Phần 3
- Lẽ tất nhiên, và khi chúng tôi đã xem qua tất cả những đồ vật đại loại như thế, chúng tôi đã xem đến chính căn nhà. Chúng tôi đã chia diện tích căn nhà thành từng phần một, và đã đánh số kỹ lưỡng để khỏi quên phần nào ; chúng tôi đã nghiên cứu từng phân vuông một của các đồ vật trong nhà bằng kính lúp và chúng tôi đã hiểu rằng đó là hai căn nhà ở cạnh nhau.
Tôi kêu lên:
- Hai căn nhà ở cạnh nhau! Như vậy ông làm việc mệt nhỉ?
- Vâng, mệt thật, nhưng vì phần thưởng quá lớn.
- Trong các căn nhà, các ông có khám xét nền nhà không?
- Nền nhà trải gạch tất cả. Tương đối, chúng tôi không gặp khó khăn gì mấy. Chúng tôi đã nghiên cứu dấu rêu giữa các viên gạch, và thấy rằng chúng không bị suy suyển gì cả.
- Các ông đã khám xét mọi giấy tờ của D, và sách trong phòng thư viện rồi chứ?
- Chắc chắn rồi : chúng tôi đã mở hết mọi gói và các ngăn đựng sách ; chúng tôi còn lật sách từng trang một để tìm kiếm chứ không phải chỉ cầm bìa sách lên và rũ rũ như các cảnh sát viên khác. Chúng tôi cũng đo bề dày của gáy sách coi có đúng không và chúng tôi còn nhìn kỹ bằng kính lúp nữa. Nếu có ai bỏ vật gì vào gáy sách, hay bìa da của một cuốn sách, lập tức chúng tôi khám phá ra ngay. Năm sáu cuốn sách đóng bìa da được kiểm soát bằng kim dài, đâm dọc theo gáy sách.
- Ông có soát sàn nhà, dưới các tấm thảm không?
- Còn gì nữa. Chúng tôi đã gỡ hết các thảm lên và dùng kính lúp để nghiên cứu sàn nhà.
- Và các giấy dán tường?
- Cũng vậy.
- Các ông có kiếm trong hầm rượu không?
- Chúng tôi đã kiếm trong hầm rượu rồi.
Tôi nói:
- Vậy thì, các ông đã đi lầm đường, và bức thư không phải ở trong nhà hắn ta như các ông tưởng.
Cảnh sát trưởng nói:
- Tôi nghĩ rằng ông có thể có lý đó! Vậy ông Đỗ Văn, bây giờ ông khuyên tôi nên làm gì đây?
- Khám lại tất cả!
- Hoàn toàn vô ích! Tôi chắc chắn là bức thư không có trong nhà hắn ta.
Đỗ Văn nói:
- Vậy thì tôi không biết khuyên ông gì hơn nữa. Chắc ông cũng biết hình dạng bức thư ấy ra sao rồi chứ?
- Ồ, cái đó thì có!
Và viên cảnh sát trưởng lấy ra một cuốn sổ và đọc lớn cho chúng tôi nghe, tả rất tỉ mỉ về bức thư bị đánh cắp đó, bên trong nó ra sao và nhất là vẻ bề ngoài của nó. Ít phút sau, khi đã đọc xong, ông ta từ biệt chúng tôi, còn rầu rĩ hơn và mất can đảm hơn bao giờ hết.
Lối một tháng sau đó, ông ta đến thăm chúng tôi lần nữa và bắt gặp chúng tôi cũng ở vào những vị trí na ná như lần trước. Ông ta châm một ống điếu, kéo một cái ghế bành, và bắt đầu nói huyên thuyên. Hồi lâu, tôi bảo ông ta:
- Này ông, còn vụ cái bức thư bị mất trộm đó thì sao? Tôi đoán có lẽ sau cùng ông đành chấp nhận rằng đấu trí với một bộ trưởng thì không phải là chuyện vừa, có đúng thế không?
