Kho vàng An Hạ - Chương 3 & 4

Chương 03

TẤN THẢM KỊCH

 

 

Gần mười một giờ đêm. Chúng tôi đã rời xa cái sa mù ẩm ướt của khu phố lớn, và đêm ở đây thực là dễ chịu. Một luồng gió ấm thổi từ phương Tây, đẩy ngang nền trời những đám mây thấp nặng nề, khuôn trăng lưỡi liềm thỉnh thoảng hiện ra, lơ lửng trên cao.

 

Chúng tôi bước vào một khu vườn rộng xung quanh có tường đá xây cao ngất, lởm chởm mẻ chai. Lối vào là khung cửa hẹp giữa có chấn song bằng sắt. Người đi trước gõ vào cửa theo một hiệu riêng.

 

- Ai đấy?

 

Một giọng nói hơi gắt gỏng cất lên bên trong.

 

- Tôi đây. Hiểu cái dấu hiệu gõ cửa của tôi rồi chứ? Mở đi!

 

Có tiếng càu nhàu, rồi tiếng chìa khóa lắc cắc. Cánh cửa nặng nề quay trên bản lề, một khổ người thấp lùn thấy hiện ra, đôi mắt hấp háy vì chói ánh đèn và nhìn chúng tôi một cách nghi ngại. Người kia lên tiếng:

 

- Mời các ông vào! Và mấy người bạn ông cũng vào luôn… Thưa ông, tôi xin lỗi, nhưng vì mệnh lệnh ở đây hết sức nghiêm nhặt! Ít nhất tôi phải quen một người trong các ông rồi mới dám cho vào được.

 

Bên trong bờ thành, một con đường sỏi ngoằn ngoèo chạy qua một vạt đất rộng dẫn đến một ngôi nhà lớn kiểu xưa ngập sâu trong bóng tối dầy, trừ một góc nhỏ có chút ánh sáng. Không khí quanh ngôi nhà thật tối tăm và lặng ngắt này có vẻ ngột ngạt.

 

Tất cả mấy người chúng tôi đi theo Diệp Tôn vào trong. Gian phòng bà cụ quản gia ở ngay bên trái hành lang. bà cụ đang cắn móng tay, vẻ mặt nhợt nhạt, đi đi lại lại trong phòng. Nhìn thấy Diệp Tôn bà cụ có vẻ yên lòng, bước đến nói rất dịu dàng:

 

- Ông ấy khóa cửa kín mít, tôi gọi không nghe đáp lại. Tôi chờ cả ngày không nghe ông ấy sai bảo gì cả. Biết rằng ông ấy thích được yên tĩnh một mình nhưng sau cùng tôi ngại có chuyện gì hay chăng. Thế rồi tôi lại lên lầu nhìn qua lỗ khóa có đến cả tiếng đồng hồ. Ông Diệp Tôn ơi, ông đến mà xem. Tôi ở với ông Mân Tôn đã mười năm nay, vui có, buồn có, nhưng chưa bao giờ tôi thấy sắc mặt ông ta như thế.

 

Thiết Lộc cầm lấy cây đèn, mạnh bạo đi trước, vì Diệp Tôn bỗng ngây người như tượng đá, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Tôi phải đỡ y leo lên cầu thang vì đôi chân y cứ co rút lại không sao bước được. Tôi thấy Thiết Lộc lấy kính lúp ra hai lần quan sát một cách chăm chú những vết bùn lấm dính trên tấm thảm chùi chân bằng xơ dừa. Y leo chậm chậm lên các bậc thang, đặt cây đèn xuống chỗ này, chỗ kia, đưa mắt chăm chú nhìn quanh. Cô Mộng Lan ở lại với bà cụ dưới nhà.

 

Tầng thứ ba dẫn đến một hành lang dài, trên tường bên phải treo một tấm thảm Ấn Độ thật lớn, bên trái có ba khung cửa liền nhau. Chúng tôi cùng đi sát bên Thiết Lộc. Y bước từ từ và giữ ý tứ như trước.

 

Bóng chúng tôi trải dài ra đằng sau. Tới khung cửa thứ ba thì chúng tôi dừng lại. Thiết Lộc gõ cửa. Không nghe đáp lại, anh ta toan dùng sức vặn quả nắm, nhưng đưa đèn lại gần sát, chúng tôi thấy cửa đã khóa chặt ở bên trong. Chìa khóa đã cho vào ổ vặn chốt nhưng còn một chút lỗ trống nhìn được một khoảng gian phòng. Thiết Lộc ghé mắt vào trong nhưng ngừng ngay lại và thở hổn hển. Tôi chưa bao giờ nghe y nói bằng một giọng xúc động như thế:

 

- Có chuyện quái gở bên trong. Hoàng Hà, anh có thể hiểu gì không?

