Trong Cơn Ly Loạn - Chương 3 - 4 & 5 (hết)

Chương 03

Chôn cất vợ được mười ngày, anh bán các đồ đạc không dùng, gói gắm các thứ cần thiết. Rồi một buổi sáng, anh từ giã vợ chồng anh Phan cùng bà con lân cận, tay bồng tay dắt, đem các con trở về làng cũ.

Tình hình lúc ấy đang hỗn độn, ai nấy đều khuyên anh tạm ở lại ít lâu, nhưng thấy anh nhất quyết, họ đành để anh đi. Anh bồng con Mai, vai mang một gói lớn đựng gạo và các đồ cần dùng. Thằng Hùng và con Huệ mỗi đứa mang một bọc nhỏ áo quần. Cha con đi lần xuống đường cái. Hễ các con kêu mệt, anh lại nghỉ. Tối đến, anh đem các con vào trú trong các chùa miếu, điếm canh hay trong các nhà gần đường. Thấy cảnh ngộ anh không ai mà không thương xót; họ giúp đỡ gạo tiền và cho an uống. Cha con đi lần hồi, vừa đi vừa kiếm ăn qua ngày.

Một buổi chiều, cha con về tới sông Mỹ Chánh. Chiều hôm ấy, người đang chở đò cũng khá đông, có khi phải đi hai chuyến mới hết. Phần nhiều là bộ đội, có vài người đi chợ về, nhưng cũng có ít người lén lút hồi cư như anh Lâm. Đò cập bến, người ta tranh nhau lên, anh Lâm sợ tối, bảo thằng Hùng chen lên trước thì ba, bốn người giành liên tiếp, nên anh Lâm đành đợi chuyến sau. Thằng Hùng thấy ba nó không lên được, toan nhảy xuống, nhưng đò đã chống ra khỏi bến. Anh Lâm bảo con:

_ Con cứ qua trước đi, ba sang chuyến sau. Chiếc đò đầy người, chỉ hơi nghiêng một tí là nước ùa vào. Mọi người ngồi yên không dám cựa quậy. Con đò theo nhịp chèo từ từ ra giữa lòng sông. Bỗng mọi người trên bờ, trong thuyền, ai nấy đều hốt hoảng vì có tiếng máy bay từ phía biển vọng lên. Họ nhớn nhác nhìn lên trời: một chiếc, rồi hai chiếc máy bay đang từ phía dưới phóng lên. Tiếng động cơ mỗi lúc một rõ. Những kẻ trên bờ, vội vàng chạy nấp vào các bụi rậm và chui xuống các hầm trú cá nhân hai bên vệ đường. Những kẻ trên đò mới thật là nguy hiểm. Chiếc đò mới ra giữa lòng sông rộng, rõ ràng quá không biết tránh vào đâu. Khốn nỗi, trong đò phần nhiều là bộ đội. Người ta nháo nhác sợ hãi, chiếc đò chùng chình, nước ào vào. Tiếng kêu khóc thét lên! Viên chỉ huy bộ đội hét lớn:

_ Ngồi yên, không can gì đâu mà sợ!

Nhưng từ xa, hai chiếc máy bay đã sà xuống thấp và những làn khói nhả ra liên tiếp những tiếng nổ liên thanh. Một người lính sợ quá nhảy tùm xuống nước. Con thuyền chao đi, rồi lật úp lại. Tiếng kêu cứu, la khóc vang trời, nghe rất rùng rợn. Những bàn tay yếu ớt, chơi vơi, quờ quạng rồi chìm lỉm! Những kẻ biết lội ra sức bơi vào bờ, nhưng lại bị người không biết bơi nắm chặt lại, vật lộn nhau, kêu la inh ỏi! Những kẻ trên bờ, biết chiếc đò chìm, nhưng hai chiếc máy bay vẫn vòng quanh trên đầu, nhả đạn xuống, nên không ai dám ra khỏi hầm trú. Anh Lâm và hai con nấp trong hầm, nghe tiếng kêu la thất thanh, biết con mình đang gặp nguy hiểm, cũng không dám liều mạng, đành ôm hai con khóc rống lên:

_ Ôi con ơi, Hùng ơi!

Một lúc sau, hai chiếc máy bay đã đi xa, mọi người bò ra khỏi nơi trú, chạy ngay ra sông nhìn xuống, nước sông vẫn lặng lờ chảy, như không xảy ra việc gì cả. Một số bộ đội bơi vào bờ được, nằm sóng sượt trên bờ vì mệt. Người ta chia nhau, kẻ cấp cứu người bị uống nước, người đi với kẻ bị chìm. Con thuyền đầy nước, đang lừ đừ trôi đi khá xa, người ta lội ra kéo vào nhưng không còn một người nào trong thuyền cả. Anh Lâm bảo con Huệ giữ em, rồi cởi áo chạy dọc theo bờ sông, hể chỗ nào sủi bọt là anh nhào xuống tìm, nhưng vẫn không thấy Hùng đâu. Hai bên bờ dần dần đầy người, kẻ tìm cha mẹ, người tìm vợ chồng con cái. Một vài người đã tìm thấy xác thân nhân khóc lóc thảm thiết. Đến tối mịt, nhiều người vẫn chưa tìm được xác thân nhân, họ bàn nhau thuê thuyền về xuôi để tìm. Anh Lâm mệt mỏi đi dọc theo bờ sông khá xa mà vẫn không thấy tung tích con. Thấy người ta thuê thuyền, anh cũng toan đi theo, nhưng vì con Huệ, con Mai, từ trưa đến giờ chưa có gì ăn, anh buồn rầu trở lại chỗ cũ. Từ đàng xa, anh đã nghe tiếng hai con khóc: con Mai khóc đói, con Huệ dỗ em không được cũng khóc theo.

