Cuộc đời thơ ấu của vua hề Sạc-Lô - Chương 1 & 2

Chương 1

Tôi sinh ra đời vào ngày 16 tháng 4 năm 1889 lúc 8 giờ tối, tại miền Đông Lan (East Lane). Sau đó một thời gian, gia đình chúng tôi đến ngụ tại khu Lâm-Bết (Lambeth). Cứ tin theo lời mẹ tôi kể lại sau này thì chỗ mà chúng tôi tới rất là sung sướng. Ở đó có sẵn tiện nghi, chúng tôi được sống trong ba gian nhà đầy đủ bàn ghế cùng các vật dụng. Một trong những kỷ niệm đầu tiên của tôi là vào mỗi tối trước khi mẹ tôi đến hí viện, anh Xít-nê (Sydney) và tôi được đặt nằm trong cái giường tử tế, có chị bồi phòng trông nom. Trong thế giới của một đứa trẻ con mới ba tuổi rưỡi mà tôi đang sống, mọi việc có vẻ dễ dàng. Anh Xít-nê, hơn tôi bốn tuổi, có thể làm đủ các trò ảo thuật như nuốt trọn một đồng tiền và làm cho nó lọt ra ở đàng sau gáy. Tôi cũng có thể làm vậy, và một hôm tôi đã nuốt trọn một đồng xu khiến mẹ tôi phải chạy tìm thầy thuốc cứu cấp.

Hôm nào cũng vậy, khi mẹ tôi từ hí viện về, bà có thói quen để ở trên bàn những thứ ngon ngọt mà anh Xít-nê và tôi tìm thấy vào sáng hôm sau, miếng bánh, hay những cây kẹo, và bù trở lại chúng tôi không được làm ồn vì bà thường dậy rất trễ.

Mẹ tôi thủ vai trong những hài kịch, bà người xinh xắn, tuổi tác xấp xỉ ba mươi, mặt sáng, mắt xanh, mái tóc vàng hoe và dài đến độ bà có thể ngồi lên trên. Anh Xít-nê và tôi đều yêu quí mẹ chúng tôi hết sức. Dù bà không có sắc đẹp khác thường, chúng tôi vẫn thấy bà thật kỳ diệu.

Thời ấy thành phố Luân Đôn là một đô thị yên lành. Nhịp điệu sinh hoạt ở đó khá tĩnh, những xe công cộng do ngựa kéo đi cũng tiến chậm chạp. Không khí nói chung vui vẻ, dễ chịu với những cửa tiệm đáng yêu, với những quán rượu và những rạp hát.

Rồi một tai biến xảy ra, có lẽ một tháng hay là vài ngày sau đó, thình lình tôi cảm thấy rằng mọi việc không thể dễ dàng thuận lợi giữa mẹ tôi với cuộc đời bên ngoài. Bà ra đi suốt buổi sáng với một bà bạn, và khi trở về tỏ ra kích động lạ thường. Tôi đùa nghịch dưới sàn gỗ và cảm thấy phía trên mình có sự khua động nặng nề, như tôi đang nghe ngóng dưới từ một đáy giếng. Tôi nghe mẹ tôi cất lên những tiếng than trách, thỉnh thoảng lại nức nở khóc và cứ nhắc mãi tên ông An Trung (Amstrong) : Nào An Trung nói điều nọ, An Trung là thằng quỉ! Sự kích động của bà kỳ lạ và dữ dội đến mức tôi phải khóc lên khiến mẹ tôi phải ôm tôi vào lòng để mà dỗ dành. Vài năm sau đó, tôi mới hiểu được ý nghĩa những gì xảy ra hôm ấy. Mẹ tôi ở tòa án về và bà đã kiện cha tôi vì ông không chịu trả đủ món tiền trợ cấp ăn uống cho mẹ con tôi, và tòa xử không lợi mấy cho bà. An Trung là luật sư của cha tôi.

Thật tôi cũng hiểu lờ mờ rằng tôi có một người cha, và tôi cũng không nhớ thật rõ ràng ông ta có sống chung với chúng tôi một lúc nào không. Ông cũng là một nghệ sĩ, một người trầm lặng, buồn rầu, có một cặp mắt u tối. Mẹ tôi bảo rằng ông giống Nã Phá Luân. Thời ấy, ông đã lãnh lương khá cao, bốn mươi đồng “liu” (livre) mỗi tuần. Cái nguy là ông uống rượu quá mức, và theo mẹ tôi đó là nguyên nhân khiến bố mẹ xa nhau.

Thời ấy nghệ sĩ không sao tránh được say sưa, vì người ta bán đầy rượu trong các rạp hát, và khi nghệ sĩ diễn xong màn lớp của mình thì họ thường đến các “ba” ở rạp cụng ly với khán giả. Nhiều rạp thủ lợi nhờ vào bán rượu hơn là trình diễn và có một số tài tử lãnh được thù lao khá lớn không chỉ nhờ vào tài năng mà nhờ họ tiêu được khá nhiều tiền ở các “ba” đó. Do vậy, đã có rất nhiều nghệ sĩ khánh tận vì rượu, và cha của tôi là một trong số người đó. Vào năm ba mươi bảy tuổi, ông đã qua đời vì nhiễm độc rượu.

Về việc này, mẹ tôi đã kể khá nhiều câu chuyện vừa buồn lại vừa hóm hỉnh. Khi bố tôi uống, tính tình của ông trở nên hung hãn khác thường. Gặp một dạo nọ ông nổi cơn lên, mẹ tôi phải chạy đi trốn tại một nơi khác, và khi ông đánh điện hoảng hốt hỏi bà : “Em làm gì đó? Trả lời ngay đi”, bà đã điện lại như sau : “Nhảy nhót, ăn chơi, anh yêu dấu ạ”.

Mẹ tôi là người chị cả của hai chị em. Thân phụ của bà là một thợ giày quê quán ở Ái Nhĩ Lan. Ông có đôi gò má hồng như quả táo, một mái tóc bạc và một chòm râu giống như Cạc-Lin (Carlyle - Sử gia Tô Cách Lan, thế kỷ 19) trong một bức họa. Người ông gập lại làm đôi vì bệnh phong thấp và theo ông bảo là tại ông ngủ nhiều năm trong những cánh đồng ẩm ướt để trốn cảnh sát, vào dịp các cuộc khởi nghĩa của những thành phần yêu nước.

