Lữ Quán Giết Người Chương 13 & 14 (hết)

Chương 13

Trời tháng Giêng thật đẹp. Một lớp tuyết mỏng phủ lên mặt đường, mặt nước và trên bùn nom loang loáng như một tấm gương vĩ đại lấp lánh phản chiếu ánh mặt trời. Trời xanh mầu ngọc bích, không một gợn mây vương, trong vắt.

Mặt đất khô cứng, những cọng cỏ ngắn, dòn, rào rạo dưới mỗi bước chân như khi người ta dẫm trên lối đi trải sỏi vụn.

Quanh vùng, trên những lối đi nhỏ hẹp cạnh hàng giậu thưa, vầng dương chiếu sáng và sưởi ấm bầu không khí trong lành, tinh khiết. Hương vị đầu xuân thoang thoảng, e ấp và đầy quyến rũ.

Song ở đây, trên đồng hoang, cái lạnh cắt da của những ngày đông tàn vẫn còn nấn ná, chưa lui. Mary đang đi dạo trên đồng hoang, một mình. Gió buốt lướt trên mặt cô gái. Nàng băn khoăn tự hỏi: sao ngọn Kilmar bây giờ không còn giữ vẻ rùng rợn, đầy đe dọa như trước? Sao nó chỉ còn là ngọn đồi có những chóp nhọn chia chỉa vươn lên nom hùng vĩ, âm u dưới vòm trời? Phải chăng sự sợ hãi trước kia đã làm cô mù quáng, không nhận ra vẻ đẹp thiên nhiên của nó? Hay vì kinh tởm lữ quán Giao Mai và Joss Merlyn mà Mary ghét lây cả cảnh vật xung quanh?

Kìa! Đồng hoang vẫn biệt lập, lạnh lùng, các ngọn đồi vẫn không hiếu khách, song dưới mắt cô gái bây giờ chúng chả còn chút gì bí ẩn, ghê người. Thật vậy, Mary nhìn cảnh vật bằng đôi mắt bình thản, dửng dưng.

Bây giờ đây, Mary Yellan hoàn toàn được tự do, nàng có thể đi đâu tùy thích. Ý tưởng của cô gái hướng về Helford yêu dấu và những đồng bằng xanh ngắt hiền hòa của miền Nam. Cô tha thiết muốn gặp lại làng mạc cùng những khuôn mặt quen thuộc. A! Helford! Nơi đó dòng sông rộng trong suốt chảy qua; Mary nhớ từng tiếng động, phân biệt từng mùi thơm, nàng nhớ từng con suối nhỏ chảy ngoằn ngoèo gây nên tiếng róc rách êm tai như khúc nhạc thiên nhiên đầy quyến rũ!

Nơi đó là nơi người ta có thể yên lòng nghỉ ngơi sau những giờ nhọc nhằn ở ngoài đồng, trong trại.

Mùa hạ, lá rì rào, một thứ âm nhạc êm dịu khác thứ nhạc suối xôn xao. Rồi đông về, dù khẳng khiu cành, trơ trụi lá, ngàn cây vẫn là nơi trú ẩn cho khách lỡ bộ đường.

Chao! Mary ao ước được nhìn lại bầy chim bay lượn trên các tàng cây, nhìn các cánh bướm nhởn nhơ trên nội cỏ, khát khao nghe tiếng hót véo von của một loài chim lạ, như tiếng mời gọi ân cần, như lời khuyến khích cô gái quê cô thêm phấn khởi, tay vuốt mồ hôi, quên cả nỗi nhọc nhằn.

Mary thèm nghe tiếng động quen thuộc của nông trại biết là chừng nào; tiếng gà mái cục tác khi làm tổ, tiếng gà trống gáy ó o, tiếng đàn ngỗng kíu kít, bầy vịt bì bõm lội dưới ao và kêu quàng quạc.

Nàng nôn nao cảm thấy như hơi thở ấm của bầy cò quyện lẫn trong không gian làm ấm cả tay nàng và tiếng bước chân nặng nề của chúng như đánh nhịp với con tim cô gái. Nàng nhớ cả mùi phân nồng ngây ngây ở trong chuồng.

Và cái tiếng gầu va chạm vào thành giếng sao cũng làm nàng xúc động, bồi hồi? Mary nghĩ rằng mình sẽ sung sướng vô vàn khi được đứng tựa vào hàng rào mỗi chiều, ngắm con đường làng nhỏ bé, chào một người bạn đi qua, nhất là nhìn làn khói xanh thoát lên từ ống khói của các ngôi nhà lân cận.

Việc đồng áng là sở thích của Mary: mỗi sáng, nàng dậy sớm xách nước xong, cô gái duyệt qua một vòng giữa đám gia súc thân yêu như vị tướng lãnh duyệt xét đám binh sĩ dưới quyền; mà tiếng kêu đòi của chúng với nàng khác nào khúc nhạc binh hùng dũng!

Rồi đây, Mary sẽ ra công lao tác, sự cố gắng đem lại cho nàng niềm vui, và cũng là kẻ thù của sự buồn phiền. Mary tin là mình sẽ tìm thấy bình yên cho tâm hồn như mọi người trong giòng họ Yellan chất phác của mình. Nàng thuộc về ĐẤT như họ, dính liền vào ĐẤT như họ vậy; một ngày kia, ĐẤT lại sẽ cũng ấp ủ nàng như họ. Phải! Mary đã sinh ra tại đây và nàng cũng sẽ chết tại đây.