Anh Lâm đau đớn, bao nhiêu tang tóc dồn dập lên mình; khiến anh như điên dại. Một người trong xóm gần đó, cám cảnh đem cha con anh về cho trú tạm. Ngày tháng trôi qua, mới đó mà thằng Hùng mất tích đã hai tuần lễ. Ngày nào anh Lâm cũng bước lần theo bờ sông nghe ngóng. Cuối cùng không hy vọng gì nữa, anh mới bồng con lên đường trở về. Mất đứa con nương cậy, anh thất thểu hai tuần nữa mới về đến làng. Tính từ ngày anh bỏ La-vang đến nay đã hơn một tháng.

Làng An Hoà, nơi xưa kia vui vẻ đầm ấm bao nhiêu, nay buồn bã điêu tàn bấy nhiêu. Lúc người dân trong làng tản cư, bộ đội đã theo chính sách “tiêu thổ kháng chiến” phá bình địa những nhà gạch nhà ngói, triệt hạ đình chùa để cho địch không có chỗ ở. Bây giờ người ta cũng đã hồi cư về nhiều. Ruộng vườn đã bắt đầu cày cấy lại, nhưng chỉ làm được những nơi gần làng, những thửa ruộng khuất sau núi không ai dám ra làm. Tuy có đồn binh sĩ quốc gia đóng cạnh làng, nhưng đêm đêm thường bị đột kích. Mỗi lần hai bên đánh nhau, nhiều người dân làng bị chết vì đạn lạc. Có kẻ sợ nguy hiểm, bỏ làng về thành phố làm thuê qua ngày. Anh Lâm về nhà, buồn rầu không muốn đi nữa, nhưng ruộng vườn làm không được, anh đành theo họ ra phố kiếm việc sống qua ngày.

Thành phố Huế sau những ngày khói lửa, đã khoác lại bộ mặt tươi đẹp. Người ta hồi cư khá nhiều, họ đang dọn mở cửa phố để buôn bán, công việc kiến thiết rầm rộ, nhiều người nhờ đó có công việc làm ăn khá. Mang dấu vết chiến tranh nặng nhất có lẽ là cầu Tràng Tiền, chiếc cầu xinh nhất xứ Huế, đã bị sập mất hai nhịp. Trong lúc chờ sửa chữa, người ta qua lại phải đi đò. Anh Lâm bồng con về đến thành phố Huế, thấy cảnh nhộn nhịp chốn kinh thành, nam thanh nữ tú áo quần đẹp đẽ quay lại dập dìu, anh ngao ngán tự hỏi:

_ Các con cái mình có ngày nào được sung sướng như họ không?

“Đói thì đầu gối phải bò”, anh lang thang tay bồng tay dắt, lần bước từ phố, hành khất nuôi con. Có người thương xót cảnh ngộ anh nhưng cũng có người hất hủi mắng nhiếc cha con anh không tiếc lời. Anh buồn rầu chán nản, nhiều lúc không thiết sống nữa, nhưng mỗi lần nhìn hai đứa con, anh lại thấy mình can đảm sống. Lang thang khắp nẻo phố, hễ ai thuê vác xách, khiêng gánh gì, anh làm ngay. Tối đến, anh lại đem con vào ngủ trong chợ Đông Ba, hay trong công viên.

Một hôm, lần đi sang xin bên chợ An Cựu, tình cờ anh gặp được anh Hai, người làng ở cạnh nhà anh lúc trước. Vợ chồng anh Hai có nhà ở cạnh đình làng Dương Phẩm. Anh đi làm thợ nề, chị buôn bán, kể cũng đủ sống. Thấy tình cảnh anh Lâm tội nghiệp quá, anh Hai đem cha con anh về nhà cho ở tạm để tìm việc làm. Chị Hai nghe nói chị Lâm đã mất và thằng Hùng chết đuối, chị thương khóc mãi. Nhờ anh Hai cậy người quen biết xin giúp, nên sau vài tuần, anh Lâm được vào làm việc trong xưởng cưa máy gần đó.

Sau một năm ở nhờ nhà anh chị Hai, anh Lâm dành dụm được ít tiền, nối thêm một căn nhỏ cạnh nhà anh chị Hai để ở cho rộng rãi. Huệ đã có thể nấu ăn và lo lắng cho em Mai, nên anh Lâm chỉ nhờ chị Hai mua giúp gạo và thức ăn, chớ không nhờ chị nấu ăn như trước nữa. Nhà anh Hai ở ngay trong đất đình làng Dương Phẩm, ngôi đình này tạm thời người ta dùng làm trường học cho các trẻ con trong vùng. Anh Lâm thấy Huệ bị thất học đã lâu, nên cho nó theo học ở đó. Buổi trưa đi làm về, cha con lại hì hục thổi cơm ăn.

