Guy de Maupassant-Truyện ngắn

Alexandre

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Hôm ấy, vào lúc bốn giờ như mọi ngày, Alexandre mang ra trước cửa ngôi nhà nhỏ của gia đình Maramballe, chiếc xe lăn ba bánh mà trên đó ông vẫn đưa bà chủ già nua và bại liệt của mình dạo chơi đến tận sáu giờ, theo toa của thầy thuốc.

Sau khi đã đặt chiếc xe nhẹ bẫng ấy sát bậc thềm nơi mà ông có thể dễ dàng nâng bà phu nhân to béo lên tận đấy, ông trở vào nhà và người ta nghe thấy ngay ở tầng dưới một giọng nói giận dữ, khàn khàn của cựu quân nhân đang gào thét chửi rủa ; đó là giọng của ông chủ, cựu đại úy lục quân đã về hưu, Joseph Maramballe.

Rồi có tiếng những cánh cửa sập mạnh, tiếng những chiếc ghế bị lật nhào, tiếng bước chân di chuyển, rồi không có gì nữa, và sau một lúc, Alexandre lại xuất hiện trên ngưỡng cửa ra đường, dùng hết sức lực đỡ bà Maramballe mệt lử vì phải xuống cầu thang. Khi bà đã được đặt ngay ngắn, không phải là không vất vả, trong chiếc ghế di động, Alexandre chuyển qua phía sau, nắm lấy cái thanh tròn dùng để đẩy xe và khởi hành về phía bờ sông.

Ngày nào cũng thế, họ đi qua thành phố nhỏ với những lời chào kính trọng có lẽ được gửi tới người đầy tớ cũng như tới bà chủ, vì nếu bà được tất cả yêu mến và kính trọng thì bản thân ông, người lính già có bộ râu bạc, bộ râu của cụ già đáng kính, đã trở thành kiểu mẫu của những gia nhân.

Mặt trời tháng bẩy chiếu gay gắt xuống đường, nhấn chìm những ngôi nhà thấp dưới ánh sáng buồn tẻ của nó bằng cái sức mạnh dữ dội và trắng trợn. Những con chó ngủ trên vỉa hè trong dải bóng râm của những bức tường, và Alexandre hơi thở dốc, rảo bước nhanh hơn để tới con đường có cây xanh dẫn tới dòng nước.

Bà Maramballe đã thiu thiu ngủ dưới chiếc dù trắng mà cái chỏm buông ra của nó chốc chốc lại phất vào gương mặt thản nhiên của người đàn ông.

Khi họ đi tới đường Tileuls, bà hầu như tỉnh hẳn dưới những bóng cây, và bà nói bằng một giọng nhân từ :

“Đi thong thả hơn đi, ông bạn đáng thương của tôi, ông sắp giết mình bởi cái nóng này đấy.”

Trong sự ích kỉ hồn nhiên của mình, người đàn bà can đảm này chẳng hề nghĩ rằng nếu bây giờ bà muốn đi chậm hơn, đấy là chỉ bởi bà mới được trú dưới tán lá.

Gần kề con đường bao phủ bởi những cây đoạn già được cắt gọt thành vòm, sông Navette trôi theo cái dòng ngoằn ngoèo giữa đôi hàng liễu. Những tiếng ồng ộc của những xoáy nước, những thác nước trên những tảng đá, những chỗ ngoặt dòng đột ngột gieo suốt dọc cuộc dạo chơi này một khúc ca êm đềm của nước và cái tươi mát của không khí ướt át.

Sau khi đã hít thở và tận hưởng sự quyến rũ ẩm ướt của chốn này, bà Maramballe thì thào :

“Nào, tốt hơn rồi. Nhưng hôm nay ông ấy trở dậy không được khỏe.”

Alexandre đáp :

“Ồ không, thưa bà.”

Từ ba mươi năm nay ông đã phục vụ cái gia đình này, ban đầu như một lính hầu cận sĩ quan, rồi sau như một đầy tớ không muốn xa rời những người chủ của mình ; và từ sáu năm nay, chiều nào ông cũng lăn xe cho bà chủ qua những con đường hẹp chung quanh thành phố.

Vì sự phục vụ lâu dài tận tụy, rồi sau nữa vì giáp mặt nhau hàng ngày nên giữa bà phu nhân già nua và người hầu nảy sinh một kiểu thân mật, trìu mến ở bà và tôn kính ở ông.

Họ nói về việc nhà như người ta làm giữa những người bình đẳng. Chủ đề chính của cuộc chuyện trò thân mật và mối lo lắng của họ ngoài ra còn là tính xấu của ông đại úy, bực tức cau có vì một sự nghiệp dài bắt đầu với tiếng vang, rồi trôi đi không tiến bộ và kết thúc không vinh quang.

Bà Maramballe nói tiếp :

“Vì trở dậy không được khỏe, ông ấy đã trở dậy không được khỏe. Điều đó xảy ra thường xuyên với ông ấy từ khi ông ấy rời nghĩa vụ.”

Và Alexandre bổ sung ý nghĩ của bà chủ mình với một tiếng thở dài.

“Ôi ! Bà có thể nói rằng điều đó xảy ra với ông ấy hàng ngày và điều đó cũng xảy ra với ông ấy trước khi rời quân đội.

- Điều đó đúng. Nhưng người đàn ông này đã không còn cơ hội nữa. Ông ấy đã khởi nghiệp bằng một hành động dũng cảm khiến ông ấy được thưởng huân chương năm hai mươi tuổi, và rồi từ hai mươi đến năm mươi tuổi ông ấy đã không thể lên cao hơn cấp đại úy, thế mà lúc đầu ông ấy đã tính chắc rằng ít ra là cấp đại tá lúc về hưu.

- Bà có thể vẫn nói rằng đó là lỗi của ông ấy sau tất thảy. Nếu ông ấy không luôn luôn mềm như một cái roi ngựa thì những người chỉ huy của ông ấy đã quý mến và che chở ông ấy hơn.,Việc phải làm vừa lòng người để được ưa nhìn chả giúp được gì cho việc thành người cứng cỏi.

“Khi ông ấy đối xử với chúng ta như thế, chúng ta thì khác, đó cũng là lỗi của chúng ta bởi vì điều đó làm chúng ta thích ở lại với ông ấy, nhưng với những người khác thì lại khác.”

Bà Maramballe ngẫm nghĩ. Ôi ! từ bao nhiêu năm nay, ngày nào bà cũng nghĩ về tính tàn nhẫn của người chồng mà bà đã cưới hồi xưa, đã lâu rồi, bởi vì ông là một sĩ quan điển trai, được huân chương khi còn rất trẻ và đầy tương lai như người ta nói. Trong đời người ta mới lầm lẫn làm sao !

Bà thì thào :

“Chúng ta dừng lại một chút đi, Alexandre đáng thương của tôi, và hãy nghỉ trên cái ghế của ông.”

Đó là một chiếc ghế nhỏ bằng gỗ bị ướt một nửa dựng ở chỗ ngoặt của con đường dành cho những người dạo chơi ngày chủ nhật. Mỗi lần người ta tới bên nó, Alexandre có thói quen ngồi thở vài phút trên cái ghế ấy.