Bà ngoại của tôi cũng gần như thuộc vào hạng du mục lang thang. Đó là mối nhục ở trong gia đình. Bà vẫn thường khoe rằng gia đình bà luôn luôn trả tiền thuê đất mà các đoàn du mục đã cắm trại. Về bà, tôi chỉ còn ghi lại kỷ niệm của một cụ già nhỏ bé và đầy nhiệt tình, và cũng trò chuyện với tôi như với một đứa sơ sinh. Tôi chưa lên được sáu tuổi thì bà đã qua đời rồi. Bà đã sống xa ông tôi do những lẽ nào mà không ai chịu nói rõ. Nhưng theo dì Cát thuật lại thì chính vì ông tôi từng bắt gặp bà tôi ngoại tình.

Phán đoán giá trị đạo đức gia đình chúng tôi theo những tiêu chuẩn đạo lý thông thường là phạm vào một lầm lẫn quan trọng như đem một cái nhiệt kế nhúng vào nước sôi. Thừa hưởng truyền thống như thế, hai cô gái đẹp của ông thợ giày đã sớm rời bỏ gia đình ra đi, lôi cuốn bởi ánh đèn màu sân khấu.

Dì Cát (Kate), người em ruột của mẹ tôi, cũng là diễn viên sân khấu, nhưng chúng tôi không được biết khá nhiều về bà, vì bà xuất hiện rất ít ở trong đời sống chúng tôi. Xinh đẹp và nóng nảy, bà không hòa hợp được với mẹ tôi. Thỉnh thoảng các cuộc thăm viếng của bà thường được kết thúc một cách đột ngột, do một nhận xét khó chịu của bà về một đôi điều mẹ tôi đã nói hoặc là đã làm.

Vào năm mười tám, mẹ tôi đã qua Phi Châu với một người trai cũng độ tuổi ấy. Bà thường kể chuyện đời sống của bà ở đó, một đời nhung lụa giữa các đồn điền, giữa các kẻ hầu người hạ, giữa những ngựa xe. Vào năm mười tám bà sinh anh Sít-nê tôi. Người ta bảo rằng anh là con trai của một huân tước và khi nào anh hai mươi mốt tuổi anh sẽ hưởng một gia tài độ chừng hai ngàn đồng “liu”, điều này làm tôi thích thú nhưng cũng làm tôi khó chịu.

Mẹ tôi không nán lại Châu Phi mà quay trở về nước Anh và lấy cha tôi. Tôi không hiểu rõ vì sao cuộc đời của bà ở nơi miền đất xa lạ đã được chấm dứt, nhưng vì phải sống trong cảnh khốn cùng tôi thường phiền trách mẹ tôi sao lại từ bỏ cuộc đời xa hoa như thế. Nghe vậy, bà cười và bảo lúc ấy bà còn trẻ quá nên không có đủ khôn ngoan để biết lo xa.

Tôi cũng không rõ mối tình mẹ tôi đối với cha tôi ra sao, nhưng mỗi khi nói về ông, giọng bà vẫn giữ một vẻ thản nhiên, điều đó khiến tôi nghĩ rằng mẹ tôi không tha thiết lắm nên mới có một thái độ khách quan như thế. Đôi khi bà gợi lại kỷ niệm cũ với lòng xót thương, đôi khi bà nhắc lại sự say sưa và sự hung bạo của ông. Sau này, mỗi lần có điều gì phải giận tôi, bà nói một cách buồn rầu : “Mầy sẽ kết thúc đời mầy trong rượu như cha mầy thôi”.

Mẹ tôi đã biết cha tôi trước khi bà đi Phi Châu. Hai người yêu nhau và cùng đóng chung trong một gánh hát. Mới mười sáu tuổi, mẹ tôi đã thủ một vai đào nhất trong gánh hát mình. Nhưng trong một chuyến lưu diễn của đoàn, bà đã gặp được vị huân tước nọ và theo ông sang Phi Châu. Khi quay về Anh Cát Lợi, bà đã gặp lại cha tôi và cùng ông nối lại đường tơ đã đứt rồi họ cưới nhau. Ba năm sau đó, thì tôi ra đời.

Tôi không hiểu có yếu tố nào khác ngoài chuyện rượu chè đã can dự vào đời sống của cha mẹ tôi, nhưng một năm sau khi tôi ra đời thì họ xa nhau. Mẹ tôi không đòi phụ cấp gì cả, vốn là đào hát có hạng, mỗi tuần thù lao tới hai mươi lăm đồng “liu” bà có thể tự lo liệu mọi sự chu cấp cho mình và cho con cái. Chỉ đến khi gặp rủi ro bà mới tìm cách đòi hỏi cha tôi giúp đỡ, không thì chẳng bao giờ bà quyết định nhờ tới pháp luật can thiệp.

Bà phải khổ sở vì cái giọng nói của bà. Giọng nói không được lớn lắm và cứ mỗi lần cảm mạo thì lại bị sưng cuống họng kéo dài đến nhiều tuần lễ. Nhưng bà bị bắt buộc phải làm việc đến nỗi giọng nói lần lần hư cả. Giữa một bài hát, giọng bà bể đi, và bất thình lình giọng hát biến thành một tiếng thì thầm khiến cho khán giả cười rộ rồi cùng la ó phản đối. Mối lo buồn đó khiến cho sức khỏe của bà suy yếu và tinh thần bà tiều tụy thêm lên. Rồi những giao kèo với những đoàn hát càng ngày càng giảm sút dần cho đến một lúc bà phải hoàn toàn thất nghiệp. Chính vì lý do như thế mà lúc mới lên năm tuổi tôi phải xuất hiện lần đầu ở trên sân khấu. Mẹ tôi thường thích mỗi tối dẫn tôi đến rạp hơn là để tôi ở nhà một mình. Bà diễn xuất ở rạp Can-Ti-Ni (Cantini), thời đó là một rạp hát tồi tàn, bẩn thỉu, khán giả chỉ gồm phần lớn là các binh lính. Họ là một thứ công chúng ồn ào và dựa vào đủ cơ hội để mà diễu cợt diễn viên. Đối với nghệ sĩ, phải đóng một tuần ở đó là cả một sự thử thách khó khăn. Tôi còn nhớ lúc tôi đang ở trong hậu trường thì giọng hát của mẹ tôi bỗng dưng bị tắt, chỉ còn là một hơi thở. Công chúng cười rộ, hát nhại lời bà rồi huýt sáo. Sự ồn ào cứ gia tăng khiến mẹ tôi bị bắt buộc ra khỏi sân khấu. Khi bà bước vào hậu trường, bà rất bối rối, rồi bà nói chuyện với viên giám đốc vốn từng thấy tôi hát trước một số bạn hữu mẹ tôi nên ông bảo tôi đi ra thay thế cho bà. Giữa sự hỗn loạn như vậy, ông dắt tay tôi bước ra và sau vài lời giải thích với đám khán giả, bỏ tôi đứng lại một mình ở trên sân khấu. Rồi trước ánh sáng chói chang và những khuôn mặt mờ khuất trong khói, tôi bắt đầu hát.

