Tủ sách Tuổi Hoa - 1973
(Truyện phóng tác)
Nguồn: BD sưu tầm và đánh máy
------------------
Thực hiện eBook: Nguyễn Hữu Minh
Chương 1
Năm 19…
Hồi đó vào tháng Mười âm lịch. Tiết trời khô ráo. Gió thổi rét căm căm.
Cách Phú Bình, một tỉnh nhỏ địa dầu miền thượng du hơn sáu cây số là đồn điền Phú Hộ, trồng toàn cà phê, trà. Cà phê và trà Phú Hộ thơm ngon đã nổi tiếng khắp miền.
Trên một trái đồi rộng, dốc thoai thoải, giữa vườn cây trái xanh um, là dinh cơ đồ sộ của cụ Án Bùi Đình Quang. Khu gia cư gồm một tòa kiến trúc lớn xây theo hình móng ngựa, hai tầng lầu, có hơn một chục buồng, không kể phòng khách, phòng ăn, các nhà phụ thuộc dùng làm kho, nhà để xe…tòan thể trông như một tòa cổ thành. Nhất là cái chòi canh xây phía trên hai cánh cửa chính diện vượt cao khỏi dẫy tường bao quanh, nổi lên sừng sững, với những lỗ châu mai, mái ngói phủ rêu, bốn góc uốn cong cong, trông phảng phất giống hình phú ông đứng ngạo nghễ, tay chống nạnh, giương mắt ngắm nhìn mặt nước sông xuôi chảy lững lờ.
Quanh sườn đồi, toàn một giống cà xanh tốt thấp lè tè, mọc xoe tròn như cái nấm khổng lồ.
Dưới chân đồi, ruộng chỉ toàn trơ gốc rạ, phẳng lì nằm nối tiếp nhau trông như những ô vuông trên mặt bàn cờ tướng.
Phong cảnh nói chung, đẹp nên thơ, nhưng yên tỉnh quá nên đượm vẻ buồn bã quạnh hiu.
Từ ngoài đi vào, phía bên tay trái là cánh rừng già. Bóng rợp âm u của nó chứa chất nhiều kỷ niệm ghê rợn. Người địa phương kể lại rằng: ngày xưa, một tay cường đạo lẩn trốn trong đó. Y đã một mình chống cự ròng rã hai ngày, hai đêm liền. Rốt cuộc, gã sơn lâm đại đạo phải ra quy hàng. Đôi mắt gã bị trúng đạn nát ngướu. Hỏi, thì hắn cười khanh khách, chỉ tay vào bụng: “Đói quá mới chịu thua đó!”. Trong nhiều tiếng đồng hồ liên tiếp, gã đã bình tĩnh chống trả toán nhân viên công lực, mặc dầu đã bị mù tịt. Thì ra, tay tướng cướp đã thuộc lòng địa hình, địa vật trong cánh rừng.
Phía tay mặt là một vũng ao lớn: ao xanh. Ao xanh? Chắc vì nước lúc nào cũng xanh ngắt như màu lá cây nên người ta gọi nó là ao Xanh? Không hẳn thế! Thực ra, cái ao này có chủ và ông chủ của nó tên là Xanh, ông ba Xanh. Cách đây hơn ba năm, một em bé mười hai tuổi đã chết đuối trong ao Xanh, gần bờ, ngay bên cạnh cái cầu con. Mặt chiếc cầu con lúc nào cũng ẩm ướt, rợp mát dưới bong râm một cây si cổ thụ, rễ trùm rễ phụ xõa buông rũ rượi. Người trong vùng đồn rằng từ đó ao Xanh có “huông”.
Cách ao Xanh khoảng hai trăm thước là một nông trại nhỏ, có cái tên gọi thật chất phác: trại Con. Trại Con cũng nằm trong địa ranh, thuộc quyền sở hữu của cụ Án Bùi. Chung quanh trại Con, cây lớn, bụi nhỏ mọc um tùm xanh tốt, che khuất gần hết nông trại. Từ con đường cái lớn trải nhựa ngược thẳng Tuyên Quang, cách đó chỉ chừng năm chục thước, nhìn vào cũng không thấy được trại Con.
Nói chung, khu vực phía Đông Nam xã Phú Hộ, nơi tọa lạc đồn điền cụ Án Bùi, quang cảnh êm dịu, nên thơ thật đấy, nhưng bàng bạc một vẻ buồn man mác.