Thấm thoát, cha con anh Lâm hồi cư đã được 7 năm. Mai đã lên tám, anh cho nó đi học trường An Cựu, vì lớp học tư ở đình Dương Phẩm đã bỏ. Mai càng lớn càng ngoan ngoãn dễ thương. Huệ năm nay đã 18 tuổi. Nàng đi học được bốn năm rồi bỏ học, theo chị Hai buôn bán dưới chợ An Cựu. Đau khổ đã đè nặng lên vai nàng lúc mới lên 9, nhưng trời xanh không nỡ bỏ người thiếu nữa nghèo nàn, cho nên Huệ càng lớn lên càng xinh đẹp. Nét mặt thùy mị, đôi mắt huyền phảng phất một vẻ buồn trang nghiêm, nàng giống hệt mẹ nàng lúc trước. Đã đẹp người, nàng còn đẹp nết. Tính tình nàng đằm thắm, nết na, ăn nói lễ độ, láng giềng ai cũng cảm phục. Nhiều cha mẹ đã ngỏ ý cầu thân cho con mình. Nhưng trước bao nhiêu hứa hẹn, nàng vẫn nhã nhặn chối từ, viện lẽ còn phải giúp cha già, em dại.

Phần anh Lâm, ngày ngày đi làm trong xưởng, công việc nhiều, người làm đông, nên anh khuây khỏa được nỗi buồn. Nhưng những ngày nghỉ việc, anh lại bâng khuâng nghĩ đến vợ hiền, đến nấm mồ của vợ ở nơi xa xôi, có khi đã bị dế đùng cỏ lấp, không một ai thăm viếng. Nhìn dòng sông An Cựu lặng lờ chảy, anh liên tưởng đến Hùng, đứa con trai độc nhất đã bị vùi sâu trong lòng sông Mỹ Chánh. Anh chỉ còn một chút an ủi trên hai đứa con còn lại. Mỗi buổi tối, dưới ngọn đèn dầu leo lét, anh sung sướng ẵm Mai vào lòng, mỉm cười nghe con thỏ thẻ và nghe Huệ kể chuyện buôn bán ngoài chợ. Câu chuyện đi lại chỉ có thế, mà có nhiều đêm cha con trò chuyện với nhau mãi đến khuya mới đi ngủ.

Một buổi tối mùa đông, trời lạnh lắm. Huệ bỏ thêm củi vào bếp rồi bắc ghế mời cha lại sưởi cho đỡ lạnh. Hơi lửa nóng làm mặt nàng đỏ bừng đỏ. Chợt nhìn con, anh Lâm cau mặt suy nghĩ. Con Mai đã ngủ thiếp đi trong tay, anh nhẹ nhàng đứng dậy đặt con vào giường, đắp chăn cho nó rồi trở lại bếp lửa gọi Huệ:

_ Huệ ơi!

Huệ đang bỏ thêm củi để giữ cho lửa khỏi tắt, ngạc nhiên ngẩng đầu lên hỏi:

_ Ba gọi con?

Anh Lâm nhìn con, ngập ngừng một lúc rồi mới nói:

_ Huệ à, con đã khôn lớn rồi, ba khuyên con nên chọn một nơi nào để nương tựa, chứ con nhất định ở vậy rồi sau này đời con sẽ ra làm sao? Người con gái chỉ có một thời hoa nở…

Huệ nhìn cha, nước mắt chảy vòng quanh, mếu máo:

_ Sao ba nói đến chuyện ấy làm gì? Bây giờ ba đã yếu nhiều, mà em con còn nhỏ dại, con lòng nào bỏ ba như thế được. Và rồi thiên hạ sẽ chê cười con là hạng bất hiếu chỉ biết hạnh phúc riêng mình mà để cho cha mẹ khổ. Đời con sẽ ra sao con không lo, con chỉ ước ao một điều là được ở với ba lâu dài, để đền ơn ba đã vất vả nuôi con bấy lâu. Nếu anh Hùng con còn sống thì ba bảo sao con cũng nghe, nhưng nay anh con…

Huệ òa lên khóc, không nói được nữa, anh Lâm nghẹn ngào, vuốt tóc con, dịu dàng:

_ Thôi con đừng khóc nữa, ba để tùy ý con!

Đêm ấy anh Lâm trằn trọc mãi không sao ngủ được. Nhớ đến vợ, đến con, bao nhiêu kỉ niệm êm đềm, cay đắng lần lượt diễn lại trong trí, anh thở dài áo não. Đêm về khuya càng lạnh. Ngoài trưa mưa rỉ rả, gió bấc thổi từng cơn, lùa gió lạnh qua khe cửa vào nhà, anh cảm thấy lòng anh như một bãi tha ma…

Chương 04

Sau mấy ngày trông đợi, sáng hôm nay, Hùng và Minh, hai anh em dắt tay nhau ra trường Nguyễn Tri Phương xem kết quả kỳ thi Trung học. Sân trường đã chật ních học sinh, và một số phụ huynh cũng tới xem kết quả con mình. Vẻ mặt ai nấy đều lo âu, lẫn một cảm giác háo hức khó tả. Dưới hiên trường, các giáo viên chấm thi, thỉnh thoảng qua lại vội vàng. Hùng và Minh chen vào trong hiên, để nghe cho dễ.