Trong khi tôi hát, một cơn mưa tiền rơi xuống sân khấu. Tôi vội đứng lại, bảo rằng tôi cần phải lượm tiền trước mới tiếp tục được. Điều đó khiến người ta cười nhiều hơn. Người giám đốc đoàn bước ra với chiếc khăn tay để giúp đỡ tôi lượm tiền. Tôi tưởng rằng ông ta muốn giữ lấy số tiền đó. Khán giả hiểu sự lo lắng của tôi càng cười hơn nữa, nhất là khi ông biến mất sau màn với chiếc khăn tay và tôi ngơ ngác theo ông. Tôi chỉ tiếp tục hát lại sau khi ông đã giao trọn số tiền cho mẹ tôi. Tôi thật sung sướng. Tôi nói chuyện với khán giả, tôi nhảy nhót, tôi hát nhại đủ kiểu lối. Với sự ngây thơ của mình tôi nhại cả bài mà mẹ tôi hát, tôi lại bắt chước giọng bà bị tắt nửa chứng và tôi hết sức ngạc nhiên thấy điều đó tác động đến khán giả chừng nào. Có nhiều tiếng cười, những tiếng tán thưởng và một trận mưa tiền khác tuôn xuống. Đến khi mẹ tôi bước ra sân khấu để đưa tôi vào, bà đón được tràng vỗ tay như sấm. Đêm đó là đêm xuất hiện đầu tiên của tôi ở dưới ánh đèn sân khấu và cũng là đêm cuối cùng của mẹ tôi. Khi định mệnh đã bắt đầu chi phối số phận của người, định mệnh gần như không biết đến lòng thương xót, đến sự cảm thông. Mẹ tôi không còn bao giờ tìm được giọng nói của mình, rồi như mùa đông nối tiếp mùa thu, cảnh ngộ chúng tôi càng khốn đốn thêm. Dù rằng mẹ tôi sớm biết lo xa và có dành dụm được ít nhiều tiền để phòng thiếu thốn, món tiền ấy cũng được tiêu rất chóng. Rồi đến các món nữ trang của bà và bao nhiêu đồ vật dụng nhỏ nhặt khác nữa cũng được bà đem cầm đỡ để mượn món tiền nuôi sống qua ngày với niềm hy vọng ngày kia có thể tìm lại giọng nói của mình. Trong cảnh chờ đợi như vậy, chúng tôi không còn ở ba căn nhà như cũ mà thu gọn trong hai căn, rồi lại một căn, đồ đạc chúng tôi cũng thâu hẹp lại và gian phố chúng tôi ở càng ngày trông càng buồn thảm.

Mẹ tôi bèn quay lại với tín ngưỡng, hy vọng nhờ thế bà sẽ tìm lại giọng nói. Bà đi lễ rất đều đặn và chủ nhật nào tôi cũng phải ngồi ngoan ngoãn để nghe giọng hát sùng đạo vang dội trong ngôi giáo đường như tiếng động của bước chân kéo lết. Những bài hát ấy hình như là cảm động lắm vì tôi thỉnh thoảng bắt gặp mẹ tôi yên lặng ngồi lau nước mắt, điều đó khiến tôi bối rối phần nào.

Từ khi mẹ tôi lo chuyện tín ngưỡng, ít khi bà gặp lại bạn bè hát xướng ngày xưa. Tất cả thế giới ấy biến tan rồi, chỉ còn là một kỷ niệm. Và chúng tôi phải luôn luôn sống trong nghèo túng, thoi thóp sống trong hoàng hôn u ám lạ thường. Việc làm tìm rất khó khăn, mẹ tôi chỉ chuyên về nghề trình diễn, còn đau khổ thêm vì nhiều chuyện khác. Bà vốn bé nhỏ, tế nhị và đa cảm, phải chống đối lại một cách khó khăn với những điều kiện sinh hoạt khủng khiếp trong cái thời đại mà sự giàu sang cùng với nghèo nàn đạt tới biên giới tột cùng, ở cái thời đại mà phụ nữ nghèo không có sự lựa chọn nào khác là làm tôi tớ hoặc kéo lê lết như những nô lệ trong các xưởng thợ. Thỉnh thoảng bà cũng tìm được việc làm như phụ tá trong bệnh viện nhưng chuyện đó rất hiếm hoi và không được bền. Kể ra, bà cũng có nhiều khả năng : chính bà may lấy quần áo sân khấu của mình và bà có thể sử dụng đường kim mối chỉ để may mặc cho kẻ khác, nhưng việc làm ấy cũng không đủ bảo đảm được sự sống cho ba chúng tôi. Lại thêm cha tôi say sưa, các đoàn hát ít chịu ký giao kèo với ông nên các món tiền phụ cấp hàng tuần của ông cũng không đều đặn.

Mẹ tôi bây giờ đã bán hầu hết đồ đạc trong nhà, chỉ còn lại mỗi chiếc rương với những áo quần sân khấu mà thôi. Bà vẫn bám víu vào đó với niềm hy vọng tìm lại giọng nói của mình để quay về với sân khấu. Thỉnh thoảng bà lại sục sạo trong rương tìm vật gì đó, chúng tôi thấy một chiếc áo dài rực rỡ, một món tóc giả, và chúng tôi bảo mẹ tôi mang vào. Tôi còn nhớ lại hình ảnh của bà khoác các áo mão vào mình và hát một trong những bài hát cũ do bà đặt lời đã được trình diễn thành công.