Sự cô độc không đáng ngại đối với cô gái quê. Một nông dân không biết đến cô độc; cả ngày làm việc, đêm tối thẳng giấc trên giường. Nàng há không định sống như thế từ lâu đó ư? Nàng tin mình đã chọn đúng con đường tốt và sẽ không do dự. Nàng sẽ từ biệt gia đình ông Bassat nay mai...

Nàng không hợp với nếp sống trưởng giả của họ, tuy là họ tốt, quá tốt đối với nàng. Họ biết nàng không còn ai là thân nhân nên hết sức nài nỉ nàng ở lại với gia đình họ.

Bà vợ viện cớ ông tòa hay vắng nhà, mình cần một người bạn nhỏ và một người săn sóc các con bà. Ông chồng thì nói:

- Mary! Cô trẻ quá và đẹp quá, không thể sống một mình. Cô cứ xem đây là gia đình cô. Vợ tôi và tôi đều quí mến cô. Thiếu gì việc cho cô làm? Cắt hoa trang hoàng nhà cửa này, viết thư hộ nhà tôi này, la rầy lũ trẻ này... Tôi biết cô không thích ở không, cô sẽ không ở không đâu.

Các con của ông bà cũng quí mến Mary. Henry tỏ ý muốn tặng chi Mary Yellan con ngựa quí của nó, con ngựa mà các em nó, nó cũng không cho đụng đến.

Trong phòng khác, bà Bassat không ngớt dỗ dành Mary:

- Một ngày kia, cô sẽ lập gia đình. Không ai có thể sống cô độc suốt đời, nhưng trở về Helford cô sẽ buồn... và nếu lấy chồng, tôi tiếc cho cô...

- Thưa bà, tiếc về cái gì, kia ạ?

- Cô sẽ làm vợ một nông dân... Tôi không bao giờ muốn thấy cô vất vả lao tác, Mary! Tôi không nói quá đâu: cô xứng được sung sướng, nhàn nhã...

Mary đỏ mặt, nhưng đôi mắt cô xa vời làm người đàn bà tế nhị ngừng lại, kêu lên:

- Mary! Cô nhớ Helford đến thế kia ư?

Cô gái gật đầu, không nói nhưng nét mặt cô như nói rất nhiều. Bà Bassat hỏi :

- Thế sao, sau khi mẹ chết cô không ở yên tại Helford mà dấn thân đến chỗ miệng hùm, nọc rắn như thế, hở Mary?

- Thưa bà - Mary cố dấu vẻ bực bội - chỉ vì tôi phải theo ý muốn của mẹ tôi: đến ở với dì, Mẹ tôi bảo con gái không thể ở một mình...

Bà Bassat chộp lấy cơ hội tốt:

- Đó! Cô thấy chưa? Cô ở lại với chúng tôi là phải, chắc là ý kiến tôi không trái với mẹ cô. Cô nghĩ kỹ đi!

Một lần nữa Mary cố gượng cười tỏ lời cảm ơn ông bà nhưng vẫn không nhận lời ở lại. Hai người không hiểu được lòng hoài hương của cô gái quê, họ cho là vì quá xáo động tinh thần trong những ngày qua nên cô gái thẫn thờ, buồn bã.

Họ cố giúp nàng khuây khỏa, nhưng mọi cố gắng của họ đều vô ích, nếu không muốn nói là làm cô gái khổ sở bực bội, khó thở hơn.

Nhà ông bà Bassat luôn luôn có tiệc tùng, hội họp, khách khứa thường xuyên. Hai ông bà muốn Mary có mặt trong những buổi tiệc, cuộc họp đó. Họ giới thiệu nàng với thực khách - đám thực khách nhà giàu, thuộc thành phần trưởng giả như họ - với bạn bè, với những tiểu thư, công tử, với những bà mệnh phụ rỗi việc, dông dài, giết thì giờ trong các buổi tiếp tân hay ngoài phố.

Ông bà Bassat nói đến Mary, đến những hành động nàng như nói đến một thần tượng, coi nàng như bậc nữ anh hùng, làm cho có kẻ yếu tim phải tựa ra sau ghế dựa mà thở dốc! Có người ỷ vào địa vị và tuổi tác của họ, họ gọi Mary ra trước mặt, nhìn nàng chăm chăm từ gót đến đầu... Bọn thanh niên nam nữ thì khá hơn, họ không bày tỏ lộ liễu sự ngạc nhiên về cô gái quê, nhưng họ xì xầm bàn tán ngay sau lưng nàng, hay trong một góc xa xa...

Mary, vì để tỏ lòng kính trọng ân nhân nên không lộ vẻ bất mãn ra mặt, song cô gái hết sức khổ tâm. Nàng không thuộc vào tầng lớp xã hội này, không thuộc vào giai cấp này. Cuộc sống nhàn nhã không thích hợp với nàng. Mary chỉ yên ổn, thanh thản trong lòng khi được hít thở bầu không khí của trang trại, nhìn thấy dòng sông, dòng suối ở Helford yêu dấu. Tay nàng quen lao tác mất rồi. Hơi hướm của đất đai, của hoa mầu, của phân phóng đem lại nàng tin yêu, vui vẻ. Tiếng động của chim chóc, của gia súc làm nàng phấn khởi hơn là điệu nhạc nhàm tai ở dưới mái nhà này. Cái gì cũng xa lạ, như quá khổ, cũng không hợp với kích thước tinh thần của Mary!

