Ánh sao - Chương 11 & 12

Chương 11

Hai sĩ quan trẻ tuổi ngủ vùi đến chiều. Khi thức dậy họ tươi tỉnh trong bộ đồng phục mà Tom đã giặt ủi cẩn thận rồi cùng xuống phòng ăn: họ đói nghiến.

Tom dọn bữa ăn long trọng như trong ngày lễ. Thịt thỏ nấu rượu vang này, thịt bò quay này, giò heo hầm này, lại có cả thịt "jambon", chưa kể các món rau và xà lách trộn. Thức tráng miệng là ổ bánh mì to tướng do anh làm và một mớ bom hái ngoài vườn. Anh dọn rượu chát, rượu porto và cả cognac mà anh lén bác sĩ, lấy trong tủ thuốc độc.

Lúc mới nhập tiệc, câu chuyện còn trong vòng dè dặt, cho đến lúc tráng miệng, chuyện thân mật đậm đà hơn. Quên cả giữ lễ, Tom đứng sau lưng bác sĩ hóng nghe và lâu lâu bàn góp một câu. Hai sĩ quan trẻ tuổi đều là những người ưu tú của Hải quân Hoàng gia Anh quốc –một người là con thuyền trưởng, người kia là cháu Đề đốc. Họ lấy làm thích thú khi được biết Tom và ông bác sĩ đã cứu họ đều vốn từng ở trong Hải quân. Câu chuyện càng lúc càng sôi nổi, chỉ riêng Zacchary im lặng. Tay gọt trái bom, cậu lắng nghe chăm chú, thỉnh thoảng mỉm cười. Rupert có vẻ đặc biệt chú ý đến cậu thiếu niên, muốn kéo cậu vào câu chuyện. Anh chỉ lớn hơn cậu cỡ năm tuổi. Một lần anh nói:

- Đêm qua, anh thấy em khá lắm. Anh chú ý đến em ngay: em đã can đảm giúp các bạn anh lên thuyền em, em có vẻ nhà nghề quá! Em mà vào Hải quân thì tuyệt!

- Thưa anh... (Zachary lúng túng, đỏ mặt) quả vậy...

- Ủa, em là thủy thủ ư?

Bác sĩ bóp mạnh ly rượu trong bàn tay ông, cái ly không vỡ kêu loảng xoảng. Tom vội vàng thay ly ngay và rót đầy rượu cho chủ, anh không hay biết gì trong lúc bác sĩ ù cả hai tai. Tuy nhiên, ông vẫn cố lắng nghe câu chuyện tiếp tục một cách khó khăn:

- Em đã ở trong Hải quân.

Zachary trở lại bình tĩnh lạ thường.

- À! Thế bây giờ em được giải ngũ.

- Thưa không... em đào ngũ!

Im lặng đột ngột. Hai sĩ quan trẻ ngượng cho đến nỗi tai họ đỏ rực lên. Bác sĩ nâng cao ly rượu nốc một cách vội vàng, Tom thì lầu bầu nho nhỏ. Zachary chậm rãi đặt trái bom lên bàn, chùi hai tay, thong thả nói:

- Em muốn trở lại Hải quân, em bằng lòng nhận bất cứ hình phạt nào, nhưng em không biết cách thức ra sao. Anh vui lòng giúp em, nghe?

Rupert khoanh tay lên bàn, nhìn cậu trai chăm chú, giọng anh thân mật:

- Anh không tin một cậu trai như em mà đào ngũ. Chắc có lý do, nói thật đi! Tàu em tệ lắm, phải không?

- Thưa không... Em ghét bể.

- Vô lý! Em tên gì? Bác sĩ có nói mà anh quên...

- Anthony-Louis-Marie-O' Connell.

- Anh biết thuyền trưởng O' Connell, ông ta người Ái-nhĩ-lan. Em có họ với ông ta?

- Chú họ em đấy!

- Em ở trên tàu ông ấy, phải không?

- Vâng!

- Chúa ơi! Vậy thì em nói dối anh: tàu ông ta đâu phải là tàu! Đó là một địa ngục nổi, đúng hơn.

- Anh giúp em trở lại tàu ấy chứ?

- Không! Không và không! Nhưng đừng lo, anh sẽ xin cho em lên một cái tàu ra cái tàu kia. Anh sắp về Luân-đôn, em muốn đi ngay với anh chứ?