Bà vừa nhảy vừa hát với sự thoải mái kỳ lạ, quên hết mọi việc vá may, và chúng tôi lại có dịp thưởng thức những bài hát khác của bà, vừa nhảy theo bà, cho đến khi bà hụt hơi và đuối sức hẳn.

Càng ngày chìm sâu hơn trong nghèo đói, tôi vẫn đem cái tấm lòng ngây thơ con trẻ phiền trách mẹ tôi sao không trở lại hí trường. Bà mỉm cười bảo đời sống sân khấu là một cuộc đời giả tạo, sai lạc, và trong cuộc đời như thế người ta dễ dàng quên mất tín ngưỡng của mình. Tuy vậy mỗi lần có dịp nói về sân khấu bà lại biểu lộ tấm lòng cuồng nhiệt khác thường. Nhiều ngày, gợi lại những kỷ niệm cũ, bà bỗng ngồi yên rất lâu vừa cúi xuống để vá may, và tôi cũng cảm thấy buồn vì chúng tôi không còn tham dự nữa vào cái cuộc đời xán lạn như thế. Và khi mẹ tôi nhìn lên, thấy tôi buồn bã, mẹ tôi lại tìm mọi cách để an ủi tôi.

Mùa đông vừa đến, anh Sít-nê không có đồ mặc ấm, mẹ tôi phải lấy chiếc áo nhung cũ của bà, chiếc áo có những cánh tay sọc đỏ, sọc đen với những nếp xếp ở vai mà mẹ tôi cố xóa bỏ nhưng không sao được như ý. Anh Sít-nê khóc khi bị bắt buộc phải đeo chiếc áo khoác ấy:

- Nghĩ xem, bạn bè sẽ nghĩ ra sao về chiếc áo này?

Mẹ tôi bèn đáp:

- Người ta nghĩ gì, kệ họ. Hơn nữa, chiếc áo này có vẻ sang.

Mẹ tôi cũng có khiếu năng thuyết phục đến nỗi tới ngày hôm nay anh Sít-nê vẫn không hiểu tại sao lại chấp nhận mặc món đồ như vậy. Nhưng anh vâng lời, và áo khoác ấy với một đôi giày đã được mẹ tôi xén gót khiến anh thành một đề tài sôi động ở trường.

Đó là thời kỳ mẹ tôi bắt đầu than phiền về chứng đau đầu và không thể nào tiếp tục may vá được nữa.

Trải nhiều ngày liền bà phải nằm dài trong phòng u tối với đôi mắt băng bó đầy xác trà. Họa sĩ Pi-Cát-Xô (Picasso) đã có một thời kỳ xanh, chúng tôi đã biết một thời kỳ xám, trong thời kỳ này chúng tôi đã sống qua ngày nhờ lòng thương hại của chốn giáo đường, những phiếu kiếm cháo và những món hàng gởi đến do những cơ sở từ thiện. Giữa các giờ học, anh Sít-nê đi bán báo, và dù sự đóng góp ấy chỉ như giọt nước trong biển cả cũng đem lại được an ủi phần nào.

Một hôm, mẹ tôi đang nằm với một cuộn băng trên mắt thì anh Sít-nê nhảy bổ vào phòng, vất báo trên giường và kêu to lên : “Con đã lượm được túi tiền!” Anh đưa túi tiền cho mẹ mở ra, bà thấy có một chồng bạc. Bà vội khép lại, và đuối sức vì xúc động bà ngã xuống giường.

Anh Sít-nê bán báo trong các xe buýt. Trên ghế của một chiếc xe, anh bắt gặp được túi tiền ở một chỗ ngồi để trống. Anh vội thả một tờ báo lên trên, làm như vô ý, rồi cúi xuống lượm cùng với túi tiền và bước xuống xe vội vàng. Đến một vườn rào, nơi một khu đất bỏ hoang anh mở ra xem và thấy đầy bạc. Anh kể cho chúng tôi nghe tim anh đã đập ra sao, và không kịp đếm số bạc anh đã chạy thẳng về nhà.

Khi mẹ tôi bình tĩnh lại, bà rốc túi tiền lên giường. Bên trong còn một túi khác bọc kín và bà mở ra, đếm được bảy đồng tiền vàng. May thay không tìm thấy địa chỉ nào, nếu không mẹ tôi sẽ chẳng yên lòng sử dụng tiền ấy.

Tôi cũng không hiểu căn bệnh mẹ tôi thuộc về thể xác hay là tinh thần nhưng sau đó độ một tuần thì bà khỏi hẳn. Món tiền sớm hết, mẹ con tôi lại đối diện với những thời buổi khó khăn. Mẹ tôi tìm việc nhưng kiếm không ra. Tiền nợ chậm trễ, người ta lấy lại máy may. Và cả món tiền mười đồng mỗi tuần cha tôi chu cấp, ông cũng thôi luôn.

Quá đỗi tuyệt vọng, mẹ tôi nhờ đến một luật sư khác nhưng vì thấy không hưởng được gì nhiều trong vụ, ông khuyên mẹ tôi giao con cho nhà chức trách ở khu Lâm Bết để buộc cha tôi thanh toán tiền thiếu.

Không còn phương cách nào khác : mẹ tôi có hai đứa con mà bà lại đau yếu mãi, bà quyết định ba mẹ con vào hết trong Viện Tế Bần Lam-Bết để sống qua ngày.

Chương 2

Khi nghe mẹ chúng tôi bảo phải vào trong Viện Tế Bần anh tôi và tôi không hề cảm thấy nỗi tủi nhục nào vì cứ nghĩ rằng sẽ được bước chân vào cuộc phiêu lưu, và từ lâu nay sống trong gian nhà chật chội nóng bức, bây giờ được sự thay đổi cũng là điều may. Phải đợi đến lúc bước khỏi ngưỡng cửa thành phố tôi mới hiểu được những gì sẽ phải xảy ra. Nơi đây tôi cảm thấy nỗi cô độc, lạc loài, vì người ta liền chia rẽ chúng tôi, mẹ tôi đi về phía nhà dành cho đàn bà, chúng tôi về phía dành cho trẻ em.