Trong nhà của vợ chồng ông tòa, Mary chỉ tìm thấy chút hòa hợp, chút an ủi nơi bác Richards quê mùa chân thật. Bác có cái gì gần gũi hợp với Mary. Richards ưa đùa, hay khôi hài làm cô gái quên đi đôi phần phiền muộn. Bác có những nhận xét rất tinh tế, một đôi khi; chẳng hạn có lần bác bảo Mary:

- Này, cô trông cái nhà cô Helen kia, tôi cam đoan là nếu cô ta không tô môi, vẽ mắt cô ta còn xấu hơn con ma lem. Cô ấy thua cô xa, cô thấy không?

Mary cười, gặng:

- Thua tôi? Về cái gì?

Richards xua xua hai tay:

- Về tất cả: sắc đẹp, lòng can đảm, sự thông minh, tháo vát... Mà này (bác thấp giọng) dù cho cô ta có vẽ vời trang điểm đến mức nào cô ta vẫn xấu, không thể so bì được với cô.

Mary bật cười:

- Thôi! Bác đùng có tôn tôi lên ngai hoàng hậu, tôi sợ phải ngồi trên đó mà chịu chuyện quần thần...

Cả hai cùng cười to, vui vẻ. Rồi thình lình, Richards lập nghiêm:

- Mary! Altarnun đang khuyết một chân linh mục phó, cô còn chần chờ chi nữa, hãy ứng cử đi! Tôi cá là cô sẽ đắc cử, cô sẽ khá hơn linh mục cũ, vị linh mục giả, người đã làm cô...

Chợt, Richards ngưng bặt vì thấy Mary cau mặt, thở dài. Bác ta áy náy:

- Mary! Xin lỗi cô nhé! Tôi vô tâm vô tứ, tôi không cố ý...

- Không! Bác đừng quan tâm... tôi chả buồn đâu. Tôi cảm ơn bác nhiều lắm đó, nếu bác không đến kịp...

Tuy miệng nói thế, Mary không khỏi rùng mình. Theo lời bà Bassat kể lại lúc nàng tỉnh dậy trên giường thì đàn chó xúm đến toan vồ xé cô nếu Richards không đến kịp, cứu cô. Bác mở trói cho cô, tháo khăn bịt miệng, lay gọi mãi mà Mary vẫn mê man. Ông Bassat cũng có mặt tại đó, ông tức tốc cho lệnh vực Mary về và mời bác sĩ đến ngay.

Mặt xanh nhợt, hơi thở dồn dập, bà Bassat nhắc đến bệnh trạng Mary trong những ngày nàng nằm liệt bằng giọng xót thương và sợ hãi. Mary cũng hiểu, tuy nàng không bị thương nặng nhưng khắp người nàng sây sát vì đá nhọn và gai cào. Mary ê ẩm, nhức nhối còn hơn cái đêm bị bọn Joss trói, lôi ra bờ biển.

Nàng được nghe ngoài bà Bassat còn nhiều người kể lại cuộc bao vây, săn đuổi theo người đàn ông đầu não, người gây ra nhiều chuyện kinh động cả nước Anh vì những vụ đắm tàu tàn nhẫn. Chỉ mình Richards là lúng túng, không bao giờ muốn nhắc đến công mình đã cứu Mary.

- À! Cô cứ nói, nếu lúc đó tôi không tới kịp thì cũng có người khác: Jean Merlyn, ông tòa, Jimmy những 50 mạng đi theo chứ bộ mình tôi sao?

Mary giật mình, nghe tim đập rộn trong lồng ngực: nhiều ngày qua, không một ai nhắc đến tên Jean. Mà nàng thì rất nóng muốn biết tin anh nhưng vẫn giữ ý không dám hỏi. Mary chả biết mở lời ra sao cả. Người ta sẽ nghĩ sao về nàng? Sao nàng lại quan tâm đến Jean Merlyn em trai Joss, tên trộm ngựa của chính ông tòa?

Mary chăm chú lắng nghe Richards nói chuyện. Nàng chỉ mong bác ta nói thêm về Jean Merlyn, nhưng lần nào, bác thao thao về điều khác:

- Mary Yellan! Tôi cá với cô (ấy, bác ta ưa dùng tiếng cá cũng như các người trưởng giả nói đến hai tiếng cam đoan) bây giờ không còn một tên buôn lậu, cướp biển nào lảng vảng ngang lữ quán Giao Mai nữa. Tin tôi đi! Rồi đây, tôi sẽ đem gia nhân đến, quét sạch mạng nhện, lau chùi bụi bặm, sửa sang lữ quán cho thật khang trang sạch sẽ. Tôi sẽ trang hoàng lữ quán không thua chi khách sạn Hoàng Gia. Tôi sẽ thuê những tên bồi bàn lương thiện, ngoan ngoãn, cả người chúng không hề bay mùi rượu... như cô vậy đó. Chúng mang những tạp-dề trắng tinh, trước ngực có thêu hàng chữ đỏ chóe: "Chào mừng quí khách" để cô lác mắt... Và trước quán, cũng có tấm bảng "Chào Mừng Quí Khách" y như thế!

Mary vui vẻ:

- Bác không làm việc cho ông tòa nữa, hử?

- Tôi ra riêng mà, tôi già rồi, cô thấy không? Phải tự mình làm chủ đời mình chứ! Đó! Tôi đổi tên lữ quán là khách sạn "An Lạc". Tên đó hay không? Có nghĩa là vô đó thì thâm tâm an lạc, khỏi phải thắc mắc đắn đo gì tất. Có điều...phải chi tiền hơi đăn đắt một chút, vì sao, cô biết không?

- Làm sao tôi biết nổi?

- Trời ơi! Vì quanh đó đâu có lữ quán nào? Mà tôi đã điều khiển lữ quán thì phải biết, không ai tận tâm, tận lực bằng tôi. Giường êm, nệm ấm, đèn sáng, thực phẩm ngon… Cô tin tôi không? Cứ trông tôi săn sóc ngựa của ông chủ là biết... con nào cũng bóng nhoáng như có tẩm dầu...