Zachary đưa mắt nhìn cha nuôi. Mặt ông như thản nhiên, xa vắng song mắt ông sầm tối vì đám mây buồn. Tuy nhiên ông gượng gạo làm tỉnh:

- Được lắm! Anthony! Thế mới là con trai! Sáng thứ ba có chuyến xe rời Torquay, các người có thể lên đường. Và bây giờ mời quí vị sang phòng khách thôi!

* * * 

Người ta đã dạy Zachary là lòng ta rất thanh thản vui sướng khi làm tròn phận sự, nhưng sáng nay cậu thấy không đúng thế.

Sau khi quyết định trở lại Hải quân, cậu thấy cha nuôi tuy buồn nhưng có vẻ hãnh diện lắm, cậu ngủ rất ngon. Thế mà sáng nay, cậu tiêu tán hết cả phấn khởi. Cậu thầm trách mình bốc đồng một cách ngu xuẩn: rồi đây cậu sẽ trở lại với những gì cậu vốn ghét: bể hung bạo, giặc giã, chết chóc. Cậu phải xa rời có thể là mãi mãi cuộc sống mà cậu rất vừa lòng: xa cha nuôi cậu và cô bạn nhỏ Stella. Chúa ơi! Mà có ai buộc cậu đâu, chính cậu tự chọn đó chứ!

Tom gõ cửa phòng. Zachary vội vã trở dậy, rửa mặt thay quần áo rồi điểm tâm để đến trại Week, làm việc lần cuối cùng khi trời còn mờ xám.

Lần đầu, khi bước vào gian bếp ấm cúng của nhà ông Sprigg, cậu không muốn gặp Stella. May mắn thay: cô bạn đã đi thăm chó Daniel và mấy con mèo. Cậu phải từ giã Stella, nhưng chỉ muốn từ giã không có mặt người thứ ba nào khác.

Hai ông bà chủ trại, già Sol và Madge vui vẻ chào Zachary. Hodge chạy đến cọ mõm vào tay Zachary. Từ người đến vật đều thương mến cậu con trai. Zachary ngập ngừng báo tin mình sắp ra đi. Gian phòng đột nhiên như ngưng bặt mọi sinh động, bà sprigg tối sầm mặt, lặng im. Môi già Sol. run run: vậy là hết cày bừa? Mùa xuân này không còn cậu con trai dễ thương đi bên ông cày ruộng nữa! Lần thứ nhất, ông già cảm thấy chán nản, và cái chết như quanh quẩn cạnh ông! Ông cúi gầm mặt, buồn rầu.

Chị Madge chắp hai tay lại, đỏ hồng đôi má đầy tàn nhang vì sung sướng ; ông Sprigg đồng ý với người tớ gái: ông đập mạnh tay xuống bàn đánh rầm:

- Hoan hô chú nhỏ! Tốt lắm! Tụi Pháp sẽ biết tay ta! Chú đáng mặt con trai lắm!

Zachary lại gần già Sol, đặt tay lên vai ông:

- Con sẽ trở về cày bừa vào mùa xuân! Già đừng buồn, con sẽ trở về!

Già Sol. lắc đầu, ông chậm rãi móc túi lấy ra cái tù và, nghẹn ngào nói:

- Hãy cầm lấy, Zachary! cái này của cha ta để lại, ta giữ kỹ lắm. Nhưng ta rất vui mà tặng cho con. Nó sẽ là bạn con ở những nơi xa lạ.

Đôi bạn trẻ vốn ghét cái tù và vì tiếng kêu của nó làm chúng nổi da gà lên, song Zachary không thể nào từ chối kỷ vật của ông già.

Cậu cảm ơn già và cất vào túi. Bà Sprigg bối rối hỏi:

- Ai báo tin này cho Stella? Để ta tìm cách...

- Thưa, để cháu. Cháu muốn tự nói với em...

Giọng cậu cương quyết đến nỗi hai ông bà trại chủ bằng lòng ; ông nói:

- Được, trưa nay con có xe cát phải chở đến đồi, bác sẽ cho nó mang phần ăn ra cho con.

- Sau đó, con nên trở về thu xếp, vì con còn nhiều việc trước khi lên đường.

Bà nói tiếp:

- Chúng ta sẽ nhớ con lắm. Đừng quên là trại Week sẽ mở rộng cửa đón con, lúc con được giải ngũ, trở về.

