Bí Mật Dầu Lửa - Phần I - Chương 1 & 2

PHẦN THỨ NHẤT

Chương 1

THÁNH DƯỢC

Dược sư Peter Kier không phải như vô số ông lang băm hồi đó ở Mỹ, trộn đại vài vị thuốc không công phạt gì hết rồi nói rằng thuốc trị được bá chứng mà làm giàu một cách mau chóng.

Không, “thánh dược” của ông, ông phải đích thân đi kiếm năm 1858 ở dãy núi Alleghanis. Ông phải chịu ngàn nỗi nguy hiểm, trốn tránh dân Da đỏ Delawares, chống cự với những thú dữ đói khát ; nhưng sau, chính Pontiac, vị Chúa Da đỏ đã ân cần tiếp đón ông và để tỏ tình thân thiện, lại tặng ông một chiếc khăn choàng thêu, một đôi giày da hoẵng (1) và cho một bọn hộ tống ông chở vị thuốc đó về Pittsburgh nữa.

Các thân chủ của ông bấy giờ khát khao vị thuốc ấy lắm. Cho nên suốt ngày khách mua nườm nượp trước cửa tiệm nhỏ của ông trong đó ông bán đủ thứ : thuốc uống, đồ chơi, thức ăn. Chưa bao giờ ông buôn bán được phồn thịnh như vậy. Tại phía sau, Sam Smith, một thanh niên giúp việc ông ở Venango cùng về với ông, túi bụi đổ thuốc vào những ve 10 phân lít một.

Chất dầu đen và nặng làm nhờn tay chàng và cái mùi băng phiến của nó làm cho chàng chóng mặt như say rượu, nhưng chàng không sao ngừng tay được vì làm không kịp, người mua đông quá.

Mỗi ve nhỏ bán 2 xu mà thùng đựng tiền của ông Kier đầy nhóc bạc cắc.

Từ mấy ngày nay ông khỏi phải hết hơi khoe như hồi đầu những tánh chất của vị thần dược của người Da đỏ đó nữa. Nhiều người đã thấy nó linh nghiệm rồi, khỏi cần phải quảng cáo. Vả lại ông khôn khéo, cho in những tờ cáo bạch rồi thuê tụi nghèo đói rách rưới đi phát cùng đường ở châu thành Pittsburgh.

Trong tờ cáo bạch ông tuyên bố : “Bà con có đau bệnh gì, cứ dùng thuốc của tôi thì sẽ mạnh. Dầu của tôi đã nổi danh là trị được bệnh đui, bệnh điếc, bệnh tê liệt. Muốn biết nó thần hiệu ra sao, xin bà con cứ hỏi các người cùi, đau gan, đau mật, hoặc bị chứng phong thấp, bị bệnh thần kinh.”

Ở dưới lại in lời cảm tạ của những thân chủ : ông Hawkes ở Boston đau tim chỉ uống 3 ve mà khỏi, bà Childereek ở Savannah dùng thuốc có 3 ngày mà hết tàn nhang ở mặt. Sau cùng một người hói muốn giấu tên, chỉ bôi có nửa tháng mà tóc mọc lên rậm, mềm và tơ hơn hồi trước nhiều.

Đã 6 giờ chiều mà khách hàng còn chen chúc đợi ở trước. Ông Kier bảo họ hôm sau trở lại vì ông sắp đóng cửa tiệm. Rồi ông vào phía sau, nói lớn tiếng:

- Sam! Thôi nghỉ. Rửa tay đi và có muốn đi chơi thì đi. Nhưng ngày mai rán tới sớm nhé.

Sam đáp : Dạ.

Vài phút sau, chàng đóng cửa tiệm, rồi đi dạo trên đại lộ, trong lòng dương dương tự đắc và tràn trề hy vọng vì tự nghĩ mới 17 tuổi đầu được tự do mà mỗi tháng lại để dành được ba Mỹ Kim lận.

Chàng rảo bước, đút tay túi quần, vừa đi vừa huýt gió và xóc những đồng tiền vàng cho nó kêu leng keng. Vì những đồng tiền ấy mà đêm nào chàng cũng mộng thấy của cải và hạnh phúc.

