Tủ sách Tuổi Hoa sắp phát hành vào tháng 4 - 1975
Nguồn: Tác giả Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh gửi tặng
Chú thích của Tủ sách Tuổi Hoa:
1- Đây là tác phẩm cuối cùng của tác giả Cam Li Nguyễn thị Mỹ Thanh viết cho Tủ sách Tuổi Hoa trước năm 75 và sắp sửa được xuất bản vào tháng 4 - 1975 .
2- Hình bìa do họa sĩ ViVi mới vẽ tặng tác giả Cam Li và Tủ sách Tuổi Hoa ngày 21 tháng 8 năm 2008.
----------------
Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh
Chương 01
Những bóng tròn hiện ra, màu rực rỡ như những đồng tiền bằng vàng nằm trên một tấm thảm màu xanh lá cây. Bóng nhảy múa trên mặt, chiếu vào mắt. Hình ảnh nào thế? Ánh sáng của thiên đường hay trò chơi của ma quái? Là thực tại hay chỉ là một khúc phim xảy ra trong ký ức? Cảm giác của một con người tưởng đã không còn. Nhưng không phải. Bây giờ rõ ràng tai đang nghe một tiếng chim hót. Chim hót ở trên đầu, trên mặt - ở đâu đó trên tấm thảm màu xanh kia.
A! Đúng rồi! Chim hót trên cây! Những bóng tròn kia là nắng! Ngày đã bắt đầu trước khi ta thức dậy. Đúng hơn là ta tỉnh dậy. Ngày rực rỡ, ngày hiền lành quá! Ta dần dần tìm lại cảm giác. Tai đã nghe rồi! Mắt đã thấy rồi! Nhưng mũi ngửi được mùi máu khô, ở đâu đây, lẫn trong mùi cỏ ướt. Bây giờ thân thể không còn tê dại nữa, mà đang cảm nhận được sự nhức nhối, ở dưới chân, truyền lên đến vai, và thấu tận óc. Dù không ngóc đầu lên được để nhìn xuống thân thể, nhưng ta đã nhớ ra được rằng nơi bắp chân, máu đã chảy rất nhiều và cảm giác đau nhức cũng từ đó mà có. Nhắm mắt lại, bây giờ quên mất tiếng chim, mà nghe âm vang tiếng chong chóng quay lạch cạch trên đầu, tiếng động cơ làm át lời nói chuyện. Mơ màng, ta thấy cả mây trắng, thấy cả cánh đồng, thấy nhánh sông, thấy rừng cây bên dưới. Chính nơi đó, chiếc trực thăng bị trúng nhiều loạt đạn. Một viên đạn đã xuyên qua bắp chân ta. Rồi nhiều loạt đạn nữa… những bạn bè gục xuống. Cái hình ảnh một người đang huyên thuyên cười nói bỗng trở thành một tấm thân bất động, chợt hiện ra rõ ràng và nghiến nát tâm hồn. Từ con chim sắt oan nghiệt đó, các bạn đã về với đất. Thân chim lảo đảo đâm xuống tấm thảm xanh lá cây. Tiếng động nào vang dội cả khu rừng. Tiếng của thần chết? Tiếng của quỷ dữ? Hay tiếng của cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu khóc vùi bên mộ héo?...
Chỉ một mình ta lết ra khỏi chiếc phi cơ đang rừng rực cháy. Không biết ta còn lết được bao xa, chỉ biết là rất xa, rồi ta ngất đi. Trong rừng cây này có phép lạ hay sao? Phép lạ chỉ ban cho một người. Khi thức dậy người trở thành một cái bóng cô đơn. Chiếc phi cơ đã bị cháy rụi. Bạn bè, anh em, còn đâu! Ta lạnh lẽo hơn một bóng ma. Trước mặt là cây, sau lưng là cây. Xung quanh đều là rừng. Tiếng cười nói từ ban trưa vang vọng từ đỉnh trời, vướng trên lá, tỏa đầy trong nắng xế. Ta nhìn xuống chân. Máu bê bết loang lổ hết một ống quần. Cả gương mặt của ta nữa, chắc khủng khiếp lắm? Không còn biết một nhân danh nào để cầu nguyện.
