Lưới Trời - Chương 5 & 6

Chương 05

Mãi thật khuya Tấn mới ra về, vì tan tiệc chàng còn nán lại để chuyện trò cùng Mỵ Lan giây lát. Mỵ Lan vẫn lối trả lời lơ lửng con cá vàng không thay đổi, nhưng chàng có nhiều hy vọng hơn những lần trước vì cái bắt tay chặt chẽ và nụ cười khá tình tứ của nàng.

Chàng về đến nhà, cởi giày, thay áo, rửa mặt mũi, vừa làm những việc đó vừa ca hát và tin rằng mình sẽ thấy Mỵ Lan trong giấc ngủ đêm nay!

Cầm đèn lên thang gác về phòng mình, đi ngang phòng Phát, chàng gọi to:

- Thằng mảnh! Mày về chưa, hở?

Chả thấy tiếng thưa. Tấn vặn quả nắm bước vào : giường gối trống trơn, lặng lẽ. A! Thằng mảnh chưa về. Nhưng thôi, Tấn muốn mộng đẹp sẽ đến và trong mơ đừng có cái mặt thằng em quái quỉ chen vào, anh quay ra, vừa đi vừa huýt sáo vui vẻ.

Sáng hôm sau Phát vẫn biệt tăm. Rồi trưa và đến tối vẫn chưa thấy bóng Phát. Tấn sốt ruột như cào, sợ cha hỏi đến món tiền thì nguy. Anh tự hẹn sẽ tìm cho ra thằng quỉ, chắc nó có tiền đã vô quán say sưa rồi…

Trời tối mịt, lại lạnh căm. Ra ngoài giờ này thì có là điên, nhưng Tấn không thể nào kiên tâm ngồi chờ nổi, anh sai gia nhân thắng ngựa, đến thẳng quán “Ngàn Sao”

Không có Phát trong quán, mà hỏi thì cũng không ai thấy hắn từ hai hôm nay. Tấn còn nghi ngờ thì một người lanh miệng nói:

- Thực thế cậu ạ, có cậu ấy chúng tôi biết ngay. Vì hai hôm nay ở đây đang xôn xao về một vụ trộm lạ lùng, nếu cậu ấy đến thì chúng tôi có người phải nhớ.

- Vụ trộm?

Tấn tò mò hỏi. Hai ba người tranh nhau trả lời. Tấn cũng kinh ngạc lắm, chàng hỏi tiếp:

- Thế các ông có nghi ai không?

- Trong làng toàn người quen biết và lương thiện, họa có kẻ ở xa thôi… chúng tôi thì chúng tôi nghi anh hàng rong vẫn lui tới.

- Phải, thằng cha ấy có cái nhìn gian lắm!

Một người thêm vô. Tấn không mấy quan tâm đến vụ trộm, vì anh đang rối về chuyện tiền nong của cha mình. Nhưng thấy ai cũng ngờ anh hàng rong, anh góp lời:

- Tôi thì không nghi anh hàng rong, tôi có mua của anh ta con dao rọc giấy, nom người thật thà lắm mà.

Một chốc, chàng quay ra, dặn chủ quán nếu em mình có đến, bảo hộ nó về ngay nhà có việc cần.

- Nếu nó không về – anh dặn thêm – anh cho người tin tôi biết ngay nhé?

- Vâng! Cậu cả tin tôi, tôi sẽ làm đúng lời cậu dặn.

Tấn giục ngựa phi mau trong tối vì đã khá khuya. Bỗng, anh nghe hình như có vó ngựa lại gần mình. Đúng là thằng Phát rồi. Giờ này còn ai nữa? Anh kêu to:

- Mày đó phải không, Phát?

- Chào anh Tấn, tôi đây mà!

- Ơ kìa, Kỳ! Anh đi đâu thế?

- Tôi đi lấy tiền lúa cho cô tôi. Lạnh quá, rẽ vào quán uống một cốc. Lạ quá, anh Tấn nhỉ? Giờ này mà không thấy Phát trong đó…

- Ô! Thằng khốn, tôi đang tìm nó đây…

- Ủa, chú ấy chưa về à? Cho tôi gửi lời chia buồn nhé? Kể ra chú cũng xui quá!

- Hả, anh nói cái gì? Cái gì xui?