Tám giờ, người gác trường điểm một hồi trống báo hiệu đến giờ tuyên bố kết quả. Tiếng cười nói đang huyên náo bỗng im bặt. Ông Giám khảo và các vị chấm thi tề tựu dưới mái hiên, gần bậc thang lên xuống. Ông Giám khảo nói vài lời khen ngợi các thì sinh trúng tuyển và khích lệ những thí sinh không may, đoạn một giáo sư trẻ tuổi cầm tập danh sách bước ra. Mọi người như nín thở, hồi hộp lắng tai nghe. Bảng danh sách sắp thứ tự số hiệu thi chứ không sắp theo thứ hạng. Giọng vị giáo sư xướng danh nghe sang sảng, người đứng cuối sân vẫn nghe rõ. Một số người cao tên, biết được kết quả trước. Kẻ thi đậu sung sướng chạy ra đường reo to lên, người hỏng thì ngậm ngùi lau nước mắt, miệng méo xệch cúi đầu buồn bã ra về. Bao nhiêu năm đèn sách, hy vọng hay ngã lòng ở giây phút quan trọng này! Kẻ biết được kết quả ra về dần. Sân trường thấy quang đi một chút, lúc này không được trật tự yên lặng như lúc đầu. Thỉnh thoảng vài tiếng cừơi sung sướng vang lên, và cũng có nhiều tiếng khóc nức nở lẫn tiếng nói xì xào…

Khi nghe gần đến số hiệu mình, Hùng cảm thấy hồi hộp lạ thường, tim đập mạnh, như muốn vọt ra ngoài lồng ngực! Số 190, 195,199 rồi số 200, Nguyễn Sĩ Hùng! Chao ôi! Hùng sung sướng quá, tưởng thét lên một tiếng thật to cho thỏa! Nhưng chàng nhìn sang Minh, thấy em đang há hốc miệng nhìn anh, Hùng lại giữ nét mặt bình thản nắm lấy tay em. Tay Minh ướt đẫm mồ hôi, Hùng nghĩ bụng, nếu Minh hỏng, thì thà mình đừng đậu thì hơn. Nhưng chàng lại tự bảo:

_ Không có lẽ, bài vở Minh còn chắc hơn của mình nhiều.

Tiếng rao của vị giáo sư vẫn vang lên đều đều. Bây giờ đến lượt Minh hồi hộp lo sợ. Số 260, rồi cách quãng qua 270, Minh sợ hãi ôm lấy ngực nhưng rồi lại nghe số 271 và 272. Hoàng Trọng Minh! Minh mừng quá, ôm chầm lấy Hùng, reo to lên! Hùng vội vàng bịt miệng em dẫn ra cổng. Anh em nắm lấy tay nhau sung sướng đến chảy ra nước mắt!

Trên đường về, Hùng và Minh cười nói không ngớt. Anh em cùng kể cho nhau nghe giây phút hồi hộp lúc đợi chờ và nỗi sung sướng khi nghe xướng đến tên mình. Thỉng thoảng Minh lại nhảy cẩng lên như trẻ con. Đi về được một quãng, Minh đứng lại đề nghị:

_ Anh Hùng ạ, chúng ta sang phố xem một chầu “Ciné” ăn mừng rồi hẵng về!

Hùng gạt đi:

_ Về nhà cho cậu mợ biết đã, em ạ. Chắc cậu mợ đang mong chúng mình. Có khi tối nay cậu mợ lại cùng đi xem phim với chúng mình nữa!

Minh tán thành:

_ Ờ phải, về nhà đã anh nhỉ! Rồi tối nay có cả cậu mợ cùng đi, vui quá, vui quá!

Minh vừa đi vừa nhảy, Hùng lúc này trầm ngâm, cúi đầu rảo buớc, chứ không háo hức như lúc mới ra khỏi cổng trường. Minh ngạc nhiên đứng lại hỏi:

_ Anh Hùng nghĩ gì thế? Anh đang dự định học hè phải không anh?

Hùng đang mãi nghĩ chuyện gì, nghe không rõ, hỏi lại:

_ Em nói cái gì? Học hè à?

_ Phải, anh có định học hè để sang năm lên lớp cho vững không?

Hùng nhìn em:

_ Có lẽ em nên học một ít. Phần anh, có lẽ anh sẽ thôi…

Minh cướp lời anh:

_ Tại sao lại thôi? Cậu mợ hứa nếu anh em mình thi đậu sẽ cho tiếp tục học kia mà?

Hùng nghiêm trang bảo em:

_ Anh cũng biết thế, nhưng anh thấy, được thụ ơn cậu mợ như thế này là quá lắm rồi. Anh không muốn làm phiền cậu mợ nữa. Nếu cậu mợ không thương cứu vớt, thì anh đâu còn đến hôm nay? Huống nữa, anh lại được cậu mợ coi như con đẻ, cho học hành, bây giờ được thành đạt như thế này, lòng anh đã mãn nguyện lắm!