- Quỉ sứ mang nó đi! Tôi cũng đã nghe lời anh Đỗ Văn, khám lại một lần nữa rồi đấy, nhưng đúng như tôi đã nghĩ, chỉ uổng công vô ích thôi.
Đỗ Văn hỏi:
- Tiền thưởng là bao nhiêu? Bữa nọ ông đã nói đó…
- Ồ… nhiều lắm… thật tuyệt, tôi không muốn cho anh biết đúng là bao nhiêu, nhưng tôi muốn nói với anh một việc, đó là tôi sẵn sàng bỏ tiền túi của tôi ra năm chục ngàn quan cho ai có thể tìm được cho tôi bức thư đó. Càng ngày tình hình càng trầm trọng và mới đây tiền thưởng đã được tăng lên gấp đôi. Nhưng thật ra,dầu người ta có tăng nó lên gấp ba đi nữa thì tôi cũng chẳng biết làm sao hơn.
Đỗ Văn vừa nhả khói, vừa dài giọng:
- Đúng rồi… tôi nghĩ là, thưa ông G, thật ra ông chưa làm hết sức mình… ông không thấu đáo vấn đề. Ông có thể làm hơn thế nữa được kia!
- Sao? Thế là thế nào?
Đỗ Văn ung dung nhả khói một cách thật nhàn hạ như cố kéo dài cơn sốt ruột của viên cảnh sát, rồi mới nói:
- Ông có nhớ câu chuyện bác sĩ An chứ?
- Không! Bác sĩ An thì ăn nhậu gì vào đây?
- Chắc chắn không ăn nhậu gì, nếu ông muốn. Nhưng, nó như thế này: một lần, có một người giầu có, rất hà tiện, tính chuyện nhờ bác sĩ An khám bệnh cho mà khỏi trả tiền. Trong một bữa tiệc, ông ta bèn giả bộ làm như có một bệnh nhân tưởng tượng và hỏi dò ông bác sĩ : “Ta giả thử, hắn bị như thế này, thế này, thì bác sĩ khuyên hắn phải làm gì”. Bác sĩ An nói : “Làm gì à? Thì chắc chắn hắn phải đi hỏi ý bác sĩ, chứ còn gì nữa”.
Viên cảnh sát trưởng, hơi mất tự nhiên, nói:
- Nhưng tôi khác, nếu tôi có đi dò hỏi ý kiến thì tôi cũng sẵn sàng trả thù lao kia mà. Tôi sẽ trả thật sự năm chục ngàn quan cho bất cứ ai giúp được tôi trong vụ này.
Đỗ Văn vừa mở ngăn kéo, rút cuốn bưu phiếu ra, vừa đáp:
- Nếu vậy, thì ông hãy ký cho tôi một ngân phiếu ghi số bạc đó đi. Sau khi ký xong, tôi sẽ trao ngay cho ông bức thư mà ông đang tìm kiếm.
Tôi rất đỗi ngạc nhiên. Còn viên cảnh sát trưởng thì như vừa bị sét đánh. Trong mấy phút, ông ta câm như hến, ngồi im phăng phắc, há hốc miệng nhìn anh bạn tôi, với một vẻ không tin và đôi mắt như muốn chạy ra khỏi tròng. Sau cùng, ông ta có vẻ dần dần tỉnh táo lại, ông ta vớ lấy một cây bút, và ngần ngừ một chút, mặt vẫn chưa hết ngớ ngẩn, ông ta điền chữ và ký vào tấm ngân phiếu, số bạc năm chục ngàn quan rồi đưa cho Đỗ Văn. Đỗ Văn xem xét kỹ lưỡng rồi cất cẩn thận vào bóp. Sau đó anh ta mở tủ sách, rút ra một bức thư, trao cho viên cảnh sát trưởng. Ông này cầm lấy bức thư, mừng đến gần ngất đi, run run mở ra coi, rồi chạy vọt ra cửa, không nói thêm một câu nào.
