Cuộc đời thơ ấu của vua hề Sạc-Lô - Chương 3 & 4

Chương 3

Người ta mang chúng tôi đi trong một chiếc xe chở bánh về cái ngôi nhà ngày xưa, nơi tôi đã thấy cha tôi băng ngang qua vườn dạo nào. Chính người đàn bà đã sống với ông ngày ấy mở cửa ra đón chúng tôi. Dù có vẻ gì mệt mỏi, buồn rầu, bà ta coi cũng xinh đẹp, lớn người và cân đối với đôi môi dày, cặp mắt giống như mắt hươu, ánh nhìn sầu thảm. Khoảng tuổi của bà có lẽ vào độ ba mươi và tên bà là Lu-i (Louise). Bà bảo chúng tôi ông Sa-pơ-lanh không có ở nhà. Nhưng sau những thứ nghi thức thông thường và ký vào các giấy tờ đủ loại, chúng tôi được giao cho bà Lu-i, rồi được bà đưa vào trong phòng khách. Khi chúng tôi vào, một đứa trẻ nhỏ đang ngồi đùa chơi một mình trên thảm, trạc chừng bốn tuổi và thật xinh đẹp với những mắt lớn u tối, tóc nâu đầy những gút quăn. Đó là con trai của bà Lu-i, đứa em cùng cha khác mẹ với tôi.

Gia đình này sống trong hai căn phòng và dù phòng trước có những cửa sổ khá lớn, ánh sáng cũng lọt vào đó lờ mờ như trong một bể nuôi cá. Mọi vật đều có vẻ buồn như bà Lu-i. Những giấy dán tường đượm một vẻ buồn, bàn ghế đượm một vẻ buồn và con cá măng độn rơm ở trong tủ kính đã nuốt con cá măng khác to ngang cỡ nó để lộ chiếc đầu ra khỏi mõm cũng có vẻ buồn một cách thảm hại.

Trong gian phòng cuối bà Lu-i đặt một chiếc giường nhỏ cho anh em tôi. Anh Sít-nê thấy quá chật đề nghị được ngủ ở trên đi văng phòng khách. Bà Lu-i bảo:

- Ngủ đâu cứ đợi người ta sẽ bảo cho biết.

Sau câu nói ấy có sự yên lặng thật là khó chịu và chúng tôi quay trở lại phòng khách. Ở đây người ta không tiếp chúng tôi một cách niềm nở và điều ấy chẳng có gì đáng phải ngạc nhiên. Chúng tôi đến để báo cô người ta và lại là con của một người vợ đã bị ruồng rẫy. Hai anh em tôi ngồi yên, chẳng ai nói một lời nào, vừa nhìn bà Lu-i dọn bàn cho bữa tới. Bà quay sang bảo anh tôi:

- Mày giúp chút việc coi xem. Đem cái thùng kia múc đầy than đi.

Rồi quay sang tôi bà bảo:

- Còn mày đến tiệm chạp phô ở gần cửa hiệu Nai Trắng mua một hào thịt bò muối.

Tôi rất sung sướng được tránh khỏi không khí ngột ngạt ấy, bởi tôi bắt đầu sợ hãi và hối hận đã rời khỏi nhà trường. Lát sau, cha tôi trở về và ông đón tiếp chúng tôi một cách nồng nhiệt. Ông có vẻ gì hấp dẫn và tôi đã bị lôi cuốn một cách đặc biệt. Trong những bữa ăn tôi để tâm nhìn từng mỗi cử điệu của ông, quan sát cách ăn của ông và cách cầm dao cắt thịt như ta cầm cây bút chì. Và trong nhiều năm về sau tôi vẫn bắt chước y hệt như ông.

Khi bà Lu-i bảo với cha tôi là anh Sít-nê phàn nàn chiếc giường quá hẹp, cha tôi bảo anh ngủ trên đi văng bằng sắt. Sự thắng thế ấy của anh Sít-nê làm bà Lu-i càng thêm oán ghét và bà càng ngày càng tỏ ra thật cay nghiệt đối với anh ấy. Thường xuyên bà cứ phàn nàn về anh cho cha tôi nghe. Nhưng dù trông bà khó chịu, buồn thảm, bà không bao giờ đánh tôi cũng không  hề đe dọa tôi lần nào. Nhưng vì bà không thương anh Sít-nê nên tôi gờm sợ bà lắm. Bà lại uống rượu khá nhiều, điều đó càng làm tôi sợ nhiều hơn. Khi bà say rồi bà có dáng vẻ của người lạc lõng, mất trí. Bà mỉm nụ cười thích thú và nhìn đứa con xinh đẹp của bà rồi vừa chửi nó vừa nói những lời dơ bẩn và tục tĩu nhất. Tôi cũng không hiểu vì sao tôi không hề có sự tiếp xúc nào với đứa bé ấy. Dù là anh em cùng cha khác mẹ, tôi nhớ hình như tôi cũng chưa từng trao đổi với nó một lời nào cả, và tôi hơn nó độ chừng bốn tuổi. Đôi khi bà Lu-i uống rượu say và ngồi yên lặng với một vẻ mặt thật là khó thương, khiến tôi lại sống trong cơn khiếp sợ lạ lùng. Nhưng anh Sít-nê lại chẳng thèm để ý gì đến bà. Thường thường anh trở về nhà rất trễ. Còn tôi, người ta buộc hết học phải về ngay để chạy đây đó mua những thức này thức khác và làm công việc lặt vặt trong nhà.

