Lữ Quán Giết Người - Loại Hoa Tím

Tủ sách Tuổi Hoa - 1971

Chương 1 & 2

Chương 3 & 4

Chương 5 & 6

Chương 7 & 8

  Chương 9 & 10

   Chương 11 & 12

             Chương 13 & 14 (hết)

Nguồn: THU HỒ sưu tầm, scan và GOCTROIPARIS, NHIM_XU đánh máy

-------------------

Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh

MOBI

EPUB

Chương 1

Vào một ngày cuối tháng 11, trời lạnh và u ám. Thời tiết thay đổi từ đêm qua: gió dữ dội, bầu trời xám xịt, rồi một cơn mưa phùn. Mới vào khoảng hai giờ chiều mà khắp các ngọn đồi đều bị bao phủ trong ủ dột của một chiều đông. Sương mù giăng cùng khắp. Và chỉ 4 giờ chiều trời đã tối sầm lại.

Mặc dù các cửa kính đều đóng kín, khí lạnh và hơi ẩm vẫn len vào xe. Nệm ghế bằng da nhờn dính tay. Trên mui xe, những giọt nước mưa theo một kẽ rạn nào đó làm ướt da bọc ghế và để lại những vết xanh như mực. Gió xoáy càng lúc càng tăng, có lúc gió như muốn lật nghiêng chiếc xe cũ kỹ khi qua một khúc quanh. Khi lên chỗ cao, trống, gió càng có dịp làm cho cả thùng xe rung lên, đong đưa giữa bốn cái bánh gỗ cao nghều nghệu… như một tên say rượu.

Trùm kín tai, ngồi khum lưng như muốn gập đôi người lại, bác đánh xe cố sức dùng đôi vai che chở cả thân hình trong mưa gió.

Trong khi ấy, bốn con ngựa chừng như kiệt sức tiến tới một cách chậm chạp, miễn cưỡng. Chốc chốc, đôi tay lạnh cóng của bác phu xe lại nhịp roi vun vút lên đầu chúng, song những ngọn roi của bác thật chả thấm thía chi so với gió mưa. Bánh xe rít lên ken két mỗi khi sụp nhằm một ổ gà, rồi bùn lẫn với nước mưa bắn lên cửa kính tung tóe. Mưa vẫn ri rỉ, lai rai, trời tối mịt.

Trên xe, lơ thơ vài hành khách, họ ngồi sát lại nhau như để sưởi nhờ hơi ấm của nhau. Mỗi bận xe sụp nhằm ổ gà, họ lại nhất loạt kêu lên ơi ới.

Một ông lão, từ khi lên xe ở Truno vẫn không ngớt phàn nàn, bỗng không giận dữ đứng lên; ông mạnh tay quay kính xe xuống khiến mưa bay vào ướt cả ông lẫn bạn đồng hành. Nghiêng mình ra ngoài cửa, ông mắng bác phu xe là quân ăn cướp, sát nhân; ông bảo rằng nếu bác ta cứ cho xe chạy kiểu này mọi người sẽ chết trước khi đến Bodmin, rằng mọi người đều sắp ngất đến nơi, rằng ông thề sẽ không bao giờ đặt chân lên một cái xe ngựa nào nữa, từ nay.

Những lời nhiếc móc tàn tệ kia được gió mang đi. Vì chờ mãi vẫn không thấy bác phu xe phản ứng, ông ta đành tặc lưỡi, quay kính xe lên lại. Mọi người tê cóng vì gió luồn vào. Ông khách khó tính trở lại chỗ ngồi, đắp hai chân và tiếp tục càu nhàu.

Bên cạnh ông ta là một bà vui tính, người beo béo, mặc một cái áo khoác xanh dương. Thở dài đánh sượt một cái, bà ta ra vẻ cảm thông với bạn đồng hành về nỗi bực tức, nháy mắt với các người khác, và sau cùng cất tiếng nói rằng đêm nay là đêm kinh khủng khó quên nhất đời mình. Ðoạn bà lục trong cái giỏ to kềnh lấy ra một cái bánh ngọt khá lớn, cắn ăn ngon lành.

Mary Yellan ngồi đối diện bà ta. Kẽ nứt trên mui xe thỉnh thoảng lại giọt tành tạch vài giọt nước lạnh buốt lên vai nàng, và cô gái lặng lẽ lấy tay chùi vội. Hai tay đỡ lấy cằm, Mary dán mắt ra khung cửa xe đầy bùn và nước mưa. Cô ao ước một cách vô vọng: một tia nắng xuyên qua bầu trời nặng nề dù chỉ trong khoảnh khắc, để cô được thấy lại khung trời xanh của Helford, nơi cô vừa từ giã hôm qua.

Helford cách đây 40 dặm. Nơi đó đã là tổ ấm của nàng suốt 20 năm qua. Nhưng hy vọng của nàng tàn ngay sau đó và lòng can đảm - trước nay vẫn là đức tính của nàng – đã giúp nàng vượt mọi trở ngại trong cơn bệnh kéo dài của mẹ, giờ bỗng tiêu tán bởi trận mưa dai dẳng và cơn lốc dữ dội này.

Vùng đất xa lạ làm Mary lạc hướng, Mary thấy một thế giới khác xa với thế giới nàng đã sống lâu nay, dù chỉ cách có một ngày đường. Chao! Biết bao giờ cô gái được thấy lại những đồng cỏ xanh rì ở Helford, những dòng nước trong vắt lấp lánh dưới nắng sớm, những mái nhà tranh thơ mộng bên dòng suối? Mưa ở Helford thật khác xa đây: mưa rơi tí tách tưới mát cỏ cây rồi trở thành những dòng nước chảy ra sông.

Mưa làm mát đất và đất biết ơn trổ hoa mầu đền bù…

Ðây mưa tạt vùn vụt vào khung kính và như không thể thấm vào đất cằn cỗi. Chả thấy cây cối gì trừ vài cây khô, giang cành khẳng khiu ra chống đỡ gió mưa một cách tuyệt vọng; chúng đã trải qua nhiều năm tháng chịu đựng thời tiết quái ác ở đây và kiệt sức rồi. Bão tố và thời gian làm chúng khô khan. Dù cho mùa xuân có đến, các nụ trên thân cây cũng không đâm lá vì sợ chết rét. Ðất nghèo nàn, không một cánh đồng, không một rào dậu. Ðó đây toàn đá sỏi, vài bụi gai đen và những cành hoa dại xác xơ.

Mary nghĩ chắc trong vùng này chỉ có mùa đông đen tối, như hôm nay và mùa hè khô bốc lửa: không tìm thấy một bóng mát khắp thung lũng. Cỏ vừa lên khỏi mặt đất cằn đã phải ngả mầu vàng úa. Khắp vùng đều u ám như thời tiết. Ngay trên đường đi và trong làng mạc, những kẻ Mary gặp như cũng hợp với khung cảnh: buồn bã, khô khan…

Rời Helston, Mary vẫn như còn ở trên miền đất thân yêu, quen thuộc: bao nhiêu kỷ niệm buộc chặt nàng với Helston!