Buổi sáng hôm ấy, tại phòng ăn lớn, ba người yên lặng ngồi ăn điểm tâm. Bà Án Bùi, khoảng ngoài năm mươi tuổi. Sắc diện, thái độ, cử chỉ cao sang đài các, nhất là mái tóc tuy đã điểm sương nhưng vấn bới vẫn còn đẹp. Bà đưa mắt hết nhìn cô con gái tên Tường Vân lại đến Bạch Xuyến, cô giáo của Tường Vân.
Tường Vân tuổi mới gần mười bảy đã phát triển như một thiếu nữ 18, 19. Da trắng mịn, hồng hào khỏe mạnh, đôi mắt to đen lay láy, khuôn mặt nàng đẹp tự nhiên không điểm phấn tô son.
Cô giáo thì lại là cả một thái cực trái ngược hẳn với học trò: nước da trắng xanh trát đầy phấn, đôi môi ít khi không thoa son vẫn không che giấu được số tuổi đã ngoài ba chục.
Điểm khác biệt nhất giữa hai thầy trò là hai làn nhãn quang. Đôi mắt tròng nâu của cô giáo, tia nhìn lúc nào cũng sâu thẳm xa vời vợi khác hẳn với ánh mắt hồn nhiên, dịu dàng của học trò. Phải công nhận cách nhìn xa xăm của Bạch Xuyến khiến sắc diện cô gái hơi luống tuổi có một vẻ đẹp khá kiêu kỳ, mặc dầu làn môi mỏng dính, đôi khi nhếch lên tạo thành một nét nhăn trông rất đáng ngại trên khuôn mặt hầu như lúc nào cũng khắc khổ đăm chiêu.
Không khí trong phòng, bao quanh bàn ăn, im lặng ngột ngạt. Mãi sau, nữ chủ nhân mới buông sõng mấy câu. Giọng nói của bà tràn đầy phẫn nộ:
_ Hơn nửa tiếng đồng hồ rồi đấy! Cái thằng Sinh này thật là quá lắm. Nó muốn người ta phải bưng hầu lên tận phòng ngủ chắc! Con trai con đứa gì mà…! Sáng bạch nhật ra, hơn chín giờ rồi, còn chưa muốn dậy nữa.
Tường Vân rụt rè nhìn mẹ:
_ Thưa mẹ, đây là lần đầu tiên anh Sinh dậy trễ!
Bà Án Bùi quắc mắt nhìn con gái:
_ Đúng đó Tường Vân! Đúng, đây là lần đầu tiên anh con bắt đầu mất đi đức tính tôn trọng giờ giấc, đồng thời, tất cả các thói quen tốt nữa. Nhiều…rồi sẽ còn nhiều nữa…hừ!
Tiếp theo câu nói là một tiếng thở dài.
Cậu Sinh, người con trai duy nhất của bà, năm nay đã hai mươi tuổi. Cao lớn, khỏe mạnh, chàng đúng là hình ảnh của cụ Án ông, người chồng yêu quý của bà đã bị ngộ nạn tử thương trong một cuộc đi săn hồi mười năm về trước.
Ngòai hai cô gái, một cô chị, một cô em, cậu Sinh, con trai duy nhất thừa hưởng máu huyết của cha, vóc người khôi ngô, cường tráng. Sắc diện thanh tú, chàng có vẻ đẹp hào hoa. Nhưng Sinh giống cha nhất ở điểm tính tình bay bướm. Do đó, dân trong vùng Phú Hộ, nhất là các cô gái sinh đẹp con nhà giàu, hầu hết không nhiều thì ít, đều thầm mong được lọt vào mắt của cậu công tử con quan, nhà giàu, đẹp trai, học giỏi.
Lại tiếng nói của bà Án:
_ Tường Vân! Chị con đi vắng, bữa nay con giúp mẹ sửa sọan mấy khóm hồng nhung ngoài vườn cho xong đi, nghe!...Ồ, quái thật! Thằng Sinh làm cái gì mà giờ này cũng chưa thấy xuống?
Bấy giờ mới nghe cô giáo Bạch Xuyến lên tiếng:
_ Thưa cụ, hay cậu Sinh bị đau chăng?
Một tia nhìn hoài nghi loáng nhanh trong đôi mắt nữ chủ nhân. Nhưng sau vài giây ngập ngừng do dự, bà Án Bùi cũng bấm chuông gọi gia nhân. Chị người làm tên Duyên xuất hiện. Đúng là: Thầy nào tớ ấy! Quân của một dũng tướng ắt không phải nhược binh. Chị Duyên cũng có một nhan sắc rất khả ái. Nước da bánh mật, vóc người đẫy đà nhưng chắc lẳn như mình cá tram. Khuôn mặt trái soan càng duyên dáng với đôi mắt đen sáng long lanh.