 

Tôi cũng ngồi xuống trước ổ khóa nhưng vội lùi lại, kinh hãi. Bóng trăng lạnh lẽo và nhợt nhạt tỏa sáng gian phòng, tôi thấy một gương mặt chập chờn hiện rõ trong bóng tối, giống hệt như mặt Diệp Tôn, cũng cái sọ cao và nhẵn bóng, cũng vành tóc hung hung, cũng màu da trắng bêch… Nhưng tất cả như co rúm lại trong một cái cười ghê rợn, cái nhếch mép lặng lẽ dưới ánh trăng xanh kia còn đáng sợ hơn mọi đe dọa nào khác. Mặt người kia giống ông bạn Diệp Tôn của chúng tôi quá nhiều, khiến tôi phải quay lại nhìn xem ông còn ở đằng sau mình không. Và tôi mới sực nhớ rằng ông và Mân Tôn là hai anh em sinh đôi. Tôi lắp bắp hỏi:

 

- Ghê quá, anh Thiết Lộc ơi! Làm sao bây giờ?

 

- Phải mở cửa đã!

 

Y lao cả sức nặng người của y vào nơi ổ khóa. Cánh cửa rung ầm và chuyển răng rắc nhưng vẫn khép kín. Tôi phải phụ lực tông vào với y. “Rắc” một cái, cánh cửa bật tung, và chúng tôi rơi hẳn vào giữa phòng của ông Mân Tôn.

 

Ông Mân Tôn ngồi trong một chiếc ghế phô tơi cạnh bàn, đầu ngoẹo xuống vai bên trái, mỉm cười một cách cổ quái. Xác lạnh và cứng đờ. Ông chết đã lâu. Nét nhăn trên mặt vẫn còn hiện rõ và cả chân tay tử thi cũng có hình dáng khác thường.

 

Cạnh đấy, một mảnh giấy bị xé rời trên ghi mấy chữ nguệch ngoạc. Thiết Lộc liếc nhanh rồi đưa cho tôi.

 

- Coi xem.

  

Y nhướng mày một cách có ý nghĩa. Tôi đem lại bên đèn gương, rùng mình đọc mấy hàng chữ “Dấu hiệu Tứ Hiệp”. Tôi kêu lên:

 

- Trời ơi! Cái này nghĩa là gì hở?

 

Y cúi xuống bên xác chết:

 

- Một vụ ám sát… À, tôi đã biết rồi, nhìn đây…

 

Y đưa ngón tay trỏ vào một cây kim dài đen nhánh găm vào dưới da bên trên lỗ tai người chết. Tôi nói:

 

- Đây là cây kim chắc.

 

- Vâng, một cây kim. Ông rút ra đi, nhưng nên cẩn thận, có tẩm độc đấy!

 

Tôi kẹp giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ lấy ra dễ dàng. Cây kim không để lại vết tích gì, ngoài một giọt máu rỉ ra từ chỗ đâm vào. Tôi nói:

 

- Điều này càng thêm khó hiểu. Đã không sáng tỏ chút nào lại còn rắc rối hơn lên.

 

Thiết Lộc nhìn tôi, nói giọng xác định:

 

- Trái lại. Vụ này càng sáng tỏ dần! Chỉ còn thiếu vài chi tiết là xong.

 

Từ lúc xô cửa bước vào tới giờ chúng tôi quên mất Diệp Tôn. Ông đang đứng trước ngưỡng cửa, vặn tay rên rỉ, hiện thân của sự khủng khiếp. Thình lình ông ta rít lên một cách điên cuồng:

 

- Hòm của không còn nữa kìa! Chúng lấy mất hòm của rồi. Tôi biết lỗ hổng trên kia là nơi tôi đem nó xuống, tôi đã phụ lực với anh Mân Tôn đó mà. Tôi là người cuối cùng gặp anh ấy! Tôi nghe anh ấy khóa cửa ở lại trong buồng lúc tôi đi ra.

 

Thiết Lộc hỏi vội:

 

- Lúc ấy độ chừng mấy giờ?

 

- Mười giờ. Mà bây giờ anh ấy chết. Cảnh sát sẽ đến điều tra, rồi tôi sẽ bị tình nghi, tố giác… phải, không sao tránh khỏi! Nhưng thưa các ông, các ông không nghĩ rằng tôi có thể làm như thế chứ?... Các ông…

 

Ông ta khoa tay, dậm chân cuống cuồng hoảng hốt. Thiết Lộc liền đặt tay lên vai ông, ôn tồn:

 

- Này ông Diệp Tôn, ông không có gì phải hoảng sợ cả. Ông hãy nghe lời tôi đây. Bây giờ ông đến ngay sở cảnh sát, kể lại vụ án và nhờ họ đến. Chúng tôi ở đây chờ ông.