Mỗi tuần, cha nàng đánh xe chở nàng ra chợ và đến khi cha mất, mẹ nàng đã can đảm thay cha nàng chở nàng suốt hạ qua đông; gà vịt, trứng, bơ được chất trong thùng xe trong khi Mary ngồi cạnh mẹ nàng ở băng trước, ôm khư khư một cái giỏ to gần bằng cả người nàng, cằm đặt trên quai giỏ.

Dân làng rất tốt bụng. Gia đình Mary được mọi người quen biết và kính mến. Sau khi chồng chết, mẹ nàng đã gặp nhiều khó khăn, và ít người có thể sống như mẹ nàng: một mình với con thơ và một trang trại phải chăm sóc, mà không hề nghĩ đến chuyện tìm một bạn đường khác để nương tựa.

Một ông chủ trại ở Manaccan, và một ông khác ở Gweek, miền thượng lưu dòng sông đều muốn cưới bà nhưng họ không dám ngỏ ý. Cả hai người đều đọc trong mắt bà cái ý chí cương quyết cùng như lòng kiên trung, họ biết rằng bà luôn luôn thuộc vào một người đã khuất và họ biết rút lui trước khi ngỏ ý để khỏi bị bẽ bàng.

Công việc đồng áng khó nhọc vượt quá sức bà. Bà vẫn cố gắng vượt mọi trở ngại, chứng tỏ can đảm có thừa, trong suốt 17 năm ròng góa bụa. Nhưng sức người có hạn: bà không vượt nổi thử thách sau cùng nên đã ngã quị xuống luôn.

Mẹ Mary đau liệt giường. Gia súc giảm trong trại, lại gặp lúc thời tiết xấu, giá gà, trứng thì rẻ mạt, tiển kiếm khó khăn hơn. Trong vùng và miền lân cận tình trạng cũng tương tự. Trong các nông trại nhiều người gần chết đói. Bệnh dịch súc vật nổi lên hoành hành các vùng quanh đó. Người ta không biết đó là thứ dịch gì và cung cách chạy chữa thế nào, vì thế dịch càng dữ dội. Nó tàn phá tất cả những gì nó gặp như một cơn lạnh trễ tràng đến sát mùa và khi nó biến mất đã để lại sau lưng sự chết

chóc kinh hồn.

Ðó là một thời gian đầy lo lắng cho mẹ con nàng. Họ buồn rầu nhìn gà vịt mình gia công chăm nuôi nhuốm bệnh và lần lượt chết. Ðến con bò con cũng ngã xuống giữa đồng. Nhưng điều làm cho họ đau đớn nhất là cái chết của con ngựa cái, nó đã làm lụng với họ suốt hai chục năm ròng. Chính trên lưng rộng và rắn chắc đó, Mary đã tập cưỡi ngựa lần đầu…

Một buổi sáng, con ngựa nằm xuống vĩnh viễn, đầu vẫn còn gối lên chân cô chủ trẻ. Một nấm mộ được đào ngay dưới gốc cây táo. Sau khi chôn con vật trung thành, mẹ con nàng đau xót thấm thía: từ nay họ làm sao ra chợ mỗi tuần?

Mẹ nàng bảo con gái bằng giọng buồn rầu:

- Hình như có cái gì trong mẹ đã ra đi, đã bị chôn cùng con Nell đáng thương rồi, Mary ạ! Mẹ chán nản, không thiết gì nữa cả, mẹ mỏi mệt vô cùng…

Mary nhìn kỹ mẹ: nàng hoảng hốt thấy mẹ như già thêm 10 tuổi trong khoảnh khắc, mặt tái xanh, quầng mắt thêm sâu, bà lảo đảo phải tựa vào con cho khỏi ngã trong đoạn đường từ gốc táo vô nhà. Nghe con gái định mời bác sĩ, người mẹ tỉnh táo trả lời:

- Trễ lắm rồi, Mary ạ! Đã 17 năm rồi…

Lần thứ nhất bà khóc thổn thức. Lần thứ nhất bà khóc trước mặt con gái. Mary chưa hề thấy mẹ khóc bao giờ.

Khi Mary ngồi cạnh viên bác sĩ - người đã đỡ nàng trong khi mẹ nàng sinh – ông ta lắc đầu, cất giọng rầu rĩ bảo nàng:

- Ta cho con biết nguyên do: mẹ con đã phung phí sức khỏe từ khi cha con nhắm mắt. Giờ đây bà khó lòng mà gượng nổi. Ta lo quá, Mary ơi!

Chiếc xe chở cả hai người trở về trên con đường ngoằn ngoèo. Một bà láng giềng chờ tận cửa, vẻ nóng nảy của bà làm cho Mary và bác sĩ cảm thấy điềm xấu đang chờ họ.

- Mẹ cháu yếu quá. Bà vừa ra khỏi cửa thì run lên, mắt lạc đi, ngã gục xuống. Chúng tôi đã vực bà lên giường, nhưng…

Bác sĩ xua những kẻ tò mò vây quanh cửa, bước vào nhà. Sau khi khám kỹ bệnh nhân, ông nói với Mary:

- Mẹ con bị sung huyết, nhưng bà còn thở đều. Ta rất sợ cơn sung huyết bất ngờ đáng sợ này.

Rồi ông thấp giọng xuống, như cốt nói với chính mình:

- Sao mãi đến bây giờ nó mới phát ra, sau bao nhiêu năm khó nhọc? Chỉ có Trời và có lẽ - cả bà ấy, biết rõ mà thôi! (Ông cao giọng lên:) Mary! con phải tỏ ra xứng đáng với mẹ con. Chỉ có con có thể giúp mẹ con vượt qua cơn thử thách đáng lo này. Chỉ có con thôi!

Suốt sáu tháng liền, Mary tận lực săn sóc mẹ. Mẹ nàng trải qua cơn bệnh đầu tiên – mà cũng là cuối cùng - của đời bà. Mặc dù được con gái và bác sĩ tận tình chăm sóc, cơn bệnh không lui. Hình như bà không thiết sống nữa. Bà mong một sự giải thoát và mong nó đến mau hơn.

Bà bảo con, giọng âu yếm:

- Mẹ không muốn con sống khó khăn, cực nhọc như mẹ đã sống. Hại cả thể xác lẫn tinh thần. Khi mẹ chết rồi không còn gì giữ con lại Helford. Hãy đến sống với dì Patience ở Bodmin.

Mary quả quyết rằng mẹ nàng không thể chết được, rằng nàng cần có mẹ cũng như mẹ cần nàng. Bà sẽ vượt qua… Nhưng vô ích. Bà đã nhất định như thế và không hề đổi ý. Mary nói với mẹ:

- Con không bao giờ rời nông trại. Con sinh tại đây cũng như cha con. Dòng họ Yellan của chúng ta phải ở đây! Sự nghèo khổ vất vả không làm con sợ. Cũng như sự suy sụp của nông trại… mẹ đã ra công trong 17 năm trời, tại sao con lại bỏ nó khi mẹ không còn sống nữa? Con mạnh khỏe, con có thể làm việc như một người đàn ông, mẹ thấy mà!