Bà chủ ra lệnh:
_ Lên mời cậu Sinh xuống ăn điểm tâm. Nói với cậu lẹ lên một chút kẻo thức ăn nguội hết.
_ Thưa vâng!
Chưa đầy ba phút sau, chị người làm đã quay xuống. Sắc diện lộ vẻ ngạc nhiên cùng cực, đôi mắt mở lớn, chị Duyên nhìn bà chủ:
_ Dạ…thưa…cậu Sinh không có ở trên lầu!
_ Ồ lạ! Thế nó đi đâu? Sáng nay nó dậy sớm lắm mà? _ nhận thấy chị gia nhân chưa có ý định rút lui, bà hơi cau cặp chân mày hỏi tiếp:
_ Gì thế nữa, Duyên?
_ Dạ…dạ…thưa bà…cậu Sinh không…a…a…Con vào phòng thì thấy gối nệm vẫn phẳng nếp y nguyên.
Bà Án thoáng giật mình. Niềm lo ngại đột ngột nhen nhúm trong long khiến nét mặt bà hơi cau lại. Hai bàn tay ngón nuột nà của bà xoay xoay chiếc bát sứ Giang Tây đựng thức ăn. Đồng thời khuôn mặt xinh đẹp của Tường Vân, cô gái cưng, từ sắc trắng mịn cũng trở thành hồng ửng.
Tuổi mười sáu, mười bảy là cái tuổi dễ nổi cơn bất bình. Tính nết lả lơi, bay bướm của người anh trai yêu quý là nguyên nhân bốc nóng nơi nội tâm thiếu nữ. Tường Vân dư biết: về khía cạnh này, bà Án Bùi mẹ nàng, vẫn tỏ ra rất nghiêm khắc khi các con có hành vi muốn vượt qua vòng lễ giáo. Vậy giờ đây, sự vắng mặt của anh Sinh biết giải thích ra sao nếu không phải lý do một cuộc hẹn hò vụng trộm, rồi mãi vui, đã kéo dài hơn thường lệ.
Cô giáo Bạch Xuyến ngồi cắn môi im lặng. Thần thái nhà nữ mô phạm lộ ra vẻ mệt mỏi, cằn cỗi già nua hơn số tuổi thực ngoài ba mươi nhiều lắm.
Mãi sau, bà Án mới thốt:
_ Thôi được! Duyên! Con xuống nhà đi!
Chợt bắt gặp khuôn mặt nhợt nhạt của cô giáo, nữ chủ nhân hỏi ngay:
_ A, cô Bạch Xuyến sao thế? Cô thấy khó chịu trong người hả?
_ Dạ, tôi hơi choáng váng hoa mắt. Xin phép cụ lớn cho được về phòng riêng nằm nghỉ.
Tường Vân sốt sắng:
_ Cô, để em đưa cô lên nhé!
_ Cám on em! Cô lên một mình cũng được.
Bạch Xuyến khuất dạng, bà Án không cần giữ gìn ý tứ nữa, hỏi con gái:
_ Tường Vân! Tối qua con có thấy anh con đi đâu không?
_ Thưa mẹ, không! Rõ ràng anh Sinh ăn cơm tối xong lên lầu ngay mà, mẹ.
Tiếp theo câu nói là một nụ cười tươi như để trấn an người mẹ yêu quý.
Bà Án Bùi khẽ gật đầu, ánh mắt vẫn lộ vẻ băn khoăn:
_ Để coi, chờ một chút xem!
Nói thì thế, nhưng nữ chủ nhân chẳng chờ đợi chút nào. Bà đứng phắt lên, đi tới bàn, quay điện thoại gọi bà chị họ. Ông chồng bà chị họ, chủ nhân biệt thự Dưỡng Tâm Trang ở cách đây chừng hai cây số, có người con trai vốn là bạn thân của Sinh.
Không một ai trông thấy con trai yêu quý của bà đâu hết.
***
Cho tới bốn giờ chiều, niềm bồn chồn khắc khoải mỗi phút lại gia tăng trong dinh cơ cụ Án. Nhất là từ lúc “chị” Cầm tới. “Chị” Cầm là tá điền , được cụ Án tin yêu giao cho trông coi trại Con.