Bà Lu-i đưa tôi đến học trường thành phố, điều này cũng làm cho tôi thay đổi phần nào, bởi sự hiện diện của nhiều trẻ khác khiến tôi cảm thấy bớt nỗi cô đơn. Vào ngày thứ bảy, chúng tôi chỉ học buổi sáng, nhưng cái ý nghĩ buổi chiều ở nhà lau sàn, chùi dao và cái hình ảnh của bà Lu-i say sưa bí tỉ khiến tôi cảm thấy chẳng thích thú gì trong cái thời khoảng được nhàn rỗi đó. Trong khi tôi lo chùi cho sáng mấy con dao thì bà tiếp một bà bạn, nhậu vào, trở nên khó chịu nhiều hơn, thở than vì phải săn sóc chúng tôi mà bà coi như là một việc làm hết sức bất công. Tôi nhớ có nghe bà nói : “Với cái thằng này (muốn ám chỉ tôi) nghĩ cũng còn được, nhưng cái thằng kia là một đống rác cần đem gởi vào một nhà trừng giới… Hơn nữa, nó cũng không phải là con của anh Sác-li (Charlie)”. Lối bà nhục mạ anh Sít-nê tôi làm tôi sợ hãi và thật chán nản. Tôi đến nằm dài buồn thảm trên giường, không sao ngủ được. Lúc ấy tôi chưa tám tuổi nhưng đó là chuỗi ngày dài nhất và buồn bã nhất của cuộc đời tôi.

Vào một buổi chiều thứ bảy, trong lúc cảm thấy bải hoải tinh thần như thế, tôi nghe điệu nhạc vẳng ra từ một căn phòng nào đó xuyên qua cửa sổ của căn phòng cuối, bản nhạc là một hành khúc Ái Nhĩ Lan, kéo dài giữa những tiếng la náo động của những đứa trẻ và những tiếng cười của những đàn bà bán dạo. Bao nhiêu sự sống hầu như thản nhiên trước sự đau khổ của tôi, thế mà tiếng nhạc xa dần tôi lại thầm tiếc không được tiếp tục nghe nữa. Ở một tiệm nước cách đấy không xa tôi nghe tiếng nói của những khách hàng vào giờ khép cửa, những kẻ nhậu say hát hò, những câu điệp khúc một thời phổ biến. Khi anh Sít-nê về trễ –thường thường thì anh vẫn đi về trễ – anh đến lùng ráp một lần trong cái tủ đựng đồ ăn trước khi vào ngủ. Điều đó khiến bà Lu-i nổi giận và vào một tối nhậu say bà bước vào phòng lôi hết chăn phủ ở trên giường anh, bảo anh phải cút đi ngay. Nhưng anh Sít-nê chừng như chờ đợi việc xảy ra thế. Lập tức, anh thò tay vào dưới gối rút ra một lưỡi dao nhọn ba khía, đó là cái vặn nút chai mà anh đã mài nhọn mũi từ lâu. Anh nói:

- Nào lại gần đi, thử xem tôi có dám đâm cái này vào ngực bà không.

Bà ta lùi lại, hết sức kinh ngạc:

- Thằng quỉ, nó định giết tôi.

Anh Sít-nê nói bằng giọng kiểu cách:

- Đúng vậy, tôi sắp giết bà.

- Đợi ông Sạc-li trở về coi nào.

Nhưng cha tôi ít khi về nhà lắm. Tôi còn nhớ lại một chiều thứ bảy ông và bà vợ đã nhậu say mèm và cũng không hiểu tại sao chúng tôi cùng ngồi với vợ chồng người chủ phố trong cái phòng khách của họ ở nơi tầng dưới. Dưới ánh đèn hơi, cha tôi có vẻ xanh xao một cách thảm hại và đang lúc có những điều buồn bực trong lòng ông cứ lầm bầm trong miệng không dứt. Đột nhiên ông thọc tay vào túi áo lôi ra cả một nắm tiền, ném mạnh xuống đất, những đồng tiền vàng tiền bạc chạy loạn khắp nơi. Tác động của sự việc ấy thật là lạ lùng. Chẳng ai có một cử chỉ nào cả. Vợ người chủ phố ngồi yên với một vẻ mặt khó thương nhưng tôi bắt gặp mắt nhìn soi bói của bà dõi theo một đồng tiền vàng ngoằn ngoèo chạy vào dưới chiếc ghế bành đặt tại góc phòng. Mắt tôi cũng theo dõi nó như thế. Thấy mọi người cứ như chết sững cả, tôi tự bảo mình tốt hơn là nên tìm lượm số tiền bị vung vãi đó. Bà chủ phố và những người khác bắt chước tôi nhưng cũng không dám hành động một cách ngang nhiên dưới cặp mắt nhìn đe dọa của cha tôi.