Tấn hỏi dồn vì anh lo là Phát ngã ngựa què chân hay bị thương chi đây. Kỳ đáp:

- Thế anh vẫn chưa hay biết à? Hay là chú ấy ăn cắp ngựa anh nên sau khi ngựa chết chú dông luôn?

- Con Công Chúa chết rồi sao?

- Phải! Chết tức thì…

- Anh làm ơn kể cho tôi nghe đầu đuôi…

Bằng vài lời vắn tắt, Kỳ kể câu chuyện cho Tấn nghe, anh cũng không giấu chuyện mình định mua ngựa:

- … Mặc cả xong tôi nghĩ lại, hơi ngờ, vì tôi biết anh quí con Công Chúa đời nào lại bán cho Phát, nên tôi hẹn đến chiều tối. Phát ưng thuận và ở lại dự cuộc đua, nhưng chúng tôi đợi mãi chả thấy anh ta, quay lại thì thấy xác con ngựa nằm còng queo… tội nghiệp quá! Mong là nó không phải đau đớn lâu…

Tấn thở dài. Kỳ tưởng anh ta lo cho em, vội nói:

- Đừng lo, Phát không bị thương tích gì hết…

- Tôi không lo cho nó, tôi biết thằng ấy mà. Nó sinh ra là để làm người khác bị thương, làm người khác đau đớn, chứ nó thì không bao giờ! Tội nghiệp con Công Chúa biết bao nhiêu, lỗi cả ở tôi…

- Vâng! Chính tôi cũng tiếc lắm.

- Cảm ơn anh, anh Kỳ.

- Không có chi. Thôi chúng ta chia tay nhé, tôi mong lần khác sẽ có tin vui cho anh.

*

Tấn cúi đầu, thả lỏng cương ngựa, anh không còn vội về. Vừa đi anh vừa nghĩ đến cách tìm lời lẽ thú thực với cha vào sáng mai. Anh chả còn trông cậy vào tiền bán ngựa, mà con ngựa quí cũng chết rồi! Thằng em trời đánh! Nó chết xó nào không biết nữa. Phải thú hết mọi việc với cha, cả  việc lỗi lầm bậy bạ của mình. Có thể ba sẽ mắng cho một trận hay ông bạt tai cho cũng nên. Không sao! Không thể giấu giếm nữa vì thế nào rồi nó cũng lại về làm tiền mình cho mà xem. Thú thật với ba cho xong. Xưa nay cọp dữ vẫn không ăn thịt con. Phải thú hết, thú hết và chỉ có cách đó là lối thoát duy nhất mà thôi.

*

Tấn ăn điểm tâm sớm hơn mọi bữa, quần áo chỉnh tề, ngồi đợi lũ em ăn xong và tản mát hết, chờ cha vào. Ông Cẩm có thói quen đi một vòng với viên quản lý rồi mới ngồi vào bàn. Tuổi trên sáu mươi song ông vẫn còn cường tráng, khỏe mạnh. Mắt nhìn thẳng, mũi khoặm, môi mím lại, dáng bộ quả quyết khác hẳn các con.

Mấy năm gần đây, ông bớt nuông hai cậu lớn, nhưng riêng Tấn, ông vẫn có phần dễ dãi hơn. Vì ông biết cậu đang tập tu tỉnh làm ăn. Thấy con trai, ông vui vẻ:

- Ăn điểm tâm rồi, phải không con?

- Thưa ba vâng, con đã vô phép ba, nhưng con còn chờ gặp ba để thưa một chuyện.

- Chuyện gì đây? Vui hay bực cho ba?

- Thưa ba, chắc bực, nhưng con xin ba bình tĩnh, con kể đầu đuôi.

“Chuyện gì mà hôm nay nó rào đón kỹ quá thế này kìa?” người cha tự hỏi thầm. Tấn bắt đầu:

- Thưa ba, con Công Chúa của con gặp chuyện rủi quá…

- Thế nào? Con Công Chúa? Gãy cẳng phải không? Tôi tưởng anh biết cỡi ngựa chứ! Ông nội anh ngày xưa không có tiền để sắm ngựa cho tôi đâu, tôi phải cuốc bộ. Các anh bây giờ quá sướng… con Công Chúa! Anh biết tôi mất bao nhiêu tiền không? Nếu anh đã lơ đễnh để cho nó ngã gãy cẳng thì thôi đừng cỡi ngựa nữa. Tôi không có thừa tiền đâu mà cho anh con khác…

- Thưa ba, nó không gãy cẳng, nó chết rồi! Thằng Phát cỡi nó…

- À! Lại càng tệ hơn, nếu anh giao ngựa quí cho thằng Phát. Nếu anh đã ngu dại giao ngựa cho nó thì rán chịu, nói với tôi làm chi? Tháng này tôi không thu được một xu con, thiên hạ không ai trả đồng nào, cả lão Lễ nữa, cái miệng soen soét, chắc chắn tháng này… Chắc lão tưởng tôi quên. Mẹ kiếp! Làm như tiền mình là vỏ sò ấy.