Chiều đổ xuống. Nắng lui dần sau cây lá. Mới tối hôm qua còn đang sửa soạn để lên đường. Giã từ quận nhỏ, nơi có nhiều tấm lòng quý mến. Sáng sớm còn nhận được những củ khoai mới luộc còn bốc khói. Ban trưa còn xoa mấy cái đầu trọc lóc của lũ trẻ nhỏ ngây ngô, còn chở hộ mấy bạn hàng ra chợ quận trước khi leo lên trực thăng bắt đầu cho một chuyến đi khác. Đời sống đã như vậy, là di chuyển, là sửa soạn, là không ngừng nghỉ. Có những thân mến, những luyến lưu - ở mỗi nơi đã đi qua, nhưng không nghĩ gì hết. Khi bay qua đồng ruộng, qua dòng sông, cũng không nghĩ gì hết. Thế mà bây giờ tất cả đã phải dừng lại. Ta trở thành một con thú lạ lạc trong rừng. Tiếng gọi của ta loãng trong gió chiều, vọng lại thành tiếng cười của bạn bè. Có phải lúc ta cô đơn nhất, là lúc ký ức sống trong ta thật mãnh liệt không? Rồi ta đâm ra sợ hãi chính mình nữa. Tiếng gọi, gọi mãi, đến lúc không còn âm thanh để vang vọng. Khi ấy đêm đã tràn đặc khu rừng. Trước mặt, sau lưng đều là bóng tối. Ở đây, mọi cảm xúc đều ngưng lại, chỉ còn một nỗi tuyệt vọng. Trong bóng tối, ta không còn vẽ được một gương mặt nào của người thân. Nhắm mắt lại thì thấy đầy mây trắng. Và tấm thảm màu xanh hiện ra. Và rừng cây đổ xuống, khép lại…
**
Chim hót nhiều hơn. Tiếng ríu rít làm người mở mắt. Ô, ngày lại bắt đầu rồi. Ngày bắt đầu cho một niềm hy vọng. Khu rừng này không phải là rừng rậm, mà giống như một vườn cây. Cây cỏ cũng hiền hòa quá! Chắc ở đây có người, ít ra cũng có một bác tiều phu.
Đàng kia là hướng đông. Mặt trời cười cợt ở đó. Người lính muốn đứng dậy để đi tới hướng đông, nhưng cái chân nhức quá! Hình ảnh què quặt làm người sợ hãi. Gắng gượng nhấc đầu lên, nhìn xuống chân, người ngạc nhiên thấy ở vết thương, một mảnh vải màu nâu đã buộc chặt nơi đó. Ai đã đi qua đây? Bác tiều phu? Những hướng đạo sinh gan dạ? Một người ở đơn vị bạn? Hay là…? Người hoảng hốt… Có tiếng nói lao xao ở phía thật xa trả lời cho người. Người nén lòng hồi hộp, nằm xuống, nhắm mắt lại, chờ đợi…
- Đây rồi! Ông ấy còn nằm đây.
- Ông ta chưa tỉnh lại.
- Đâu? Đâu?
Tiếng trẻ nhỏ! Tiếng ríu rít như chim. Ai vậy? Những thiên thần trú ngụ trong rừng? Hay những chú nai tơ bị đọa đầy? Người lính vẫn nhắm mắt, và nghe tiếng chân bước lại gần.
- Anh Khánh ơi! Không chừng ông ấy đã chết.
Một giọng nói khác chững chạc hơn:
- Để anh coi.
Người lính nghe một bàn tay sờ lên má mình, và một vật gì đó nặng nặng áp vào ngực mình. Cái đầu của một cậu bé! Mùi tóc khét nắng làm người lính “ách-xì” một cái.
Có tiếng reo vui mừng:
- A! Ông ấy còn sống!
- Suỵt! Dang ra hết. Coi chừng ông ấy có súng.
- Sao biết?
- Kìa! Ông lính mà!
- Nhưng mà ông ấy bị thương. Coi máu còn chảy ri rỉ kìa!
- Ừ nhỉ! Làm sao đây, anh Khánh?
Giọng nói ban nãy lại cất lên:
- Thì… đem ông ấy về.
- Thật không?
- Thật.
Có tiếng vỗ tay và tiếng cười thích thú. Người lính tiêu tan hết những lo sợ. Người muốn kéo dài trò chơi này một lát nữa, nên cứ nằm im, nhắm mắt lại như còn say ngủ.
- Nè, Lương! Sao ổng lại ở đây nhỉ?
- Ai mà biết! Chắc ông ấy mải mê… hái hoa bắt bướm.
- Hic hic, coi kìa! Ông ấy là lính. Chắc ông ấy đánh giặc, rồi chạy vào rừng.
- Nè, Hiền, xem cái mắt ông ấy, cái mũi ông ấy, cái cằm ông ấy, cái tay, cái chân ông ấy… to ghê hở!
- Thì… tại ông ấy là người lớn.
- Không! Ông ấy là người khổng lồ chứ!
- Làm sao anh Khánh vác nổi?
- Thì tụi mình hè nhau khiêng ổng, đứa cái đầu, đứa cái tay, đứa cái chân…
- Không được, chân ông ấy bị thương mà!
Tiếng của Khánh:
- Các em im nào! Để anh nghĩ coi… phải kêu ông ấy dậy đã.
- Chắc ổng kiệt sức rồi…
- Á à! Đã có cách. Các em tới bỏ hết củi xuống, đẩy xe lại đây.
Đám trẻ dường như đã dang xa. Có tiếng cây khô bị ném xuống đất. Rồi có tiếng cót két của một chiếc xe kỳ lạ được đẩy tới gần. Người lính hết kiên nhẫn kéo dài trò chơi, nên mở mắt ra. Gương mặt đầu tiên, người lính đoán là gương mặt của Khánh, cậu bé lớn nhất, độ mười bốn, mười lăm tuổi, mái tóc hơi vàng vàng mầu nắng cháy, dáng người mạnh khỏe, có vẻ đầu đàn lắm. Khánh mở to mắt nhìn người lính, thốt lên:
- Ông ấy đã tỉnh!