Minh tỏ vẻ không bằng lòng:

_ Mà bây giờ cậu mợ vẫn thương anh như trước. Còn em, em vẫn coi anh như anh ruột của em. Cậu mợ đã hứa cho đi học, thì anh cứ đi, tại sao anh lại có vẻ bi quan như thế?

_ Không, anh có bi quan gì đâu em? Sở dĩ anh muốn thôi học là vì anh thấy độ rầy cậu mợ buôn bán không được như lúc trước. Anh định kiếm việc để thêm vào cho cậu mợ bớt vất vả.

Minh nóng nảy:

_ Nếu thế thì em cũng thôi học. Chúng ta cùng đi làm.

Hùng phác một cử chỉ ngăn em:

_ Không, em đừng nghĩ thế. Em cứ theo học cho đến nơi đến chốn, một mình anh đi làm đủ rồi. Với lại không phải vì lý do trên mà anh thôi học đâu, anh còn một vấn đề khác nữa. Em biết, anh lạc gia đình đến nay đã bảy năm. Bảy năm anh lo lắng tìm tòi, nhưng chưa được tung tích gì. May sao kỳ Tết vừa rồi, một người làng tin cho anh biết: Một hôm anh ấy đi xe đò qua cầu Tràng Tiền, tình cờ thấy ba của anh đang đi bộ trên cầu. Như thế có thể đoán được là gia đình anh đang ở đâu gần đây trong thành phố này. Anh ra đi làm, chắc có thể dò hỏi dễ dàng hơn.

Minh thấy anh nói có lý, không can nữa, nhưng hỏi thêm:

_ Thế bây giờ anh định làm việc gì?

Hùng mỉm cười:

_ Công việc gì làm cũng được. Nhưng theo sở thích anh, thì anh đi dạy học. Nghề dạy học ít được người ta chú ý đến và hình như bị khinh rẻ. Nhưng đó là một nghề cao quý nhất: đào tạo những mầm non cho đất nước. Nếu mình cố gắng làm trọn phận sự, thì giúp ích cho xã hội không phải nhỏ!

Trên con đường về, anh em lại vui vẻ, cùng nhau tính toán công việc ngày mai. Ông bà Hương khi biết quyết định của Hùng, ban đầu ông bà không bằng lòng nhưng thấy chàng nhất quyết, đành để tùy chàng. Một người bạn cùng thi đậu tới thăm Hùng và cho biết Nha Học chánh sắp mở một khóa sư phạm cấp tốc trong ba tháng hè, để tuyển dụng một số giáo viên cho niên học tới. Hùng vui mừng xin phép cậu mợ cho đi ghi tên. Suốt ba tháng học tập, Hùng tỏ ra rất xuất sắc. Mãn khóa chàng được tuyển dụng và được bổ về dạy lớp ba trường An Cựu, theo lời chàng yêu cầu. Hùng sung sướng về báo tin cho cậu mợ và em biết.

Ngày khai giảng, ông Hương cùng đi với Hùng xuống trường. Ông Hiệu trưởng và các giáo viên tiếp đón Hùng rất niềm nở. Mới bước chân vào giáo giới, Hùng bỡ ngỡ ngại ngùng. Các cô cậu học trò tụm năm tụm bảy tò mò nhìn thầy giáo mới. Một vài tuần sau, Hùng đã làm quen với các giáo viên cùng trường và học trò lớp ba đã bắt đầu mến thầy. Đến giờ chơi, Hùng thường đứng nói chuyện với ông Hiệu trưởng và các bạn giáo viên dưới hiên trường, hoặc đi bách bộ giữa sân xem học trò chơi.

Một buổi sáng, chưa đến giờ học, Hùng đang nói chuyện với các bạn, chợt thấy một thiếu nữ tay dắt em gái chừng 7, 8 tuổi bước vào văn phòng ông Hiệu trưởng, Hùng ngây người nhìn theo, vì nét mặt và dáng đi dịu dàng của người thiếu nữa lại giống hệt mẹ chàng khi trước. Hùng toan bước lại gần cửa văn phòng để xem cho rõ hơn, nhưng chợt nhớ mình đang nói chuyện với các bạn, Hùng thẹn thùng đỏ mặt, vờ quay về phía sau, ho lên vài tiếng. Chàng nói với các bạn:

_ Xin lỗi các anh, không hiểu sao tôi thấy choáng váng trong người!

Thầy giáo lớp nhì thành thật:

_ Chúng ta đứng chỗ này có ánh nắng chiếu vào, hay chúng ta lại đàng kia nói chuyện và xem học trò chơi luôn thể.

Hùng uể oải bước theo, một cảm giác lạ lùng xáo trộn đầu óc chàng. Các bạn nói chuyện mà Hùng chẳng nghe gì nữa. Lâu lâu, chàng lại liếc nhanh về phía phòng ông Hiệu trưởng. Chàng tự hỏi: Cô nào đó sao lại giống mẹ mình thế nhỉ? Có lẽ cô ta đem em đến xin vào học. Không biết còn trong văn phòng hay về rồi?