- Ðời sống này không thích hợp với một thiếu nữ như con. Mẹ nàng nói như một lệnh - Nếu mẹ đã chịu đựng lâu nay đó là vì hai người thân yêu của mẹ: con và cha con. Khi một người đàn bà làm việc cho ai, họ thỏa mãn và yên lòng, có can đảm. Nhưng nếu làm cho chính họ lại là một việc khác. Lòng mình khó thỏa mãn con nên nghe lời mẹ!

- Con làm gì ở thành phố? Con chỉ quen và chỉ ưa sống như thế này, cạnh dòng sông, không ưa thay đổi. Con sẽ sung sướng ở đây với vài con gà còn lại, với con ngựa già, với cỏ trong vườn và chiếc thuyền trên sông. Ðến Bodmin với dì con, con sẽ làm gì? sẽ ra sao?

- Một cô gái không thể sống đơn chiếc một mình. Con sẽ trở thành quái dị hay hư hỏng. Hãy nghe mẹ! Sự cô đơn là một cái gì đáng sợ nhất. Rồi con sẽ thấy. Dưới mồ mẹ không sao yên lòng Cũng như cha con, nếu không được biết con sống an toàn cạnh người thân. Dì Patience rất tốt, dì vui tính, hay cười đùa và có tấm lòng vàng. Con quên dì rồi ư? Dì không sinh nở, dì sẽ thương con như mẹ vậy. Con còn nhớ không: lúc dì đến đây, cách 12 năm trước…

Không, Mary không quên dì Patience, tuy lúc đó nàng còn bé. Dì mặc cái váy lụa, áo xanh và đội mũ kết nơ nhung. Mái tóc dì gợn sóng, mắt xanh biêng biếc. Phải, Mary còn nhớ kỹ: từ nụ cười, khóe mắt cho đến cái cách dì nhón gót, tay xăn váy đi trong bùn ngoài sân. Nom dì xinh như một… cô tiên! Trong lúc Mary thả trí nhờ về dĩ vãng, mẹ nàng nói tiếp:

- Mẹ không rõ chú ấy thế nào, vì mẹ chưa gặp chú. Nhưng khi dì thành hôn với chú cách nay 10 năm, dì viết cho mẹ một lá thư kể nhiều chuyện ngông cuồng, mẹ rất ngạc nhiên. Vì theo mẹ, chuyện này có thể hiểu được nều dì con là một cô gái còn trẻ dại cỡ 18, đôi mươi… nhưng dì con lúc đó đã ngoài 30 tuổi…

- Dì và chú ấy sẽ thấy con quê mùa quá – Mary chậm rãi nói – con không thể có đôi bàn tay đẹp như các cô gái nhà giàu thành phố và… và rồi con cũng không biết nói chuyện gì với hai người…

- Dì chú sẽ thương con vì con là cháu họ, chứ không phải vì sự sang trọng hay dáng bộ bề ngoài. Mary con! hãy hứa với mẹ: sau khi mẹ nhắm mắt rồi con sẽ nghe lời mẹ biên thư ngay cho dì và nói rõ ước muốn cuối cùng duy nhất của mẹ là thấy con sống cạnh dì.

- Con xin hứa. Con xin vâng lời mẹ! Xin mẹ yên lòng. Con sẽ làm tất cả những gì mẹ muốn…

Mary nói, lòng tràn thống khổ vì nghĩ đến tương lai mờ mịt khác xa đời sống đơn giản, quen thuộc hiện nay bên mẹ thân yêu. Chao! rồi Mary sẽ từ biệt miền đất quê hương quen thuộc? Nàng sẽ dựa vào đâu để vượt qua những ngày sắp đến, không hứa hẹn và chỉ thấy cô đơn?

Mẹ nàng mỗi ngày một suy yếu thêm. Sự sống chậm rãi nhưng chắc chắn rời khỏi bà. Mùa gặt đến rồi mùa hái quả đến… cho đến đầu thu. Khi sương mù bao phủ bầu trời vào mỗi sáng, lúc cái rét bắt đầu làm đất khô cằn, dòng sông chảy mạnh cuồn cuộn ra bể cả; tiếng sóng bể vỗ mạnh trên bờ bể Helford cũng là lúc bà kiệt quệ và tinh thần giao động. Bà nhắc đến tên người quá cố, nói đến chuyện quá khứ và những kẻ Mary chưa hề biết đến. Trong ba hôm liền, mẹ nàng như sống trong một thế giới riêng tư, nhỏ bé và đến ngày thứ tư, bà ngừng thở.

Mary đau lòng nhìn những vật quen thuộc lần lượt qua tay kẻ khác. Ðàn gia súc đem bán ở chợ Helston. Các láng giềng mua bàn ghế, tủ giường. Một người ở Coverack mua ngôi nhà. Miệng ngậm ống điếu, ông ta nhanh nhẹn đi lui, đi tới giữa sân, tay chỉ những nơi cần thay đổi, sửa chữa, những cây cối mà ông định chặt bỏ cho quang đãng. Mary tức tối nhìn ông ta qua khung cửa sổ trong khi tay nàng dồn một số đồ đạc cần dùng còn lại vào cái rương của cha mình. Thật vậy, người này làm cho mình có cảm tưởng mình là một kẻ lạ xâm nhập vào nhà này mặc dù nó vẫn còn là nhà nàng. Nàng đọc trong mắt ông ta sự hối hả, thúc giục nàng rời khỏi nhà càng sớm càng tốt. Vì thế, Mary chỉ nong nả mong cho sớm xong công việc để rời Helford mà không hẹn ngày trở lại.

Mary ngừng tay làm việc, giở thư dì đọc lại. Nét chữ nguệch ngoạc, dì cho cháu biết là rất buồn về sự không may của nàng; dì không hay biết gì về cơn bệnh của mẹ nàng vì lần cuối gặp nhau cách đây đã nhiều năm. “Hiện nay dì chú có vài thay đổi, không còn ở Bodmin mà ở cách đấy 12 dặm, trên đường đi Launceston. Vùng này hoang vu lắm. Nếu cháu muốn đến, dì rất vui có bạn trong mùa đông. Dì hỏi ý kiến chú rồi: không có gì cản trở, nếu cháu đừng ồn ào, bép xép. Chú sẵn sàng giúp cháu nếu cháu cần. Nhưng Mary ạ! Rồi cháu sẽ hiểu, chú không thể nuôi không cháu, ông muốn cháu giúp một tay trong việc trông nom lữ quán của ông” .

