Tủ sách Tuổi Hoa - 1969
Minh Đăng tái bản năm 1972
Nguồn: ĐÈN BIỂN sưu tầm và đánh máy
---------------------
Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh
( Hình bìa: ĐÈN BIỂN sưu tầm)
Chương 1
Nếu quả thật có Trời và Ngài có mắt như người ta thường nói thì hẳn là Ngài phải biết rằng Tâm ao ước được đi học đến ngần nào !
Song điều làm Tâm khổ sở nhất không phải ở chỗ nó không được đi học mà chính là ở chỗ cha mẹ Tâm không bao giờ chịu hiểu cho rằng con mình không được đi học là một điều khổ sở, thiệt thòi cho nó, rằng nếu nó được đi học thì đó là một chuyện rất tự nhiên, hợp lý, không có gì là quá đáng. Trái lại, cha mẹ Tâm cứ coi điều ao ước của con mình là một chuyện “trèo cao”, một sự “vói lên” rất vô lý, vô lý y như nó đòi đi xe hơi nhà vậy !
Đó là điều mà mỗi lần nhớ tới thằng bé lại tức lên anh ách, tức không thể tự chủ nổi mà không biết thổ lộ cùng ai cho hả lòng.
Vốn biết cha mẹ không bao giờ quan tâm đến điều mình muốn, song Tâm lại ưa gạ gẫm hoài về những câu chuyện có dính dáng đến học đường. Thật ra, thằng bé cũng biết thừa đi rằng chẳng đi đến đâu, nhưng cứ nói, hình như nói những chuyện ấy nó cảm thấy mình gần gũi nhà trườngvà… đỡ thèm đi học được đôi phần.
Chẳng hạn :
- Mẹ ! Cái trường gì ở góc đường Phan đình Phùng đó mẹ, bữa nay đông nghẹt… mà tụi học trò gì lộn xộn ghê, có đứa nhỏ hơn con nữa đó, mẹ ơi !
Hoặc :
- Mẹ ơi ! Học trò gì mà chửi lộn quá trời ! Con thấy bắt ngán…
Hay là :
- Mẹ ơi ! Trường nhà nước là sao, mẹ ?
Dĩ nhiên, chỉ mình Tâm nói, mẹ nó vẫn lờ đi như không nghe, không biết cả câu hỏi nữa, cho đến khi Tâm dại dột nói một câu thế này :
- Mẹ ơi ! Trời mưa mà tụi học trò cũng đông chớ, con tưởng…
Thằng bé chưa dứt câu, mẹ nó đã mắng át tiếng con :
- Chớ bộ mày tưởng ai cũng làm biếng như mày hết, chắc ? Hễ trời mưa thì cái mặt nhăn như…
Trời ơi ! Mẹ Tâm lại nỡ đem so sánh chuyện đổ rác với chuyện học hành ! Hai chuyện khác nhau quá, so sánh chi mà kỳ cục và bất công đến vậy kìa ? Tâm nghĩ thầm một cách phẫn uất nhưng không dám cãi. Hừ ! Nếu mà mình được đi học coi -- Tâm nghĩ tiếp -- lụt mình cũng đi chớ sá kể gì cái thứ mưa. Đằng này phải đi đổ rác mà! Đi đổ rác thì vui thú chỗ nào kia, kia chớ ?
Cái xóm mẹ Tâm đổ rác là một xóm nghèo, hay nói cho đúng : phần đông là nhà nghèo, ở tận cùng trong hẻm sâu. Tâm thường băn khăn tự hỏi tại sao mẹ nó lại chọn chi cái nghề theo nó thì là một nghề tệ nhất trong các nghề nó biết.
Tuy bà thường nói với nó rằng nghề nào cũng không xấu, miễn là một nghề lương thiện, đổ mồ hôi… Đổ rác thì hôi hám thật, nhưng rồi về nhà tắm rửa đi là sạch sẽ ngay, chê bai nỗi gì ?
- Bộ mày tưởng tao không muốn lựa một nghề dễ chịu hơn hay sao ? -- giọng mẹ Tâm dịu lại một chút – Mà muốn làm gì cũng phải có vốn, mẹ mày đâu có vốn liếng gì ? May là nghề đổ rác này người ta chê nên…
Mẹ Tâm còn nói nhiều nữa song Tâm chán, gạt tuốt ra ngoài tai, Tâm hết muốn nghe rồi. Mẹ Tâm ưa bắt nó nghe những lời phân trần dai dẳng, dài ngoằng, những lời không phải để rót vào tai đứa trẻ chưa lên mười như nó; trong lúc đó lại không chịu cho nó đi học, một việc mà Tâm cho là rất nên, rất phải. Hoặc ít nhất cũng nên nói những câu từa tựa thế này :
- Đáng lẽ con phải đi học, con có ưng đi học không ?
Hay là :
- Rán lên con, thế nào mẹ cũng cố cho con đi học…
Nếu mà nghe được những câu như vậy, chắc Tâm thấy công việc nhẹ nhàng bớt, Tâm sẽ vui vẻ giúp mẹ, dù cho cái ngày tươi đẹp còn lâu, lâu lắm chưa biết đến bao giờ.
Hằng đêm, Tâm theo sau mẹ, vừa làm việc, vừa nghĩ ngợi vẩn vơ. Trong mỗi thùng rác không phải chỉ chứa rác không thôi. Rác, theo thằng bé định nghĩa là chỉ gồm có lá khô, bã mía, giấy vụn, chớ rác gì lại có cả một trăm thứ thừa thãi khác : hôi hám nặc nồng mà cũng dồn vào đó. Nào vỏ tôm ươn, đầu cá thối sình lên, thức ăn thiu đã đành, mà có khi lẫn cả phân người trong đó.
Tâm đã lớn lao gì cho cam, Tâm bê thùng rác thật khó nhọc, vất vả. Dạo trước mẹ còn đỡ cho được một tay, bây giờ thì không : bà vướng cái bụng gần sinh, phần thì bà còn phải lo kéo cái xe có hai càng, hai bánh lăn còng cọc, còng cọc đằng xa kia, chưa bắt kịp Tâm. Gần đến bên nó, mẹ nó tháo cái dây – Tâm gọi là cái ách – quàng ngang cổ ra và buông càng xe xuống kêu đánh “huỵch” một cái, đoạn rướn người lên thở dồn dập, mồ hôi tuôn nhễ nhại.
“ Y như cái xe nó muốn đè mẹ xuống vậy !” Thằng bé bật cười, nghĩ. Song tới chừng mẹ nó đợi con đổ rác vào thùng xe phía sau, rồi bà cúi xuống nhấc càng xe lên, quàng dây lên cổ, hai bên dây quặt ra sau vai, gập người lại, gò lưng kéo thì Tâm không cười được nữa. Tội nghiệp ! Hai vai mẹ nhô lên, đầu bà rụt lại trông giông giống con rùa… Mẹ Tâm bước chầm chậm, chầm chậm, miệng lầu bầu gì đó, nó nghe không rõ. Thốt nhiên, thằng bé se lòng lại, thoáng nghĩ rằng mẹ nó làm việc cực nhọc hơn cả còn bò nhà nó hồi ở nhà quê ! Vì con bò tuy cũng cực nhọc như mẹ nó bây giờ, có điều con bò không phải chịu đựng cái mùi hôi hám khó thở đến như vậy.
Vừa xách thùng không trả về chỗ cũ, Tâm vừa xót xa thương mẹ, lại vừa hối hận vì đã ví mẹ với một con bò.
Sau những lần nhận xét như thế, dù bị mẹ đánh oan, rầy dữ Tâm cũng không giận mẹ như khi nhớ tới chuyện mình không được cắp sách đến trường.
Thật ra, Tâm cũng phạm khá nhiều lầm lỗi nặng làm phiền lòng mẹ, những lầm lỗi mà bây giờ nhớ tới, nó còn thấy run sợ vì sự táo gan, liều lĩnh của mình.
Một lần, mẹ nó đau không đi chợ được, bà giao cho con trai năm đồng bạc, tỉ mỉ dặn rằng :
- Ở nhà có rau rồi, con chạy u ra chợ mua tương với cà muối, nhớ không ? Đó, tương với cà muối, nhớ không ? Biểu họ bán rồi xin thêm vô, chớ không phải họ bán bao nhiêu lấy bấy nhiêu đâu, nhớ không ? Phải cho khôn khôn một chút, nói tử tế với người ta. Nhớ không, ở nhà có rau rồi. Coi chừng mất tiền đa. Nhớ…
- Con biết mà, bữa trước con mua rồi, mất sao được ?
- Ờ, vậy thì giỏi, mau đi, mua xong về liền chớ đừng có rà rà ngoài chợ nghe không ?
Tâm “dạ” một tiếng, giọng vùng vằng, bực tức, cắm đầu chạy một mạch ra tới chợ, tay không ngừng xóc xóc mấy đồng bạc chì trong túi áo để biết là nó không nhảy ra ngoài, như mẹ lo xa.
Tới đầu hàng tương, cu cậu ngừng lại thở, tay vẫn khua rộn mấy đồng bạc trong túi áo một cách oai vệ như một nhà giàu khoa của.
Bỗng mắt Tâm sáng lên, vì nó vừa liếc thấy một người đàn ông tre trẻ ngồi xổm giữa đống sách loè loẹt đủ màu. A ! Tâm kêu lên thích thú : “Sách !” Anh này bán sách, chắc anh ta biết nhiều chữ lắm. Đẹp quá ! Tâm nhìn mê, đứng chôn chân tại đó, quên cả mấy đồng bạc, cả chuyện mẹ sai đi. Ôi chao ! Mà cái anh hàng sách này ăn nói mới có duyên làm sao chứ ! Chốc chốc, anh lại ngừng nói, đón tiền trên tay mấy chị đàn bà, con gái, trao sách cho họ, điệu bộ rất dẽ dàng, vui vẻ. Anh này đàng hoàng quá đi thôi ! Tâm khen thầm. Tâm chưa từng thấy ai mà dễ thương, dễ mến như vậy bao giờ ! Thấy chị nào mặc áo cổ tra ren nhíu nhíu, quần Gò-vấp đen bóng, trơn tuột như đầu cá trê anh lại cười duyên, phô cả mấy chiếc răng vàng chói lọi ! Rồi thình lình, anh cất giọng ngọt ngào, ca :
- Em Lan ơi ! Tội tình chi mà em phải đoạ đày cho khổ sở cái kiếp hồng nhan ? Bớ ớ… ớ (giọng anh ngân dài ra, dẻo quẹo) này em Lan… Nay anh tìm đến đây anh tạ tội…
Trời ơi ! Tạ tội ? Tâm náo nức hết sức, song bất thần, anh ta ngưng lại ngang đó để… bán sách, không chịu ca nốt để Tâm biết câu chuyện diễn tiến đến đâu, tại sao tạ tội ? Tội gì ? Tạ tội cách nào ? Phải chi biết chữ như người ta, Tâm không ngần ngại gì, Tâm cũng làm như họ : sà vào hàng sách lật lật hết cuốn nọ đến cuốn kia. Không, không phải mua, tiền đâu hòng mua, đây là lật coi chơi cho thích, giả vờ lựa chọn như sắp mua vậy, sợ gì ? Phải, lật coi cho biết thôi, Tâm đã quan sát từ nãy giờ thấy có nhiều người làm như vậy lắm, có sao đâu ?