Một đám, mươi đứa trẻ, nhỏ hơn Khánh, ùa chạy đến, chen nhau nhìn người lạ. Người bây giờ có thể nhìn tận mắt những thiên thần, những chú nai non. Không rực rỡ, không mịn màng, nhưng sự hiện diện của bầy trẻ nhỏ là dòng suối chảy qua vùng khô hạn. Người lính cười với chúng và gượng ngồi dậy. Nhưng cậu bé Khánh ngăn lại và hỏi:
- Ông! Ông có đau lắm không?
Người lính chớp mắt cảm động:
- Đau. Nhưng anh khát nước lắm.
Nghe được tiếng nói của “người khổng lồ”, đám trẻ nhìn nhau, xì xầm. Một đứa chìa ra một bình nước nhỏ. Khánh đỡ lấy và cúi xuống:
- Ông uống nước đi!
- Cám ơn các em. Các em ở đâu vậy?
Khánh trả lời:
- Chúng em ở gần đây. Đi hết khoảng rừng này là đến rẫy khoai. Đi hết rẫy khoai là đến nhà chúng em.
Người lính vui mừng:
- Gần đây có nhà cửa hở em? Có đông không?
- Dạ… không.
- Thế các em ở với ai?
- Dạ với cha. Ông, … ông uống nước đi.
Người lính uống cạn bình nước. Những đứa bé nhìn nhau, kín đáo cười. Khánh hỏi:
- Ông đói không?
- Đói. Nhưng… anh không ăn hết phần của các em đâu.
Một đứa bé liến thoắng nói:
- Tụi em chỉ có khoai lang với củ mì, anh muốn ăn bao nhiêu cũng được. Nhưng tụi em không có thịt cừu với rượu vang đâu.
Người lính mỉm cười:
- Các em tốt lắm! Phải các em đã băng chân anh lại không?
- Dạ, chính bé Hiền đó anh.
Đứa bé trai tên Hiền nói:
- Tụi em sáng nay đi lượm củi, thấy anh nằm dưới đất, máu ở chân chảy ra. Em xé đại vạt áo cột lại cho anh. Em … đâu có biết băng. Xong rồi tụi em mới rủ nhau đi kêu anh Khánh tới.
- À ra thế.
Người lính nhìn quanh đám trẻ, hơi ngạc nhiên và hỏi:
- Các em … là anh em ruột?
Lũ trẻ nhìn nhau, rồi nhìn người lính, lắc đầu.
- Các em ở với cha mẹ?
Khánh không đáp, mà hỏi:
- Anh muốn về với chúng em không?
- Muốn, muốn chứ! Anh lạc trong rừng này từ chiều hôm qua.
- Sao anh lại lạc vào đây?
- Anh bị rớt phi cơ.
- Anh lái tàu bay hở?
- Không, anh là lính nhảy dù.
- À, em biết rồi. Vậy còn mấy người kia đâu?
- Họ chắc là đã chết hết. Anh lê lết trong rừng rồi ngất xỉu. Sáng thức dậy anh thấy mình ở đây.
- Chắc chân anh đau lắm? Để tụi em chở anh về. Về nhà sẽ có người băng bó lại chân cho anh. Bây giờ…
Cậu bé ngần ngừ, chỉ cho người lính thấy chiếc xe ngộ nghĩnh ở đàng xa:
- Anh đi không được, tụi em chở anh bằng chiếc xe chở củi đó nhé!
- Sao được? Anh nặng lắm đó!
- Anh đừng lo, xe này chúng em đóng lấy để chở củi, chở khoai. Anh xem, chứ làm sao ôm về cho xuể, từ rẫy về làng cũng khá xa.
Người lính sáng mắt lên, hỏi nhanh:
- Em vừa nói “làng” phải không?
- Dạ.
- Làng tên gì?
- Làng “Chim sâu nhỏ”. Anh, anh không chê xe chở củi dơ dáy?
- Đâu có! Được các em cho về nhà, anh vui mừng lắm chứ.
- Vậy anh về với chúng em nhé!
Lũ trẻ đẩy chiếc xe lại. Đó chỉ là một cái thùng gỗ hình chữ nhật, dài độ một thước rưởi, bên dưới gắn bốn bánh xe nhỏ cũ kỹ. Người lính mỉm cười , chợt nghĩ đến phép lạ. Sự việc một kẻ lạc lõng được cứu sống nhờ một bầy trẻ nhỏ, đúng là một phép lạ. Nhưng chúng nó là ai? Con của ai? Không là anh em ruột, nhưng đi với nhau một đàn, lượm củi đào khoai chung, vậy chúng là gì với nhau? Là con của một người cha nhiệm mầu? Hay là thần dân của một xã hội tí hon đầy tình tương ái? Người lính ngỡ như mình đang sống trong một chuyện thần tiên. Người thắc mắc nhưng cảm thấy thú vị lắm. Chỉ một lát nữa thôi, khi vượt khỏi đám rừng rẫy, sẽ biết được lũ trẻ là ai.