Vào một thứ bẩy, sau giờ tan học, tôi trở về nhà không thấy ai hết. Theo như thường lệ thì anh Sít-nê suốt ngày đi đá bóng tròn và bà chủ phố bảo cho tôi biết rằng bà Lu-i dẫn con đi đâu từ lúc sáng sớm. Phản ứng đầu tiên của tôi là thấy nhẹ nhàng vì như thế là tôi khỏi lau nhà và khỏi chùi dao. Tôi đợi khá lâu để được ăn trưa nhưng rồi tôi phải ngạc nhiên tự hỏi phải chăng thiên hạ đã bỏ rơi mình. Rồi càng về chiều cũng vẫn không thấy ai cả. Chuyện gì đã xảy ra đây? Gian phòng có một vẻ gì đáng sợ và sự trống rỗng của nó làm tôi khiếp hãi. Tôi đã bắt đầu thấy đói cồn cào. Nhìn trong tủ đựng đồ ăn, không còn chút gì. Khó lòng chịu đựng lâu hơn cảnh tượng của những chiếc cửa mở rộng trong cảnh vắng không, và quá sầu não tôi ra khỏi nhà lang thang suốt cả buổi chiều nhìn ngắm người ta bày bán trong các chợ búa gần đấy. Rồi tôi lang thang trong các đường phố có nhiều cửa hàng, ném những tia nhìn thèm khát vào trong tủ kính của những gian hàng thực phẩm, trong đấy những thịt heo quay, bò nướng, những củ khoai màu vàng óng tẩm trong nước “xốt” hấp dẫn lạ thường. Tôi bỏ nhiều giờ coi mấy người bán thuốc dạo rao hàng, quang cảnh khá nhộn nhịp ấy giúp tôi quên được phần nào cơn đói đang giày vò mình và cái thảm cảnh hiện tại của tôi.

Khi tôi về nhà thì trời đã tối. Tôi gõ vào cửa nhưng không nghe ai trả lời. Người ta đi hết cả rồi. Quá đỗi khốn khổ tôi đến một góc phố vắng cách đấy không xa ngồi xuống vệ đường, nhìn xem thử có ai trở về không. Tôi thật mệt nhọc và khổ sở, tự hỏi anh Sít-nê tôi bây giờ ở đâu. Gần khuya, đường phố vắng người, chỉ có lang thang vài kẻ bộ hành về trễ trong đêm. Tất cả ánh đèn trong các cửa tiệm dần dần tắt hẳn, trừ các ánh sáng nơi nhà bào chế và những tiệm nước. Tôi thấy tuyệt vọng hoàn toàn.

Thình lình tôi nghe tiếng nhạc vang lên. Khúc nhạc say sưa không biết chừng nào từ quán Nai Trắng vẳng lại lan truyền âm thanh vui nhộn trên cả khu vực vắng vẻ. Đó là bài hát “Cây kim ngân hoa và con ong” do một tay nhạc tài tình điều khiển trên dương cầm nhỏ, đệm theo giọng kèn. Từ xưa đến giờ tôi chưa từng để ý đến nhạc khúc êm đềm nào cả nhưng bản nhạc này sao mà du dương thơ mộng đến thế, vui vẻ và đầy nhiệt tình, ấm áp vỗ về khiến tôi quên được nỗi niềm tuyệt vọng và tôi băng ngang qua đường tìm đến nơi có tiếng nhạc vang ra. Tôi thấy người chơi dương cầm mù lòa, giương những hố mắt trống rỗng và một người khác có một vẻ mặt đần độn, chán chường, sử dụng cây kèn.

Bản nhạc kết thúc mau quá và sau khi các nhạc công đi rồi đêm tối lại càng buồn thảm chừng nào. Mệt nhọc, chân tay mỏi rời, tôi lội ngược về đến nhà, không tự hỏi rằng bây giờ đã có ai chưa. Tôi chỉ muốn mỗi một điều là được đi nằm. Nhưng trong lúc ấy tôi thấy lờ mờ hình bóng một người đang băng qua vườn vào nhà. Đó là bà Lu-i với đứa con nhỏ chạy trước. Tôi rất kinh ngạc thấy bà bước đi khập khiễng và bà nghiêng hẳn một bên. Ban đầu tôi đoán bà đã bị thương nơi chân trong một tai nạn nào đó, nhưng rồi tôi mới nhận rõ là bà nhậu say bí tỉ. Từ trước tôi chưa bao giờ nhìn thấy những người say sưa đi đứng xiêu vẹo như thế. Tôi nghĩ giữa cái tình trạng bà ta như thế tốt hơn mình đừng nên chường mặt ra và hãy cứ đợi bà ta vào nhà xem sao. Lát sau, bà chủ phố đi tới và tôi đi vào với bà. Trong khi tôi rón rén bước lên cái cầu thang không có ánh đèn, hy vọng có thể đi ngủ mà không ai chú ý đến thì bà Lu-i từ đâu hiện ra lảo đảo ở trên bực thang. Bà nói:

- Mày vào đây để làm gì? Ở đây đâu phải nhà mày.

Tôi đứng lặng câm, không biết nói gì. Bà tiếp:

- Mày không được ngủ đây nữa, tối nay. Tao chán bọn mày quá rồi. Cút đi. Cả mày và cả thằng anh mày nữa. Để cha bọn mày lo lắng cho bọn mày đó.