Ông ngừng nói, mắt nhìn xa, mồm nhai tóp tép. Tấn:

- Thưa ba, dù con tiếc con Công Chúa, và từ nay không có ngựa để đi, con vẫn không dám nghĩ đến chuyện xin ba…

- Thế là phải!

Ông Cẩm ngắt lời con trai, đoạn lại tiếp tục ăn. Tấn lựa lời thưa:

- Thưa, con không cho thằng Phát cỡi ngựa đi chơi, con đưa nó cỡi đi bán để lấy tiền. Thưa, nó làm bậy, đã dạm bán rồi, nó lại cỡi ngựa đi săn và bắt ngựa nhảy qua chướng ngại vật, con vật bị cọc rào đâm phải…

- Chao ơi! Tao đây mà không dám xài sang như tụi bay, tao cỡi thứ ngựa xoàng… vậy mà tao cẩn thận không bao giờ gây tai nạn…

Rồi ông chợt nhớ ra, gặng con trai:

- Mày làm gì mà phải bán ngựa? Trả nợ ai đây?

- Thưa ba, trả cho ba, món nợ mười ngàn của bác Lễ, nguyên là bác đã trả cho con rồi, nhưng thằng Phát nó kỳ kèo mãi, con cầm lòng không đậu, đã đưa nó mượn…

Ông Cẩm buông đũa, quát:

- Tiền của người ta trả nợ tao sao mày dám cả gan đưa thằng chết bầm xài? Ra mày thông đồng với nó, có phải không? Có điều gì gian dối đây chớ không phải lơ mơ. Khai ra ngay! Tao có ngờ đâu mày cùng đồng lõa với thằng mất dạy đó…Tao sẽ tống cổ cả hai đứa mày ra khỏi cái nhà này. Có con thì có, không thì thôi. Trời ơi! Mẹ mày mà còn sống chắc bà khổ lắm… May cho bà, bà đã chết rồi…

Tấn cúi gầm mặt, thưa:

- Xin ba bớt nóng, con xin thưa : con biết tội con, con trót nghe lời nó nên phải bán ngựa trả đậy vào, nào ngờ đâu nó làm chết ngựa…

- Quân trời đánh, thánh vật. Mày đi lôi cổ nó về đây ngay cho tao. Trao phải trị tội thằng này, không dung thứ được. Mau!

- Thưa ba, ngựa chết, nó đi luôn hai hôm nay, có biết nó đâu mà kêu nó về cho ba, con đã đi tìm…

- Thế chứ nó đi đâu? Hay là nó cũng gãy cổ chết luôn rồi?

- Thưa ba không, nó vẫn bình yên, không bị thương tích chi hết. Nó bỏ đi rồi, con không rõ nó đi đâu.

- Phải tìm nó về đây! – người cha gầm lên – tôi thề phải nọc nó ra hỏi xem nó dùng mười ngàn bạc vô chuyện gì? Tiền tao là tiền mồ hôi nước mắt, chớ có phải tiền ăn cướp, ăn trộm của ai mà chúng mày xúm nhau phá, thằng kia?

- Thưa ba, tội nghiệp con! Con không…

- Thì mày không phá, nhưng mày đưa tiền cha mày cho nó phá, có khác gì đâu? Đừng làm bộ ngay thật, trả lời tao đây : vậy chứ giữa hai đứa bay có chuyện gì mà mày phải che đậy cho nó, một bụng với nó lấy tiền tao?

- Thưa ba, thật chẳng có gì, con…

- Lại còn chối hẳn? Đừng hòng qua mặt tao. Tao thì tao đi guốc trong tim bay ấy chứ, tao hai thứ tóc trên đầu mà để tụi bay lừa ư? Còn lâu!