 

Diệp Tôn ngơ ngác nghe theo và một lát sau chúng tôi nghe tiếng chân bước khập khễnh ở trên cầu thang.

 

Thiết Lộc quay lại bảo tôi:

 

- Chúng ta hãy tiến tới chút nữa coi sao. Độ nửa giờ nữa, thanh tra Đôn Lễ sẽ tới. Y sẽ làm náo loạn lên cho xem.

 

Tôi biết Đôn Lễ là người kiêu ngạo, tham lam và không có tài cán gì. Y có quyền lực, y thường làm cho mọi việc trở nên quan trọng để tô điểm con người y nhưng không mấy khi khám phá được một vụ án nào quan trọng. Tôi hỏi:

 

- Liệu Đôn Lễ đến, anh đã tìm hiểu được việc gì chưa?

 

Thiết Lộc trả lời:

 

- Tôi đã nhìn thấy hết rồi. Đây là một việc giản dị.

 

- Giản dị thật sao?

 

- Thật mà.

 

Y vừa rọi cây đèn vừa nói thật dõng dạc, nhưng hình như y nói chuyện một mình hơn là nói cho tôi nghe:

 

- Cửa sổ đã gài bên trong. Khung cửa rắn chắc, bản lề không bị xeo nạy. Ta mở xem… Bên ngoài không có ống xối. Từ cái mái nhà không sao leo xuống được đây… Nhưng đã có người leo lên cửa sổ vì hôm qua có một cơn mưa nhỏ, và đây là dấu chân bùn dính trên khung cửa. Kìa lại một vết đất hình tròn trên sàn đây nữa, và cả trên chiếc bàn này. Hoàng Hà, anh lại xem này! Một sự chứng minh khá rõ.

 

Tôi cúi xuống một cái vết hình đĩa, nhận xét:

 

- Đây không phải dấu chân người.

 

- Còn rõ ràng hơn và quí báu hơn dấu chân người nữa. Đây là cái dấu nạng gỗ. Nhìn nơi khung cửa sổ kia, một vết giày ống đế rộng bịt sắt đã bước thật nhanh, và ở bên cạnh là những dấu vết chân khác nhưng tròn.

 

- Đây là người đi chân gỗ?

 

Thiết Lộc gật gù:

 

- Đúng thế! Nhưng còn có một người khác. Một tên đồng lõa hết sức đắc lực có một bản lĩnh đặc biệt mới có thể giúp cho y vào được và đem nổi cái rương của ra ngoài.

 

Tôi hỏi:

 

- Nhưng chúng nó vào bằng cách nào đây? Cửa lớn thì khóa, cửa sổ không leo tới được. Ống khóa thì lại quá hẹp.

 

Thiết Lộc đáp lại:

 

- Như thế chỉ còn một cách: nó vào bằng một lỗ trống ở trên mái nhà. Chúng ta hãy quan sát thử xem sao.

 

Tôi rọi cây đèn cho Thiết Lộc đu người lên. Rồi y nằm sấp vói tay đỡ lấy cây đèn cho tôi cùng leo lên theo. Tầng gác rộng độ hai mét, dài trên ba mét, đầy những bụi bặm. Thiết Lộc ướm tay lên một mặt tường và nói:

 

- Đây rồi! Đây là một khung cửa nhỏ trên mái, có thể đẩy được.

 

Y rọi đèn xuống mặt sàn, sắc mặt có vẻ kinh ngạc cực độ. Tôi cũng nhìn theo và nổi da gà: mặt sàn đầy vết chân trần, khá rõ, nhưng kích thước chưa bằng nửa chân người bình thường.

 

Tôi lẩm bẩm:

 

- Một đứa bé mà làm nổi chuyện ghê gớm này ư?

 

Thiết Lộc đã trấn tĩnh được, y nói:

 

- Không phải thế đâu. Đáng lẽ tôi phải đoán được điều này từ sớm. Thôi, ta xuống.

 

Xuống dưới, tôi hỏi Thiết Lộc:

 

- Theo anh, những vết chân đó là gì?

 

- Rồi anh sẽ rõ tất cả. Chúng ta hãy quan sát lại lần nữa xem nào.