Tôi vẫn còn như thấy rõ nỗi buồn tê tái của ngày đầu tiên chúng tôi đến thăm viếng mẹ : nhìn thấy mẹ bước vào phòng khách mặc những quần áo của Viện Tế Bần tôi thực đau xót làm sao. Bà có vẻ gì lúng túng, lạc lõng. Chỉ một tuần lễ bà đã gầy đi và già sọm đi. Nhưng khuôn mặt bà bỗng sáng chói lên khi thấy chúng tôi. Anh tôi và tôi cùng òa lên khóc nức nở, làm cho mẹ tôi khóc theo. Những giọt nước mắt chảy dài trên đôi má hóp của bà. Cuối cùng bà tự trấn tĩnh lại được, rồi mẹ con tôi ngồi trên một chiếc ghế gỗ, tay đặt trên đùi và bà vỗ nhẹ lên tay chúng tôi một cách âu yếm, mỉm cười nhìn đầu tóc đã cạo ngắn của anh em tôi. Bà vuốt ve đầu chúng tôi một cách an ủi vừa hứa hẹn rằng mẹ con chúng tôi lại sớm có ngày hội ngộ cùng nhau. Từ trong tạp dề bà lôi ra gói mứt dừa mua ở trong câu lạc bộ của Viện dưỡng lão nhờ tiền thêu đan cho một nữ khán hộ. Khi chúng tôi phải từ giã mẹ để ra đi, anh tôi cứ lặp lại mãi một cách buồn thảm là anh thấy mẹ già đi quá nhiều.

Dần dà anh em chúng tôi cũng quen thuộc dần đời sống trong viện nhưng không tránh khỏi buồn thảm. Tôi không còn nhớ thật rõ cuộc sống trong giai đoạn này, chỉ còn mường tượng những bữa ăn trưa nơi chiếc bàn dài cùng với những đứa trẻ khác mà ai cũng đều nôn nóng đợi chờ. Một ông cụ chừng bảy mươi lăm tuổi, với vẻ đĩnh đạc, một chòm râu trắng, một cặp mắt buồn, là người từng sống lâu năm trong viện chủ tọa bữa ăn. Ông chỉ định tôi ngồi bên cạnh ông vì ông bảo rằng tôi là đứa bé nhỏ nhất và tôi có những lọn tóc gút quăn nhiều nhất. Ông gọi tôi là tiểu đồng và bảo khi nào lớn lên tôi sẽ đội mũ chóp cao với một cờ hiệu và ngồi vòng tay phía sau xe ngựa bốn bánh của ông. Vui sướng trước lời hứa hẹn như thế, tôi cảm thấy mến ông cụ lạ lùng. Nhưng chỉ một hai ngày sau, một đứa bé hơn xuất hiện với những lọn tóc gút quăn hơn nhiều thay thế chỗ tôi bên ông cụ già, và ông cười cợt bảo với tôi rằng những đứa thật bé và tóc thật quăn luôn luôn giành được ưu tiên.

Ở được ba tuần, người ta đưa anh em tôi đến trường Hân-Huên (Hanwell) dành cho những trẻ mồ côi và những đứa trẻ lạc loài, cách xa thành phố Luân Đôn khoảng hai mươi cây số. Tất cả được nhốt trong chiếc xe bò chở bột, và đó là cuộc du ngoạn dễ chịu lạ thường vì cánh đồng quê bao bọc Hân-Huên thời ấy thật là xinh đẹp với những khóm cây xanh tươi, những đồng lúa mì chờ gặt, những vườn cây trái trĩu quả trên cành. Tới nơi, chúng tôi ngồi trong phòng chờ và được khám nghiệm sức khỏe trước khi cho vào nhập học. Lý do là vì trong số ba bốn trăm đứa trẻ con nếu có một đứa bé nào bệnh tật hay là cằn cỗi sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho những trẻ khác, đồng thời tự nó cũng không tránh khỏi những nỗi nặng nề khổ tâm giữa một cảnh ngộ như thế.

Những ngày đầu tiên tôi thấy lạc loài khốn khổ vì sống trong Viện Tế Bần tôi vẫn luôn có cảm tưởng gần gũi mẹ mình, điều đó làm tôi an lòng. Nhưng ở Hân-Huên thì chúng tôi như xa cách quá nhiều. Anh tôi và tôi đều được nhà trường thu nhận, và bước vào học chúng tôi đã bị cách ngăn, vì anh tôi theo lớp lớn còn tôi ở lại lớp nhỏ. Chúng tôi cũng phải ngủ trong những khu vực khác và họa hoằn lắm mới được gặp nhau. Ngày ấy mới trên sáu tuổi, và phải hoàn toàn cô độc tôi thực khốn khổ không biết chừng nào. Những chiều mùa hạ, đặc biệt vào những chiều oi bức này, vào giờ cầu nguyện trước khi đi ngủ, lúc quì gối với độ hai mươi đứa bé khác giữa phòng nhìn qua những khung cửa sổ nghiêng dài, bầu trời hoàng hôn dần dần tối lại và những đồi xa uốn lượn lờ mờ, tôi cảm thấy mình hoàn toàn xa lạ với cảnh vật đó.

Nhưng mà ngạc nhiên thú vị biết bao, sau đó hai tháng mẹ tôi đã tìm cách xin cho anh em tôi được gặp lại người. Nhà trường đưa bọn tôi đến Luân Đôn rồi đến lại Viện dưỡng lão. Mẹ tôi đứng ở nơi cửa chờ đợi chúng tôi, vẫn mặc những bộ quần áo ngày xưa của bà. Bà đã đòi hỏi để cho người ta cho chúng tôi ra chỉ vì bà muốn gặp gỡ con cái trong ngày và bà định rằng sau vài giờ sống cùng nhau ở ngoài, sẽ về nội ngày hôm đó. Mẹ tôi ở Viện Tế Bần, và chỉ có mỗi cách ấy mới mong được gặp chúng tôi.