Người cha nhìn thẳng vào mặt con trai với vẻ quả quyết, đợi chờ. Tấn ấp a ấp úng:

- Thưa ba, con đã có lỗi, không giao tiền cho ba ngay, vì ba lên quận chưa về, thế rồi nó nài nỉ quá, con…

- À, ra bây giờ anh lại đổ lỗi cho tôi phải không? Nghĩa rằng anh bảo vì tại tôi đi vắng nên anh mới giao tiền cho nó, chứ gì? Anh không có lỗi chứ gì?

- Thưa ba, con không hề muốn nói thế, con muốn nói là nếu con mang tiền về mà gặp ba ngay thì mọi việc đã êm xuôi, nhưng con vẫn có lỗi. Vâng! Con có lỗi, đã làm phiền lòng ba mà mất luôn con ngựa quý…

- Đừng dài dòng, tôi biết phải có gì giữa hai người nên anh mới cả gan đưa trọn số tiền cho nó, đừng nói quanh mà tôi nóng lên thì chết… !

- Thưa ba, quả cũng có chuyện… nhưng là chuyện vặt giữa tụi con, không đáng kể ra làm bận lòng ba. Xin ba tin con, con thề sẽ làm vui lòng ba từ nay giở đi.

- Chuyện vặt là chuyện gì? Đã đến lúc mày ngưng ngay những chuyện vặt kiểu đó, lo tu tỉnh làm ăn, coi sóc nhà cửa, nghe không?

Nhẹ nhõm vì cha không tra gạn thêm về duyên cớ khiến mình đưa tiền cho Phát, Tấn ngẩng mặt lên:

- Thưa ba, con xin nghe lời ba, con vẫn muốn giúp ba đấy chứ…

- Tao có nghe mày nói thế lần nào đâu? Tao chỉ nghe mày tính xin cưới vợ. Cái đó thì tao không cản, mày đến tuổi thành nhân rồi, lêu bêu mãi không được. Nhưng mày ưng ai? Đừng có mà rước mấy con tập thói văn minh rởm, tao từ mày luôn…

- Thưa ba, con đinh cưới con cụ Tú Lâm…

Người cha như quên cả giận hờn, sốt sắng:

- Đám ấy được đó. Nhưng người ta có bằng lòng không? Tao ngờ lắm, ngữ anh em mày có tiếng quá mà, ai gả con gái cho? Con Lan có cảm tình với mày chứ?

Tấn khổ sở, ấp úng:

- Thưa, cũng chưa có gì…

- Nghĩa là cô ấy chê mày, phải không?

- Thưa không hẳn thế, nhưng giữa chúng con chưa có hứa hẹn gì cả, Lan bảo “Để xem”, chỉ có thế…

- Thế là phải, nếu mày không tu tỉnh, chó nó ưng mày. Hay là mày không dám nói với nó? Vậy để tao, tao gặp cụ Tú Lâm…

- Chết, con xin ba, để thong thả…

- Tùy mày đấy, nhưng tao nói cho mày rõ : nếu mày muốn cưới vợ, phải cưới con bé Mỵ Lan, con cụ Tú Lâm, ngoài ra tao không bằng lòng cho mày cưới đứa nào cả. Cưới vợ mà cưới đứa ham chưng diện thì có ngày sạt nghiệp. Coi như tao đây, cơ nghiệp đồ sộ ngày nay là do công lao của mẹ mày. Tội nghiệp bà… nghĩ  mà đau lòng, khi cực khổ có nhau, khi sung sướng thì…

Ông thấp giọng vì xúc động, rồi ngồi dựa ra ghế, mắt lim dim như đang hồi tưởng đến người vợ khuất bóng đã lâu. Tấn bùi ngùi nhìn cha, anh thật lòng hối hận vì những hành động đã qua. Thật ra thì từ mấy tháng nay anh nhất định tu tỉnh, nhưng người phụ nữ mà anh lỡ dan díu cứ bám riết lấy anh. Chúa ơi! Tưởng tượng đến lúc mà cha anh hay được việc này, anh thấy run cả gối. Phải làm cách nào đây?...

Thình lình, ông Cẩm ngồi bật lên, cao giọng:

- Tấn, anh đã biết lỗi anh chưa? Anh có hứa…

- Thưa ba, con hối lắm rồi, và con xin ba tha cho con lần chót…

- Được! Lần chót thật đấy, nhá? Mà không tha anh, chả lẽ tôi róc da anh ra?

- Con đội ơn ba!

- Nhưng còn thằng Phát, anh lôi cổ nó về đây cho tôi trị tội.