Phần 4
Khi ông ta đã đi khỏi, anh bạn tôi cắt nghĩa cho tôi nghe:
- Cảnh sát Ba Lê rất giầu kinh nghiệm. Các nhân viên của họ khôn ngoan, chu đáo, biết hết mọi việc phải làm. Vì vậy, khi G tả cho chúng ta nghe về lối khám xét trong căn nhà của D thì tôi hoàn toàn tin tưởng vào tài khéo của ông ta và tôi chắc ông ta đã làm đủ bổn phận về phương diện nghề nghiệp.
Tôi hỏi:
- Đủ bổn phận về phương diện nghề nghiệp ư?
Đỗ Văn nói:
- Đúng, những cách đó không những là những cách hay nhất mà còn có thể nói là hoàn toàn nhất nữa. Nếu bức thư được giấu ở trong vùng bị khám xét, thì chắc hẳn những nhân viên của ông ta đã tóm được rồi, điều đó tôi không còn nghi ngờ gì nữa.
Tôi mỉm cười, nhưng Đỗ Văn vẫn có vẻ rất nghiêm trang, anh tiếp:
- Vậy những kỹ thuật của họ ứng dụng vào việc tìm kiếm này thì rất tốt và đã được thi hành đúng đắn, nhưng chỉ có một lỗi lầm lớn là họ lại đem áp dụng không đúng chỗ, nghĩa là không thể dùng vào trường hợp tên D được ; điều đó viên cảnh sát trưởng lại không hiểu.
Trước đây tôi có quen một thằng bé lên tám, nó biết chơi trò chẵn lẻ một cách khôn ngoan không thể tưởng tượng được, đến nỗi mà ai ai cũng phải thán phục. Trò chơi này giản dị lắm: chơi bằng các viên bi. Một người cầm trong tay một số bi và hỏi người kia : “Chẵn hay lẻ?”. Nếu người kia đoán đúng, hắn sẽ được thưởng một viên, còn nếu hắn thua thì sẽ mất một viên bi. Thằng bé mà tôi quen đó, nó thắng tất cả các bạn và ăn hết bi của cả trường. Dĩ nhiên là nó phải có một cách riêng để đoán biết tâm lý của đối phương.
Giả tỉ địch thủ của nó là một tên hết sức thộn, giơ bàn tay ra hỏi nó : “Chẵn hay lẻ?” Thằng bé trả lời : “lẻ” và nó thua. Nhưng đến lần thứ hai nó sẽ thắng vì nó nghĩ là : “Thằng ngu kia lần đầu đã để số chẵn, và lần thứ hai, nó chỉ khôn lanh tới mức đổi sang số lẻ mà thôi, vậy nếu ta nói số lẻ nữa thì ắt phải thắng”. Thế là nó nói : “lẻ” và nó thắng.
Bây giờ, với một địch thủ khôn ngoan hơn chút đỉnh, nó sẽ lý luận khác hơn, như sau : “Tên này đã thấy rằng lần đầu ta nói lẻ và bị thua, lần thứ hai hắn sẽ nghĩ trước hết đến việc đổi chẵn thành lẻ như thằng ngu kia, nhưng suy tính lại, hắn sẽ thấy rằng nếu vậy thì giản dị quá, và sau cùng hắn sẽ quyết định vẫn giữ số chẵn như lần trước, vậy ta phải nói chẵn”. Rồi nó nói : “chẵn” và lại thắng. Bây giờ, bạn bè nó đều tưởng là nó gặp may nhưng mình biết rằng đó chỉ là một lối suy luận, vậy theo anh đó là lối gì thế?
Tôi trả lời:
- Đó chỉ là lối tự đặt mình vào địa vị của kẻ kia để suy nghĩ.
Đỗ Văn nói:
- Đúng đấy, và khi tôi hỏi thằng bé coi làm cách nào có thể tự đặt mình vào địa vị đối thủ một cách hoàn hảo như thế, nó trả lời như sau:
- “Khi tôi muốn biết người khác có thể khôn ngoan hay ngu ngốc đến mức độ nào, tử tế hay độc ác tới đâu, hay là lúc này kẻ kia đang nghĩ gì, thì tôi tự tạo ra một vẻ mặt rất giống với vẻ mặt của người kia, và tôi đợi xem trong đầu tôi sẽ nghĩ gì hay trong tim tôi sẽ có cảm giác nào, như là để thích ứng với vẻ mặt của tôi vậy”. Câu trả lời của thằng học trò hàm chứa một ý nghĩa tâm lý rất sâu xa.