Không lưỡng lự một phút, tôi quay người lại bước xuống cầu thang, ra ngoài. Tôi không còn mệt nhọc nữa, tôi như lấy lại sức lực. Tôi đã từng nghe cha tôi là người khách hàng của một quán rượu cách đó non một cây số và tôi tiến về hướng đó hi vọng tìm gặp ông. Nhưng tôi đã thấy bóng ông tiến lại, nổi bật dưới ánh đèn đường. Vừa khóc thút thít, tôi nói:

 - Bà ấy không cho con vào, chắc bà đã uống nhiều rượu.

Chúng tôi lại đi về nhà và tôi nhận thấy bước chân cha tôi cũng đi lảo đảo. Ông mở cửa phòng khách bước vào, đứng đấy yên lặng với vẻ đe dọa và nhìn vào bà Lu-i. Bà ta cũng đứng bấu tay vào thành lò sưởi, loạng choạng ở trên đôi chân. Ông hỏi:

- Tại sao không cho chúng vào?

Bà ta nhìn ông với vẻ sợ hãi rồi hạ giọng nói:

- Anh nữa, anh muốn đi chơi nơi nào thì cứ việc đi.

Thình lình cha tôi với tay cầm lấy cái bàn chải áo khá nặng để trên tủ nhỏ gần đấy ném mạnh vào bà. Bàn chải đập thẳng vào má của bà. Đôi mắt của bà nhắm lại rồi bà té nằm bất tỉnh dưới đất như bà tiếp nhận với niềm an ủi sự rơi vào trong quên lãng.

Hành động cha tôi khiến tôi bối rối. Một sự thô bạo như thế khiến tôi mất hết tấm lòng tôn kính đối với ông ta. Sau đó, những gì xảy ra, kỷ niệm của tôi thật là mơ hồ. Hình như lát sau khi anh Sít-nê trở về, cha tôi bảo hai chúng tôi đi ngủ rồi ông ra đi trở lại.

Tôi được biết chuyện cha tôi và bà Lu-i có điều cãi cọ với nhau vào sáng hôm ấy vì ông để bà ở nhà cả ngày và đến nơi người anh ruột, chủ nhân của nhiều tiệm nước trong khu phố ấy. Ông có rủ bà cùng đi nhưng cảnh ngộ bà khó xử nên bà từ chối, do đó cha tôi đã đi một mình, và để báo thù trở lại, bà cũng bỏ đi nới khác.

Bà Lu-i yêu cha tôi. Dù tôi còn quá bé nhỏ nhưng tôi cũng cảm nhận được điều đó khi thấy đôi mắt của bà buổi chiều mà bà đứng trước lò sưởi sững sờ vì bị xúc phạm bởi cái thái độ của ông vừa qua. Tôi cũng chắc rằng cha tôi cũng yêu bà ấy. Tôi được thấy những sự kiện chứng minh điều đó. Ông cũng thường tỏ ra dịu dàng, tình tứ với bà, và mỗi buổi tối đi đến hí trường ông vẫn chào bà cẩn thận với những tiếng nói ngọt ngào. Sáng chủ nhật nào không nhậu rượu, ông dùng điểm tâm với chúng tôi, vừa kể lại cho bà nghe những màn diễn xuất của các nghệ sĩ bạn hữu và chúng tôi nghe ông nói một cách say mê. Tôi ngồi quan sát ông như con thú săn rình mồi, thâm nhập từng mỗi cử điệu của ông. Một hôm gặp lúc vui vẻ ông lấy chiếc khăn quấn vào trên đầu và chạy đuổi bắt đứa bé chung quanh chiếc bàn vừa nói : “Ta là vua xứ Thổ Nhĩ Kỳ đây”.

Vào tám giờ tối, trước khi đi đến hí trường ông thường ăn sáu trứng sống đánh trong rượu vang. Ít khi ông dùng những thức ăn khác nặng hơn. Cứ thế mà ông chịu đựng qua ngày. Ông cũng ít khi về nhà và nếu cần phải trở về là để cho tiêu số rượu mà ông đã uống ở các quán.

Một hôm bà Lu-i phải đón tiếp đại diện của Hội Bảo vệ trẻ em chống lại những sự ngược đãi. Điều này làm bà tức giận hết sức. Mấy người này sở dĩ đến vì Cảnh sát đã báo cáo tìm thấy chúng tôi nằm ngủ lúc ba giờ sáng ở bên vệ đường. Đó chính là đêm mà bà Lu-i đóng cửa không cho chúng tôi vào nhà. Cảnh sát đã bắt buộc bà mở cửa để chúng tôi vào.

Sau đó ít lâu, trong lúc cha tôi đi trình diễn ở các tỉnh, bà Lu-i nhận được một lá thư báo tin mẹ tôi đã ra khỏi nhà thương điên. Vài ngày sau, bà chủ phố vào cho biết dưới nhà có người đàn bà muốn gặp Sít-nê và Sạc-lơ. Bà Lu-i nói:

- Mẹ chúng mày đó.

Có một phút giây bối rối, rồi anh Sít-nê vọt xuống cầu thang để nhào trong tay mẹ tôi, còn tôi thì quấn trên đôi gót chân của bà. Chúng tôi đã tìm gặp lại người mẹ ngày xưa, người mẹ dịu hiền, tươi vui đang ôm chúng tôi siết chặt vào lòng.