Mary quên cả cảnh ngộ mình, cười ngặt nghẽo. Richards nói tiếp:

- Sẽ chả có một mống lưu manh nào dám thập thò, chõ mũi vào cổng lữ quán của tôi chứ đừng nói đến chuyện dám đặt chân vào quầy rượu...

- Ủa, bác bảo bọn bồi bàn của bác không có mùi rượu trong mình mà?

- Ậy, chúng không có mùi rượu đâu có nghĩa là lữ quán của tôi không bán rượu? Lữ khách mà không uống rượu sao được? Đàn ông không có rượu khác gì quốc kỳ treo chỗ không có gió? Còn ra cái thể thống chi? Mary! Về điểm này, cô kém lắm, kém lắm!

- Thì đã hẳn, tôi có chối cãi chi đâu...

- Ngày khai trương khách sạn, tôi sẽ mời đông, rất đông quan khách. Mà khách danh dự, đố cô, cô biết ai không?

- Ông bà Bassat chớ ai. Tôi biết...

- Sai nữa nhé! Cô, cô là vị khách danh dự của Khách sạn An Lạc đó, đừng tưởng chuyện lơ mơ...

- Rồi sao nữa?

- Sau đó, tôi sẽ cho gia nhân đưa cô về thẳng Helford như ý muốn. Đúng ra, tôi lưu cô lại làm việc với tôi, nhưng tôi biết không khí của một lữ quán không hợp với cô. Đúng không nào?

- Đúng! Bác nói gì mà chả đúng...

- Tôi đi dép vào tim cô ấy chứ! Về đó, cô cứ yên chí mà lo việc chăn nuôi, trang trại. Khỏi lo mang đi bán ở đâu hết. Gà, vịt, trứng, rau của cô sẽ dành cung cấp cho lữ quán An Lạc... Tôi không mua rẻ, bắt chẹt cô đâu. Bằng lòng không nào? Ký giao kèo ngay từ bây giờ, kẻo muộn!

- Ký, ký cả hai tay!

Mary thật tình nguôi khuây được đôi khi, nhờ những mẩu chuyện như thế giữa nàng và bác Richards. Nhưng sau đó, nàng lại buồn rũ giữa phòng khách trang hoàng lộng lẫy của ông bà Bassat, trong phòng ăn với những thực phẩm cầu kỳ nhiều gia vị, với lối ăn uống kiểu cách kéo dài và nhất là khoảng trống vô dụng, sống nhờ, sống gửi; cuộc sống vô vị, chán chường.

Một lần kia, vô tình, ông Bassat nhắc đến Jean trong bữa ăn, giọng đầy trách cứ: rằng Jean Merlyn là một tên vô ơn, bội nghĩa đã mất tăm từ sau khi hạ được hung thần của dân chúng vùng này. "Dù sao đi nữa - ông gằn giọng - hắn cũng phải biết rằng nhờ tôi cho hắn cơ hội đó, nếu không ấy ư, nó cũng cùng số phận với giòng họ Merlyn nhà nó: bỏ xác trong tù hay bị treo cổ lên cây..."

Rồi ông phủi phủi hai tay, nói tiếp:

- Mà thôi! Tôi chả quan tâm đến hắn... Mặc xác hắn. Hắn đi đâu, làm gì tùy ý, miễn chớ làm điều phạm pháp thì thôi. Nhưng đã chắc gì... giòng máu bất lương chảy trong huyết quản hắn, giòng máu Merlyn!

Mary ngồi lặng, miếng khoai trong miệng nát nhừ mà nàng nghẹn cứng cổ, không nuốt đuợc.

Cô gái chỉ thật sự dễ thở, thoải mái những khi được một mình, nhất là như sáng hôm nay, nàng đi dạo trên đồng hoang, tâm trí phiêu du, vừa đi vừa nghĩ đến ngày mai, khi nàng trở lại Helford...

" Jean Merlyn! Dù sao, anh tệ lắm: anh không hề trở lại để thăm tôi trong những ngày tôi nằm liệt trên giường. Vậy mà anh bảo anh yêu tôi? Anh bảo... Cái gì ngăn anh? Tôi thú nhận là yêu anh, chỉ yêu một mình anh thôi, từ nay cho đến mãn đời, nhưng đừng hòng tôi đến nhà anh để kiếm anh. Không! Không bao giờ cả! Ngày mai, tôi sẽ từ biệt ông bà Bassat trở về Nam. Tôi là nông dân, anh nhớ thế! Tôi thăm đồng hoang lần cuối, hôm nay!" 

Mary lẩm bẩm. Nàng ghi nhận tất cả cái hùng vĩ, bình thường của từng tảng mây, từng cọng cỏ, từng ngọn đồi, từng lối đi, từng phiến đá. Để rồi ngày mai nàng quay lưng lại và mãi mãi không đến nơi này...