Tôi hỏi:
- Vậy là muốn đặt mình vào địa vị của kẻ kia, thì phải hiểu đúng mức độ tri thức của kẻ đó?
Đỗ Văn trả lời:
- Thực tế thì phải như vậy, và nếu viên cảnh sát trưởng và cả nhóm họ bị lầm lẫn, trước hết là vì họ thiếu cái việc đặt mình vào địa vị của D, hai nữa, là họ không hiểu được trí thông minh của D, hay đúng hơn, họ không tìm hiểu. Họ chỉ nhìn thấy những sáng kiến hay ho của họ ; và khi họ tìm kiếm một vật, họ chỉ nghĩ đến những phương tiện mà chính họ, họ sẽ dùng, nếu họ muốn giấu vật đó. Họ rất có lý, vì những sự khôn ngoan của họ chính là sự khôn ngoan của phần đông mọi người ; nhưng, khi họ gặp một tên bất lương đặc biệt mà đầu óc sắc sảo khác thường, thì tất nhiên là họ sẽ bị tên này lừa bịp.
Chuyện đó rất thường xảy ra, vì họ không chịu thay đổi lối lục soát của họ. Cùng lắm, như trong trường hợp có phần thưởng rất to chẳng hạn, thì họ cũng chỉ khám xét kỹ lưỡng hơn, nhưng vẫn theo cùng một phương pháp cũ kỹ đó, và không chịu thay đổi một tí nào cả.
Ví dụ như trong trường hợp của D này, thử hỏi họ đã làm gì để thay đổi? Tất cả những công việc như lục lọi, đục bàn ghế, dò bằng kim, nghiên cứu bằng kính lúp đó là gì, nếu đó không phải là làm quá lố, trong lúc áp dụng các phương pháp khám nghiệm của họ? Anh có để ý thấy là ông ta nghĩ rằng tất cả mọi người, nếu muốn giấu một bức thư, đều khoan một lỗ trong một chân ghế, hay ở một chỗ nào đó không?
Và anh có thấy là một chỗ giấu đặc biệt như vậy chỉ được dùng khi người ta có một trí thông minh bình thường và trong trường hợp bình thường, vì cái lối giấu đồ vật quái đản đó rất dễ bị khám phá. Chả cần phải tinh khôn gì cả và chỉ cần một chút kiên nhẫn và cương quyết là người ta tìm ra ngay. Nhưng trong trường hợp quan trọng – nghĩa là đối với cảnh sát thì phần thưởng phải lớn – ta sẽ thấy ngay là các đức tính vừa kể chả dùng được việc gì cả. Bây giờ chắc anh đã hiểu vì sao tôi nói đến bức thư nằm trong vùng khảo sát của cảnh sát, nghĩa là nếu nó được giấu theo những phương pháp thông thường mà cảnh sát đã biết, thì họ đã tìm được nó rồi. Nhưng viên cảnh sát trưởng đã phải chịu thua, và lý do chính là vì ông ta đã xét đoán nhầm về tên bộ trưởng. Ông ta cho D là một tên điên, vì hắn được mọi người gán cho danh nghĩa là thi sĩ, và dưới mắt của viên cảnh sát trưởng thì tất cả các thi sĩ đều điên.
Tôi hỏi:
- Nhưng có thật hắn là một thi sĩ không đã chứ? Tôi biết họ có hai anh em, và cả hai đều có danh tiếng trong giới văn chương. Tôi nhớ hình như viên bộ trưởng đã viết một cuốn sách về cách tính vi phân và tích phân thì phải. Vậy hắn là nhà toán học chứ đâu phải là nhà thơ.