Phần 03
Hơn nữa, chắc không phải là ông ta bị bệnh, vì đôi mắt ông ta sáng quắc, chân bước nhanh nhẹn và vững chãi. Tuổi chừng gần 40, ông ta ăn mặc giản dị, nhưng đàng hoàng. Ông ta hỏi tôi, hơi pha giọng Đức:
- Ông là ông Hoàng Vĩnh phải không ạ? Tôi đã được nghe nói tới ông, là một người không những thạo nghề, mà còn kín đáo nữa.
Tôi nghiêng mình thi lễ. Tất cả mọi thanh niên như tôi đều phải lấy làm hân hạnh vì được khen tặng như vậy. Và tôi hỏi ông ta ai đã nói cho ông biết những điều hay ho về tôi như thế. Ông ta trả lời:
- Ồ! Có lẽ tốt hơn là tôi không cần nói với ông điều đó ngay bây giờ làm gì! Nhưng cũng nhờ người đó mà tôi được biết ông mồ côi cha mẹ, độc thân, và ở tại Luân Đôn.
Tôi nói:
- Tất cả những điều đó đều đúng, nhưng tôi không hiểu làm cách nào ông biết được khả năng và nghề nghiệp của tôi. Và nếu tôi đoán không lầm thì ông đến tìm gặp tôi cũng là để nói chuyện về một vấn đề có liên quan đến nghề nghiệp của tôi phải không?
- Chắc chắn rồi. Nhưng lát nữa ông sẽ hiểu tại sao tôi cần phải biết rõ những điều đó. Chả là vì tôi có một công việc muốn cậy ông, và điều cần nhất là công việc này phải được hết sức giữ kín. Ông nghe rõ không? Tuyệt đối giữ kín! Nhưng chúng tôi đã nghĩ rằng ông sống một mình thì có thể kín miệng được dễ dàng hơn là một người sống giữa gia đình.
Tôi nói với ông ta:
- Nếu tôi đã hứa với ông là sẽ giữ kín một câu chuyện bí mật, thì ông có thể tin ở tôi.
Trong lúc nói với tôi, ông ta nhìn tôi chăm chú, và tôi nhớ mình chưa bao giờ gặp một người nào có đôi mắt ngờ vực và soi bói đến như vậy.
Ông ta nói:
- Vậy là ông hứa với tôi điều đó?
- Vâng.
- Ông sẽ giữ im lặng ngay từ bây giờ, trong lúc làm việc, và sau lúc đó xin đừng bao giờ nói lại với ai, hoặc ghi chép gì cả?
- Tôi đã hứa danh dự với ông!
- Vậy thì tốt lắm.
Ông ta đứng phắt dậy, đi nhanh như chớp tới cửa và mở ra coi : Ngoài hành lang không còn một ai.
Ông ta trở lại ngồi xuống:
- Được rồi! Kinh nghiệm cho tôi thấy rằng mấy người thư ký thường rất thích nghe lén công chuyện của chủ. Bây giờ ta có thể thảo luận được.
Ông ta kéo ghế ngồi sát lại gần tôi, và đôi mắt nghi ngờ và soi bói của ông ta lại nhìn chầm chập vào tôi.
Tôi bắt đầu thấy nóng tai. Cái lão gầy gò này làm tôi khó chịu và gần như sợ hãi. Dầu không muốn làm mất đi một khách hàng, tôi cũng nói:
- Tôi mong ông kể tôi nghe công việc mà đã làm ông phải mất công tới đây, tôi không có thừa thì giờ để nói chuyện vớ vẩn.
Mấy câu chót này tôi không chủ ý, mà tự miệng tôi nó thốt ra. Ông ta hỏi tôi:
- Năm chục đồng vàng để trả công ông làm việc một đêm có được không?
- Tôi bằng lòng.
- Tôi nói là phải làm việc một đêm, chứ thực ra có lẽ chỉ một giờ thì đúng hơn. Tôi chỉ cần ông cho biết ý kiến về một cái máy ép dùng thủy lực, mới bị hư thôi. Nếu ông cho biết nó bị hư hỏng ở đâu, chúng tôi sẽ tự sửa chữa lấy. Giá đó ông chịu không?
- Công việc có vẻ nhỏ bé so với món tiền mà ông trả công cho tôi.
- Vậy đó. Chúng tôi mong ông sẽ tới chiều nay, bằng chuyến xe lửa cuối cùng.
- Tới đâu?