- Tạ tội mốc xì ! Tự thằng chả làm người ta không tu hành được, cắt đứt dây chuông.
Một chị đàn bà vênh mặt lên, nghiêm giọng, rành rẽ nói. Tâm chẳng hiểu ra làm sao cả, lại càng tò mò thêm. Chuyện này chắc hay lắm, lạ lắm, chớ không phải như những chuyện đời xưa mà nó từng nghe kể đi kể lại đến nhàm ở nhà quê !
Tâm sững sờ, miên man nghĩ ngợi. Chợt anh hàng sách lên tiếng :
- A ! Cưng ! Cưng mua cuốn nào ? Anh bán rẻ cho cưng ! (Anh toét miệng cười thân mật) anh bán phân nửa tiền thôi, lựa đi cưng!
Tâm đỏ rần mặt, vừa thích thú vừa ngượng nghịu vì lối xưng hô của anh ta. Cưng ! Đó là lối xưng hô của nhà giàu, của người thành phố. Mẹ nó chưa bao giờ gọi nó bằng tiếng cưng ngọt ngào cả tiếng lẫn nghĩa như vậy. Cưng…
- Cưng có mấy đồng ?
Tiếng anh hàng sách lại giục giã bên tai. Tâm như bị anh chàng thôi miên, trả lời không cần suy tính :
- Năm !
- Ối, dư sức mà ! Dư sức ! Cuốn “Hoa rơi cửa Phật” này có ba đồng chớ bao nhiêu…
- Mà… mà em không biết đọc, anh ơi !
Tâm rụt rè nói mau. Anh hàng sách vỗ vỗ vào trán ra chiều ngẫm nghĩ một giây, miệng lẩm bẩm “Không biết đọc hả ? Không biết đọc hả ?” Như chỉ cốt nói cho mình nghe thôi, đoạn anh ngẩng lên, giọng êm như một lời ru :
- Anh bày em nghe không ? Em mua thêm cuốn vần này về học đi !
Tâm há miệng toan hỏi nhưng anh chàng khoát tay ngăn lại, tiếp luôn :
- Không khó khiết gì đâu. Chừng vài bữa là biết liền. Hai cuốn sáu đồng (làm bộ do dự) ủa, anh quên em có năm đồng, mà thôi (lại tặc lưỡi một cái) không sao, anh bán rẻ cho em một đồng cũng được.
Tâm sửng sốt : người đâu mà tử tế quá chứng chừng ! Cái đề nghị hấp dẫn và quá dễ dãi của anh hàng sách làm Tâm quên phắt đi rằng nếu nó làm theo thì ngày nay cả nhà mình sẽ phải ăn cơm thiếu hai món cà, tương. Tâm vội vàng cho tay vào túi áo. Song khi mấy đồng bạc nằm gọn trong tay Tâm vụt nhớ ra : tiền này không phải của mình. Nếu mình có số tiền lớn hơn mình cũng không tiếc đâu. Mình bằng lòng ăn cơm với muối một bữa, hai bữa, cho dù ba, bốn, năm bữa cũng không sao, miễn là mình biết chữ biết nghĩa như người ta… Mình sẽ biết anh chàng kia tạ tội thế nào, người nào cắt đứt dây chuông ? Hai bên có bà con xa gần ra sao… Nhưng mà… đây là tiền của mẹ, Tâm không dám.
Tiếc thầm trong bụng, Tâm quay vội đi vì sợ đứng thêm chút nữa nó sẽ khó mà chống trả với ý muốn liều lĩnh, dại dột của mình. Nhưng nó vừa dợm bước đi thì một bàn tay đặt lên vai giữ lại và tiếp liền sau đó là cái giọng trầm bỗng của anh hàng sách cất lên, đầy mê hoặc :
- Đi đâu lật đật vậy, em cưng ? Sao em không mua ? Anh đã nói anh bán rẻ mà ?
Tâm lắc đầu quầy quậy. Anh hàng sách đổi giọng liền, dáng chừng giận dỗi :
- Em dại quá ! Anh chỉ bán đây một lần thôi. Mai anh đi rồi, chừng đó em muốn mua cũng không có nữa, đừng tiếc, nghe không ?
Tâm hoảng hốt, luống cuống hỏi :
- Anh đi đâu ?
Anh hàng sách không trả lời mà lại hát. Anh hát rằng :
- Kiếp giang hồ đây đó, biết đâu là bến bờ… bến xưa còn hay lời ước phai mờ…
Rồi anh ta ngưng bặt lại, nhìn Tâm bằng dáng bộ buồn rầu :
- Anh đi giang hồ mà em, cưng ! Biết đi đâu mà nói trước…
- Anh có về không ? Chừng nào anh về ?
- Về làm chi, em ? Anh đã nói “kiếp giang hồ đây đó” mà em !
Nghe anh ta nói, Tâm xao xuyến trong lòng, tưởng như mình sắp cách biệt một người thân nào vậy. Thằng bé quyết định chớp nhoáng, không mảy may do dự. Hết sức thì bị mẹ đánh cho vài roi là cùng… dịp may… biết bao giờ anh ta trở lại ?
***
Đúng như nó đoán, Tâm chỉ bị mẹ quất cho mấy roi thôi. Tâm không hối hận chi về hành động mình, lại càng không oán hờn chi mẹ. Tuy mẹ nó đã, trong lúc giận dữ giật phăng cuốn Hoa rơi cửa Phật xé toang ra. (Tuy chưa biết chữ, Tâm cũng đoán được cuốn mẹ xé là cuốn Hoa rơi cửa Phật, vì theo nhận xét của nó thì cái hình anh chàng chải đầu bóng nhoáng, mặt trắng, môi hồng ở trước bìa sách là anh kép hát tạ tội, còn cuốn có hình con bé cắp sách thì đúng là cuốn vần, không sai chệch đi đâu). Thật ra thì ban đầu Tâm cũng hơi ấm ức : nó đã đền tội bằng mấy roi song rồi, mẹ nó còn xé sách của nó là nghĩa lý gì ? Như vậy hoá ra nó không được gì hết, liều chi cho uổng ? Rồi đây, khi biết chữ biết nghĩa đàng hoàng, Tâm làm sao biết được cái duyên cớ khiến anh kép hát tạ tội ? Làm sao đây ? Nhưng rồi nhìn cuốn vần một lát, Tâm lại yên lòng : không lo gì, biết chữ xong rồi sẽ liệu.
Bấy giờ, mối bận tâm thứ nhất của nó là đợi cho mẹ nó nguôi giận rồi sẽ tìm cách học. Kỳ quái một điều : trước nay mẹ nó rất dễ nguôi giận, còn kỳ này thì bà giận dai quá đỗi, năm sáu ngày qua bà vẫn cứ lầm lì, không thèm nói với con một tiếng nào. Tâm bực lắm, thà mẹ nó quất thêm cho nó vài roi nữa còn hơn.
Một đêm, trong khi đổ rác, Tâm ngẩng lên thình lình, nó bắt gặp cái nhìn âu yếm hiền lành của mẹ, một cái nhìn từ lâu lắm Tâm không nhận được, kể từ lúc rời quê. Cái nhìn đó bỗng làm Tâm nhẹ cả người vì biết rằng mẹ đã hết giận mình. Không chỉ thế, cái nhìn đó còn như xúi ngầm Tâm để nó có can đảm gợi chuyện cùng mẹ nữa. Tiếc thay, câu chuyện vẫn thuộc về loại chuyện học hành :
- Mẹ ! Con thấy thằng Lưu nó trốn học, mẹ ơi !
Tức thì, ánh mắt bà mẹ hết dịu dàng, giọng bà gắt gỏng :
- Kệ xác nó, sao mày cứ ưa nói bậy hoài vậy, hả Tâm ?
Đến lượt thằng bé đổ quạu lên, nó cãi :
- Bậy gì đâu ? Con thấy nó trốn học rõ ràng mà…
- Ừ, thì nó trốn học đó, có can gì đến mày không ?
- Không can gì hết – Tâm dõng dạc – mà con nghĩ tức.
- Tức cái gì ? Nó ăn hết gì của mày không ?
- Nó không ăn gì, mà con tức. Đó mẹ coi : được đi học sướng gần chết lại không lo học. Con mà được đi học thử…
Tâm ngưng bặt lại vì mẹ nó cất cao giọng lên, không hằn học như mọi lần mà nghẹn ngào tựa sắp khóc :
- Lại phân bì, con với cái tệ vậy đó, trời ơi !
Thật ra, Tâm lỡ lời chớ không hề mong lay chuyển mẹ. Thốt nhiên, mẹ nó nhìn đăm đăm vào mặt con, se sẽ gọi:
- Tâm !
- Dạ.
- Con đừng làm mẹ khổ nữa, nghe không ?
Giọng mẹ Tâm thấp xuống, nhỏ và ấm bất ngờ. Tâm ngơ ngác, chưa kịp hiểu lời mẹ nói, nào nó có làm gì khổ mẹ đâu ? Nhưng mẹ nó đã tiếp :
- Bộ con tưởng mẹ ưng để con dốt nát sao ? Tại vì…
Mẹ Tâm không nói hết, song Tâm đã hiểu mẹ muốn nói gì. Nó tự hứa từ nay không buồn, tức nữa. Nhất định không bao giờp đem chuyện nhà trường, chuyện học trò ra kể với mẹ nữa, mặc dù là có Trời biết đó : Tâm ham học biết chừng nào !
***
Tuy đã hứa thầm như vậy, khốn nỗi dân vùng này ham học quá đi thôi: nhỏ học đã đành, lớn cũng học; học ban ngày lại còn học cả ban đêm. Trông cảnh tượng đó, Tâm lại đâm sốt ruột.
Nói chi xa, ngay đến cô giáo mà cũng đi học thì thật là quá sức tưởng tượng của Tâm, chẳng còn biết trời đất đâu mà lần ! Cô giáo thì có biết bao nhiêu là chữ trong bụng cô rồi kia chứ ? Sao còn tham lam đến vậy kìa ? (Lần thứ nhất Tâm nghĩ xấu cho cô giáo) Tâm biết chuyện cô đi học thêm là nhờ hôm kia, khi cô trả tiền đổ rác cho mẹ, cô ngỏ ý nhờ mẹ hỏi giúp coi có ai thì thuê hộ một người, vì “dạo này tôi phải học thêm nên nhà… “
Nội vùng này Tâm có cảm tình với cô giáo nhất. Cô hiền lành và không nhìn mẹ con Tâm bằng con mắt lạnh lùng khinh khỉnh như mấy người kia. Cô luôn luôn vồn vã với mẹ con Tâm dù đôi khi Tâm chưa kịp thấy cô. Cũng nhiều lần cô âu yếm nhìn tâm và nói với mẹ Tâm :
- Coi cho em nó đi học đi ! Chị Hai !
- Nghèo quá ! Cô !