Buổi trưa đó, xe chở cát có vỏ ốc lên đồi để làm phân bón, cậu ngồi dưới gốc cây đợi Stella. Trời nhiều mây nhưng ấm và sáng, chim hải âu và tiếng gió xào xạc bên tai. Hodge cũng nằm cạnh cậu con trai. Chợt con chó ngẩng phắt lên, chạy thẳng xuống: Stella đang tiến đến giữa bầy cừu. Thấy cậu, cô gái vui vẻ nghĩ đến buổi dạo trưa nay, không chú ý đến nét dàu dàu của bạn.

Cả hai ngồi trên phiến đá trong lúc Stella thong thả dọn bữa trưa, bà chủ trại biểu lộ tình thương Zachary bằng những món ăn đặc biệt: bồ câu quay, bánh mì nhét đầy kem và mứt ngọt, bánh tráng miệng bằng bom thơm lừng. Zachary lo là mình không thể ăn hết ngần ấy thứ, song may thay: có Stella và Hodge giúp sức. Sau bữa ăn, Zachary mới bắt đầu:

- Stella! Anh có một chuyện nói với em.

Stella vừa thu dọn khăn ăn vào giỏ vừa hỏi:

- Chuyện vui không?

- Không!

Mặt hơi tái sau tiếng không buông gọn của Zachary, cô gái khoanh hai tay chờ đợi, nét mặt trang trọng khác thường. Zachary chậm rãi kể chuyện mình, Stella lắng nghe, không kêu lên một tiếng biểu lộ nỗi buồn ; cô gái như chấp nhận tất cả: sự có mặt của Zachary và sự ra đi! Sự im lặng khác thường đó ban đầu làm Zachary vững bụng, nhưng cậu bỗng lo sợ khi nhìn cô gái ngồi bất động như một bà già! Cậu nắm tay Stella:

- Em làm sao thế?

Stella quay đầu lại, khó khăn tựa chừng các mạch máu đông lại. Nhưng lời cô thốt lên lại là lời lẽ của đứa trẻ ngây thơ:

- Zachary! Em thích có anh ở đây vào dịp Noel quá đi! Ta sẽ đi lễ đêm, ăn réveillon, làm mặt nạ... vui biết chừng nào!

Cô cắn môi, im lặng. Zachary đặt tay lên vai bạn, long trọng hứa:

- Có thể anh không về kịp Noel này, nhưng anh thề sẽ về với em những Noel sau.

- Chắc không?

- Anh chưa bao giờ sai lời hứa. Em đừng buồn, nếu em nhớ anh thì chính anh, anh cũng nhớ em nhiều lắm. Hơn nữa, em còn có nhiều người thân ở gần em: ba má và bác sĩ Crane, cha nuôi anh...

- Phải! Và già Sol, chị Madge, và chó Hodge, chó Daniel. Còn anh thì đi xa trơ trọi có một mình. Zachary! Ước gì anh có thể dắt Hodge đi theo!

- Cảm ơn em, nhưng không được đâu. Rồi anh sẽ trở về mà! Hãy tin anh! Vả lại chúng ta không hẳn xa nhau...

Mắt Stella rực sáng, cô ngắt lời bạn

- Không hẳn xa nhau! Anh có cách gì?

- Anh sẽ viết thư cho em, em cũng thế. Chúng ta vẫn liên lạc nhau, có phải không?

Stella gật đầu, dáng bộ hăm hở, cô tưởng chừng như những cánh thư sẽ lấp được ngăn cách giữa hai bên:

- Rồi em sẽ đến nhà nguyện thánh Michel để cầu xin cho anh sớm trở về, y như... như...

Thấy cô gái ngừng lại, Zachary hỏi dồn:

- Như cái gì? Như ai kia, sao em không nói tiếp?

Stella đỏ bừng mặt, cúi đầu, tay vò chiếc mùi soa lụa, nói mau

- Như một người trong truyện mà bác sĩ kể cho em nghe hồi em còn bé.

Zachary cười buồn:

- Cảm ơn em!

Rồi tinh nghịch hỏi lại:

- Hồi em còn bé! Thế có nghĩa là bây giờ em đã lớn rồi, nhỉ?

Stella ngẩng lên nhìn bạn, cười bằng đôi mắt:

- Chưa lớn lắm, nhưng em cũng không còn bé nữa, em chỉ bé hơn anh. Này! Anh hứa chắc trở về nhé?