- Tới làng Y-Phong, ở vùng Bách San. Đó là một làng nhỏ ven rừng. Từ nhà ga Luân Đôn, ông đi chuyến xe lửa tới nơi vào khoảng mười một giờ mười lăm.
- Được rồi.
- Tôi sẽ mang xe ngựa tới đón ông tại nhà ga.
- À, ra còn phải đi xa hơn nữa ư?
- Vâng, chúng tôi ở hơi xa một tí. Cách ga xe lửa làng Y Phong lối mười cây số.
- Vậy thì mình sẽ không tới nơi được trước nửa đêm. Tôi nghĩ chắc không có xe lửa trở lại Luân Đôn sau đó, vậy là tôi phải ngủ đêm lại đó?
- Vâng, chúng tôi có thể để một cái giường cho ông nghỉ.
- Rắc rối quá! Tôi có thể tới vào một giờ nào khác, tiện lợi hơn được không?
- Không! Chúng tôi đã thu xếp tính toán cả rồi. Chỉ có buổi tối là thuận tiện nhất. Vì thế, để đền bù cho ông, chúng tôi đã phải trả một giá cao như vậy. Hẳn ông cũng thấy rằng khối chuyên viên nổi tiếng trong nghề của ông, sẵn lòng đến với giá đó! Với lại, nêu ông không muốn làm thì ông chỉ cần nói cho tôi biết là xong.
Tôi nghĩ đến năm chục đồng tiền vàng, và đến những thứ phải tiêu, và tôi bảo ông ta:
- Tôi không từ chối đâu! Trái lại, tôi rất vui vẻ nhận lời. Nhưng tôi cũng muốn được biết công việc đó như thế nào, và tôi sẽ phải làm gì.
- Lẽ dĩ nhiên là tôi sẽ nói cho ông hay. vả lại tôi cũng không muốn chiều nay ông tới đó mà không biết gì hết về câu chuyện này. Bây giờ chắc hẳn không có ai đang nghe trộm mình chứ?
Phần 04
- Tôi đoan chắc với ông điều đó.
- Nếu vậy thì đầu đuôi câu chuyện là như thế này. Có lẽ ông cũng nghe nói đến thứ đất sét hút chất mỡ dùng trong kỹ nghệ lọc dầu, là một tài nguyên trong tương lai chứ, và ở cả nước Anh người ta chỉ tìm được có một hai vùng có thứ đất đó.
- Tôi cũng có nghe nói.
- Cách đây ít lâu, tôi có mua một khu đất, nhỏ xíu thôi cách vùng Bách san độ mươi cây số. Và may mắn thay, khu đất này có một chỗ có thứ đất sét quí đó. Xem xét kỹ, thì tôi lại thấy phân lượng đất sét quí còn ít ỏi vì nó chỉ là chỗ tiếp giáp giữa hai thửa đất có chứa một tỷ lệ cao hơn nhiều. Nhưng hai thửa đất kia lại thuộc quyền sở hữu của những người láng giềng của tôi. Những người dân quê hiền lành đó không biết là chỗ đất của họ có giá trị như một mỏ vàng. Tôi thì tất nhiên là tôi muốn mua được những miếng đất đó của họ, mà phải làm sao để họ khỏi đoán biết giá trị của chúng! Nhưng tôi chưa có đủ vốn để mua, tôi có cho một vài người bạn thân biết chuyện này. Các bạn tôi thúc dục tôi khai khẩn miếng đất của tôi trước đã, để có thể kiếm đủ tiền mua nốt phần đất kia. Chúng tôi đã bắt tay vào việc với một máy ép dùng nước trong việc khai khẩn. Cái máy ép này thì lại vừa bị hỏng, như tôi đã nói với ông đấy, vì vậy chúng tôi cần có một chuyên viên cho biết ý kiến để sửa chữa. Nhưng chúng tôi lại rất cần phải giữ bí mật câu chuyện này ; nếu dân trong vùng biết được là chúng tôi mang về nhà một vị kỹ sư, trí tò mò của họ sẽ nổi dậy, và nếu họ biết được tí gì về câu chuyện này, thì chúng tôi hết mong mua được đất của họ. Đó là lý do tại sao tôi đã muốn ông phải thề không tiết lộ với bất kỳ ai về việc ông tới làm tại Y Phong, bây giờ ông đã rõ chưa?
Tôi trả lời:
- Tôi hiểu rồi, chỉ có một vấn đề mà tôi chưa được rõ lắm là tại sao ông lại phải cần đến một cái máy ép dùng thủy lực, để lấy đất sét lên?