- Nghèo thì nghèo, rán một chút coi, cũng không tốn kém bao nhiêu đâu…
Tâm hồi hộp mong cô giáo làm xiêu lòng mẹ. Lần nào cũng như lần nào, lời đối thoại giữa hai người có thay đổi chút ít, khi thì mẹ Tâm viện cớ bây giờ nhà có thêm em nhỏ không ai coi sóc trong lúc bà gánh nước đi chợ; khi thì rằng Tâm phải đi đổ rác giúp mình… Rồi sau cùng bà đem tiếng nghèo ra ngăn sự tấn công của cô giáo. Nghèo là bức tường kiên cố cô không thể nào xâm phạm tới, vượt qua, xô ngã được. Nhưng cô không thất vọng: mỗi lần gặp mẹ con Tâm cô lại đem hai tiếng rán lên thuyết phục mẹ Tâm. Một lần kia, mẹ Tâm chưa kịp đem bức tường nghèo ra ngăn cô giáo thì chồng cô đã cười, nói :
- Thôi đi em, em đừng có méo mó nghề nghiệp chớ !
Nói xong, gã ta giục cô giáo lên xe rồi rồ máy lao vút đi như mũi tên.
Trời ơi ! Sao mà Tâm ghét cái nhà gã đàn ông đó quá : cái mặt lúc nào cũng vênh vênh lên. Nghe gã nói, Tâm chẳng hiểu ngô khoai gì tất nhưng mà càng ghét. Ý chừng gã sợ cô giáo sẽ dạy Tâm ? Và như vậy chữ của cô hao hụt đi hay sao mà kiếm cách ngăn cản vợ ! Hừ, méo mó nghề nghiệp ? Nó là cái quái quỉ gì kìa ?
Từ hôm đó trở đi, Tâm thù ghét chồng cô giáo thêm lên và ghét lây cả cô giáo nữa.
***
Một hôm trời mưa lớn. Trận mưa kéo dài cho đến tối mà chỉ hơi bơn bớt chứ không chịu dứt hạt cho. Đi đổ rác, một công việc bình thường Tâm vốn ghét, bây giờ càng thấy khó nhọc, bực bội thêm. Lối đi ngập bùn, đất dưới chân trơn tuột đi, thỉnh thoảng thằng bé bổ chúi một cái không gượng được, áo quần bê bết ướt, rác ngấm nước càng nặng thêm. Một chốc sau, trời tạnh hẳn, trăng cũng vừa lên, trăng sáng rỡ. Trời thật đẹp ! Trời đẹp vậy mà mình phải đi đổ rác ! Tâm tưởng tượng giờ này mà nó cắp sách đi dưới trăng… phải biết ! Nghĩ đến đó, nó bỗng nhớ lại nhiều chuyện cũ, nhớ lời tự hứa thầm của mình: không bao giờ thèm đả động đến chuyện học hành làm phiền lòng mẹ. Tâm lầu bầu bằng một giọng hờn dỗi, buồn rầu : “Không thèm nữa, không thèm… “
Từ góc tối mẹ nó nhô ra, đầu đội nón, vai khoác áo mưa rách tả tơi, vừa húng hắng ho vừa nặng nhọc kéo lê chiếc xe không; người và xe như được dội trong màu xanh biêng biếc của ánh trăng. Như thường lệ, Tâm lẽo đẽo theo sau và cũng như thường lệ, thằng bé bắt đầu suy nghĩ vẩn vơ hay quan sát sinh hoạt hai dãy phố. Có thế nó đỡ buồn đôi chút, có thế mùi rác bớt hôi đi, mùi phân cũng bớt.
Bỗng thằng bé nhớ ra rằng dạo này nó ít khi gặp cô giáo. Nỗi buồn gợn lên. Gặp cô cũng chẳng được cô cho bánh kẹo gì, song Tâm thích được cô nhìn bằng đôi mắt bao dung, âu yếm, được nghe giọng cô dịu dàng khi cô hỏi chuyện, được chào cô. Chẳng đi đến đâu, nó biết vậy, nhưng thằng bé mang cái tâm trạng của một kẻ rỗng túi ưa dán mũi vào mấy cửa kính của các hiệu buôn cho đỡ thèm đôi chút. Nhiều lúc nó ngông cho đến nỗi : cất tiếng chào cô xong thì tưởng như mình đã là học trò thực thụ rồi. Trong tâm trạng đó, nó quên khuấy cái lý do cô vắng mặt, nên quay hỏi mẹ :
- Mẹ ơi ! Sao không thấy cô giáo, mẹ ?
- Ủa, mày quên sao ? Cô giáo đi học thêm mà.
- Học thêm ! Học thêm…
Tâm gằn giọng lập lại hai tiếng ấy và thốt nhiên thằng bé cảm thấy giận sôi lên. Nghe giọng con, bà mẹ ngạc nhiên :
- Sao vậy Tâm ? Cô giáo học thêm sao mày…
- Đâu có sao…
Tâm chối phắt. Tâm xấu hổ vì thấy mình ganh tị và vô lý. Cô giáo đáng yêu chứ có đáng ghét đâu ? Cô có lỗi gì trong việc nó không được đi học mà nó đem lòng oán hận ?
- Không có sao, không có sao mà cái mặt nặng y như cái thúng !
Mẹ Tâm cau mày, gắt. Tâm cúi gầm mặt xuống, nước mắt mọng lên mi. Hai mẹ con cắm cúi làm việc, lầm lì không nói gì với nhau nữa. Thình lình có tiếng thình thịch càng lúc càng gần, Tâm gạt nước mắt ngẩng lên nghe ngóng, từ chỗ góc phố một đứa nhỏ hơn Tâm đâm bổ ra hẻm lớn, phía sau một người con trai đuổi theo sát gót. Tâm lo cho thằng bé đến nỗi nó ráo hoảnh mắt, hồi hộp nhìn theo, lòng thấp thỏm mong thằng bé thoát được, song chỉ một nhoáng là anh kia tóm thằng bé trong tay. Nó vùng vẫy kêu khóc. Anh kia nói :
- Tại sao mày cứ… bộ hết chỗ rồi sao ? Tại sao cứ đến trước nhà người ta…
- Con lỡ…
- Hừ, lỡ… lỡ hoài, ăn ở dơ dáy…
Anh kia chưa dứt lời, có tiếng đàn bà hét dựng lên :
- Làm gì dữ vậy ? Không được đánh con tôi. Có chuyện gì…
- Tôi không đánh con bà ! (anh con trai ôn tồn buông tay đứa trẻ, nói) tôi chỉ giữ nó lại hỏi thôi. Bà coi… ai lại… còn gì vệ sinh chung ?
Tâm ngơ ngác không hiểu gì cả. Người đàn bà hét tướng lên :
- Xí, đừng có nói dóc đi ! Vệ sinh vệ tử cóc khô, ỷ nhà giàu nói dóc hoài.
- Tôi ỷ giàu chỗ nào đâu ?
- Không ỷ giàu, hừ ! Cứ như tụi này coi : ở trong cái chòi chui ra chui vô còn đụng đầu, lấy đâu hòng nói chuyện vệ sinh ?
Cãi nhau vài câu nữa, anh kia chịu thua, anh đuối lý trước chị đàn bà quá quắt đó.
- Ỉa thì hốt, không chịu kiện đâu kiện, đây đi hầu. Cóc sợ.
Giọng chị ta thách thức. Nói xong, chị ta vênh váo đi vào bóng tối. Anh nọ rút lui luôn. Anh có vẻ là một mặt mới, rất mới ở đây.
Đi ngang mẹ con Tâm, anh không buồn ngẩng mặt lên, nhưng Tâm nghe anh ta lẩm bẩm một mình :
- Trời ! Cầu tiêu mà cũng là một xa xí phẩm nữa sao, trời ?
Tâm giật mình đánh thót một cái : ui chao ! Sao nhiều chữ quá; xa xí phẩm là cái gì ? Mới hôm kia đây chồng cô giáo nói “méo mó nghề nghiệp” Tâm chưa hiểu nổi, bây giờ anh này lại nói đến “xa xí phẩm”. Như vậy, chừng đi học Tâm sẽ phải học đến chừng nào mới biết hết đây ? Tâm đâm lo, buồn cười cái là nó không lo chuyện chừng nào được đi học mà lại lo không biết mình sẽ phải học đến bao lâu. Thì ra, trong lòng Tâm chuyện Đi Học vẫn là chuyện Tâm nuôi nhiều hy vọng.
***
Lại một đêm khác, Tâm theo phụ mẹ đổ rác. Không biết đây là lần thứ mấy trăm Tâm băng qua cái hẻm này, hẻm tối, sâu hun hút, nhà cửa thì cứ y như là muốn lấn ra, chồm tới, bít cả lối đi.
Trông thấy xe rác của mẹ con Tâm, mọi người đều bịt mũi lại. Tâm hết sức khó chịu, song dù khó chịu hay dễ chịu Tâm cũng không thể trách trút công việc đó cho ai : cha Tâm say sưa suốt ngày, còn em bé thì quá bé.
Mỗi lần cúi xuống thùng rác nhà ai để bưng đổ vào xe, nghe mùi tanh, nồng, thối hắc lên, xông ập vào hai mũi – dù Tâm đã cố tránh mặt đi phía khác – làm Tâm gần ngạt thở; Tâm đều liếc về phía mẹ, mong tìm một sự đồng minh ngầm để có thể an ủi mình đôi chút. Lạ lùng thay : mẹ nó vẫn thản nhiên, nét mặt không chút cau có, làm như không hề ngửi thấy mùi hôi, tanh, thối của những thùng rác ấy ! Tâm hết sức thất vọng về thái độ chai lỳ của mẹ, tuy vậy, nó không thể nào ngăn mình được, nó bật kêu lên :
- Trời ơi ! Hôi quá !
Và Tâm chun mũi lại để mẹ biết rằng rác hôi thật, hôi quá thật, chứ Tâm không có giả vờ, lười biếng tránh việc như mẹ tưởng. Bà mẹ điềm nhiên át lời con :
- Muốn không hôi hả ? Muốn không hôi thì úp nồi xuống đất, treo mỏ mày lên, khó khiết gì ?
Tâm nghẹn ngào muốn khóc lên cho hả. Song rồi, khi nhìn vào mặt mẹ, thằng bé thấy không có vẻ giận hờn gì, Tâm biết rằng mẹ nó quen nói những lời đay nghiến như thế chứ không ghét bỏ chi mình, nó lại nguôi nguôi. “Khóc làm gì ? Khóc có được gì đâu ? Khóc có bỏ vô nồi nấu được không mà khóc ?” Đó là những câu mẹ nó thường thốt ra mỗi khi thấy mắt thằng bé rơm rớm nước. Có khi còn tệ hơn vì bà bực tức gì đó, thường thường là những bực tức do cha Tâm gây ra, mẹ Tâm quát lên :
- Câm họng đi thằng quỉ kia ! Con trai gì mà nước mắt nhiều hơn nước đái !
Những lời đó làm cho Tâm tủi cực thêm, ấm ức thêm. Thấy con không nín, người mẹ dịu giọng một chút :
- Mày có biết thương tao không ? Mày khóc làm chi vậy ? Đáng lẽ tao khóc đây ! Ừ, đáng lẽ con mẹ mày khóc đây…
Đó là tất cả những lời dịu dàng mà người mẹ khốn khổ có thể tặng con mình. Nghe mẹ nói, Tâm ráo hoảnh mắt ngay. Nó cho là mình chẳng nhỏ nhít chi nữa, nó đã lên mười rồi. Con nhà nghèo sớm khôn. Tâm không cần đợi mẹ vuốt ve âu yếm mới biết mẹ cũng thương mình như tất cả bà mẹ khác trên thế gian này. Cũng như thịt cá không hề xuất hiện trên mâm cơm nhà nó, những lời tử tế, những cử chỉ âu yếm, dịu dàng cũng khan hiếm vô cùng. Đó là những xa xí phẩm mà đứa trẻ lên mười không bao giờ với tới, xa tầm tay nó quá !