- Với anh bây giờ, mảnh đất này là quê hương thực sự, anh yêu nó và yêu cả những người ở đây, yếu nhất là em. Em tưởng anh có thể đi luôn được ư?

- Phải! Anh sẽ đánh tụi Pháp một trận nên thân rồi trở về, em đợi anh ở đây!

- Thôi, bây giờ ta xuống đồi!

Nói thế nhưng sau khi đỡ cô bạn đứng lên, cả hai đều có vẻ chùng chình. Tay trong tay, chúng bước chậm từng bước một, như cố kéo dài con đường hạnh phúc ấy, nhưng sau cùng, chúng cũng phải chia tay. Cả hai đều không khóc, Stella nghĩ rằng sau ly biệt, sum họp có ý nghĩa hơn. Còn Zachary thì cố giữ nét mặt bình thản để bạn mình đừng bịn rịn, và cậu sẽ không đủ can đảm quay đi. Cậu sẽ gửi hết niềm thương nỗi nhớ về cho Stella trong cánh thư thứ nhất sau khi nhập ngũ.

Sau khi Zachary đi khuất, cô gái ngồi khóc một mình. Cô biết rằng nỗi buồn ly biệt này không thể chia xẻ với ai khác, ngoài Zachary mà cô hết lòng yêu mến từ phút gặp gỡ đầu tiên. Cô đã cố gắng để không khóc trước mặt anh ấy. thế không quá lắm rồi sao? Khóc một lát, vơi khổ buồn, cô rút mề đay mẹ ra ngắm nghía. Chắc mẹ ta cũng khổ nhiều lắm, nhưng không rõ mẹ có khóc không? Và còn má Sprigg, ta không nên làm cho má buồn lây vì cái buồn của riêng ta. Tất cả những người con trai đến tuổi đều phải làm tròn bổn phận trước khi nghĩ đến việc riêng. Ta phải tỏ ra xứng đáng cùng anh ấy.

Cô thấy lòng dịu lại, đứng lên, rửa mặt, thay áo và tươi tỉnh xuống nhà.

Tối hôm ấy, sau khi thu dọn hành trang, hai sĩ quan trẻ tuổi rút lui sớm, để cha con bác được gần nhau. Bác sĩ, bằng giọng run run xúc động bày tỏ sự bằng lòng về quyết định của con nuôi. "Dù rằng cha không muốn con rời cha một phút nào, để đi bất cứ đâu, nhưng cha biết rằng như thế là ích kỷ. Một người, trước hết chu toàn bổn phận đối với tổ quốc, sau đó mới có thể thanh thản mà nghĩ đến tình nhà. Con đi là phải, nhưng nhớ ở nơi quê mùa, xa xôi này cha vẫn đợi con, đợi từng ngày...

Zachary ngồi yên, mặc cho những giòng lệ nóng thi nhau tuôn trào, không ngăn cản. Cậu khóc vì sung sướng, cảm động: cậu được yêu như một đứa con! Trong đời cậu từ khi còn quấn trong tã lót, cậu đã mất cha rồi.

Những ngày gần đây, cậu đã sống thoải mái, sung sướng, hạnh phúc thật sự dưới mái nhà này, những ngày rất ngắn, nhưng là những ngày đáng kể. Cậu ao ước sớm xong bổn phận để được trở về với cha nuôi. Cậu hiểu rằng tình thương không buộc phải chỉ có thật giữa những người cùng huyết thống.

- Thưa cha, thật con vụng về không biết nói thế nào để cha hiểu rõ lòng con. Cha đã làm con thấy đời sống có ý nghĩa và lấy lại tự tin, can đảm. Chính điều này còn đáng kể hơn là việc cha đã cứu sống con. Trong những ngày sắp đến, đương đầu với khổ nhọc, con sẽ nhớ mãi hôm nay để nuôi niềm tin và đợi đến ngày về. Xin cha tin con, con sẽ trở về, không một trở ngại nào ngăn con được, không một thú vui nào làm con quên cha được. Vả lại, còn có Stella...

- Ờ! Stella! Suýt nữa cha quên, cha cũng có một điều cần nói cho con biết: nó không phải là con gái ruột ông trại chủ Sprigg...

Bác sĩ nói và đưa cho con trai mảnh giấy có ghi dòng chữ ông chép lại trong mề đay mẹ Stella. Rồi bác sĩ kể rõ chi tiết câu chuyện. Zachary xúc động đến nỗi chỉ biết lắng nghe.

