Cát Tường bước lên thềm nhà nguyện, đứng ở đó một tí. Trời nắng gắt. Buổi trưa êm ả như muốn bảo mọi vật ngủ đi. Nắng giữa trưa đứng bóng. Cát Tường bâng khuâng nhìn cái bóng nhỏ xíu của mình in trên nền gạch đã loang lở. Không một ý nghĩ nào được bắt đầu. Mà chỉ thấy trong trí một sự trống rỗng – một sự trống rỗng lạ kỳ.
Cát Tường ngồi xuống đó. Tự nhiên nhìn xuống tay, nhìn xuống chân. Bàn tay làm việc với vườn rẫy qua nhiều tháng nhiều năm, dù chưa khô cứng nhưng có nhiều vết buồn bã. Bàn chân chưa quen bước lên xe, đã quên đường đến trường, trông tội nghiệp làm sao! Và áo quần màu nâu, màu đen, màu xám! Ta chưa có vải hoa. Các bé chưa có vải hoa… Ở đây sáng sớm thấy mặt trời lên từ nóc nhà nguyện, chiều thấy bóng tối tràn đến từ rừng xa. Chưa có gì khuấy động, và cũng chẳng có gì để làm náo nhiệt hơn.
Tự nhiên ký ức bùng dậy. Mới đầu, như một tiếng thở dài của người vừa bừng tỉnh giấc ngủ. Rồi cuồn cuộn dâng lên, nức nở như tiếng than van. Chiều nào đó trên sân nhà vắng bóng, ta khóc như chưa hề được khóc. Sáng nào đó trong sân viện cô nhi đông đảo những khuôn mặt nhỏ bé tội nghiệp, ta mở miệng cười như cười nụ đầu tiên. Cười vì xung quanh mình là nai, là chim, mà mình thì lớn quá! Tất cả gọi mình bằng chị. Chị cả! Chị dạy chúng em hát đi! Anh Khánh chẳng biết hát gì hết trơn, có mỗi bài “Em có nuôi một con chó” hát hoài. Mà Cha đâu có nuôi chó. Chúng em ăn cơm còn chưa đủ nữa là! Ha ha, hi hi… Nai với chim cười đùa thật tẻ nhạt, cười đùa như cho quên thân phận. Không được, các em! Đứng thành vòng tròn xung quanh chị đi! Nắm tay nhau, như chim giăng cánh che hết trời. Chị dạy cho mà hát. Không hát bài con chó, con mèo nữa. Nhạc đó không dành cho chúng ta. Lời hát không chép trên giấy. Bài hát chưa có nốt nhạc. Chị nghĩ bằng trí tưởng tượng. Chị viết từ con tim. Nào hát nhé! “Em thương cha em lắm, người cha tóc trắng. Cha em như ánh nắng chiếu ấm đời em. Cha mặc áo màu đen, nhưng tim cha sáng như ánh đèn…”. Mấy chục cái miệng mở ra, mà lời hát như bắt đầu từ trong phổi, trong tim. Cha Đạo đứng trên thềm, bước xuống, vuốt tóc Cát Tường. Đôi mắt Cha xúc động. Con giỏi lắm! Con hiền ngoan lắm! Con có muốn ở lại đây không? Cha chưa bao giờ nhận trẻ lớn như con, vì Cha sợ không đủ phương tiện dạy dỗ. Nhưng con là trường hợp đặc biệt. Con sẽ giúp Cha chăn dắt đàn trẻ này nhé! Con tên gì? Dạ, Cát Tường. Con ở lại đây nhé! Không trả lời được, nước mắt ứa ra. Ta xấu hổ với đàn bé, mà cũng thương cho chính ta nữa. Mấy mươi đôi mắt khờ dại nhìn ta. Chị ở đây đi! Dạy cho em học, dạy cho em hát, nhé chị!...
Cha Đạo đứng trên thềm, bước xuống. Nhưng Cha không vuốt tóc Cát Tường như năm xưa. Cha ngạc nhiên khi thấy đứa con cả của Cha ngồi một mình, để nắng chiếu đầy tóc, đầy lưng.
- Kìa, Cát Tường! Con qua tìm Cha à?
Cát Tường giật mình quay lại, rồi đứng dậy, nói:
- Thưa Cha, không… Nhưng…
- Không, sao con ngồi đây?
Cát Tường ấp úng:
- Nhưng…, thưa Cha, anh Trúc…
- Có chuyện gì vậy con?
- Dạ… sáng nay anh Trúc bảo là anh ấy muốn ra đường lớn một mình.
- Để làm gì?
- Thưa Cha, anh ấy muốn ra đón xe để lên tỉnh trình diện vì quá mười lăm ngày thì đơn vị sẽ thông báo là anh ấy mất tích. Như thế ở Sài Gòn gia đình anh ấy sẽ lo lắng, anh ấy không muốn thế.
Đôi mày trắng của Cha Đạo nhíu lại. Cha nói:
- Ồ! Nhưng Cha ngại quá! Đường sá hình như bị chận ở khúc nào đó, thì làm gì có xe cho Trúc đi. Con thấy không, cả ông Năm cũng chưa về nữa mà!
- Con có nói với anh Trúc như vậy, nhưng anh ấy không yên, cứ lo lắng hoài.
- Vả lại, Trúc đã lưu lạc đến đây, cha con ta đã săn sóc cho Trúc lành lặn, bây giờ để anh ta đi một mình sao đành? Mà chúng ta thì đâu có ai rời khỏi làng được. Con cứ nói với Trúc là hãy đợi vài hôm nữa, ông Năm thế nào cũng về. Cha sẽ nhờ ông Năm đưa Trúc ra tỉnh ngay.
- Dạ.
- Đêm nào Cha cũng nghe tiếng súng, ở xa xa đâu đó. Cha đoán là phía cầu. Chắc vì thế mà cầu bị chận, ông Năm về không được.