Ông ngồi đó và nắm chòm râu bạc xòe hình rẻ quạt trong hai bàn tay bằng một cử chỉ quen thuộc và đầy tự hào, ông siết chặt nó rồi vuốt nó trong những ngón tay nắm chặt mà đôi lúc ông giữ lại trên rốn mình như để gắn chặt nó vào đấy và để nhận thấy mỗi lần nó mọc dài thêm.

Bà Maramballe lại nói :

“Còn tôi, tôi đã lấy ông ấy. Việc tôi chịu sự bất công của ông ấy thật thích đáng và tự nhiên, nhưng điều mà tôi không hiểu là chính ông cũng đã chịu đựng ông ấy, Alexandre can đảm của tôi ạ !”

Ông khẽ nhún vai và chỉ nói :

“Ôi ! tự tôi…thưa bà.”

Và bà nói thêm :

“Quả thực. Tôi thường nghĩ đến điều đó. Ông đã là lính hầu cận của ông ấy khi tôi lấy ông ấy và ông không mấy khi có thể làm cách khác hơn là chịu đựng ông ấy. Nhưng từ khi…, vì sao ông ở lại với chúng tôi, người trả ông rất ít và đối xử với ông rất tồi, trong khi mà ông đã có thể làm như mọi người, lập nghiệp, cưới vợ, có những đứa con, tạo ra một gia đình ?”

Ông lặp lại :

“Ôi ! tự tôi, thưa bà, đó là chuyện khác.” Rồi ông nín lặng ; nhưng ông kéo chòm râu mình như thể có một quả chuông đã ngân vang lại ngân vang trong ông, như thể ông đã tìm cách kéo nó, và ông đảo cặp mắt hoảng hốt của con người ngập chìm trong bối rối.

Bà Maramballe theo đuổi ý nghĩ của mình.

“Ông không phải là nông dân. Ông đã được giáo dục…”

Ông cắt ngang một cách tự hào :

“Tôi đã học để làm nhân viên đo đạc địa hình, thưa bà.

- Thế thì tại sao ông ở lại bên chúng tôi để bỏ phí đời mình ?”

Ông ấp úng :

“Như thế đấy ! như thế đấy ! Lỗi ở bản tính của tôi.

- Sao lại bởi bản tính của ông ?

- Phải, khi tôi quyến luyến, tôi quyến luyến và thế là hết.”

Bà bắt đầu mỉm cười :

“Xem nào, ông sẽ chẳng khiến tôi tin là những cách đối xử tốt và sự dịu dàng của Maramballe đã gắn bó đời ông với ông ấy.”

Ông cựa quậy trên ghế, đầu óc rõ ràng luống cuống và ông lầm rầm trong đám ria mép dài của mình :

“Không phải ông ấy, mà là bà !”

Bà phu nhân già, người có một gương mặt rất dịu dàng, được tôn lên bởi một lọn tóc xoăn mầu tuyết được chăm chút uốn hàng ngày và sáng như lông thiên nga giữa vầng trán và đám tóc, động đậy trong chiếc xe của mình và ngắm nhìn người đầy tớ với con mắt rất ngạc nhiên.

“Tôi ư, Alexandre đáng thương của tôi. Thế là thế nào ?”

Ông bắt đầu nhìn lên trời, rồi xoay đầu nhìn gần nhìn xa, như những người nhút nhát bị buộc phải thú nhận những bí mật hổ thẹn vẫn làm. Rồi ông tuyên bố bằng một sự can đảm của người lính được ra lệnh đi vào lửa :

“Như thế đấy. Lần đầu tiên tôi mang cho tiểu thư một bức thư của trung úy và tiểu thư đã vừa cho tôi năm xu vừa mỉm cười với tôi, điều ấy đã được định đoạt như thế.”

Bà lưỡng lự, không hiểu rõ.

“Nào, ông hãy giải thích đi.”

Thế là ông thốt lên với nỗi lo sợ của một kẻ khốn khổ thú nhận một tội ác và của kẻ đã sa đọa :

“Tôi đã có cảm tình với bà. Thế đấy !”

Bà không đáp lại gì, thôi nhìn ông, cúi đầu và ngẫm nghĩ. Bà tốt bụng, đầy thẳng thắn, dịu dàng, lý trí và nhạy cảm.

Trong một giây, bà nghĩ tới sự tận tâm vô hạn của con người đáng thương đã từ bỏ tất cả để sống bên bà mà không nói một lời. Và bà đã muốn khóc.

Rồi lấy vẻ mặt hơi nghiêm trang nhưng điểm chút giận dữ, bà bảo :

“Về thôi”

Ông đứng dậy, chuyển qua phía sau chiếc ghế di động, và bắt đầu đẩy nó.

Bởi vì họ tới gần ngôi làng, họ nhận thấy ông đại úy Maramballe đang đến chỗ họ.

Ngay khi ông ta bắt kịp họ, ông ta bảo vợ với vẻ muốn nổi cáu rõ rệt :

“Chúng ta có gì để ăn tối thế ?

- Một con gà giò nhỏ và hạt đậu lùn.”

Ông ta nổi khùng.

“Một con gà giò, lại là gà giò, luôn là gà giò, mẹ kiếp ! Tôi, tôi đã chán ngấy gà giò của bà rồi. Thế trong đầu bà không có ý nào hơn là bắt tôi ngày nào cũng ăn cùng một thứ hay sao ?“

Bà nhẫn nhục đáp :

“Nhưng mình yêu quý của tôi, mình biết là bác sĩ đã kê đơn cho mình như thế. Hơn nữa, thế tốt hơn cho dạ dày của mình. Nếu mình không bị đau dạ dày, tôi đã làm cho mình ăn nhiều món mà tôi không dám dọn cho mình.”

Thế là ông ta đứng sững trước Alexandre vẻ phẫn nộ.

“Nếu tôi bị đau dạ dày thì lỗi do cái đồ thô lậu này. Đã ba mươi nhăm năm nó đầu độc tôi bằng món ăn rác rưởi của nó.”

Đột nhiên, bà Maramballe gần như quay hẳn đầu lại để nhìn người đầy tớ già. Thế là mắt họ gặp nhau và cả người nọ lẫn người kia cùng nói : “Cảm ơn” trong ánh nhìn duy nhất ấy.

Ánh trăng

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Maupassant sáng tác 2 truyên ngắn cùng có tên Clair de lune. Clair de lune kia đã rất nổi tiếng ở Việt Nam qua bản dịch của Lê Hồng Sâm với tiêu đề Sáng trăng.

Phu nhân Julie Roubère đang đợi người chị cả của mình là phu nhân Henriette Létoré trở về từ một chuyến đi Thụy Sỹ.

Vợ chồng Léteré đã đi được gần năm tuần lễ. Để mặc chồng một mình quay về trang trại của họ ở Cavados nơi có những quyền lợi đang đòi hỏi, Henriette đến nhà em gái mình ở Paris vài ngày.

Chiều xuống. Trong phòng khách nhỏ, bình dị, mờ tối bởi hoàng hôn, phu nhân Roubère ngồi đọc, lơ đễnh, mọi tiếng động đều khiến nàng nhìn lên.