Ngay cả em bé mà còn không hưởng được sự nâng niu, chìu chuộng nữa là thứ lớn đầu như nó. Mỗi lần ngồi ghé xuống bên chiếc giường ọp ẹp vạch áo cho em nó bú, mẹ nó luôn luôn tỏ ý sốt ruột.
Đôi khi, Tâm men lại gần thấy em bé vừa nhay vú mẹ, vừa nhịp nhịp hai chân, thỉnh thoảng nó ngừng nút, lấy lưỡi ẩy vú mẹ ra rồi nhoẻn cười làm Tâm hết sức thích thú, cười theo. Tức thì, bà mẹ cầu nhầu :
- Thôi, ngồi đó mà trửng giỡn, bú lẹ cho người ta làm việc khác.
Và người mẹ ấn đầu con vào ngực mình, lấy tay kẹp núm vú nhét vào miệng đứa bé. Chừng như muốn phản đối thái độ phũ phàng của mẹ, em bé nhất định lấy lưỡi đẩy vú mẹ ra, không thèm bú nữa, mếu máo khóc.
- Được rồi ! Lát nữa đói thấy mẹ mày, rán chịu nghe không ?
Người mẹ nói và buông con xuống, thò tay dưới gầm giường lôi chiếc nón mê, đội lên đầu rồi tất tả đi ra. Tâm gọi giật mẹ lại :
- Mẹ ! Mẹ đi đâu đó ?
- Đi đâu ? Đi kiếm gạo đổ vô nồi chớ đi đâu ? Coi em đàng hoàng nghe không ? Liệu bỏ nó nhảy ra đường chơi, tao đánh thấy mẹ mày đó, nghe chưa ?
Đáng lẽ thì Tâm đã “dạ” lên một tiếng rồi. Một tiếng dạ khó khăn gì cho cam ? Nhưng nó tức mình vì những lời dấm dẳng của mẹ nên không thèm dạ. Đã không dạ, nó còn “xùy” lên một tiếng ngầm phản đối. Hừ ! Tâm hằn học nghĩ thầm -- chuyện gì đòi đánh người ta ? Hở chút dọa đánh, hở chút chửi, tức mình ta có ngày ta bỏ đi giang hồ cho biết mặt !
Trời đất ! Sao mà mẹ Tâm khó chịu quá ? Sao trời không cho Tâm một bà mẹ y như mẹ con Cúc ! Không ! Chỉ cần như mẹ con Cúc là quí rồi, không bao giờ Tâm ao ước được làm con nhà giàu cả.
Mẹ con Cúc bán xôi vò ngoài chợ. Vậy mà nó cũng được đi học đàng hoàng lắm. Sáng nào Cúc cũng có nắm xôi ăn trước khi đi học. Trưa về nó nấu cơm, rồi mẹ nó ngoài chợ về đem cá rau về, hai mẹ con xúm lại làm cá, nấu canh, dọn ăn xong, mẹ nó giành rửa chén. Còn Cúc ? Lên võng nằm đưa kẽo kẹt ung dung quá đỗi ! Mỗi lần trong trí Tâm vẽ lại hình ảnh đó thì Tâm lại thở mạnh một cái, lầm bầm :
- Đồ con bất hiếu !
Tâm không ưa Cúc. Sao nó không chịu rửa chén cho mẹ ? Để mẹ nó được nghỉ một chút, vì bà ta còn lo nồi chè để bán canh chiều nữa, kia mà. Thứ đồ con gái… Tâm nghĩ tiếp -- nếu như Tâm, Tâm đã giúp mẹ sau bữa ăn chớ không có nằm ườn xác ra, mặc mẹ mình loay hoay dưới bếp vậy đâu, trời ạ !
Cúc được mẹ nó nuôi, không chỉ bằng cơm cá mà còn bằng rất nhiều xôi vò, chè đậu. Chắc thế ! Nếu không sao nó tròn như một cái hạt mít trong lúc Tâm ngày càng gầy ốm trơ xương ? Trời ơi ! Xương của thằng Tâm… lúc nào cũng như muốn đội da lên, nhô lên, hằn ra rõ qua lần áo nó mặc, dù là mỏng hay dày.
Không như ngày còn nhỏ ở quê nhà, Tâm luôn được mẹ thay giặt, tắm táp, chăm sóc áo quần tử tế, bây giờ bà như bỏ liều con bẩn thỉu, hôi hám, luộm thuộm. Có lẽ bà nghĩ rằng sạch sẽ làm chi vô ích vì tối nào không phải mó vào của bẩn ? Hay là bởi nước ở đô thành khó khăn, khan hiếm mà mẹ Tâm đổi tính thêm ?
Kể cũng tội nghiệp bà : tối thì thức khuya đổ rác mà sáng tinh sương đã phải lò dò dậy sớm ra gánh nước ở chỗ chiếc vòi công cộng ngoài đường lớn. Phải đi sớm thế, chớ chờ tang tảng sáng thì đã có hàng chục đôi thùng sắp hàng chen nhau chờ đến phiên.
Gánh vội gánh vàng cho nhà mình vài đôi rồi mẹ Tâm lo gánh thuê cho nhà con Cúc. Ngày trước, mẹ Tâm còn gánh cho nhà cô giáo nữa kia, song ít lâu nay thì ông chồng cô ấy chê là mẹ Tâm bẩn, không chịu thuê. Mẹ Tâm phải gánh cho những nhà xa hơn. Một dạo, nghe phong phanh xóm mẹ con mình ở sắp có nước máy tận mỗi nhà, mẹ Tâm cuống lên, lo đến mất ngủ, song rồi đâu vẫn hoàn đấy, không gì thay đổi : nước máy cũng như cầu tiêu là những thứ xa xí ở trong cái xóm nghèo này.
Lại lần kia, thấy mẹ vui vui, Tâm làm gan đề nghị :
- Mẹ ! Sao mẹ không bán xôi chè như mẹ con Cúc ? Bán xôi chè…
Tâm toan nói “bán xôi chè thơm tho, sạch sẽ mà có nhiều tiền hơn… “ song Tâm chưa dứt câu, mẹ nó ngắt ngay:
- Bán xôi chè để cho mày dộng thả cửa phải không ? Thứ quân gì mà cứ chong mòng, chóc mỏi có một chuyện ăn. Giống y như thằng cha mày… thiệt là con nhà công giống cả lông cả cánh !
Tâm uất nghẹn. Quả tình là Tâm cũng có nghĩ đến chuyện mình được ăn chè xôi, nhưng mà nó nghĩ đến chuyện mẹ mình được thong thả, sạch sẽ, thơm tho, ngọt ngào nhiều hơn. Nó cũng sẽ được nhàn hơn đôi chút và biết đâu… ừ, biết chừng đâu lại được đi học như con Cúc ?
Tại làm sao mà lúc nào mẹ nó cũng nghĩ xấu, nghĩ oan ức cho nó như vậy chớ ? Nó giống cha chỗ nào đâu ? Cha nó thì ưa uống rượu, chửi bới, áo quần không bao giờ thay, ngồi lại mâm không có món nhắm là chửi váng lên, cho nên dù tiện tặn, không dám mua cho con chút thịt cá mà bà vẫn phải bấm bụng mua cho ông dĩa lòng heo hay con mực khô, cùng lắm cũng có dĩa kiệu chua thì mẹ con mới ngồi nuốt trôi được bữa cơm.
Còn Tâm : chịu khó giúp mẹ đủ việc, mẹ ăn gì con ăn nấy, không vòi vĩnh, mè nheo, đòi hỏi; thích tắm giặt hoài hoài cho sạch sẽ và hết mùi hôi. Niềm ao ước tha thiết và sâu xa của nó là được mẹ đối xử tử tế, ăn nói dịu dàng, nhất là được đi học, có thế thôi. Đơn giản như thế đó, song không bao giờ nó được hưởng những ao ước tầm thường này cả.
Chương 2
Mấy năm trước cha mẹ Tâm cũng không đến nỗi nào. Gì chớ thứ xôi thì nó ăn phát ngấy lên tận cổ, vào ngày mùa. Đôi khi nó còn được ăn bún, ăn bánh nữa kia. Mùa gặt tới, cha mẹ nó đi gặt suốt ngày ngoài đồng. Tâm qua nhà dì Tư ăn cơm nhờ. Chiều về mẹ nó mang một rá to đầy nhóc bún mà bà đổi lúa ngoài đồng lúc xế.
Khoai lang bò lổm ngổm dưới gậm giường và cánh phản. Tâm thù thứ phó sản này lắm vì Tâm chê là ăn bứ. Bún Tâm ưa hơn, con bún mềm mại, dài và trắng muốt, mỗi lần và qua cổ cứ trôi tuồn tuột đi, mát ơi là mát !
Thình lình, người ta nhộn nhịp lên vì chuyện đánh nhau sao đó. Một đôi người vội vã bỏ làng thiên cư lên Sài Gòn, vì theo họ đất này dễ sống, dễ làm ăn, hái ra vàng. Đó là những người giàu có nhất.
Cha mẹ Tâm không đi và nhiều người nữa cũng không. Họ bám vào đất đai, ruộng vườn khăng khít tưởng như không bao giờ rời bỏ được, trừ cái chết.
Nhưng mà từ đó nhiều đêm Tâm bị đánh thức lôi cổ xuống hầm trú ẩn vì những tiếng súng nổ dữ dội sát bên hè. Lâu dần, súng không chỉ nổ ban đêm mà còn nổ ngay giữa ban ngày. Có người bị lạc đạn chết ngoài ruộng khi đang gieo mạ hay đang cuốc đất trong vườn. Trường làng đóng cửa. Ban đêm, nghe một tiếng chó sủa đầu xóm là mọi người toát mồ hôi vì kinh hãi. Cái chết đến bất ngờ, dễ dàng đáng kinh sợ thật. Cho đến sau cùng thì một số người gan lì nhất cũng phải bỏ làng. Cha mẹ Tâm thuộc trong số đó.
Tâm còn nhỏ quá nên không thấy quyến luyến buồn rầu gì. Nó tưởng đó cũng là một chuyến đi chơi xa như lên thăm bà ngoại ngày trước khi bà còn, vậy thôi. Tâm không ngờ rằng gia đình mình đi vào ngã rẽ. Cha Tâm vốn là nhà nông chuyên nghiệp, sểnh lưỡi cày, cán cuốc, thúng mạ, bó rơm ông ta ngơ ngác, lúng túng tựa cá rời mặt nước, chỉ thoi thóp thở, chờ ngày…
Phải công bình mà nhận rằng ông không phải hạng đàn ông say sưa, hung tợn hay ăn bơ làm biếng. Ông ta đã cố sức tranh sống, chấp nhận hoàn cảnh mới, xoay sở đủ cách, song có thể ví ông ta như con rùa bị lật ngửa, ông ta không thể nào tự mình lật sấp trở lại hay thoát khỏi cái mai lịch kịch nặng nề kia.