Cát Tường nhè nhẹ thở dài. Sự lo sợ đã bắt đầu từ hôm có hai người đàn ông lạ vào nhà nguyện, từ hôm có tiếng súng vang vọng giữa đêm. Nếu vì có giao tranh trên đường đi , hoặc vì sập cầu, hoặc vì một lý do nào khác mà ông Năm không về được, thì chỉ một tuần nữa thôi, Cha Đạo và các con của Cha sẽ phải nhịn cơm. Gạo đã sắp hết. Không những chỉ một vấn đề đó, mà còn nhiều chuyện nữa. Thuốc men cũng thiếu thốn. Hôm nào đưa Trúc về làng, Cát Tường đã phải hy sinh miếng vải mịn định may khăn tay để thay bông gòn rửa vết thương cho Trúc. Các bé nhỏ lại đang chờ có vải hoa để may áo đẹp. Cát Tường cũng chờ có thêm nhiều sách truyện để kể cho các bé nghe. Quá nhiều việc chờ ông Năm về giải quyết, kể cả việc đưa Trúc ra tỉnh để chờ về đơn vị nữa. Nhưng lại cũng điều ấy làm Cát Tường thấy nao nao, bồi hồi kỳ lạ. Mai mốt ông Năm về, chở anh Trúc đi xa, đi luôn. Làm sao biết có ngày gặp lại? Vì mây bao giờ cũng ở trên trời, nếu có rơi xuống thì đã là mưa lũ. Mà anh Trúc là mây. Cát Tường nghĩ quanh quẩn như thế rồi lấy làm buồn bã lắm, nên dù lo lắng sao ông Năm chưa về nhưng cứ như là mong ông Năm khoan về. Cầu hãy bị chận thêm vài ngày. Đường hãy bị kẹt thêm vài ngày.Để anh ấy còn trú ngụ ở đây, sáng xuống rẫy cùng đào khoai, trồng củ mì; trưa thăm luống cải đã che xanh cả khoảng đất; chiều thơ thẩn trước nhà nguyện hay vào đó tĩnh tâm trước mặt Chúa; tối sang phòng học cùng Cát Tường dạy cho các bé. Ở đâu có dấu chân của Trúc, ở đó Cát Tường thấy có sự vui tươi. Cái bóng dáng của Trúc là biểu hiệu cho sự an ổn , vững mạnh. Tại sao người đến, rồi chờ ngày ra đi? Sao người không là mưa mà lại làm mây? Người có biết, ngoài những lúc cùng sinh hoạt vui vẻ, còn lại là những giờ phút dành cho Cát Tường nghĩ ngợi, khắc khoải? Một thứ lo âu nào thật mơ hồ. Một thứ buồn bã nào vồ chụp lấy Cát Tường, mỗi đêm, khiến đôi mắt Cát Tường mỗi sáng soi gương thấy có vết thâm quầng.
- Cát Tường, con có điều gì buồn chăng?
Cha Đạo hỏi làm Cát Tường ngỡ ngàng, vội nói để Cha đừng nghi ngờ:
- Thưa Cha không. Con chỉ qua đây … muốn để thưa với Cha việc đó.
- Cha thấy con có vẻ khác lạ. Có việc gì làm con khó nghĩ không?
- Dạ không thưa Cha. Con vẫn như thường.
Nhưng Cha Đạo vẫn áy náy:
- Nếu con có mệt mỏi, con hãy nghỉ ngơi đi, giao cho Khánh làm bớt. Cha thấy lúc này con làm việc nhiều lắm đó!
- Thưa Cha, con đâu có làm gì nhiều.
Cha Đạo cười:
- Mọi khi con chỉ lo việc ở nhà, bây giờ Cha thấy con còn lo dưới rẫy. Bọn con trai khỏe, chứ con là con gái, đừng ra dang nắng nhiều.
Cát Tường cảm động, muốn nói gì với Cha Đạo, nhưng thôi. Cũng phải công nhận là mình có xuống rẫy hơi nhiều. Nhưng tại vì… à, tại vì có Trúc. Có đôi guốc của Trúc dẫm trên đá, có tiếng cuốc của Trúc đào vỡ đất, có tiếng cười của Trúc vang động giữa trời xanh, là như có sự sống linh hoạt và bền bỉ. Như thế ai mà không náo nức, ai mà đứng yên được ở trên đỉnh đồi?
Cát Tường nói như để Cha Đạo yên lòng:
- Dạ, con sẽ bớt làm việc lại, thưa Cha.
- Công việc mà Cha muốn con đừng xao lãng là dạy các em con học. Còn những công việc khác, con hãy để Khánh lo.
- Dạ.
- Ít nhất, Cha muốn các em con sẽ học bằng với sức học của con ngày trước. Tới chừng đó, Cha sẽ gửi chúng đi học thêm ở các Cha trên tỉnh. Con cũng vậy. Bây giờ thời cuộc chưa yên, mình chấp nhận thế này. Sau này, có điều kiện, con cũng phải tiến lên – Cha Đạo thở dài – Nhưng có lẽ việc ấy hãy còn xa. Hiện giờ Cha vẫn thấy sống gần thiên nhiên, các con phát triển nhiều hơn khi sống chật chội ở thành phố. Sao? Đến nay bé Nhu Mì đã làm được toán nhân chưa?
- Thưa Cha, Nhu Mì học giỏi lắm ạ. Nhờ có anh Trúc thúc đẩy, bé đã làm được cả bốn phép toán. Các em khác cũng học chăm lắm. Chỉ trừ Hậu…
- Hậu làm sao?
- Thưa Cha, Hậu chỉ thích chơi những trò chơi ngoài trời, nó có tính tháo vát nên thích hoạt động tay chân, ít chịu học. Đến nay Hậu vẫn chưa đánh vần trôi chảy.
- Vậy sao? Để Cha rầy nó.
- Con nghĩ chắc không phải bé Hậu tối dạ, mà vì nó thích những việc linh động hơn.
Cha Đạo có vẻ suy nghĩ:
- Như vậy, sau này Cha sẽ cho nó học nghề. Chắc thằng bé đã thích vậy… Nhưng con cũng rán dạy cho nó đọc, viết cho được nhé!
