Trong Đêm Giông Bão - Chương 3 & 4

Chương 03

A-GIÁT

Mỗi sáng, trước khi đi học, thằng Phú đều nhờ dì Mai để ý săn sóc trông nom dùm con chó. Buổi trưa nó ở lại trường, chiều mới về.

Sáng nào cũng vậy, A-Giát vào trong nhà, đứng sát bên ghế thằng Phú, ăn một tô lớn cháo khoai nấu lẫn với đồ ăn còn dư từ chiều hôm trước, trong khi Phú ta ngồi ăn xôi, hoặc bánh mì, uống sữa trước khi phóng xe đến trường. Gia Viễn ở cách nhà khoảng mười cây số. Đường đi gồ ghề nhiều ổ gà, nhưng cũng chỉ nửa tiếng đồng hồ chạy xe là tới nơi.

Trước khi đi, bao giờ thằng Phú cũng nhốt A-Giát vào vựa rơm, chiều về mới thả ra. Mỗi khi chiều xuống, đoán chừng “bạn” sắp về tới, con chó vui mừng ra mặt. Nghe tiếng xe máy nổ ròn, nó lồng lộn rú rít nghe mà phát khiếp! Cửa mở! A-Giát phóng ra, chồm lên thằng Phú, nhảy cẫng, kêu hộc lên vô cùng thích thú. Nó đặt hai chân lên vai thằng nhỏ như muốn thách thức so tài. Thế là thằng Phú vật nhau với A-Giát, cả hai lăn tròn trên bãi cỏ, biểu diễn một màn cận chiến thật gây cấn. Con chó chỉ nhằm dằn ngửa được người. Ngược lại, thằng Phú cũng chỉ rình vật ngã A-Giát, bắt nằm dài trên mặt đất. Chuyện ấy không dễ gì vì con chó lực lưỡng khỏe hơn cậu chủ rất nhiều. Nhưng rồi nhờ thông minh, ranh mãnh hơn, Phú chộp được hai chân trước A-Giát, quàng qua vai mình, giữ chặt, đồng thời ghé lưng vào bụng con chó… cõng nó bổng hẳn lên. Thằng nhỏ reo lớn: A-Giát thua rồi! Cả hai đều mệt nhoài. Phú ta muốn hụt hơi, còn con chó thì thở hồng hộc, thè cái lưỡi rãi rớt nhểu dài. Lúc đó thằng Phú mới chịu về tắm rửa, sửa soạn ăn cơm.

Cơm xong, học bài làm bài xong đâu đấy, nó xuống nhà ngồi vào bàn với cậu, tập sửa chữa đồng hồ.

Ông Mẫn thường răn dạy cháu:

- Học vấn mở mang trí óc. Điều đó tốt đẹp và cao quý lắm. Nhưng bên cạnh trí óc, còn có hai tay. Cậu rất thương hại những người “không” tay.

Thằng Phú tuân theo lời cậu, những khi rảnh rỗi, cố học cách ráp các loại đồng hồ. Bộ phận riêng rẽ do một hãng chế tạo dưới Saigon gởi lên. Trước lạ sau quen, dần dà nó lắp được những loại đồng hồ tối tân nhất.

Ông Mẫn là một người có lòng vị tha. Đối với phần đông các đồng bào trong thôn xóm cũng như tại các làng xã lân cận không có gì gọi là dư dả lắm, ông tính giá sửa chữa rất rẻ, dù phải căm cụi làm việc suốt ngày. Ngay cả về mùa Đông lạnh lẽo, ông cũng thức rất khuya để hoàn tất những chiếc đồng hồ cần lấy gấp.

Mỗi tuần, vào buổi chiều thứ bảy, ông lại lôi sổ tay ra, tính toán, trả cho thằng Phú tiền công “phụ tá”, minh bạch rạch ròi y như một ông chủ hãng trả tiền lương cho công nhân thợ thuyền của mình vậy. Nhờ đó, Phú ta luôn luôn có sẵn một số tiền túi để chi dùng vào những món tiêu cần thiết.

Một buổi chiều kia, nhằm ngày thứ ba, hai cậu cháu đang cặm cụi làm việc thì ông quản Ru bước vào. Viên hạ sĩ quan Quan thuế rất đỗi ngạc nhiên khi thấy con chó A-Giát soải mình nằm thoải mái trên sàn nhà sát bên chân thằng Phú:

- Ủa! Bác cứ đinh ninh là con chó thế nào cũng tìm đường quay về biệt thự ông Hội đồng Cổn và rồi ở đó không ai nỡ nhẫn tâm xua đuổi nó lần nữa chứ. Thế ra cháu lại tìm thấy nó ở trong rừng, rồi đem về nuôi?

- Vâng ạ!

Thằng Phú nhớ đến đám thú vật xinh xinh bạn nó đang nuôi. Thằng Phan thường âu yếm gọi con thỏ hung đỏ: Út Đô! Út Đô! Và con sóc què một chân: Chi My! Chi My!

Út Đô, Chi My thật tinh khôn, mến chủ, khiến thằng Phú thấy mà phát thèm. Nó chỉ mong ước có được một con vật riêng biệt của mình như thế. May mắn sao, chủ nhật vừa qua, con chó Lài A-Giát lại về tay nó trong trường hợp hết sức đặc biệt.

Con chó khôn ngoan theo nó không rời một bước, như bóng theo hình. Cậu Mẫn, dì Mai cũng quý A-Giát, “thằng bạn rất thân” của đứa cháu cưng.

Con chó tuy bị hai mắt đui mù nhưng vẫn thuộc chỗ các món đồ đạc kê trong nhà nhờ bản năng đặc biệt của linh vật thiếu sót hư hỏng một giác quan. Nó đi ra đi vào, xê dịch từ chỗ này qua chỗ kia thật dễ dàng như một con vật vẫn còn đủ hai mắt tinh tường vậy.

Hôm sau, thứ tư, vào khoảng sáu giờ chiều, dì Mai vào vựa lấy một ít rơm trải ổ cho chó. Lúc quay ra, bà vô tình quên không cài chốt cửa. Sực nhớ ra, quay lại, đã không thấy con chó đâu nữa. A-Giát phóng thẳng một mạch qua đồi sim, lội qua một đám ruộng rộng mênh mông, leo hai con đường dốc, nhắm hướng Gia Viễn, cong đuôi chạy như bay. Giờ đó thằng Phú cũng đang cưỡi xe gắn máy, bon bon trên đường về. Qua khỏi trạm Đa Nội chừng ba bốn trăm thước, người và chó gặp nhau. Con A-Giát đã vượt một quãng đường dài hơn sáu cây số đi tìm tiểu chủ.

Sáng hôm sau, thứ năm, được nghỉ hai giờ đầu, thằng Phú vẫn dậy sớm như thường lệ, xuống nhà dưới, đã thấy cậu Mẫn lúi húi làm việc. Dì Mai đang chiên cơm trên bếp lửa. Thấy mặt cháu, bà hỏi ngay:

- Ngủ ngon không, Phú?

- Cháu ngủ ngon lắm dì Mai. Suốt đêm không trở mình nữa mà.

- Ngủ ngon thế chắc nằm mơ thú lắm? Cháu mơ thấy gì nào?

Thằng Phú cố che giấu một nụ cười. Nó biết trước là bà dì thế nào cũng hỏi nó câu đó. Dì Mai, tâm hồn chất phác, nên luôn luôn tin tưởng vào tính chất tiền báo của các giấc mơ.

- Cháu nằm mơ thấy chim, dì Mai ạ! Nhiều thật là nhiều chim. Nó bay… chu choa!

- À, á! Phải rồi! Nhiều chim lắm! Chúng bay vào đầy phòng cháu ngủ, lượn quanh mình cháu xong lại đua nhau tíu tít bay ra. Có con đâm cả đầu vào tường, đập cả mình vào thành cửa sổ. Biết rồi! Biết rồi! Dì biết rõ giấc mơ ấy lắm. Phú ạ! Cháu có hiểu ý nghĩa giấc mơ ấy là gì không?

- Dạ, không.

Thằng Phú yêu mến dì Mai lắm. Nó không làm điều gì phật ý dì Mai bao giờ. Nó thấy dì khoái chuyện đoán điềm giải mộng nên chăm chú đứng nghe cho dì nó vui lòng.

- Năm mơ thấy nhiều chim bay như thế tức là cháu đang có một điều gì phải suy nghĩ hung lắm đó. Suy nghĩ kỹ rồi đến khi đi đến chỗ sắp sửa quyết định thì lại đâm ra do dự ngập ngừng.

- Thật hả, dì Mai?