Cuối cùng chuông cũng reo và người chị gái xuất hiện, trùm kín hoàn toàn trong tấm áo rộng đi đường. Và ngay tức khắc, không chỉ nhận ra nhau, họ ôm chặt nhau nồng nhiệt, tạm ngừng để rồi lại bắt đầu ôm hôn nhau tiếp.

Rồi họ chuyện trò, hỏi han về sức khỏe, gia đình của nhau cùng hàng nghìn chuyện khác, miệng liến thoắng, tuôn ra những lời dồn dập, đứt đoạn, người nọ tiếp sau người kia, trong khi Henriette gỡ mạng và mũ.

Đêm đã xuống. Phu nhân Roubère rung chuông gọi mang đèn, và ngay khi có ánh sáng, nàng ngắm nhìn chị gái của mình, sắp sửa ôm hôn nữa. Nhưng nàng vẫn ở nguyên, hoảng hốt, không thốt lên lời. Trên thái dương của phu nhân Létoré, có hai món tóc bạc lớn. Phần còn lại của mái đầu có mầu muối tiêu ; song chỉ ở chỗ đó, từ hai bên đổ xuống tựa hai dòng suối bạc chảy ngay vào trong đám tóc sẫm màu. Thế mà nàng mới hai mươi tư tuổi và chuyện này xảy đến đột ngột từ chuyến đi Thụy Sỹ. Bất động, phu nhân Roubère nhìn thẫn thờ, sắp sửa khóc như có một nỗi bất hạnh bí ẩn và khủng khiếp nào đó đã ập xuống chị gái mình ; và nàng hỏi :

- Có chuyện gì thế chị Henriette ?

Cười một nụ cười buồn bã, một nụ cười ốm yếu, người kia đáp :

- Chẳng có gì đâu mà, chị cam đoan đấy. Em nhìn thấy món tóc bạc của chị à ?

Nhưng phu nhân Roubère hăng hái nắm chặt lấy vai chị nàng, nhìn sâu vào mắt và lặp lại :

- Chị có chuyện gì ? Nói cho em hay chị có chuyện gì. Và nếu chị nói dối, em sẽ biết rõ.

Họ vẫn còn đối diện với nhau, và phu nhân Henriette biến sắc xanh xao và yếu ớt, lệ từ khóe mắt rớt xuống :

Người em gái lặp lại :

- Chuyện gì xảy đến với chị ? chị có chuyện gì ? Trả lời em đi ?

Thế là bằng giọng cam chịu, người kia thì thào :

- Chị… chị có nhân tình.

Và úp mặt lên vai người em út, nàng òa khóc nức nở.

Rồi khi nàng đã bình tâm hơn một chút, lúc những tiếng nấc từ ngực nàng nguôi đi, nàng bắt đầu nói ngay, như để trút bỏ bí mật này khỏi mình, thổ lộ nỗi đau đớn này vào một tấm lòng bè bạn,

Thế là cùng nắm tay nhau xiết chặt, hai người phụ nữ đi tới ngồi lún trên chiếc tràng kỉ trong góc tối của phòng khách, và người trẻ hơn quàng cánh tay lên cổ chị, ôm chị vào lòng, lắng nghe.

- Ôi ! chị thừa nhận là vô lý ; chính chị cũng không hiểu nổi mình, và chị phát điên lên từ ngày đó. Hãy coi chừng, em bé bỏng, hãy coi chừng bản thân mình ; giá mà em biết được rằng chúng ta yếu đuối, nhún nhường, sa ngã nhanh đến thế nào ! Chẳng cần gì cả, chỉ cần một chút mủi lòng, chỉ cần một chút u sầu đột nhiên tràn qua cõi lòng, chỉ cần chút thiết tha được mở rộng vòng tay yêu dấu và ôm ấp, mà chúng ta lại có tất cả những cái đó, vào khoảnh khắc nào đó.

Em biết chồng chị đấy, và em biết là chị yêu anh ấy đến mức nào ; song anh ấy chín chắn và lí trí, không hiểu chút gì về tất cả những rung động dịu dàng của trái tim phụ nữ. Anh ấy luôn luôn, luôn luôn như thế, luôn tốt bụng, luôn tươi cười, luôn hài lòng, luôn hoàn hảo. Ôi ! đôi lúc chị mong muốn biết bao được anh ấy đột nhiên ôm chặt trong vòng tay, được anh ấy hôn bằng những nụ hôn dịu dàng và chậm rãi, hòa hợp hai con người, giống như những trao gửi riêng tư thầm lặng, chị đã mong muốn biết bao rằng anh ấy có những lúc bơ vơ, cả yếu đuối nữa, cần có chị, cần những vuốt ve của chị, cần những giọt nước mắt của chị !

Tất cả những cái đó thật ngốc nghếch ; nhưng chúng ta là như thế, chúng ta khác họ. Ai có thế cho chúng ta những cái đó ?

Và mặc dù thế, chị chưa từng có ý nghĩ đánh lừa anh ấy. Ngày hôm nay, điều đó đã đến, không tình yêu, không lý trí, chẳng có gì cả ; bởi vì có một đêm trăng trên hồ Lucerne.

Từ một tháng nay vợ chồng chị đi du lịch cùng nhau, vẻ điềm tĩnh thản nhiên của anh ấy làm tê liệt những nhiệt tình của chị, làm lụi tàn những niềm hứng khởi trong chị. Vậy là vào lúc bình minh, trên một cỗ xe tứ mã chở khách phóng nước kiệu, bọn chị xuôi xuống sườn đồi. Trong làn hơi nước trong suốt của ban mai, những thung lũng dài, những cánh rừng, những dòng sông, những làng mạc đang dần hiện ra, chị vỗ tay, thích thú nói với anh ấy :” Đẹp làm sao, bạn ơi, ôm hôn em đi nào !”, anh ấy đáp lại với một nụ cười khoan dung và lạnh lùng, hơi nhún vai : “Không phải là lý do để ôm hôn, chỉ vì quang cảnh làm vừa lòng em.”

Và điều đó làm chị băng giá tới tận cõi lòng. Thế mà với chị, dường như khi người ta yêu, người ta phải luôn có khao khát được ôm hôn còn hơn thế trước những cảnh tượng cảm động.

Cuối cùng, niềm thi hứng trong chị bị anh ấy ngăn cản tuôn trào trở nên sôi sục. Chị đã nói gì với em nhỉ ? Chị gần giống như một cái nồi đầy hơi đóng kín mít.

Một buổi tối (bọn chị đã ở tại khách sạn Fluelen được bốn ngày), Robert, bị chứng đau nửa đầu, lên nằm nghỉ ngay sau bữa tối, còn chị một mình đi dạo bên bờ hồ.

Đó là đêm của chuyện thần tiên. Mặt trăng tròn vành vạnh lồ lộ giữa bầu trời ; những trái núi tuyết lớn dường như phủ bạc, còn mặt nước, vô cùng lóng lánh, có những gợn sóng nhỏ lung linh. Không khí êm dịu, ấm áp thấm vào người khiến ta trở nên uể oải đến yếu mềm, khiến ta xúc động vô cớ. Một tâm hồn mới nhạy cảm và xao xuyến làm sao trong những khoảnh khắc đó ! Nó mới mau rung động và cảm nhận mạnh mẽ làm sao !