Vết thương ở chân và sự ê ẩm khắp người làm người lính không cử động nổi, đành nằm yên để mươi đứa bé khiêng mình lên xe. Bề dài của chiếc xe quá ngắn. Khánh ái ngại nếu người lính phải ngồi. Cậu bé chợt nẩy ra một ý kiến:
- Anh cứ nằm cho khỏe nhé! Hiền, Lương, hai đứa ra phía trước kéo với anh. Hảo và Tú đẩy phía sau. Hai chân của anh ấy dư một chút, thò ra, Thiện với Ái đỡ lấy cho cẩn thận. Còn Lành với Ngoan cũng đỡ phụ vào nghen! Coi chừng cái chân đau của anh ấy đấy!
Một giọng nói trong trẻo cất lên:
- Còn em nữa, em sẽ làm gì?
Khánh ngơ ngác:
- A, còn Hậu nữa. Để xem… em phải thay thế chiếc xe, vác hết củi về làng.
Cậu bé độ chín tuổi, lanh lẹ, nhỏ nhắn, tỏ vẻ nũng nịu:
- Không chịu! Em nhỏ nhất mà!
Khánh cười;
- Anh nói đùa đó! Bé Hậu ôm bình nước rỗng nè, chạy theo tụi anh nghen!
Người lính nằm ngay ngắn trên chiếc xe bằng gỗ, hai chân được bốn đứa bé giữ lấy. Khánh cười:
- Xong rồi, bây giờ tụi em đưa anh về. Ủa, anh … gì nhỉ?
Đến bây giờ người lính sực nhớ ra rằng sự thương mến đã đến trước cả việc biết tên. Người lính đáp:
- Anh là Trúc.
Thằng bé tên Lương che miệng cười:
- Anh tên Trúc, mà anh so với tụi em thật giống người khổng lồ.
Hiền nói:
- Em cứ ngỡ anh là… ông Qui-Li-Ve lạc vào nước tí hon.
Trúc trố mắt nhìn lũ trẻ, vừa ngạc nhiên vừa thú vị. Khánh giục:
- Mau lên! Một, hai, ba!
Chiếc xe được kéo đi chầm chậm. Chín đứa trẻ lấy làm hân hoan lắm. Hôm nay, thay vì chở củi, chúng đã mang một người gặp nạn giữa rừng về đến làng của chúng. Ở đàng sau, chỉ có thằng bé Hậu lon ton, tay ôm bình, chân tung tăng bước. Chiếc xe chạy gập ghềnh trên những đất đá và cành khô, nhưng cũng bỏ xa thằng bé một đỗi. Hậu chợt nhìn xuống chân, và thấy một vật nhỏ lấp lánh dưới nắng vàng. Hậu nhặt lên, nhận ra đó là một cái hộp hình quả tim. Của người lính chăng? Nó mở hộp ra, rồi đậy lại, lắc đầu. Chắc không phải của ông ấy đâu! Thằng bé bắt đầu liên tưởng đến những chuyện thần tiên. Quả tim nhỏ bé và dễ thương quá! Hậu khen thầm như vậy, rồi nhét chiếc hộp vào túi áo, rảo bước đi theo những người kia.
Trời đã gần trưa. Nắng vàng tươi rải đầy trên cây lá. Khu rừng này quả là một nơi hiền dịu. Chắc không hề có bóng thú dữ. Người lính chỉ nghe tiếng chim hót đầy khắp những ngọn cây. Và bên cạnh, tiếng hát líu lo của lũ trẻ cất lên lâng lâng với gió:
- “Nào anh em kéo củi về làng
Đừng lo chi đời sống lầm than
Mặt trời lên lung linh ánh vàng
Anh em sẽ thấy đời bình an.
Nào anh em… nào anh em….”
Bầy trẻ đã quen đường đi trong khu rừng nhỏ nên chỉ độ mười lăm phút sau, chúng đã đưa Trúc ra khỏi rừng. Trúc muốn nhỏm dậy, muốn reo lên, muốn khóc lên, khi nhìn thấy một đám rẫy quang đãng, và ở bên kia rẫy, có bóng những ngôi nhà!
Trời đã gần trưa, mà vẫn còn thấy lành lạnh. Cát Tường khoanh hai tay trước ngực, đứng nhìn ra cửa sổ. Chắc tại vì mình còn ở trong nhà, nên chưa cảm thấy ngoài kia nắng ấm. Trên khoảng đất vuông vắn kia, mấy luống rau đã xanh tươi. Hình như cây cỏ đang thỏa thuê tắm nắng. Con đường dẫn xuống rẫy khoai sáng nay như có một vẻ gì hân hoan là lạ? Hay tại vì tự trong lòng mình có một chút đổi khác? Một linh cảm? Một hoài niệm… Ta không sống bằng linh cảm. Còn hoài niệm, nào có gì? Cuộc sống đã an bày nơi đây tự bao lâu rồi. Tại trời đất, chắc vậy. Sắp Tết? Cát Tường nhè nhẹ thở dài. Ở đây không có Tết. Những vui buồn đã lắng xuống cả rồi. Chỉ có tiếng hát vô tư của trẻ nhỏ không làm ta nghĩ ngợi.
