bà không nghe, tôi lại bỏ đi. Chiều Noel tôi trở về, đói meo, cửa thì đóng, nhà trống trơn: mẹ tôi đã chết, chôn cách đó ba tuần... Kìa, có một miếng phô-mai trong tủ đó. Cô ăn chứ? Có sâu trong đó nhưng không hại gì đâu.

Mary ngồi im. Jean nhìn chăm chú cô gái, hỏi:

- Cô làm sao vậy? Bịnh hả? Mới thấy vui vẻ đó mà.

- Tôi chả làm sao cả. Tôi nghĩ rằng khi nào không còn một người trong dòng họ Merlyn nữa là điềm tốt cho mọi người. Thà trong xứ bị bệnh dịch còn hơn có người như dòng họ nhà anh. Mấy người không nghĩ đến mẹ các người đau khổ sao?

- Mẹ tôi không kêu ca gì cả. Bà bận luôn tay có thì giờ đâu mà buồn?...

Mary đã xong bữa, nàng đứng lên, dọn bàn.

- Quên, Joss ra sao?

- Đang say, cũng như cha anh vậy mà?

- Một ngày kia rượu sẽ giết ảnh, ảnh nằm mấy ngày rồi, Mary?

- Năm.

- Thấm gì. Có khi hơn tuần lễ kia. Chừng nào ảnh tỉnh dậy, lảo đảo như đứa trẻ, rượu thặng dư đã đuọc thải một ít, còn một ít thấm vào ảnh, lúc đó mới đáng sợ. Lúc đó ảnh nguy hiểm lắm, cô nên đề phòng...

- Ông ta còn nhiều việc phải lo. Vả, tôi cũng khá cẩn thận...

- Đừng làm vẻ bí mật. Có chuyện gì xảy ra ở Giao Mai vậy?

Mary kể lại vụ ông Bassat đến khám nhà và tất cả những lời ông hôm ấy. Jean nheo mắt:

- Sao cô lại nói dối về tôi?

- Tôi sợ dì tôi bị rắc rối. Nếu có thì giờ suy nghĩ, tôi đã nói toạc hết sự thật. Anh không có gì phải lo chứ?

- Chả có gì, trừ con ngựa đen... Tuần trước nó còn màu xám tro. Nó là ngựa quí. Cô ra xem, nhé?

Nói xong, Jean chạy vụt ra ngoài. Mary chậm rãi ra theo. Cô tưởng tượng đến một người mẹ gầy guộc, cô đơn đứng trên thềm dõi mắt theo đàn con hung tợn như quỉ dữ với tất cả trìu mến của người mẹ tận tụy suốt đời. Jean la lên:

- Đây, tôi muốn bán cho cô con ngựa này đây! Sao cô hà tiện quá vậy?

- Bộ anh tưởng tôi mất trí chắc? Mua về để đâu? Trong chuồng ngựa lữ quán hả? Đặng ông Bassat đến nhận ra ư? Cảm ơn anh. Tôi đã nói dối cho anh em nhà anh nhiều rồi.

Jean lộ vẻ buồn:

- Cô từ chối dịp may. Khó có con ngựa đẹp như nó. Noel tôi sẽ mang nó ra phiên chợ uổng quá !

Anh đuổi ngựa đi rồi bứt cọng cỏ cắn, mắt không rời Mary:

- Cô biết ông Bassat tìm gì trong quán không?

- Anh biết hơn tôi chứ? Anh hỏi làm gì? Lại còn vờ. Tôi không đến cho anh thẩm vấn đâu. Mình ông tòa quá đủ rồi...

- May phúc cho Joss. Ảnh đã dời đi - Giọng Jean thản nhiên - Tôi đã nói rồi mà cứ nhơn nhơn. Có ngày họ sẽ tóm cho coi.

Mary nghĩ thầm: Đừng vờ ngay thật để lừa ta. Anh em nhà anh giống nhau mà!

Jean nói tiếp:

- Bộ cô sợ tôi mách lại Joss hả? Hay là cô khờ đến nỗi không biết chút gì? Tôi không tin vậy, một đứa trẻ cũng biết sự gian ác trong lữ quán Giao Mai mà! Cô đến cả tháng rồi...

- Anh muốn gì? Tôi chỉ cần mang dì tôi ra khỏi hắc điếm này. Còn anh, có chết đuối trong rượu cũng không can chi đến tôi.

- Như vậy, buôn lậu không làm cô sợ? Cô làm ngơ để ảnh chất đồ lậu đầy phòng, đủ loại? Và còn nhiều tội ác, như chuyện giết người chẳng hạn?