- Dạ.
- Thôi, con trở về nhà đi. Đứng ở đây nắng quá. Chiều Cha sẽ qua gặp Trúc. Giờ này Trúc đang làm gì bên đó?
- Thưa Cha, chắc anh ấy nghỉ.
- Thế à? Thôi con về đi.
- Vâng, thưa Cha con về.
Ở trên trời, có một vầng mây xám mỏng bỗng dưng che ánh nắng. Lúc Cát Tường quay lưng đi, Cha Đạo chợt nhận thấy một điều gì không được vui lắm. Cha định gọi Cát Tường lại, nhưng thôi. Cha tự nghĩ có lẽ cuộc sống bình lặng quá đôi lúc cũng làm con người mất vẻ vui nhộn. Cha đứng trên thềm, nhìn theo cái bóng của Cát Tường xa dần về phía dãy nhà bên kia vườn rau. Ở đó gần, nhưng thấy có vẻ ngăn cách quá! Chợt Cha đưa bàn tay lên, tính nhẩm. Rồi đôi mày cau lại, Cha lẩm bẩm:
- Ủa, sáu năm rồi sao?...
**
Trưa yên vắng làm bước chân Cát Tường chậm lại. Đến trước cửa phòng thuốc – nơi mà hơn một tuần nay dành làm phòng của Trúc – Cát Tường nhẹ đặt tay lên chốt cửa. Chắc Trúc đang thức? Cát Tường gọi khẽ:
- Anh Trúc!
Chưa nghe tiếng trả lời, nhưng cánh cửa đã tự động mở ra vì bên trong không cài móc lại. Căn phòng vắng lặng. Cát Tường ngạc nhiên quá, chạy qua phòng học. Chỉ có bé Nhu Mì đang ngồi vẽ. Cát Tường tìm khắp nơi, vẫn không thấy Trúc đâu. Các bé thì đang ngủ trưa. Khắp sân trước vườn sau, chẳng hề thấy bóng Trúc. Trúc ở đâu? Cát Tường giật mình khi tìm được câu trả lời. Trúc đã ra đường lớn một mình? Trúc đã đi lúc trời trưa vắng vẻ để đừng ai hay biết? Trúc chờ một chiếc xe lam chạy ngang, Trúc vẫy, và xe đưa Trúc về thành phố? Trúc bỏ mọi người nơi đây. Không có gì để tiếc rẻ, để lưu luyến cả, phải không? Cát Tường ngồi xuống bậc thềm đã trở thành của riêng Trúc, ôm mặt khóc. Ô hay! Ta khóc được dễ dàng như thế này ư? Vì sao vậy? Vì thương người quá? Vì bóng dáng người làm không gian rạng rỡ, vì tiếng nói của người làm tỏa ngát niềm vui, vì dấu chân của người làm cảm tình in đậm…
- Cát Tường!
Ai gọi? Đúng rồi, tiếng của người chào ta ngày đầu tiên đến đây bằng chiếc xe chở củi. Tôi là Trúc – Thưa anh Trúc!... Còn cô? Em tên Cát Tường – Cô Cát Tường!... Chỉ có thế, nhưng là lời chào nhau rất đậm đà.
- Cát Tường!
Đúng rồi! Tiếng của người lo âu, sợ nơi đây từ chối sự có mặt của người. Cô Cát Tường! Dạ? Cha cô sẽ cho tôi ở lại đây? Vâng, anh sẽ ở đây đến khi lành hẳn. Cả cô cũng bằng lòng chứ? Không những em, mà cả làng sẽ rất vui… Cô làm tôi cảm động quá!..
- Cát Tường! Sao Cát Tường khóc?
Đúng rồi, giọng của Trúc thật mà! Cát Tường bàng hoàng ngước lên. Trúc đứng trước mặt, rõ ràng như vậy. Đâu phải lời chào hỏi, đâu phải lời lo âu. Mà thật đó, Trúc còn ở đây, Trúc hỏi sao Cát Tường khóc. Tự nhiên điều gì làm Cát Tường ngượng ngùng quá! Anh có thấy rõ những ý nghĩ của mình không?
- Anh Trúc… vẫn còn ở đây hở?
Trúc ngơ ngác:
- Chứ tôi đã đi đâu! Tôi ra lối đường mòn…
- Anh ra đó… để đón xe về hở?
Trúc cuời:
- Không, tôi theo đường Khánh chỉ, để xem cho biết.
Cát Tường tấm tức:
- Anh nói gạt.
- Thật mà! Ủa, nhưng sao Cát Tường khóc? Có ai làm Cát Tường buồn không?
- Dạ…
- Tôi nghĩ, ngoài tôi ra, không ai làm buồn lòng Cát Tường được hết.
- Không, đâu có…
- Tôi là người làm phiền Cát Tường nhiều nhất. Mà lúc nãy tôi lại đi vắng. Vậy thì ai?
Cát Tường xấu hổ đáp:
- Không ai hết. Tại vì… tại vì buồn quá!
Trúc cười lớn:
- Lần đầu tiên nghe Cát Tường nói buồn. Nhưng nè, Cát Tường, nghe tôi nói chuyện này, hết buồn ngay.
Cát Tường lau nước mắt, chờ đợi. Trúc vui vẻ ngồi xuống, cầm một nhánh cây khô vẽ lên đất, nói:
- Này nhé Cát Tường, trưa nay ngủ không được tôi ra đường mòn, đi lần lần tới đường lớn. Nhưng tôi không đón xe đâu. Vả lại, chẳng có một bóng xe nào chạy qua cả. Tôi trở lại, và phát bớt cây cỏ hai bên đường để lối đi sáng sủa hơn. Con đường vào làng thật ra đâu phải là đường mòn.
- Dạ, nhưng tại vì cây cỏ mọc lấn ra đó anh. Xe ông Năm vẫn ra vào được mà!
- Làm rộng con đường ra rồi, tôi nghĩ ra một điều, là làng ta chưa có cổng.