“Chị” Cầm vóc người nhỏ nhắn, tóc đã bạc trắng, vấn bới rất khéo, quấn chặt trong vành khăn nhiễu Tam Giang. Mặc dầu đã trên sáu chục tuổi, đôi mắt “chị” vẫn tinh tường, long lanh sáng trên khuôn mặt phúc hậu da dẻ hồng hào, đôi má đầy đặn, nếp nhăn rất ít. Chiếc áo cánh trắng, chiếc quần nái đen, không là ủi nhưng lúc nào cũng thẳng nếp, sạch sẽ trong trắng như tâm hồn trong trắng thật thà của “chị”. Danh từ thân mật “chị” do bà Án dung để gọi bà Cầm bắt nguồn ở chỗ: từ đời cụ, cho đến đời ông, rồi đến đời cha mẹ, gia đình bà Cầm nối tiếp nhau làm việc cho “trên cụ Án”, trông giữ trại Con. Đến đời bà, ngay từ thưở ấu thơ, bà cũng được cha mẹ cụ Án ông cho phép vào “trên nhà bất cứ lúc nào. Và giờ đây bóng dáng bà Cầm đứng giữa khoảng sân gạch rộng trông cũng quen thuộc, thân yêu như bóng dáng của chị Duyên, của anh Giang tài xế. bà Cầm đã được coi như người nhà.
Nhưng hôm nay, vẻ mặt bà có nhiều nét lạ khiến chị bếp hoảng hốt níu lại hỏi han. Đứng bên ô cửa sổ trên lầu, bà Án Bùi bắt gặp, nghe “chị” Cầm nhắc đến tên Sinh, liền vội vàng chạy xuống.
_ Sao? Cái gì thế, chị Cầm?
_ Dạ! Thưa bà Án! Tôi lên xem cậu Sinh có đưa thằng cháu Ngây đi đâu không. Suốt từ sáng sớm không thấy cháu đâu, mà cho tới giờ này cũng vẫn chưa về. Thường đêm nào nó cũng ngủ trong nhà kho, nên tối qua tôi đâu có đợi chờ, cứ yên trí vào giường đi ngủ. Sáng nay không thấy cháu đâu, tôi ngỡ cháu lên ngủ trên này.
Bà Án Bùi giật mình:
_ Sao? Chị Cầm nói sao?
Không kịp đợi trả lời, người mẹ đã bị sự xúc động khiến cho ngây người đứng lặng.
Thằng Ngây, cháu ruột của bà Cầm, mồ côi cả cha lẫn mẹ. Mười bốn tuổi nhưng nó cọc người, trông chỉ bằng thằng bé lên mười. Trí thông minh không phát triển được cho nên nó chỉ hành động theo bản năng. Tên thật của nó chính là Đông, Lê Văn Đông. Nhưng vì cứ ngây ngây ngốc ngốc nên ai cũng đùa giỡn gọi nó là thằng Ngây, lâu ngày quen miệng thành danh, một biệt danh khá ngộ nghĩnh. Nó sống với bà nội, được bà nội cưng yêu lắm. Đối lại, nó cũng kính yêu bà vô cùng, quấn quít bên bà như một con chó con. Thằng Ngây cũng yêu quý cả cậu Sinh con trai cụ Án nữa. Cậu Sinh đối với nó bao giờ cũng tử tế, kiên nhẫn dạy bảo nó đủ thứ, từng li từng tí. Không như bao nhiêu người khác thấy mặt nó là trêu chọc hoặc trẻ con thì đấm đá làm khổ nó, cậu Sinh thường dắt nó vào rừng chơi, đến nhà các bạn điền thăm viếng. Lần nào đi săn hoặc đi câu, cậu cũng cho thằng Ngây đi theo. Anh em tá điền cấy ruộng, làm trà cho cụ Án, ai ai cũng đều vui vẻ yêu quí cậu Sinh. Lý do: con quan mà không làm bộ làm tịch, biết thương yêu thằng bé mồ côi khờ dại. Như thế theo trí óc chất phác của đồng bào xã Phú Hộ, là những điềm tốt lành, đem lợi ích chung cho toàn xã.
Thế rồi ngày hôm nay, mối dây mật thiết giữa chàng thanh niên và thằng nhỏ ấy lại khiến bà Án thêm kinh hãi vô cùng: sự vắng mặt, bà nghi rằng có thể là mất tích của Sinh, con trai bà với việc thằng Ngây biệt tăm cùng một ngày giờ. Bấu víu, căn cứ vào đâu mà có thể cho rằng đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên?
Bà Án ngẩng đầu, lên tiếng gọi con gái ở tầng lầu hai. Đúng lúc đó, bà chợt thấy khuôn mặt cô giáo Bạch Yến ở tầng lầu một thụt nhanh vào. Ý chừng cô không muốn để bà chủ biết là cô có tính xấu hay nghe lỏm chuyện của người khác.