- Thật chớ cháu. Cái gì mình thấy trong giấc mơ đều là điều tiền báo những việc sắp xảy ra. Trăm lần đúng cả trăm. Rồi đó cháu coi.

Phú ta nghe lời dì Mai nói lại đâm ra nghĩ ngợi bâng khuâng.

Đêm qua, trong giấc ngủ, quả thật nó có suy nghĩ nhiều về một chuyện. Và rồi chuyện ấy có khiến nó băn khoăn do dự ngập ngừng hay không thì chính Phú cũng không rõ.

Chỉ biết là: buổi sáng hôm ấy nó đem điều đã suy nghĩ hồi đêm ra thực hiện.

Phú chạy bay xuống nhà để xe. Rồi, trước khi đạp xe cho máy nổ, nó mở cửa vựa rơm, thả con A-Giát ra. Nó huýt gió gọi con chó:

- Huýt! Đi, A-Giát!

- Lại cho nó đi đâu thế, Phú?

Tiếng bà Mai nheo nhéo vang lên phía sau. Nhưng thằng cháu cưng đã lên đến đỉnh đường dốc và con A-Giát phi nước đại phía sau chiếc xe gắn máy nổ inh trời.

Đúng tám giờ, thằng Phú đã tới vùng ngoại ô Gia Viễn. Nó ngừng lại, xuống xe luồn dây da vào vòng đai cổ con chó, dắt theo, phòng hờ xe cộ qua lại như mắc cửi. Nhẩy lên xe chạy một quãng chừng hai trăm thước, Phú và A-Giát quẹo tay mặt, đi dọc theo đường Lô Giang. Người và vật dừng chân trước căn nhà mang số 239. Hai cánh cửa sắt lớn ngăn lối vào một khoảng sân rộng lát đá xanh. Trong sân, một chiếc xe hơi hiệu D.S màu xanh lá mạ đậu bên hông một căn nhà hai tầng cao rộng, tràn ngập ánh sáng nhờ hệ thống cửa lớn, cửa sổ lắp toàn loại mặt kính lớn và dầy. Tại một trụ cổng xây bằng đá trắng, một cái biển đồng sáng loáng lớn bằng chiếc cặp da, trên khắc mấy hàng chữ màu đen.

Thú y sĩ Lê Ngọc Vinh

Giải phẫu chiếu điện

Nhận nuôi gia súc. Vệ sinh hàng ngày.

Phú nhận nút chuông điện. Một cô y tá ra mở cửa.

- Thưa cô, tôi đến xin khám cho con chó này.

- Chú em hên quá. Bác sĩ sửa soạn lên phố khám bệnh. Chú em đưa chó vào đi.

Bác sĩ thú y đang treo chiếc áo choàng trắng lên mắc thì Phú dắt chó vào. Ông quay ra, chợt trông thấy con chó đồ sộ:

- Chú em… Ủa!... Con A-Giát đây mà!

Phú lễ phép:

- Thưa bác sĩ, đúng A-Giát đây ạ!

- Chó trên biệt thự ông Hội đồng Cổn. Tôi biết nó mà. Khám bệnh điều trị từ hồi nó mới bắt đầu hư đôi mắt kia. Tôi đã nói thẳng cho ông Hội đồng biết rằng không chữa được vì bệnh làm ngụy nhanh quá, không thuốc nào ngăn chận kịp. Bây giờ nó mù hẳn rồi còn gì. Ai sai chú em dắt nó tới đây thế? Ông Hội đồng hả? Chú em làm việc trên đó?

- Thưa bác sĩ, không phải thế. Con A-Giát bây giờ là của cháu.

Vừa nói, thằng Phú vừa ngượng ngùng xoay xoay cái mũ lưỡi trai trắng trong tay. Nhận thấy ông thú y sĩ còn đang nhướng cao cặp chân mày tỏ ý không hiểu, nó tiếp luôn:

- Cháu xin phép được nói rõ hơn.

Thế rồi, tuy giọng nói có đôi chút hồi hộp, Phú kể lại rất mạch lạc chuyện nó đã cứu con chó bị bỏ rơi. Ông nhân viên quan thuế được người ta nhờ đem nó đi bắn bỏ ra sao. Và tới phút chót, ông Quản Ru đã để cho con A-Giát tự do như thế nào.

- Và bây giờ cháu đem nó tới đây nhờ bác sĩ…

Ông thú y sĩ cảm động, nhưng không để lộ ra sắc mặt, chỉ tiếp lời chú nhỏ có lòng nhân từ bằng một giọng cố làm ra vẻ khôi hài vui vẻ:

- Trông nom săn sóc nó, khám bệnh và giải phẫu mắt cho nó. Có phải thế không? Phải giải phẫu đó chú em. Khó khăn lắm. Hy vọng thành công chỉ có một phần trăm. Con chó to đẹp thế này… Hừ! Lấy lại được đôi mắt để lại trông thấy mọi vật dưới ánh sáng mặt trời, đi đây đi đó… Một việc hay lắm. Nhưng khó quá!

Rồi ông quay nhìn cô y tá giúp việc:

- Tròng đen sưng tấy, đồng tử không còn phản ứng gì hết. E rằng không chữa được. Lần trước tôi đã khám kỹ rồi mà.

- Thưa bác sĩ, bác sĩ mới nói… còn một phần trăm hy vọng thành công.

Nói xong, thằng Phú cảm thấy lo buồn vô hạn. Khi ở nhà ra đi, nó đã khấp khởi mừng thầm đặt biết bao tin tưởng vào tài năng của vị thú y sĩ. Giờ đây, ông từ chối không chữa. Và A-Giát sẽ vẫn cứ bị mù mãi mãi. Nỗi buồn lo tràn ngập trong lòng khiến nó luống cuống không còn biết tính sao, chỉ cúi gằm mặt, run giọng nói lí nhí:

- Thưa bác sĩ, cháu có tiền… nhưng không nhiều lắm… Bác sĩ cho phép cháu được trả làm nhiều lần.

- Tiền gì? Thôi, đừng nói đến chuyện tiền nong gì hết.

Vị thú y sĩ mỉm cười ái ngại:

- Chú em rất ngoan. Muốn chữa cho nó khỏi lắm hả? Chú em thương nó đến thế kia à?

- Thưa bác sĩ vâng ạ!

- Vậy thì để nó lại đây.

- Bác sĩ bằng lòng chữa?

- Được, em cứ để nó ở lại đây.

- Trời ơi? Cháu cám ơn bác sĩ nhiều lắm.

- Chú em nhớ lời tôi nói nghe. Tôi sẽ cố gắng hết sức, nhưng kết quả cũng còn phải nhờ may rủi. Tôi giữ con chó ở lại đây đúng mười ngày.

- Bác sĩ cho phép cháu thỉnh thoảng vào thăm nó, được không ạ?

- Được chứ. Nhưng phải qua tuần sau, thứ ba hoặc thứ tư gì đó. Tôi cần theo dõi bịnh nó từ nay đến hết ngày chủ nhật. Thứ hai sẽ mổ.

Buổi chiều hôm đó, tan học ra, Phú phóng xe về Phượng Mô một mình. Thấy dì Mai ngơ ngác đưa mắt tìm con A-Giát, nó đành phải thú thực là đã đem lên Gia Viễn nhờ bác sĩ thú y chữa mắt.

Chủ nhật đến, theo thường lệ, Phú lại qua Mương lai bản với thằng Phan. Nó không hề đả động đến điều bí mật thú vị chỉ riêng mình nó biết. Trong lòng nó nghĩ thế nào mà lại đi giấu người bạn thân điều nó thích thú nhất? Không thể bảo là Phú ích kỷ được. Nó quý bạn còn hơn cả chính mình nữa. Thực ra, nó đang lo, không hiểu bác sĩ thú y Vinh mổ mắt cho con chó thân yêu của nó liệu có kết quả như ý mong muốn không. Phú có ý cố gắng đợi chờ tới khi chắc ăn trăm phần trăm đã rồi mới nói cho thằng Phan hay.

Thời gian trôi thật chậm nhưng rồi cũng đến ngày thứ hai. Không lúc nào thằng Phú không nghĩ đến A-Giát của nó. Chốc chốc, nó lại âm thầm tự hỏi rồi lại tự trả lời: giờ này có lẽ A-Giát đang được mổ mắt đây. Lậy trời cho nó được trăm phần may mắn.

Thế rồi ngày qua, đêm tới…

Thằng Phú bóc một tờ trên quyển lịch: thứ ba!