- Nói ra khí sớm, nhưng giá con ở nhà thì cha chưa vội. Cha thấy con với nó rất hợp nhau. Cha mong một ngày kia, con sẽ là bạn đời của nó, trước khi cha nhắm mắt. Hãy tỏ ra xứng đáng với mối tình trong trắng ngây thơ của nó, nghe con!

Zachary nhìn cha nuôi bắng đôi mắt biết ơn. Đồng hồ gõ 12 tiếng, Zachary vẫn chưa nói được câu gì. Bác sĩ đứng lên:

- Thôi khuya rồi, con nên đi nghỉ, sáng mai xe khởi hành sớm. Không cần phải nói lúc này, con sẽ viết thư cho cha...

Cậu trai đến gần bác sĩ, ông giang tay ra và họ gục đầu vào nhau, nức lên khóc, không cần giữ ý. Khi cậu về phòng, ông còn đứng lại bất động như pho tượng giây lâu. Ông thẫn thờ, tự hỏi: "Tại sao nó lại phải xa ta? Vô lý quá!"

Sáng hôm sau, bác sĩ và Tom đưa Zachary đến bến xe, theo sau họ là xe của hai sĩ quan. Hành khách rộn rịp lên xe, mua sắm thức ăn, nước uống. Đa số hành khách là thanh niên đi đầu quân. Những cô vợ trẻ đi tiễn, mặt ướt đẫm nước mắt.

Vì họ đã khóc trong đêm nên bây giờ cha con bác sĩ rất bình tĩnh trước đám đông. Đặt bàn tay rắn chắc lên vai chàng trai trẻ, ông già nói:

- Thôi con đi bình an!

- Cha ở lại bình an, chào anh Tom!

Zachary bắt tay cha chặt chẽ rồi bắt tay Tom. Ông già mừng không có Stella trong đám người đưa tiễn, ông rất sợ nước mắt của đứa con bé mà ông yêu quí.

Ông đứng lặng, cho đến khi xe chạy khuất và Tom giục mới sực tỉnh, lên xe.

Chương 12

Vị linh mục bước nhanh lên đồi, ông chỉ thanh thản dễ chịu khi có một mình. 15 năm nay, đau khổ như tách rời ông với xã hội xung quanh. Sau cái chết của vợ ông, thời gian đối với ông sao dài quá, mỗi tuần dài gần một thế kỷ. Song gần đây, ông cảm thấy hổ thẹn vì một linh mục mà sống như thế thật không xứng đáng nên ông cố gắng hòa mình với dân làng, tìm những tâm hồn vô tội trong những cái thế giới đảo điên và tội lỗi, chỉ thích gây đau khổ cho nhau.

Ông đã đến nhà nguyện Michel và rất thích nơi yên tĩnh này (vừa làm lễ sáng nay ở nhà thờ Torre, song cái xã hội quyền quý đó làm ông khổ sở ; dù là ông vốn thuộc hàng quý tộc có tiếng của triều đình Pháp xưa kia). Ông vào quỳ cạnh bàn thờ và cầu nguyện lớn tiếng, cách cầu nguyện này làm vơi ưu phiền trong lòng ông. Cố gắng hết sức để tập trung tư tưởng vào lời kinh, song lần này ông biết là không được, ông biết là ông tự dối mình: không phải ông lên đây để cầu nguyện mà còn vì một cớ khác: Ông mong mỏi được gặp cô gái nhỏ Stella. Ông đã tình cờ gặp nó một bận trong nhà nguyện này, vào một buổi sáng cách đây 3 hôm.

Lúc đó, ông đang cầu nguyện thì có tiếng động khẽ như tiếng chuột chạy chạm vào chân ghế, giật mình quay lại, ông thấy cô bé mặc áo choàng xanh, mũ cùng mầu ngồi trên một phiến đá bên ngoài. Hai tay nó cho vào túi áo, dáng bộ chững chạc, bình thản, đôi mắt xám trong vắt như hai vì sao đang nhìn ông ; khi thấy ông nhìn lại mình, nó mỉm cười như chào hỏi, nụ cười trìu mến của cô bé chợt làm ông đau nhói như một mũi dao nhọn chọc vào tim và khuôn mặt thảm đạm của ông làm cô bé ngạc nhiên:

- Thưa ông, ông đau ở đầu gối phải không?

- Phải! Nhưng ít thôi, cháu ạ!