Bà Án nghĩ thầm:
_ Hừ! Nghe lỏm thì nghe! Đâu có ăn thua gì cái nhà cô giáo Xuyến này! Nhưng quả thật cái việc thằng Sinh khiến mình lo lắng quá đi. Lo phát điên lên được, không ít đâu!... Bà cất tiếng gọi to: Tường Vân à, Tường Vân! Xuống mẹ bảo đây!
Rồi quay lại bà Cầm lúc đó đang đờ người ngó bà với đôi mắt sầu thảm như có ý chờ đợi một lời khuyên nhủ trấn an:
_ Ráng bình tĩnh nha chị Cầm! Cuống quít lên là hỏng hết cả đấy! Cậu cháu nó chắc lại vui chân đi chơi đâu xa đấy, ra ngoài Phú Bình không chừng! Sớm muộn gì rồi cũng phải về chứ! Có gì mà ngại!
Miệng bà nói “có gì mà ngại”. Nhưng trong lòng bà cảm thấy lo ngại không để đâu cho hết.
Tường Vân từ trên lầu hai chạy xuống. Sắc mặt cô gái lộ rõ nét băn khoăn:
_ Mẹ ơi! Con đã vào phòng anh Sinh xem anh có viết giấy để lại dặn dò gì không thì không thấy gì cả! Có điều này hơi lạ: áo “ba đờ suy” và mũ dạ của anh vẫn còn ở trên đó mẹ à.
Bà Cầm đã bước đi lại quay trở lại. Giọng nói của bà run rẩy nhiều hơn:
_ Ồ, lạ! Thế là sao nhỉ? Thằng cháu Ngây lại đi cả giày tây đội mũ vải. Không biết cậu cháu nó có cùng đi với nhau không chứ?
Bà Án cảm thấy hai thái dương nhức buốt như búa bổ. Trong từng thớ thịt, từng lóng xương, tựa hồ có muôn vạn con gì gặm nhấm như mọt gặm gỗ. Hai đầu gối bà như lỏng ra, hai cẳng chân không còn sức đỡ nổi thân mình. Bà chỉ muốn được nằm lăn, chết lịm ngay ra đấy chắc là dễ chịu lắm. Ai đời tiết tháng mười giá lạnh như thế này, con trai quý của bà bỏ đi chơi xa mà chỉ lại phong phanh có bộ đồ “vét”. Không mặt áo ba đờ suy, đầu không đội mũ…hừ!
À, nếu vậy thì có thể Sinh chỉ quanh quẩn gần đây, không đi đâu xa khỏi vùng Phú Hộ. Người mẹ lại thấy lóe lên một chấm sáng hy vọng:
_ Này, chị Cầm! Thử chờ hết chiều nay xem sao. Để coi! À, đến bữa cơm tối! Nếu bấy giờ cậu cháu nó vẫn chưa về, mình sẽ đi trình lý trưởng.
_ Vâng, phải đấy ạ! Nếu bảy giờ tối mà cháu Ngây vẫn chưa về, tôi sẽ chạy lên cụ.
Hai mẹ con bà Án ân cần nắm tay bà Cầm đưa ra tận cổng cái.
Quay vào, gặp cô giáo Bách Xuyến đi ra, Tường Vân nhanh nhẩu:
_ Thưa cô, cô thấy trong mình khá chưa?
_ Cám ơn em, đỡ lắm rồi! Cô ra nhà thờ một lát. Tường Vân đi chơi luôn thể đi?
Bà Án gật đầu, bảo con gái:
_ Phải đấy, con đi với cô giáo cho vui! Nhớ cầu xin chúa che chở cho mọi điều má con mình lo sợ không thể trở thành sự thật được nghe!
Chương 2
_ Trời cao đất dày ơi! Bà ơi! Tôi không còn hy vọng gì được thấy được mặt cháu tôi nữa đâu, trời ơi!
Tường Vân đứng phắt dậy. Mặc dầu cô giáo Bạch Xuyến hồi hộp đã nắm chắc tay học trò, bóp thật mạnh, cô gái vẫn cất được tiếng hỏi rõ ràng:
_ Mà cái gì chứ, bà Cầm?
Bà Cầm run giọng hỏi khẽ:
_ Tôi vừa ở nhà mụ Phé về thẳng ngay đây.