Rời quê hương với một sản nghiệp gồm có ít quần áo, chăn mền, nồi niêu và mấy tờ giấy bạc mỏng tanh tanh, gia đình ông ta nào có gì làm vốn ? Ở làng, cha Tâm không phải hạng nghèo mạt, không có tấc đất cắm dùi, song khi ra đi thì đất đai ở lại, tình trạng ông ta chẳng khác chi những cùng đinh khác. Đất đai từ nay mặc nắng lửa mưa dầu, cỏ hoang tha hồ hút hết phân phóng mà cha Tâm từng đổ mồ hôi chăm bón. Cha Tâm gục đầu vào hai bàn tay khóc tựa như đứa trẻ và tiếng khóc lớn dần cho đến lúc tiếng động cơ của chiếc xe đò ọp ẹp nổi lên. Tiếng động cơ làm cho ông cảm thấy kinh sợ, hãi hùng. Và rồi, sự lo lắng, kinh sợ lấn át nỗi đau đớn sắp phải lìa quê, ông ráo hoảnh mắt, lắng tai nghe những người tỏ ra thành thạo, từng sinh nhai tại đô thị kể lại những khó khăn, vất vả mà họ trải qua.
Cũng trên chiếc xe đò ọp ẹp đó, ông ta lại nghe người khác khuyên cứ bình tĩnh, đô thành khối việc chờ mình. Trông vẻ băn khoăn của cha Tâm, người kia trấn an :
- Ông bạn đừng lo, vạn nhất không tìm ra việc thì đã có cơ quan từ thiện nuôi cơm…
- Ô, không ! (Cha Tâm đỏ mặt lên) tôi đâu có định đi xin ? Tôi mạnh khoẻ, chỉ muốn hỏi cho biết công chuyện làm ăn…
- Đừng ngại, bồ ! Cứ tin tôi, bồ ! Đã nói rồi, khối việc mà.
Gã đàn ông thân mật một cách bất ngờ, vỗ vai cha Tâm,nói. Dù không mấy tin tưởng lời hắn, cha Tâm nào biết tựa vào đâu cho vững lòng ? Hắn là tấm ván mục trôi trên sóng nước mà cha Tâm thì quả đuối sức rồi ! Tuy càng ngắm kỹ hắn, người nông dân chất phác kia càng thấy rõ hắn là một tên vô lại, là thứ người chưa từng sống bằng cách đổ mồ hôi, cha Tâm vẫn cứ lắng tai nghe hắn huênh hoang, hy vọng hiểu biết gì đôi chút về cái thành phố mình sắp trôi giạt đến.
***
Quả thật, nhờ những lời chỉ dẫn của gã nọ, cha Tâm tìm ra được một chỗ trọ tạm thời trong hẻm Bàn Cờ và mướn được chiếc xích lô đạp. Đó là cái nghề bất đắc dĩ mà cha Tâm có thể làm được nếu không muốn ăn xin hay… chết đói.
Trông người ta làm thì dễ, nhưng đến khi mình mang xe ra khỏi đó rồi cha Tâm mới cảm thấy tất cả khó khăn đang đợi, đón mình. Mồ hôi vã ra như tắm cha Tâm mới đạp xe về đến chỗ trọ. Sử dụng được chiếc xe mất hết nửa ngày ròng. Phải cẩn thận thế, cha Tâm không dám liều lĩnh rước khách ngay, phần thì chưa biết luật giao thông, phần nom thấy xe cộ nườm nượp ông tưởng như mình sắp bị lôi đi, bị chà nát, cuốn trôi, bị nhận chìm trong làn sóng xe và người ngoài công lộ.
Ông tưởng như cả trăm cặp mắt đều đuổi mãi theo sau lưng mình mà mỉa mai, bàn tán, xì xào về chuyện ông bỏ làng, bỏ đất lên Sài-gòn làm cái nghề kỳ quái !
Mẹ Tâm hớn hở ra mặt khi thấy chồng về, còn Tâm, nó vỗ tay nhiệt liệt, và một hai nằng nặc đòi cha chở đi thử một vòng cho đến lúc mẹ nó quắc mắt lên, doạ phết vào đít, nó mới thôi.
Phải mất hai ngày trời cha Tâm mới dám đón khách. Và chỉ dám chạy những đường thẳng, những quãng gần. Cuốc đầu tiên được mười đồng bạc, cha Tâm mừng cuống. Ở nhà quê ông ít khi nắm giữ tiền bạc trong tay. Mười đồng không phải nhỏ đối với người nông dân ngờ nghệch đó, ông ta mừng lắm.
Nửa ngày ròng rã, đếm lại thấy trả tiền thuê xe xong, mình còn có hai mươi đồng bạc, người đàn ông bỗng rời rã, kinh hoàng.
Cố trấn tĩnh, cha Tâm định thuê chạy cả buổi chiều luôn, song suy nghĩ một lát, cha Tâm biết rằng không thể được. Tuy quen làm việc nặng, nhưng công việc cày cuốc gieo vãi khác xa việc đạp xe. Nó kỳ cục làm sao chứ ! Lại còn phải lanh miệng mời mọc, nếu không kẻ khác tranh mất mối đi, cha Tâm không quen… Nguyên một việc không thạo đường cũng bất lợi rồi. Cha Tâm sợ nhất là phải gặp người làng. Cũng may, chưa bao giờ ông lâm vào trường hợp đó, Sài-gòn rộng lớn quá.
Mỗi chiều về, ông mệt phờ, đêm nằm kêu rên không ngớt. Mẹ Tâm mua dầu nóng xoa bóp cho chồng.
Nhiều bữa trưa, gặp mối bất ngờ cha Tâm không về nhà ăn cơm được, ăn ngoài thì đắt, thành ra ăn uống thất thường. Dần dần, quen bè, quen bạn, cha Tâm vào quán làm cốc rượu cho giãn xương theo lời khuyên của vài đồng nghiệp mới !
Ông dần dà đổi tính : càng ngày càng thô lỗ, cục cằn. Ông thấy vợ và con bỗng trở thành gánh nặng -- một điều trước nay ở quê nhà ông không hề để ý -- Những buổi trưa nắng lửa của Sài-gòn, phải gò lưng đạp một cuốc xe, mồ hôi tuôn ra, ướt đẫm cả áo, chảy từ trán xuống, qua khỏi lông mày, chui vào cả mắt chát ngăn ngắt và sức lực ông ta hình như cũng tiêu tán theo những giọt mồ hôi ấy ! Đó lại cũng là một sự khác biệt mà hồi ở nhà quê ông không hề cảm thấy. Ở nhà quê ấy ư : những giọt mồ hôi làm ông ta phấn khởi khoan khoái thêm lên và mỗi chiều ngồi vào mâm nhai cơm lức một cách ngon lành. Bây giờ đây, gạo đô thành trắng quá, nhạt thếch, phải dùng rượu để cho bớt chán.
Đã thôi đâu, hai tiếng báo động : hết gạo luôn luôn được thúc giục, nhắc nhở bên tai người đàn ông. Hết gạo ? Đó đâu phải là phần việc của ông ? Hồi ở nhà quê, có bao giờ ông phải quan tâm đến điều nhỏ nhặt đó ? Lúa trong bồ, cứ việc xúc ra xay, giã, dần, sàng rồi đổ vào khạp đậy kỹ, ăn dần. Hết gạo là chuyện của bọn đàn bà, con nít chứ ! Đàn ông, người ta chỉ lo việc đồng áng, việc gieo vãi, cày bừa, gặt đập. Có bao giờ ông ta phải đong gạo bữa như bây giờ đâu ? Đong gạo bữa ! Nghe mới tủi cực làm sao ! Mỗi lần nhớ tới điều này, người đàn ông thấy nghẹn ở cổ như khi vội vàng nuốt trộng một búng cơm to. Nhưng chưa, đó chưa phải là điều làm ông ta tủi cực nhất. Điều làm ông thấy mình thấp thỏi, cực nhục nhất là chứng kiến cảnh đồng nghiệp tranh mối của nhau, và tệ hơn nữa là thấy mình cũng nhiễm họ tự hồi nào không kịp biết !
Càng ngày, số tiền ông giao cho vợ càng ít dần, trong lúc gạo, củi, mắm, rau cứ đều đặng tăng, tăng không ngớt.
Gã đàn ông gặp trên chuyến xe đò lần đầu, gã đàn ông mà thoạt gặp cha tâm đã biết ngay rằng không phải thuộc hạng người kiếm sống bằng cách đổ mồ hôi đó, tuy trong lòng không có cảm tình nhưng ông luôn luôn nhớ cái ơn trời bể của hắn ta : đã chỉ vẽ đường đi nước bước, đã tìm giúp chốn ở nơi ăn, đã bày cách cho ông mướn xe kiếm gạo. Hắn thường nham nhở bòn sạch cả đồng bạc cuối cùng trong cái ví bằng bẹ chuối -- kỷ vật mang tự quê lên được chủ nhân nâng niu giữ kỹ -- vốn luôn luôn lép kẹp của cha Tâm. Hắn tự cho mình có quyền làm thế, mà buồn cười thay, cha Tâm cũng thấy mình có bổn phận phải đối xử như thế. Chỉ tốn nước bọt thôi, gã ta sống rất nhàn, làm cho đôi khi người đàn ông quê mùa thoáng thấy thèm khát cuộc sống đó, may thay, chỉ một thoáng cha Tâm nóng bừng mặt lên vì xấu hổ, gạt ngang cái ý nghĩ này ngay.
- Ê ! Bồ ! Ngừng xe lại, vô quán làm xị đế coi. Tội gì mà cứ hành xác chớ ?
Cha Tâm ghé xe sát lề tay phải, theo chân gã đàn ông, tuy trong lòng rất muốn phản đối.
Ngày tháng trôi qua, lòng biết ơn của cha Tâm đã, không chỉ làm ông hao hụt những đồng bạc kiếm một cách khó nhọc mà còn làm cho ông mang tật nghiện rượu càng ngày càng nặng. Rượu hầu như thay thế bữa ăn của ông. Cha Tâm uống tràn mỗi khi cảm thấy cái hy vọng trở về quê, được nhỏ giọt mồ hôi trên thửa đất của ông như trước ngày càng mỏng manh, mờ nhạt.
Đạp xe ra khỏi hẻm thì hít phải khói, bụi, xăng. Sợ nhất là phải chạy sau xích lô máy, mà ông cứ phải chạy… sau xích lô máy. Khi mệt nhoài, trở về chòi thì ngẩng lên không thấy trời đâu, cúi xuống chẳng thấy đất đâu. Mặt đất đầy rác rưởi, ruồi nhặng, luôn luôn ngửi thấy mùi tanh nồng của cống rãnh không thoát nước. Nghe mãi tiếng nheo nhéo cãi cọ của bọn đàn bà, chí choé của lũ trẻ con hàng xóm. Ông ta nhớ màu xanh của ruộng đồng cây cỏ. Nhớ không nguôi. Lúng ta lúng túng, bực tức giận dữ, không trút vào đâu được, cha Tâm uống rượu và trút vào vợ, con mình.
Rồi đến một hôm kia trong cơn say, ông ta lính quính vì tránh một chiếc xe nhà binh, lại trút luôn khách hàng xuống đường. May mắn làm sao : người kia chỉ văng vào lề, còn ông thì bị chiếc xe đổ ập đè nghiến ngang bàn tay – tay phải !