Mary uể oải gấp lá thư lại, cho vào rương. Quả là một lá thư không mấy niềm nở đối với hình ảnh của dì Patience vui tính ngày xưa, mà nàng còn nhớ. Một cánh thư lạnh nhạt làm cho khoảng cách giữa đôi bên như được khơi rộng thêm ra. Không một lời an ủi, khuyến khích… Toàn thể như biểu lộ (tuy không ra lời) cho một cô cháu bất hạnh hiểu rằng đừng trông cậy nơi dì một nương tựa, dù cho chỉ là một nương tựa tinh thần.

Trời ơi! di Patience, nàng tiên của Mary thuở nhỏ! Dì nay đã trở thành một bà chủ lữ quán ở một chốn hoang vu. Tội nghiệp mẹ nàng không hay biết điều này. Dù sao, Mary đã hứa với mẹ rồi và không thể sai lời. Vả chăng, nhà đã bán, làm sao nàng ở lại Helford? Dù sự đón tiếp có ra sao nàng cũng nhớ rằng dì là em ruột của mẹ nàng.

Ðời sống ngày xưa đã trở thành quá khứ: nông trại thân yêu, dòng sông trong trẻo ở Helford. Tương lai không có gì hứa hẹn, nhưng nàng vẫn bước đến theo đúng ước vọng của mẹ mình.

*

Mary lên xe ở Helston, đi về miền Bắc, ngang qua Truno ở suối Fal. Tại Truno, nhà cửa đông đúc với những nóc chuông giáo đường, đường lát đá phẳng và rộng; trời còn trong xanh tựa như ở miền Nam. Dân cư đứng ở ngưỡng cửa mỉm cười vẫy tay khi thấy xe chạy qua. Nhưng khi Truno mất dạng sau thung lũng, trời tối sầm và đất hai bên đường trở thành khô cằn, quang cảnh tịch mịch. Chỉ thấy toàn đất bỏ hoang. Làng mạc thưa thớt và ở khung cửa không còn thấy những khuôn mặt tươi cười. Không cây cối, không rào dậu. Gió thổi mạnh và mưa to.

Xe đến Bodmin trong tình trạng này. Tại đây trời cũng u ám, bẩn thỉu như những chỗ họ vừa đi qua. Lần lượt, hành khách thu xếp hành lý và xuống xe, trừ có mình Mary ngồi yên chỗ. Bác phu xe nhìn vào trong, nước mưa chảy dài trên mặt:

- Cô đến Launceston phải không? Ðêm nay mà qua đồng hoang nguy hiểm lắm. Tốt hơn cô nên ngủ lại đây rồi sáng mai đón xe đi tiếp…

- Có người đợi tôi, bác ạ. Ðường xa không làm tôi sợ đâu. Vả, tôi không đến Launceston. Bác cho tôi xuống Lữ quán Giao Mai…

- Cái gì? Lữ quán Giao Mai? Cô không lầm chứ? Cô đến đó làm gì? Ðó không phải là chỗ của một thiếu nữ như cô…

Bác phu xe nhìn chầm chập vào Mary, gặng hỏi. Rồi chợt, bác ta như hối đã lỡ lời, im lặng đột ngột. Mary trả lời:

- Tôi đã nghe nói đến sự hoang vu của vùng này, nhưng tôi cũng chưa bao giờ ở chỗ đông người. Chỗ cũ của tôi cũng vắng lắm. Tôi không…

- Có lẽ cô mới đến nên không hiểu. Không phải tôi muốn nói đến đồng hoang và ao bùn, dù rằng những thứ ấy cũng làm cho nhiều cô, nhiều bà phải sợ…

Quay lại, bác phu gọi một chị đàn bà đang đốt đèn trước khách sạn Royal và nói:

- Này, bà đến nói chuyện với cô gái này một tí đi! Cô ta đòi tôi chở đến Lữ quán Giao Mai đấy!

Người đàn bà xuống thềm, bước lại nhìn vào xe:

- Ðó là một vùng vắng vẻ lắm. Nếu cô muốn tìm việc làm, cô sẽ không thể tìm ra. Ở đó, người ta không ưa kẻ lạ mặt. Tốt hơn cô nên ở lại đây. Tôi có thể giúp cô.

Mary mỉm cười:

- Xin bà đừng lo, tôi đến gặp họ hàng. Chú tôi là chủ Lữ quán …

Trong ánh sáng lờ mờ, Mary thấy hai người nhìn nàng bằng con mắt sợ hãi. Mary ngừng bặt lại, ao ước bà ta nói vài lời để nàng yên lòng, nhưng không, bà ta rời khỏi khung cửa xe, giọng khác đi:

- Xin lỗi cô. Việc này không liên can đến tôi. Chào cô!

Bác phu xe huýt sáo lên xe để che giấu bối rối. Không kịp suy nghĩ gì, Mary nghiêng mình ra cửa xe, nài nỉ:

- Xin bác làm ơn cho cháu biết sự thật. Cháu cảm ơn bác lắm. Hình như mọi người đều ghét chú cháu, phải không? Tại sao vậy?

Bác phu xe không che giấu được bối rối, trả lời nhát gừng:

- Lữ quán Giao Mai có tiếng… dữ. Người ta hay kể chuyện ly kỳ… nhưng cô biết đấy: thiên hạ vốn hay lắm điều. Tôi… tôi không muốn dính dáng gì… Có thể không có chi đáng ngại. Cô lạ gì miệng lưỡi thế gian?

- Nhưng thưa bác, đó là những chuyện gì? Bác muốn nói là ở đó người ta khuyến khích rượu chè? Hay chú cháu tiếp những khách không đứng đắn?

Bác phu xe lắc đầu quầy quậy:

- Tôi đã bảo tôi không muốn xen vô chuyện người khác. Vả lại, tôi cũng không biết chi hết. Nhưng một điều tôi biết chắc là những người tự trọng không bao giờ chịu ghé vào Lữ quán Giao Mai. Hồi trước, chúng tôi có thói quen dừng ngựa lại cho ăn uống và chúng tôi cũng tạt vào quán giải khát qua loa. Bây giờ ngang đó là quất ngựa chạy gấp…

- Tại sao vậy, hở bác? Bác cho cháu biết đi mà. Cháu mang ơn bác… Mary cố nài nỉ.

Bác phu xe do dự giây lát rồi sau cùng buông xõng hai tiếng:

- Họ sợ!

Rồi lắc đầu, ông ta không nói gì thêm. Và như cảm thấy mình đã tỏ ra cục súc với một cô gái, ông ta thò đầu vào khung cửa:

- Cô muốn dùng một chút gì chăng? Một tách trà nóng…? Chúng ta còn phải đi xa và ở vùng đất hoang, gió lạnh ghê hồn.

Mary lắc đầu. Nàng còn thiết chi ăn với uống? Chắc chắn vào đó mọi tia nhìn sẽ đổ dồn về nàng và họ sẽ xì xào không ngớt. Hơn thế nữa, Mary đang phân vân: như có một tiếng nói vô hình cảnh cáo nàng: “Chớ đến Lữ quán Giao Mai! Hãy bỏ cuộc hành trình này. Hãy ở lại Bodmin, nếu không…sẽ hối cho mà xem!” Mary e rằng vào đến khách sạn Hoàng Gia nàng sẽ nghe theo lời cảnh cáo. Mary nhớ lời hứa với mẹ và muốn giữ được lời hứa đó.