- Hồi trước có, nhưng mưa gió làm mục gãy, Cha bỏ đi đó anh!
- Bây giờ tôi muốn dựng một cái cổng ở chỗ cũ. Hai bên đã có hai cây to. Mình chỉ việc hè nhau lấy gỗ và tre đóng thành cánh cổng gắn vào đó.
- Có sẵn đinh, dây thép ở nhà bếp…
- Chưa hết, có một cái chuông, tôi vừa mới tìm được sau chỗ chất củi.
Cát Tường reo lên:
- Cái chuông gọi ăn cơm của chúng em, lạc mất đã lâu.
- Đúng rồi. Tôi sẽ nối một sợi dây vào chuông, rồi cột nơi cánh cổng. Tiếng chuông vẫn còn dòn dã lắm. Có ai mở cổng, ta ở trong này sẽ nghe chuông “leng keng, leng keng”.
Cát Tường thích thú cười:
- Hay quá! Có cái chuông đó, người lạ có đến, mình sẽ biết trước mà tránh.
- Như hai cái ông hôm nọ?
- Dạ.
Cả hai không hẹn mà cùng im lặng. Rồi chợt Trúc đưa một ngón trỏ lên trước mặt, cười hóm hỉnh:
- Thấy chưa? Tôi đã bảo nghe chuyện làm cổng với lại làm dây chuông là Cát Tường sẽ vui ngay.
Cát Tường bẽn lẽn:
- Sao anh biết?
- Thì tại vì Cát Tường là chị cả. Chị cả của một cái làng thì luôn luôn muốn cho các em mình được yên ổn.
- Anh Trúc nói sai rồi!
Cát Tường cúi xuống, xấu hổ. Nếu mà Trúc biết được rằng chỉ cần sự có mặt của Trúc thôi, Cát Tường sẽ vui lại ngay. Nhưng xấu quá, thẹn quá! Cát Tường muốn trốn ánh mắt của Trúc, cái ánh mắt lạ lùng quá, thu hút quá!
Trúc hỏi:
- Tôi nói sai chỗ nào?
- Em là chị cả của các bé, chứ đâu phải là chị cả của…
Trúc bật cười:
- …của tôi, phải không?
- Dạ.
Rồi lại im lặng. Nhưng Cát Tường muốn nói với Trúc rằng: trước khi anh hiện diện nơi đây, Cát Tường thấy mình là chị cả thật; rồi sau ngày đón nhận người làm người khách bất ngờ, Cát Tường đã dần dần cảm thấy mình nhỏ nhoi, bé mọn, và cần một sự che chở yêu thương nào đó… Không biết!!!
Biết rồi! Cát Tường đã biết rồi! Biết là mình bé mọn, nhỏ nhoi. Biết mình là một đứa con gái chưa một lần sống với tình cảm mới. Nên cần che chở. Nên cần yêu thương. Nhưng không phải sự che chở của Chúa, không phải sự yêu thương của Cha. Mà của anh Trúc. Phải là anh không? Sự gặp gỡ kỳ lạ và huyền diệu. Một bông hoa hồng nở trong khúc đời xanh ngát. Cát Tường đã biết rồi! Cát Tường cần có anh như một an ủi tuyệt vời. Biết như thế, sao không vui mà lại buồn? Sao không cười mà lại khóc?
Trưa hôm nay chỉ một mình trong phòng học, trước chiếc gương nhỏ, Cát Tường khóc như thể bây giờ mới là lần đầu được khóc. Khóc vì thấy tóc, thấy mắt, thấy gương mặt của chính mình. Cát Tường ơi, sao mi lại như thế? Nếu mi còn cha, còn mẹ, còn cắp sách đến trường, biết đâu chừng đã được bạn bè gọi là “cô bé áo xanh, áo hồng, hay áo trắng”… Sao Cát Tường lại ở đây? Một diễm phúc hay một đọa đày?
Kìa, tóc đó cũng mượt lắm, đen lắm! Mắt đó cũng sáng lắm, to lắm! Da kia cũng trắng lắm! Môi kia cũng hồng lắm! Cát Tường, mi là con gái hay là nữ tu? Mi có cần yêu thương, che chở? Hay mi muốn làm chim đại bàng giăng cánh bảo vệ lũ chim non? Điều gì trái ngược quá! Điều mà trước kia mình không bao giờ nghĩ tới, bây giờ lại đâm xoáy vào tim. Tại sao lại có anh, hở Trúc? Anh hiện diện như Gulliver lạc vào nước tí hon. Ở đây chúng em không giam cầm anh, không tước đoạt vật dụng của anh. Mà trái lại, chúng em còn may cho anh quần áo, đẽo cho anh đôi guốc. Anh vui vẻ, anh hiền lành vô hạn. Nhưng có mỗi con tim của Cát Tường, chính anh đã giam cầm mất rồi!
Anh biết gì không? Người thanh niên đang vui cười dưới rẫy khoai ngập nắng kia, biết gì không? Mai mốt cánh chim sẽ bay lên trời, có đem theo gì không? Một chút nhớ, một chút buồn? Rồi thì cuộc đời sẽ tiếp tục như sông, như biển. Cát Tường đã biết việc gì sẽ đến. Sông sẽ cuốn trôi hết những muộn phiền. Biển sẽ hòa tan tất cả nỗi nhớ. Anh sẽ sống đời anh.Cuộc sống tiếp diễn như người ta lật những trang sách. Những trang sắp tới, Cát Tường vẫn ở đây, giữa bầy trẻ nhỏ, bên người Cha chung. Đợi cho trẻ nhỏ chóng lớn. Cầu cho Cha chung lâu già. Còn Cát Tường thì sao? Có tiếp tục hồn nhiên, vui tươi? Hay Cát Tường sẽ là cái bóng cằn cỗi, khắc khoải và ưu phiền? Ôi, tóc đó, mắt đó, mai mốt sẽ là tóc trắng, mắt sâu. Cát Tường ơi! Sao biết mình yêu quý người mà lại khóc? Sao biết mình cần người mà chẳng vui? Nước mắt lăn xuống má, nhỏ giọt trên tay. Lòng cũng như thế mà se thắt.