Hết cầm cày ! Người nông dân khốn khổ rên lên khi tỉnh rượu. Băng bó thuốc men mất mấy tháng trời, nhưng không thể nào trở lại nghề xích lô đạp khi lành được nữa.
Phải đổi nghề. Hằng ngay, theo lời gã đàn ông ân nhân, cha Tâm tha thẩn mấy khu chợ, bến xe, làm phu khuân vác, song đó lại cũng là một nghề không dễ kiếm ăn như ông tưởng. Bàn tay gãy ngăn trở thêm lên : mỗi khi ngoặc hai tay ra sau giữ vật nặng trên vai, bỗng nghe đau nhéo một cái, tưởng như nó sắp gãy lại. Tức thì, cha Tâm kinh hoàng buông xuống, dù đó là giỏ rau cải, bao gạo hay một cái thùng niêm kín mà người thuê không ngớt kêu : “coi chừng bể, coi chừng bể” bên tai.
***
Bây giờ thì cha Tâm không đi làm nữa. Sinh kế do mẹ Tâm đảm nhận. Không làm gì nữa nhưng vẫn tiếp tục uống rượu, chửi bới vợ con.
Đôi khi chợt tỉnh, cha Tâm hối hận, xấu hổ, cương quyết gạt bỏ thói nghiện ngập và những đêm ấy, người ta thấy theo phụ với người đàn bà đổ rác không phải là đứa trẻ lên mười mà là một gã đàn ông. Nhưng chỉ được vài hôm, cha Tâm đã lại giở chứng cũ : trong khi người vợ gò lưng kéo chiếc xe rác đi trước thì ông ta đi sau, lúc bưng rác, lúc đi không, miệng không ngớt lầu bầu chửi rủa bằng những lời thô lỗ, tục tằn.
Thường thường, không ai bảo ai, cứ khi kéo xe ngang nhà bà Ngọc thì mẹ Tâm buông càng xe ra, kéo vạt áo lau mồ hôi và ngồi phệch xuống thở dốc một hồi. Cửa sổ phòng ngủ của bà Ngọc ngay đó, dưới tàng cây trứng cá. Bà này lại ưa mở cửa sổ ban đêm để hưởng chút gió mát. Chỗ đó tương đối thoáng hơn hết trong con hẻm, nên mẹ Tâm ngồi rốn, thấy mát cũng chần chờ không vội đứng lên. Bà Ngọc vốn tỉnh ngủ, mùi hôi từ xe rác theo ngọn gió hiu hiu ập vào phòng ngủ của bà làm bà vô cùng bực tức. Bà Ngọc đứng lên, giơ tay toan đóng hai cánh cửa sổ đang mở rộng, vừa vặn đúng lúc cha Tâm chửi vợ :
- Mồ tổ cha mày ! Mồ tổ mẹ mày ! Con mọi kia ! Hà cớ gì mày hành hạ thân tao ? Hả ? Tao ăn uống gì đâu ? Vài đồng bạc rượu… Mồ tổ cha mày… Tao gãy tay cũng vì mẹ con mày. Đồ chó đẻ ! Đồ…
- Tôi lạy ông ! (giọng mẹ Tâm nhỏ nhẹ, vừa nói, người đàn bà vừa liếc vào khung cửa sổ) ông có làm giúp thì làm, không thì mai tôi biểu thằng Tâm, la chửi ó lên người ta nghe bây giờ…
- Ông cứ chửi ! Ông cứ chửi ! Mày làm gì ông ? Ông không phải là hạng đi làm cái nghề con chó đẻ này. Ông có ruộng đất… Bữa này là bữa chót nghe không ? Đừng hòng hành xác thân tao. Mồ cha mày !
- Được rồi ! Ngày mai ông đừng đi, cực khổ như thế này mà còn… ngày càng tệ… rượu chè say sưa (giọng người đàn bà nghẹn lại). Sao mà thân tôi khổ vậy, hả trời ?
Bà Ngọc đứng sửng, quên cả việc đóng cửa ngăn mùi hôi đang ập vô mũi mình. Bà thấy xót xa cho người đàn bà và giận người chồng quá đỗi.
Trong khi người vợ sùi sụt khóc, lão ta lại hét dựng lên :
- Tao không có làm mọi đổ rác cho mẹ con mày. Đồ chó ! Tao ăn uống gì đâu ? Một mình tao, tao uống xị đế là đủ. Vì mẹ con mày, chỉ vì mẹ con mày…
Quá ! Quá sức rồi. Bà Ngọc nghĩ. Muốn chửi nhau thì về nhà mà chửi chứ, nửa đêm kéo nhau đến ngay bên tai mình mà chửi, lại để xe rác ngay trước mũi mình… Bà thò tay kéo hai cánh cửa đóng sầm một cái. Người đàn bà giật mình vội đứng lên gò lưng kéo…
***
- Này, chị Hai ! (Bà Ngọc nói trong khi trả tiền rác cho mẹ Tâm) tại sao vợ chồng chị cứ đi ngang phòng ngủ của tôi là ngừng lại chửi lộn hoài như vậy ? Đêm hôm khuya khoắt làm ồn không sợ làm buồn lòng hàng xóm hay sao ? Phần thì xe rác…
Ý bà Ngọc định nói “xe rác hôi nồng bay vô phòng chịu không nổi” song bà thoáng nghĩ rằng nói trắng như vậy làm người ta tủi thân, tội nghiệp ! Cũng là người cả, mà mình chỉ vài phút kêu không chịu nổi, còn người ta thì ngày nào cũng hốt, bưng, đổ, kéo kè kè sau lưng… ngày nào cũng phải hít cái mùi khó chịu đó hàng hai ba giờ đồng hồ thì sao ? Bà Ngọc ngừng lại nửa chừng. Mẹ Tâm ấp úng :
- Dạ, đâu có làm ồn ? Tại ổng… ngồi nghỉ một chút thôi… tại ổng… nói bà thương… khổ quá…
- Khổ quá ! Khổ quá ! Rồi cãi nhau như vậy có bớt khổ chút nào không ?
Nhớ lại mùi hôi của xe rác đêm nào, bà Ngọc không dằn được, gằn giọng hỏi. Song nói xong câu đó bà lại hối vì mình nặng lời. Người đàn bà càng lúng túng :
- Dạ, nghèo khổ quá, chớ đâu có muốn, thưa bà… khổ quá !
Vì mới gặp bà Ngọc và bị bà phiền trách lúc chiều cho nên đêm nay mẹ Tâm tự dặn mình dù chồng chửi mắng gì mặc kệ, cứ nhịn cho yên.
Từ bóng tối người đàn bà kéo xe rác ra, ông chồng đi phía sau lè nhè nhiếc nhóng. Không như mấy đêm trước, lần này ông ta chỉ đi sau, đi không thôi, không phụ bưng rác, cũng chẳng đổ giúp vào xe. Người vợ lẳng lặng hạ càng xe xuống, đứng đợi. Khi thấy chồng bắt kịp mà không lại giúp, bà ta lầm lũi bưng rác đổ vào xe, trả thùng về chỗ cũ, đoạn kéo xe tới một khúc rồi lại hạ càng xe, bưng, đổ…
Đột nhiên, mẹ Tâm buông càng xe xuống, đưa hai tay ôm bụng xuýt xoa khe khẽ :
- Chết cha rồi… lại lên cơn chắc…
Sau lưng, tiếng ông chồng vẫn bay tới sặc nồng mùi rượu làm người vợ quên cả ý tứ giữ gìn, phần thì bị cơn đau hành hạ, nên cũng hét toáng lên :
- Câm họng bớt đi ! Sao ông ác vậy hả ? Tôi đau như thế này mà ông không giúp một tay, cứ chửi người ta hoài…
- Biểu ai câm, con mọi ? Đau ốm kệ mẹ mày chớ. Tao về tao ngủ đây. Tao đâu có ngu ? Bộ hết nghề sao mà bắt tao làm cái nghề con chó đẻ này ?
Cuộc cãi vã lần này lại diễn ra ngay chỗ cũ. Mùi rác và tiếng nheo nhéo của đôi vợ chồng nhà đổ rác cùng ập vào phòng bà Ngọc một loạt, làm bà tỉnh phắt dậy.
- Nói ai chó đẻ ? Ông đừng có hồ đồ quá vậy. Mẹ cha tôi làm sao mà ông chửi ? Từ ngày lên đây bắt chước say sưa, đổ thói côn đồ, từ nay mà tôi còn thấy thằng cha khốn đó mò tới nhà thì ông biết tay tôi, tôi đuổi nó ra khỏi nhà liền. Vì nó mà ông đổ tật hư…
- Hả ? Sao ? Ai cho phép mày động đến người ân nhân của tao ? Đồ chó đẻ ! Liệu hồn mày đó, tao đánh chết cha mày, cha mày ăn gì…
Lão hùng hỗ xông đến bên vợ, nom dáng bộ lão, bà Ngọc cuống lên, tưởng lão sắp đánh người đàn bà đáng thương kia. Nhưng không ! Lão không đánh, lão chỉ dí tay vào trán vợ, nhiếc :
- Con mọi kia ! Vì mẹ con mày mà tao phải bỏ xứ, bỏ làng, bỏ đất đai lên đây. Tại mẹ con mày mà tao ra thân lưu lạc. Từ nay đừng hòng tao làm cái nghề con chó đẻ này. Tao về tao ngủ đây.
- Tội nghiệp tôi ! Tôi đau quá ! Ông giúp tôi một bữa nữa mà. Mai nhất định tôi kêu thằng Tâm…
Người đàn bà ôm bụng rên vừa bật lên rưng rưng khóc. Bà Ngọc lặng người, xao xuyến trong lòng. Song ông chồng khăng khăng nói :
- Mày đừng phỉnh tao. Tao có ngu đâu ? Tao ăn cái chó gì ? Một cút rượu là xong. Tao về tao ngủ, hôi hám lắm, đừng có hành hạ thân tao. Từ nay đừng hòng…
Nói sao làm vậy, người đàn ông khật khưỡng bước vào bóng tối, miệng lầu nhầu cho đến khi mất hút, mặc vợ và xe rác dở dang.
Bà Ngọc về giường nằm xuống, song bà không sao chợp mắt đươc, lại đứng lên, mở cửa sổ, mùi rác lại ập vào. Bà ôn tồn hỏi :
- Chị làm sao vậy, chị Hai ?
- Dạ, ngồi nhờ một chút, xin bà… ổng bỏ về rồi…
Vừa nén tiếng rên, mẹ Tâm vừa trả lời bà Ngọc. Giọng bà Ngọc nóng nảy :
- Biết rồi. Tôi biết ổng bỏ về rồi, tôi hỏi chị đau gì kia ?
- Dạ, đau bụng. Tôi có tật đau bụng bão, chút xíu thì bớt, không sao.
- Chị xức dầu không ?
- Dạ, xức… mà…
- Đây này, (bà Ngọc tung lọ dầu nóng ra cửa sổ) xức lên một chút coi có đỡ không ?
Lọ dầu lao vút ra ngoài, lấp lánh cái nắp dưới ánh điện đường rồi rơi xuống đất, gần chỗ mẹ Tâm ngồi. Người đàn bà nhặt lên, mở nắp xoa dầu vào bụng.
