BCT20160802_HoangVanHung

 

“Tứ đại ô nhiễm” của Việt Nam

Hoàng Văn Hùng

I- Ô nhiễm chính trị, với những nét chính sau:

- Môi trường độc tài đảng trị vốn ám muội về hành động và man trá về tổ chức đã hình thành các kết cấu cứng tham nhũng, dưới sự thao túng của các nhóm chuyên quyền đặc lợi, mà người ta quen gọi là “nhóm lợi ích”. Các kết cấu này có cùng một kiểu hình tháp, đứng đầu là một vị nguyên thủ hoặc thứ, bộ trưởng nào đó. Các “tháp tham nhũng” - có riêng một ngọn nhưng chung nhau một phần chân  đế - một mặt tranh giành quyền lợi lẫn nhau, mặt khác lại liên kết, bao che cho nhau để cùng tồn tại. Quốc nạn chính từ đây.

- Việc mua quan bán tước, hối lộ chạy việc chạy nghề đã không còn là hiện tượng lẻ tẻ nhất thời nữa, mà đã thành thông lệ phổ biến, có mức giá ngầm định rất chi tiết.

- Bộ máy công an và an ninh được nuôi dưỡng và dung túng với số lượng quá đông đảo,  mặc sức đàn áp người bất đồng chính kiến bằng mọi thủ đoạn, bất chấp cả luật pháp và hiến pháp.  

- Với sự lên ngôi của phe cánh Nguyễn Phú Trọng, tự do ngôn luận vốn đã bị đàn áp thì nay càng bị bóp nghẹt hơn. Đảng Cộng Sản tạo ra một mạng lưới an ninh ngày càng hung tàn nhằm ngăn chặn, đàn áp triệt để mọi cá nhân bất đồng  và các nhà đấu tranh cho dân chủ nhân quyền.  Điều đáng ghê tởm là mọi biện pháp đê hèn được thực thi một cách có tổ chức: đe dọa, hành hung, cấm cửa, ngăn trở bất hợp pháp, bắt cóc, xử án  trái luật không cần bằng chứng pháp lý.

- Vì cùng một kiểu thể chế, lại phụ thuộc vào Trung Cộng từ quá khứ sâu sắc đến mức sự an toàn của đảng  cho đến cái ghế của nguyên thủ đều biến thành con tin của chúng. Để tồn tại, đảng Cộng Sản Việt nam bị buộc vừa liên thủ vừa phải làm chư hầu choTrung Cộng, câm miệng cúi mặt làm theo mọi áp chế vô lý của chúng, mặc cho đất nước chịu thiệt về mọi mặt, kể cả chủ quyền đất trời, biển đảo.

II- Ô nhiễm kinh tế:

1) Lâm nạn từ lỗi hệ thống:   

Với một bộ luật kinh tế cứng nhắc,  lai căng, hỗn độn, cùng với bộ máy hành luật quan liêu thiếu minh bạch khiến môi trường đầu tư bất ổn, và môi trường kinh doanh nặng tính “chụp giựt”. Nền kinh tế Việt Nam yếu về động lực, phát triển không lành mạnh. Các nhà đầu tư thiếu niềm tin về tương lai dài hạn, do đó xu hướng đầu tư ăn xổi trở nên thịnh hành. Các vấn nạn chính:

- Đầu tư của nhà nước cho kinh tế tri thức kém hiệu quả do nạn quan liêu và tham nhũng quá lớn. Gần 20.000 tiến sỹ hầu hết không đóng góp gì cho phát triển kỹ nghệ. Mỗi năm, tiền ngân sách chi cho nghiên cứu khoa học lên đến 3000 tỷ đồng, nhưng hầu hết các đề tài làm xong là xếp xó, thành giấy lộn. Số lượng những đề tài khả dụng quá ít ỏi, chỉ đếm trên đầu ngón tay. Việc “đẻ” ra đề tài trên mây, phản biện hình thức,  rồi chi tiền “bôi trơn”  để được duyệt chi đã thành nghề kiếm ăn béo bở của các cục, vụ, viện và các ông “tiến sỹ giấy” khắp cả nước. Những phát minh và sáng kiến có giá trị thực tiễn lại phần lớn xuất phát từ công nhân, nông dân.

- Các khoản nợ xấu ngày càng tăng, cộng thêm nạn lách luật để ăn cắp bằng tín dụng  (mỗi vụ nhiều nghìn tỷ) đe dọa xảy ra một cú sụp đổ hệ thống ngân hàng theo kiểu domino.