Chương 14 (hết)

Mary vẫn vừa đi vừa miên man suy nghĩ. Nàng nhớ lúc trước mẹ nàng vẫn bảo: "Lòng mình khó mà thỏa mãn" và nhất là cái câu: "Khi người đàn bà làm việc cho người khác, vì người khác thì họ dễ vui, dễ yên ổn trong lòng, nhưng khi họ làm cho chính họ thì..." Mary không phải hạng người ích kỷ, nhưng bây giò thử hỏi nàng có ai đâu để mà làm vui, mà sống vì người ấy, cho người ấy? Nàng chỉ còn có đất đai, làng mạc để bám víu, biết làm sao? Chả nhẽ nàng đi tu? Không, Mary biết rõ nàng: nàng không phải là thứ người có thể quên mình tới mức ấy. Các vị nữ tu khả kính nhưng không thể có nàng trong số ấy. Nàng ham hoạt động, thích vươn vai thở mạnh và khi vui nàng muốn cười to. Nàng muốn có bạn xung quanh, gà, vịt, ngựa bò, cỏ cây, sông suối, nếu không có ai gần gũi thì các sinh vật ấy cũng đủ vui rồi, và khung cảnh quen thuộc của Helford cũng là quá đủ cho một cô gái đã nếm nhiều gian khổ trong những ngày qua!

Mary cố quên, cô không cho mình nghĩ đến Jean Merlyn, chàng trai bướng bỉnh, ngang tàng đã gieo vào tâm hồn nàng mối tình đầu thắm thiết. Chàng trai đã vì nàng, trở lại nhà thờ lần thứ hai trong đời, đã làm những điều... Không! Chỉ nguyên mỗi việc anh ta vào nhà thờ quì xuống cũng đủ làm Mary thấy mềm lòng, huống chi... Ra ÁI TÌNH có thật, không phải là thứ chuyện vớ vẩn với cái bề ngoài mà cô đã từng mỉm cười chế giễu các bạn ngày xưa. ÁI TÌNH cao quí ở chỗ đổi khác con người, làm họ trở thành tốt hơn, hay hơn, nhất là... họ biết quên mình!

Ta sẽ nhớ anh ấy suốt đời! Ta sẽ yêu anh ấy suốt đời, nhưng nếu anh ấy không tìm đến Helford để gặp ta thì ta cũng cam, không bao giờ ta hạ mình đi tìm anh ấy.

Mary tự nhủ và một lần nữa ngẩng mặt ngắm kỹ khung cảnh đồng hoang...

Mary sắp sửa quay về, nàng phân vân không biết nên lựa lời cách nào để khỏi phật lòng ông bà Bassat.

Chợt Mary nghe tiếng động phía sau, cô quay lại: một cái xe ngựa lên dốc, ngược lại hướng nàng đang đi. Mary tò mò, che mắt cho đỡ chói để nhìn cho rõ. À! hình như một người dọn nhà thì phải. Gớm! Ngựa gò lưng kéo; trên xe lỏng chỏng những son quánh, lọ chai, chăn nệm. Đây là một cuộc dọn nhà của một người nghèo! Mary chạnh lòng nghĩ, nhưng rồi nàng bật cười khi nghĩ thêm: chưa chắc kẻ ấy nghèo hơn ta; khi ta mà dọn nhà ấy à, lại còn gọn gàng gấp mấy; vài cái áo cũ sờn rách, đôi giày gỗ, cái tạp-dề... cái rương thì còn nằm trong lữ quán Giao Mai mà ta cũng không muốn lấy lại và mang theo làm chi nữa... Được trở về Helford là quá đủ đối với ta. Rồi xe Jean sẽ tìm đến ta một ngày nào đó...

Trong lúc cô gái yêu đời còn ngẫm nghĩ thì chủ xe nhẩy xuống, cố đẩy giúp con ngựa của mình. Chiếc xe chậm chạp đến gần Mary. Nhận ra chủ cái xe, Mary giật mình kêu lên một tiếng:

- Ô! Jean!

- Mary! Mary Yellan! Tôi không ngờ còn được gặp cô ở đây đấy nhé!

Họ cùng ngừng lại, nhìn nhau không thốt được gì hơn. Anh chàng bẽn lẽn trong lúc Mary bình tĩnh trước:

- Anh vẫn thường đấy chứ?

Jean lấy lại phong độ kẻ cả:

- Tôi ấy ư? Hùm beo cũng không vật nổi tôi! Tôi nghe cô ốm liệt giường, phải không Mary?

- Anh lầm rồi, tôi chả đau ốm gì cả...

- Lại nói dối đấy nhé? Nom cô chưa lại thần...

Đột nhiên, Mary nổi giận lên:

- Mà tôi đau ốm hay không thì can gì đến anh? Anh hỏi làm gì? Anh có thèm đến thăm tôi đâu?

Jean khoanh hai tay lại, khẽ nghiêng đầu, làm bộ kiểu cách:

- Kẻ hèn này thật lấy làm ân hận, nhưng quả tình kẻ hèn vẫn ngày đêm tưởng nhớ đến tiểu thư...

Mary bật cười, nguôi giận nhưng lập nghiêm:

- Nếu anh còn giữ cái thói đùa giỡn không phải lúc như thế, tôi sẽ đi ngay bây giờ đây.

Jean chồm đến trước Mary:

- Chớ! Đồng hoang hiu quạnh, thân gái một mình, không nên bướng bỉnh mà mang vạ vào thân.

- Anh đi đâu cồng kềnh thế?

- Hãy khoan, ta nói về cô trước nhé? Cô đi đâu đây? Cô có thấy dễ chịu không?

- Tôi vẫn ở North Hill với ông bà Bassat, họ muốn giữ tôi lại nhưng tôi chán lắm... Đây không phải chỗ của tôi...

- Đừng khó tính quá, tiểu thư Mary! Họ là những người tốt, tôi nghe nói bà ta săn sóc cô chu đáo lắm... Tôi tin là ở đó, cô sẽ sung sướng, nhàn nhã tấm thân...

- A! Bây giờ tôi mới biết anh còn có tài làm...mật thám nữa kia đấy!