Có tiếng thở mạnh và dài như tiếng thở của người trút được gánh nặng. Bà Ấn Bùi mỉm cười tươi tắn nhìn người lão bộc:
_ Thì hãy ngồi xuống ghế đá nào, chị Cầm ! Ngỡ gì ! Thế mà làm mọi người hết hồn. Tưởng có tin tức gì ghê gớm lắm chứ !
Bà Cầm nhíu đôi lông mày nhìn thẳng mặt chủ nhân như có ý nhẹ nhàng trách móc:
_ Trời ơi ! Ghê gớm lắm, bà ơi !
Ghê gớm lắm bà ơi ! Nhưng bà Án Bùi cảm thấy chẳng có gì đáng lo sợ nữa một khi chỉ là chuyện…Mụ Phé.
Mụ Phé, theo lời truyền tụng, là một mụ phù thủy, sống lủi thủi một mình trong túp lều tranh xiêu vẹo ở ngay cửa rừng già. Không rõ mụ bao nhiêu tuổi rồi mà chỉ thấy da mặt đã nhăn nheo như quả thị héo. Mái tóc chưa trắng nhưng đã xám ngoét, chẳng bao giờ gỡ chải, cứ xù lên như tổ quạ. Mụ không vấn khăn mà chỉ quấn quanh đầu một mảnh vải dài, có lẽ trước kia là màu đỏ. Tới nay, lâu ngày dầy tháng, mảnh khăn quý, ý chừng chẳng được biết mùi xà phòng một lần nào, cáu đầy ghét bẩn nên ngả thành một màu sắc không tên. Đôi chân mày mụ Phé mới thật là kỳ quái. Không đồng màu với mớ tóc bù xù mà lại đen kịt, rậm rì, có những sợi dài buông che kín mắt. Bởi thế, mỗi khi muốn nhìn cho rõ vật gì, mụ cứ đưa tay lên vén vén đôi chân mày chổi xể cho khỏi che kín hai con mắt, một to một bé, tròng mắt sáng long lanh. Gò mũi mụ Phé lúc thường thì nhỏ, đầu mũi nhọn hoắt như mỏ chim. Nhưng khi mụ cần ngửi một cái gì đó thật kỹ càng, lập tức hai cánh mũi nở lớn, bè ra như mũi…sư tử. Không lạ gì khi nghe các trẻ em tinh nghịch trong vùng, hễ gặp mụ là y như thế nào cũng gào to lên trêu chọc:
“ Ê hê! Mụ Phé!
Mắt bé mắt to!
Mũi có lò xo!
Mắt to mắt bé!
Ê hê! Mụ Phé!
Ê hê! Mụ Phé! Mắt bé…”
Đại khái, hình dung ghê rợn của mụ Phé là thế đó. Ấy là chưa kể cái miệng không răng hiếm khi không nhai trầu phóm phém, nước cốt trầu nhểu dài hai bên mép đỏ bẻm. Quần áo và trăm mảnh đủ màu sắc xanh, đỏ, tím, vàng. Đôi chân cáu bẩn của mụ không mấy khi rời khỏi đôi guốc tự tay mụ đẽo lấy, mũi guốc cong lớn như mui thuyền.
Nguồn sống hằng ngày của mụ Phé là sữa dê. Mụ nuôi con dê mập lắm, mầm sữa rất căng. Nhưng thật ra, thức ăn chính cốt của mụ vẫn là cơm gạo. Canh dư cơm thừa mụ vẫn trông nhờ vào đồng bào trong vùng, một phần lớn từ “ trên dinh cụ Án ”. Và đáng kể hơn nữa là gia đình thầy đội kiểm lâm tên Phạm văn Danh, vợ tên tục vẫn gọi là cô Gấm. Dân trong xã Phú Hộ đối với mụ Phé, đều tỏ vẻ thương hại, sẵn sàng cưu mang, vì lẻ mụ chỉ có một thân trơ trọi, không bà con thân thích họ hàng. Mặc dầu mụ bẩn thỉu, mặc cho mụ đôi khi đánh mắng những đứa trẻ nghịch ngợm gọi trêu mụ là “mũi có lò xo, mắt to mắt bé”, ngoài ra mụ Phé không hề làm gì hại ai bao giờ.