Tan học ra, trong lòng vô cùng hồi hộp, nó tới ấn nút chuông điện nơi cột trụ cổng nhà ông thú y sĩ Vinh. Mới trông thấy nó, cô nữ y tá đã vui vẻ nói ngay:

- Mọi sự tốt lành cả. Con chó của chú ngoan lắm. Nhiều con khác cứ thạo thục giựt đứt tung cả băng thuốc ra ấy chứ. Con A-Giát thì không. Bác sĩ tiêm cho mấy mũi thuốc làm dịu cơn đau nên nó chịu nằm yên lắm. Chú em vào thăm nó chút đi.

Phía cuối khoảng sân rộng, một dẫy chuồng bằng xi măng, cửa lưới sắt, gồm ba tầng xây chồng lên nhau. Mèo, chó, có tới gần hai chục con. Mỗi con nằm riêng một chuồng. Ngoài cửa chuồng có treo biển đề tên, căn bệnh và ngày “nhập viện” cẩn thận.

Cô nữ y tá mở cửa chuồng. A-Giát đang nằm nghỉ trên một ổ rơm khô ráo, sạch sẽ. Một chi tiết khá quan trọng không rõ cô y tá vô tình hay hữu ý đã quên không nói cho Phú biết: một chiếc băng màu đen băng trùm lên đầu che kín hai con mắt đã được giải phẫn rồi khâu kín lại của A-Giát.

Con chó chắc hãy còn đau lắm! Chợt nó cựa quậy, trở mình, đứng lên ruỗi thẳng lưng rồi ngáp một cái thật dài. Nó đã đánh hơi “thấy” thằng Phú, nhưng toàn thân còn mệt mỏi nên không thể mừng rỡ đón chào nhanh nhẹn như lúc còn ở nhà được. A-Giát chỉ ậm ự rên rỉ y hệt một chú bé làm nũng, nhõng nhẽo để được người lớn cưng chiều. Nó thè lưỡi liếm tay chủ, đặt cái đầu có băng che kín mắt lên vai thằng Phú, rồi cứ thế, đứng im lặng, có vẻ an tâm, vui sướng vô cùng.

Suốt một tuần, ngày nào cũng như ngày nào, thằng Phú đều ghé vào thăm nom an ủi, vỗ về A-Giát một hồi lâu rồi mới về nhà.

Thấm thoát, chẳng mấy chốc đã đến chiều thứ bảy. Chắc hẳn hôm nay là ngày quan trọng nên ông thú y sĩ đích thân ngồi đón chờ thằng Phú. A-Giát đã được cắt chỉ khâu mắt, cởi bỏ mảnh băng đen, đang ngồi chễm chệ trên một chiếc bàn nhôm trắng bóng. Đôi mắt nó chớp luôn vì chưa quen với ánh sáng chan hòa trong phòng giải phẫu. Ông thú y sĩ bảo Phú:

- Cứ việc lại gần nó đi, cháu Phú! Lần giải phẫu này bác sĩ cũng gặp hên quá đấy. Kết quả tốt đẹp không thể ngờ được. Không còn e ngại có biến chứng gì nữa hết. Cơ thể nó khỏe mạnh, tốt lành lắm.

Con chó ngồi im không cục cựa, đối diện với cậu nhỏ đang từ từ từng bước một tiến lại gần… thật gần. Nó vẫn không nhúc nhích, hầu như nín cả hơi thở, bất động như tạc bằng đá khiến người nhìn cảm thấy hơi rờn rợn. Muốn giơ tay vuốt ve nó một cái, thằng Phú lại ngập ngừng không dám.

Tiếng nói của ông bác sĩ thú y lại trầm trầm khẽ vang lên:

- Cháu nên nhớ rằng, nó chỉ quen hơi và biết tiếng nói của cháu mà thôi. Nhìn kỹ coi! Tim nó đang đập rộn ràng. Lớp lông mượt mịn kia cũng như biết cựa quậy, cứ rung lên từng hồi. Cháu thấy rõ chứ? Hiện giờ nó đang vui mừng cực điểm và ngạc nhiên hết sức đó. Vì lẽ, đây là lần đầu tiên nó được… nhìn thấy cháu.

Cái lưỡi đỏ hỏn thè dài, hai bên hông phình ra, hóp vào như mới phóng chạy hết tốc lực một quãng đường xa lắc, trước mặt chú nhỏ cảm động nước mắt rưng rưng, con A-Giát vẫn thẳng mình ngồi im bất động.

Có tới năm phút sau, con chó lai sói mới “nói chuyện”. Nói chuyện bằng mắt. Đúng như thế! Tia nhìn của nó phóng thẳng vào hai mắt kẻ đã cứu sống đời nó. Một điều lạ: đôi mắt giờ đây không hề chớp. A-Giát ngó thằng Phú trừng trừng.

Ngoài sân, con vẹt Phi Châu đậu trên cành trước dẫy chuồng gia súc, eo éo cất tiếng gọi: Mi Mi! Mi MI!

Trong phòng giải phẫu, đứng bên chiếc bàn nhôm trắng sáng, nơi con chó vẫn ngồi im như trời trồng, thằng Phú quàng hai tay ôm cổ A-Giát, khẽ rót vào tai nó những lời âu yếm dịu dàng.

Về Phượng Mô, A-Giát lại được vào ngủ trong vựa rơm êm ấm. Thằng Phú, mỗi buổi chiều đi học về lại xuống ngủ với con chó thân yêu.

Sáng chủ nhật, nó để xe ở nhà, cùng con chó thả bộ lên Mương lai bản.

Vượt qua đồi sim, Phú dẫn A-Giát đi theo con đường mòn tới rừng Đen, băng qua Gò Quao.

Con chó băng băng đi bên cạnh chủ. Gặp một gò đất, một thân cây, thế nào nó cũng nhẩy lên đứng trên đó, đưa mắt ngó quanh quất. Một chú cầy hương, cái đuôi xù như bông lau vừa mới nhô ra khỏi bụi rậm chợt bắt gặp A-Giát, vội vã thụt ngay vào. Một chú cáo non bị con chó đánh hơi, hoảng hốt, thay vì cứ nấp trong bụi rồi tìm đường lẩn tránh, lại quýnh quáng chạy vụt ra, phóng như bay tới gốc cây chẩu, leo vun vút lên cây. Bộ lông trắng toát nổi bật trên màu nâu của vỏ cây. A-Giát ngơ ngác đứng trông theo, vô cùng thích thú. Nó lắng tai nghe tiếng “cóc, cóc” của một con chim gõ kiến mổ vỏ cây, văng vẳng từ mãi tít trong rừng sâu, loay hoay cố tìm nơi tiếng động phát xuất.

Cả một thế giới lạ lùng hiện ra trước mắt A-Giát. Một thế giới từ trước tới nay, nó chỉ nghe mà chưa được thấy bao giờ.

Gần tới con suối có cái cầu bắc ngang bằng hai cây gỗ, Phú dừng lại đúng tại nơi nó đã gặp ông quản Ru kéo lê con chó bằng chiếc dây thừng tưởng chừng như sự việc mới xẩy ra ngày hôm qua. Vậy mà đã biết bao biến cố xẩy ra từ bữa ấy. Phú khẽ quát:

- Thôi, đi. A-Giát!

Con chó đang nhẩy quẩng đùa giỡn với mấy con bươm bướm. Nghe tiếng gọi, nó nhẩy lên đã thấy chủ đang đặt bước đi trên hai cây gỗ. Bản tính rắn mắt, A-Giát chạy theo, nhún mạnh bốn chân, búng thân mình phi qua con suối rộng, đáp huỵch ngay xuống bên cạnh chân thằng Phú lúc đó cũng vừa sang tới bờ bên kia.

Phú vui vẻ nói chuyện:

- A-Giát! Hôm nay chúng mình lên Mương lai bản. Rồi A-Giát sẽ biết Phan, bạn thân của tao này. Rồi Liên, em gái Phan này.

Được con chó đẹp đẽ khôn ngoan, thằng Phú vui sướng vô cùng. Nhưng niềm vui của nó chỉ trọn vẹn khi có cả thằng Phan cùng hưởng.

Vừa đi vừa đùa giỡn với A-Giát ở dọc đường, nên Phú đến trễ hơn thường lệ. Thằng Phan lo lắng sai con Liên phóng xe đạp đi đón bạn. Tới gần giờ ăn cơm trưa, Liên và Phú mới về tới nhà. Chợt trông thấy con chó “bẹc giê” to lớn, lông mượt đen, bốn chân vàng màu lửa cháy, theo sát chân bạn, thằng Phan trợn tròn mắt, thích thú:

- Ủa! Chó của ai thế? Của Phú hả?