Ông cố gắng bình tĩnh trả lời nhưng vẫn còn choáng váng, hai tay vịn vào bức vách. Hơi lúng túng vì từ lâu lắm, ông không tiếp xúc với trẻ con. Ông chưa bao giờ nhìn đến một đứa trẻ sau cái ngày đại họa xảy đến cho ông. Bao nhiêu năm ròng trôi qua mà ông vẫn chưa tự chủ được.

- Ông nên ngồi xuống cho đỡ đau, thưa ông!

Cô bé rút bàn tay nhỏ nhắn ra khỏi túi áo, phủi nhè nhẹ trên phiến đá, mời ông, môi vẫn giữ nụ cười thân mật dễ yêu. Thế là ông tuân theo lời nó không kịp suy nghĩ. Đôi chân dài của ông giang thẳng trông thật buồn cười cạnh nó. Dưới ánh nắng dịu của mùa đông, một già một trẻ ngồi cạnh nhau, cảnh tượng vừa cảm động vừa tương phản buồn cười. Cô gái bé ân cần:

- Ông đau phong thấp, phải không ạ?

- Cảm ơn cháu, không đâu. Ta ngồi hơi khó vì ta cao hơn cháu đấy mà!

Cô bé thở phào nhẹ nhõm vì được biết ông không đau như nó tưởng.

- Ba con đau tê thấp, khổ lắm cơ! Má con phải lấy muối rang nóng đắp lên lưng mỗi lần ba con đau, như thế mới đỡ. Ba con là ông Sprigg, ông biết không?

- À, không! Thế cháu tên gì?

- Cháu tên Stella, thưa ông.

Nụ cười của cô bé làm ông đau  đớn nhưng không khó chịu, ông sẵn sàng chịu sự đau đớn để thấy nó cười.

- Con ở Torquay hẳn?

- Thưa ông con ở trại Week.

- Con lên đây một mình ư?

- Thưa ông, bác sĩ Crane chờ con ở chân đồi sau khi đi khám bệnh về. Khi con vào đây con nghe ông đọc những câu hay quá. Zachary cũng đọc như ông...

- Con thích những câu ấy lắm sao?

- Thưa vâng.

- Ta cũng thích, có nhiều câu thánh thót như tiếng nhạc, lâng lâng như những đôi cánh mỏng bay lên và rớt mưa bằng ánh sáng trở xuống trần. Zachary là anh con?

- Thưa không. Anh ấy đi đánh giặc, con lên đây để cầu nguyện cho anh ấy trở về sớm. Đáng lẽ con phải đợi đúng một năm nhưng...

Cô gái bối rối cúi đầu, linh mục khuyến khích:

- Nhưng sao?

- Tối qua con nằm mơ, thấy anh ấy sợ hãi lắm, khi tỉnh dậy, con không biết làm cách nào để đến với anh ấy... Mà con cũng không biết anh ấy sợ gì, bão tố chăng?

- Và con đến đây cầu nguyện vì con biết nhà nguyện này dành riêng cho các thủy thủ gặp khó khăn ngoài bể?

- Vâng! Nhân có bác sĩ đến thăm bệnh già Sol, cháu xin ông đưa đến đây.

- Thế con đã cầu nguyện cho bạn con chưa?

- Rồi, thưa ông.

- Zachary không phải là anh con, vậy chắc là con một người láng giềng?

- Anh ấy không còn cha mẹ. Bác sĩ Crane là cha nuôi anh ấy.

Linh mục nhớ đến cậu con trai mà bác sĩ đưa về nhà mình. Ông muốn hỏi thêm nhiều điều, nhưng chợt nhận ra mình quá tò mò, nên thôi.

Ông bước tới đầu dốc nhìn xuống và thấy xe bác sĩ, con ngựa xám đang gặm cỏ. Bác sĩ ngồi trên xe.

- Này Stella! Bác sĩ sẽ lên đón con hay con xuống?

- Thưa con xuống, vì bác sĩ mỏi chân lắm, nếu lên.

- Vậy thì con nên xuống, bác sĩ đang đợi kìa. Lần khác, ta sẽ nói chuyện nhiều hơn.

- Con chưa biết tên ông.

- Charles-Sébastien-Michel de Colbert!

Cô bé tròn xoe mắt, không ngờ ngoài Zachary, trên đời này lại còn có một người khác cũng mang cái tên dài ngoằng như thế. Người đàn ông đứng tuổi thêm:

- Nhưng phần đông đều gọi ta là "Linh mục" hay "Cha".