Trái hẳn thế, mụ lại có tài biết dược tính của vài loại lá rừng, chữa được bệnh phỏng nặng, cạo gió, biết điều chế một vài thứ thuốc cao dán mụt nhọt. Mụ lại biết cả bói bài. Mụ Phé, nói cho đúng, không hề hại ai. Nhưng hãy coi chừng, kẻ nào cố ý trêu chọc mụ. Mụ ghét nhất là bị chế riễu. Khi bị người chọc giận, mụ Phé có một cách làm cho hành động không tốt ấy phải chấm dứt ngay lập tức. Mụ đứng lại, lưng cúi lom khom, dựa thân hình còm cõi lên bàn tay chống trên khúc gậy tre đen bóng. Rồi đôi mắt , một to một bé, nhắm lại, chỉ mở hấp him, cái đầu nghiêng nghiêng ngả ngả, nhìn ngay mặt “kẻ địch” cho tới khi y quay mặt đi mới thôi. Nhưng, nếu tay rắn mắt kia, sau khi buông lời chế riễu không chịu dừng chân mà bỏ đi ngay, thì mụ Phé vẫn đứng nguyên tại chỗ, dáng hình quái dị dựa trên khúc gậy, nghiêng đầu ngó theo, miệng lẩm bẩm một câu nguyền rủa hay đọc mộy lời thần chú gì đó.
Người ta kể lại nhiều câu chuyện khá rùng rợn về mụ.
Một buổi chiều kia, anh chàng Man, con ông cai Sĩ trông coi cà phê trong đồn điền Phú Hộ, khi gặp mụ hét toán lên: “Ê hê, mụ Phé, mắt bé mắt to…” rồi hộc lên cười ha hả. Mụ Phé dừng bước, nhìn ngay mặt tên Man, miệng lẩm bẩm:
_ Này thằng kia! Đừng vội cười hộc lên như chó ngộ chó dại thế! Mụ cho lại sẽ chẳng khóc chán ra đấy! Hừ!
Hai tiếng đồng hồ sau, gia đình ông Cai Sĩ nhận được điện tín gởi tin về người con trai lớn của ông, ốm nặng từ lâu đã từ trần.
Một lần khác, cô Huyền con ông Ngọc, giám thị sở trà, đã đanh đá gọi mụ là “con mẹ phù thủy”. Mụ mắng lại ngay:
_ Coi chừng nhé! Coi chừng cái bộ mặt nõn nường đó! Có ngày lại không thua xa “con mẹ phù thủy” này ấy chứ!
Chiều hôm ấy, khi bắc nồi cám từ trên bếp xuống, cô Huyền lỡ tay để cám nóng sôi bắn vào mặt bị bỏng một miếng lớn trên má.
Có thể đấy chỉ là những sự ngẫu nhiên đầy tính chất rùng rợn mà chưa ai giải thích nổi. Ngẫu nhiên mụ Phé nguyền rủa những kẻ trêu chọc mụ, rồi cũng ngẫu nhiên những kẻ ấy gặp rủi ro. Nhưng có nhiều điều mụ Phé, khi bói bài rồi “đọc” ra thành bài thơ hoặc những câu vè nói về sự việc đã qua, chuyện gì sắp xảy đến thì là chuyện khác. “Vấn đề khác” ấy, không những khiến những người hồn nhiên chất phác vội vã tin liền mà ngay cả đến toàn dân vùng Phú Hộ cũng phải băn khoăn suy nghĩ, bán tín bán nghi.
Vậy, việc bà Cầm, trong lúc tinh thần hoang mang rối loạn, chạy đến tìm mụ Phé kể cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Và các điều mụ “phù thủy” đọc theo những lá bài mụ Phé lật ngửa đã khiến cho bà già chất phác lo buồn đến cực điểm.
Bà Án Bùi ân cần khuyến khích:
_ Ờ, ờ! Có gì cứ nói đi, chị Cầm! Nói ra được là đỡ buồn lắm đấy. Nói đi!
_ Vâng, vâng! Trong lúc cuống quít chẳng biết tính sao, tôi chỉ còn một cách là tìm đến mụ Phé.
Có tiếng cô giáo:
_ Thế rồi chắc hẳn mụ Phé đã hỏi bà tại sao mà đến kiếm mụ chứ gì?
Bà Cầm liếc mắt ngó Bạch Xuyến. Tia nhìn của bà không một chút thiện cảm:
_ Thưa, không phải thế! Chính tôi đã hỏi thẳng mụ: “Này mụ Phé! Tôi có một chuyện buồn lo quá. Mụ giúp đỡ một phen nghe! –“Ờ, ờ, ngồi xuống đi đã”. Mụ Phé bảo tôi như vậy. Tôi liền ngồi xuống ghế kê sát bàn của mụ. Mụ Phé lôi cổ bài ra, xóc xóc, rồi lật ngửa hơn một chục cây bài lên, chăm chú nhìn một lúc lâu. Đoạn cứ chép luôn miệng, lẩm bẩm nói cái gì mà tôi chỉ nghe được tiếng ô…ô… rất nhỏ, Chợt , mụ nói to: “Ô, trời ơi! Ô trời…trời! Tội nghiệp! Tội nghiệp! Tội nghiệp quá chừng! Trời ôi!”