***
Sau đêm đó, không bao giờ cha Tâm theo phụ với vợ nữa. Dù mẹ Tâm hết sức nài nỉ, ông ta vẫn nói rằng :
- Quân tử nhứt ngôn. Tao đã nói không làm cái nghề chó đẻ là không làm. Đừng có nói điếc tai tao. Đừng hành hạ tao. Tao ăn gì…
Thằng con phải làm giúp mẹ. Một đêm hai đêm, một tháng hai tháng, một năm hai năm… Mẹ nó dường như quen dần, song nó thì không, không bao giờ quen được với công việc đổ rác hết.
Bấy giờ vào mùa mưa, nên phải lo đổ rác sớm chứ không đợi khuya nữa. Nhiều nhà còn thức, hễ trông thấy là bịt mũi liền làm Tâm càng khó chịu hơn. Xe rác cao, Tâm vói không tới, mẹ nó sai nó bưng thùng rác đổ vào trong cái giỏ to, năm ba thùng một lượt rồi hai mẹ con khiêng lại gần xe, đổ vô xe cho tiện và mau. Cơn bệnh của mẹ nó hay trở lại bất thường, những bữa như vậy nó phải è ạch lôi giỏ rác đầy ắp lại bên xe, vương vãi khắp sau hẻm nhà bà Ngọc. Bà Ngọc tức giận lắm, cho là mẹ Tâm làm ăn cẩu thả nên quyết định chộp một bữa. Và… bữa đó tới : trời nhá nhem Tâm kè kè cái giỏ không vòng ra sau hè, xóm nhà bà Ngọc, nó cúi xuống đỏ bừng mặt bưng từng thùng, từng thùng rác đổ vô giỏ rồi ì ạch lôi cái giỏ cao nghệu những rác chạy băng băng. Phía sau rác tung khắp lối, nó càng lôi khoẻ. Bà Ngọc mở cửa sau, phóng theo kêu lên. Khi bắt kịp thì hoá ra không phải ông chồng, không phải người vợ mà là một đứa bé xanh xao, gầy yếu bên cạnh giỏ rác to kềnh ! Mẹ nó cũng vừa trờ tới. Bà Ngọc nhìn hai mẹ con, cơn giận lắng xuống, bà nói :
- Chồng chị đâu mà hành thằng bé…
- Trời ơi ! Khổ quá ! Từ đêm đó tới giờ ổng có chịu giúp nữa đâu. Đành phải nhờ con chớ đâu muốn hành con, thưa bà !
- Nhưng mà chị nhìn coi, cái giỏ bao nhiêu ? Sức nó…
- Đó là tại con chớ không phải tại mẹ con.
Tâm nhanh nhẩu đỡ lời cho mẹ. Tự nhiên bà Ngọc thấy có cảm tình với thằng bé, bà xoa lên đầu Tâm, dịu dàng hỏi :
- Con mấy tuổi ?
- Dạ, con mười một.
- Mười một tuổi ? Trời đất ơi !...
Bà Ngọc lại một lần nữa, kìm giữ ý nghĩ của mình. Quả thật lên 11 mà nó muốn nhỏ hơn đứa con thứ ba của bà, con bé vừa lên chín ! Đột nhiên bà Ngọc hỏi một câu và vừa hỏi xong bà thấy hối :
- Con có đi học không ?
- Dạ, không !
- Sao không cho nó đi học ? (Bà Ngọc lại lỡ lời lần nữa).
- Dạ, nghèo quá, thưa bà, nghèo quá, chớ đâu có muốn…
Mẹ Tâm trả lời gọn, thằng con lo lui cui xách thùng rác từ xa, nghe tiếng được tiếng mất, lại ngỡ rằng mẹ nói với bà Ngọc mình đâu muốn học nên nó tức đỏ mặt lên, thả cái thùng không xuống, quay lại cải chình liền :
- Dạ, con muốn học chớ, mà tại…
Nó ngừng lại bất ngờ, trí khôn của nó không cho phép nó nói toạc ý nghĩ nó ra, nó không thể nói tại cha, tại mẹ, lại càng không thể nói tại nghèo. Nghèo ? Vậy chớ mẹ con Cúc đó, bà ta giàu có gì đâu ? Mà lại không có chồng, vậy mà còn rán cho con đi học nữa là.
Mỗi lần nghe ai đả động đến chuyện học hành Tâm lại đỏ rần mặt vì xấu hổ và tức tối.
“Kiếp giang hồ đây đó” thốt nhiên trong tiềm thức thằng bé vọng lại tiếng hát ngọt ngào đầy cám dỗ của anh hàng sách ngày nào, nhớ lại trận đòn, nhớ cả cuốn vần nằm yên dưới mí chiếu ở nhà. Được rồi ! Rồi đây mẹ nó sẽ khóc vì nó ! Nghĩ đến đó Tâm thấy hả hê trong lòng một chút.
Rồi nó vụt nhớ, không phải một chuyện mà rất nhiều điều xảy ra trong đời nó, đời một đứa trẻ đồng quê vì giặc giã nên trôi giạt tận Sài-gòn. Nhưng rất nhanh, mọi chuyện chỉ thoáng qua một chút là mất dạng trong trí nó. Chỉ riêng cuốn vần với những trang, những hàng chữ chi chít là in đậm trong trí nó không nhoà nhạt.
A ! Những chữ đó, nó đã biết nhẵn hết còn gì. Từ lâu, Tâm coi cuốn vần, không, những chữ trong cuốn vần đó y như những con người, những người bạn câm của nó chứ không phải là những ký hiệu vô tri.
Ban đầu, Tâm lật qua rồi xếp lại. Sau, nó nhìn kỹ từng chữ, những hàng chữ cách khoảng nhau đều đặn không khác chi đám mạ ngoài ruộng mẹ nó cấy thẳng hàng. Nó bỗng thấy vui vui lật tiếp. Những trang sau nó bắt gặp hai chữ đứng sát nhau, rồi càng lật thì những chữ đó như có vẻ khắng khít hơn : có khi ba, bốn, có khi năm, sáu chữ dính chùm nhau chứ không rời rạc từng chữ một như mấy trang đầu nữa, ra tuồng thân mật dữ !
Thật ra, theo nhận xét của Tâm thì cũng không nhiều chữ lắm đâu. Tâm biết được vậy là nhờ những bận đi ngang trường tiểu học tư thục T. -- trường này là một trường nghèo, học trò phần đông y như Tâm – Tâm đứng nép vào một góc sân, chỗ cổng trường, nhìn thấy tấm bảng to tướng bằng giấy bìa đen, trên đó từng chữ một (đứng rời như trang đầu trong cuốn vần của nó) mầu trắng rất rõ ràng.
Về nhà, Tâm coi lại trong vần thấy chẳng khác chi, ngoài có cái là thu nhỏ lại bỏ gọn lên trang giấy ! Có chữ đứng thẳng như cái sào, nhưng cái sào thì đầu to đầu nhỏ còn chữ này thì không, mà lại có hòn bi đứng trên đầu. Đó là chữ Tâm nhận ra trước tiên (chữ i) dù Tâm không biết đọc ra sao. Thứ đến, Tâm ưa mấy chữ tròn, vừa tròn vừa dài cho nên ban đầu nó định cho đó là chữ mặt trăng, nhưng sau Tâm biết là không đúng, những chữ đó giống cái trứng vịt hơn. Kỳ một cái : đôi khi cái trứng vịt lại đội thêm cái nón mê như mẹ nó, khi lại vứt nón đâu mất, nối lên đầu phía tay mặt một cái lưỡi câu tí xíu trông vui mắt và không bao giờ Tâm quên được (o, ô, ơ).
Có nhiều chữ có sọc, khi thì sọc đôi, khi sọc ba, khi dính liền trên, hở dưới, khi lại dính dưới hở trên (n, m, u, ư).
Có anh phềnh bụng bên phải (b). Đùng một cái, Tâm thấy tiếp hai anh phềnh bụng bên trái đi liền nhau, hai anh giống nhau như đúc một khuôn, chỉ khác cái là anh đi sau vác thêm chiếc đòn gánh lên ngang vai (d, đ).
Lại có mấy con nhỏ mặc áo eo thắt chặt cứng, y như siết ngang bụng lại, coi kỳ quá sức (k, x). Trời ơi ! Con nít mà bắt chước mấy cô ! Quá sức… đồ con gái mới tí xíu đã học đòi làm tốt ! Tâm chê thầm trong bụng.
Vì những người bạn câm này, theo tưởng tượng của Tâm thì cũng bằng trang tuổi nó, trai có, gái có, có đứa nó ưa, có đứa nó ghét; ưa thì Tâm cho đó là con trai như thằng Tí, thằng Tèo ở nhà quê mà bây giờ nó phải xa, ghét thì nó nghĩ ngay đến con Cúc, đứa con gái không có cha, nghèo sát đất như nhà nó mà được mẹ cho đi học đàng hoàng. Con nhỏ sao dễ ghét quá đi thôi, lúc nào thấy Tâm là vênh mặt lên, lại còn tặc lưỡi kêu :
- Trời ơi ! Thằng Tâm dơ quá, ưa không nổi !
Coi bộ mấy thằng con trai cũng khá lộn xộn, nếu không, sao lúc anh kia cong đầu, cong đuôi mà vẫn đều đặn (s) thì có vài tướng lại vói lên cao (h) hay trụt xuống thấp (q, y) là nghĩa lý gì ?
Tâm đặc biệt mê những trang chữ viết, nó không hiểu tại sao những anh nhỏ này lại thương nhau đến mực : hễ đứng xa thì thôi mà đứng gần là nắm tay nhau chặt cứng không rời, và lúc nào cũng như chồm tới đằng trước, sắp chạy (vì chữ viết dính liền nhau, và in nghiêng) lại ưa đá móc lên hoài. Anh thì nhón chân, anh thì giang tay, anh thì xoạc cẳng, rõ là một lũ trẻ lấc cấc rất dễ mến, dễ yêu !
Trong đêm khuya, những chữ đó bỗng rời sách, vụt lớn lên, xúm lại bên Tâm, lôi Tâm ra sân, ra ruộng, nắm tay nhau vây thằng bé vào chính giữa, ca hát vang lừng ! Rồi chợt tiếng gà cất lên ó o từ đằng cuối xóm là tất cả cuống quít tự thu nhỏ mình lại trong một chớp mắt, chui vào sách y như cũ. Mặc Tâm một mình đứng ngẩn ngơ, luyến tiếc. Giật mình dậy, mồ hôi ướt đẫm, thằng bé vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, vừa sờ sợ trong lòng.
Không nén được tò mò, Tâm lật mí chiếu lên : vẫn những trang giấy chi chít chữ, Tâm hết sức yên Tâm. “Cứ tưởng tụi mày bỏ tao đi luôn chứ” Tâm nâng cuốn vần lên thì thào nói.
Suốt ngày hôm đó, Tâm tủm tỉm cười hoài làm mẹ nó ngạc nhiên, nhưng bà không thèm hỏi han chi hết. Thằng bé cố ôn lại giấc mơ kỳ thú : nó được giẫm chân lên lối cũ ở quê nhà, dưới bóng trăng đêm xanh biếc cùng những người bạn chữ vốn câm kia, bỗng cất lên tiếng hát trầm bổng ngọt ngào !
Buồn cười cho thằng bé hiếu học và cũng đáng thương cho nó ! Mỗi lần khám phá ra một điều mới lạ nó lại náo nức trong lòng mà không biết chia xẻ cùng ai.