Chị ngồi trên cỏ và ngắm nhìn mặt hồ rộng, u buồn và đẹp đẽ ; và một điều lạ lùng đã xảy ra trong chị : một nỗi khao khát yêu đương vô hạn, một nỗi kích động chống lại sự nhạt nhẽo ủ ê của cuộc đời đã đến với chị. Vậy mà sao chị chưa từng được ở trong vòng tay của người đàn ông yêu dấu đi dọc một bờ nước ngập tràn ánh trăng ? Chưa từng cảm thấy trên mình những nụ hôn sâu thăm thẳm, tuyệt diệu và bàng hoàng người ta vẫn trao nhau trong những buổi đêm êm ái mà Chúa Trời dường như đã tạo ra dành cho những âu yếm ? Chưa hề được xiết chặt say sưa bởi một vòng tay đắm đuối trong ánh sáng mờ tỏ của một tối mùa hè ?

Và chị bắt đầu khóc như một con điên.

Chị nghe thấy tiếng động ở phía sau. Một người đàn ông đứng đó đang nhìn chị. Lúc chị quay đầu lại, anh ta nhận ra chị và tiến đến :

- Bà khóc ư, thưa bà ?

Đó là một luật sư trẻ đi du lịch cùng mẹ mà bọn chị đã gặp nhiều lần. Anh ta thường giõi mắt theo chị.

Chị hoảng hốt đến nỗi chẳng biết trả lời, hành động thế nào cả. Chị đứng lên và tự nhủ phải chịu đựng.

Anh ta bắt đầu bước tới gần chị, bằng một phong thái tự nhiên và kính cẩn, rồi nói chuyện với chị về chuyến du lịch. Tất cả những gì chị đã cảm kích, anh ta đều bày tỏ ; tất cả những gì khiến chị chị rung động, anh ta đều thấu hiểu như chị, còn hơn cả chị nữa. Và bỗng nhiên anh ta đọc cho chị nghe những câu thơ, những câu thơ của Musset. Một cảm xúc khó diễn tả khiến chị ngạt thở. Với chị dường như chính những núi non, hồ nước, ánh trăng đang ngợi ca những gì êm đềm khó nói lên lời …

Và chuyện ấy đã xảy ra mà chị không hiểu vì sao và thế nào, trong một kiểu ảo giác…

Về phần anh ta…, chị chỉ gặp lại anh ta vào hôm sau, lúc khởi hành.

Anh ta đưa cho chị danh thiếp của mình !...

Và phu nhân Létoré, vừa rũ xuống trong vòng tay người em gái vừa thốt ra những tiếng rên rỉ, gần như là kêu la.

Thế là phu nhân Roubère tĩnh tâm lại, nghiêm trang, tuyên bố một cách hết sức dịu dàng :

- Chị thấy không, chị gái, nhiều khi chúng ta yêu không phải người đàn ông mà là yêu tình yêu. Và tối hôm đó, chính ánh trăng mới là người tình đích thực của chị.

Bên một thi hài

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Ông đang chết dần chết mòn, như những người bệnh ho lao. Hàng ngày tôi nhìn thấy ông ngồi dưới cửa sổ khách sạn khoảng hai giờ, hướng về phía mặt biển thanh bình, trên một chiếc ghế băng ở đường dạo. Ông ở đó, đôi khi bất động trong hơi nóng của mặt trời, ngắm nhìn Địa Trung Hải bằng con mắt ủ ê. Thi thoảng ông ngước nhìn lên những đỉnh núi cao mờ mờ bao quanh Menton ; Rồi bằng một động tác thật chậm chạp, ông khoanh đôi cánh tay dài rất đỗi gày guộc giống hai khúc xương của mình quanh chiếc quần dài bằng dạ lùng bùng, và mở một cuốn sách, lúc nào cũng là cuốn đó.

Thế là ông không nhúc nhích nữa, ông đọc, ông đọc bằng mắt và bằng ý nghĩ ; cả cái thân hình khốn khổ đang tàn tạ của ông dường như cùng đọc, cả tâm hồn đắm chìm, mải miết, biến vào trong cuốn sách tới tận lúc mà gió mát khiến ông chớm ho. Thế là ông đứng dậy và trở về.

Đó là một người Đức cao lớn với bộ râu hoe vàng, dùng bữa trưa và bữa tối tại phòng và chẳng chuyện trò với ai cả.

Ông ta khiến tôi hơi tò mò. Một hôm, tôi ngồi cạnh ông, để ra vẻ, tôi cũng mang theo một tập thơ của Musset.

Và tôi bắt đầu đọc lướt tập “Rolla”.

Người ngồi cạnh đột nhiên hỏi tôi bằng tiếng Pháp sõi :

- “Ngài là người Đức ư, thưa ngài ?

- Đâu có, thưa ngài.

- Tôi rất tiếc. Vì tình cờ chúng ta ngồi cạnh nhau, tôi sẽ cho ngài mượn, tôi sẽ cho ngài xem một vật vô giá : Cuốn sách mà tôi cầm đây.

- Sao lại thế ?

- Đó là một văn bản của thầy tôi Schopenhauer, tự tay thầy chú giải. Tất cả các lề, như ông thấy, đầy chữ viết của thầy.”

Tôi cầm lấy cuốn sách với lòng kính trọng và lặng ngắm cách trình bày mà tôi không thể hiểu nổi song lại biểu lộ tư tưởng bất hủ của người phá phách những mộng tưởng vĩ đại nhất đã từng sống trên trái đất.

Và những câu thơ của Musset lóe lên trong ký ức tôi :

Hãy yên ngủ, hỡi Voltaire, và nụ cười gớm ghiếc của ông

Phải chăng vẫn bay lượn trên bộ xương ông trơ khấc ?

Và tôi so sánh một cách không chủ tâm lời châm chọc kiểu trẻ con, lời châm chọc kiểu nghiêm túc của Voltaire với lời mỉa mai nực cười của nhà triết học Đức mà ảnh hưởng mãi mãi không thể xóa nhòa.

Điều ta phản kháng hay điều ta tức giận, điều ta phẫn nộ hay điều ta hứng khởi, Schopenhauer đã chỉ ra cho loài người bằng dấu ấn của sự khinh thường và sự vỡ mộng của ông.

Kẻ hưởng lạc đã vỡ mộng đã đảo lộn những niềm tin, những hy vọng, những chất thơ, những ảo tưởng, đã phá hủy những khát vọng, làm mòn mỏi niềm tin của những tâm hồn, giết chết tình yêu, làm tan tành sự tôn thờ lý tưởng của phụ nữ, làm đổ vỡ những ảo tưởng của trái tim, thực hiện việc lớn nhất mà kẻ hoài nghi chưa từng làm. Ông đã đảo lộn tất cả bằng lời giễu cợt của mình, và thanh toán tất cả. Và ngày nay cũng thế, những người dù ghét cay ghét đắng ông vẫn mang ông trong tình thần, qua những mẩu tư tưởng của ông.