Bà Lu-i và mẹ tôi cảm thấy lúng túng trong chuyện gặp gỡ nên mẹ tôi bước ra ngoài chờ đợi, trong lúc hai anh em tôi gom nhặt đồ đạc của mình. Chẳng có chút gì thù hận bất bình ở giữa hai bên, vì bà Lu-i tỏ ra hết sức ngọt ngào và cả khi bà nói lên lời chào tạm biệt với anh Sít-nê bà cũng dịu dàng, thân thiện.

Chương 4

Mẹ tôi thuê được gian phòng trong một ngõ hẻm sau hãng sản xuất dưa muối và tương hạt cải. Cứ mỗi buổi chiều, mùi chua của dấm tràn đầy không khí. Nhưng tiền thuê nhà khá rẻ và bây giờ chúng tôi được đoàn tụ cùng nhau. Sức khỏe mẹ tôi khá tốt và không bao giờ chúng tôi nghĩ rằng bà đã từng bị ốm đau trầm trọng.

Tôi không còn nhớ được nhiều đời sống chúng tôi trong thời khoảng ấy. Chừng như hồi đó cũng không có gì quá đỗi khó khăn và cũng không có những vấn đề gì nan giải. Số tiền cấp dưỡng mười đồng hàng tuần lễ về phần cha tôi trở lại tương đối đều đặn và dĩ nhiên là mẹ tôi bắt đầu trở lại công việc thêu đan của bà.

Dầu sao ở thời kỳ ấy tôi còn giữ được kỷ niệm về một sự kiện như sau : đầu đường mà chúng tôi ở có một lò mổ, người ta thường dắt cừu đi ngang trước nhà của chúng tôi để đưa đến nơi xẻ thịt. Có lần một con trong đám cừu thoát chạy, luồn trong hè phố làm lũ trẻ con ầm ĩ cả lên. Đứa thì cố đuổi bắt nó, đứa thì trượt chân ngã té. Nhìn theo con thú vừa nhảy vừa kêu lồng lộn tôi buồn cười quá, vì sự việc ấy có một vẻ gì hài hước. Nhưng khi người ta bắt được nó rồi vội lôi nó về nhà mổ, thực tế của bi kịch ấy làm tôi đau lòng nên tôi chạy vào trong phòng vừa khóc vừa kêu với mẹ : “Họ sắp giết nó mẹ ơi! Họ sắp giết nó rồi mà!”. Nhiều ngày về sau tôi vẫn còn nhớ lại cuộc săn đuổi trong buổi xế chiều mùa xuân dạo ấy. Tôi cũng tự hỏi sự kiện đã xảy ra ấy có hàm chứa những mầm mống cho các cuốn phim mà tôi thực hiện về sau, là sự hỗn hợp của buồn và vui như thường xảy ra trên đời này.

Bây giờ trường học mở thêm cho tôi những chân trời mới : tôi được học sử, học thơ và học khoa học. Nhiều môn học này tôi thấy tầm thường và chán nản quá, nhất là về môn toán học : môn toán cộng trừ khiến tôi hình dung một gã nhân viên ngồi sau cái quầy thu tiền mà theo tôi nghĩ chỉ có nhiệm vụ duy nhất là để ngăn ngừa khách hàng đánh cắp khi thối bạc lại. Sử ký chỉ chứa những chuyện hung tàn bạo ngược, những chuyện đoạt ngôi, giết chúa, và những ông vua giết vợ, giết anh, giết em, giết những con cháu của mình. Còn về địa lý thì toàn là những bản đồ. Và về thi ca thì không có gì khác hơn là lối tập luyện thể thao cho cái trí nhớ. Nền giáo dục nhồi nhét cho tôi những mớ tri thức và những sự kiện chỉ làm cho tôi chán ghét mà thôi. Nếu có một kẻ nào đó chịu khó ít nhiều đọc cho tôi nghe về mỗi môn học một lời khích lệ có thể kích động được trí não tôi, cho tôi tiếp thu những gì vui vẻ hơn là sự kiện khô khan, giúp tôi giải trí và tò mò hơn bằng cách xoay đổi con số, hoặc cho tôi học trên những bản đồ ít nhiều thi vị, nếu người ta giúp tôi có cách nhìn mới lạ hơn về sử ký, nếu người ta dạy cho tôi âm nhạc ở trong thi ca thì tôi có thể hy vọng trở nên một người thông thái.

Từ khi mẹ tôi trở về sống với chúng tôi bà lại khởi sự khích động nơi tôi khiếu thích đối với sân khấu. Luôn luôn bà cho tôi biết rằng tôi không thiếu tài năng. Nhưng mãi đến cái tuần lễ trước ngày Giáng sinh, khi nhà trường cho trình diễn “Cô Bé Lọ Lem” tôi mới cảm thấy muốn được phô bày những gì mẹ tôi đã dạy cho tôi. Không hiểu vì lý do nào tôi không được dự vào việc phân vai và trong thâm tâm tôi rất muốn thế vì tự nghĩ rằng mình giữ một vai trong vở tuồng đó nhất định hay hơn những kẻ đã được chỉ định. Vai nam trong tuồng thật là buồn rầu, khô khan. Vai nữ đã không có chút nhiệt tình lại thiếu năng khiếu hài hước. Các câu đối đáp theo lối học bài ở trường, đôi lúc nhấn mạnh các đoạn bằng một giọng điệu giả tạo hết sức khó nghe. Nếu được thủ vai một trong những người chị xấu xa của cô Lọ Lem, với những lớp tuồng mẹ tôi vẫn thường truyền dạy cho tôi thì tôi thích thú biết là chừng nào. Tuy vậy, cô bé thủ vai Cô Bé Lọ Lem đã thu hút tôi. Cô ta vừa đẹp, vừa thanh, trạc mười bốn tuổi và tôi thấy yêu cô ta lạ lùng. Nhưng cô ta thật xa tầm tay với của tôi nhiều quá, kể trên bình diện xã hội cũng như cách biệt tuổi tác.