Đang phân vân bỗng nghe ba tiếng trống, Hùng vội vã đi về lớp. Chàng có ý đi ngang qua văn phòng để xem, nhưng cô gái đã ra về từ lúc nào, chỉ còn một mình ông Hiệu trưởng đang chăm chú ghi chép. Hùng thở dài giận mình đã bỏ lỡ một cơ hội tốt. Từ hôm ấy, Hùng mất bình tĩnh, không hoạt động như trước nữa. Hình ảnh người thiếu nữ và em bé luôn luôn hiện ra trong trí chàng. Đến giờ giải trí, chàng hay tản bộ vào giữa đám học trò lớp năm, lớp tư để dò xem em bé hôm trước. Nhưng vì học trò đông, một lớp học buổi mai, một lớp học buổi chiều, nên khó lòng mà tìm được. Ở nhà Hùng ngồi âm thầm, ít trò chuyện với cậu mợ và em Minh như mọi ngày. Ông bà Hương đều lấy làm lạ sự thay đổi bất ngờ của Hùng, nhưng họ lại nghĩ, có lẽ vì chàng quá lo lắng việc bổn phận.

Một hôm bãi học, Hùng lên xe đạp về nhà. Gần đến chợ An Cựu, chảng chợt thấy em bé hôm kia đang đi trước mặt. Chàng mừng quýnh, nhảy xuống xe, toan gọi lại hỏi thăm. Nhưng chỗ ấy gần chợ, người ta qua lại đông, em bé cũng đang đi với nhiều đứa khác, chàng sợ người ta để ý nên thôi. Chàng đẩy xe đạp thong thả theo sau. Đến cầu An Cựu, thấy em bé đi thẳng theo đường dọc bờ sông, chàng liền đem xe đạp gởi vào nhà quen bên cạnh, rồi rảo bước theo. Quá An Định Cung một quãng, Hùng thấy em bé đi vào trong sân đình Dương Phẩm, đến trước một túp nhà nhỏ, chàng vờ xem sách để nghe ngóng. Em bé đứng trước nhà gọi:

_ Chị ơi! Em đi học về rồi, chị à!

Có tiếng dịu dàng ở dưới bếp nói vọng lên:

_ Mai về đó à, để chị lên mở cửa cho em!

Hùng vội vã đi lui, sợ có người bắt gặp. Chàng phân vân:

_ Mai! Mai! Đúng là tên em sau hết của mình. Hay chính đó là em Mai của mình?

Hùng ra về vừa sung sướng vừa lo. Trong đầu óc chàng rộn lên bao nhiêu ý nghĩ:

_ Có phải em Mai của mình không, hay là con nhà ai trùng tên ấy. Sao người chị của em Mai lại giống mẹ mình thế?

Bỗng chàng reo lên một tiếng:

_ À, mình cứ hỏi mẹ nuôi, xem nhà ấy là của ai, tự khắc sẽ ra manh mối!

Nghĩ thế, Hùng về nhà vui vẻ hơn mọi ngày. Cơm nước xong, ông Hương ngồi đọc báo, bà Hương đang nhẩm tính lại các món hàng bán trong ngày. Minh chăm chú ngồi học, Hùng ngồi chấm bài bên cạnh em, nhưng kỳ thực chàng đang nghĩ đến em bé hồi chiều. Lòng chàng háo hức muốn biết gấp manh mối túp nhà nhỏ bé ấy. Sau cùng chàng đánh bạo quay sang hỏi mẹ nuôi:

_ Mợ à, cái nhà nhỏ ở sát phía dưới đình Dương Phẩm là của ai thế mợ?

Bà Hương ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn Hùng mỉm cười:

_ Thầy giáo Hùng mà cũng biết nhà ấy à?

Hùng ngạc nhiên, chăm chú nhìn bà Hương. Minh đang mải học, nghe thế cũng ngẩng đầu lên nhìn mẹ như có ý hỏi.

Bà Hương chậm rãi:

_ Nhà ấy của ông tên gì mợ không biết. Chỉ biết ông ta làm nghề thợ mộc, có hai cô con gái, cô gái đầu chừng 16, 17 tuổi. Nội xóm đó, ai cũng khen tính nết cô. Mợ có gặp cô ấy buôn bán ngoài chợ, người thùy mị đoan trang lắm. Nghe đâu đã có nhiều người đi nói mà cô không chịu, viện lẽ còn phải nuôi cha, nuôi em. Đứa em cô, mợ chưa thấy, người ta nói chừng 7, 8 tuổi. Thế anh Hùng đã gặp cô ấy rồi à?

Hùng thấy mợ nuôi hiểu lầm, nhưng chưa tiện nói ra ý mình, nên chàng nói quanh:

_ Con cũng chưa gặp cô ấy lần nào, nhưng nghe người ta bàn tán, nên hỏi thăm mợ vậy thôi.

Ông Hương và Minh nhìn Hùng, cười hóm hỉnh. Liên tiếp mấy hôm sau, Hùng cố tìm dịp, nhưng lại ngại ngùng sợ rằng người ta tưởng lầm chàng muốn cầu thân với cô gái nhà ấy. Mợ nuôi chàng mà còn hiểu lầm như thế, huống là kẻ khác!