- Ừ, của mình đấy!

- Ai cho vậy?

- Có ai cho đâu. Câu chuyện dài lắm, Phan ơi! Kỳ khôi lắm. Từ lâu rồi mình vẫn ước ao có được một con chó.

Thằng Phan mắt vẫn chăm chú ngó A-Giát, miệng lẩm bẩm:

- Ừ! Mình cũng thế!

- Phan biết là Phú vui sướng đến mức nào chứ. Dì Mai nói rằng đó là do cái số. Số đã định rằng Phú và con chó này sẽ gặp nhau. Trước đây nó vẫn có chủ, nhưng không phải là một người chủ tốt. Chứng cớ rõ rệt là ông ta không yêu thương nó chút nào. Nhưng bây giờ nó là chó của Phú. Phú là chủ nó. Phải không, A-Giát?

Cứ mỗi lần thằng Phú nói đến hai tiếng “con chó, con chó”, A-Giát lại ngẩng đầu, dựng đứng hai tai. Nó lộ vẻ hiểu biết là người ta đang nói chuyện nó.

Thằng Phan vẫn thắc mắc:

- Hồi nẫy Phú nói rằng không ai cho cả. Vậy ra Phú… bắt được nó?

Phú cười vui nhìn bạn:

- Mình đã bảo Phan rằng câu chuyện dài lắm, ly kỳ lắm mà. Rồi mình sẽ kể cho Phan nghe, Phan sẽ hiểu rõ.

Sau bữa cơm trưa, dưới giàn hoa thiên lý in bóng mát rượi, Phú kể rành mạch cho thằng Phan và con Liên nghe câu chuyện nó gặp con chó khôn nhưng bị đui hai con mắt.

- Lúc đó, không hiểu sao Phú cứ mụ người đi, mà cả ông quản Ru cũng vậy. Và Phú… – Ồ, biết nói sao cho Phan và Liên hiểu được nhỉ? À, à… Phú cảm thấy xấu hổ thay cho ông quản Ru, và tự ngượng cả với mình nữa. Đúng thế đấy. Lúc ấy muốn nói: “Không nên bắn bỏ con chó này nghe bác, bác cho cháu đi!” mà không hiểu sao Phú lại cứ đứng im thin thít. Kỳ ghê!

- Phú không dám nói?

- Đúng. Phú không dám nói. Chỉ đứng trơ ra như phỗng đá nhìn theo ông Ru lôi sềnh sệch con chó vào rừng sâu.

Sắc mặt thằng Phan xanh mướt như tàu lá. Cảm xúc đã khiến nội tâm nó xáo trộn, lắp bắp nói qua hơi thở:

- Thế rồi, tới phút chót, ông quản Ru…

- Ông quản Ru “dành cho nó một dịp may”. Đó, ông ấy nói như thế đó.

- Vậy là sao?

- Ông ấy bỏ lại con chó trong rừng, cột đầu dây vào một bụi cây. Ông ấy lại chu đáo để dành cho nó, đặt trên mặt cỏ, một miếng bánh mì và một miếng thịt ngon lành.

- Rồi khi Phú gặp lại nó, lúc ấy đã vào đêm?

- Đêm tối thui à!

Sắc diện thằng Phan chợt ửng đỏ, tươi vui rạng rỡ hẳn lên:

- Tối thui! Tối thui mà A-Giát vẫn nhìn thấy Phú. Tức là lúc đó đôi mắt của nó đã khỏi bệnh rồi phải không? Khỏi bệnh trước khi Phú bắt gặp nó trên đường đi về nhà. Hà… hà…!

Thằng nhỏ đau ốm lại bắt đầu xuất thần, sống trong cõi mộng. Trí tưởng tượng rất mạnh của nó lại sắp sửa đưa nó tới tận đâu. Tới một thế giới thần tiên đầy hoa thơm cỏ lạ với các vị thần, các tiên cô… tới một cảnh đời tưng bừng chan hòa ánh sáng.

Con Liên nháy mắt, ngầm ra hiệu cho bạn.

Khi đi đón thằng Phú, qua rừng, nó đã được bạn kể cho nghe chuyện ông bác sĩ thú y mổ mắt, chạy chữa cho con chó như thế nào rồi.

Con Liên chúm môi nhìn bạn “suỵt” khẽ một tiếng. Thằng Phú hiểu ngay ý nghĩa cái “suỵt” ấy: “Cứ để yên cho Phan nói chuyện… thần tiên”. Tiếng nói của thằng nhỏ tật nguyền vang lên sang sảng:

- Phú không biết. Liên cũng không biết. Riêng tôi, tôi biết. Tôi biết rõ…

Đôi mắt thằng Phan như sáng ngời lên cơn sốt, sáng long lanh một cách kỳ dị.

- Tôi biết rõ ai đã cứu thoát và chữa khỏi cho con chó lai sói này. Tôi biết rõ lắm. Phú đừng tưởng là tôi đoán mò nghe, – thằng Phan hạ thấp giọng, dáng điệu thật bí hiểm – vị thần trong rừng đấy… Biết chưa?

Liên và Phú đưa mắt nhìn nhau, im lặng. Không đứa nào nỡ phản đối, làm phật ý thằng Phan. Con Liên hỏi anh một cách rất tự nhiên:

- Thế ông thần ấy đã làm gì hả anh Phan?

- Ông Thần nhẹ nhàng bước tới chỗ A-Giát bị cột, không gây một tiếng động nhỏ. Ông cởi dây cột cổ nó ra, dẫn nó tới một dòng suối nhỏ, nước trong lắm. Rồi ông vốc nước suối rửa mắt cho nó.

- Rồi sao nữa?

- Rồi ông ấy lấy từ trong túi áo của ông ra một nắm các vì sao sáng chói.

- Các vì sao sáng chói?

- Đúng thế! Các vì sao… tức là những con đom đóm có ánh sáng lập lòe xanh biếc đó. Phú cũng biết mà, phải không Phú? Vị thần ở Gò Quao đêm nào cũng hiện xuống gieo rắc đom đóm khắp nơi khắp chốn đó. Ông rải cả lên trên cỏ ngay dưới mắt con chó. Thành ra làn ánh sáng đầu tiên A-Giát trông thấy chính là ánh sáng của ngôi sao đom đóm lấp lánh như kim cương đó.

Thằng Phan say sưa tưởng tượng, say sưa nói. Trong những giây phút xuất thần, mê man trong cõi thần tiên mộng ảo như thế, nó không còn buồn khổ nữa, quên hẳn được cái xác thân tàn phế đau đớn triền miên.

Bên ngoài, đêm đã xuống từ lúc nào.

Liên xuống bếp để đôi bạn trai ở lại chuyện trò. Trong khi đó, A-Giát chạy tới làm quen với Út Đô, con thỏ lông hung đỏ, con cáo non, và con sóc Chi My. Chi My bạo dạn hơn tất cả, lon ton nhẩy đến đưa cái chân nhỏ xinh lên đập đập vào mõm con chó khổng lồ.

Thằng Phú thích thú ngồi xem đám súc vật đùa giỡn với nhau. Trong khi đó, thằng Phan nằm lặng lẽ suy tư, ngẫm nghĩ điều gì đó, sắc mặt rầu rầu. Lúc cả ba đứa ngồi nói chuyện ngoài vườn, dưới giàn thiên lý, nó đã bảo bạn: “Mình biết là Phú thích lắm. Phải rồi! Chỉ có một con chó khôn mới đích thực là người bạn tốt”. Tư tưởng trong đầu óc Phan luân chuyển thế nào mà nó lại có ý nghĩ như thế? Và giờ đây, bước ra khỏi cõi mộng mơ thú vị, nó lại sắp sửa buồn rầu đau khổ vì chuyện gì? Đó là tất cả các điểm Phú đang tìm hiểu: “… chỉ có con chó khôn mới đích thực là một người bạn!” Câu thằng Phan nói đó có ẩn ý gì?

Thằng Phú đang cố tìm hiểu.

Đúng lắm. Con chó khôn mới đích thực là một người bạn. Một người bạn lúc nào cũng ở sát bên chúng ta, hỏi chuyện chúng ta bằng… ánh mắt nhìn. Chỉ tiếc một điều là không nói được, nhưng vẫn nghe được, hiểu được chúng ta, chứng kiến những niềm vui nỗi buồn thầm kín nhất của chúng ta.

Không nói ra miệng, nhưng có lẽ thằng Phan ghen hờn với cái tình bạn đã bị chia sớt vì sự hiện diện của con chó bên cạnh người bạn thân nhất của nó từ trước đến nay?