Ông ta nói:
- À, cái đó là vì chúng tôi muốn ép đất đó lại thành những viên gạch, để mọi người không để ý đến. Nhưng đó chỉ là vấn đề chi tiết. Tôi đã thố lộ hết cho ông nghe rồi đấy, và ông thấy là tôi đã tin ông đến đâu.
Nói đến đây ông ta đứng dậy nhắc lại là sẽ đợi tôi đúng mười một giờ mười lăm ở làng Y Phong, và dặn thêm:
- Cần nhất là ông đừng cho ai biết đấy nhé!
Ông ta ném cho tôi một cái nhìn đầy ý nghĩa, rồi bắt tay từ giã tôi (bàn tay ông ta ẩm ướt và lạnh ngắt).
Khi tôi nghĩ lại về câu chuyện này, tôi không khỏi ngạc nhiên đến sửng sốt. Một mặt, tôi lấy làm vui mừng, vì món tiền sẽ kiếm được to gấp mười lần số tiền mà tôi đòi hỏi, nếu ông ta hỏi ý kiến tôi, và tôi tự nhủ có thể sẽ còn có nhiều dịp khác kiếm tiền như vậy nữa, nhờ câu chuyện này. Nhưng mặt khác, tôi lại khó chịu vì thái độ của ông khách. Câu chuyện về thứ đất sét hút mỡ của ông ta có vẻ mơ hồ, khó tin để mà giải thích được một cách hợp lý cho việc ông ta cần phải gặp tôi ban đêm và bắt tôi không được tiết lộ điều bí mật với ai hết. Nhưng tôi cũng dẹp nỗi lo lắng ấy lại để đi ăn tối ngon lành. Sau đó, tôi ra nhà ga Luân Đôn. Cho đến khi xe lửa khởi hành tôi không hề nói với ai về chuyến phiêu lưu đó.
Tôi tới làng Y Phong lối hơn mười một giờ tối. Chỉ có mình tôi bước xuống. Trên sân ga chẳng có một ai, ngoại trừ người sếp ga lúc lắc cây đèn hiệu. Tuy vậy, khi ra khỏi cửa, tôi cũng trông thấy ông khách ban chiều, đang đứng đợi trong bóng tối. Không nói lời nào, ông ta nắm lấy cánh tay tôi và đẩy tôi vào một chiếc xe ngựa đã mở cửa sẵn. Ông ta đóng cửa kính quanh xe lại, và gõ vào thùng xe, để ra hiệu cho người xà ích khởi hành. Con ngựa chạy hết sức nhanh…
Sĩ Lâm ngắt lời:
- Có một con ngựa thôi ư?
- Vâng, chỉ có một con thôi.
- Ông có để ý xem nó màu gì không?
- Có, nhờ ánh đèn khi tôi lên xe, tôi thấy nó màu nâu.
- Nó có vẻ khỏe hay mệt?
- Ồ, khỏe khoắn hoàn toàn và bóng mướt!
- Cám ơn ông. Xin lỗi đã ngắt lời ông vừa rồi, bây giờ xin ông cứ tiếp tục kể nốt câu chuyện đi.
- Thế là chúng tôi phóng xe ngựa đi, trong khoảng ít nhất cũng một giờ. Đại tá Linh Sa đã bảo là xa chừng mười cây số, nhưng nhắm vận tốc xe và thời gian đi, tôi đoán khoảng đường phải dài lối hai lần như vậy. Ông ta ngồi cạnh tôi, và không nói một lời nào, chỉ nhìn tôi chú mục đến nỗi tôi không biết làm gì hơn là để ông ta nhìn. Trong vùng ấy đường có vẻ xấu vì xe đôi lúc bị xóc lên dữ dội. Tôi nhìn qua kính xe để đoán xem những nơi nào chúng tôi đi qua nhưng kính xe bị một lớp băng ở ngoài bám chặt vào nên tôi chỉ thỉnh thoảng thấy ánh sáng một ngọn đèn mà chúng tôi vượt qua thôi. Muốn đỡ chán, tôi gợi ra một vài chuyện để nói, nhưng ông đại tá chỉ trả lời tôi bằng vài câu nhát gừng, thế là hết chuyện. Sau cùng, xe rời con đường khấp khểnh để lăn trên sỏi, và dừng lại. Đại tá Linh Sa xuống xe, tôi cũng xuống theo, nhưng ông ta lôi tôi ngay vào một cái cổng mở sẵn, ngay bên cạnh xe,