- Thưa ba, con e nó trốn luôn. Vì có bao giờ nó đi kiểu này đâu? Nhưng thưa ba, con sẽ làm theo lời ba, con sẽ đi tìm nó về để ba răn dạy…

- Thôi, tao tưởng nó có ở nhà chứ nó đã muốn làm quân du thủ thì mặc xác nó. Tao không dư cơm. Đừng tìm về làm chi, nếu có gặp nó ở đâu, thì nhớ bảo đi luôn, nếu héo lánh về đây, tao nổi điên lên thì khốn. Nói là tao hết muốn nhìn thấy nó rồi, hiểu không?

- Thưa ba, vâng!

- Chưa hết đâu : đem con ngựa khổ của nó bán đi, lấy tiền được bao nhiêu đưa cho tao, rồi sẽ tính sau. Nếu mày tỏ ra xứng đáng, tao sẽ cho tiền mua con ngựa khác, nhưng trước hết, phải đi bộ dăm ba tháng cho biết thân đã, nghe rõ chưa? Anh có cho là cha anh xử nghiệt không, hả Tấn?

- Thưa ba con nghe rõ rồi ạ! Ba xử thế rất công bằng, con biết ơn ba lắm, và con cũng bằng lòng sự trừng phạt của ba. Con cảm ơn ba, con không dám nói nhiều, nhưng con xin hứa sẽ tìm cách chuộc lỗi, con sẽ làm ba vui lòng.

- Vậy thì tốt. Thôi, coi bảo nó thắng ngựa cho tao, trưa rồi đó. Tao phải đi ngay.

Chương 06

Vụ trộm nhà bác thợ dệt làm xôn xao dư luận trong làng. Chỗ nào, lúc nào người ta cũng bàn tán đến tình cảnh khốn đốn của bác ta, người ta tỏ ra thương hại bác ta và phẫn nộ đối với kẻ gian. Nhưng không vì thế mà kẻ gian xuất đầu lộ diện, kể từ tối hôm đó, kẻ gian lẫn vào bóng tối, biến mất luôn..

Bây giờ là lúc nhà chức trách thi hành phận sự. Cán cân công lý ở nơi đèo heo hút gió này rất hiếm khi được sử dụng, giờ đã có cơ hội! Cũng là dịp cho những kẻ có óc trinh thám trổ tài : cùng với nhà chức trách, họ đi lùng vết tích tên gian. Khổ nỗi : mưa to đêm ấy nên mọi dấu tích đều bị mưa xóa hết.

Sau, có người đề nghị nên đến hầm đá mà tìm, may ra. Quả vậy, gần hầm đá người ta bắt gặp một cái hộp đựng đá lửa lẫn trong bùn. Mọi người đều quả quyết cái hộp này có liên hệ với tên trộm nhà bác thợ dệt, mà anh hàng rong thì lại cũng liên hệ đến hộp đá lửa : anh ta có bán cả thứ này. Hương lý, hội đồng xã hợp với cảnh sát điều tra tỉ mỉ thì được biết thêm : cách đó hai tuần, anh hàng rong có tạt vào quán Ngàn sao uống vài cốc.

Một người nhắc lại lời mình đã nói:

- Thằng cha ấy có cái nhìn gian lắm!

Và chỉ có thế thôi, ngoài ra không có gì hơn. Không có một chi tiết gì rõ ràng khả dĩ có thể kết tội một ai. Một vài người thì thào có vẻ bí mật – có điều dáng bộ họ thì bí mật, quan trọng song lời lẽ họ chả có gì đáng gọi là bí mật, quan trọng. Cái mới rầy.

Nhà chức trách đòi khổ chủ đến, hỏi về tên hàng rong thì bác San trả lời:

- Vâng, gã ta có đến nhà tôi, nhưng mời tôi không được, gã đi liền.

- Đích thị! Đích thị!