Người bạn đau ốm tật nguyền của thằng Phú buồn rầu ủ rũ chắc cũng chỉ vì lẽ đó mà thôi.

Qua cửa sổ, một khoảng trời xám nặng trĩu mây đen, sà thật thấp gần như đụng đám lá cây rừng, báo hiệu sắp sửa có một trận mưa lớn. Trong nhà tối om. Phan, Phú đều im lặng, không ai nói với ai một lời nào.

Liên bước vào, bật đèn:

- Sao hai anh lại ngồi tối thế này? Em bật đèn cho.

Sau khi trải lại chăn nệm cho anh, thu gọn một vài thứ lặt vặt bên giường thằng Phan, con bé lại bước ra.

Sắp sửa đến lúc thằng Phú phải trở về bên Phượng Mô. Nhưng nó vẫn phân vân chưa quyết. Trong lòng Phú cảm thấy buồn vô cùng. Vừa mới chung vui với bạn chưa được mấy lâu, niềm hân hoan đã như chắp cánh bay đi đâu mất. Thằng Phan lại chìm đắm trong buồn khổ mung lung. Chốc nữa đây, bạn và con chó đi rồi, thằng nhỏ ốm đau sẽ còn ủ rũ, âu sầu tới mức nào nữa. Mải suy nghĩ miên man, thằng Phú đưa tay vuốt ve đầu con A-Giát. Động tác ấy khiến Phú được bình tĩnh hơn, rảnh rang tâm trí hơn để suy nghĩ đến một quyết định hết sức quan trọng.

Nó âm thầm tự nhủ: “Còn phải suy nghĩ gì nữa. Chỉ có thế là ổn nhất!” Và lấy làm lạ rằng sự quyết định ấy không khiến nó phải buồn rầu nhớ tiếc quá đỗi như nó đã tưởng.

Phú rất yêu quý bạn, thương hại bạn, một thằng nhỏ bất hạnh không được hưởng một chút thú vui nào như các bạn đồng trang lứa: chạy, nhẩy, leo trèo, nghịch ngợm, cưỡi xe gắn máy phóng như bay…

Phan buồn khổ đã nhiều. Trên môi ít khi thấy nụ cười tươi, trừ khi nó được “sống trong cõi mộng”. Phú quyết định, trước khi ra về, thế nào cũng phải làm cho bạn một cái gì để lại được trông thấy nụ cười tươi trên miệng, nhất là trong đôi mắt long lanh của thằng Phan.

Còn hạnh phúc nào sánh bằng hạnh phúc được hưởng khi làm xong một điều gì khiến cho kẻ ta hằng yêu mến được vui sướng!

Thằng Phú bước tới gần bên ghế xích đu dài, nơi thằng Phan nằm nghỉ, cố lấy giọng thật tự nhiên:

- Phan à! Sắp sửa đến giờ về rồi, Phú muốn dành cho Phan một sự ngạc nhiên thú vị lắm.

Trên khuôn mặt ủ dột, xanh mét của thằng Phan, đôi mắt tròng nâu chợt long lanh rạng rỡ. Trong hai đứa, Phú đã chẳng là một thằng bạn luôn luôn cho mà ít khi nhận đó sao? Giờ đây, trước khi ra về, nó lại còn định cho gì nữa?

- Một sự ngạc nhiên thú vị hả Phú? Gì thế?

- Phan không đoán ra à?

- Chịu! Không đoán được!

- Thật hả?

- Thật mà! Nói đi Phú, lẹ lên!

- Con A-Gi…

Thằng Phú ngưng lại kịp thời. Chút xíu nữa, nó buột miệng nói ra: “Con A-Giát của Phú!”.

- Con A-Giát, Phan à, bây giờ nó là của Phan đấy!

- Của Phan?

- Đúng! Phú cho Phan đấy!

Con Liên đưa thằng Phú ra tận cổng vườn.

- Cám ơn anh Phú nhiều nghe anh Phú. Anh Phan khoái lắm. Chưa bao giờ em thấy anh ấy vui vẻ như thế đấy. Nhưng chỉ lo con A-Giát nó nhớ anh. Anh là chủ nó mà.

- Liên lo gì chuyện ấy. Lâu dần rồi cũng quen.

- Liệu nó có quen không anh?

- Quen chứ!

- Có lẽ mấy hôm đầu phải xích nó lại cho chắc ăn. Ồ, mà trời sắp tối rồi. Anh Phú lấy xe đạp của em mà về, nghe! Hôm nào đem trả cũng được.

- Vậy càng hay. Thôi, anh về nghe, Liên.

- Vâng, anh Phú về. Cám ơn anh nhiều nhiều, nghe anh Phú.

Trong phòng Phan, con chó A-Giát quay mặt ngó đăm đăm cánh cửa vừa khép lại sau lưng thằng Phú. Nó ngơ ngác lộ vẻ không hiểu gì cả. Buồn rầu, con chó cúi đầu, đưa mũi đánh hơi đoạn chậm rãi đi một vòng quanh nhà. Qua chỗ con thỏ Út Đô và con cáo non, A-Giát dừng lại, đưa mũi hít ngửi hai con thú rừng xinh xinh. Nó đi tới chỗ đặt cái lồng nhốt hai vợ chồng con sáo sậu, đứng ngắm nghía đôi chim lạ một lúc rồi lại đi loanh quanh, đưa mắt nhìn tứ phía. Con sóc Chi My lót tót chạy theo trêu chọc, bị nó giơ chân gạt cho một cái. Cứ mỗi lần tới cánh cửa, A-Giát lại dừng chân, đứng im lặng, tần ngần.

- A-Giát! Lại đây! A-Giát!

Con chó lắng tai: không phải âm thanh trong trẻo, sang sảng như tiếng chuông quen thuộc vẫn gọi tên nó hàng ngày. Ngơ ngác, lạc lõng trong căn nhà xa lạ,chỉ còn hành động do bản năng, con chó nghe tiếng gọi, cúi đầu, thờ thẫn bước lại gần chiếc ghế xích đu nơi thằng Phan nằm nghỉ. Thế rồi, trong khi thằng nhỏ bệnh hoạn đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve đầu nó, A-Giát đưa mắt ngó Phan chăm chú, mí mắt chớp chớp liên hồi, tia nhìn buồn rầu khẩn khoản như có ý muốn hỏi: “Anh là ai thế? Tại sao người ta lại để tôi ở đây, hả?”

Trong khi đó, trên con đường mòn xuyên qua rừng, thằng Phú cúi rạp người trên xe đạp, mắm môi, mắm lợi ra sức đạp. Mưa đổ xuống hắt nước đầy mặt. Nó vận động bắp thịt tới mức tối đa, đạp nhanh như máy và cho đó là một cách tốt nhất để khỏi phải nghĩ ngợi lôi thôi.

Nước mưa dội trên đầu Phú, tưới đẫm mặt, tràn vào đầy mắt, khiến nó không còn trông thấy gì nữa. Trên con đường đất nhỏ xuyên qua Gò Quao, nó lội bì bõm trong bùn, ì ạch dắt chiếc xe đạp.

Về đến nhà, người và quần áo nó ướt nhẹp như con chuột ngã vào lu nước. Bà dì chạy ra mở cửa.

- Trời đất! Tội chưa kìa! Dầm nước mưa thế kia, cảm chết đó Phú. Xuống ngay dưới bếp đi cháu! Sưởi cho ấm người cái đã rồi thay quần áo mau lên! Còn con chó nữa, chắc cũng ướt sũng rồi tha nước vào làm ướt hết nhà mất thôi. Cho nó vào trong vựa rơm ngay đi nghe Phú!

Thằng Phú nhìn bà dì thân yêu, nghẹn ngào:

- Dì Mai ơi!... Con chó… của cháu… cháu…

Nước mưa từ tóc nó nhỏ giọt xuống má, lẫn lộn với hai giọt nước mắt. Dẫu có tinh mắt đến đâu, dì Mai cũng không thể nhận ra hai giọt lệ nóng ấy.

Thằng Phú đưa tay lên má quệt một cái thật nhanh.

Chương 04

LẠI MỘT MÙA HÈ

Sáng hôm sau, Phú phóng xe gắn máy lên Gia Viễn đi học. Tuần lễ cuối cùng trước khi nghỉ hè. Buổi chiều, khi ra về, vừa qua khỏi cây cầu xi măng, nó gặp ông thú y sĩ đã chữa khỏi mắt cho A-Giát. Trông thấy Phú, ông ta giơ tay vẫy gọi rồi đậu xe lại:

- Cháu Phú! Cuối tháng này nhớ đem chó đến, bác sĩ xem mắt có biến chứng gì không, nghe! Hiện thời nó vẫn khỏe mạnh chứ?