- Chớ nặng lời với tôi, Mary! Tôi nói thế không phải sao?

- Phải! Từ khi mẹ tôi mất đến nay, ông bà ấy là những người lo lắng cho tôi nhiều nhất. Chính vì vậy mà tôi do dự bấy nay. Jean ạ! Dù sao, tôi cũng sẽ rời ông bà nay mai. Tôi đi dạo đồng hoang lần chót đây...

Jean nhìn sâu vào mắt cô gái, chặn lời:

- Sao cô không đến thăm tôi lần chót?

- Tại sao à? Tại anh đâu có đến thăm tôi? Sao tôi phải thăm anh!

- Thì người ta đã xin lỗi, đã tỏ lòng ân hận rồi mà. Người ta đã bảo người ta nhớ lắm, nhưng người ta không muốn đến đó, bực lắm, phiền lắm...

Jean trở lại cái tinh ma, ranh mãnh: anh làm bộ cất mũ, nghiêng đầu, giơ một bàn tay tới trước như kiểu các ông trưởng giả săn đón mấy bà mệnh phụ làm cho Mary cũng vui lây. Rồi anh nghiêm giọng:

- Thế bây giờ cô định làm gì nào?

- Tôi sẽ trở về Helford.

Mary trả lời Jean, giọng chắc nịch, cương quyết. Jean huýt sáo, gặng:

- Thật chứ?

- Tôi có đùa như anh bao giờ đâu?

- Rồi cô làm gì để sống?

Mary giơ hai bàn tay trước mặt bạn:

- Tôi không phải tiểu thư. Tôi sẽ dựng nông trại, tôi không đủ tiền, thật đấy, nhưng ở Helford cũng như Helston có nhiều bạn bè cũ, họ giúp tôi trong những bước đầu.

- Khi về đến Helford, cô ở chỗ nào? Nhà cô đã bán, cô quên sao?

- Làm sao tôi quên được điều này? Nhưng trong làng tôi, dân chúng rất hiếu khách, có thể nói mọi nhà đều mở cửa đón kẻ lỡ đường. Huống chi tôi, tôi là người cũ trong làng... Với tôi, được về đó là sung sướng, sung sướng nhất.

Jean chăm chú lắng nghe. Anh trầm ngâm:

- Mary! Tôi chưa bao giờ có láng giềng, tôi có cảm tưởng là sống trong làng cũng như sống trong cái hộp, người này chõ mắt vào hàng rào người kia. Và nếu khoai tây của tôi lớn củ hơn khoai nhà cô ấy ư; tức thì có một cuộc bàn cãi rầm rĩ sôi nổi. Nhưng tệ nhất là nếu nhà mình có món ra-gu thỏ, là nhà bên kia ngửi thấy mùi liền, đó là chưa kể họ kháo nhau: "Thỏ nuôi hay thỏ mua, hoặc thỏ ăn trộm?" Lạy Chúa! Sống như thế đâu phải sống?

Vừa nói, Jean vừa làm vẻ nhăn nhó, khổ sở giả tạo, Mary cười ngất. Nàng cũng không vừa:

- Ấy là tại mình có tật nên mới giật mình, tại mình ăn trộm nên mới phải thắc mắc, nếu không thì cóc ngán ai...

Nàng bỗng thôi cười, nghiêm giọng:

- Giờ đến lượt anh! Anh chưa trả lời tôi: anh đi đâu mà cồng kềnh thế?

- Cũng như cô; tôi chán sống nơi này. Tôi chán ngửi mùi bùn. Tôi muốn làm lại cuộc đời mới, cuộc đời lương thiện. trong sạch như bất cứ một công dân Anh nào. 

Mary chăm chú nhìn Jean, cô cố dò xem anh ta có nói thật hay lại là một lối đùa dai như thói quen. Nhưng không, mắt anh ta thú nhận với Mary là anh ta nói thật. Mary cúi xuống để che dấu sự cảm động. Jean tiếp, giọng trầm trầm:

- Tôi chán cuộc sống lẩn lút nguy hiểm. Tôi đã hiểu thế nào là con đường phải. Này Mary! Tôi đã đến nhà thờ, lần này là tự ý tôi đấy nhé, cô có tin không?

- Tôi tin anh. Nhưng... nhưng anh định đi đâu mới được chứ?

- Tôi đi về hướng sông Tamar. Trên đó dễ kiếm tiền. Tôi sẽ làm việc, làm đủ mọi việc để có nhiều tiền. Dân ở đó giàu có hơn các vùng khác. Tôi sẽ mua ngựa đẹp bằng chính tiền tôi làm ra chứ không phải ăn trộm nữa...

- Jean! Làm sao tìm thấy bình yên trong một cuộc sống như thế? Rồi đến một lúc anh sẽ cảm thấy mỏi mệt vì cuộc viễn du kéo dài vô hạn định. Anh sẽ cần có mảnh đất của riêng anh, một mái nhà để che chở anh, để nghỉ ngơi trong lúc...

- Ậy, cái đó còn lâu. Tôi chưa thấy thích sống định cư một chỗ. Tất cả đất đai đều thuộc về tôi: bầu trời là mái nhà, mặt đất là giường ấm. Cô là đàn bà, cô không hiểu được đàn ông. Tôi thích đêm nay ngủ trên ngọn đồi, ngày mai đến một làng khác. Nay kết bạn với kẻ cùng đi một hướng, hôm sau lại chia tay. Cuộc đời luôn luôn thay đổi, khung cảnh luôn luôn thay đổi...