- Nếu cô không ăn uống chi thì ta phải đi ngay. Cô là hành khách độc nhất chiều nay. Cô lấy thêm tấm chăn đắp chân lại cho đỡ rét. Khỏi Bodmin, tôi sẽ cho ngựa chạy nhanh vì đêm nay không thích hợp cho những chuyến đi như thế này. Nếu không vì cô, tôi có thể ngủ yên giấc trên giường, nhưng biết làm sao…

Bác đóng sập cửa lại và ngồi vào chỗ, chiếc xe cọc cạch lăn bánh…

Hai bên đường là nhà cửa. Bên trong người ta an toàn và ấm cúng với ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ. Những bộ hành trễ nải cúi đầu bước vội giữa mưa gió để kịp về nhà.

Qua khe cửa Mary nhìn thấy ánh sáng le lói, ánh sáng đối với nàng thật như bạn quí lúc này. Nàng lại liên tưởng đến người đàn bà vui tính trên xe lúc nãy. Chắc bà ta đang ăn tối, lũ trẻ kháu khỉnh quây quần xung quanh. Chao! Trông bà ta phúc hậu làm sao, hai má đỏ như hai quả táo chín và đôi tay gân guốc vì làm việc! Giọng nói của bà ta làm người nghe yên tâm… Mary lại tưởng tượng thêm: nàng theo người đàn bà ấy, ở nhờ nhà bà ta. Nàng sẽ tìm được nơi bà ta sự tin cẩn, một nụ cười, một bàn tay thân yên, một cái giường an toàn. Nàng sẽ giúp việc cho bà ta, yêu mến bà và lũ con bà… Nàng sẽ…

Xe đang lên đèo. Qua cửa kính, nàng thấy ánh sáng của thành phố Bodmin khuất nhanh sau vó ngựa. Nàng chỉ còn một mình với gió và mưa. Bóng tối vây quanh. Còn những 12 dặm nữa mới đến nơi. Phải chăng nàng là một con tàu rời bến, mất hết an toàn của đất liền? Dù thật thế đi chăng, không con tàu nào có một số phận như nàng hiện tại!

Xe tối om, chỉ một tia sáng mong manh vàng vọt từ một chiếc đèn nhỏ xíu treo cạnh cửa. Gió luồn vào kẽ nứt trên xe làm ngọn lửa chao qua đảo lại và có thể làm cháy nệm xe. Thấy thế, nàng phải tắt đèn đi.

Ngồi co ro trong một góc, mặc cho xe lắc lư tiến tới trong bóng tối, hết nghiêng bên phải lại nghiêng bên trái: lần thứ nhất trong đời, Mary cảm thấy tính chất ma quái của sự cô đơn. Cái xe đã đưa nàng đi trọn ngày, giờ đây cũng như đe doạ nàng. Gió hú trên nóc xe và mưa tuôn như thác đổ. Gió mưa càng hung hãn khi xe càng lên dốc, trống vắng bốn bề. Hai bên đường đồng hoang trải dài vô tận. Không làng mạc, không cây cối, không cả một chòi tranh. Hàng dặm tiếp, chỉ thấy đồng hoang lạnh lẽo, đất đai cằn cỗi, không vết dấu loài người.

Mary nghĩ rằng không ai có thể sống trong vùng này mà vẫn giữ được nhân tính bình thường. Trẻ con sinh ở đây hẳn cũng khẳng khiu, khô khan, cằn cỗi như những cành hoa dại uốn mình dưới sức mạnh bạo cuồng của gió, gió liên hồi từ bốn phía xô vào. Ðầu óc nó chắc cũng chức đầy tư tưởng ma quái nếu cứ sống mãi trong đồng hoang đầy sỏi đá?

Dường như đoạn đường dài ngăn cách Bodmin với Launceston chỉ có một ngôi nhà độc nhất, không có cả một cái chòi cho bọn chăn cừu. Chỉ một chấm đen hiện ra giữa đồng vắng: Lữ quán Giao Mai!

Nàng như không ý thức được thời gian lẫn không gian. Có thể đoạn đường dài hàng trăm dặm? Có thể lúc này là giữa khuya? Nàng chỉ còn bám víu vào cái xe và người phu xe. Nàng còn được che chở…

Tiếng hò hét của bác ta thoảng đến tai nàng, nhờ gió. Càng lúc ngựa càng chạy nhanh hơn. Kéo cửa kính xuống, Mary nhìn ra ngoài, gió và mưa thi nhau ập vào mặt nàng làm Mary choáng váng. Lau mặt và vén tóc cố nhìn, Mary trông thấy xe chạy như lướt trên đồi. Trước mặt nàng, trên cao, về phía trái một ngôi nhà sừng sững giữa đồng không. Qua bóng đêm, nàng thấy ống khói thật cao. Không còn gì khác. Ðúng là lữ quán Giao Mai, sừng sững và ngạo nghễ giữa bốn bề quạnh hiu, mưa gió.

Mary mặc áo tơi vào. Ðàn ngựa dừng lại thình lình, hơi thở chúng làm thành những làn khói trắng dưới mưa đêm.

Bác phu xuống xe, mở cửa kéo cái rương của nàng ra. Ông ta có dáng vội vã chưa từng thấy. Ông ta lấm lét nhìn về phía lữ quán:

- Ðến nơi rồi. Cô chỉ băng qua sân là tới nhà. Hãy kéo chuông… họ sẽ mở cho. Tôi phải đi ngay cho kịp...

Trong một nhoáng, bác ta lên xe và quất ngựa một cách nóng nảy. Chiếc xe lại lăn bánh, chỉ chớp mắt, xe đổ dốc rồi mất hút trong bóng tối phủ dầy.

Mary đứng lặng, cái rương để dưới chân. Nàng nghe tiếng ổ khóa lách cách trong ngôi nhà kỳ bí vang lên rồi cửa hé mở và một bóng người cao lớn bước ra, trên tay có chiếc đèn lồng:

- Ai đó? muốn gì đấy?

Mary bước đến, giương mắt nhìn người đàn ông nhưng ánh sáng làm nàng chói mắt, chả thấy được gì. Ông ta chao qua, chao lại chiếc đèn trước mắt nàng, đoạn phá lên cười:

- Ồ! Cô đấy à? Cô đã đến đấy ư? Cô cháu quí của vợ tôi? Chú cô đây: Joss Merlyn đây! Mừng cô mới đến…

Ông lại cười ha hả trong lúc Mary sửng sốt, bàng hoàng…

Chương 2

Ðó là một người đàn ông khoảng trung niên, to lớn, cao hơn hai thước. Trán nhăn nheo, da màu sậm như dân du mục, tóc dày, đen lòa xòa trước trán và dài đến tận tai. Ðôi vai rộng và rắn chắc khiến Mary có cảm tưởng ông ta khỏe mạnh như một con ngựa. Hai cánh tay dài tận gối, nắm tay to tựa như khúc dồi. Cái thân hình lực lưỡng đó lại chở một cái đầu nhỏ xíu nhô lên giữa hai vai. Với mớ tóc rối bù, dày kịt và đôi mày đen rậm, nom ông ta tựa một con khỉ đột khổng lồ.