 

Anh ta chùi kính lúp, rút cái thước xếp, chống tay bò trên sàn nhà. Anh xem xét, đo đạc, mũi rà sát xuống dưới nền, cặp mắt sáng lên long lanh, miệng anh không ngớt lẩm bẩm những câu khó hiểu. Sau cùng anh ta reo lên:

 

- May quá, bây giờ khỏi phải nghi ngại gì nữa. Gã chống nạng kia đã rủi ro dẫm phải lọ dầu hôi làm cho vỡ đổ và dây dính khắp. Chúng ta sẽ tìm con chó Đốp-Bi săn đuổi theo dấu vết này. Nhưng trước khi bọn Đôn Lễ tới đây, anh hãy coi lại cái xác chết kia. Anh thấy bắp thịt thế nào?

 

- Cứng lại như gỗ.

 

- Đúng rồi, và co rút lại rất mạnh. Thêm vào là cái vẻ mặt nhăn nhó, cái cười quỷ sứ kia nữa. Phải là một loại chất độc đặc biệt. Anh coi, cây kim đã giết người này… Ở tại Anh Quốc không thể có loại kim đó, Bấy nhiêu đủ cho biết tông tích thủ phạm.

 

Bên ngoài có những tiếng người ồn ào. Thiết Lộc bảo tôi:

 

- Nhà chức trách đã đến rồi. Chúng ta không dính dáng gì đến họ, rút lui là vừa.

 

Anh vừa dứt lời thì có tiếng giày nện mạnh trên các bậc gỗ cầu thang rồi một người thấp béo, hồng hào, y phục màu xám, bệ vệ, bước vào. Bộ mặt y phì nộn, mí mắt dày trịch, đôi mắt ti hí nhưng có cái nhìn sắc sảo. Sau y, xuất hiện một viên đội mặc nhung phục chỉnh tề và ông Diệp Tôn, vẻ mặt nhợt nhạt chừng như chưa được hoàn hồn.

 

Người y phục xám, tức là thanh tra Đôn Lễ, kêu lên:

 

- A, chào ông Thiết Lộc. Vụ án mạng này tôi không cần phải quan sát cũng biết được ai là hung thủ rồi. Vàng bạc nhiều khi thật là nguy hiểm, nó làm mờ mắt con người. Gã Diệp Tôn này đã hại anh nó để mà đoạt của. Thế mà cứ bảo rằng oan. Hừ, tôi phải ra lệnh giữ lại.

 

Vẻ mặt thảm hại, Diệp Tôn đưa hai tay lên, muốn nói, nhưng y nghẹn ngào. Thiết Lộc vỗ nhẹ vào vai ông ta, ân cần:

 

- Ông cứ yên tâm. Tôi hứa sẽ làm cho ông trở thành vô tội.

 

Đôn Lễ quay nhìn Thiết Lộc, cười mũi:

 

- Thôi đừng hứa liều, ông ơi!

 

Nhưng Thiết Lộc đã nghiêm nghị nhìn viên thanh tra, rồi nói:

 

- Ông Đôn Lễ, tôi không phải hạng nói liều. Không những tôi có thể rửa sạch mọi nghi ngờ về ông Diệp Tôn mà tôi còn có thể cho ông biết rất rõ nhân dạng hung thủ.

 

Viên thanh tra đáp mỉa mai:

 

- Xin cám ơn ông. Nhưng tôi cũng có phần điều tra riêng của tôi nữa chứ. Hi vọng hung thủ của ông không có liên lạc gì với vụ này.

 

- Vậy thì tôi xin để ông làm việc.

 

Và Thiết Lộc dắt tay tôi ra ngoài. Anh nói:

 

- Một thi hào Đức có nói “Người ta nhạo báng cái gì người ta không thể hiểu nổi.” Câu đó thật đúng với lão Đôn Lễ.

 

Rồi anh phân công:

 

- Bây giờ anh đi tìm ngay con chó Đốp-Bi và nhân tiện đưa hộ cô Mộng Lan về nhà. Tôi nghĩ sự có mặt của cô ấy tại đây không cần thiết nữa và cô ta phải nghỉ ngơi sau những xúc động vừa qua. Phần tôi, tôi sẽ quan sát ngoài vườn và hỏi han thêm vài người trong gia đình này.

 

Tôi làm những việc đã được giao phó và khi tôi quay trở lại thì Thiết Lộc đã đón tôi ngoài hiên. Anh ân cần nói:

 

- Anh dẫn con Đốp Bi đến đấy à? Thằng cha Đôn Lễ đi rồi. Nó chẳng tìm tòi được cái gì hết, tôi chắc như thế, mà còn làm ngang không những bắt giam ông bạn Diệp Tôn, còn bắt cả người gác cổng và bà quản gia. Thôi được, mọi việc rồi sẽ sáng tỏ. Nào, anh buộc hộ cái dây vào cổ con chó cho tôi.