- Cha!

Cô gái kêu lên trong khi, một lần nữa, ông choáng váng như lần đầu trông thấy cô cười.

Và ông đứng, không biết bao lâu, nhìn theo cái bóng dáng Stella như một con vành khuyên xinh xẻo...

Nhà tu hành ngạc nhiên thấy mình không quên được cô bé Stella, ông chưa từng yêu một đứa trẻ nào từ 16 năm qua, thế mà giờ đây, ông cứ nghĩ đến cô bé con của ông trại chủ Sprigg như nghĩ đến một người thân. Lạ quá thôi: khi ông viết, nó đứng sau lưng ông nhìn qua vai ; nó ngồi trên gối ông, khi ông đọc sách. Đôi khi, ông đọc to tiếng vì ông biết nó thích những câu văn bóng bẩy như thế. Nhắm mắt lại, ông thấy nụ cười nó rõ ràng như ban ngày, như ông đang đối diện với nó.

Sự cô đơn của ông bỗng như hành hạ ông hơn, nó vùng lên, bừng dậy không sao dập tắt, tựa hồ như ngọn lửa vùi kín trong tro được cời ra trước gió.

Ông cảm thấy xấu hổ vì một linh mục như ông, trách nhiệm phần hồn của tín đồ mà không quan tâm đến sự cô đơn của ai khác ngoài của chính mình. Rồi ông nghĩ đến bà Lorraine. Trong số những nhà quý tộc Anh mà ông biết, De Colbert chỉ quí có mỉnh bà ấy: nhiều tuổi và rất tế nhị. Các con trai bà chết bên Ấn Độ hết, sống đơn độc một mình nhưng chưa bao giờ ông nghe bà than thở về những đau buồn, tang tóc cùng bệnh hoạn của bà. Bà thường mời ông đến nhà, nhưng chưa bao giờ ông đáp lại lời mời ấy. Giờ đây, linh mục De Colbert đột ngột quyết định đến nhà bà.

Trời nắng, lạnh nhưng khô ráo. Người tớ gái đưa ông vào phòng khách, bà chủ vồn vã đứng lên đón ông.

- Hân hạnh cho già chừng nào. Được linh mục đến thăm, già mừng lắm!

- Lâu nay sống cách biệt với mọi người, tôi thật... bậy! Tôi nghĩ rằng...

Nhờ thái độ niềm nở, thân mật của bà, linh mục cảm thấy dễ chịu và câu chuyện càng phút càng hứng khởi.

Gần 80 tuổi rồi, nhưng nom bà vẫn quắc thước lắm: không tựa lưng bà ngồi thẳng trên ghế, đặt hai tay mang găng trắng lên gối. Chân mang hài, đặt trên ghế đẩu bọc vải thêu rất khéo. Mái tóc trắng như cước và rất dày được chải gọn lên cao, bọc ngoài một chiếc mũ ren có dây nhưng cột lại. Áo xám sáng thanh nhã. Trông bà nhỏ nhắn, nhưng đôi mắt xanh, chiếc miệng thanh tú, giọng nói trong trẻo như người còn trẻ. Trí nhớ bà không hề suy giảm và bà phán đoán nhanh, chính xác, tinh tường.

Phòng khách trang hoàng bằng bàn ghế cổ, một đàn phong cầm, màn bằng hàng mỏng nhẹ, sách và đồ sứ quý, tất cả đều có vẻ trang trọng nhưng thanh nhã. Linh mục tin là một đứa con gái chu đáo, thông minh sẽ thích ở đây! (quái? sao ông cứ nhớ mãi đến Stella?) Nó có vẻ chu đáo, thông minh đấy chứ? Ông nghĩ thêm.

Chủ nhà sai mang rượu và bánh ngọt ra mời khách. Linh mục cầm lấy và lần này ông lại ao ước thầm: giá con bé cũng được một cái bánh thế này!

Chợt, ông chú ý đến cái hộp đựng đồ thêu tuyệt đẹp bằng gỗ quý cẩn ngà voi. Chắc là quà của con trai bà từ Ấn gửi về? Hộp để mở: bên trong có mây ngăn cũng chạm trổ tỉ mỉ, đựng một gói ghim kim đỏ tươi như trái dâu tây, một cái đê khâu bằng bạc, một cặp kéo có hình cặp thiên nga và nhiều ống chỉ đủ mầu, bằng ngà. Stella đã đến tuổi học thêu thùa...