Hai ba tiếng xì xào nổi lên. Nhà chức trách không dễ tin như thế, nhà chức trách có thể nghi nếu khổ chủ nghi kìa, nhà chức trách hỏi vặn:

- Bác San, hãy trả lời thật thà : nhân danh pháp luật ta hỏi bác, bác có nghi cho gã hàng rong không? Cứ thực tình nói ngay, pháp luật đứng về phía người lương thiện, về phía bác, đừng sợ gì cả. Phải giúp chúng tôi tìm ra thủ phạm…

Mặc dù là đại diện nhà nước có những lời lẽ hùng hồn, hay ho như vậy, nhưng bác San khó mà quên được cái tát nẩy đom đóm mắt do Dân tặng mình đêm xẩy ra vụ trộm, và gã hàng rong là người đứng hàng thứ hai – sau Dân – bác có hơi nghi nghi, bác vẫn trả lời giọng ỉu xìu như bánh đa ngâm nước:

- Thưa, tôi không dám nghi ai cả, mất của thì đi thưa, thế thôi.

Nhà chức trách bực mình:

- Trả lời thế không được! Ta hỏi bác có nghi hay không chứ không có chuyện dám nghi. Bác làm mất thì giờ thêm…

Bác San gãi đầu gãi tai:

- Thưa, tôi cũng chả biết nói sao…

- Gã hàng rong có vào nhà bác và ngồi lâu không? Có vẻ dòm ngó chi chăng?

- Thưa không, tôi nhớ rõ ràng anh ta chỉ đứng ngoài mời một câu, tôi lắc đầu là anh ta đi liền. Anh ta cũng không có vẻ dòm ngó chi cả, nom anh ta vội lắm, vì lúc ấy trời sắp đổ mưa.

Một người vụt góp ý:

- Thưa, tôi nghĩ rằng ngài nên tiến hành cuộc điều tra về gã hàng rong, không tin lời bác San được, mắt bác ấy kém lắm, gã hàng rong có dòm ngó bác cũng chẳng biết nổi.

Một người nữa, nặng óc địa phương nhất làng, nói thêm:

- Làng Vệ ta xưa nay lương thiện có tiếng, nếu không tìm ra thủ phạm thì tôi e mất mặt với thiên hạ. Tôi thì tôi chắc gã hàng rong chứ không ai khác vô đây. Tôi mà đoán sai thì tôi xin cuốn gói, bỏ làng đi xứ khác làm ăn.

*

Thế là nhà chức trách có mục tiêu để theo đuổi, thi hành phận sự : gã hàng rong tung tích rất mù mờ được chú ý từ sau câu chuyện. Cũng chẳng dễ dàng gì : gã quê quán chỗ nào không ai biết, tên không biết, tuổi không biết, nhà cửa cũng không biết, tóc thì đen, da sâm sẩm, không có hình dáng đặc biệt, hai tay hai chân nguyên vẹn, giọng nói cũng thường thường, không què quặt, không ngọng nghịu. Chao ôi! Mà cái nghề hàng rong thì có rất nhiều người làm. Những món của họ bán đều rất giống nhau : đồ trang sức lặt vặt, kim may , kéo, dao cạo, cúc áo v.v… giọng rao hàng giống nhau ở chỗ lanh lảnh kéo dài rồi tắt mất khi họ đi xa. Chuyện đâu phải dễ dàng gì?

Tóm lại, chỉ bác thợ dệt là thiệt thòi trong vụ này. Bác đau đớn không thể tả. Khung cửi, chỉ vải, thoi suốt thì còn trơ ra đấy, vàng bạc, thứ quí nhất thì bị cuỗm mất tăm, biết bao giờ, biết bao giờ nữa, bác San mới có cái thú được sờ đến những đồng vàng? Biết bao giờ bác mới kiếm ra được ngần ấy vàng, vàng lóng lánh rực rỡ, xinh đẹp hơn mọi thứ trên đời…

Vẫn hay rằng bác không thể nhất đán bỏ nghề, mà bỏ nghề thì lấy gì sống? Nhưng sau tai nạn tày trời đó, bác làm việc một cách cầm chừng, không hứng thú, say sưa như lúc trước. Còn có gì để nâng đỡ tinh thần bác nữa, còn gì để làm bác hăng say nữa, kia chứ? Bác nản hết sức là nản, có khi ngủ gục trên khung cửi, một phần vì cả đêm mất ngủ tư tưởng nhớ tới số vàng không cánh mà bay, nhưng phần chính là vì bác buồn bã quá.

Ngồi dệt, thỉnh thoảng bác lại kêu lên những tiếng vô nghĩa, khi thì bác thì thầm như thể bị ma làm. Nhiều đêm bác không đủ can đảm lên giường, cứ ngồi lặng thâu canh, một mình, một bóng bên ngọn lửa leo lét cháy, hai tay bưng đầu, rên rỉ, lầm bầm.