 

Xong rồi, Thiết Lộc đem con chó lại chỗ những dấu chân mà anh khám phá dưới sàn có dính dầu hôi để nó đánh hơi. Rồi anh dắt nó ra ngoài vườn cây chỗ hung thủ đã tụt xuống và men theo cái dấu đó đi lần ra ngoài bờ thành.

 

Chúng tôi phải đi quanh quẩn trên các ngõ đường thành phố vì dấu chân của hung thủ bị người qua đường xóa mất nhiều nơi và mùi dầu hôi không thiếu trên những vết xe qua lại. Hai tên thủ phạm hình như đã đi những lối hết sức quanh co, hẳn là để tránh khỏi bị theo dõi. Cứ mỗi lần con Đốp Bi lạc hướng, loay hoay tìm kiếm, chúng tôi lại dắt nó quay trở về những đoạn đường cũ mà nó không lộ vẻ gì bối rối. Có lần nó dẫn chúng tôi vào một đường phố nhỏ hẹp, đến một ngôi nhà tồi tàn rồi dừng lại đó. Tôi thực hồi hộp nhưng khi Thiết Lộc quan sát thoáng qua nơi đó anh đã tiến lại gần tôi và phá lên cười. Tôi hỏi:

 

- Có gì mà vui vẻ thế?

 

Anh đáp:

 

- Thủ phạm chỉ là bà cụ chuyên buôn dầu lẻ. Thế là chúng ta lại lạc đường rồi. Hãy quay trở lại.

 

Cứ thế chúng tôi lại quanh quẩn nữa, mãi cho đến chiều gần tối thì con Đốp Bi đưa chúng tôi đến bờ sông, một nơi khuất vắng, gần một xóm nhà lơ thơ với những ghe thuyền rải rác. Con chó dừng lại, nhìn xuống mặt nước thẳm sâu rít lên khe khẽ. Thiết Lộc chép miệng:

 

- Không may cho ta. Chúng đã đáp tàu đi rồi.

 

Tôi hỏi:

 

- Liệu có thể theo kịp không?

 

- Chúng ta cứ hy vọng thế. Tôi chắc chúng chưa đi xa vì phải quanh co di chuyển cái rương của đó suốt ngày hôm nay không phải là dễ dàng gì. Hơn nữa nó cũng phải đợi cho trời vừa tối để qua những trạm kiểm soát ở ngoài cửa sông. Dù có thể tới sớm được, bọn chúng cũng phải canh chừng để kịp tới đây vào lúc gần tối. Nhất định là chúng đi trước chúng ta không bao nhiêu đâu. Hãy dọ hỏi xem.

 

Chúng tôi nhìn quanh đây đó thấy có một ngôi nhà gạch treo tấm biển gỗ trên có đề chữ “Tàu cho mướn giờ hay mướn ngày”. Chúng tôi cùng bước vào nhà. Bà chủ, tự xưng là bà Tiểu Yết, cho biết ông chủ và đứa con trai đi vắng. Bà bảo chiếc tàu tốt nhất của bà là chiếc Bình Minh đã được hai người thuê rồi, cách đây một tiếng đồng hồ. Cứ theo hình dạng mà bà chủ nhà mô tả thì hai người ấy chính là thủ phạm mà chúng tôi đang theo đuổi.

 

Thiết Lộc chào bà chủ nhà, kéo tôi đi vội ra ngoài và bảo:

 

- Chúng ta đã đến cái giai đoạn chót. Ta nên gọi gấp gã Đôn Lễ đến.

 

- Sao lại gọi thằng cha ấy?

 

- Vấn đề chúng ta là tìm cho ra thủ phạm, thế thôi. Thằng cha Đôn Lễ háo danh sẽ phụ lực với chúng ta thu dọn chiến trường. Dầu sao đây chính là cái phần việc của lão, mình chỉ phụ giúp trong một mức độ nào thôi. Hơn nữa chúng ta không sẵn phương tiện mà lão lại có thuyền máy khá tốt có thể đuổi kịp bọn này.

 

Tôi im lặng, hiểu rằng bạn tôi không phải là kẻ tham danh hiếu lợi, anh chỉ muốn tạo ra sự thành công, khi thấy sự thành công ấy đem lại lợi ích cho những người khác và không bao giờ anh muốn tìm hưởng những kết quả đó.

 

Thiết Lộc quay sang, bảo tôi:

 

- Anh liên lạc gấp với Đôn Lễ đi. Bảo lão tranh thủ tới sớm đến mức tối đa.

 

Và nhìn ra xa, trên giòng sông rộng mờ bóng hoàng hôn, anh nói:

 

- Cuộc săn đuổi này không phải là không khó khăn đâu nhé.