Mary nhìn thẳng mặt Jean, anh không còn một chút gì giống Joss. Nét mặt anh già dặn, trịnh trọng, lương thiện. Jean mím môi:

- Tại sao dì cô như một bóng ma? Khi gió tây bắc thổi mạnh, cô hãy hỏi bà cho biết...

Mary bối rối. Nàng không hiểu gì cả, có thể nàng hiểu được nếu Jean không phải là em Joss. Chao ơi! Giá… Jean có vẻ bí mật, không biết có phải hắn định dọa nàng không:

- Rồi một ngày kia, anh ấy sẽ gặp tôi. Sẽ có việc đáng tiếc xảy ra...

Nói xong, Jean đứng lên, tìm ngựa. Nếu trực giác nàng không lầm, còn có bí ẩn sau chuyện buôn lậu nữa. Kẻ bị treo cổ, trước khi chết cũng có nói đến tội ác, nó là tội gì? Ghê gớm đến mức nào khiến cho một kẻ đồng lõa lại có thể từ chối, chọn cái chết hơn nhúng tay vào! Jean cũng vừa nhắc đến? Tuy không nói rõ. A! đúng vậy, thần kinh mình không yếu, mình tỉnh táo, cũng không tưởng tượng như cha phó Davey nghĩ.

Mary muốn về ngay để có thì giờ ngồi một mình suy nghĩ. Nàng từ từ đổ dốc, đến đầu rào. Jean chạy theo:

- Cô về hả? Sớm mà! Chơi một chút, tôi sẽ đưa cô về. Hay là cô sợ tôi? Cô cho là anh em tôi đêu bất lương như nhau hả? Có phải cô cho là tôi cũng nhúng tay vào máu người như Joss chứ gì?

Mary không thể nhịn cười:

- Đúng vậy. Nhưng tôi không có gì phải sợ anh. Nếu anh lương thiện hơn anh anh, tôi có thể là bạn...

- Phải cô cũng nhận rằng tôi có vẻ lương thiện hơn anh Joss không?

- Thôi, đừng tưởng vậy. Tôi không nhận nhiếc gì hết, tôi về đây. Tối đến nơi rồi, tôi không muốn bị lạc giữa đồng như...

- Chà! Vậy ra cô bị lạc rồi?

Biết mình lỡ lời, Mary vội chữa:

- Tôi đi dạo phía tây, sương mù xuống sớm... Cũng may, một lát là tôi tìm thấy đường về.

- Đừng dại nữa nghe? Giữa đường đi Roughtor có chổ đầm lầy, có thể nhận chìm cả đàn bò trong nháy mắt. Đừng giải trí kiểu đó...

- Thì tôi có ngờ đâu, định đi loanh quanh cho giãn gân, ở nhà ngấy quá...

- Lần sau có muốn đi chơi thì đến đây. Nhưng tránh phía trái nghe? À, Noel cô muốn đi chơi không? Đi Launceston chơi.

- Anh đi hả, chi vậy?

- Ồ ! Bán ngựa chớ chi. Vả lại, tôi tưởng anh ấy sắp tỉnh lại sẽ có chuyện không hay. Nếu hai ông bà biết cô đi dạo, họ sẽ không ngạc nhiên về sự vắng mặt của cô hôm đó. Chịu không?

- Rủi họ tóm anh về vụ con ngựa ông Bassat, thì tôi sẽ ra sao? Ở tù luôn với anh hả? Ê mặt quá!

- Ai bắt tôi được? Dễ dầu gì? Hãy cứ mạo hiểm chơi! Cô nhát cáy vậy ạ? Ở Helford, con gái được bọc trong gòn hả?

Giỡn quá, mình mà bọc trong gòn? Mary đáp liều :

- Jean Merlyn! Đừng tưởng tôi sợ. Ngồi tù cũng không đáng sợ bằng sống trong lữ quán Giao Mai.

- Tốt! Vậy mới đáng là người! Tôi thắng xe để tụi mình đi, con ngựa đen cột phía sau. Quên, cô biết đường đi North Hill xuyên ngang đồng hoang không?

- Không.

- Vậy thì nghe đây: cứ đi thẳng quốc lộ có một dặm tới đỉnh đồi, trước mặt là núi đá Carey, đoạn quẹo phải và đi thẳng hoài. Tôi sẽ đón ngang đó.

- Đi lúc mấy giờ?

- Cô nên rời lữ quán cỡ 11 giò sáng. Nhớ chưa?

- Tôi không hứa chắc. Nếu anh không thấy tôi thì thôi, nghe? Có khi, dì tôi cần tôi ở nhà.

- Tôi mong cô sẽ đi. Vui lắm.

- Chào anh !