Đêm hôm qua Cát Tường mơ thấy mình được về thành phố - một thành phố nào thật xa, thật lạ, và là nơi trú ngụ của Trúc. Có mẹ Trúc, có em Trúc: Lệ, Hạnh, Trinh, Tuấn. Có cô bé áo vàng Hồng Phước. Ai cũng mến Cát Tường và muốn Cát Tường ở lại đó. Trúc cũng năn nỉ Cát Tường ở lại đó. Cát Tường gọi mẹ Trúc bằng mẹ, gọi những người kia là em. Cát Tường được đi học, mặc áo dài trắng. Trúc khen Cát Tường đẹp, nhất là khi mặc áo dài trắng. Cát Tường cài hoa trắng trên đầu. Rồi mùa xuân cũng đến. Trúc tặng cho Cát Tường thật nhiều hoa trắng. Hoa ngợp cả người, cả mặt. Cát Tường chới với như đang bước giữa chân không. Cát Tường ngỡ mình sắp chết, khóc òa trong hoa. Nhưng có Trúc bên cạnh, Trúc an ủi ngọt ngào. Trúc biến những giọt lệ thành những hạt sương, cho rơi xuống những cánh hoa. Âm thanh vỡ ra thành tiếng đàn. Không phải tiếng thánh nhạc đều đặn ở giáo đường, mà là tiếng hân hoan rung lên từ những tâm hồn trẻ trung. Là tình ca. Là tiếng ru cho lòng người náo nức. Rồi Trúc hát, và Cát Tường cũng hát. Không phải bài kéo củi, mà là khúc hát ngọt ngào giúp Cát Tường quên đi nỗi thê lương của một thời thơ ấu.
Giấc mơ chỉ có thế.
Trúc hiện ra ở cửa sổ ngoài phòng học. Trúc ngạc nhiên vô cùng, vì lần thứ hai Trúc trông thấy nước mắt Cát Tường. Gương mặt can đảm, từ bi đang nhòa nhạt lệ. Và cô gái đó, trước mắt Trúc bây giờ, đang trở thành một cọng cỏ yếu đuối, mảnh mai. Trúc bồi hồi, gọi khẽ:
- Cát Tường, có chuyện gì thế?
Cát Tường quay mặt đi. Không che giấu được người, nhưng biết trả lời làm sao? Trúc vòng lại phía cửa lớn, bước vào phòng học. Mấy dãy ghế vắng ngắt, vì đám học trò tất cả đều ra rẫy. Chỉ có mỗi cô giáo đang tấm tức một mình.
Tiếng chân Trúc đến gần, đàng sau lưng, làm Cát Tường bỗng dưng run rẩy. Không phải vì tiếng chân vang động như chân của người khổng lồ. Mà vì Cát Tường đã nhìn Trúc bằng một nhãn quan khác, nên tiếng chân quen thuộc đã biến thành tiếng của hạnh phúc, của nỗi khổ, của một tình cảm nào đó rất thênh thang. Một sự gì khó định nghĩa lắm! Trúc đứng trước mặt. Nụ cười trở nên ái ngại. Trúc hỏi:
- Có chuyện gì vậy, Cát Tường?
Cát Tường lắc đầu,nước mắt lại ứa ra, không cầm giữ được. Trúc hỏi tiếp:
- Bộ Cát Tường phiền tôi chuyện gì?
- Dạ không...
- Hay là tại vì ở đây buồn quá?
- Không...
Cát Tường im bặt. Sao người lại biết rằng ở đây buồn quá? Cát Tường nghĩ như thế rồi nhớ ngay là có lần mình đã nói như vậy. Ở đây buồn quá! Sáng xuống rẫy, chiều trở về, chẳng có gì đáng nói. Mai mốt người ra đi, chắc cũng không luyến tiếc những bữa cơm trộn khoai nuốt nghẹn cổ, nhức óc...
- Cát Tường, lau nước mắt đi, nói cho tôi nghe sao đến nỗi Cát Tường phải khóc.
- Không , không có gì cả. Thỉnh thoảng vẫn vậy. Mỗi khi nhớ ba mẹ, em khóc. Khóc rồi thì thôi, không có gì cả.
- Có thật không? Hay có điều gì Cát Tường muốn giấu?
Chợt nhìn thấy chiếc gương nhỏ đặt trên bàn, Trúc phì cười:
- A! Cát Tường khóc... mà soi gương!...
Cát Tường mắc cỡ chết thôi! Không biết phải giải thích thế nào. Chắc dưới mắt Trúc, ta đang trở thành một cô Mán rừng đáng thương lắm. Trúc cười nhẹ nhàng, nhưng giọng cười khiến Cát Tường lúng túng.
- Anh Trúc đừng nhạo nữa. Cát Tường khóc vì ... vì Cát Tường xấu xí quá!...
Trúc mở to đôi mắt:
- Ai nói vậy?
- Không ai nói, nhưng em biết.
- Tầm bậy nào! Cát Tường đâu có xấu xí.
- Anh nói gạt.
Trúc cười:
- Tôi nói thật. Cát Tường quá bi quan đó. Cát Tường dịu dàng, đáng mến lắm. Cát Tường có nét đẹp quen quen, mà mới lúc ban đầu, tôi cứ tưởng là tôi đã gặp trong một bức tranh nào.
Cát Tường lập lại bằng giọng ngạc nhiên:
- Trong một bức tranh nào...?
Trúc gật đầu:
- Nhưng tôi nhớ ra rồi, không phải trong tranh bình thường, mà Cát Tường biết ở đâu không?
- Ở đâu hở anh?
- Trong hình tượng Đức Mẹ.
Cát Tường kêu lên:
- Chết! Sao lại như thế được?