- Dạ, cám ơn bác sĩ! A-Giát ngoan và mạnh lắm.

Chiếc xe hơi bóng loáng sang số phóng vụt đi.

Lúc đó, đã vào khoảng xế chiều. Về đến nhà đã thấy dì Mai thắp xong chiếc đèn treo. Cả nhà ăn cơm tối xong, không có bài phải học, Phú ngồi vào bàn của cậu. Cố đặt hết tâm trí vào việc ráp các bộ phận rời của một chiếc Oméga kiểu nhỏ đàn bà đeo, tư tưởng chú nhỏ vẫn không ngừng bay qua Mương lai bản. Cùng lúc đó, bên Mương lai bản, con A-Giát buồn bã cô đơn trong một căn nhà xa lạ. Dưới gầm giường thằng Phan, nó nằm dài, mõm nghếch lên một trong hai cẳng chân trước duỗi thẳng, đôi mắt phóng nhìn mãi tận đâu đâu, xa lắm…

Hai ngày nữa lại qua đi, tới ngày thứ năm. Khoảng quá trưa, thằng Phú nhẩy lên xe đạp, đạp sang Mương lai bản trả xe cho Liên.

Sang đến nơi, nó giật mình sửng sốt. Không khí trong nhà có vẻ rất khác thường. Mấy phút sau, Phú mới biết lý do: con A-Giát đã bỏ đi đâu mất.

Thằng nhỏ chạy vào phòng bạn.

Phan buồn rũ ra như một tàu lá héo, nhìn bạn:

- Phải ở lại bên này, coi bộ con chó khổ sở quá. Vì thế nó bỏ về bên ấy với Phú rồi.

Đoạn, nước mắt rưng rưng, Phan nói tiếp:

- Rồi cả mấy con thỏ Út Đô, con cáo non, đôi vợ chồng sáo sậu và ngay cả con sóc Chi My này nữa! Phú tưởng chúng nó sung sướng lắm chăng, khi phải sống như tù giam lỏng trong nhà Phan? Chẳng chóng thì chầy, rồi thế nào tụi nó cũng bị lây cái khổ của Phan cho mà xem. Con Chi My què liệt một chân rồi đó, thấy không? Tội nghiệp chúng nó biết chừng nào!

Phú nhìn bạn:

- Phan lại kể lể lôi thôi rồi.

- Lôi thôi gì đâu? Phan nói thật đấy chứ. Phan không muốn tụi nó phải khổ sở nữa. Phú nghe rõ rồi chứ, hả?

Con Liên bước vào từ lúc nào, đưa tay sờ trán anh:

- Anh Phan, thôi, đừng nói nữa mệt, anh Phan! Coi chừng lại lên cơn sốt bây giờ. Nghe lời em đi, chóng ngoan.

Thằng Phan mặt đỏ bừng bừng, nắm tay thằng Phú:

- Phú là bạn rất thân của Phan, có phải thế không? Vì thế Phan mới đặt hết tin tưởng vào Phú. Chúng mình đều biết rằng: trời sinh ra con sáo là để cho nó bay, con sóc để cho nó leo trèo nhẩy múa trên cây, rồi những con thỏ như Út Đô… sinh ra là để chạy đùa tìm hoa quả cây trái mà ăn.

Phan nghẹn lời không nói tiếp được nữa. Một cơn ho như xé phổi khiến nó co rúm toàn thân nằm thở hổn hển trên ghế xích đu.

Thằng Phú vuốt ngực cho bạn, cố giữ giọng nói thật bình tĩnh:

- Phú sẽ làm tất cả những điều Phan muốn.

- Tốt lắm! Vậy thì lát nữa, khi về Phượng Mô, Phú đem hộ Phan tất cả mấy con này, tới rừng Đen, thả chúng nó ra.

Thế là khi đôi bạn tạm biệt, thằng Phú một tay xách giỏ, bên trong con thỏ hung, con sáo non thu mình nép sát bên nhau, tay kia nó xách cái lồng nhốt hai vợ chồng con sáo sậu. Con sóc Chi My, hình như linh cảm thấy có cái gì bất trắc, cố quẫy đạp vuột khỏi tay thằng Phú, nhẩy tưng tưng lên ghế xích đu, rúc cái mõm bé tí vào ngực áo cậu tiểu chủ. Thằng Phan vuốt ve bộ lông mịn, mỉm nụ cười mệt nhọc:

- Con Chi My không chịu đi này Phú. Thôi để nó ở lại vậy.

Thằng Phú, chân đặt lên ngưỡng cửa, sửa soạn lên đường ra về. Chợt, một con vật to lớn, lông đỏ quạch, bùn lấm đầy mình, mồ hôi nhễ nhại, phi qua hàng rào gần cổng vườn, xồng xộc chạy vào như bay.

- A-Giát!

Đúng A-Giát! Con chó lai sói, bốn cẳng chân run bắn lên như chân cầy sấy, bụng hóp vào phình ra theo hơi thở hồng hộc, hai mép bọt trắng nhểu dài, mệt mỏi cùng cực, buông mình nằm phịch trên bậc cửa, ngay dưới chân thằng Phú.

Thì ra, khi trốn khỏi nhà ông Tư Lành, con chó đã phóng thẳng một mạch từ Mương lai bản về Phượng Mô, Tới nơi, nó chỉ thấy có ông Mẫn và bà Mai ở nhà. Phóng vào như một cơn gió lốc, lúc quay ra nó lại phi nhanh như một trận cuồng phong. A-Giát lao vun vút lên đồi sim, chạy xuống con đường đất dẫn lên Gia Viễn, nơi nó đã được thằng Phú dắt tới một lần. Nó băng qua mấy đường phố đông xe cộ, quẹo vào đường Lô Giang, mò đến đúng nhà ông thú y sĩ, đi vào hẳn trong khoảng sân rộng. Đứng trước cửa phòng khám bệnh đóng im ỉm, A-Giát khẽ rít lên… gọi cửa. bên trong im vắng không một bóng người.

Nó lại quay ra, theo đường cũ, cứ thế cắm đầu phi nước đại. Một tiếng đồng hồ sau, A-Giát đã về tới Phượng Mô. Vẫn chưa thấy bóng chủ đâu. Đưa mũi đón gió đánh hơi một hồi, con chó chuyển mình đặt bước theo hướng Gò Quao, dẫn lên Mương lai bản. Và bây giờ… Phú reo lên:

- Phan ơi! A-Giát về đây này!

- Phú thấy không? Nó sục sạo khắp chốn đi tìm Phú đấy. Quá xá thật. Thế là rõ ràng rồi nhé! Rõ ràng là: chó khôn chỉ có một chủ. Và ông chủ của A-Giát là Phú. Thôi, chủ nhật lên nghe, Phú.

- Ừ, chủ nhật.

- Cho A-Giát lên không?

- Nhất định thế rồi.

- Lên sớm nghe!

- Sớm chứ. Phú sẽ đến nơi trước khi Phan ngủ dậy.

Tối hôm ấy, quản Ru lại ghé vào nhậu lai rai la ve, ăn mấy con mực nướng thơm phức với ông Mẫn. Viên hạ sĩ quan quan thuế vui vẻ nói chuyện với thằng Phú:

- Con chó của cháu thế mà lại lành được hai con mắt. Kể cũng thần tình thật. Nhưng nó có trông rõ không hả Phú?

- Dạ rõ, bác Ru!

Ông Ru ngắm nghía con vật, gật gù:

- Ờ, ờ! Lực lưỡng khỏe mạnh như con A-Giát này, nếu được huấn luyện cẩn thận, sẽ trở thành một tay phụ tá đặc lực cho toán lưu động, đồng nghiệp của bác đấy. Cháu biết không? Những con chó nhà nghề trên Ty của bác, khi tuyển chọn, phải lựa những con thật thông minh, chỉ vâng lời có một mình chủ nó mà thôi. Rồi huấn luyện viên ra lệnh cho chó xông tới một người đứng ra làm “con mồi mục tiêu”. Con mồi mục tiêu này phải mang một chiếc “găng” tay bằng da cứng và dầy, che kín đến quá khuỷu tay. Chó được luyện tập từng động tác một. Khi đã quen rồi, con nào con nấy không nhẩy lên cắn cổ người mồi mà chỉ ngoạm rồi giữ chắc lấy cổ tay giữa hai hàm răng sắc nhọn. Người mồi chỉ khẽ động đậy kháng cự là gẫy xương tay ngay lập tức.