Thật chàng đã khó khăn mới xin phép được cha để theo ông Kier. Cô em họ xa của chàng, nàng Marjorie King cũng khóc lóc khi chàng lên đường. Chính chàng đã rán lắm mới giữ được khỏi thổn thức, vì chàng không ưa thành thị, chàng thích căn nhà có cha già ở Titusville, thích hồ Erié đầy cá và khu rừng rộng đầy con mồi. Nhưng chàng có tham vọng và chỉ muốn làm giàu. Muốn vậy chỉ có cách là ra thành thị. Chàng tự nhủ : “Ba Mỹ kim. Bắt đầu lên rồi đây. Khi mình về, cô ả Marjorie chắc ngạc nhiên lắm, hồi đó nghi ngờ về tương lai của mình và khuyên mình an phận ở nhà theo nền nếp tổ tiên”.

Chàng đương khoan khoái nghĩ tới những chiếc bánh tráng bột bắp rất ngon của cô Marjorie, tới thứ rượu bia cha chàng chế và thứ thuốc hút mà ông tẩm rượu và mật, thì bỗng thấy có ai chạm vào vai mình. Chàng quay lại. Một người trạc tứ tuần đương ngắm chàng, thân hình cao thẳng và mạnh như cây bá hương đỏ.

Trên mặt cương quyết của người ấy có một thẹo dài nằm ngang má từ tai bên trái tới miệng.

Người đó hỏi:

- Có phải anh làm cho dược sư Kier không?

Sam đáp:

- Phải.

- Và chính anh giúp ông ta bán thuốc?

Sam gật đầu một lần nữa.

- Tôi là Đại tá Edwin Drake. Anh còn trẻ, không nhớ được cuộc chiến tranh với Mễ-tây-cơ cho nên anh chưa biết tôi. Không sao. Anh đi lại tiệm ăn với tôi, tôi có chuyện muốn nói với anh.

Rồi Đại tá nắm tay Sam, dắt lại một quán ồn ào, rất đông khách.

Trong góc quán có một lò lớn để quay gà, vịt và heo nữa. Các công tử và các ông hội đồng thường lại đó uống rượu “rom” trước bữa ăn và sau bữa còn nốc thêm mấy ve bia nữa.

Đại tá Drake bảo Sam ngồi xuống và hỏi:

- Anh có biết dược sư Kier kiếm thứ dầu mà ông khoe là trị được bá chứng ấy ở đâu không?

Sam hơi ngạc nhiên và lấy làm tự đắc được ngồi trong một quán sang trọng, bên cạnh một vị đại tá anh hùng.

Chàng đáp:

- Biết chứ! Ở tại xứ tôi mà! Ở Titusville, gần hồ Erié, trên Suối Dầu và trên mặt hồ.

- Anh biết miền đó không?

- Thưa ông, biết rõ lắm. Tôi sanh tại Venango rồi qua ở Titusville. Tôi đã thấy tất cả các bộ lạc (2) Da đỏ từ Michilimakinak tới Ohio. Tôi biết nói các thổ ngữ (3) Sioux, Mandangua, Cherakee, Delaware. Tất cả tụi đó đều là bạn thân của tôi.

- Được lắm. Thôi chúng ta uống rượu đi rồi ăn. Ông Kier trả công anh bao nhiêu?

- Thưa mỗi ngày năm cắc nhưng tôi chắc chắn rằng khi bán hết dầu, ông chủ tôi sẽ dắt tôi theo để đi lấy dầu với ông và lúc đó tôi sẽ được thưởng mười đồng nữa.

Đại tá mỉm cười:

- Ông Kier rộng rãi thật.

- Dạ! Vì tuy khỏi alleghany, đường có nguy hiểm và khó nhọc thật, nhưng lấy dầu thì không gì dễ bằng. Nó ở ngay trên mặt hồ hoặc suối. Chỉ việc cúi xuống múc từng thùng một! Tụi Da đỏ không phản kháng chi hết, chúng biết rằng ông Kier có múc hoài cũng không khi nào hết mà sợ.