Mặc dù tay chân dài ngoằng, thân hình vạm vỡ, mặt ông ta trái lại không có vẻ… khỉ chút nào. Mũi cao, dài, quặp vào gần đến miệng, và miệng ông ta tuy hai mép xệ xuống nhưng vẫn còn phảng phất chút duyên dáng nào đó. Ðôi mắt ông ta thật đẹp mặc dù da chung quanh nhăn nheo và có nhiều tia máu nổi lên. Khi ông ta cười, hai hàm răng trắng bóng, nổi bật trên khuôn mặt nâu sậm, và lúc ấy, Mary lại nghĩ đến một con sói dữ. Ông ta nói:

- Mary Yellan! Cô đã lặn lội từ xa đến đây để chăm sóc cho chú Joss đấy ư? Cô tốt quá!

Giọng ngạo nghễ, ông ta lại cười hăng hắc, tiếng cười gần như tiếng gầm, vang khắp nhà, như một làn roi quất vào bộ thần kinh đang căng thẳng của Mary. Nàng cố trấn tĩnh, nhìn quanh khắp hành lang rộng vắng:

- Thưa chú, dì con đâu ạ? Dì con không đợi con sao?

- Thưa chú, dì con đâu ạ? (Ông ta nhại giọng Mary.) Dì thân yêu nhỏ bé của cháu đâu? Sao không ra đây hôn cháu nhỉ? (Giọng cục cằn trở lại) Dễ cô không đợi được một phút sao? Cô không hôn chú Joss của cô sao?

Mary lùi lại, hoảng hốt trước ý nghĩ phải hôn ông chú… Ông quả điên hay đang say? Có thể vừa điên lại vừa say? Như đoán được ý Mary, Joss nói oang oang:

- Không sao đâu. Cứ yên chí lớn, tôi không động đến cô đâu. Cô sẽ sống an toàn tại đây. Vả, tôi còn khối việc phải lo…

Ông ta nhìn nàng, vẻ ngạo nghễ như ta nhìn vào con vật hay một kẻ ngu si. Sau rốt, chán trò trêu chọc, ông ta đến cầu thang quát:

- Patience! mụ làm gì trên ấy? Con nhỏ đã đến và đang khóc đòi gặp mụ ngay đây!

Có tiếng động sẽ sàng trên cầu thang, tiếng bước chân, rồi ánh sáng le lói của ngọn nến và một tiếng reo khẽ. Bà dì bước xuống, tay che mắt, một chiếc khăn quàng bẩn thỉu, mớ tóc xám, vài lọn xỏa lên vai; khuôn mặt gầy gò, hai má nhô cao. Ðôi mắt mở to như luôn luôn muốn hỏi, môi mím chặt.

Dì Patience mặc một cái áo có sọc. Chắc lúc trước màu hồng tươi nhưng giờ trở thành hồng bẩn. Chiếc khăn quàng vá víu thảm hại. Một dây nơ mới tinh trên đầu tóc càng làm cho sự tiều tụy của dì bộc lộ rõ ràng hơn.

Mary nhìn dì buồn bã không thốt nên lời. Người đàn bà đáng thương kia là dì nàng ư? Dì Patience quyến rũ, xinh tươi mà nàng thường hình dung đến lại có thể già sọm như thế ư!

Dì Patience xuống cầu thang, tiến lại gần cháu gái, nắm tay cô, cất tiếng thì thầm:

- Cháu đó ư? Mary Yellan đó ư? Con người chị xấu số của dì đây!

Mary gật đầu, lòng thầm cảm ơn Chúa đã không để mẹ nàng trông thấy dì trong tình trạng thảm não này. Nàng nhỏ nhẹ nói:

- Dì yêu kính! Con sung sướng được gặp lại dì. Bao nhiêu năm trời nay… từ khi dì đến Helford!...

Dì Patience lặng lẽ vuốt ve cháu rồi bỗng bà ôm chặt Mary, gục đầu vào vai nàng, khóc thổn thức, nghẹn ngào.

- Thôi! Đủ rồi đó! (Joss cầu nhầu) Tiếp đón cái kiểu gì kỳ cục vậy? Việc gì mà khóc lóc? Dễ chừng mụ không thấy rằng con bé cần ăn tối hay sao? Coi lo cho nó ăn uống.

Nói xong, Joss cúi xuống, vác cái rương lên vai nom dễ dàng, nhẹ như ta nâng một cái gói nhỏ.

- Tôi mang cái rương của nó lên phòng…! Chốc nữa tôi xuống mà chưa có gì cho nó ăn, tôi sẽ cho mụ khóc bằng thích. Cả cô cũng thế, Mary ạ! Nào! cô đã thuần tính chưa hay còn… ưa cắn.

Lão dí ngón tay vào miệng Mary rồi cười hăng hắc lần nữa, trước khi lên gác.

Dì Patience nín khóc, cố cười với cháu, nhưng nụ cười méo mó thảm thương. Dì đưa tay lên vén mấy lọn tóc, một cử chỉ quen thuộc đối với Mary. Mắt dì nhíu lại, môi mím chặt, lặng lẽ dì dắt Mary đi qua một hành lang khác tối om, vào bếp. Ba ngọn nến soi sáng căn bếp tồi tàn và trong lò đốt than bùn. Nom dì có vẻ một con vật đáng thương, chỉ biết tuyệt đối phục tòng và chịu đựng mọi đối xử độc ác. Dì nói:

- Ðừng để ý đến thái độ của chú con, ông làm gì mặc ông, người lạ không thể hiểu đâu. Chú vẫn là người tốt… tốt nhất…

Dì tiếp tục ca tụng chồng trong khi sửa soạn bữa ăn cho cháu. Mary ngồi trước ngọn lửa, sưởi ấm đôi tay lạnh cóng. Khói từ bếp tỏa ra bay tận nóc và vương khắp gian nhà, làm cay mắt cô gái vào cả mũi, miệng cô…

- Rồi con sẽ hiểu và thương yêu ông ấy. Ông rất đặc biệt, mọi người đều kính nể ông, chả ai chỉ trích ông. Ðôi khi ở đây có đông khách, không phải lúc nào cũng yên tĩnh đâu, con ạ! Xe qua lại trên quốc lộ mỗi ngày… Nhiều người danh giá đến đây. Hôm qua, một người đến chơi, dì biếu anh ta một ổ bánh. Anh ta nói: “Ở vùng này chỉ có bà làm bánh ngon nhất”. Ông Bassat ở North Hill, một địa chủ lớn trong vùng, hôm thứ năm gặp dì đã nghiêng mình, cất mũ chào dì rất nhã nhặn. Người ta nói rằng…

Mary khổ sở thấy dì tránh nhìn mình trong khi nói và sự liến thoắng tố cáo lời dì không đúng sự thật. Trông dì như đứa trẻ bịa chuyện một cách vụng về. Nàng mong cho dì ngừng lời, vì lời nói của bà cũng làm nàng đau xót như khi bà khóc. Có tiếng chân phía sau, Mary hồi hộp quá: nàng biết chú Joss đã xuống và có thể nghe được những lời vợ nói. Dì Patience tái mặt và lại bắt đầu cắn môi. Lão nhìn cả hai giọng chế diễu:

- Sao? Mấy chị mái ghẹ bắt đầu rù rì đó ư?