Nhưng trên đời hễ có rủi thì có may : sau vụ trộm, mọi người đâm ra thương mến bác. Vì cứ cung cách bác xử sự sau đó, ai cũng biết bác thực thà chứ không quỉ quyệt như họ vẫn ngờ. Có thể là bác còn ngờ nghệch nữa là khác. Chứ không ư? Không ngờ nghệch ai lại vô ý để mất của dễ dàng thế bao giờ?

Do lẽ đó, mọi người đều tỏ ra sốt sắng, niềm nở đối với bác thợ dệt vận đen. Mỗi người có một cách đối xử riêng với bác : kẻ an ủi bằng lời nói, người thì giúp đỡ bằng hành động. Họ đến tận nhà trò chuyện, hỏi han, họ mang thức ăn đến biếu bác.

Trong số những người cảm tình với bác, có một góa phụ : bà Vinh. Bà là người tốt bụng đối với tất cả dân làng, tuy phải cái nghèo. Lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ xung quanh khi ai cần đến. Chỗ nào ma chay, đau ốm là có mặt bà. Hình như trời sinh bà ra là để an ủi, giúp đỡ kẻ đơn côi, quan quả, khổ đau. Nét mặt phúc hậu, giọng nói dịu dàng, cái nhìn ấm áp. Các con lớn đã ra riêng, bà Vinh chỉ còn đứa con trai út, thằng bé tên Quang, mới lên tám, mặt mũi sáng sủa không hay nghịch  phá như các trẻ cùng trang lứa.

Một hôm vào chiều chúa nhật, mẹ con dắt nhau đến nhà bác San thăm, cắp theo một cái rổ bên trong đựng hai chiếc bánh vàng ngậy, ngon lành. Quang không mấy thích đến nhà bác thợ dệt mặt mũi xấu xí, nhất là chợt nhớ đến tiếng khung cửi rên kẽo kẹt của bác ta. Song không bằng lòng vẫn phải bằng mặt vì mẹ cậu tuy hiền lành đấy nhưng rất cương quyết, khi cần.

Bác San không mấy niềm nở khi tiếp khách, bác chỉ nói khi khách hỏi và trả lời gióng một. Bà Vinh như tuồng không để ý đến thái độ bất lịch sự của gia chủ.

Một chốc sau, bà giờ cái khăn trắng tinh đậy rổ ra:

- Bác San ạ, nhân mấy con gà mái bên tôi đẻ trứng mà không ấp, tôi làm ít bánh sang biếu bác, cho vui.

Bác thợ dệt lúng túng cảm ơn khách, nhận bánh và ghé mắt sát vào nhìn kỹ làm thằng bé hết sức lạ lùng, vì nó không ngờ bác ta kém mắt.

Câu chuyện giữa chủ và khách tiếp tục một cách rời rạc và tận lúc ấy, bác chủ nhà mới để ý đến chú khách nhỏ bé của mình. Bác gọi nó đến gần đưa cho nó một mẩu bánh. Đó là cách làm quen dễ chịu nhất đối với trẻ con. Quang ta, từ nãy giờ dè dặt, thập thò sau lưng mẹ, đưa mắt nhìn quanh, bấy giờ trở thành bạo dạn hơn một tí, nhưng tuy thèm đấy, nó vẫn đứng nguyên một chỗ, dụi đầu vào ngực mẹ, chưa dám đón lấy mẩu bánh thơm lừng.

Người mẹ xoa đầu con:

- Kìa Quang, bác đã cho, nhận và cảm ơn bác đi, nào!

Và bà thoáng nghĩ : tội nghiệp bác ấy, ra vào lên xuống thui thủi có một mình.

Quang đã lấy mẩu bánh, cảm ơn và nhai nhồm nhoàm.

- Cháu hát hay lắm kia, bác San ạ! Để cháu quen với bác, tôi bảo nó hát cho bác nghe.

Quang hát như chim, bất cứ lúc nào, nhưng mới hội diện với ông thợ dệt mà mẹ đã phô tài nó ra. Làm nó ngượng quá đi mất, lại lùi lại, nấp vào ngực mẹ, bà Vinh cười, khuyến khích:

- Con trai gì lại xấu hổ? Phải bạo lên chứ. Nào, con hát cho bác San nghe một bài đi. Chóng ngoan! Mẹ yêu nào! Một! Hai! Ba!... Đừng để bác chờ lâu

Thật là trúng tủ nhé! Quang không có sợ thi thố tài năng trước mặt bác thợ dệt, nhưng cậu bé còn giả vờ e lệ, đưa tay dụi mắt, đoạn nhìn chăm chẳm vào bác San, ý chừng để dò xét coi bác ta có thích nghe mình hát không đã rồi mới trổ tài. Nó còn cẩn thận hỏi:

- Con hát bài gì cơ?