Linh mục giật mình, nhớ ra đã 5 phút qua, ông không nghe chủ nhà nói gì cả. Thật là khiếm nhã!

- Ông đang nghĩ chuyện gì thì phải...

- Xin lỗi bà, tôi nghĩ đến một đứa bé gái, chắc nó sung sướng khi nhìn thấy hộp đồ thêu xinh đẹp của bà...

- Vâng, ông nói đúng. Tôi còn có nhiều món đồ làm trẻ thích, nhưng tiếc là tôi ít quen biết chúng. Chúng làm tôi bối rối...

Giọng bà trầm tĩnh nhưng môi bà mím lại. Linh mục hối hận quá: các cháu bà cũng mất bên Ấn Độ, ông biết điều này, ông cho là mình xuẩn ngốc, cố chữa, song vô tình không định mà lại nói về mình:

- Thưa bà, tôi cũng bối rối khi gặp một đứa trẻ, tôi mất một đứa con nhỏ, lúc hơn hai tuổi trong một cuộc hải trình...

Bà lorraine nhìn khách, bà sung sướng được ông thổ lộ tâm sự, nhưng tế nhị không hỏi câu nào thêm, ông khách rất hài lòng thái độ bà. Rồi ông kể chuyện gặp Stella, sự liên tưởng kỳ quái, chuyện bác sĩ Crane và chuyện Zachary.

- Thế nào ông cũng phải dắt con bé đến thăm tôi! Noel sắp đến, ông nên đến thăm nó và mang cho nó món quà.

Vẻ lúng túng, linh mục kêu lên:

- Nhưng thưa bà, tôi không được quen biết cha mẹ cô bé, làm sao được?

- Ông quên là ông quen bác sĩ Crane ư? Và bác sĩ chắc rất mong gặp ông?

- Ông ấy bảo mong gặp tôi, nhưng không có lời mời rõ rệt...

- Tại sao ông không đến thăm bác sĩ? Gặp bác sĩ là có dịp gặp Stella. Tôi sẽ sắp đặt mọi thứ trong hộp này thứ tự, lau bụi sạch sẽ và gửi cha mang đến tặng cô bé ấy.

- Thưa bà, tôi không dám. Đây là một vật quý, kỷ niệm của bà...

Giọng ngọt ngào, người đàn bà nói:

- Xin cha đừng ngại, Stella chắc đang học thêu, với tuổi nó, công việc này thật dễ chán, có hộp đồ thêu đẹp nó sẽ thích công việc hơn. Ông xem: những ống chỉ mầu nho nhỏ này, đôi kéo có hình thiên nga này...

- Thua bà, quả thế, tôi cũng để ý...

- Phải! Tôi thấy mắt ông nhìn cái hộp một cách thích thú, tôi đã tự hỏi: chả lẽ ông ao ước cái hộp cho chính ông ư?

- Ồ! Bà làm tôi xấu hổ quá đi mất!

Quá vui, De Colbert trở lại với con người thật của mình: một người Pháp chính cống, hai tay khua khoắng nhẹ, đôi mày nhướng lên, hai mắt sáng rỡ! Bà Lorraine  cũng thích thú, cười to lên. Có phải là vị linh mục già khô, cằn cỗi như một số tín đồ thường gọi đó chăng? Bà không tin thế, bà cho rằng ông có lửa, nhưng bị vùi kín dưới tro. Giọng bà nồng ấm:

- Xin cha hiểu cho, tôi rất sung sướng tặng hộp này cho cô bé. Cha quên rằng chính cha thường giảng cho chúng tôi cái câu: "càng về già, ta càng nên dứt bỏ những của cải thế gian" sao?

Bà quay bấm chuông, cô tớ gái vào, bà ra lệnh:

- Đây là quà giáng sinh cho một bé gái, gói một lớp giấy bạc, thắt nơ rồi bao lại, cột dây chắc cho ta.

Cô tớ gái lui ra, bà lại nói với linh mục:

- Hôm nào cha trở lại, tôi mong sẽ có con bé đi cùng. Chỉ nghe ông kể, tôi đã thấy cảm mến nó rồi.

- Cảm ơn bà, nhờ bà, tôi sẽ đủ can đảm làm việc này, việc mà tôi thích lắm.

Xem tiếp chương 13 & 14