- “Nào anh em, nào anh em…”
Lũ trẻ nhỏ đã về thật. Tiếng hát vọng lên từ dưới chân đồi, loang đầy không gian. Tiếng hát từ muôn thuở làm dịu lòng chi lạ. Hôm nay có củi. Phải ra phụ các em ôm củi vào chất đầy hè. Rồi như bao lần, ta sẽ đứng đó ngắm, và nghĩ đến những bữa cơm ngon.
Cát Tường mở nhẹ cánh cửa gỗ, bước ra ngoài. Đưa một bàn tay lên che nắng, Cát Tường đã thấy mười đứa bé kéo đẩy chiếc xe chở củi quen thuộc. Nhưng không có củi. Vật gì ở trên xe vậy? Cát Tường trố mắt ngạc nhiên. Một người! Cát Tường chạy nhanh đến. Lũ trẻ đã lên đến nơi cùng với chiếc xe. Cát Tường đứng sững, nhìn người lạ nằm trên xe, lắp bắp hỏi:
- Cái gì vậy? Ai đây?
Khánh gạt mấy giọt mồ hôi trên trán, đáp:
- Chị Cát Tường! Chị rửa vết thương cho anh này gấp gấp.
Cát Tường bàng hoàng:
- Sao? Ông ấy bị thương hở?
- Anh ấy bị rớt máy bay, lạc trong rừng, tụi em gặp được. Có một vết lớn nơi chân, còn cả người bị xây xát nhiều lắm.
- Chúa ơi! – Cát Tường kêu lên hoảng hốt – Các em giúp chị đỡ ông ấy vào nhà. Lương, đun một nồi nước . Hiền, chạy lẹ vào sửa cái giường cho ông ấy nằm. Còn các em kia dẹp xe lại, rồi đi báo cho cha hay.
Giọng nói mềm dịu mà đầy quyền uy thốt ra khiến bọn trẻ làm theo răm rắp. Trúc được dìu vào bên trong căn nhà gỗ, nằm lên một chiếc giường bằng tre, kê đầu trên một chiếc gối độn rơm. Cát Tường mở mảnh vải nâu mà bé Hiền đã cột tạm lên vết thương của người lính, rồi lấy kéo cắt một đường dài từ gấu quần đến đầu gối. Vết thương người lính bày ra. Máu lại ri rỉ chảy. Mùi máu khô lẫn mùi bùn đất bết lên đó xông lên nồng nồng. Cát Tường cúi xuống nhìn kỹ, rồi nhìn Trúc, nói:
- Chắc không sao đâu, ông ạ.
Trúc mở to hai mắt, hỏi:
- Sao cô biết?
- Dạ, cháu đã xem kỹ. Đạn chỉ xớt ngang bắp chân thôi.
Trúc mỉm cười:
- Tôi có đến nỗi gì… không cô?
- Ông nói dại! Cháu đã nói thật với ông là không sao đâu.
Trúc cười vui vẻ:
- Chết! Cô xưng “cháu” với tôi à?
Cát Tường cúi đầu:
- Với người lớn, cha cháu dặn là phải xưng hô đàng hoàng lễ phép.
Khánh đang lui cui soạn thuốc, góp tiếng:
- Nhưng anh Trúc đáng là anh của tụi mình chị ơi!
Cát Tường len lén nhìn gương mặt người lính. Đất cát lấm lem trên da thịt, làm sao đoán biết được tuổi tác của người? Nhưng cái giọng nói, giọng nói rất trẻ. Có lẽ Khánh nói đúng, người đáng tuổi anh ta. Cát Tường nói nhỏ:
- Xin anh thứ lỗi cho.
Trúc cười:
- Không sao đâu. Tôi là Trúc.
- Thưa anh Trúc!
- Còn cô?
- Em tên Cát Tường.
- Cô Cát Tường!…
Một sự giới thiệu và chào hỏi rất đơn giản và tự nhiên, nhưng sao bỗng làm Cát Tường nao nao lòng. Và nhè nhẹ, Cát Tường quay đi. Cái gì rưng rưng trên mắt? Cái gì buốt buốt trong tim? Không phải. Chắc là sợi khói bay ngang trời. Chắc là ngọn gió lạc loài len vào vách gỗ…
- Chị ơi! Hộp bông gòn đâu?
Cát Tường giật mình, trả lời:
- Ơ… bông gòn đã hết. Nhưng Khánh đừng lo, để đó cho chị.
Rồi Cát Tường mở hộc tủ, lấy ra một chiếc hộp giấy. Trong hộp có mảnh vải mịn trắng tinh mà Cát Tường định may làm khăn “mù-soa”. Tạm dùng thay cho bông gòn vậy. Cát Tường sắp lọ thuốc đỏ, cuộn băng, xà-phòng và mảnh vải mịn ấy lên một cái nắp hộp thiếc sạch sẽ, đặt lên bàn.