Chương 05 (hết)

Một buổi sáng chủ nhật, trời mưa rỉ rả, khí trời lành lạnh: ngoài đường thỉnh thoảng mới có người qua lại, Hùng nghĩ thầm:

_ Đây là dịp rất tốt, mình thử đánh bạo lên hỏi thăm nhà ấy xem sao. Nếu mình lầm thì cũng không ai biết mà cười. Đối với nhà ấy, thì mình thiếu gì cách để nói!

Nghĩ là làm, Hùng đứng dậy khoác áo mưa dắt xe đạp ra cửa. Bà Hương ngồi nơi quầy hàng trông thấy hỏi:

_ Trời mưa ướt át thế này, con đi đâu cho khổ?

_ Thưa mợ, con đến nhà anh bạn có chút việc cần!

Đến gần cây đa cạnh đình, Hùng xuống xe trông trước sau. Đường sá vắng người, làm cho chàng thêm vững dạ. Chàng rón rén dắt xe vào sân đình, dựng vào gốc đa, rồi bước nhẹ đến trước cửa. Cửa đóng kín, chàng thất vọng, toan ra về, bỗng chợt nghe tiếng nói chuyện dưới bếp vọng lên. Chàng vào dưới mái hiên cởi áo mưa, ngập ngừng một lúc rồi mới gõ cửa. Có tiếng giục:

_ Ba về! Em chạy lên mở cửa cho ba!

Có tiếng guốc đi lên, rồi cánh cửa mở hé ra, em bé Mai nhìn Hùng, ngạc nhiên ấp úng chào:

_ Thưa thầy!

Hùng trấn tĩnh:

_ Ba con có ở nhà không?

_ Thưa thầy, ba con vừa đi chơi đâu đó, để con hỏi chị con.

Bé Mai định chạy xuống bếp hỏi chị thì tiếng chị ở dưới bếp hỏi vọng lên:

_ Ai thế em Mai?

Mai đang lúng túng, nghe tiếng chị hỏi, vội vàng chạy xuống:

_ Chị ơi, thầy giáo dưới trường em học đến hỏi thăm ba!

Huệ nghe nói có người lạ, vội vàng rửa tay bước vội lên. Hùng chưa hề nói chuyện với một người thiếu nữ nào, nên khi thấy Huệ, chàng có vẻ ngại ngùng. Huệ cũng thế, nàng đỏ mặt bẽn lẽn cúi đầu chào:

_ Thưa thầy, thầy hỏi thăm ai?

Hùng đánh bạo:

_ Thưa cô, tôi có chút việc cần muốn gặp ông nhà, không ngờ ông đi vắng. Thôi, xin lỗi cô, để khi khác tôi trở lại.

Linh cảm có việc gì quan trọng sẽ xảy ra, Huệ thưa lại:

_ Thưa thầy, ba em đi sang mua thuốc ở nhà gần đây, có lẽ cũng sắp về rồi. Xin thầy ngồi đợi ba em một lát.

Một tiếng động nhẹ, cánh cửa mở rộng thêm, anh Lâm bước vào vừa cởi áo mưa, không để ý có Hùng đang đứng đó. Huệ nhìn Hùng:

_ Thưa thầy, ba em về đó!

Vừa trông thấy, Hùng đã nhận được cha mình, tuy ngày nay có già đi hơn trước. Chàng chạy ngay lại trước mặt, la lên:

_ Ba ơi! Con là Hùng đây! Hùng của ba đây!

Anh Lâm chợt thấy Hùng, cũng hơi ngờ ngợ, nhưng khi vừa nghe Hùng xưng tên, anh nhận ra được con ngay. Hai cha con ôm choàng lấy nhau, sung sướng quá sức, nghẹn ngào không nói lên lời. Bé Mai há hốc miệng đứng nhìn, không hiểu sao thầy giáo lại ôm lấy ba mình mà khóc. Huệ tuy xa cách anh đã lâu, nhưng vẫn còn nhớ phảng phất nét mặt của anh, nên khi nghe tên Hùng, nàng cũng nhận ra được anh. Nàng chạy lại nắm lấy tay anh, khóc òa lên vì sung sướng quá. Bao nhiêu năm trời lạc nhau, khóc lóc tìm kiếm nhớ thương, giây phút cha con anh em được gặp mặt nhau, ai tả hết được nỗi lòng vui sướng?

Nức nở hồi lâu, anh Lâm mới lau nước mắt, bảo Hùng:

_ Trời ơi! Ba cứ tưởng con không còn nữa! Ai ngờ nay được trông thấy con lớn khôn mạnh khỏe như thế này! Con ngồi xuống đây, kể lại cho ba và các em nghe làm sao mà con thoát chết và ai đã cứu con, nuôi nấng con bấy lâu?

Hùng ngồi xuống ghế, ẵm em Mai vào lòng. Huệ ngồi sát bên anh, như muốn thông sang người anh hết nỗi sung sướng tràn ngập trong lòng nàng. Anh Lâm kéo ghế ngồi ngay trước mặt Hùng, nghe Hùng kể chuyện. Thỉnh thoảng cha con lại nấc lên, vì cơn xúc động vẫn còn dào dạt trong lòng. Cha con cùng kể cho nhau nghe những ngày xa cách. Hùng khóc sụt sùi khi nghe lại những nỗi gian khổ mà cha và hai em đã gặp từ lúc lạc mất chàng.