Kể đến đây, không kềm chế nổi xúc động trong lòng, bà Cầm nước mắt ràn rụa. Tường Vân vội vàng nắm hai tay người lão bộc, dịu dàng an ủi:
_ Có gì đâu hở bà Cầm! Tất cả cái trò đó chắc mụ Phé chỉ bày đặt ra cốt ý để làm cho hoảng sợ đó thôi! Mụ Phé làm sao mà biết được lý do gì người nhà chúng ta lại biệt tăm một cách kỳ quái như thế chứ. Có khi lý do ấy lại rất thường, mà chỉ vì lo âu hoảng hốt quá nên chưa ai nghĩ ra đó thôi.
Nước mắt bà Cầm lại ứa nhiều hơn, lăn dài xuống má. Bà nói trong tiếng khóc nức nở:
_ Khi đã xem kỹ lại mấy lần nữa, mụ Phé liền bảo tôi: “ Thôi, thôi! Tôi có thể nói cho chị biết thế mà thôi! À, à, nhưng viết ra giấy thì được. Đây, giấy bút đây rồi! Để tôi viết ra cho chị nghe!”. Đoạn, mụ Phé vừa lẩm bẩm đọc trong miệng vừa viết những cái gì vào tờ giấy này đây.
Vừa nói, bà Cầm vừa lôi từ trong túi ra một mảnh giấy nhàu nát, mảnh giấy vàng khè rung tít lên trong mấy ngón tay lẩy bẩy của bà già khốn khổ.
Vừa khóc sướt mướt bà Cầm vừa đưa cho bà Án tờ giấy có chữ viết của mụ Phé. Nữ chủ nhân tiếp lấy, bình tỉnh đưa mắt đọc. Chưa đầy phút sau, bà Án đã la lớn, giọng đầy phẫn nộ, nhưng nghe kỹ có vẻ kém sút hẳn tinh thần đanh thép thường lệ.
_ Mụ Phé này viết lảm nhảm những gì thế này? Đúng là đồ điên khùng.
Bà Cầm nói như van:
_ Trời ơi! Xin bà đừng nói thế! Lỡ một cái…
Bà già run sợ là phải. Nữ chủ nhân của bà dám cả gan nguyền rủa bà thầy phù thủy. Nguy lắm! Nguy thật! Nhưng đồng thời bà Cầm lại cảm thấy hơi hy vọng khi nữ chủ nhân của bà không một chút nào tin tưởng vào tờ giấy của mụ Phé. Tờ giấy ghê gớm đó đã khiến bà kinh sợ hãi hùng.
Bà Án không tin tưởng những gì ghi trong tờ giấy của mụ Phé, nhưng sự hiện diện của tờ giấy nhàu nát không lớn hơn bàn tay ấy đã khiến bà đi đến quyết định mau lẹ: báo cho ông xã trưởng biết được sự thất lạc của cậu Sinh, con trai duy nhất cưng yêu của bà và thằng Đông, Lê văn Đông, tức thằng Ngây cháu nội của bà Cầm.
Trong lúc bà Án hối hả bước ra ngoài ban lệnh cho gia nhân, Tường Vân lượm tờ giấy. Cô giáo và học trò cùng liếc mắt nhìn chăm chú. Tường Vân cất tiếng run run đọc. Càng đọc, càng nghe, hai thầy trò lại càng run sợ trong bài thơ kinh dị như sau:
Thằng ngớ ngẩn chui vào củi chó
Lúc chui ra máu đỏ bết bê
Chăn chiên hóa sói đổi nghề
Cậu chàng quý tử đam mê chốn nào
Không chừng cậu ngự trên cao
Chẳng hiểu bài thơ có ý gì. Nhưng tính chất ghê rợn của từ ngữ, những chữ kỳ quái được sử dụng như “máu đỏ bết bê”, rồi “hóa sói”, nhất là bốn chữ “cậu chàng quý tử”, đối với Tường Vân quả thực đã rõ lắm rồi. Không kiềm chế được nổi niềm xúc cảm tràn ngập trong lòng, cô gái gục đầu vào vai cô giáo khóc nấc lên. Bạch Xuyến hai mắt mở trừng trừng nhìn chăm chú một điểm nào đó trong không trung, miệng lẩm bẩm từng câu từng chữ trong bài thơ quái đản.