- Thật mà Cát Tường. Cát Tường có nét đẹp từ bi, giống như Mẹ Maria, mà tôi chưa hề gặp ở một người con gái nào khác. Cát Tường lại có nhiều đức tính quá, nếu các em gái của tôi được ở gần Cát Tường, tôi sẽ khuyên chúng nó tập lấy giống như Cát Tường.
- Anh Trúc nói, làm em “dị” quá!
Trúc nhìn thẳng vào đôi mắt Cát Tường, nói rất êm đềm:
- Nếu Cát Tường không ngại, thì cho tôi được xem Cát Tường như một người em gái, được không?
- Dạ? Anh Trúc nói gì?
- Tôi mong nhận Cát Tường làm em gái.
Giọng Trúc nghe thiết tha quá! Cát Tường chớp mắt:
- Anh... nhận em làm em gái?
- Vâng.
- Em gái... là thế nào?
Hỏi xong, Cát Tường thấy mình ngớ ngẩn, và xấu hổ vô cùng. Trúc cười:
- Thì hai ta xem nhau như anh em một nhà.
Cát Tường bâng khuâng:
- Ở đây... đã là một nhà rồi!
- Cát Tường không chịu hả?
- Đâu có! Chịu chứ! Từ lâu... em đã xem anh Trúc như... một người anh.
- Cám ơn Cát Tường. Riêng tôi, vì cách xưng hô khiến tôi cảm thấy xa cách. Tôi vẫn thấy Cát Tường xứng đáng là chị cả của các bé nhỏ. Tôi chưa hề có ý nghĩ coi Cát Tường ở vai thấp hơn tôi – giọng Trúc trầm xuống – Nhưng trưa nay, lúc đang cuốc đất dưới rẫy, tôi có một ý nghĩ khác. Ở đây đã có một cái gì làm tôi thương mến lắm. Không biết tôi còn được ở lại đây bao lâu nữa? Nhưng chắc khi xa sẽ nhớ lắm. Nhất là Cát Tường... Sao tôi lại không thể thân mật hơn với Cát Tường, mà tôi lại cứ xem Cát Tường như một người rất xa cách?
- Em... có gì đáng để xa cách đâu!
- Không, chỉ vì Cát Tường quá bao dung, khéo léo, làm tôi kính phục.
Giọng Cát Tường ướt sũng:
- Nhưng em không phải là một người cứng rắn. Có lúc em cũng nhận thấy mình yếu ớt. Ở đây, nhiều khi... cũng buồn lắm. Không có ai chia xẻ với em. Em thèm sống trong một mái gia đình. Em thèm có cha, mẹ, có anh chị. Em muốn được nghe những lời an ủi, lo lắng. Sáu năm rồi, em sống không có tình gia đình. Bốn năm nay, em nhận nơi này làm mái nhà lớn. Em thương Cha lắm, thương các bé lắm. Nhưng có nhiều lúc, em thương thân em quá!
- Cát Tường! Anh hiểu...
Giọng của Trúc êm như gió chiều. Nước mắt lại được dịp rơi. Cát Tường cũng không hiểu tại sao mình lại có can đảm khóc sụt sùi trước mặt Trúc. Không còn xấu, không còn thẹn. Tưởng như chỉ có Trúc là người chia xẻ được nỗi buồn.
Giọng Trúc vỗ về, an ủi:
- Vì hiểu thế, nên anh muốn Cát Tường xem anh như người anh của Cát Tường. Anh muốn mỗi khi Cát Tường có điều gì suy nghĩ, bận trí, Cát Tường nói cho anh nghe với.
- Cho đến khi nào? Cho đến khi ông Năm về, hở anh?
Trúc im lặng. Ngoài sân vắng có tiếng chim gọi nhau nghe thật rõ. Trúc sực nhớ rằng dưới rẫy có lũ trẻ nhỏ đang chờ mình.
- Cát Tường! Đừng buồn nữa, xuống rẫy chơi đi!
- Em sắp phải nấu cơm.
- Xuống chơi một lát đi! Ngồi một mình, lại suy nghĩ vẩn vơ.
- Nhưng... mới khóc xong, xấu lắm, “dị” lắm!
Trúc cười:
- Không “dị” đâu! Lau nước mắt đi, để các bé thấy tưởng là chị cả nhớ nhà, các bé bắt chước thì khổ đó!
- Anh Trúc chế nhạo mãi, em cứ tưởng như mình xấu xí lắm.
- Không, trái lại nữa là khác. Anh nghĩ... nếu mà Cát Tường mặc một chiếc áo dài trắng, ôm một chiếc cặp, chắc sẽ đẹp và ngoan như một cô bé học trò.
Cát Tường mỉm cười. Lời nói như một sự khích động lớn lao. Ở trong giấc mơ, Trúc cũng khen Cát Tường đẹp khi mặc áo dài trắng. Tự nhiên Cát Tường nghe dâng lên một niềm ao ước. Ao ước một cuộc sống giản dị và bình thường – sớm có áo trắng tung tăng, chiều có nghe lời mẹ gọi - nhưng thần tiên lắm, ngọt ngào lắm, tưởng như rất khó xảy ra, hay nói đúng hơn là chẳng bao giờ xảy ra nữa.
Tiếng chân trẻ nhỏ dừng lại trước hiên nhà. Tiếng ríu rít trao đổi với nhau khiến Cát Tường đoán là có độ ba, bốn đứa đang ở ngoài cửa. Cát Tường lau vội cho khô những dấu nước mắt, rồi nhón gót nhìn ra thềm. Hiền, Lương và Hậu, ba đứa con trai nhỏ đang ló đầu vào cửa sổ phòng học. Hiền nói:
- Anh Trúc ơi! Sao lâu vậy?
Trúc đáp:
- Thì tại vì anh chờ chị Cát Tường đây này! Chị ấy đang bận… vá chiếc áo…
Hậu hỏi:
- Áo nào hở chị?
Trúc cười:
- Xong rồi, chị ấy cất rồi. Bây giờ thì chị Cát Tường sẽ xuống chơi với các em.
- Cả anh nữa chứ?
- Ừ, thì có anh nữa.