“Vậy ngài đã đặc biệt quen thân Schopenhauer ư ?” tôi hỏi người Đức.

Ông mỉm cười buồn bã.

- Tới tận lúc thầy qua đời, thưa ngài.

Và ông nói với tôi về Schopenhauer, và kể cho tôi ấn tượng gần như phi thường mà con người lạ lùng này đã gây ra với tất cả những người đã tiếp cận mình.

Ông nói với tôi về cuộc hội kiến của người hủy diệt xưa với một vẻ láu lỉnh Pháp, nhà chiết trung chủ nghĩa cộng hòa nào muốn gặp người đàn ông này và tìm thấy ông tại một quán bia náo động, ngồi giữa những học trò, gầy guộc, nhăn nheo, cười một nụ cười không thể quên, làm mòn mỏi và mạt sát những ý tưởng và niềm tin bằng một lời duy nhất giống như con chó chỉ bằng một cú ngoạm xé nát những tấm vải mà nó chơi đùa.

Ông lặp lại với tôi một câu danh ngôn tiếng Pháp, biểu thị sự hốt hoảng, lo sợ, và gào thét :

“Tôi đã trải qua một giờ với quỷ sứ.”

Rồi ông thêm vào :

“Quả thật, thưa ngài, thầy có một nụ cười khủng khiếp làm chúng tôi phải sợ, ngay cả sau khi thầy mất. Đó là một giai thoại hầu như chưa ai biết mà tôi có thể kể lại cho ngài nếu nó làm ngài hứng thú.”

Và ông bắt đầu kể, bằng một giọng mệt mỏi mà thi thoảng lại bị ngắt quãng bởi những cơn ho :

- Schopenhauer vừa mới qua đời, và chúng tôi quyết đinh phải lần lượt túc trực hai người một cho tới sáng.

Thầy nằm trong một căn phòng lớn rất giản dị, rộng rãi và u tối.

Lúc nửa đêm là đến phiên tôi trực, cùng với một người bạn. Hai người mà chúng tôi thay phiên ra ngoài, và chúng tôi tới ngồi ở chân giường.

Gương mặt thầy không hề thay đổi. Nó đang cười. Nếp nhăn mà chúng tôi biết rất rõ hằn sâu nơi khóe miệng. Dường như với chúng tôi, thầy sắp sửa mở mắt, động đậy, cất tiếng nói. Ý nghĩ hay đúng hơn là những ý nghĩ của thầy bao trùm lấy chúng tôi ; hơn bao giờ hết, chúng tôi cảm thấy mình ở trong bầu không khí thiên tài của thầy, bị chiếm hữu và ám ảnh bởi thầy. Sự chế ngự của thầy với chúng tôi giờ đây khi thầy đã mất dường như còn lớn hơn. Cái thần bí đã hòa trộn với quyền năng của tinh thần vô song này.

Thân xác của những con người đó biến mất, nhưng chính họ vẫn còn lại ; và trong đêm, họ tiếp tục sau lúc trái tim ngừng đập, tôi cam đoan với ngài rằng họ thật khủng khiếp.

Và chúng tôi trò chuyện thật nhỏ về thầy. Chúng tôi nhắc lại những lời nói, những công thức, những câu châm ngôn kì lạ dường như phát ra ánh sáng, qua những lời nào đó, trong những tăm tối của cuộc sống vô tri.

“Với mình, thầy dường như sắp nói”, bạn tôi bảo. Và chúng tôi ngắm nhìn gương mặt bất động và luôn mỉm cười đó với nỗi lo âu gần như sợ hãi.

Dần dần, chúng tôi cảm thấy khó ở, ngạt thở, suy yếu. Tôi ấp úng :

“Mình không biết mình bị làm sao, nhưng mình chắc chắn với cậu là mình ốm rồi.”

Và rồi chúng tôi nhận thấy tử thi có mùi hôi thối.

Thế là bạn tôi đề nghị tôi qua phòng bên cạnh, để cửa ngỏ ; tôi chấp thuận.

Tôi dùng một trong những ngọn nến đang cháy trên chiếc bàn đêm và để lại ngọn thứ hai, và chúng tôi tới ngồi ở đầu kia gian phòng khác sao cho từ chỗ chúng tôi có thể thấy đựoc chiếc giường và tử thi ở giữa luồng sáng.

Nhưng thầy luôn ám ảnh chúng tôi. Người ta đã đồn rằng cái bản thể phi vật chất, thư thái, tự do, toàn năng và thống trị, lởn vởn quanh chúng ta. Và đôi khi cái mùi ghê người từ thân thể bị phân hủy cũng lan tới chúng tôi, thấm váo chúng tôi, lộn mửa và mơ hồ.

Đột nhiên, chúng tôi rùng mình đến tận xương tủy : một tiếng động, một tiếng động nhỏ vọng ra từ phòng người chết. Ngay lập tức chúng tôi nhìn về phía thầy, và chúng tôi thấy, vâng thưa ngài, chúng tôi người nọ người kia trông thấy rõ ràng một cái gì đó mầu trắng lướt qua chiếc giường, rơi xuống sàn trên tấm thảm và biến mất dưới một chiếc ghế bành.

Chúng tôi dựng đứng lên trước khi có thời gian nghĩ tới cái gì, phát rồ lên bởi một nỗi khiếp đảm ngu ngốc, sắp sửa chạy trốn. Rồi chúng tôi nhìn nhau. Chúng tôi tái xanh một cách khủng khiếp. Trống ngực chúng tôi đập phập phồng dưới lớp vải áo. Tôi cất tiếng trước :

- “Cậu có trông thấy ?..

- Phải, mình đã thấy.

- Thầy chưa mất hay sao ?

- Nhưng vì thầy đang phân hủy ?

- Chúng ta sẽ làm gì ?”

Bạn tôi do dự tuyên bố : “Phải đi xem .“

Tôi cầm ngọn nến của chúng tôi, và tôi tiến vào trước, đưa mắt lục soát toàn bộ gian phòng lớn ở những góc tối. Không có gì động đậy nữa ; và tôi đến gần chiếc giường. Nhưng tôi vẫn còn ở trong trạng thái sững sờ và lo sợ : Schopenhauer không mỉm cười nữa ! Thầy nhăn nhó một cách khủng khiếp, miệng mím chặt, gò má trũng sâu. Tôi lúng búng :

“Thầy chưa chết !”

Nhưng cái mùi khiếp đảm dâng lên mũi tôi, khiến tôi ngạt thở, và tôi không nhúc nhích nữa, chòng chọc nhìn thầy, hoảng hốt như trước ma hiện hình.

Thế là bạn tôi, cầm một ngọn nến khác, cúi xuống. Rồi anh ấy chạm vào cánh tôi mà không nói một lời nào. Tôi nhìn theo ánh mắt của anh ấy, và nhận thấy trên sàn nhà, dưới chiếc ghế bành kê cạnh giường, trắng toát trên tấm thảm sẫm màu, mở rộng như để cắn là hàm răng giả của Schopenhauer.