Trước khi bước vào trong Viện, người ta lấy hết quần áo chúng tôi để bỏ vào nồi chưng hấp và trả lại cho chúng tôi không ủi chút nào. Mẹ tôi, anh Sít-nê và tôi đều có một vẻ nhàu nát thảm hại khi bước qua ngưỡng cửa Viện. Lúc ấy, hãy còn sáng sớm và chúng tôi không biết phải đi đâu, cuối cùng đến một công viên gần đó cách xa một cây số rưỡi. Anh Sít-nê có chín xu gói kín trong một chiếc khăn, chúng tôi mua nửa cân mận và suốt buổi mai ngồi trên chiếc ghế công viên gặm nhấm mấy trái cây đó rồi anh tôi lấy một tờ giấy báo quấn thành cục tròn, tìm một ít dây ràng cột chung quanh để làm quả bóng và ba mẹ con chúng tôi cùng đùa với quả bóng ấy được một hồi lâu. Tới trưa chúng tôi kéo vào trong một tiệm nước và đem mấy xu còn lại mua một bánh ngọt, một khúc cá mòi, hai tách cà phê rồi chia nhau dùng qua bữa. Sau đó chúng tôi quay lại công viên và anh em tôi nô đùa với nhau trong khi mẹ tôi đan áo.

Xế trưa, chúng tôi về Viện tế Bần. Vừa đi mẹ tôi vừa nói bằng một giọng nhẹ nhàng : “Mình về vừa đúng giờ buổi trà chiều”. Ban quản trị Viện tỏ ý bất bình vì chuyến đi ra của mẹ con tôi buộc họ phải chưng hấp lại quần áo cho chúng tôi lần nữa, và anh Sít-nê với tôi còn phải lưu lại nơi đây trước khi trở về Hân-Huên, điều này cố nhiên giúp cho chúng tôi được dịp gặp lại mẹ mình thường xuyên.

Nhưng sau ngày ấy, anh em tôi phải ở lại Hân-Huên gần một năm trường, một năm xây dựng cho tôi khá nhiều, tôi bắt đầu học và được người ta dạy cho viết cái tên tôi là Sa-Pờ-Lanh (Chaplin), cái tên đã quyến rũ tôi và tôi cảm thấy nó giống mình lắm. Trường học Hân-Huên được ngăn làm hai, một khu vực cho trẻ nam, một cho trẻ nữ. Vào chiều thứ bảy phòng tắm được dành cho những trẻ nhỏ và công việc trông coi tắm rửa được giao cho những cô gái lớn hơn. Tôi chưa lên bảy và vào những dịp tắm rửa như thế tôi thấy mắc cỡ lạ lùng. Để cho cô gái vào trạc mười bốn tuổi đầu chà xát trên cái thân thể trần truồng của mình là nỗi ngượng ngùng đầu tiên mà tôi cảm thấy trong đời.

Lên bảy, tôi rời khu vực trẻ nhỏ để sang khu vực trẻ lớn, nơi đây nhận thời hạn từ bảy tuổi đến mười bốn tuổi. Từ đây tôi sẽ có thể tham dự vào mọi công việc của những cậu học trò lớn. Luyện tập thể dục, thể thao, và cứ mỗi tuần hai lần tham dự các cuộc du ngoạn ở ngoài trường học.

Dù có làm gì chăng nữa thì cuộc sống ở nơi đây cũng thật cô đơn. Khung cảnh thật buồn, người ta ngửi thấy sự buồn bã ấy trong những đường quê quanh co mà hàng trăm đứa trẻ con như tôi sắp theo hàng hai tiến bước. Tôi thấy ghê sợ những cuộc du ngoạn như thế, ghê sợ những làng mạc mà chúng tôi phải đi qua, nơi đó dân làng nhìn ngắm chúng tôi một cách tò mò. Họ biết chúng tôi là những đứa trẻ ở Viện Mồ côi.

Sân chơi của lớp trẻ lớn rộng độ chín mươi trên năm mươi mét, lát những tảng gạch to lớn. Chung quanh là những tòa nhà bằng gạch có một tầng lầu, trong đó là những văn phòng, những kho chứa đồ, bệnh xá, một phòng chữa răng và một phòng thay quần áo. Trong góc u tối nhất của sân trường có một gian trống từ lâu dùng để nhốt một đứa trẻ khoảng mười bốn tuổi. Đứa bé đã cố vượt thoát khỏi trường bằng cách leo qua cửa sổ tầng lầu, trổ lên mái ngói, bất chấp những viên giám thị và những tên pháo bắn lên để đuổi bắt lại. Sự việc này xảy ra khi lớp trẻ chúng tôi đã đi ngủ rồi. Những đứa lớn hơn, qua ngày hôm sau, kể lại cho chúng tôi nghe như một câu chuyện phi thường.

Đối với một tội nặng nề vào loại như thế, luôn luôn mỗi ngày thứ sáu người ta đem ra xử phạt trong nhà thể thao rộng lớn, một phòng khủng khiếp dài hai mươi mét, rộng mười hai mét, có trần khá cao với những sợi dây thật dài bắc tới ngọn kèo. Cứ sáng thứ sáu từ hai đến ba trăm học sinh vào khoảng bảy tuổi đến mười bốn tuổi bước vào và đứng thẳng hàng như lính dọc theo ba bức tường phòng. Góc tường thứ tư, ở về phía cuối là nơi đặt một bàn dài lớn gần bằng bàn đặt ở phòng ăn, và ở sau đó là những tội phạm chờ đợi tuyên xử, trừng phạt. Ở bên tay mặt, trước chiếc bàn ấy, có một giá treo nhiều cuộn dây da và những chiếc roi gân bò dữ dằn đủ loại.

Về những lỗi lầm không được xem như nặng lắm, người ta căng dài đứa bé úp sấp ở trên mặt bàn, đôi chân cột lại, và giao cho một viên đội cầm giữ, trong lúc một viên đội khác cởi ngược thân áo sau lưng đứa trẻ lên đầu. Một viên Đại úy Hải quân hồi hưu cân nặng không dưới một trăm ký lô là chỉ huy trưởng ở đây. Một tay đặt ở sau lưng, một tay cầm chiếc gậy bằng một ngón cái và dài chừng một thước hai, ông ta tiến đến bên cạnh đứa trẻ vừa đo chiều dài chiếc gậy vào cái khoảng rộng bộ mông của kẻ tội đồ. Rồi với một điệu bộ chậm chạp, trịnh trọng một cách phường tuồng, ông ta giá cao chiếc gậy rồi giáng gục xuống trên mông đứa trẻ. Quang cảnh thật là khủng khiếp và bao giờ trong hàng ngũ học sinh cũng có một đứa ngã xuống bất tỉnh vì phải chứng kiến như thế.