Trúc quay lại nói với Cát Tường:
- Không biết có trò chơi gì đây mà các bé bắt anh phải làm “vai chính”.
Cát Tường ngơ ngác:
- Cái gì vậy?
Hậu đáp nhanh nhẩu:
- Chị cứ xuống rẫy coi thì rõ. Cả đám chờ ở dưới ấy.
Cát Tường nhẹ cốc đầu thằng bé, mắng yêu:
- Bé Hậu này, được cái chơi đùa thì thích nhé, chứ động đến sách vở thì sợ lắm.
- Cho em chơi đi, ngày mai em học bù.
- Ngày mai… ngày mai chẳng bao giờ đến cả.
Hậu cười lấp, nắm tay Cát Tường lôi đi. Cát Tường vừa cười vừa nói:
- Chẳng hiểu gì hết. Các bé làm gì đây?
Trúc đi theo sau với Hiền, Lương. Năm người xuống đường dốc thấp, tới đám rẫy trồng khoai sắn. Đi từ trên, đã thấy ở bên dưới, lũ trẻ nhỏ đứng thành một đoàn. Chúng reo hò khi thấy Trúc và Cát Tường. Khánh chạy đến, nói ngay:
- Rồi, đã đông đủ tất cả, chúng ta bắt đầu chơi.
Cát Tường hỏi:
- Bé Nhu Mì đâu?
Từ đám đông, bé Nhu Mì chạy ra, giơ một tay lên khỏi đầu. Đôi môi mọng đỏ tươi tắn hơn mọi ngày, đang mấp máy như muốn nói: “Em đây!” Lần đầu tiên bé xuống rẫy vui cùng các bạn. Vì ai thế? Vì một trò chơi nào sắp bày ra đây làm nôn nao lòng bé?
Trúc đứng thẳng người, nói:
- Bây giờ Khánh cho biết trò chơi đi!
- Trò chơi rất giản dị: em muốn anh Trúc làm ông Quy-Li-Ve. Ông Quy-Li-Ve là thuyền trưởng của một chiếc chiến hạm.
Hiền la lên:
- Không phải! Ông ấy là một tên cướp biển.
Cát Tường nói:
- Các em quên rồi à? Quy-Li-Ve là một y sĩ làm việc trên các tàu biển.
Khánh cười:
- A đúng rồi. Quy-Li-Ve là y sĩ. Ông ta bị đắm tàu và trôi dạt trên biển. Ông ngất đi. Đến lúc tỉnh dậy ông thấy mình bị trói chân tay, và vây quanh ông là những người nhỏ tí xíu. Đó là người của nước tí hon “Chim Chích”.
Trúc ngơ ngác:
- Nhưng trò chơi gì đây?
- Khoan. Để em thuật chuyện cho có đầu có đuôi. Mấy người dân của nước “Chim Chích” sợ ông Quy-Li-Ve lắm, giống như mình sợ người khổng lồ vậy, nên họ trói ông ấy thật chặt. Họ còn bắn những mũi tên tí hon vô người ông ấy nữa.
Hậu tiếp lời:
- Nhưng đến khi Quy-Li-Ve tỉnh dậy, người tí hon thấy ông ấy hiền lành, nên vác những thúng thịt cừu tới cho ông ăn, đem rượu vang cho ông uống, rồi… rồi….
Khánh:
- Rồi họ đóng một cái xe vừa với thân hình của Quy-Li-Ve để chở ông ấy về kinh thành.
Đám trẻ đồng loạt vỗ tay. Trúc đứng lặng người, nửa bàng hoàng nửa sung sướng. Chừng như câu chuyện Gulliver đều được những đứa trẻ ở đây thuộc lòng. Cái câu chuyện được viết ra bởi một nhà văn người Ái Nhĩ Lan mà thuở nhỏ Trúc đọc không mấy thích, giờ trở nên sống động dạt dào. Vì nhân vật đó bây giờ là Trúc. Từ một tai nạn, Trúc đã làm một kẻ lạc loài. Giữa cánh rừng thưa nghe tiếng trẻ ríu rít, nghe tiếng xe cót két đẩy tới, đưa mình về làng nhỏ. Có những điều mình cho là chỉ có trong trí tưởng tượng, lại xảy đến cho chính mình. Và cái làng cô nhi “Chim sâu nhỏ” này, là một sự thật trên đất nước của mình.
Trúc nói, với giọng xúc động, khi tiếng vỗ tay đã dứt:
- Anh hiểu rồi! Bây giờ anh sẵn sàng làm theo ý muốn của các em. Trò chơi gì đây?
Khánh nói:
- Gần nửa tháng nay anh Trúc sống ở xứ tí hon, đến một hôm dân chúng muốn mở tiệc đãi anh. Nhưng đặc biệt, dân chúng chỉ đem đến cho anh những gì mà anh yêu cầu. Trò chơi là như vậy. Bây giờ, Quy-Li-Ve đứng giữa, chúng em chia làm hai nhóm. Hễ Quy-Li-Ve bảo thích thứ gì, mọi người sẽ thi nhau đi tìm cho anh thứ nấy. Bên nào đếm được nhiều món hơn, sẽ được bên bị thua cõng đi một vòng.
Đám trẻ vỗ tay thích thú. Khánh nói tiếp:
- Em dẫn đầu một phe, chị Cát Tường một phe.
Lũ trẻ nhỏ giành nhau chia phe. Nhu Mì chạy lại với Cát Tường. Trúc đứng một mình ở giữa. Xong xuôi. Khánh nói lớn:
- Chuẩn bị nhé! Anh Trúc, ủa quên, Quy-Li-Ve cứ truyền lệnh, chúng em đã sửa soạn đủ. Nhưng anh không được đòi hỏi những thứ mà nước tí hon không thể có nghen!
Trúc đồng ý, suy nghĩ và nói:
- Bây giờ Quy-Li-Ve đang đói. Anh muốn có một củ khoai mới luộc.
Lũ trẻ tranh nhau đem khoai tới. Phe của Khánh đến trước. Trúc nhận củ khoai, rồi nói:
- Ăn no rồi, anh muốn có… nước uống.