Mary nói và nhanh nhẹn quay về. Nàng vừa đi vừa nghĩ đến bộ mặt tươi tỉnh của Jean. So với các thanh niên ở làng mình, anh ta chả có gì đặc biệt. Chỉ là tên trộm ngựa, biết chừng cũng buôn lậu, sát nhân? Nhưng Mary cóc sợ Jean. Nàng sẽ ngồi cùng xe với hắn hôm áp lễ Giáng Sinh để chứng tỏ điều này. Vả lại, cô cũng muốn thay đổi không khí một phen.

Mary về đến cổng trời cũng vừa tối sập. Dì nàng vẻ lo lắng, xanh xao:

- Con đi đâu vậy? Chú Joss hỏi con suốt ngày nay...

- Con đi dạo ngoài đồng. Chú hỏi con làm gì? Con tưởng không ai cần đến con. (Nàng liếc vào cái giường trống trong bếp.) Ủa, chú đâu gì? Ông mạnh rồi sao?

- Chú ngán nằm trong bếp, chú ưng nằm phòng khác hơn. Mary! Con nên làm chú vui một chút. Nên nhỏ nhẹ, đừng trái ý ổng. Khi ổng ngồi dậy được, ổng có thể... dữ tợn...

Dì Patience đã trở lại sợ hãi, lo lắng. Nom dì thật đáng thương. Mary hỏi :

- Chú muốn gặp con làm chi?

- À, chắc ổng trở chứng mà. Đừng để ý đến lời ổng trong lúc này. Để dì cho ổng hay cháu về rồi, nhé?

Mary rót nước uống để trấn tĩnh. Nàng xấu hổ mà thấy mình hết cái can đảm ở đồng hoang: nàng cũng lấm lét sợ sệt như dì vậy! Dì nàng trở lại, thì thầm:

- Hình như ổng ngủ rồi. Dì cháu ta đi ăn, có ba-tê cho con đó.

Mary không thấy đói chút nào, nàng cố gắng nhai mẩu bánh nhỏ rồi uống trà. Cả hai cùng im lặng. Rồi nàng châm thêm củi vào lò sưởi, khói xanh nồng làm cô cay mắt, nhưng lửa gần tàn, không đủ ấm gian phòng lạnh lẽo.

Trong hành lang đồng hồ gõ đều đều. Nàng gần nghẹn thở. Buổi tối nặng nề chậm chạp trôi qua. Hai dì cháu thu dọn về phòng mình. Nhưng rồi dì nàng đi khỏi phòng, Mary vẫn ngồi yên. Nàng mơ màng nửa thức nửa ngủ, không nhấc nổi chân.

Lửa tắt ngấm, nến cũng gần tàn... Bỗng Mary ngẩng lên vì một tiếng động khẽ, và cửa bếp hé mở: Joss bước vô. Mặt xám ngoét, mắt đỏ ngầu, ông cất giọng gắt:

- Ai đó? Làm gì đó? Để dao xuống! Nghe chưa? Tôi bảo để dao xuống!

Mary nhìn trừng trừng Joss, không nhúc nhích được nửa phân:

- Cháu đây! Chú lầm rồi không có ai đây hết, không có dao đâu...

- Ủa, Mary! Họ đi đâu hết rồi?

- Chú lầm đó, không có ai trừ cháu ở đây. Chú cần gì không?

Joss nhìn quanh phòng, thì thầm:

- Ta không sợ họ đâu. Kẻ chết làm sao hại được ta? Ta làm họ biến mất như khi ta thổi tắt ngọn nến, phải không, cháu?

Mary gật đầu, Joss kéo ghế ngồi xuống, liếm môi:

- Chỉ là cơn mơ thôi, cháu ạ ! Kỳ một cái mặt nào cũng rõ ràng hết mới là ghê... Chú khát quá, Mary! Vô lấy chai rượu cho chú đi !

Mary đón xâu chìa khóa trên tay chủ quán, nàng thầm nghĩ không biết có nên đi luôn lên phòng mình không, thì có tiếng giục giã:

- Đem chai rượu chớ không phải đi luôn, nghe?

Mary lẳng lặng vào quầy rượu, lục lấy chai Cognac và cái ly đem lại trước mặt Joss. Người đàn ông rót nửa ly rượu, uống chầm chậm và nói:

Mary! Cháu thật tốt. Cháu thông minh, can đảm. Đáng lẽ cháu là con trai mới phải. Chú thương cháu lắm đó, nghe?