Chương 04

CUỘC SĂN NGƯỜI TRÊN SÔNG

 

 

Chiếc xuồng của chúng tôi cũng bắt đầu tăng tốc độ. Nồi súp-de réo ầm ầm, máy móc rít lên, rúng động như một quả tim sắt khổng lồ. Mũi tàu rạch nước, rẽ ra hai bên những đợt sóng sủi bọt. Cứ mỗi lần lắc mạnh, con tàu lại lồng lên, run rẩy như một con vật sống. Phía trước, ngọn đèn vàng tỏa một chòm sáng lung linh. Một vệt đen trên mặt nước ghi dấu con tàu Bình Minh. Bọt nước trắng xóa tỏa rớt lại đằng sau chứng tỏ cái tốc độ ghê gớm của nó. Xuồng chúng tôi phóng nhanh hơn trước. Chúng tôi vượt khỏi những đoàn tàu chở hàng, những tàu kéo, tàu buôn, len lỏi tàu này, lách khỏi tàu nọ. Những tiếng réo gọi vọng ra từ trong đêm tối. Nhưng chiếc Bình Minh vẫn phóng thẳng và chúng tôi vẫn đuổi theo.

 

Thiết Lộc nhìn vào phòng máy phía dưới, gào to:

 

- Nhanh lên, chất củi vào! Mở hết tốc lực!

 

Nồi súp-de đỏ lòm chiếu ửng trên gương mặt nhớn nhác của anh. Anh vẫn không rời mắt khỏi chiếc Bình Minh, đang lướt sóng, bảo:

 

- May ra ta đuổi kịp chúng.

 

Tôi nói:

 

- Chắc chắn kịp! Vài phút nữa là bám sau nó được.

 

Vừa ngay lúc ấy, một chiếc tàu kéo với ba bè hàng sừng sững hiện đến trước mặt chúng tôi như do bàn tay một ác thần nào vừa mới bày đặt. Phải bẻ ngặt bánh lái mới tránh nổi cái vật trở ngại. Vòng ra khỏi đoàn tàu thì chiếc Bình Minh đã cách xa hơn hai trăm mét, nhưng vẫn còn thấy rõ! Hoàng hôn tối mờ đã nhường chỗ cho một đêm trong sáng đầy sao. Nồi súp-de nhả hơi ồ ạt. Sức mạnh phi thường phăng phăng đẩy chúng tôi đi, làm chao đảo cả chiếc vỏ tàu mỏng mảnh. Đôn Lễ vẫn rọi ngọn đèn pha theo chiếc tàu Bình Minh và bây giờ chúng tôi có thể nhìn rõ mấy hình người trên cầu tàu. Một người đàn ông đang ngồi đàng lái cúi xuống một vật đen đặt dưới chân. Bên cạnh hắn, một khối gì màu da thâm như hình một con chó xù. Thằng bé, con ông Tiểu Yết, đứng trước mũi, trong khi cha nó, chiếc thân trần nổi bật trên màu than đỏ hồng đang đều đặn chuyên than vào lò. Có lẽ mới đầu họ không để ý chúng tôi lắm. Nhưng thấy chúng tôi theo sát từng lối rẽ, từng đường vòng, họ đã hiểu rồi. Trong đời hoạt động tôi đã dự nhiều cuộc săn ở các xứ lạ, nhưng chưa bao giờ môn thể thao ấy gây cho tôi một hào hứng điên cuồng cho bằng cuộc săn người giữa dòng Ta-Mi như hôm nay. Cứ đều đều từng thước một, từng thước một, hai chiếc thuyền xáp lại gần nhau. Trong cái vắng lặng của ban đêm, chúng tôi có thể nghe được tiếng máy reo sùng sục của tàu nọ. Người trên boong vẫn ngồi xổm như trước, hai tay cử động như đang bận làm việc gì. Thỉnh thoảng hắn đưa mắt ước lượng khoảng cách giữa hai chiếc xuống cứ mỗi lúc một ngắn dần. Đôn Lễ gọi chúng, bảo phải dừng lại. Chúng tôi chỉ còn cách nhau 4 sải nữa thôi. Hai chiếc xuồng vẫn phóng vun vút với một tốc độ ghê hồn. Trước mặt chúng tôi, lòng sông mở rộng thênh thang. Nghe chúng tôi gọi, người ngồi trên boong nhảy chồm lên, đưa hai nắm tay, vừa quát mắng với một giọng khàn khàn. Thân hình hắn to lớn và vạm vỡ. Vì hắn đang đứng đối diện trước tôi, hai chân hơi dang ra để giữ thăng bằng, nên tôi thấy rõ từ đùi bên phải trở xuống của hắn chỉ có một cây nạng gỗ. Nghe tiếng quát dữ tợn của hắn, khối màu thâm bên cạnh cựa mình. Thì ra đó là một người nhỏ bé, nhỏ chưa từng thấy đâu bằng. Hắn có cái đầu dồ thật lớn, và một bờm tóc rối bù. Thấy cái hình nhân quái gở đó, Thiết Lộc vội rút khẩu súng lục ra ngoài, và tôi cũng làm theo. Nó choàng quanh mình bằng một tấm khăn hay một tấm mền chỉ chừa có mỗi khuôn mặt. Nhưng chỉ trông bộ mặt đó cũng đủ giật mình rồi. Nó hiện lên những nét dữ tợn man rợ đến cực độ. Đôi mắt ti hí lấp lánh ánh đèn, nhìn lườm lườm, cặp môi dày trệ mếu lại như nhếch mép. Hai hàm răng hắn nghiến ken két và đánh khớp vào nhau như trong một thứ giận dữ gần như của loài thú vật. Thiết Lộc bảo nhỏ:

 

- Thấy hắn giơ tay lên là bắn ngay.

 

Bây giờ chứng tôi còn cách không đầy một sải, vừa tầm bắn lắm. Hai người kia vẫn giữ nguyên dáng điệu như trước. Dưới ánh đèn gương của chúng tôi, người da trắng, hai chân dang ra đang gầm ghè chửi rủa, còn tên bé nhỏ với bộ mặt dễ sợ thì nhe hai hàm răng vàng khè làm bộ muốn nhai xác chúng tôi. Được nhìn hắn một cách rõ ràng như thế thực là một may mắn lớn cho chúng tôi, vì ngay trước mặt chúng tôi hắn đang thò tay lấy ra khỏi tấm chăn một đoạn gỗ tròn giống như cái thước học trò, và đưa lên môi. Lập tức hai khẩu súng cùng nhả đạn một lúc. Hắn lồng lộn, hai tay chới với rơi ngã tòm xuống sông sâu với một tràng hồng hộc. Trong giây lát tôi thấy cặp mắt đe nạt của hắn sáng lên giữa lớp bọt nước trắng xóa. Nhưng ngay lúc đó, người chân gỗ nhảy xổ lại đằng bánh lái, bẻ quặt lại, chiếc xuồng quay lộn rồi lao thẳng về phía nam, trong lúc ấy xuồng chúng tôi sẵn đà trờ tới, thiếu một thước nữa thì va mạnh vào bánh lái của nó. Trong chốc lát chúng tôi bẻ lái theo ngả mới, nhưng bọn chúng đã sắp lên bờ rồi. Đây là một nơi hoang vu, vắng vẻ. Ánh trăng tỏa trên đầm lầy mênh mông, đầy những hục hố và cỏ cây thấp lè tè. Chiếc xuồng chúi mạnh vào bãi lầy, mũi chổng lên trời, bánh lái găm dưới nước. Hung thủ  vượt ra khỏi xuồng, nhưng cây nạng gỗ ngập suốt cả chiều dọc ngay dưới mặt lầy sủi bọt. Hắn vùng vẫy lồng lộn đủ cách nhưng vô hiệu. Hắn chẳng tiến mà cũng chẳng lùi được nửa bước. La rống điên cuồng tuyệt vọng, hắn đập liên hồi cái chân kia lên mặt bùn. Nhưng hắn càng rán sức bao nhiêu, cái chân gỗ càng lún sâu dưới đất.

 

Khi chiếc xuồng của chúng tôi cập bờ sát bên cạnh hắn đã bị cắm quá chặt vào bùn đến nỗi chúng tôi phải vòng một lượt thừng qua ngang người hắn mới kéo được hắn lên, như kéo một con cá mắc lưới. Hai cha con ông Tiểu Yết đang ngồi nhăn nhó trên xuồng nhưng khi Đôn Lễ ra lệnh, họ đều ngoan ngoãn leo lên xuồng chúng tôi. Sau đó, phải kéo chiếc Bình Minh về. Một cái hòm sắt kiên cố đặt ở trên boong. Chắc chắn đây là hòm của rùng rợn của gia đình Sơn Tôn. Chiếc hòm khá nặng và chúng tôi phải hết sức thận trọng để mang nó qua tàu của chúng tôi. Nơi ổ khóa không có chìa khóa. Chậm rãi đi ngược dòng sông, chúng tôi rọi đèn bốn phía nhưng chẳng thấy dấu vết của cái hình nhân bé nhỏ kia đâu. Chắc gã du khách xa lạ ấy đã gởi nắm xương tàn trên một bãi đất bùn nào đó bên bờ sông rồi.