Lương bưng vào một thau nước nóng. Cát Tường đỡ lấy, đặt lên bàn. Nhưng Cát Tường chưa động đến những vật dụng ấy, quay sang hỏi Trúc:
- Thưa anh, chắc là anh đói lắm?
- Vâng, tôi nhịn đói từ trưa hôm qua.
- Anh ăn khoai đỡ đói nhé!
- Cô có gì cho tôi ăn cũng được.
Cát Tường đi lấy cho Trúc một củ khoai lang mới luộc còn nóng. Rồi đứng cạnh bên giường, vừa bóc vỏ khoai, vừa nói:
- Chúng em chỉ có khoai lang với củ mì, không có thịt cừu và rượu vang đâu!
Trúc ngạc nhiên. Cô bé này lại nói một câu y hệt như câu nói của đứa trẻ ban sáng. Không phải là một câu nói mỉa mai, mà lại là một câu nói rất chân thành. Thật ngộ nghĩnh! Hầu như tất cả những đứa bé mà Trúc đã gặp từ lúc tỉnh dậy, sáng nay, đã có chung một mẩu chuyện nào đó, có thịt cừu, có rượu vang. Trúc nhận lấy củ khoai nóng, cảm động:
- Nhưng cho đến chết tôi sẽ nhớ mãi củ khoai này, và bình nước lạnh khi nãy của các em.
Cát Tường rửa tay, rồi chăm chú rửa vết thương nơi chân của Trúc. Mảnh vải mịn được xé ra, thay cho bông gòn, nhúng vào nước nóng và rửa sạch vết thương. Trúc nhăn mặt, kêu lên nho nhỏ. Cát Tường dừng tay, hỏi:
- Anh có đau lắm không?
Trúc nhắm mắt lại, đáp:
- Không…, cô cứ làm đi!
Cảm giác nhức nhối chạy lên tận óc. Sự đau đớn chắc đến thế này là cùng. Trúc mím chặt môi, và nghĩ đến “phép lạ”. Ta đang nằm ở đây, diễm phúc quá! Còn có hy vọng để trở về. Những gương mặt người thân bỗng thấy rất gần gũi. Trúc mở mắt ra, và nhìn thấy gương mặt của Cát Tường đầy vẻ từ bi. Trên vết thương, gương mặt đó cúi xuống. Mái tóc dài cột gọn trên vai, tóc ngắn lòa xòa trên trán. Đôi mắt chăm chú, hai bàn tay nhẹ nhàng rửa sạch vết thương. Cuộn băng trắng đang được mở ra, quấn quanh chân Trúc. Cảm giác bây giờ là sự tê tái – nhưng êm đềm. Cảm giác đó truyền khắp người, và cũng ngọt dịu như vị của củ khoai nóng Trúc đang nhai trong miệng. Cô bé đang nghĩ gì về ta, về một người lính xa lạ bỗng hiện ra trong rừng rẫy? Cô bé có thắc mắc gì không? có e ngại gì không? Chắc là không đâu. Vì gương mặt từ bi kia có vẻ như không cần nghĩ đến những đe dọa, những man trá của cuộc đời. Vậy thì ta cũng không nên thắc mắc gì, e ngại gì. Hãy nghĩ rằng đây là một xã hội tí hon, mà mỗi cá nhân ở đây, là một đơn vị của tình người.
Cát Tường đã băng xong vết thương ở chân, ngẩng lên và hỏi Trúc:
- Bây giờ anh có bớt đau không?
Trúc gật đầu:
- Bớt nhiều lắm, Tôi có ý nghĩ là chân tôi không bị gì cả.
- Nhưng anh sẽ không đi được bình thường, ít nhất là một tuần.
- Rồi làm sao, cô Cát Tường?
Cát Tường chớp mắt, đáp nhẹ:
- Thì anh sẽ cứ ở đây vậy.
- Biết cha của cô có bằng lòng không?
Cát Tường hơi nhíu mày:
- Cha chúng em không bao giờ từ chối giúp đỡ một ai.
Rồi Cát Tường im lặng, nhúng mảnh vải mịn còn lại vào nước, vắt khô, nhẹ nhàng lau những bùn đất trên mặt người lính.
Trúc nhắm mắt lại. Trong sự êm ái còn có chen vào một chút bàng hoàng, vì sự săn sóc của Cát Tường giống như sự săn sóc của một cô em ruột, hơn thế nữa, của một người mẹ. Trúc biết gương mặt lấm lem của mình giờ đã được lau sạch. Khi Cát Tường xức thuốc vào những vết xây xát trên tay Trúc, Trúc hỏi:
- Cô Cát Tường, cho tôi được hỏi một điều…
- Dạ??
- Cô là chị ruột của Khánh?
- Dạ…, không…
Trúc trố mắt:
- Phải? mà lại không? Tôi không hiểu.
Cát Tường bưng thau nước đưa cho Khánh đem ra ngoài. Chỉ còn lại hai người. Cát Tường nói:
- Em là chị của Khánh, của tất cả các em nhỏ ở đây. Nhưng chúng em không phải là ruột thịt.
- Còn cha của cô…?
- Cha của chúng em… là cha chung.