- Bài gì cũng được. Bài gì con thích thì con hát. Bài Con voi

- Không! Con hát bài Bướm vàng, nhé? Mẹ nhé?

- Được, con cứ hát bài Bướm vàng.

Thế là Quang ta trao mẩu bánh còn lại nhờ mẹ cầm hộ, tiến lên một bước cất giọng hát bàiBướm vàng. Cậu nghẽo đầu, giang hai cánh tay, ve vẫy như hai cánh bướm khi đến đoạn : xòe đôi cánh làm mẹ cậu và ông chủ nhà đến bật cười. Thật hiếm khi bác San cười, nhất là sau cái đêm tên trộm bất nhân viếng nhà bác đến nay.

Bà Vinh hài lòng lắm, vì bà cho rằng đó là cách hay nhất để giúp người đàn ông đáng thương khuây khỏa nỗi lòng.

Bác San thì không biết làm cách gì để cảm ơn cậu bé, ngoài cách bẻ thêm cho nó mẩu bánh nữa. Bà Vinh kêu lên:

- Ấy, thôi chứ, bác cho nó hết bây giờ. Ở nhà vẫn còn đấy, bác ạ.

Và bà bảo con:

- Quang, con chào bác rồi về kẻo tối rồi. Hôm khác mẹ lại dắt con đến thăm bác và hát cho bác nghe.

Bác San nắm tay cậu bé đưa ra cửa. Bà Vinh quay lại, ân cần:

- Này bác San, khi nào bác có gì cần, cứ cho tôi hay…

- Cảm ơn bà, chắc không…

- Khi nào bác đau ốm hay cần khâu vá ấy mà. Bác là đàn ông, đơn chiếc… tôi rảnh lắm kia. Tôi có thể giúp bác, người ta phải tương trợ là thường chứ, bác chớ ngại.

Chủ nhà lại một lần nữa, lúng túng cảm ơn khách, song khi bà Vinh khuất dạng, bác San không ngăn được tiếng thở phào nhẹ nhõm trong lòng.

Gần giáng sinh, bà Vinh lại cùng con đến thăm bác San, đem theo ít thịt, khoai và hoa quả. Bà biết là bác không thích đến nhà ai.

Quả thế, dù mọi người có vẻ thân thiện đối với bác, nhưng đâu có ai thực sư chia sẻ nỗi buồn phiền mà bác riêng mang? Có nhiều người ân cần đến tận nhà mới bác giáng sinh đến chung vui với họ, song bác một mực từ chối, không nhận lời ai.

Thui thủi một mình, bác mang thịt ra nấu nướng, dọn lên ăn, lòng buồn bã, nuốt gần như không xuống.

Rồi bác ra trước cửa nhìn trời. Những cuộn mây xám trôi chậm trên nền trời âm u nom cũng buồn bã như lòng bác lúc bấy giờ. Nước mưa ngập hầm đá, tuyết rơi càng lúc càng dày.

Bác San ủ rũ quay vào, không cài cửa sổ cũng chẳng buồn đóng cửa lớn. Bây giờ còn gìn giữ, kín đáo làm chi nữa chứ? Bác cầu nhầu thầm.

Hai tay ôm đầu, nước mắt rưng rưng, bác ngồi như thế cho đến khi lửa tàn, nến tắt không buồn châm đốt.

*

Trong lúc đó, tại các nhà có máu mặt trong làng Vệ, người ta lễ rất trọng thể. Nhất là nhà ông Cẩm, người hào phú nhất làng : ông ta mở tiệc mời đông đủ bà con, láng giềng và không quên mời gia đình người con gái mà con trai ông ngấp nghé.

Tuy vắng mặt Phát, không ai tỏ vẻ trông mong, nhớ tiếc. Tiếng trò chuyện, tiếng cốc tách, dao muỗng va chạm nhau lanh canh, lóc cóc vui tai. Mọi người đều hài lòng và không khỏi ngầm ao ước được như ông Cẩm.

Xem tiếp chương 7 & 8