- Phải gánh một bộ máy cồng kềnh lãng phí, nợ công đã vượt trần 65% GDP, buộc nhà nước phải “vơ bèo vạt tép” tăng thu bằng mọi cách, và cách nào thì cuối cùng cũng đổ lên đầu doanh nghiệp và dân chúng.

- Chi phí sản xuất và dịch vụ quá cao do gánh nhiều khoản bất hợp lý, đặc biệt là chi hối lộ. Chi phí cao còn do mức giá các sản phẩm độc quyền được đội lên cao như điện, nước, đường sá, trường, trạm.

- Các thay đổi về bộ máy lãnh đạo và hệ thống công chức chưa khắc phục nổi sự quan liêu yếu kém về quản lý, mà ngược lại đang làm trầm trọng thêm.

Tất cả những gì nói trên gây nên tình trạng kinh tế hỗn loạn, vượt khỏi tầm quản lý của nhà nước; trong khi thị trường tự do thiếu sức cạnh tranh.  Điều này tất yếu dẫn đến trì trệ kinh tế vĩ mô,  gia tăng thất nghiệp, bán thất nghiệp và tăng nhanh chóng số người bị bần cùng hóa.

2) Kinh tế nhà nước – xác sống nuôi sâu mọt:

Giai đoạn thịnh vượng kém phẩm chất từ 2006 đến 2011 đã nuôi dưỡng tâm lý tự mãn, ưa thích rủi ro, luôn nhìn thấy khả năng sinh lợi từ nhiều dự án mà không dự báo được tương lai, một lý do chính khuyến khích gia tăng đòn bẩy nợ. Đây chính là thời kỳ khởi phát hỗn loạn tài chính –tiền tệ dẫn đến các sụp đổ tín dụng mà các nhà kinh tế gọi là “điểm lật Minsky”. Trong giai đoạn 2011 cho đến 2016 các doanh nghiệp nhà nước biến thành những cái túi không đáy khi một mặt  đòi hỏi nhà nước bơm tiền vô độ để cấp cứu khỏi vỡ nợ, một mặt càng hoạt động mạnh thì càng tăng lỗ (trong khi đó nhiều doanh nghiệp vẫn báo cáo lãi trên thị trường chứng khoán để bán tháo cổ phiếu). Hậu quả là chúng ăn tàn phá hại ngân sách và tự “ăn thịt” chính chúng cho đến chết. Đó là cái kết của gần 1000 doanh nghiệp nhà nước trong 5 năm từ 2012 đến nay. Kiểu mẫu điển hình như Vinashin, Vinaline, Xăng dầu quân đội, PVN, Nhà máy cán thép Cái Lân, Gang thép Thái Nguyên..v..v.. “Tốc độ tăng về nợ của khối doanh nghiệp nhà nước năm 2011 so với năm 2006 là 2,2 lần và tăng bình quân hàng năm vào khoảng 16%. Tỷ lệ nợ phải trả của các doanh nghiệp nhà nước từ năm 2006 đến nay cao hơn số GDP. Điều này có nghĩa cả nước làm trong cả năm cũng không đủ để doanh nghiệp nhà nước trả nợ ” (CEO Đặng Đức Thành – chủ tịch HDQT DRH). Khu vực tư nhân còn dễ bị tổn thương hơn trong sự mất ổn định của thị trường tiền tệ bởi phần lớn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có “bầu sữa” nào cấp cứu chúng. Trong các năm từ 2013 đến 2015 mỗi năm đều có hơn 65.000 doanh nghiệp giải thể hoặc chờ giải thể. 4 tháng đầu năm 2016 có trên 15.685 doanh nghiệp ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ giải thể; 9.480 tạm ngừng hoạt động có thời hạn (nguồn: http://kinhtevadubao.vn/chi-tiet/146-5815-4-thang-dau-nam-gan-29-000-doanh-nghiep-giai-the-ngung-hoat-dong-.html). Nợ thuế các loại lũy kế đến đầu năm 2016 là trên 20.000 tỷ đồng.

3) Sự biến thái của kinh tế ngoài quốc doanh:  