Trúc chống tay xuống chiếu, hơi nhỏm người lên. Trúc như vừa nghe một điều lạ lùng. Ở đây có một người cha nuôi một đàn trẻ không phải ruột rà. Trúc lờ mờ hiểu mọi việc. Cát Tường chỉ tay ra ngoài cửa sổ:
- Qua luống rau mới trồng kia là nhà nguyện. Cha của chúng em đang tĩnh tâm trong ấy. Chắc giờ này người cũng sắp qua đây.
Trúc reo lên:
- A! Tôi hiểu rồi!
Cát Tường hỏi:
- Anh nói sao?
- Tôi thật là tối dạ. Vậy mà tôi cứ tưởng….
- Anh tưởng sao ạ?
Trúc nằm thẳng lại, im lặng. Một lát sau, Trúc nói nhỏ:
- Tôi thật có phước khi được các em ở đây cứu giúp. Tôi có cảm tưởng rằng mình đang sống trong một câu chuyện thần tiên.
Cát Tường cười rất nhẹ:
- Không thần tiên đâu anh. Anh đang ở một nơi rất nghèo, rất thiếu thốn. Đây chỉ là một làng cô nhi, không, đúng ra chỉ là một xóm cô nhi… - Nụ cười biến mất trên
Trong một thoáng yên lặng, Trúc nghe rõ tiếng thở dài của Cát Tường. Cô bé đang dọn dẹp bàn thuốc, cất những vật dụng vào một cái bàn thấp. Qua vai Cát Tường, Trúc nhìn thấy một mảng trời trong xanh ở bên ngoài cửa sổ và một mảng màu lá cây thật tươi của một tàn cây nào rất lạ. Trúc chưa thấy nhà nguyện bởi lúc bắt đầu được lũ trẻ đưa lên con dốc thấp, Trúc chỉ chăm chú nhìn ngôi nhà gỗ với mái phủ đầy lá, mà nơi đó, một người con gái mảnh mai xuất hiện một cách rất bất ngờ.
- Cô Cát Tường!
- Dạ?
- Cha sẽ cho tôi ở lại đây?
- Vâng. Anh sẽ ở lại đây cho đến khi lành hẳn.
- Cả cô cũng bằng lòng chứ?
- Không những em, mà cả làng sẽ rất vui ạ.
Trúc hân hoan:
- Cô làm tôi cảm động quá!
- Chúng em rất vụng về.
- Tôi lại thấy cô rất khéo léo.
Cát Tường xấu hổ:
- Chúng em sống mãi ở đây, ít khi về thành phố. Thỉnh thoảng có người của nhà dòng đến thăm và giúp đỡ tiền bạc. Anh là người khách lạ đầu tiên đến thăm làng.
Trúc cười:
- Khách đến thăm mà bắt chủ nhà phải lăng xăng. Tôi rất mong được đi xem khắp nơi trong làng.
Cát Tường chớp nhanh mắt:
- Vâng, khi nào anh lành bệnh
- Cô sẽ dẫn tôi đi thăm nhé!
- Dạ.
Trúc muốn nói tiếp câu chuyện, bỗng phải lắng tai nghe: Có tiếng xôn xao ở đâu trước sân nhà. Tiếng trẻ nít! Cát Tường cũng nhìn ra phía cửa. Giống như có một sự sắp xếp nào đó, rồi một đứa bé gái xuất hiện, gọi:
- Chị ơi! Đã tới giờ ăn cơm.
Cát Tường nói:
- Đợi cha về. Hay là em đi coi thử cha có bận việc gì không.
- Chắc cha đi thăm rẫy.
- Em sang nhà nguyện đi, thưa với cha về việc có anh Trúc ở đây.
Đứa bé gái len lén nhìn người nằm trên giường, hỏi khẽ:
- Ông đó… phải không chị?
- Ừ, em đi nhanh nhé!
Đứa bé quay lưng đi. Đàng trước sân, tiếng ríu rít chưa yên. Cát Tường bảo Trúc:
- Anh nằm nghỉ. Em phải ra sân một chút.
Rồi Cát Tường ra ngoài, đóng cửa lại. Nằm trên giường, Trúc cố lắng nghe những âm thanh là lạ bên ngoài. Tiếng Cát Tường:
- Các bé im lặng nào, nghe chị đây! Sáng nay các em trai khi đi lượm củi gặp một người bị nạn, đem về làng. Vậy các bé hãy nghe lời chị, ngoan ngoãn, giữ trật tự trong khi có khách nhé!
Tiếng trẻ nhỏ:
- Dạ.
- Các bé xếp hàng đôi, đứng ngay ngắn lại. Nào! Bé đàng sau vịn vai bé đàng trước… Giỏi lắm! Bây giờ các bé hát bài “Mừng khách đến đây” mà chị đã dạy nhé!
Tiếng “dạ” lại vang lên, rồi tiếng hát của độ chừng mười mấy đứa trẻ tiếp theo:
- “Mừng người đến đây thăm chúng em
Tỏ tình thương
Người nào sá gian nan xa xôi
Vượt dặm đường”
Tiếng Cát Tường xúc động:
- Chưa đủ. Các bé hãy hát thêm, theo lời chị, để mừng người khách đặc biệt của chúng mình.