Lão cười, giọng ngớ ngẩn:

- Rượu này phải trả bằng vàng và máu đó. Tiền khó mà mua nổi. Vua George cũng không có thứ quí hơn. Ta tốn bao nhiêu? Không đến vài xu. Lữ quán Giao Mai này có rượu miễn phí. (Lão lại cười gật gù.) Đây là một trò chơi nguy hiểm nhưng hấp dẫn đối với đàn ông. Ta xuýt chết nhiều lần, nhưng dễ gì hạ nổi ta? Ta lanh quá! Trước kia, ta ở Padslow, lúc nước lớn ta đánh đắm tàu, nhưng là tàu nhỏ. Chỉ có năm người phụ ta thôi. Ít quá mà làm ăn gì? Bây giờ ta tổ chức đại qui mô à! Ta sẽ giết người nhiều lắm, nhưng trò chơi... Không! Công việc chớ, công việc này khác lắm. Mary! Lại gần đây! Ta tin cậy cháu, cháu không giống dì cháu. Ta hợp tác với nhau, nghe?

Joss chồm đến bất ngờ, chộp tay Mary ấn cô ngồi xuống cạnh mình:

- Chính rượu quái quỉ hại ta đó, Mary! Nếu không coi... Bình thường ta không sợ gì hết, chính ta giết người, dìm chúng xuống nước, lấy đá đập lên đầu chúng...mà ta ngủ ngon lắm, chả có băn khoăn gì hết. Đứa nào nói có lương tâm cắn rứt là nói láo, nói theo kiểu trưởng giả, tụi văn sĩ láo khoét. Lương tâm là cái gì? Hình thù nó ra sao? Bịa! Mà có cái kỳ này: hễ ta say thì ta thấy xác chết hồi sinh. Ý trời ôi! Đứa thì bị cá ăn mất mắt, đứa khác thì tóc vướng trong rong bể, đứa thì da mặt trắng như sáp. Có một lần, ta gặp một phụ nữ tóc xõa dài, tay bám lấy tấm ván, tay kia bế con. Thuyền ở gần đó và bể không có sóng, nhiều kẻ sống sót và cố lội vào bờ, nước cạn, biết không, Mary? - Chả là tụi ta tính lầm con nước. Bà kia cầu cứu dữ lắm nhưng ta tặng cho bả một hòn đá to vào mặt, bả ngã ngửa, buông cả tấm ván lẫn con. Đâu phải ta độc ác gì, công việc là công việc chớ. Ta phải ra tay, nếu không họ lên bờ sao? Nếu không lanh tay, họ sẽ lên bờ nhiều người lắm. Tụi ta phải ném đá, gần quá thì áp lại, bẽ gãy lọi tay chân họ, dìm họ xuống nước. Nước sâu không đầy một thước, khó lắm chớ dễ gì? Ta chu đáo lắm, phải không Mary?

Ngọn nến lung linh. Joss lại nắm tay cô gái, tay cô lạnh và mềm nhũn như bàn tay kẻ vừa tắt hơi. Lão giật mình, buông cô ra, nhìn phía khác:

- Bàn tay gì giống như...

Rồi lão im luôn. Mary ngồi chết dí, nhìn con muỗi đậu trên tay Joss, nàng chợt nhớ lại cái lần lão cắt bánh cho nàng, khéo léo, mềm mại. Nhung giờ đây, nàng tưởng tượng đến viên đá trong tay lão. Joss quay lại:

- Tiếng đồng hồ gõ mà ta tưởng tiếng chuông báo động trên bãi bể, nghe buồn quá đi! Tiếng chuông báo động trên tàu ấy mà, có lần ta muốn hét to cho át tiếng chuông cầu cứu. Chúng ta cũng vất vả lắm chớ đâu phải dễ dàng gì. Chèo thuyền dọc theo bãi, đem theo đủ thứ: gậy gộc, giẻ, dao, thừng... Cháu biết giẻ để chi không? Đặng nhét vào miệng họ, cho họ câm suốt đời mới yên tâm mình chớ chi... Còn tàu: một tiếng đánh rầm vào cồn đá, tàu rung động rồi chìm dần, chìm dần, sóng nuốt tiêu tan... Cháu đã thấy ruồi dính vào hủ mật chưa ! Người ta vướng trong tàu như vậy đó, họ bám vào tàu, mỗi lần thấy sóng to họ thét lên, nom họ như những chấm đen li ti, li ti... li ti...

Mary muốn nôn, nàng lạnh cóng. Joss chồm tới trước, gục đầu xuống ngực, miệng há to, chìm trong cơn say - hay giấc ngủ? Hai cánh tay đặt lên bàn, bàn tay chắp lại như đang cầu nguyện...

Mary se sẽ đứng lên, chỉ những sợ ông ta tỉnh dậy kéo nàng ngồi lại nghe chuyện nữa.

Xem tiếp chương 7 & 8