Lão bỗng thôi giữ vẻ diễu cợt, nhíu mày gắt vợ:

- Mụ nín khóc ngay nếu mụ nói thả cửa kiểu đó, phải không? Ta nghe mụ nói gì rồi, đừng có ngốc! Mụ tưởng rằng cháu mụ có thể tin những điều mụ nói ư? Một đứa trẻ cũng không tin nữa là.

Joss hầm hầm ngồi xuống cái ghế đặt cạnh bàn ăn, ngồi mạnh đến nỗi ghế gần muốn đổ. Rồi ông ta vơ ổ bánh cắt một khúc bôi bơ lên, nhai ngấu nghiến bơ chảy dài xuống khóe miệng. Lão ra hiệu cho Mary lại gần:

- Lại đây! tôi biết cô đang đói…

Bằng cử chỉ thành thạo, Joss cắt một lát bánh mỏng, phết bơ lên, trái ngược với cách ăn của lão. Mary rùng mình khi thấy một kẻ thô lỗ như lão lại có cử chỉ tế nhị, hình như những ngón tay lão có tiềm lực trở nên khéo léo hay hung bạo tùy từng lúc. Giá lão cắt một khúc bánh to, vứt cho nàng, lại dễ chịu hơn, vì cử chỉ phù hợp với con người lão; đằng này cái lịch sự của lão đầy vẻ mờ ám, nham hiểm và quá bất ngờ. Tuy nhiên, nàng điềm tĩnh cảm ơn lão rồi ăn.

Dì nàng, suốt từ lúc lão xuất hiện trong bếp lại trở nên câm nín, bà chăm chú chiên thịt, luống cuống cho đến nỗi cái lò rơi xuống trong sự hốt hoảng của dì. Mary toan đứng lên giúp dì thì Joss ngăn lại:

- Thôi! Một người ngu quá đủ rồi! Ngồi yên đó!

Mary biết mình đang bị chú nàng quan sát sau lưng. Lão vừa xỉa răng bằng móng tay, vừa hỏi:

- Cô uống gì đây? Rượu chát? Rượu ngọt hay bia? Ở đây có thể chết đói chớ không chết khát đâu. Lữ quán Giao Mai này không để cho ai khô cổ…

Lão lại cười, nheo mắt và tặc lưỡi. Mary bình tĩnh:

- Cho cháu xin tách trà, cháu không quen uống rượu.

- Uống trà? Chao ơi! Lạy Chúa tôi! Cô có cần một cái nôi không?

Và lão chộp lấy bàn tay cô gái:

- Bàn tay này trông khá lắm đối với một kẻ ở nông trại. Tôi chỉ ngán phải thấy những bàn tay thô kệch. Không gì nản bằng phải nhìn bàn tay xấu xí rót rượu cho mình, không phải khách hàng ở đây khó tính nhưng chưa bao giờ Lữ quán Giao Mai có mặt một thiếu nữ như cô.

Buông tay Mary, lão quay sang vợ:

- Patience! Chìa khóa đây, vô kho lấy cho tôi chai rượu chát. Khát lắm!

Dì nàng nhanh nhẹn bước ra, mất hút sau dãy hành lang. Lão tiếp tục dùng móng tay xỉa răng, chốc chốc lại huýt sáo trong khi Mary lặng lẽ ăn bánh mì và uống trà. Ðầu nàng nặng như có ai cột chì vào. Khói làm nàng cay mắt thêm; nhưng nàng vẫn tỉnh táo quan sát Joss. Hình như nàng bị lây sự sợ hãi của dì: nàng tiên cảm mình và dì là hai con chuột nhắt sa bẫy và chú Joss là con mèo ác độc không chịu giết dì cháu nàng ngay…

Dì Patience trở lại với chai rượu trên tay. Rồi trong lúc chồng uống rượu, dì tiếp tục chiên thịt, đoạn dọn lên, hai dì cháu cùng ăn.

Ðột nhiên, Joss trở nên cau có, lão đá đá vào gầm bàn và đập mạnh tay xuống bàn. Ly, tách, dĩa xô vào nhau, một cái muỗng rơi xuống đất vỡ nát. Lão quát:

- Nghe đây: Mary Yellan! Tôi là chủ nhà này, cô phải biết điều đó. Tôi bảo cô làm gì thì cô làm nấy. Giúp việc trong bếp, dọn dẹp nhà cửa và phục vụ khách hàng. Tôi sẽ không động đến một sợi tóc của cô. Nhưng nếu cô giở thói bép xép tò mò thì cô sẽ biết tay tôi!

Mary thu hết can đảm nhìn Joss. Nàng đặt hai tay lên đùi để lão khỏi thấy nàng… run:

- Cháu hiểu điều đó. Cháu không có thói tò mò và xen vào chuyện kẻ khác. Chú làm gì cháu không quan tâm đến, cháu sẽ lo tròn phận sự. Nhưng xin chú nhớ cho: nếu chú hành hạ dì cháu, cháu sẽ rời Lữ quán tức thì, cháu sẽ báo cho cảnh sát ngay. Cháu xin thề…

Mặt nàng tái mét. Nếu Joss lớn tiếng dọa nàng, chắc nàng sẽ khóc và khiếp sợ thêm lên. Nàng đã thốt những lời cứng cỏi vì quá thương dì, không tự chủ nổi. Nhưng nói xong, nàng lo lắng quá. Không ngờ những lời nàng có ích cho nàng. Joss bật ngửa ghế ngồi ra, có vẻ nguôi giận:

- Tốt! Tốt quá! Ta đã biết cô là thứ người gì! Ta ưa những kẻ có gan. Ta tin rằng một ngày kia cô sẽ có việc xứng đáng với cái gan to lớn đó.

Mary nghe tiếng dì nàng thở hổn hển bên cạnh nàng, dì nói:

- Ồ! Joss! Tôi van anh! Tôi van anh!

Giọng dì khẩn khoản đến nỗi Mary kinh ngạc, nàng thấy dì chồm đến gần Joss và ra dấu cho lão im đi. Cằm bà run run và đôi mắt lo sợ của bà làm Mary càng hãi. Làm sao mà dì nàng khiếp sợ đến mức này? Joss định nói gì? Mary không thể nén tò mò. Người đàn ông nóng nảy xua tay:

- Ði ngủ đi! ta chán cái khuôn mặt đưa ma của mụ. Cháu mụ khá hơn.