Khi tôi dự cuộc trình diễn tôi thấy vở tuồng thật là thảm hại, cố nhiên không kể vẻ đẹp của cô đào chính đã khiến cho tôi buồn bã phần nào. Nhưng hai tháng sau, khi người ta cho tôi đi các lớp để trình diễn bài “Con Mèo của Cô Pri-Xi-La (Priscilla)” thì tôi gặt được thành công hết sức vẻ vang. Bài đó là một độc tấu mẹ tôi thấy đem bày bán trong một tiệm sách và thấy nó quá ngộ nghĩnh bà đã nhìn xuyên qua kính mà chép đem về để dạy cho tôi. Trong một giờ chơi tôi đọc cho một thằng bạn tôi nghe. Ông Rết, giáo sư của tôi, đang ngồi làm việc bỗng ngẩng đầu lên và ông cảm thấy thích thú nên lúc mọi người trở lại chỗ ngồi ông bảo tôi trình diễn lại làm sao cho cả lớp vui vẻ cười vang. Sau lần đó danh tiếng tôi vang dậy và qua ngày sau người ta đưa tôi đi từ lớp này sang những lớp khác, ở những phòng học con trai cũng như con gái để mà trình diễn bài độc tấu ấy. Kể ra tôi cũng đã từng bước lên sân khấu thủ một vai trò thay thế mẹ tôi trước một khán giả đông đảo khi tôi chỉ mới lên năm nhưng đây mới là lần đầu tiên tôi nếm được sự vinh quang của mình. Nhờ vậy trường học trở thành một nơi hấp dẫn hơn nhiều. Và từ một đứa trẻ nhỏ khuất lấp, cả thẹn, tôi thành một trung tâm điểm gợi sự chú ý của các thầy dạy cũng như bạn học. Tinh thần học tập của tôi nhờ vậy mà cũng mở mang thêm lên. Nhưng sự học tôi phải đành bỏ dở khi tôi nhập vào đoàn vũ “Tám Đứa Trẻ Con” ở Lên-Cát-Sia (Lancashire).

Cha tôi quen ông Giác Sơn, bầu gánh đoàn vũ, nên khuyên mẹ tôi cho tôi gia nhập đoàn ấy để bước vào nghề sân khấu cho quen vừa kiếm được tiền giúp đỡ gia đình : tôi được ăn ở và mỗi tuần lễ mẹ tôi lãnh được nửa đồng cua-ron (couronne). Ban đầu nghe khuyên như thế mẹ tôi có vẻ dè dặt nhưng đến ngày làm quen được ông bầu và gia đình ông, bà mới bằng lòng.

Ông bầu Giác-Sơn (Jackson) ở vào trạc tuổi năm lăm. Vốn là thầy giáo trong vùng. Ông có ba trai một gái cũng đều gia nhập ban vũ. Ông là người Thiên Chúa Giáo ngoan đạo và sau khi vợ qua đời ông đã tham khảo ý kiến bầy con trước khi tục huyền. Bà vợ thứ hai này lớn hơn ông ít tuổi và ông kể lại cho chúng tôi nghe một cách thành khẩn trang nghiêm ông đã cưới bà trong trường hợp nào. Sau khi quyết định tục huyền ông đã cho đăng lời rao tìm vợ trên một nhật báo và nhận được hơn ba trăm lá thư. Sau khi cầu trời hướng dẫn cho ông trong cuộc tìm kiếm khá quan trọng ấy, ông chỉ mở ra một lá mà thôi và đó là thư bà vợ hiện giờ. Bà cũng là cô giáo làng và như đáp đúng lại lời cầu nguyện của ông, bà cũng là người Thiên Chúa.

Tạo hóa đã không ban phát cho bà Giác-Sơn đặc ân có được hình thể hấp dẫn mà bà cũng chẳng có một chút gì gợi cảm. Tôi còn nhớ lại khuôn mặt xanh xao gầy gò của bà với lớp da nhăn, có lẽ vì bà đã phải sinh con vào lúc tuổi tác khá cao. Nhưng bà là một người vợ thủy chung và khá tận tâm. Dù vẫn con phải cho con bú mớm bà đã cố gắng rất nhiều để giúp đỡ ông điều khiển đoàn vũ. Câu chuyện bà gặp gỡ ông được bà kể lại với những chi tiết khác hẳn. Theo bà thì họ cũng đã trao đổi thư từ với nhau nhiều ngày nhưng chưa hề thấy mặt nhau lần nào. Mãi gần ngày cưới, khi cùng hội kiến ở trong phòng khách giữa lúc gia đình của bà chờ đợi ở gian kế cận thì ông Giác Sơn chỉ nói với bà một câu : “Cô là tất cả những gì mà tôi chờ đợi”. Và bà cũng nói với ông tương tự như thế. Để kết luận lại, bà bảo với chúng tôi bằng một giọng nói có vẻ khó chịu : “Nhưng mà tôi chẳng chờ đợi làm mẹ đến tám đứa trẻ thế này”.