Thằng Phú trợn tròn đôi mắt:

- Thế lỡ tên buôn lậu có súng thì sao, hả bác Ru?

- Trường hợp ấy cũng đã được nghiên cứu cẩn thận. Con chó nhà nghề sẽ không chồm đến chộp cổ tay nữa mà nó chỉ chạy quanh con mồi. Vừa chạy vừa thu nhỏ vòng vây hãm, đồng thời đôi mắt rất tinh của nó chăm chú ngó vào tay con mồi, sẵn sàng nằm dán xuống mặt đất thật nhanh để tránh đạn. Bọn buôn lậu cũng dư biết là chúng sẽ hết đường chạy trốn nếu gặp phải một con chó thiện nghệ. Và một khi đã bị “ngậm” vào cổ tay là hết gỡ. Bọn bác chỉ còn mỗi một việc là đến tóm cổ mấy anh hay đi đêm.

Ông Mẫn cho biết thêm:

- Nuôi dậy cẩn thận, chó bẹc-giê có thể tải được tới bốn năm ký hàng trên lưng rồi vượt biên, lẩn tránh hàng rào quan thuế dễ ợt. Nhất là tại vùng này, núi rừng trùng trùng điệp điệp, lau sậy um tùm.

Lại tiếng ông Ru:

- Hồi này tụi ấy cũng ít dùng chó. Họa hoằn lắm thì không kể. Một vài chục tút thuốc lá lậu, ít cân quế quý. Ngày trước, đàn chó của tụi tôi được huấn luyện để đánh hơi tìm thuốc lá và quế. Phương tiện tải hàng, bất kể là người hay chó, hễ chúng phát giác được là tấn công liền. Dạo này, thuốc hút và quế cũng không được giá lắm, nên tụi nó tạm nghỉ.

Phú bị lôi cuốn say mê:

- Huấn luyện cho chó vượt qua lằn mức biên giới? Bác biết nội vùng này ai huấn luyện được hả bác Ru?

- Biết thì chưa biết rõ. Mới nghi ngờ thôi. Hồi năm ngoái một ông bạn đồng nghiệp của bác đã bắn hạ một con chó lài Đức tải hàng nặng đến trĩu cả lưng ấy. Có điều là mười lần thì có đến chín lần, con bốn chân ấy đi thoát, rồi “xuống” hàng ở bên kia biên giới thuộc địa phận Cao Miên tại nhà một gã tên là Mã Thiên Bỉnh.

Ông Mẫn vỗ tay lên mặt bàn:

- Mã Thiên Bỉnh! Gã này tôi biết mà. Đã có thời kỳ gã buôn bán đồ lạc-soong trên Gia Viễn.

- Đúng đấy! Hồi đó hắn ta có một bầy chó “bẹc-giê” đẹp lắm, quý cứ như vàng ấy. Nhưng bây giờ hết rồi, và lại đâm ra ghét chó mới kỳ chứ. Nếu không ghét chó, gã đã chẳng bắt tụi nó tham gia vào cái việc làm nguy hiểm ấy.

Ông quản Ru uống cạn ly la ve rồi kể cho Phú nghe cách huấn luyện chó tải hàng lậu vượt biên giới như thế nào. Phú ta ngẩn người ngồi nghe, ghi nhớ không sót một chi tiết.

- Cháu khoái lắm hả, Phú?

- Dạ cháu thích lắm, bác Ru! Nhưng bác cứ yên trí. A-Giát không đi tải hàng lậu cho ông Mã Thiên Bỉnh đâu, nghe bác Ru.

Viên hạ sĩ quan quan thuế cười vui:

- Thì bác cũng nghĩ như cháu đó!

Ông Mẫn nói giỡn thằng cháu cưng:

- Đừng có nói trước nghe Phú!

Mọi chi tiết về vấn đề huấn luyện chó vừa được nghe ông quản Ru kể khiến thằng Phú nẩy ra một ý định. Trước khi đem ý định ấy ra thực hành, nó sẽ không nói hở ra cho ai biết, ngoài thằng Phan. Thằng bạn tàn tật của nó chắc sẽ vui mừng lắm. Mới nghĩ thế thôi mà thằng Phú đã thấy trong lòng sung sướng vô cùng.

Nó nhớ lại nụ cười gượng của bạn khi thốt ra câu: “Chó khôn chỉ có một chủ!”. Một người làm chủ mà thôi. Điều đó rất đúng. Nhưng riêng thằng Phú thì lại nghĩ rằng: con A-Giát phải có và sẽ có hai người chủ, hay nói đúng hơn, hai người bạn: một ở thôn Phượng Mô và một ở Mương lai bản.

Chủ nhật tiếp đó, khi tới nhà bạn, Phú vui vẻ nói với Phan:

- Phú được nghỉ hè rồi Phan ơi! Suốt buổi sáng nay mình ngồi ráp đồng hồ, làm xong được hai cái rồi. Cậu Mẫn khen quá trời. Kỳ này nhiều thì giờ rảnh, Phú sang với Phan luôn luôn. Chúng mình sẽ phóng xe đi chơi, thú lắm!

- Có cho Phan lên Gia Viễn coi xi nê không?

- Dĩ nhiên là có. Rồi tụi mình lại đi câu nữa. Tiền sửa, ráp đồng hồ, cậu Mẫn trả khá lắm. Phú để dành được nhiều rồi. Chúng mình đem tiền ấy đi mua cần câu máy và các đồ phụ tùng, cái trục cuốn dây câu có cái cần quay quay đó. Rồi Phan coi, thú vị vô cùng.

Sự hiện diện và tinh thần vui nhộn của bạn khiến thằng nhỏ ốm đau lại cảm thấy ham sống. Có thằng Phú bên cạnh, thằng Phan quên hẳn được cái đau đớn trong cơ thể.

- À, và mình còn cho Phan biết một tin mới: mình cần Phan giúp đỡ một tay để huấn luyện con A-Giát.

- Huấn luyện gì?

- Huấn luyện vượt biên tải hàng lậu.

- Ý, thật hả?

- Phú nói giỡn đó, Phan ơi! Thật ra là thế này. Chúng mình hai đứa mà chỉ có một con chó. Vậy phải tập cho A-Giát làm một việc này gay go lắm.

Con Liên bước vào, đem bát nước thuốc cho anh uống:

- Hai anh lại bàn soạn chuyện gì thế?

Phú vẫn say sưa nói với bạn:

- Muốn cho một con chó tải hàng lậu, thuốc lá thơm hay quế chẳng hạn, vượt biên giới từ Cao Miên sang Việt Nam, cần phải có một thứ thúc đẩy, sai khiến được nó chạy thẳng một mạch, vượt hàng chục cây số ngàn trong khoảng thời gian rất ngắn.

- Thứ? Thứ ấy là cái gì?

- “Thứ” ấy là… cái đói. Người chủ của con chó…

- Người chủ của con chó… tức là tên buôn lậu?

- Đúng rồi. Tên buôn lậu, một đêm kia, dẫn con chó qua Cao Miên, đưa vào một căn nhà nào đó, nhốt kỹ lại trong hai hay ba ngày liền.

- Nhốt kỹ trong hai ba ngày liền?

- Ừ! Và không cho ăn gì hết ngoại trừ một đĩa… nước lạnh. Đến khi con chó đói quá, một tên đồng bọn sẽ thả ra sau khi đã nai nịt, cột lên lưng nó một kiện hàng vừa sức nó mang. Thế là con chó phóng chạy như bay, vượt rừng, vượt núi, theo toàn đường tắt để mau về tới nhà chủ, hiện thời có một chậu canh nóng cơm sốt, trộn với thịt béo thơm ngon đang chờ đợi nó.

- À, vậy thì Phan hiểu rồi.

Con Liên bây giờ mới lên tiếng:

- Hiểu rồi! Anh Phan hiểu thế nào? Anh Phú định nói cái gì em chẳng hiểu ra sao hết.

- Phú quyết định như thế này: từ hôm nay trở đi, con A-Giát sẽ là của hai nhà, nhà Phan và nhà Phú, đồng thời nó lại có hai người bạn. Nó thông minh lắm, sẽ hiểu ra ngay là Phú muốn nó làm hộ việc gì. Lúc mới đầu, rất nhiều việc huấn luyện phải gay go… vất vả cho nó lắm đấy.

Con Liên hỏi ngay:

- Gay go, vất vả cho nó lắm là sao, anh Phú?

- Đây nhé: A-Giát sẽ không ăn một miếng gì từ trưa ngày hôm trước. Ở bên này, Liên sửa soan cho nó một tô cơm thật ngon lành.

- Thế bao giờ bắt đầu?