Dì Patience đứng lên, ra khỏi phòng, nhưng còn ngoái lại nhìn chồng bằng cái nhìn tuyệt vọng. Tiếng chân dì xa dần trên cầu thang. Joss đẩy cái ly không đến gần Mary:

- Ðời tôi chỉ có một nhược điểm và tôi nói cho cô nghe đây: rượu! Ðó là một điều bất hạnh, tôi biết thế mà không tránh được. Có một ngày, nó sẽ hại tôi. Có khi, tôi uống ít như hôm nay, có nhiều hôm khác, tôi uống như hũ chìm, uống liền trong nhiều giờ… Rượu là sức mạnh, là đồng minh, là đàn bà, là thiên đàng… Lúc đó tôi như một vị Hoàng Ðế, tôi có cảm tưởng tôi nắm trong tay nhiều quyền hạn sinh sát… Và tôi kể toạc ra những tội ác đã nhúng tay vào, dì cô phải nhốt tôi vào phòng khóa cửa lại. Rồi khi tôi tỉnh lại, tôi mới được ra. Không ai, trừ dì cô được biết những bí mật của tôi. Gìờ lại thêm cô nữa, tôi tiết lộ với cô vì tôi đã chuếnh choáng say không kìm giữ miệng lưỡi nổi, nhưng tôi chưa đến nỗi mất cả lý trí, tôi không kể hết cho cô nghe…

Giọng ông ta lè nhè nhưng vẫn ồm ồm. Than trong lò tàn dần, bóng tối đã nhoài đến nhiều nơi trên vách, nến gần tắt, ánh sáng leo lét làm bóng Joss nổi bật lên quái đản.

- Mary Yellan! Ta muốn kể chuyện này… ô, không! ta còn sáng suốt lắm… Ðừng nghe lời dì cô, đừng tin rằng lão địa chủ đã ngả mũ chào mụ. Láo! láo toét! Lão mà thấy tôi đàng xa là lo dông thẳng trước khi làm dấu thánh giá. Xe cộ cũng chả dám ngừng lại đây. Bọn trưởng giả mà dám đến đây ư? Nhưng chả sao, tôi đâu cần chúng? Tôi có đủ khách hàng mà! Tụi trưởng giả càng tếch xa, tôi càng thích.

Mary lặng lẽ nghe, ngồi cứng trong ghế, không dám cử động như sợ lão sẽ nổi giận mà đổi thái độ chăng? Joss vẫn thao thao:

- Bọn chúng đều ngán ta, tất cả bọn ngu ngốc đó. Ta mà được giáo dục đàng hoàng thì ta sẽ ngồi cạnh vua George ấy chứ, sá gì thứ chúng? Chính rượu hại ta! Chưa có một ai trong dòng Merlyn ta chết yên ổn trên giường…

Lão ngừng lại, tợp một ngụm rượu, rồi lại tiếp:

- Cha ta bị treo cổ vì tội giết người. Ông nội ta bị xẻo tai về tội ăn trộm và sau đó, ông bị đày biệt xứ, chết thảm vì rắn cắn. Ta là anh cả, ta có hai em. Thằng em kế của ta chết đuối trong đầm Trywartha. Thằng quỉ Jean, thằng út thì khi chúng ta vào tuổi thanh niên, nó hãy còn bú mẹ ta, nhưng nó khôn ranh lắm. Và nó lại không hợp với ta. Một ngày kia nó sẽ bị tóm và bị treo cổ cho mà xem.

Joss chợt im. Hai mắt nhìn đăm đăm vào cái ly, nâng lên lại đặt xuống:

- Thôi! Đêm nay cô biết quá nhiều rồi, đi ngủ đi, kẻo tôi vặn cổ bây giờ. Đèn đây, phòng cô ngay trên cổng chính đó.

Mary yên lặng đón ngọn nến trên tay lão. Nàng sắp quay lưng đi thì bị lão nắm lấy vai, giật lại:

- Đang ngủ mà nghe tiếng xe dừng trước quán, cô vẫn nằm yên, nghe chưa? Lấy chăn mà trùm đầu cho kín, nghe chưa? Chớ khá tò mò mà nghẽo, nghe chưa? Hiểu chưa?

- Thưa chú, cháu hiểu rồi!

- Vậy thì tốt! Nếu trái lời tôi, cô sẽ bị dập xương đa!

Mary bước ra hành lang tối thui về phòng mình theo lời ông chú hung tợn. Đến nơi, Mary đẩy cửa vào, thấy rương mình nằm đó, nàng yên lòng biết mình không nhầm phòng. Vách nhám sì, không dán giấy, trần nhà cũng thế. Một cái thùng gỗ trên đặt một tấm gương nứt được thay cho bàn chải tóc. Không có thau rửa mặt. Chắc mình phải xuống bếp rửa mặt? Mary tự hỏi. Khi nàng nằm xuống, giường run lên ken két và hai cái chăn mỏng như nhơm nhớp ướt. Mary quyết định không thay áo. Nàng để nguyên bộ áo quần bụi bặm và khoác thêm áo ngoài mà ngủ.

Mary đến cửa sổ nhìn ra ngoài. Gió lặng rồi tuy mưa vẫn chưa ngớt. Có tiếng động kỳ dị vang lên. Trời tối quá nên Mary không thấy gì rõ, nhưng một vật treo lủng lẳng làm nàng hoảng hốt nhớ đến lời Joss Merlyn… Ðịnh thần nhìn kỹ nàng biết đó là tấm bảng chỉ dẫn, tấm bảng đong đưa theo gió, cũ kỹ đáng thương chắc đã trải qua những ngày tốt đẹp? Những dòng chữ trắng tắm nắng, gội mưa đã trở thành xám xịt: Lữ quán Giao Mai!... Lữ quán Giao Mai…

Mary đóng cửa rồi lên giường. Hai hàm răng nàng va vào nhau cầm cập, tay chân lạnh cóng. Mary tuyệt vọng: nàng làm cách nào để trở lại Bodmin cách đây những 12 dặm? Nàng nhắm hai mắt lại, đồng thời khuôn mặt Joss hiện ra, ban đầu ông ta tươi cười tử tế rồi trở thành nhăn nhó, giận dữ. Mớ tóc dày đen kịt bù rối, chiếc mũi quặm và hai bàn tay với những ngón dài, xinh đẹp và… lợi hại… Nàng cảm thấy mình như một con chim sa lưới, khó lòng thoát khỏi.

“Mary! Muốn thoát khỏi đây, mình phải trốn ngay đêm nay. Ðến mai quá muộn!” Có tiếng nói với nàng như thế, nhưng Mary vẫn nằm yên lặng, lắng tai.

Có tiếng động ở cầu thang, tiếng Joss lầu bầu gì đó rồi xa dần. Mary không do dự nữa, nàng không muốn sẽ trở nên khùng khùng như dì nàng.

Xem tiếp chương 3 & 4