Chẳng hạn, ít lâu nay, nó nhận ra điều này : những anh phềnh bụng phía trái (d, đ) và những đứa con gái mặc áo thắt ngang eo như mấy cô lớn (k, x) cũng như anh hiền hiền, cao cao, ôm ốm (l) và cả anh phềnh bụng phía phải (b) đều đi tiên phong, đi trước, đứng đầu. Đặc biệt hơn nữa không khi nào chịu đội trên đầu một cái lưỡi mác hay con lăng quăng cả, dù cho là lưỡi mác đó nằm xuôi (dấu sắc) hay nằm ngược (dấu huyền) dù cho con lăng quăng đứng thẳng (dấu hỏi) hay nằm ngang (dấu ngã) cũng vậy. Các anh này cũng không bao giờ chịu đứng trên đầu một hòn bi con cả (dấu nặng). Tâm ưa mấy anh này lắm.
Nếu có ai hỏi vì sao Tâm cũng đến chịu không trả lời xuôi, nhưng Tâm phải thú nhận rằng mình ghét cay, ghét đắng, ghét đến muốn đào lỗ chôn quách hai chữ g và r (thật ra bởi hai chữ này khó nhớ song Tâm không chịu nhận như thế, mà chỉ cho rằng đó là hai đứa kiêu kỳ, làm dóc nhất đời, nên chẳng thể ưa, Tâm ghét g và r hơn x với k nhiều lắm).
Về chuyện đi đầu, đi cuối hay đi giữa, Tâm đã nhiều phen mệt muốn đứt hơi và đôi khi gần tuyệt vọng, vì mới hôm trước đinh ninh thế này là đúng, hôm sau coi lại thì biết ngay mình nhận xét sai. Ví dụ như có lần Tâm nhất định cho rằng mấy chữ t, h, c luôn luôn đi đầu như mấy chữ d, đ, l, b, và mấy con bé k, x vậy mà rồi Tâm bỗng bắt gặp mấy tướng này tụt ra sau (chốc, lát, khách, tách) làm Tâm toát mồ hôi ! Nó thấy mệt chẳng khác chi khi đi theo mẹ đổ rác !
Lại lần khác, Tâm biết thêm mấy anh sọc đôi, sọc ba (n, m) mà Tâm cũng ngỡ rằng đứng trước, lại không chịu dẫn đầu như thường lệ mà tuột ra sau một con bé mặc áo eo (xin, xum). Rồi mấy ông tướng mà nó quả quyết rằng cả đời chuyên đứng sau đuôi thiên hạ như u, ư, (tu, tư) lại đùng đùng nhẩy tọt ra đằng trước, dẫn đầu (ung, ưa, ưng). Đó là chưa kể một lũ tồi tệ, vô liêm, tráo trở như c, a, e, (và còn vô số đứa nữa không đếm xiết) bọn khốn này khi đứng đầu : ca, an, em, khi đứng chót : ác, oa, ke, rồi đột nhiên lại chui vào chính giữa : bích, ran, ken, thật chẳng còn biết đằng nào mà dò, mà đoán. Tâm tưởng mình muốn điên lên mất thôi, nếu không quẳng sách vào một xó. Tâm không thèm mó tới cuốn vần một dạo khá lâu.
Nó không nói ra, mà cũng chẳng biết nói với ai, song cái ý nghĩ mấy anh d, đ, l, mấy con bé k, x rồi cũng có thể phản lại nó một ngày nào đó, không chừng. Ừ, có ai bắt buộc được tụi nó đứng luôn một vị trí đâu ?
Nhiều ngày trôi qua, Tâm thấy nhơ nhớ cuốn vần, như nhớ những thằng bạn cũ, không cầm lòng được nên giở ra, xem lại. Tâm run run, hồi hộp… song lần này không những nó tin chắc rằng mình nhận xét đúng mà còn khám phá thêm : cái anh nhọn đít, xoè đầu (v), cái anh cong trên, cong dưới (s) và cả anh mà nó vẫn ghét cay (r) lại là những tay anh hùng tí hon, không bao giờ bọn này thèm đứng sau lưng một đứa nào, dù cho là những đứa to lớn như h, hay cao ngất nghểu như l đi nữa, Tâm thở phào một cái, lòng tràn hy vọng. Tâm biết thêm g là đứa hai lòng : khi đứng sau, khi đứng trước, chứ không có thái độ dứt khoát, cương quyết như r, v, s. Con bé x coi xoàng vậy mà là đứa khá : luôn luôn tỏ ra mình cũng quân tử như ai, làm Tâm có hơi nê nể, hết dám khinh thường con gái.
Từ bấy giờ, mỗi bận mẹ sai đi đâu, Tâm cũng rẽ ngang trường nghe lỏm. Trời ơi ! Nó nghe nhiều tiếng hết sức lạ tai : u, ư, a, ă, rồi thì nào dê, đê, ca, hát… nghe mê quá là mê ! Tâm men lại, kiểng chân lên để nhìn cho kỹ những chữ cô giáo viết lên bảng, những chữ nó đã nhẵn mặt trong cuốn vần, nhưng có vẻ ít hơn một số chữ kia – và to hơn, dĩ nhiên – thì bất ngờ, gã gác cổng trường dậm cái cẳng gỗ của lão xuống nền xi măng nghe còng cọc, còng cọc một cách rất là phá đám, mồm la lên quang quác :
- Nhãi con ! Lò dò lại chi ? Xéo mau ! Chực ăn cắp hả ?
Tức thì, cả bọn học trò quay lại, ác thay : trong đám này có cả con bé lẻo mép là con Cúc nữa, con bé tai ác quai mồm lên, phổ biến ngay nguồn tin mà nó cho là quan trọng :
- Thằng Tâm, con nhà đổ rác đó, tụi bay ơi !
Tụi nhãi con cười ầm như chợ vỡ. Tâm xấu hổ chỉ những mong đào đất chui ngay xuống trốn biến cho xong. Nhưng rồi nó vẫn đứng yên, hét to lên :
- Ai thèm ăn cắp ? Lão què ! Cha lão què ! Nói láo. Cha què nói láo ! Gà mổ mắt cho coi.
Câu nói của đứa trẻ quả tình không ác ý, nó tức vì bị sỉ nhục vô lý, giữa lúc đó nó lại chú ý đến cái cẳng què của kẻ làm nhục nó nên nói bừa cho hả, thế thôi. Nhưng gã gác cổng giận đến sùi bọt mép, vì một đứa trẻ con nhà hốt rác dám đả động, dám khơi dậy đến chỗ tàn tật, đau đớn của gã (dù chỗ đó đã lành rồi) làm gã đau nhói như bị ong vò vẽ đốt. Gã run rẩy, gào to :
- Mẹ con nhà hốt rác, bố con nhà hốt rác, ông mà vớ được mày thì ông xé làm đôi !
Và gã làm như lao ra cửa tóm thằng bé. Tâm chuồn ngay tắp lự qua bên kia đường đoạn đứng lại vừa thở, vừa lè lưỡi ra trêu tức gã ta, vì nó biết mình đã đến phần đất an toàn. Tâm nói :
- Ra đây mà bắt tao này, lão què nói láo kia ! Tao thách lão đó ! Giỏi ra đây !
Lão què nhìn ngược nhìn xuôi, lượng sức mình nên đành chỉ đứng yên, chửi với :
- Bố mẹ con nhà hốt rác, tao mà tóm được mày… Liệu hồn, từ nay bán xới đường này, nhá ? Mày mà còn léo hánh đến đây thì ông bảo !
Cơn giận nguôi rồi, Tâm hối hận quá. Không phải hối vì đã trót hỗn với người tàn tật (ai dạy nó đâu mà nó biết điều đó ?) song hối vì từ nay còn hòng gì men lại gần trường để nghe dạy học được, thế thôi.
Đang làm việc, nghĩ ngợi lan man, Tâm bỗng nhớ ra chữ a, chữ mà Tâm thấy nhiều lần song không hề để ý vì hình dáng cầu kỳ của nó. Phải, chữ a ! Tâm nhớ rồi. Còn bao nhiêu chữ kia : d, đ, k, h, Tâm đều quên tuốt tuột sau cơn giận và trận chửi nhau.
A ! Tâm vừa nhấc thùng rác, rướn thân hình nhỏ xíu của mình lên, đổ vào thùng xe, vừa bật lên thành tiếng, trong lúc khuôn mặt đỏ gay, bóng nhoáng như có tẩm dầu và chiếc cẳng gỗ nện mạnh xuống sàn nhà nghe còng cọc của lão gác cổng hiện lên rành rành trong trí nhớ. Vốn không thù dai, nhưng nó cũng buột miệng kêu lên :
- Thứ đồ ác, hèn chi què là phải ! Đáng lắm !
Bỗng Tâm giật mình, buông rơi thùng rác vì một giọng nói đột ngột cất lên sau lưng :
- Nhỏ ! Em ưng học lắm phải không ?
Thằng bé quay lại, nhận ra ngay đó là anh “mặt mới”, cái anh đã có lần làm nó thắc mắc vì mấy tiếng lạ tai. Tuy chỉ gặp có một lần mà Tâm không bao giờ quên anh, có lẽ vì cái dáng bộ hiền lành của anh ấy cũng nên ? Tâm nhoẻn cười, mắt sáng rỡ, ấp úng trả lời :
- Dạ, ưng lắm chớ !
- Nếu em muốn học anh sẽ dạy cho em. Không dạy thường được, nhưng mà buổi tối rảnh…
- Dạ, tối em mắc đi đổ rác.
- Ờ, anh quên. Thì buổi chiều, được không ?
- Dạ, buổi chiều… (Tâm định nói “buổi chiều nó mắc coi em” song nó lại thôi, liếc sang mẹ cầu cứu) dạ…
- Ít nhất, mỗi ngày em cũng có được một chút thì giờ rảnh chớ ? Anh nghe bà Ngọc nói…
Giọng anh mặt mới trang nghiêm, dò hỏi. Tâm cuống quít :
- Dạ, dạ… hễ anh dạy giờ nào thì em học giờ nấy, em rảnh giờ nấy.
Mẹ Tâm vẫn lẳng lặng nhìn hai người không góp một lời, làm Tâm càng lúng túng. Anh mặt mới cười :
- Thôi, để đó, không gấp gì. Sáng mai (anh nhìn Tâm thật kỹ) sáng mai em có ở nhà không ? Rảnh không ?
- Dạ, không rảnh mà em có ở nhà.
- Được ! Sáng mai anh tới. Em biết mặt chữ chưa ?
- Dạ biết, dạ biết. Em biết.
- Tốt lắm. Vậy thì dễ. Mai nghe em ?
Nói xong anh quày quã vô nhà liền, lúc bấy giờ Tâm mới thấy cây bút chì trên tay anh. Tâm nhìn theo cho đến khi anh khuất vào nhà mới thôi.
Và từ phút ấy, thằng bé bước chệnh choạng như chân nó không chạm tới đất vậy. Nỗi vui đến bất ngờ quá, đến nỗi nó cứ giật mình thon thót, cứ nơm nớp sợ câu chuyện vừa xảy ra chỉ là cơn mơ.
Tâm liếc trộm mẹ một cái. Lạ thay : mẹ nó vẫn lầm lỳ không có ý kiến chi.