Một đặc điểm kỳ quái của môi trường kinh tế Việt Nam là, trong khi kinh tế khu vực nhà nước xơ cứng, ăn tàn phá hại, thì thị trường tự do hỗn loạn - một kiểu kinh tế “rừng rú”, phân ly thành ba mảng rõ rệt:  1, Các tập đoàn hoặc cá nhân đại gia “cá mập” liên hệ chặt chẽ với hệ thống chính trị, được các quan chức bảo kê, thí dụ: Hoàng Anh Gia Lai, FLC, Vingroup, FPT, Hòa Phát .v.v..Nhờ  liên kết chặt chẽ với quan chức cấp cao mà những tập đoàn này có được các lợi thế rất lớn, có thể thao túng cả chủ trương chính sách và hệ thống ngân hàng, có thể tung hoành ở những lĩnh vực không ai được làm:  phá rừng, cướp tài nguyên, hủy hoại môi sinh, lừa dân chiếm đất… ; 2, Các doanh nghiệp kinh doanh lừa bịp đa cấp hoặc tín dụng đen- những “con cáo thắt cà vạt” chuyên lừa đảo theo mô hình Ponzi và bán hàng đa cấp hoành hành khắp cả nước, tung nhiều chiêu trò copy từ Trung Quốc để lừa đảo vét tiền của dân. Hàng triệu người bị dẫn dụ sập bẫy lừa đảo, bị bòn rút đến khánh kiệt, khuynh gia bại sản. (đã sụp đổ, bị truy tố như: Khải Thái; BBG; IMMI; IDT; Liên Kết Việt; Wiliam;…; hơn 60 công ty còn hoạt động như: Thiên Ngọc Minh Uy; Vision; Amway; Lô Hội; Noni  Vina, OHG…); 3, Cuối cùng là những “con cừu” tội nghiệp của nền kinh tế : các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa , hầu hết sống lay lắt, gặp vô vàn khó khăn , gắng tồn tại chờ thời. Tuy nhiên đây lại chính là thành phần kinh tế có công giảm thất nghiệp và đóng góp ngân sách hiệu quả nhất. Họ không có bất cứ một ưu đãi, o bế nào từ nhà nước.

III- Ô nhiễm xã hội:

Ô nhiễm chính trị và kinh tế là các nguyên nhân chính gây nên các thảm cảnh đời sống cộng đồng, động loạn xã hội và mất an ninh chung, biểu hiện:

- Mức độ phân cách giàu nghèo ngày càng sâu. Trong khi tầng lớp quan chức tham nhũng và đại gia tư bản cá mập được bảo kê ngày càng giàu có nhờ vào tham ô, ăn hối lộ, bóc lột, lừa đảo, vơ vét tài nguyên thì đại bộ phận dân lao động, nhất là công nhân và nông dân ngày càng kiệt quệ, bần cùng hóa. Hàng trăm thứ phí, lệ phí tăng vọt, suy đến cùng đều dội vào người lao động, và người nghèo là tầng lớp chịu ảnh hưởng tệ hại nhất.

- Nạn thất nghiệp gia tăng. Chưa bao giờ công nhân, nông dân,  nhân viên phục vụ, người lao động tự do chịu cảnh bấp bênh, sẵn sàng bị thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp đe dọa hàng ngày như bây giờ.

- Nước vô đạo, quan thất đức như nhà hỏng nóc.  Ngôi nhà hễ dột nóc thì mái cũng tróc, và tất cả cột, kèo, tường, cửa, nền, bậc của nó cũng hoai mục theo.  Đạo đức xã hội xuống cấp khiến người ta không tin bất cứ một ai, bất cứ điều gì, kể từ chính quyền, đoàn thể, trường lớp, bạn bè, báo chí…Khi không có điểm tựa niềm tin,  lớp trẻ bị mất phương hướng , thiếu lý tưởng sống, trở nên hoặc thực dụng vô luân, hoặc chán nản bất cần đời, hệ lụy là làm hỏng cả một thế hệ.

- Tội phạm hình sự bùng phát đa dạng với mức độ cao chưa từng có. Hàng ngày có hàng trăm vụ cướp giật, lừa đảo, bắt cóc đòi nợ hoặc tống tiền; hàng chục vụ đâm chém nhau, rất nhiều trong đó vì những lý do hết sức nhỏ nhặt. Bần cùng sinh đạo tặc. Mối liên kết bằng tình yêu thương gia đình vốn là đặc tính quý báu của người Việt Nam nay trở nên lỏng lẻo, dễ tổn thương vì cuộc sống bấp bênh, khó khăn và phức tạp trong sinh kế.

IV-  Ô nhiễm môi trường:

Cùng với nạn tham nhũng của quan chức và đặc tính quan liêu – bất tài – vô trách nhiệm của hệ thống chính trị, tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm thực phẩm ở Việt Nam chưa bao giờ gia tăng mạnh cả về bề rộng và chiều sâu như thế.