Mary vuốt ve con ngựa một cách trìu mến. Tay nàng cảm thấy hơi ấm của nó phả lên. Jean mỉm cười:

- Đất ở đâu không là đất? Trời ở đâu chẳng là trời?

- Nhưng đất ở vùng đó xấu và đen...

- Kể gì màu đen hay trắng? Bùn sình trong đồng hoang cô sống lâu nay trắng lắm đó sao? Mà ngay trong chuồng lợn của cô ở Helford, sau khi mưa không đen, hẳn?

- Hôm nay anh nói chuyện điên ghê, Jean ạ !

- Làm sao tôi có thể tỉnh táo được, hở Mary? Khi mà cô đứng đó, tựa vào ngựa của tôi, mái tóc rối tung lẫn vào bờm ngựa... và tôi, tôi biết rằng chỉ chốc lát đây hai ta đã mỗi người mỗi nẻo: tôi ngược bắc, cô xuôi nam. Tôi lên đồi hoang lạnh trơ trọi, còn cô, cô trở về nhà ông Bassat uống trà trong phòng ấm !

- Vậy thì anh khoan đi đã. Hãy cùng tôi về North Hill rồi tính sau...

- Đừng xui dại tôi nữa, Mary! Cô muốn tôi ngồi uống trà với ông tòa và để lũ con ông ngồi lên nũng nịu ư? Thôi đi! Tôi không thuộc vào lớp người đó.

- Cả em nữa, em cũng thế, Jean!

Mary nghẹn ngào như sắp khóc, nhưng nàng mím môi lại, cố nén:

- Anh ác lắm, Jean ạ! Trong đời anh, anh có bao giờ thương yêu ai đâu, nghĩ đến ai đâu...

- Mary! Vậy thì cô không hiểu tôi. Có, tôi có thương yêu, có nghĩ đến một người, một người đã cảm hóa tôi, khuyến khích tôi, gây cho tôi tin yêu vào cuộc đời, vào Chúa... nhưng hoàn cảnh không cho phép tôi, tôi biết làm sao? Rồi một ngày kia...

Jean đến gần Mary, nắm lấy tay nàng, giữ trong hai bàn tay rắn chắc của mình. Mary gục đầu vào vai Jean nức lên khóc, khóc rưng rức, không ngừng. Trong đời nàng, đây là lần thứ nhất, từ khi mẹ mất cô gái được khóc trong vòng tay người mình yêu, khóc trong sung sướng.

Jean lặng lẽ vuốt tóc người yêu, bàng hoàng vì xúc động. Anh kêu lên khe khẽ :

- Mary Yellan! Hãy hiểu cho anh...

Mary ngẩng đôi mắt đẫm lệ nhìn Jean:

- Anh lúc nào cũng muốn đi, đi, đi mãi...

- Không hẳn thế... nhưng vì em, anh đã bắt đầu nghĩ đến tương lai, một mái nhà, một...

- Vì em? Vì em mà hướng về sông Tamar? Trời làm mái nhà, đất làm giường ấm? Vì em...

- Phải! Vì em, anh đã từ bỏ cuộc sống trộm cắp bất lương, cố tu tỉnh làm ăn, sẽ dành dụm để có nhiều tiền, rõ nhiều. Rồi một ngày kia, anh sẽ trở về Helford với một cái xe ngựa và tất cả số tiền dành dụm, anh sẽ tìm đến nhà em, rồi chúng ta sẽ cùng ngồi trên xe ngựa đó, thẳng đến nhà thờ... Em không muốn như thế hay sao? Em muốn gì nào? Anh muốn dành cho em một ngạc nhiên... nhưng em đã làm cho anh không giữ kín được điều dự định...

Mary gỡ vòng tay Jean, đứng lùi ra một chút, vừa vuốt tóc, vừa nghiêm giọng hỏi:

- Tại sao anh lại không thể cùng em đi thẳng về Helford ngay từ bây giờ? Helford không có nhà thờ hay là anh muốn mang hết vàng bạc của toàn xứ Anh làm sính lễ cưới em? Anh coi em là thứ người gì chớ? Vả lại, sao anh dám chắc là một ngày vô định nào đó, anh trở lại Helford em không có chồng rồi?

- A! nếu thế, anh lại ra đi, trời làm màn, đất làm giường... Nhưng anh tin là...

- Em không đùa nữa. Ừ! Thì hãy cứ cho là em vẫn đợi anh, nhưng ngộ anh bị một tai nạn gì đó trong cuộc phiêu lưu hay đau ốm bất ngờ nơi quê người, xứ lạ thì sao?

Jean lúng túng một giây rồi đáp:

- Làm gì có chuyện nhảm nhí ấy? (Giọng anh trầm lại, thiết tha.) Mary! Hãy nghe anh! Anh không muốn em phải khổ nhọc vì anh, hiện nay chỉ có cỗ xe và những vật dụng tồi tàn... Bắt người mình yêu chia xẻ cuộc sống như thế thật là tàn nhẫn...

- Em không phải thứ con gái nhà trưởng giả, chờ xe hoa đến đón. Nếu anh yêu em, chúng ta chỉ cần đến một nhà thờ. Rồi, chúng ta có thể về làng em, chúng...ta...

- Anh có thể về Helford với em, song không về bây giờ được. Phải có một cái vốn kha khá, phải...khổ quá, anh không thể giải thích. Nghe đây! Anh đang chọn sự vất vả, vì em, và anh không muốn em phải chia sẻ sự vất vả đó. Chỉ còn cách em về Helford đợi anh...

Jean cúi xuống vòng tay ngang lưng Mary, định hôn từ biệt nàng, Mary đẩy ra, giọng cương quyết:

- Jean! Tôi hỏi anh và nhân danh Đấng tối cao, anh hãy trả lời thành thật: anh có yêu tôi không?