- Và anh tin rằng dầu ấy linh nghiệm ư?

Sam nhún vai:

- Tôi thú thật với ông, không bao giờ nghĩ tới điều ấy hết. Tụi Da đỏ dùng nó làm thuốc. Tôi nghĩ chỉ những thày mo (4) của bọn họ mới biết cách chế thứ thuốc ấy thôi. Ông Kier thì múc dầu về rồi bán liền, không chế gì hết. Nếu nó không trị được bệnh thì cũng vô hại.

Đại tá uống một hơi hết ly rượu, kêu một ly khác rồi nhìn thẳng vào mặt người thanh niên, bảo:

- Anh Sam nè, tôi thẳng thắn đề nghị với anh như vầy : tôi trả anh mỗi ngày một đồng để dắt tôi lại suối Dầu và nếu mọi sự xong xuôi, tôi sẽ thưởng anh hai chục đồng.

Chàng mừng quá, mãi mới ấp a ấp úng được:

- Ông nói thật chứ?

- Thật! Nếu anh bằng lòng thì khoảng tám ngày nữa chúng ta khởi hành. Tôi cho anh hay trước tôi sẽ có ba chiếc xe, mười con la cái, một số lớn dụng cụ và đủ khí giới tốt để cho tụi chó chết Da đỏ (5) không dám ngó ngóe bén mảng tới đoàn xe của ta.

Đại tá thường có giọng thô lỗ ấy của các quân nhân. Sam nói:

- Ông muốn cạnh tranh với ông Kier. Nếu tôi giúp ông thì bất nghĩa với ông chủ của tôi, ông ấy tốt với tôi lắm.

Đại tá cười rộ:

- Quỷ thần ơi! Ông chủ anh là một đứa con nít. Thứ dầu ấy mà chỉ dùng để chữa bệnh tê bại và bệnh câm thôi ư? Không biết dùng nó vào việc khác thì là đồ tồi. Này em, tôi thề với em rằng hai chúng ta có thể làm xáo lộn cả thế giới. Em có quả quyết theo tôi không?

Sam như bị lòng nhiệt huyết và giọng cương nghị của Đại tá thôi miên, nhìn ông một lúc, mắt long lanh ngưỡng mộ rồi hăng hái đáp:

- Dạ có!

Ông Drake chìa bàn tay hộ pháp ra:

- Đập vào đây (6). Thỏa thuận chứ? Thôi, ăn đi và hẹn tám ngày nữa sẽ gặp nhau.

***

Suốt một tuần lễ, Sam mơ tưởng tới vàng. Chàng tưởng tượng cảnh giàu có. Nhưng nào chỉ có bấy nhiêu? Chàng sẽ còn làm xáo lộn cả thế giới kia! Tên chàng, bằng chữ vàng, sẽ chói lọi trên cẩm thạch như tên các vị danh nhân, như Washington (7), như nghị trưởng Bucchanan!

Chàng đã xin ông Kier cho chàng thôi việc, nói rằng xa ông chàng buồn lắm, nhưng một vận may vô cùng đã tới và chàng phải đi để lập một sự nghiệp lớn lao hơn.

Dược sư cho rằng chàng hơi khùng và kiếm được ngay người khác để thay. Ở Pittsburgh có cả trăm thanh niên đương thèm thuồng chỗ đó!

Sau cùng, ngày quan trọng đã tới. Từ hừng sáng, Sam lại chợ Pittsburgh đã thấy Đại tá Drake với xe cộ, la cái và hai người đồng hành nữa : Jack Hoggan và George Kent, cả 2 đều mạnh khỏe, da mặt rám nắng, chai như da nai. Coi điệu bộ của họ cũng biết ngay họ đã lưu lạc giang hồ, đã cả ngàn lần thoát chết trong những cánh đồng cỏ mênh mông hoặc những khu rừng xanh thăm thẳm.