- Chiều nay anh đưa con chó về Phượng Mô, nhốt vào vựa rơm hai ngày liền, không cho ăn gì hết, ngoài một tô nước lạnh.

Thằng Phan chợt la lên:

- Không được! Phan không chịu thế đâu!

Thằng Phú nghiêm sắc mặt nhìn bạn:

- Hôm nay Phú là người có quyền nói: “Tôi đã quyết định như thế!” Phan và Liên chỉ có việc nghe mà thôi. Phú sẽ thả con chó ra chiều thứ ba, lúc sẫm tối. Chưa đầy một tiếng đồng hồ sau, nó đã tới đây rồi. Liên dành sẵn cho nó một tô cơm lớn trộn với thịt thật ngon, nghe.

Con Liên đưa tay vuốt đầu con chó:

- Tội nghiệp A-Giát! Mày sẽ phải trải qua một cuộc thử thách ghê gớm lắm đấy nghe, A-Giát!

Trước cảnh tượng mủi lòng ấy, thằng Phú vẫn giữ sắc mặt điềm nhiên.

Nó bình tĩnh bảo hai bạn:

- A-Giát sẽ tập được thói quen đi lại qua bên Mương lai bản này. Nó sẽ quyến luyến nhà Phan rồi Phan giữ nó ở lại mấy ngày cũng được, một cách thật dễ dàng. – thằng Phú vui vẻ mỉm cười – A-Giát sẽ xả thân ra làm đôi, một nửa cho Phan, một nửa cho Phú.

Thằng Phan cũng vui lây cái vui của bạn, nhưng vẫn không quên vấn đề bao tử của của con chó ngoan:

- Tuy nhiên, khi A-Giát từ bên này trở về Phượng Mô có lẽ Phan không cần bắt nó phải nhịn đói đâu, Phú ạ!

Thế là mọi sự bàn soạn đã xong xuôi. Chỉ còn việc đem ra thi hành.

Tuy rất khổ tâm, thằng Phú vẫn phải nhốt A-Giát trong vựa rơm hai ngày liên tiếp. Thương hại con chó quá! Nó cứ thè dài lưỡi, buồn rầu ngó cái soong đựng toàn… nước lạnh.

Chiều thứ ba, Phú mở cửa vựa rơm. Trước khi thả cho con chó đi, thằng nhỏ máng lên lưng nó một cái túi trong đựng mấy cục đá nhỏ và một lá thơ vắn tắt gởi cho bạn:

“Chuyến thử thách đầu tiên đây.

Nhớ cho kẻ mang thơ này ăn uống thật ngon”.

Bạn của Phan,

Phú.

Cuộc thử thách đầu tiên đã không dễ dàng như thằng Phú tưởng. Con chó cứ đưa mắt ngó chủ, đứng ngây ra một chỗ, không hiểu gì cả. Thằng Phú phải móc cổ dề dẫn nó ra tới tận đầu con đường mòn xuyên qua rừng rậm:

- Đi đi! A-Giát! Đi! Qua nhà Phan! Nhà Phan! Đi!

Con chó chuyển động thân mình đồ sộ, tảng lưng uốn lượn như lưng con beo, chân bước ngập ngừng, chốc chốc lại quay đầu nhìn “bạn”. Nhưng chưa đầy năm phút, cái đói cào cấu bao tử, hun đốt tâm can đã thúc đẩy nó băng mình phóng chạy như bay, nhằm hướng Gò Quao tiến tới.

Non tiếng đồng hồ sau, A-Giát đã đến Mương lai bản, gục đầu trên tô cơm nóng sốt, trộn thịt bạc nhạc bò thơm phức, sốc lấy sốc để. Ấm bụng rồi, nó từ từ tiến lại phía ghế xích đu của thằng Phan, nắm soải thân mình thoải mái.

Thằng Phú nói đúng. A-Giát rất thông minh. Sau một vài lần thực tập, nó đã nhận ra cách thức của cái trò chơi mới mẻ này. Chạy từ Phượng Mô lên Mương lai bản với một kiện hàng đeo trên lưng. Mấy ngày sau, lại từ Mương lai bản trở về Phượng Mô. Đấy, trò chơi mới chỉ có thế thôi. Dễ hiểu quá!

Có điều không dễ là cái mửng bị nhốt hai ngày trong vựa rơm trước mỗi lần qua Mương lai bản. Con A-Giát “sợ” nhất môn thực tập đó.

Ba tuần sau, qua nhiều lần đi đi lại lại, Phượng Mô – Mương lai bản và khứ hồi, thằng Phú áp dụng một phương thức khác: không bắt A-Giát nhịn đói nữa. Con chó tinh khôn cũng nhận ra rằng: trước khi mở cửa vựa rơm thả nó ra, bao giờ thằng Phú cũng cột lên lưng nó một cái sắc.

Cái đuôi lớn vẫy tít lên, ánh mắt long lanh, A-Giát ngoan ngoãn để yên cho chủ nai nịt, “thắng yên cương” lên lưng, trong khi đó nó cứ việc gục đầu “nhậu” cẩn thận, không để sót chút nào, một tô cháo đặc nấu với nước lèo hầm xương bò. Vẻ mặt hân hoan của nó như muốn nói:

- “Tại sao Phú lại cứ bắt tôi phải nhịn đói không được ăn gì cả? Một khi sắc cột lên lưng là tôi biết ngay công việc phải làm là gì rồi mà!”.

Thế rồi, thè lưỡi liếm tay chủ một cái, không cần chờ Phú phải ra lệnh, A-Giát lao mình phóng lên con đường dốc, chạy một quãng xa, rồi rời bỏ con đường đất đỏ, quẹo vào lối mòn xuyên qua rừng rậm. Sáng hôm ấy, Phan và Liên ngạc nhiên khi nhận thấy con chó, không bỏ hẳn tô cơm có thịt ngon béo ngậy, nhưng chỉ ngửi ngửi tợp qua loa một vài miếng rồi thôi.

Thời gian đều đặn trôi.

Một buổi sáng kia, trên Gò Quao, hai viên hạ sĩ quan quan thuế, thả bước tới gần giòng suối có cây cầu bắc ngang bằng hai cây gỗ. Chợt một người khẽ nói với bạn đồng nghiệp:

- Thượng sĩ có nhìn thấy không?

- Nhìn thấy cái gì?

- Một con chó. Kìa, phía tay mặt, chỗ đường vòng kia kìa. A, a, khuất rồi. Ấy, coi chừng! Nó nhô ra bây giờ đó!

Một trong hai nhân viên quan thuế là ông quản Ru. Người bạn đồng nghiệp của ông, mới từ Saigon thuyên chuyển về, trông trẻ hơn ông nhiều lắm. Ông ta rút khẩu súng lục:

- Kia rồi! Trên lưng nó mang một cái sắc có vẻ nặng… A! A!

Con vật bốn chân cúi rạp người phóng chạy như bay. Tới bên bờ suối, nó kìm trớn đứng sững lại, chụm chân, cong mình…

Chợt, có tiếng ông quản Ru quát lớn:

- Đồ khỉ! Làm cái gì thế? Chớ…

Đồng thời, tay ông đập vào bàn tay cầm súng của bạn. Súng nổ, đạn bay lên đập trúng gốc một cây bồ đào.

Ông bạn đồng nghiệp ngơ ngác không còn hiểu ra sao nữa. Ông quản Ru vội giải thích:

- Con A-Giát đấy. Nội vùng này ai cũng biết nó. Chó của thằng nhỏ Phú cháu ruột ông Mẫn Đồng hồ, bạn thân của tôi đấy. Chút xíu nữa thì…

- Nhưng thượng sĩ cũng thấy rõ ràng là nó “tải hàng” mà.

- Thấy, thấy rồi! Có điều, trong cái kiện hàng con A-Giát chuyên chở từ Việt Nam bên này qua Cao Miên bên kia, chỉ có hai hoặc ba kí lô… chì đặc mà thôi.

- Chì đặc? Sao lại kỳ thế?

Quản Ru cười khanh khách:

- Vậy đó! Chì đặc đúc thành mấy chú lính bé bé xinh xinh. Nguyên bên Mương lai bản, có một thằng nhỏ bị tê liệt cả hai chân, tội nghiệp lắm. Suốt ngày ngồi bẹp dí một chỗ, nó chỉ vui sống bằng cách tô điểm dung nhan cho bọn lính chì tí hon. Hơ, hơ! Bây giờ thì hiểu rồi chứ hả, bồ tèo? Thôi, ta về. Ông bạn… khỉ khô!

……………………………………………….

Xem tiếp chương 5 & 6