“Người đã đến như Quy-Li-Ve
Giấc ngủ ngon!
Người nào biết vây quanh vây quanh
Bầy tí hon”
Lũ trẻ hát theo. Tiếng hát như gió lành xuyên qua vách gỗ, chui vào tai, âu yếm. Trúc mở to đôi mắt, môi nở một nụ cười hân hoan. A! Phải chăng ta là Gulliver (*), đã lạc loài và đã gặp một nước tí hon? Ta chưa được yết kiến vị vua cao cả, nhưng đã biết rằng những thần dân của xứ này là những trẻ nhỏ rất hiền lành, nhân ái và có trí tưởng tượng thật diệu kỳ. Trúc nhìn ra mảnh trời xanh. Bây giờ ở đó có một đám mây trắng. Chợt như tiếng hát bay lên, đọng lại trên mây. Mây trôi lững lờ… Trúc mơ màng nghe tiếng hát biến thành tiếng chong chóng quạt trên đầu. Ta đang bay phía trên đồng ruộng, qua dòng sông, qua vùng rừng xanh. Nếu không là một kẻ gặp nạn, làm sao ta biết được bên dưới tấm thảm xanh đó là một xóm cô nhi hẻo lánh, nhỏ bé? Ở đó, những trẻ nhỏ đã hiện diện – Hiền, Lương, Khánh, Hậu… và Cát Tường. Chúng em không có thịt cừu với rượu vang, mà chỉ có khoai lang, củ mì, và có cho anh một bình nước lạnh. Thật đáng yêu quá! Trúc muốn ngồi dậy, bước xuống đất, mở cánh cửa kia, ra họp mặt với đàn trẻ nhỏ. Anh là Gulliver đây! Trên bãi biển, Gulliver bị trói chặt cả tay chân, và bị “giải” về kinh thành. Còn anh, anh được các em đón tiếp bằng một chân tình hiếm có. Chiếc xe chở củi của các em đưa anh xuyên qua rừng, băng qua rẫy, lên dốc đồi thấp – quý giá hơn một chiếc kiệu vàng. Củ khoai nóng được Cát Tường bóc vỏ mời còn ngon lành hơn cả thịt cừu mà Gulliver được ăn. Và bình nước lạnh nuốt vào cổ lại còn ấm áp hơn cả rượu vang. Thân ái quá! Tuyệt diệu quá! Trưa hôm qua, sau những loạt đạn oan nghiệt, tiếng cười nói biến thành tiếng than khóc. Trưa hôm nay, tiếng hát bé thơ của các em đang biến thành những giọt lệ vui mừng rớt trong tim anh rồi.
Tiếng hát được dẫn ra xa, xa dần… Chừng như đám trẻ nhỏ ngoài ấy đang được Cát Tường dẫn qua một căn nhà khác để ăn cơm. Trúc nhắm mắt lại, cố tưởng tượng ra quang cảnh của làng. Đây là nhà nguyện. Đây là nhà ăn. Đây là nhà bếp. Kia là phòng ngủ của các em trai. Kia là phòng ngủ của các bé gái….
Tiếng cửa mở nhẹ làm Trúc nhìn ra. Trên khung cửa, một tấm áo đen xuất hiện. Một người tầm thước, tóc bạc hết phân nửa mái đầu, mang một đôi giày màu đen – chỉ chừng ấy, bộ áo, dáng người, mái tóc, nét mặt – đủ cho Trúc đoán người là vị cha chung của Cát Tường và bầy trẻ nhỏ. Người bước vào và đưa tay ngăn lại khi thấy Trúc định ngồi dậy. Trúc lên tiếng:
- Con xin kính chào cha.
- Cha rất mừng khi đón con tại đây. Con cứ nằm nghỉ.
- Thưa cha…
Đôi mắt tỏa ánh nhân từ, người nói rất êm đềm:
- Con đừng e ngại gì hết nhé! Ở đây dưỡng sức một thời gian đi. Cha sẽ giúp con những gì con muốn.
- Vâng, con xin cám ơn cha.
- Khi con khỏe, cha và con sẽ nói chuyện nhiều với nhau. Cứ gọi cha là Cha Đạo.
- Dạ vâng.
Cha Đạo xem xét những vết thương trên người Trúc. Đôi mắt nhân từ hơi nhíu lại.
- Con cần phải nghỉ ngơi. Cần gì, cứ lên tiếng gọi nhé! Ở phòng cạnh đây lúc nào cũng có người.
- Dạ.
- Con đói chưa? Để cha bảo Cát Tường nấu cháo cho con – người đổi giọng hóm hỉnh – khi nào khỏe hẳn, con sẽ được ăn cơm độn khoai sắn như dân làng này đó!
______________________________________________________________________
(*) Gulliver là tên của nhân vật trong bộ truyện “Gulliver’s travels” của nhà văn người Ái Nhĩ Lan Jonathan Swift, vào thế kỷ 17-18. Truyện được dịch ra tiếng Việt, rất quen thuộc với học sinh Việt Nam.