Chỉ có một bình nước của phe Cát Tường đem lại. Trúc dốc ngược cái bình : không có một giọt nước. Phe của Khánh la hò phản đối. Trúc cười:
- Nhưng có cái bình tượng trưng là được rồi. Bây giờ… Quy-Li-Ve muốn có một cái mũ con trai.
Cái mũ của bé Hảo được lấy xuống. Lũ trẻ lại reo hò cổ võ. Trúc nói ngay:
- Một cái áo con trai.
Khánh cởi áo của mình vứt nhanh cho Trúc.
- Một cái kẹp tóc.
Mấy đứa bé gái vội vã gỡ kẹp xuống. Trúc nhận chiếc kẹp của Diệu rồi nói tiếp:
- Một chiếc dép… đứt quai.
Thế là có một màn tìm kiếm dưới chân của nhau. Rốt cuộc chỉ có Lương đem đến cho Trúc chiếc dép xơ xác của cậu bé. Cát Tường và Khánh cùng la lớn thúc giục phe của mình:
- Cố lên!
- Cố lên!
- Phải lẹ tay mới được nghen các em!
Trúc đứng yên suy nghĩ. Hết nghĩ ra được thứ gì để đòi hỏi. Ở hai bên, đám trẻ cứ chờ đợi, hồi hộp. Sau nửa phút, Trúc hô to:
- Quy-Li-Ve… muốn có một bông hoa.
Đám trẻ hơi lúng túng vì cứ chuẩn bị những thứ trên người mình, bây giờ phải chạy ra đi tìm bông hoa. Những hoa dại bị hái và đem tới cho Trúc. Trúc nói tiếp:
- Một cây củi.
Lũ trẻ hè nhau chạy tới cuối rẫy. Khi cây củi nhanh nhẹn nhất được trao cho Trúc, Trúc nói ngay:
- Một xe chở củi.
Lũ trẻ lại xô đẩy nhau chạy lên dốc. Trúc cười vang theo với chúng, và nhìn theo những bước chân chạy vội vàng. Phía đó, Trúc đã thấy, chiếc áo đen của Cha Đạo hiện rõ trên nền trắng của trời chiều. Cha đang mỉm cười nhìn bọn trẻ chơi đùa như chưa bao giờ được vui vẻ như vậy.
Chiếc xe được lũ trẻ đẩy chạy xuống dốc. Khi đến nơi, chúng giành nhau phần thắng. Trúc phải giảng hòa:
- Món này xem như huề đi, vì cả hai phe đều có công. Bây giờ…
Lũ trẻ sắp xếp lại hàng ngũ, chờ đợi. Trúc vỗ trán suy nghĩ, rồi:
- Một sợi tóc thật dài.
Cát Tường bứt nhanh một sợi tóc của mình, chạy đến đưa cho Trúc. Lũ trẻ reo hò ầm ĩ. Trúc cầm lấy sợi tóc rồi la lớn:
- Thôi! Quy-Li-Ve xin cám ơn dân chúng xứ tí hon. Ở đây cái gì cũng có, thật là sung sướng. Nếu mà anh đòi hỏi thêm nữa thì tội lắm. Bây giờ để anh đếm nhé! Chiếc xe kể như của chung rồi, không kể. Còn lại… xem nào, phe của Khánh thắng rồi!
Tiếng trẻ nhỏ xôn xao:
- Phe chị Cát Tường phải cõng.
- Không! Không! Bên này nhiều con gái, ít con trai, làm sao cõng nổi bên đó?
- Rán chịu, phải cõng! Phải cõng!...
- Không chịu! Chiếc xe là của phe này lấy trước.
Cát Tường can:
- Đừng cãi vã, các bé! Hồi nãy bé nào chạm tay vào xe củi trước nhất?
- Chị Thương.
- Vậy là phe ta có công trước. Xem như huề.
Khánh la lên:
- Không chịu. Nếu vậy anh Trúc muốn một thứ nữa đi!
Trúc cười:
- Anh hết ý rồi! Bây giờ… để coi, anh cần… à, để anh cần người nhé! Anh cần một người… một người…
Một giọng nói tinh nghịch con trai cất lên:
- Một người… vợ!
Lũ trẻ ré lên cười. Nhưng bé Nhu Mì đã bất thình lình nắm tay Cát Tường kéo chạy đến phía Trúc. Trúc còn đứng ngơ ngác, trong khi lũ trẻ vỗ tay reo cười vang dội, mà Cát Tường thì xấu hổ nóng bừng cả mặt. Cát Tường giật tay ra khỏi tay bé Nhu Mì chạy băng lên dốc. Ở đàng sau, tiếng gọi của đám trẻ nghe xôn xao như tiếng rượt đuổi. Ở phía trước, bóng áo của Cha Đạo như cũng tươi tắn lên với nụ cười của Cha. Xung quanh ai cũng cười vui. Cát Tường thì muốn trốn cho biến mất. Nỗi gì kỳ lạ quá, lâng lâng quá! Cát Tường chạy đến nhà, ngồi xuống bậc thềm, và kìa, Trúc đang dẫn đàn trẻ đi lên dốc. Những tiếng cười cứ chạy ùa đến hồ như làn gió. Lẫn trong tiếng cười, có những âm thanh nào là lạ. Cát Tường lắng tai nghe. Âm thanh nghe xa xa, nhưng dồn dập lắm, tựa như tiếng thúc giục trước đây mỗi khi ăn cơm. Leng keng… leng keng… leng keng… Cát Tường đứng bật dậy. Tiếng chuông rõ dần. Tiếng chuông từ ngoài cổng. Ai đã đến?
Cha Đạo cũng đã nghe. Trúc và đàn trẻ vừa lên đến nơi cũng đã nghe. Không ai bảo ai, tất cả đều ùa ra phía cổng rào mới được Trúc dựng xong. Và đồng loạt, những đứa trẻ reo lên:
- Ông Năm về! Ông Năm về!