Những kẻ qua đường thấy họ, không ngạc nhiên chút chi hết, vì thời đó thường có những người khẩn hoang bỏ thành thị, mạo hiểm dấn thân vào những miền xa lạ để làm giàu hoặc chôn xương nơi đất khách.

Sam vừa leo lên một chiếc xe do đại tá đánh thì cả đoàn lữ hành lên đường ngay.

------------------------ 

(1) Loài hươu con.

(2) Họ chưa tổ chức thành quốc gia, mỗi bộ lạc do một tù trưởng cầm đầu.

(3) Tiếng nói của dân trong miền, tức của mỗi bộ lạc.

(4) Thầy cúng của thổ dân.

(5) Thời đó người Mỹ vẫn còn cái giọng như vậy với người Da đỏ.

(6) Cũng như mình móc ngón tay nhau, tỏ ý thỏa thuận.

(7) Vị Tổng thống đầu tiên của Huê Kỳ.

Chương 2

QUA ĐÈO QUA SUỐI

Lần trước gặp Đại tá, Sam chưa có dịp nhận xét được ông kỹ. Lần này ngồi trên xe, bên cạnh ông, chàng thấy ông xấu xí nhất đời : mũi vừa dài vừa to, môi thì dày, nhất là vết thẹo lớn ở má bên trái mới tai hại. Nhưng đi được một quãng, tới chỗ ngừng thứ nhất, cảm tưởng đó tiêu tan mất và chàng chỉ còn nhận thấy ông tràn trề nghị lực về thể chất cũng như về tinh thần. Ông luôn luôn hoạt động, coi sóc đoàn xe, ra lệnh cho người này người khác một cách ngọt ngào và thân mật và không một giây nào là ông không chăm chú dò xét cảnh vật ở chung quanh hoặc nét mặt những người đồng hành. Người chiến sĩ già ấy thử sức bền bỉ của họ, nhưng ông có thế yên tâm vì họ đều là hạng lực sĩ cả.

Một điều làm cho Sam rất ngạc nhiên là Đại tá chở theo một số khí cụ vĩ đại. Anh tự nghĩ, có muốn làm xáo lộn cả thế giới như Đại tá nói thì mang theo vài đồ dùng cũng đủ, hà tất phải chở theo cả đống sắt ấy. Nào là những ống dài vô kể, những ròng rọc, trục kéo, cán quay… các thứ ấy chỉ làm cho hành trình thêm khó khăn vì đường mòn đã khó đi mà lại phải qua đèo, qua đầm, muôn phần nguy hiểm nữa! Mấy trăm chiếc thùng sắt kia chất trên một cỗ xe thì còn được đi, nhưng còn những khí cụ khác ích lợi gì đâu?

Tuy chàng bẩm sinh rất dè dặt, nhưng khi tới chỗ cắm trại thứ nhất, chàng không thể giữ kín nỗi lòng được nữa mà phải hỏi:

- Thưa Đại tá, tôi không dám khuyên ông, nhưng ngay từ ngày mai, chúng ta tới một miền rất hoang vu mà có lẽ chưa có một người da trắng nào đặt chân đến hết. Không có đường cái mà có lẽ cũng không có đường mòn xe đi được nữa. Những đồ sắt vô ích này sẽ làm cho hành trình chúng ta khó khăn lắm. Với lại qua sông, qua đầm, nó sẽ sét mất.

Ông Drake đáp giọng hơi gay gắt:

- Này em, tôi không quí gì bằng những đồ sắt ấy và những ý nghĩ trong đầu tôi. Tài sản của tôi đó. Em không muốn tôi bỏ cả tài sản của tôi chứ?

Sam nghĩ tới tiền công một đồng một ngày mà lo lắng. Tài sản của ông ấy chỉ có đống sắt bỏ đi ấy thôi ư? Vậy ông tính trả công mình bằng thứ ấy sao?

Nhưng mệt quá, chàng ngủ li bì và sáng hôm sau đoàn lữ hành lại tiếp tục đi tới Alleghany.

Từ đây là bắt đầu cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Toàn là đá, núi như có ai đục cạnh thật sắc bén. Miền ấy có hỏa sơn, đất vài chỗ nứt ra sâu hõm xuống thành đường dài hàng trăm thước xe đi lọc cọc lắc lư thật khó khăn.