Số lượng tối thiểu của những cú đánh là ba gậy, số lượng tối đa là sáu. Thường kẻ tội phạm nhận đòn quá số ba ấy kêu lên những tiếng khủng khiếp lạ thường. Đôi khi kẻ đó nín lại một cách đáng sợ hoặc đã bất tỉnh rồi. Phải nói là những đòn đánh như thế có một tác dụng uy hiếp thật quá nặng nề, đến nỗi đứa trẻ bị đánh phải được khiêng tới một tấm nệm lớn đặt nằm dài lên để nó có thể vặn vẹo mình mẩy ít nhất trong vòng mươi phút đợi cơn đau đớn êm dịu dần đi. Về những trận đòn bằng roi thì lại khác hẳn. Chỉ cần ba roi là kẻ nạn nhân đã được hai viên đội tới dìu lấy đưa vào bệnh xá chữa trị.

Học sinh thường khuyên bảo nhau là hễ gặp ai vu cáo điều gì cũng phải nhắm mắt nhận lấy, dù mình ngây thơ vô tội chừng nào đi nữa, bởi vì nếu người ta đưa ra được bằng chứng buộc tội thì mình nhất định sẽ bị trừng phạt đến mức tối đa. Hơn nữa, nói chung thì bọn chúng tôi cũng không biết cách diễn đạt đầy đủ để tự biện hộ cho sự vô tội của mình. Tôi còn nhớ mãi cái ngày đầu tiên đến dự một cuộc trừng phạt như thế tôi đã đứng lặng người đi, quả tim đập mạnh khi phái đoàn ban quản trị trường tiến vào. Ở sau bàn giấy có gã trẻ con tuyệt vọng đã toan trổ nóc vượt khỏi nhà trường. Người ta chỉ thoáng thấy đầu và vai nó qua chiếc bàn vì nó có vẻ bé nhỏ lạ lùng. Mặt nó gầy ốm, xương xẩu, điểm những con mắt thật to.

Sau khi đọc xong những lời cáo trạng một cách trang trọng đặc biệt, ông hiệu trưởng hỏi to lên:

- Có tội hay không có tội?

Kẻ tuyệt vọng kia từ chối trả lời và chỉ nhìn ông hiệu trưởng bằng một cái nhìn thách thức. Liền đó người ta dẫn ngay đứa bé lại cái giá kia, và bởi vì nó quá nhỏ người ta phải kê dưới chân một cái thùng gỗ dùng chứa xà phòng mới cột được tay của nó vào giá. Nó được lãnh đủ ba roi rồi lập tức được đưa vào bệnh xá chữa trị vết thương.

Mỗi bữa thứ năm có tiếng kèn thổi vào lúc giờ chơi khiến cho chúng tôi lập tức bỏ cuộc đứng yên tại chỗ như các pho tượng trong khi viên Đại úy chỉ huy trưởng dùng máy phóng thanh tuyên bố danh sách những kẻ thứ sáu phải đến trình diện để được xử phạt.

Vào một thứ năm, tôi thật hết sức kinh ngạc khi nghe tuyên đọc tên mình. Tôi không sao tưởng tượng nổi tôi đã làm gì nên tội. Đến ngày xử phạt, vị Hiệu trưởng tuyên bố lớn:

- Trò bị kết tội đốt lửa ở trong phòng tắm.

Quả là không có như vậy. Có vài đứa trẻ đốt mấy mẩu giấy ở trên nền gạch và trong khi đốm lửa ấy còn cháy thì tôi vào phòng tắm rửa nhưng tôi không giữ một vai trò nào trong cái vụ này. Ông ta hỏi tôi:

- Có tội hay không có tội?

Đã quá hốt hoảng và bị thúc đẩy bởi một sức lực vô hình tôi ấp úng nói : “Có tội”. Tôi không cảm thấy chút căm thù nào và cũng không cảm thấy đó là nỗi bất công nhưng chỉ có một cảm tưởng vô cùng khiếp sợ trong khi người ta dắt tôi đến chiếc bàn dài để giáng xuống mông ba gậy. Nỗi đau đớn thật dữ dội khiến tôi ngưng thở. Nhưng tôi không kêu lên một tiếng nào và dầu đau đớn đến như tê liệt tôi tự thấy mình can đảm và kiêu hãnh, trong khi họ mang tôi lại tấm nệm để lấy lại sức.

Anh Sít-nê tôi vì phải làm việc ở dưới nhà bếp của trường nên mãi trong ngày anh mới hay được tin đó. Khi anh đi từng bước một cùng với chúng bạn vào phòng xử phạt anh nhìn thấy chiếc đầu tôi nhô lên sau cái bàn dài và anh lấy làm hoảng hốt. Sau này anh kể lại cho tôi hay rằng khi thấy tôi bị đánh ba gậy anh đã khóc ròng vì nỗi uất hận tràn đầy.

Tôi thường gọi anh bằng tiếng “anh nhỏ của em”, điều đó làm anh tự hào và anh cảm thấy được vững lòng nhiều. Thỉnh thoảng tôi vẫn được gặp lại người anh nhỏ của tôi khi rời khỏi căn phòng ăn. Nhờ anh làm việc bếp núc anh đã lén cho tôi mẩu bánh nhỏ cắt đôi nhét một cục bơ khá lớn vào giữa. Tôi giấu chiếc bánh dưới chiếc áo ấm của mình rồi đem về chia với một thằng bạn. Ở đây không đói khát gì, nhưng cục bơ to ấy quả là món xa xỉ đặc biệt. Những cái món quà dịu ngọt như thế và những săn sóc êm đềm như thế không kéo được dài vì anh Sít-nê rời trường để đến dự học tại trại Thủy Quân Ích-Mao (Exmouth). Vào tuổi mười một những đứa trẻ nhỏ ở viện cô nhi được quyền sung vào quân đội hoặc vào trong ngành thủy binh.

Từ đó tôi còn ở lại một mình nơi trường Hân-Huên.