 

Thiết Lộc chỉ xuống cái nắp ván trên sàn tàu bảo:

 

- Nhìn đây mà xem! Chúng ta đã sử dụng khẩu súng kịp thời lắm!

 

Thật thế, ngay đàng sau nơi chúng tôi đứng, có găm một thứ tên độc mà chúng tôi đã gặp từ trước, chắc chắn là lúc chúng tôi bóp cò, mũi tên này đã lách qua giữa hai chúng tôi. Thiết Lộc, vẫn cái tính trầm tĩnh, chỉ mỉm cười rồi nhún vai. Nhưng còn tôi, thú thực tôi cứ thắc thỏm mãi về cái chết rùng rợn đã lướt qua quá gần chúng tôi trong đêm hôm ấy. Chúng tôi đã đưa gã tù nhân vào ngồi trong cái phòng mát trước cái hòm sắt mà hắn đã ao ước và chiến đấu biết bao mới chiếm được. Cặp mắt của hắn lầm lì, nước da rám nắng, khuôn mặt chằng chịt những nếp nhăn. Những nét rắn rỏi và màu da đỏ gay chứng tỏ một đời sống lâu năm giữa biển rộng. Chiếc cằm râu ria xồm xoàm không phải của hạng người chịu rời mục đích dễ dàng. Hắn phải đến năm mươi tuổi, mái tóc đen xoắn đã điểm nhiều sợi xám. Kể riêng thì bộ mặt hắn không có gì đáng ghét nhưng cặp lộng mày rộng và chiếc cằm banh ra khiến cho hắn có sắc thái hung ác trong cơn giận dữ. Hắn đang ngồi lặng lẽ, đôi còng thép trên tay, đầu gằm trước ngực, hai mắt lấm lét nhìn cái hòm sắt, nguyên nhân mọi tội ác của hắn. Trông cái dáng thản nhiên điềm đạm của hắn tôi nghĩ rằng hắn đang buồn bực hơn là giận dữ. Một lần, hắn ngước nhìn về phía tôi, trong mắt dường như có tia sáng long lanh. Thiết Lộc đánh diêm châm điếu thuốc xì-gà, bảo:

 

- Tôi tiếc rằng chuyện đã phải xảy ra như vậy!

 

Hắn đáp:

 

- Tôi cũng vậy, ông ạ. Tôi không hy vọng là sẽ được thân oan trong vụ án này. Nhưng, tôi xin thề là tôi không hề nhúng tay vào cái chết của ông Mân Tôn. Chính con quỷ sứ Tôn Giả kia đã bắn cho ông ấy một mũi tên độc. Còn tôi thì tuyệt nhiên không can dự đến! Tôi thấy thương hại ông ta, như là thương một người thân trong gia đình tôi. Tôi có ngăn nó, nhưng không kịp, nó đã ra tay rồi, chẳng biết làm sao cứu gỡ.

 

Hắn lại chắc lưỡi có vẻ hối hận thật tình. Thiết Lộc lấy điếu thuốc chìa ra mời hắn:

 

- Mời ông hút một điếu thuốc.

 

Gã nói:

 

- Xin cám ơn ông.

 

Thiết Lộc lại hỏi:

 

- Ông vừa bị lạnh, ông có cần uống rượu không?

 

Thanh Tra Đôn Lễ cau mặt:

 

- Thôi, cho nó uống làm gì, uổng của.

 

Thiết Lộc nhún vai, không trả lời lại. Người kia bĩu môi không nói tiếng nào. Thiết Lộc đến trước mặt hắn, ôn tồn:

 

- Con người làm ác không sao tránh khỏi hình phạt. Nhưng kẻ thành thực bao giờ cũng được thông cảm. Vậy ông hãy cho chúng tôi biết rõ những việc đã đưa đẩy ông đến những hành động thế này. May ra tội ông có thể được giảm nhẹ bớt một phần nào chăng.

 

Gã nhìn Thiết Lộc ra vẻ thân thiện rồi nói:

 

- Ông đã đối xử với tôi rất tốt và tôi xin cám ơn ông. Nếu ông có lòng muốn biết, tôi xin sẵn sàng kể lại ông nghe. Tôi thề rằng tôi nói toàn sự thực và không có gì hữu ích cho tôi bây giờ hơn là sự thực. Nào, xin ông cho tôi một chén nước nóng, cổ tôi đã quá khô rồi.

 

Gã tiến về phía thanh Tra Đôn Lễ đang ngồi im lặng hút điếu xì-gà mắt vẫn không rời chiếc rương chứa đầy vàng ngọc, rồi gã hớp một ngụm nước và bắt đầu kể.

Xem tiếp chương 5 & Đoạn kết