Sự phân hủy làm lỏng hàm, đã khiến nó bị bật ra từ miệng.

“ Hôm đó tôi thật sự sợ hãi, thưa ngài.”

Và bởi ánh nắng đang tràn tới từ mặt biển rực rỡ, người Đức bị bệnh lao đứng lên, chào tôi và trở về khách sạn.

Đợi chờ

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Người ta trò chuyện, giữa đàn ông với nhau, sau bữa tối trong phòng hút thuốc. Người ta nói về những gia tài bất ngờ, về những món thừa kế kỳ lạ. Thế là luật sư Le Brument mà người ta gọi khi thì là luật sư lừng danh, khi thì là thầy cãi lừng danh, tới dựa lưng vào lò sưởi.

“Lúc này tôi có việc phải tìm kiếm một người thừa kế đã mất tích trong trường hợp đặc biệt khủng khiếp, ông nói. Đó là một trong những thảm kịch giản đơn và tàn bạo trong đời thường ; một câu chuyện có thể xảy ra hàng ngày, tuy nhiên là một trong những bi kịch ghê sợ nhất mà tôi biết. Nó là thế này :”

“Tôi được gọi tới, cách đây gần sáu tháng, bên một người hấp hối. Bà ta bảo tôi :

“Thưa ngài, tôi muốn ủy thác cho ngài một nhiệm vụ tế nhị nhất, khó khăn nhất và lâu dài nhất. Xin ngài vui lòng tìm hiểu di chúc của tôi kia, để trên bàn ấy. Nếu ngài không thành công, số tiến năm ngàn frăng được để lại cho ngài, như một khoản danh dự, còn nếu ngài thành công, số tiền sẽ là một trăm ngàn frăng. Cần phải tìm thấy con trai tôi sau khi tôi chết.”

Bà ta xin tôi giúp mình ngồi lên trên giường để nói cho dễ hơn bởi giọng bà đứt đoạn, hụt hơi, rin rít trong cổ họng.

Tôi thấy mình ở trong một ngôi nhà rất giàu có. Căn phòng xa hoa, một sự xa hoa giản dị, được nhồi nệm bằng vải dày như những bức tường, êm ái với con mắt đến nỗi chúng tạo ra một cảm giác ve vuốt, lặng lẽ đến nỗi lời nói ra được hấp thụ vào và tan biến đi ở đó.

Người hấp hối nhắc lại :

“Ngài là người đầu tiên được tôi kể câu chuyện khủng khiếp của mình. Tôi sẽ gắng sức để kể đến hết. Ngài không cần biết gì cả chỉ cần biết ngài là người hảo tâm đồng thời là một con người, để có mong muốn chân thành giúp tôi với tất cả khả năng của mình.

“Hãy nghe tôi.

“Trước khi tôi cưới, tôi đã yêu một chàng trai trẻ mà gia đình tôi đã gạt bỏ lời câu hôn bởi anh ấy không đủ giàu. Sau đấy ít lâu, tôi đã cưới một người rất giàu. Tôi đã cưới vì dốt nát, vì sợ hãi, vì vâng lời với sự uể oải như những cô gái thường làm.

Tôi đã có một đứa con, một cậu con trai. Sau vài năm, chồng tôi qua đời.

Cái người mà tôi từng yêu đến lượt mình cũng đã kết hôn. Khi tôi ở góa, việc anh ấy không còn tự do nữa gây cho tôi một nỗi đau đớn khủng khiếp. Anh ấy đến thăm tôi, anh ấy nức nở than vãn trước tôi làm lòng tôi tan nát, anh ấy trở thành bạn tôi. Lẽ ra tôi không nên tiếp đón anh ấy. Ngài muốn gì cơ ? Tôi một mình, rất buồn bã, rất cô đơn, rất tuyệt vọng ! Và tôi vẫn còn yêu anh ấy. Như đôi khi người ta vẫn phải chịu !

Tôi chỉ có anh ấy ở trên đời, bố mẹ tôi cũng chết cả rồi. Anh ấy đến thường xuyên ; Anh ấy ở bên tôi cả buổi tối. Tôi không nên để anh ấy đến quá thường xuyên vì anh ấy có vợ rồi. Song tôi không có sức mạnh để ngăn được anh ấy.

“Tôi đã nói gì ấy nhỉ ?...Anh ấy trở thành tình nhân của tôi ! Điều đó đã xảy ra như thế nào ? Tôi biết được ư ? Phải chăng ngài nghĩ là có thể khác được khi hai con người bị đẩy vào nhau với sức mạnh không sao cưỡng nổi bởi tình yêu bị chia lìa ? Phải chăng ngài nghĩ là người ta có thể luôn chống cự, luôn đấu tranh, luôn khước từ những đòi hỏi với những cầu xin, những năn nỉ, những giọt lệ, những lời thảng thốt, những quỳ gối, những hăng say mê đắm của con người mà ta yêu, mà ta muốn thấy hạnh phúc trong chút ít ước ao của người ấy, mà ta muốn dồn dập trao cho mọi niềm sướng vui có thể và người mà ta làm thất vọng để tuân theo danh dự của con người. Sức mạnh nào, sự từ bỏ hạnh phúc nào, sự hy sinh nào và cả tính ích kỷ vì đức hạnh nào, cần phải có đây ?

“Cuối cùng, thưa ngài, tôi là tình nhân của anh ấy và tôi hạnh phúc. Trong mười hai năm, tôi đã hạnh phúc. Tôi đã trở thành bạn của vợ anh ấy, và đó là sự yếu đuối lớn nhất và hèn hạ nhất của tôi.

Chúng tôi cùng nhau nuôi dạy con trai tôi, chúng tôi dạy cháu thành một người đàn ông, một người đàn ông thực sự, thông minh, đầy tình cảm và ý chí, đầy tư tưởng hào phóng và rộng rãi. Nó đã mười bẩy tuổi.

Nó, một chàng trai trẻ, yêu quý tình nhân của tôi gần bằng chính tôi yêu anh ấy bởi vì nó được hai chúng tôi cùng yêu quý và săn sóc ngang nhau. Nó gọi anh ấy là “bạn tốt” và kính trọng anh ấy hết sức bởi anh ấy đã cho nó toàn những bài học khôn ngoan và là tấm gương về sự thẳng thắn, danh dự và trung thực. Nó xem anh ấy như một người bạn già giặn, trung thành và tận tâm của mẹ nó, như kiểu một người cha tinh thần, đỡ đầu và che chở nó theo như tôi biết chăng ?”

“Có lẽ nó chẳng bao giờ hỏi han gì, từ tuổi nhỏ nó đã quen với việc thấy người đàn ông này ở trong nhà, ở bên tôi, ở bên nó, luôn quan tâm đến chúng tôi.

“Một buổi cả ba chúng tôi phải ăn tối cùng nhau (đó là những cuộc liên hoan lớn nhất của tôi ), và tôi chờ hai người, tự hỏi ai sẽ là người đến trước. Cánh cửa mở ra ; đó là người bạn già của tôi. Tôi đi về phía anh ấy, vòng tay dang rộng ; và anh ấy đặt lên môi tôi một nụ hôn dài hạnh phúc.