Anh Lâm nóng lòng muốn gặp ông bà Hương để cám ơn tấm lòng quý hóa ông bà đã thương giúp con anh bấy lâu. Vợ chồng anh Hai và các người lân cận nghe tin anh Lâm gặp được con, kéo nhau đến chia vui, chuyện trò huyên náo. Tin về dưới nhà, ông bà Hương và cả nhà kéo lên, ai nấy đều vui mừng hớn hở. Nhà quá chật, chị Hai bảo Huệ sang bên nhà chị nấu ăn. Bà Hương và chị Hai xuống chợ mua thức ăn để về dọn tiệc mừng. Một vài người bạn làm cùng xưởng với anh Lâm cũng đến mừng anh. Anh Lâm ân cần mời mọi người ở lại dùng bữa cơm chia vui cùng anh. Hùng tươi cười, hết trả lời câu hỏi người này lại tiếp chuyện với người khác. Căn nhà bé nhỏ từ lâu im vắng, nay vang lên những tiếng nói cười. Bên nhà chị Hai, bà Hương và người làm công đang vội vã giúp Huệ nấu dọn, thỉnh thoảng bà lại nghỉ tay liếc mắt nhìn Huệ làm việc. Nỗi vui sướng tràn ngập trong lòng, khiến nét mặt nàng càng thêm xinh đẹp.

Trước khi vào tiệc, ông Hương vui vẻ nâng chén rượu chia vui với anh Lâm và Hùng, sau bao nhiêu năm cha con xa cách, nay lại được đoàn tụ. Tuy từ sớm đến giờ, Hùng đã kề nhiều lần, câu chuyện chàng được cứu vớt và tìm lại được gia đình như thế nào, nhưng ý anh Lâm muốn tỏ lòng biết ơn ông bà Hương nên xin Hùng kể lại một lần nữa cho rõ. Ai nấy đều tán thành, vì thật ra, kẻ đến trước, người đến sau, chưa có người nào được nghe rõ ràng cả. Hùng vui vẻ đứng lên kể lại:

“Hôm ấy, khi hai chiếc máy bay tới bắn, một người bộ đội sợ quá, nhảy xuống nước bơi vào bờ. Chiếc đò mất thăng bằng, chao đi rồi lật úp xuống. May nhờ con ở đằng mũi thuyền, bị văng ra xa, nên không bị ai nắm phải. Con cố sức bơi vào bờ, nhưng vì nước chảy siết, con cố không lại, bị nước cuốn đi. Tình cờ con vớt được một chiếc nón đang trôi, con liền lật úp lại vịn hai tay vào cho nó trôi. Bởi con sợ quá nên uống nước nhiều. Con bị trôi được một quãng thì mê man không biết gì nữa.

Đến lúc con tỉnh lại, thì thấy cậu mợ nuôi con đây và em Minh đang đứng quanh con, người thì xao bóp, người đốt lửa sưởi. Thấy con tỉnh lại, ông bà kể cho con nghe: Chiều hôm đó, ông dẫn em Minh đi tắm, vừa xuống khỏi bến, liền thấy con trôi qua, ông vội vàng bơi ra vớt con vào. Ông tưởng con đã chết, nhưng sờ ngực thấy còn nóng, liền bồng về nhà, vừa đi vừa làm cho nước trong mình con ra, nhờ ông có học được cách cấp cứu khi ở trong Hướng đạo. Mãi đến gần nửa đêm con mới tỉnh lại. Ông bà vui mừng hứa với con, sẽ đi tìm ba con. Không ngờ, vì con bị nước ngấm vào người lâu, nên sáng ngày hôm sau, con bị sốt nặng và cơn bệnh kéo dài mãi đến gần nửa tháng mới đỡ. Ông bà vì lo săn sóc cho con, không có thì giờ đi tìm ba con. Ba con khi ấy lại tìm kiếm con bên kia sông mà con thì ở xóm bên này sông, thành ra cha con lạc nhau từ đó. Khi con khỏe lại, không tìm được gia đình, cậu mợ vui lòng nhận con làm con nuôi. Hồi cư về đây, con được đi học theo em Minh. Thật con nhờ cậu mợ con mà được sống và được học hành cho đến ngày hôm nay…”

Mọi người, nhất là anh Lâm đều nhìn ông bà Hương cách trìu mến.

Hùng kể qua chuyện nhờ đi dạy học mà gặp được em Huệ. Tuy 7, 8 năm không gặp, nhưng vẻ mặt và dáng điệu của em giống mẹ ngày trước, nên đã cố công dò hỏi cho được. Cũng vì thế, mà cậu mợ nuôi và em Minh đã hiểu lầm, tưởng chàng ý khác…

Hùng kể đến đó, mọi người reo cười vang nhà. Huệ sung sướng ngước mắt nhìn anh, nhưng nàng lại e lệ cúi đầu xuống, vì nàng thấy ông bà Hương và Minh đang chăm chú nhìn mình…

  Kỷ niệm 1954

Nhật Lệ Giang