Sau sáu tuần lễ học tập, người ta bảo tôi có thể ra nhảy trình diễn được rồi. Bây giờ tôi hơn tám tuổi, tôi đã mất hẳn tự tin và ra công chúng lần đầu tôi thật sợ hãi. Tôi nhấc chân lên một cách khó khăn lạ thường. Trình diễn một mình như những đứa khác còn đòi hỏi phải học thêm nhiều tuần lễ nữa.

Tôi cũng chẳng thích thú gì được làm vũ công trong đoàn tám người. Cũng như mấy đứa trẻ khác, tôi muốn có màn diễn xuất riêng biệt cho mình. Như vậy, không chỉ mình hưởng được nhiều tiền hơn nhưng còn vì tôi cảm thấy điều đó thích thú hơn là chuyện vũ. Tôi vẫn muốn thành kịch sĩ nhưng phải có gan diễn xuất một mình. Tuy thế, tấm lòng ưa thích làm một cái gì hơn là việc nhảy đẩy tôi tìm tới yếu tố hài hước. Tôi mơ trình diễn một màn có hai nhân vật, hai đứa trẻ mặc theo lối lang thang trong các hài kịch. Tôi bàn với một đứa khác và cùng quyết định hợp tác với nhau. Chúng tôi sẽ tự xưng là “Những Tên Triệu Phú Lang Thang”, sẽ mang thêm râu trên mép và những kim cương to bự trên ngón tay mình. Chúng tôi cho rằng như thế là có đủ vẻ ngộ nghĩnh và kiếm ăn được, nhưng mà than ôi, giấc mơ ấy không bao giờ có thể thực hiện.

Khán giả rất thích đoàn vũ vì theo lời ông bầu gánh thì chúng tôi chẳng giống một chút nào với những trẻ con hoang đàng. Ông thường hãnh diện tuyên bố là bọn trẻ của đoàn ông không hề hóa trang bao giờ và vẻ hồng hào trên đôi má chúng là nét tự nhiên. Nếu có đứa nào ở trong chúng tôi có vẻ xanh xao trước khi bước vào sân khấu, ông bắt buộc nó lấy tay bẹo má cho được hồng ra. Hồi đến Luân Đôn sau khi trình diễn hai ba rạp tiếp trong đêm chúng tôi đã quên điều đó mãi cho đến lúc ông bầu ở ngoài hành lang nhìn vào mở rộng miệng cười và đưa tay chỉ lên má khiến chúng tôi sực nhớ lại cố dẹp cái vẻ mệt nhọc buồn thảm của mình và nở những nụ cười tươi.

Khi chúng tôi đi lưu diễn các tỉnh, ban ngày chúng tôi vẫn đến học ở các trường những nơi chúng tôi đi qua và điều này chỉ bổ sung thêm kiến thức của tôi một cách chậm chạp.

Vào dịp Giáng Sinh chúng tôi được đưa tới một sân khấu lớn ở Luân Đôn trình diễn một màn kịch câm trong vở “Cô Bé Lọ Lem”. Tôi được đóng chung với Mác-Xơ-Lanh (Marcelin), một vai hề rất nổi tiếng của sân khấu và vở kịch thâu gặt được kết quả hết sức khả quan. Mặc dù Mác-Xơ-Lanh không thủ vai gì quan trọng nhưng ông ta là cái đinh thu hút mọi sự chú ý. Những năm về sau, Mác-Xơ-Lanh sang Nữu Ước, tại đây ông rất thành công. Nhưng đến khi các rạp hát loại những màn xiếc kiểu đó thì công chúng quên ông ngay. Vào năm 1918 khi tôi ở Lốt Ăng-Jơ-Lết (Los Angelès), dự một buổi xiệc và biết có Mác-Xơ-Lanh trong đoàn, tôi chờ đợi xem tên ông được quảng cáo lớn nhưng thật buồn lòng khi biết ông chỉ là một vai hề trong số đông đảo các vai hề khác của gánh hát đó, một gánh hát thật tầm thường. Sau khi vãn hát tôi có tìm đến phòng ông và tự giới thiệu, nhắc lại ngày xưa tôi đã thủ vai với ông trong màn kịch câm ở tại Luân Đôn, nhưng ông tỏ ra chẳng sốt sắng gì. Dưới lốt hóa trang của một vai hề ông vẫn có vẻ thảm hại, chìm đắm trong nỗi buồn phiền. Cách một năm sau tôi nghe tin ông tự tử ở tại Nữu Ước. Người ta chỉ đọc thấy trên mặt báo vài hàng ghi rằng một người thuê nhà cùng chỗ với ông nghe một phát súng và đến nơi thấy ông nằm trên đất, khẩu súng nơi tay, dĩa hát vẫn còn quay bản “Trăng Sáng Và Hoa Hồng”.