- Trời ơi, còn phải hỏi. Không yêu em, giờ này anh vẫn ngủ khò ở trong chòi... Ai đủ quyền lực bắt anh phải bỏ Trewarthat đi nơi khác kiếm tiền? Kiếm tiền để làm gì chứ? Em biết rõ mà!

- Vậy thì, em lên xe với anh đây. Em sẽ chia sẻ mọi cực nhọc với anh...

Mary nói và bước lên xe. Jean há miệng ra, trố mắt kinh ngạc:

- Mary! Chớ có quá rồ. Đừng bỏ chỗ an lành. Anh sẽ trở lại mà!

- Này! Hãy nghe em nói. Nếu anh định cùng em chung sống thì quyết định từ bây giờ. Bằng không hãy đi đi! Đi luôn đừng bao giờ tìm em ở Helford hay bất cứ đâu nữa. Em đợi anh trả lời đây!

Nàng phóc xuống đất, hai tay chống vào cạnh sườn, chờ câu trả lời với bộ dạng thách thức, giận dữ.

Jean mỉm cười, không trả lời mà lại nói:

- Nhưng em nhớ: chúng ta chưa về Helford được lúc này, em chịu nổi không?

- Hãy trả lời câu em hỏi...

Jean che mắt nhìn mặt trời chói chang, cao giọng:

- Trưa rồi, hãy lên xe, anh trả lời sau!

Jean cúi xuống, cất viên đá chêm bánh xe và đưa tay đỡ Mary. Cô gái bước lên, ngồi cạnh người yêu. Jean trao cương ngựa cho cô gái. Họ nhắm hướng sông Tamar tiến tới.

Hai người im lặng hồi lâu. Jean quàng tay lên vai bạn, khi anh sờ vào mặt Mary, anh cảm thấy tay mình nong nóng và ướt đẫm. Jean hốt hoảng kêu lên:

- Mary! Em khóc hở? Em hối hận đã lên xe với anh ư? Vậy thì anh xin đưa em trở lại...

- Không, em không hối hận! Chính em tự nguyện theo anh.

- Em liều lắm. Em chắc đâu rằng...

- Em tin anh, em đã nhìn kỹ mắt anh... và... và những hành động vừa qua của anh chứng tỏ em không nhầm lẫn...

- Cảm ơn em! nhưng em yêu anh hơn cả Helford được sao, hở Mary?

- Đừng bắt em trả lời câu hỏi đó. Em biết chỗ của em là bên cạnh anh từ phút này đây!

- Phải! Rồi chúng ta sẽ trở về Helford một ngày sắp đến. Và mỗi năm khi xuân về hay hè đến, em thấy nhớ Helford, ta lại về chơi vài tuần lễ trước khi ta có thể về luôn. Em chắc hài lòng?

Mary gật đầu, nụ cười rạng rỡ trên môi, nàng tựa vào người yêu tin tưởng và phấn khởi.

Jean chợt hỏi:

- Em định đến nhà thờ nào đây chớ?

- Cứ đi, đến chỗ nào có nhà thờ mà chả đuợc...

- Anh cứ tưởng em đòi về tận nhà thờ Helford kia đấy chứ! Mary! Em tiến bộ quá rồi!

- Còn anh, anh cũng đáng khen lắm đó, Jean ạ!

- Em khen anh? Về cái gì đây?

- Về chuyện anh đến nhà thờ lần thứ nhì, tự ý...

- Tưởng gì, anh đang ngán phải đến lần thứ ba, nhất là đến với một người con gái là... em.

- Thế nghĩa là anh không thể... vậy thì, em xuống đây vậy, nhé?

Mary nói và dợm bước xuống. Jean vội vàng ngăn lại:

- Ấy chớ! Van em, đừng bỏ anh côi cút một mình, anh không thể sống thiếu em, kể từ sáng hôm nay...

Đôi bạn hồn nhiền như hai đứa trẻ, cất tiếng cười vang.

Đồng hoang rực rỡ dưới nắng ấm. Hương xuân man mác quyện trong bầu không khí tinh khiết trong lành, hương xuân vây phủ quanh họ. Vó ngựa nện đều trên đường vắng, đưa họ tiến lên trong im lặng.

Cả hai cùng cảm thấy một niềm hân hoan, ngây ngất tuyệt vời làm cho họ không dám mở lời, tuy họ đang có nhiều, rất nhiều chuyện để nói với nhau nhưng họ sợ cất tiếng lên Hạnh Phúc sẽ giật mình, vỗ cánh. Mary ngờ ngợ, tưởng đang mơ, giấc mơ mà nàng không bao giờ dám ngờ có một ngày trở thành sự thật.

Cho đến một lúc Jean cất giọng ồm ồm hát:

- Tay trong tay ta bước lên đường,

Hạnh phúc trải dài như thảm cỏ dưới chân...

Và cô gái chưa kịp hỏi anh học được câu hát văn vẻ đó ở đâu thì anh đã ngừng lại, nheo mắt, bảo người yêu:

- Này! Trước mặt cha xứ cứ tình thật khai ngay nhé? Đừng có nói "Thưa cha, con đang đi dạo trên đồng thì anh ta đến, bắt cóc con", nghe chưa?

Lần này, những tiếng cười của đôi bạn trẻ lại lanh lảnh vang lên tưởng như không dứt, vì họ biết rằng Hạnh Phúc ngay trong lòng họ, ngay đây!

   Sàigòn 16-11-70

MINH QUÂN - MỸ LAN