Trước cảnh hùng vĩ ấy, loài người thấy mình rất nhỏ bé.

Mặt trời ở trên đỉnh đầu chang chang chiếu xuống ; đoàn xe tiến rất chậm vì la đã mệt mỏi, thỉnh thoảng người phải xuống xe, đầy tiếp mới qua được những khúc đường gồ ghề.

Không thấy một bóng người. Toàn là chim, phần nhiều là những mãnh cầm như loài thần ưng, loài đại bàng trắng chỉ ở trên những ngọn núi cao chót vót, không ai tới được. Không khí vang động tiếng chim kêu.

Đã quen sống trong miền ấy từ thuở nhỏ, Sam thuộc đường lắm và bẩm sinh chàng có cái giác quan về phương hướng cũng như những người sống giữa cảnh thiên nhiên, trong rừng sâu núi cả. Ông Drake để chàng dẫn đường và đôi khi chàng có cảm tưởng rằng chính chàng làm chủ đoàn lữ hành.

Họ đi như vậy hai ngày, ăn những thực phẩm dự trữ mà Đại tá đã mua ở Pittsburgh. Nhưng ông nghĩ phải đề phòng sự bất trắc, nhất là trong những cuộc hành trình đầy nguy hiểm như vậy, cho nên ông quyết định rằng khi nào tới miền rừng thì phải săn bắn mà ăn, không được dộng tới những thực phẩm mang theo.

Ông phân phát khí giới : mỗi người được một khẩu súng sáu và một cây súng trường kiểu mới nhất dùng trong quân đội.

Ông chỉ cách dùng những khí giới đó cho ba người xúm ở chung quanh rồi kết:

- Có các súng này, anh em không còn sợ gì nữa ; cách năm trăm thước thì phải bách phát bách trúng.

Họ đã định ra khỏi đường sâu hõm thì cắm trại. Phải đốt nhiều lửa cho bớt lạnh và cũng để cho các thú dữ tò mò không dám tới gần. Vậy ai nấy tới chỗ ngừng đều đi kiếm củi khô ngay. Trong khi Sam đương lượm củi, chàng nghe có tiếng Đại tá gọi. Chàng chạy lại, thấy Đại tá đương cúi xuống đất:

- Anh Sam, lại đây, coi đống tro này.

Sam cúi xuống, thọc tay vô đống bụi xám rồi thưa:

- Có ai đã cắm trại ở đây rồi. Không phải mới hồi hôm, nhưng cách đây cũng chưa trên hai ngày vì tro đã lạnh nhưng chưa bị gió thổi tản mát đi.

Đại tá đứng thẳng lên, vẻ lo âu, hỏi:

- Tụi nào cắm trại vậy?

- Chắc chắn tụi Da đỏ rồi. Người Da trắng không cần lựa củi khô, họ đốt cả những cành tươi thành ra khói bốc lên mù mịt, ở xa thấy được. Tụi Da đỏ chỉ đốt củi khô, cho không có một sợi khói nào bay lên hết và như vậy ở xa không ai biết rằng có họ.

Đại tá ngắt lời:

- Tôi biết. Nhưng lành hay dữ?

Sam nhún vai:

- Chúng ta ở trong khu vực của bộ lạc Delaware, nhưng có lẽ là tụi mọi Cherakee đi kiếm miền có nhiều mồi để săn bắn rồi ngừng tại đây. Chúng có thể tưởng lầm rằng mình đuổi theo chúng để tranh mồi với chúng. Cho nên phải đề phòng chúng tấn công mình.

- Vậy phải cho hai bạn kia hay và đề phòng ngay đi.

Họ lựa củi rất kỹ, chỉ đốt những cành thiệt khô và định thay phiên nhau canh gác. Hoggan và Kent canh trước.

Khi lửa cháy rồi, họ ăn qua loa rồi quấn mền sửa soạn ngủ.

Xem tiếp Phần I - Chương 3 & 4