Tóc là yếu tố cần thiết đối với nhân cách trẻ em. Lần đầu khi bị cắt tóc chúng tôi đã khóc sướt mướt và khi nó mọc trở lại, dù mọc cách nào chăng nữa, cũng làm người ta có cảm tưởng bị rứt bớt một phần của thân thể mình. Hồi đó tại trường Hân-Huên có một có một bệnh dịch về tóc và bởi vì bệnh quá đỗi truyền nhiễm nên những trẻ nào cắt tóc đều được đưa tới ở những ngôi nhà biệt lập tại cuối sân trường. Từ những cửa sổ nhìn ra chúng tôi thấy những đứa trẻ đáng thương hại kia ngước nhìn chúng tôi một cách buồn thảm, đầu bị cạo trọc bôi thuốc vàng khè. Quang cảnh ấy thật ghê tởm và chúng tôi thường nhìn chúng với ý đề phòng. Vì thế khi một cô nữ khán hộ thình lình dừng lại ở sau lưng tôi tại nơi phòng ăn ngắm nhìn tóc tôi và tuyên bố lớn : “Bệnh rồi” thì tôi bỗng òa lên khóc nức nở. Cuộc chữa trị phải kéo dài nhiều tuần và đối với tôi thật là dằng dặc như không bao giờ có thể dứt được. Người ta vội cạo đầu tôi, bôi đầy chất thuốc và tôi phải mang chiếc khăn quấn vòng quanh sọ như những công nhân đi nhặt bông vải. Nhưng điều mà tôi không muốn là nhìn qua khung cửa sổ, như bao nhiêu đứa trẻ khác cùng nhốt với tôi, vì tôi hiểu rõ những sự gờm nhớm của kẻ bên ngoài… Trong khoảng thời gian tôi bị an trí vì chứng bệnh này thì mẹ tôi đến thăm tôi. Không hiểu bà làm cách nào mà rời được Viện Tế Bần và cố gắng tạo được cho chúng tôi một nơi trú ngụ. Sự có mặt của mẹ tôi như sự xuất hiện của một đóa hoa. Người có vẻ thật tươi đẹp khiến tôi càng thấy xấu hổ về sự lôi thôi của mình, về cái đầu tóc cạo trọc bôi thuốc vàng khè. Cô nữ khán hộ liền nói:

- Phải nên thông cảm cho nó nếu trông nó dơ dáy thế.

Mẹ tôi bật cười và bà ôm tôi, hôn tôi, siết trong vòng tay âu yếm, rồi nói:

- Dầu con dơ dáy thế nào mẹ vẫn thương con.

Một thời gian sau anh Sít-nê tôi rời trường thủy quân còn tôi từ giã Hân-Huên để về chung sống với mẹ. Mẹ tôi thuê được một chiếc phòng nhỏ ở sau thành phố và trong một khoảng thời gian bà cũng tìm ra phương cách nuôi bọn chúng tôi.

Nhưng không bao lâu chúng tôi lại phải vào Viện Tế Bần. Một phần vì mẹ tôi khó tìm ra công việc làm ăn trong hoàn cảnh đó, một phần vì cha tôi cũng gặp nhiều trở ngại trong nghề nên tiền cấp dưỡng không được thường xuyên. Suốt khoảng thời gian chuyển tiếp khá ngắn ngủi này, chúng tôi đã phải dọn nhà liền tay từ gian phòng này sang gian phòng kia, cuối cùng trở lại cái vòng lẩn quẩn là chui vào Viện Tế Bần.

Vì có sự đổi thay ấy người ta không đưa chúng tôi vào trường học cũ mà lại bắt vào một ngôi trường mới thê thảm hơn Hân-Huên nhiều. Ở đây cây lá um tùm cao lớn, cánh đồng chung quanh bao la và bát ngát hơn nhưng không khí chẳng có gì vui vẻ.

Một hôm giữa lúc anh Sít-nê tôi đang chơi túc cầu, hai cô điều dưỡng tìm đến sân banh bảo anh ngừng cuộc ra ngoài, cho anh biết mẹ chúng tôi đã bị điên rồi và được người ta gởi vào trong dưỡng trí viện gần đấy. Khi anh Sít-nê nghe được tin ấy anh không hề có chút phản ứng nào và quay lại sân chơi tiếp tục giữ vị trí mình cho đến mãn cuộc. Nhưng khi cuộc chơi tan rồi anh lặng lẽ đến thu mình trong một góc sân vắng vẻ và ôm mặt khóc.

Khi anh báo tin cho tôi, tôi không thể nào ngờ được. Tôi không hề khóc nhưng sự tuyệt vọng làm tôi sững sờ. Tại sao mẹ tôi lại đến nông nỗi như vậy? Mẹ tôi vui vẻ là thế, linh hoạt là thế, làm sao mà có thể trở thành người điên loạn? Tôi có cảm tưởng lờ mờ rằng bà đã bị mất trí và đã rời bỏ chúng tôi mà đi. Trong nỗi tuyệt vọng tôi tưởng tượng thấy mẹ tôi đang nhìn tôi với một vẻ xúc động khôn tả trước khi bị lôi cuốn mất vào khoảng vô cùng.

Chỉ một tuần sau chúng tôi mới nhận được tin chánh thức về sự kiện ấy. Người ta cũng cho chúng tôi biết rằng theo quyết định của án tòa, từ đây cha tôi phải lãnh nuôi dưỡng chúng tôi. Viễn ảnh sống chung với người cha ấy kích động tôi thật lạ lùng. Trong khoảng đời tôi từ trước tôi chỉ gặp ông có mỗi hai lần, một lần khi ông trình diễn ở trên sân khấu và một lần khác đi ngang qua một ngôi nhà ở trong thành phố thấy ông qua vườn với một thiếu phụ. Tôi đã dừng lại nhìn ông, hiểu theo trực giác rằng đó chính là cha mình. Ông ta làm dấu gọi tôi lại gần và hỏi tên tôi là gì. Tự nhiên ý thức được cái cảnh ngộ có một vẻ gì éo le như trên sân khấu, tôi làm ra vẻ ngây ngô và trả lời rằng : “Tên cháu là Sạc-lơ Sa-pơ-lanh (Charles Chaplin)”. Liền đó ông ném cái nhìn qua người thiếu phụ, đoạn lục lạo trong túi áo, cho tôi nửa đồng tiền vàng. Tôi không còn nấn ná lại phút nào, đi thẳng một mạch về nhà và bảo cho mẹ tôi biết rằng tôi đã gặp cha tôi.

Thế mà bây giờ tôi sắp trở về chung sống với ông. Dù sao đi nữa thì thành phố ấy cũng là một nơi quen thuộc và không xa lạ tối tăm như chốn trường này.

Xem tiếp chương 3 & 4