1) Các quả bom ô nhiễm đã nổ và đang chờ nổ:

Với tình trạng lệ thuộc Trung Quốc cộng với nạn ăn hối lộ từ cấp cao, các nguyên thủ Việt Nam bất chấp mọi phản đối của dân chúng, phớt lờ mọi ý kiến phản biện của các nhà khoa học, nhắm mắt vung tay ký các hợp đồng tai hại với Trung Quốc. Những dự án có nguy cơ phá hủy môi trường nặng nề nhất là Formosa Vũng Áng; Bauxite Tây Nguyên , dự án cho thuê hơn 300 ngàn héc-ta trong vòng 50 năm đất rừng đầu nguồn các tỉnh Tây Bắc và Trung Nam bộ. Điều đặc biệt nguy hiểm: việc phá rừng nguyên sinh để trồng mới rừng là nguyên nhân chính gây nạn  lũ lụt mùa mưa và thiếu nước vào mùa khô, đang trở nên đặc biệt trầm trọng trong vài năm gần đây.

2) Ô nhiễm đô thị

Độc tài và Tham nhũng là nguyên nhân chính tăng cường độ đô thị hóa đến mức điên cuồng, kéo theo nạn ô nhiễm đô thị.  Quá tải dân số khiến môi trường thủ đô và các thành phố lớn ô nhiễm không thể khắc phục nổi. Tại sao dân số thành phố tăng cơ học với mức độ bất thường?  Lý do thứ nhất: cũng như  mọi chính thể độc tài khác, nhà cầm quyền luôn mạnh tay chi ngân sách cho việc tạo một môi trường khá giả xung quanh “triều đình”  để tạo cái kén an toàn dễ chịu cho chúng.  Lý do thứ hai: nguồn tiền tham nhũng khổng lồ chủ yếu được chi tiêu tại các thành phố, nơi hội tụ các quan chức cấp cao. Vì vậy thành phố là nơi có nguồn tiền lớn chi cho xây dựng, an ninh, ăn uống, dịch vụ,vui chơi…tức là có nhiều việc làm. Lao động thôn quê  nghèo khó đổ xô về thành phố kiếm việc làm. Sinh viên ngoại tỉnh sau khi tốt nghiệp hầu hết ở lại thành phố. Hà Nội và Sài Gòn ngày nay không khi nào thoát tắc đường, cả ngày lẫn đêm. Theo một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng Thế giới (WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước, không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất. Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi.

3) Ô nhiễm đất đai, môi trường và thực phẩm do sử dụng các hóa chất độc hại nhập tràn lan từ Trung Quốc đã đến mức không kiểm soát nổi. Sự  bất tài của bộ máy quản lý, tình trạng bất lực của các cơ quan chức năng, thói ăn hối lộ phổ biến của quan chức trong ngành Hải quan và Kiểm định đã góp phần chính tạo ra vấn nạn ô nhiễm này.

   

Làm gì với “tứ đại ô nhiễm”?

Bây giờ đến người dân ít học cũng nhận rõ chân tướng độc tài tham nhũng là bản chất của thể chế này. Và sự thực chính quyền trung ương ngày nay không có gì khác là một hệ thống “MAFIA nhà nước” ngày càng rõ nét. Một thời kỳ ngạt thở chính trị, trì trệ kinh tế, khủng hoảng xã hội và tê liệt quốc phòng đang có nguy cơ đeo đẳng Việt Nam lâu dài. Chính thể này không thay đổi thì  Tứ Đại Ô Nhiễm còn tồn tại và ngày càng trầm trọng hơn. Điều bất cập là đa số người dân Việt Nam chưa cảm nhận được các giá trị dân chủ và pháp trị, chưa hiểu rõ quyền con người trong một mô hình đất nước văn minh.  Sự bất bình, chán nản ngày càng dâng cao, nhưng điều cần nhất là đứng dậy tranh đấu thì rất ít ỏi, không có tổ chức. Đúng như những câu thơ của cô giáo Trần Thị Lam: "bốn nghìn tuổi mà dân không chịu lớn/…đứng trước bất công không dám kêu đòi".

Dân nào thì chính quyền nấy, khi dân trí được nâng cao thì thể chế buộc phải đổi mới, vì nhân dân tiến bộ không thể dung nạp chính thể lỗi thời. Nhưng Dân trí - đúng ra là dân trí  về chính trị - chỉ có thể nâng cao nhờ chính quá trình vận động chính trị, tức là đấu tranh đòi tự do dân chủ, mà trước hết là TỰ DO NGÔN LUẬN, TỰ DO BIỂU TÌNH, TỰ DO LẬP HỘI. Tự do phải giành mới có, không bao giờ có thể trông chờ bọn độc tài tự rời ghế của chúng, không bao giờ. Hãy nói cho dân hiểu, hành động cho dân theo.  Đây là trách nhiệm, là lương tâm thời đại đặt lên đầu mỗi chúng ta, những người trí thức, những nhà báo độc lập.

Hoàng Văn Hùng

30/07/2016