“Đột nhiên, một tiếng động, một tiếng sượt qua, gần như không, cảm giác bí ẩn này chỉ ra sự có mặt của ai đó, khiến chúng tôi rùng mình và choáng váng quay lại. Jean, con trai tôi đứng đó, tái mét, đang nhìn chúng tôi.

“Một giây phút hoảng hốt ghê gớm. Tôi lùi lại, giơ tay về phía con mình như một lời cầu xin. Tôi không nhìn thấy nó nữa. Nó đã bỏ đi.

“Chúng tôi vẫn còn đối mặt nhau, rụng rời, không thốt nên lời. Tôi sụp xuống một chiếc ghế bành, và tôi thèm khát, một nỗi thèm khát khó tả và mạnh mẽ, được chạy trốn, được ra đi trong đêm tối, được biến mất mãi mãi. Rồi những tiếng nức nở giần giật dâng đầy trong cổ tôi, tôi khóc, nấc lên bởi những cơn co thắt, lòng đau xé, mọi dây thần kinh bị vặn xoắn bởi cảm giác kinh khủng về một nỗi bất hạnh không sao cứu vãn được và bởi một nỗi hổ thẹn khủng khiếp đã ập xuống trái tim của một người mẹ vào những lúc như thế.

Anh ấy vẫn còn hốt hoảng trước tôi, không dám đến gần, không dám nói với tôi cũng như không dám chạm vào tôi vì sợ rằng con tôi trở lại. Cuối cùng anh ấy bảo :

“Anh sẽ đi tìm nó…nói với nó…làm nó hiểu…rốt cục anh phải gặp nó, phải cho nó biết…”

Và anh ấy đi ra.

Tôi chờ đợi…tôi sốt ruột chờ đợi, run rẩy bởi những tiếng động nhỏ, cảm giác sợ hãi dâng lên và tôi biết thế nào là cảm xúc khó tả và không chấp nhận nổi đối với mỗi tiếng tí tách nho nhỏ của ngọn lửa trong lò sưởi.

Tôi đợi một giờ, hai giờ, cảm thấy nỗi lo sợ lạ lùng trong lòng mình lớn dần lên, một nỗi kinh hoàng như thể trong mười phút đó sẽ có một tội ác lớn nhất của loài người mà tôi chẳng hề mong muốn. Con tôi ở đâu ? Nó đã làm gì ?

Khoảng nửa đêm, một người môi giới mang cho tôi một bức thư của tình nhân tôi. Tôi vẫn thuộc lòng nó.

“Con trai bà đã về chưa ? Tôi không tìm thấy cậu ấy. Tôi ở dưới. Tôi không thể lên vào giờ này.”

“Tôi viết bằng bút chì cũng trên tờ giấy đó :

“Jean chưa về ; anh phải tìm thấy nó.”

“Và cả đêm tôi chờ đợi trên chiếc ghế bành.

“Tôi trở nên điên rồ. Tôi thèm muốn được gào rú, chạy nhảy và lăn lộn trên đất. Và tôi không nhúc nhích chút nào, vẫn luôn chờ đợi. Cái gì sẽ đến ? Tôi tìm cách đoán biết. Nhưng mặc những nỗ lực của tôi, mặc những dằn vặt của lòng tôi, tôi không hề dự kiến được điều đó !

Tôi sợ giờ họ chẳng khôi phục tình cảm với nhau . Họ đã làm gì ? Đứa trẻ đã làm gì ? Có những ngờ vực khủng khiếp xé nát lòng tôi, bằng những giả thiết tệ hại.

“Ngài hiểu rõ chuyện đó chứ, thưa ngài ?

“Cô hầu phòng của tôi không biết gì cả, không hiểu gì cả, đã đến luôn vì tin chắc là tôi bị điên. Tôi dùng điệu bộ hay lời nói đuổi cô ta đi. Cô ta đi tìm một thầy thuốc người thấy tôi đang điên loạn trong một cơn khủng hoảng thần kinh.

“Người ta đặt tôi lên giường. Tôi bị viêm não.

Khi tôi lấy lại được ý thức sau một trận ốm dài, tôi nhận ra một mình tình nhân của tôi ở bên giường. Tôi kêu lên : “ Con trai em ?...con trai em đâu ?” Anh ấy chẳng trả lời. Tôi ấp úng :

“Chết rồi..chết rồi..nó đã bị giết ư ?”

“Anh ấy đáp:

“Không, không, Anh thề đấy. Nhưng bọn anh đã đã không thể đuổi kịp nó dù anh đã cố gắng.”

“Thế là tôi tuyên bố, trong một cơn bực mình đột ngột và cả phẫn nộ nữa, bởi người ta có những cơn giận dữ phi lý và không thể giải thích được :

“Tôi cấm anh trở lại gặp tôi nếu anh không tìm thấy nó ; hãy đi đi.”

“Anh ấy ra đi. Tôi đã không hề gặp lại họ, cả người này lẫn người kia, thưa ngài, tôi đã sống như thế từ hai mươi năm nay.

“Ngài nghĩ gì về chuyện đó ? Ngài có hiểu được khổ hình kinh khủng này, nỗi đau đớn thường trực và chậm rãi nơi trái tim người mẹ, trái tim người đàn bà của tôi, một sự đợi chờ tệ hại và vô tận...vô tận !...Không…nó sắp chấm dứt…vì tôi chết. Tôi chết mà không gặp lại họ…cả người này lẫn người kia !

Anh ấy, người bạn của tôi, từ hai mươi năm nay viết cho tôi hàng ngày ; còn tôi, tôi chưa bao giờ muốn gặp lại anh ấy ngay cả trong giây lát. Bởi với tôi dường như anh ấy trở về đây đúng vào lúc tôi thấy sự xuất hiện trở lại của con tôi ! Con tôi ! Con tôi ! – Nó chết rồi ư ? Nó còn sống không ? Nó trốn ở đâu ? Có thể là bên kia đại dương, ở một xứ sở xa xôi đến nỗi tôi không biết cả tên gọi nữa ! Nó có nghĩ đến tôi không ?... Ôi ! Giá mà nó biết được ! Những đứa con mới độc ác làm sao ! Nó có hiểu được khổ hình khủng khiếp mà nó đã kết án tôi không ? Có hiểu được nó đã đẩy tôi, mẹ nó, vẫn còn trẻ và là người yêu nó với tất cả sự mãnh liệt của tình mẫu tử, phải sống trong nỗi thất vọng, nỗi dằn vặt nào không ? Thật độc ác phải không, ngài nói đi?

“Ngài sẽ nói với nó tất cả những điều đó, thưa ngài, ngài hãy nhắc lại với nó những lời cuối cùng của tôi :

“Con ơi, con yêu quý của mẹ ơi, hay bớt tàn nhẫn với những con người đáng thương. Cuộc đời đã đủ tàn bạo và khắc nghiệt rồi ! Con yêu quý, hãy nghĩ đến cuộc đời đã qua của mẹ con, người mẹ khốn khổ của con kể từ ngày con bỏ đi. Con yêu quý của mẹ, hãy tha thứ cho ông ấy, và hãy yêu thương người mà giờ đây đã chết, bởi bà ấy đã phải chịu một sự sám hối khủng khiếp nhất.” Bà ta thở hổn hển, run rẩy như thể nói với đứa con đang đứng trước mình. Rồi bà ta nói thêm :

“Ngài nói tiếp với nó, thưa ngài, rằng tôi không hề gặp lại…người kia.” Bà ta nín lặng rồi tiếp tục bằng một giọng đứt đoạn :

“Giờ xin ngài hãy để tôi lại. Tôi muốn chết một mình, bởi vì họ không ở bên tôi.”