Khá nhiều kịch sĩ nổi danh người Anh đã phải tự tử. Đên-Vin (Denville), một tay diễn viên hài kịch thượng hạng, ngày kia bước vào tiệm rượu nghe người nào đó nhận xét về ông : “Thằng cha đó hết thời rồi”. Chỉ vài giờ sau, ông đã bắn một phát súng vào đầu ở bên bờ sông Ta-mi. Xê-Ri-Đăng (Sheridan), một trong những diễn viên gạo cội của sân khấu Anh cũng đã tự tử như thế trong công viên Gờ-Lát-Gô (Glasgow) vì đến trình diễn ở đây không gặt hái được thành công như ý. Phờ-Răng Côn (Frank Coyne)mà tôi đã từng hợp tác trong sự trình diễn là một kịch sĩ vui vẻ, hăng hái rất được nổi tiếng. Ông rất dễ thương, bao giờ cũng thấy tươi cười. Nhưng một buổi chiều khi sắp dạo chơi với vợ trên chiếc xe ngựa ông ta bảo đã bỏ quên vật gì phải quay vào nhà. Hai mươi phút sau, người vợ chờ đợi quá lâu trở lại tìm ông thì thấy ông đã nằm chết ở trong phòng tắm giữa một vũng máu, trên tay còn lưỡi dao cạo : ông đã cắt cổ, gần như cắt luôn đầu mình.

Khá nhiều nghệ sĩ mà tôi được xem khi còn nhỏ bé, nhưng người đã gây ấn tượng sâu đậm nơi tôi, không phải luôn luôn là hạng thành công nhưng thường là những người có nhân cách lạ lùng. Dát-Mô (Jarmo), người trình diễn trò xảo thuật lăn cây thường tự buộc mình theo một kỷ luật hết sức chặt chẽ, và buổi sáng nào ông cũng ép mình luyện tập trong nhiều giờ liền. Dù sống một cách đạm bạc, cuộc đời tám đứa trẻ trong đoàn vũ thật dễ chịu. Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn có gây gổ cùng nhau nhưng điều đó chẳng có gì đáng kể. Ông Giác Sơn vốn là người nhân hậu. Trước khi tôi rời khỏi đoàn độ chừng ba tháng, chúng tôi có đến tham dự một buổi trình diễn kiếm tiền giúp đỡ cha tôi lúc đó đau nặng. Rất nhiều nghệ sĩ tham dự và không nhận tiền thù lao, kể cả tám đứa trong đoàn của tôi. Tối đó, cha tôi xuất hiện ở trên sân khấu, thở rất nặng nhọc và rán hết sức để nói vài lời cảm tạ. Tôi đứng ở bên sân khấu nhìn ông và không ngờ rằng ông sắp lìa đời.

Khi ở Luân Đôn, cứ mỗi cuối tuần tôi trở về thăm mẹ tôi. Bà nhận thấy rằng tôi xanh xao quá, gầy rạc hẳn đi và công việc vũ rất làm hại phổi. Vì quá lo lắng, bà viết thư gởi cho ông Giác Sơn nói về chuyện đó khiến ông nổi giận trả tôi về nhà, bảo rằng tôi chẳng đáng gì mà phải gây nên lắm điều lo nghĩ cho một bà mẹ quá ưu tư vậy. Chỉ vài tuần sau quả nhiên tôi bị bệnh suyễn. Cơn suyễn khá nặng đến nỗi mẹ tôi cứ nhất định rằng tôi bị bệnh lao và bà mang tôi lập tức vào bệnh viện để khám nghiệm. Người ta nhận thấy phổi tôi rất tốt, nhưng tôi đang bị suyễn nặng. Trong nhiều tháng dài tôi phải chịu đựng cơn bệnh dày vò, hô hấp thật là hết sức khó khăn. Nhiều lúc tôi muốn nhảy qua cửa sổ mà chết cho rồi. Những lần xông hơi bằng các lá cây, chăn trùm kín đầu, giúp tôi dễ chịu phần nào. Dần dần rồi bệnh cũng được thuyên giảm.

Những kỷ niệm về thời đó lúc sáng lúc mờ trong trì não tôi. Ấn tượng rõ nhất vẫn còn lưu lại cho đến bây giờ là chúng tôi bị chìm ngập trong cái vũng bùn nghèo khổ. Tôi cũng không sao nhớ lại hồi đó anh Sít-nê tôi ở đâu. Vì anh hơn tôi bốn tuổi, anh chỉ bước vào trong tư tưởng tôi thỉnh thoảng mà thôi. Có lẽ anh sống với ông ngoại tôi để giúp an ủi phần nào mẹ của chúng tôi. Và cứ như thế chúng tôi dời nhà liên tục, tìm những nơi nào rẻ nhất, dù tồi tàn nhất để sống qua ngày.

Tôi ý thức thật rõ ràng cảnh khổ ở trong đời sống xã hội mà sự nghèo nàn đã buộc chúng tôi chấp nhận. Dù là những đứa nghèo khổ mạt hạng thì vào những ngày chủ nhật, chúng vẫn có thể dùng bữa ở nhà. Kẻ nào không ăn tại nhà vào những buổi chiều chủ nhật thuộc vào thành phần của kẻ ăn xin, và đó chính là trường hợp của chúng tôi vậy.

Xem tiếp chương 5 & 6