Luật sư Le Brument nói thêm :

“Và thưa các ngài, tôi vừa đi ra vừa khóc như một kẻ ngốc, khóc to đến nỗi người đánh xe của tôi phải quay lại nhìn tôi.

“Và phải nói là, hàng ngày, xung quanh chúng ta xảy ra hàng lô bi kịch như thế!

Tôi đã không tìm thấy người con…người con ấy…Cứ nghĩ như các ngài muốn ; còn tôi, tôi cho là người con ấy… là kẻ có tội.”

Kẻ mù lòa

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Nỗi sung sướng về ánh nắng ban đầu này là gì vậy nhỉ ? Cớ sao thứ ánh sáng đổ xuống mặt đất đó lại choán đầy chúng ta như niềm vui sống ? Bầu trời rất xanh, ruộng đồng rất xanh, những ngôi nhà rất trắng ; và con mắt chúng ta ừng ực uống những sắc màu sống động được tạo bởi niềm hoan hỉ cho tâm hồn chúng ta này. Và nó mang đến cho chúng ta những khát khao được chạy nhảy hát ca, một sự nhẹ nhàng sung sướng của ý nghĩ, một kiểu tình âu yếm phóng khoáng, khiến ta những muốn ôm ấp mặt trời.

Những người mù dưới những cánh cửa, trơ ì trong bóng tối vĩnh cửu, vẫn bình thản như thường giữa niềm vui mới mẻ này, và vì không hiểu, phút nào họ cũng trấn an chú chó đang muốn nhảy nhót của mình.

Khi họ trở về, ngày đã tắt, vịn vào tay một người em trai hay em gái nhỏ, nếu đứa trẻ nói : “ Trời chiều nay đẹp thật !”, người kia sẽ đáp :”Tôi nhận thấy rõ là trời đẹp, con Loulou không chịu ở yên.”

Tôi đã biết một trong những con người mà cuộc đời là một trong những nỗi thống khổ ác nghiệt nhất mà ta có thể chiêm bao thấy.

Đó là một người nhà quê, con trai của một chủ trại Noóc-măng-đi. Khi cha và mẹ còn sống, người ta hầu như chăm lo hết cho cậu ; cậu ít phải chịu đựng sự tàn tật khủng khiếp của mình ; nhưng ngay khi những người già khuất núi, cuộc sống tồi tệ bắt đầu. Được một người chị gái đón về, mọi người trong trang trại đối xử với cậu như một kẻ ăn mày ăn miếng bánh của những người khác. Mỗi bữa ăn, người ta nhắc nhở cậu về thức ăn, người ta gọi cậu là kẻ ăn không ngồi rồi, kẻ lỗ mãng ; và mặc dù anh rể cậu đã chiếm đoạt phần thừa kế của cậu, người ta vẫn cho cậu xúp một cách tiếc rẻ, chỉ đủ để cậu không chết đói.

Cậu có một gương mặt rất xanh xao và hai con mắt trắng to như những cái bánh niêm phong ; và cậu vẫn trơ ì dưới những lời lăng nhục vây quanh bản thân đến nỗi người ta không biết cậu cảm nhận thế nào về nó. Hơn nữa, cậu chưa từng biết tới một tình âu yếm nào, mẹ cậu trước vẫn thường đối xử hơi thô bạo với cậu, yêu thương cậu rất ít ; bởi vì ở nhà quê những kẻ vô tích sự là những kẻ gây hại, và như với lũ gà mái, những người nông dân sẵn lòng giết những con yếu ớt trong đàn.

Ngay khi ngốn ngấu hết xúp, cậu tới ngồi trước cửa vào mùa hè và cạnh lò sưởi vào mùa đông, và đến tận tối cậu chẳng nhúc nhích nữa. Cậu không hề phác một điệu bộ, một cử động nào, chỉ có mí mắt cậu là mấp máy như bị đau gân thi thoảng sụp xuống cái đốm trắng của con mắt. Liệu cậu có một trí tuệ, một suy nghĩ, một ý thức minh bạch về đời mình không ? Chẳng ai hỏi cậu điều đó cả.

Trong vài năm sự việc vẫn thế. Nhưng sự bất lực không làm được gì cũng như tính trơ ì của cậu chấm dứt bằng việc khiến những người bà con của cậu phẫn nộ, và cậu trở thành người bị bắt nạt, giống như một anh hề tử vì đạo, một con mồi cho tính tàn bạo bẩm sinh, cho niềm vui hoang dại của những kẻ thô lậu chung quanh cậu.

Người ta nghĩ ra mọi trò đùa cay nghiệt mà chứng mù của cậu gợi ý cho. Và để trả cho những thứ cậu ăn, người ta biến những bữa ăn của cậu thành những giờ vui vẻ cho những người ngồi cạnh và thành khổ hình cho kẻ bại liệt.

Những người nông dân trong những ngôi nhà kế cận tự mò đến với trò tiêu khiển này ; họ nói về nó từ cửa nhà này sang cửa nhà khác và bếp ăn của trang trại ngày nào cũng thấy đầy người.

Khi thì người ta đặt lên bàn, trước cái đĩa mà cậu bắt đầu múc nước dùng, con mèo hoặc con chó nào đấy. Bằng bản năng, con vật đánh hơi thấy sự tàn tật của con người và tiến lại gần một cách thật nhẹ nhàng, ăn không tiếng động, khéo léo tợp bằng lưỡi; và lúc một tiếng khuấy lưỡi hơi ồn đánh thức sự chú ý của cái gã khốn khổ, nó thận trọng dịch ra xa để né tránh một cú đập của chiếc thìa mà cậu vô tình giáng trước nó.

Thế là có những trận cười kịch liệt giậm chân giậm tay của đám khán giả lèn chặt dọc những bức tường. Và cậu, không bao giờ nói một lời, bắt đầu ăn bằng tay phải trong khi tay trái giơ ra che chở và bảo vệ cái đĩa của mình.

Khi thì người ta làm cậu nhai những cái nút chai lọ, gỗ, lá cây hay cả rác rưởi mà cậu không thể phân biệt được.

Rồi người ta chán cả những trò đùa cợt ; và người anh rể cáu tiết vì vẫn phải nuôi cậu, vừa không ngừng đánh cậu, tát cậu vừa giễu cợt những cố gắng vô ích để tránh đòn hoặc đánh trả của cậu. Thế là có một trò chơi mới : trò chơi của những cái tát. Và những người thợ cầy, những kẻ đểu cáng, những người hầu cùng lúc đập tay vào mặt cậu khiến mí mắt cậu mấp máy dồn dập. Cậu không biết chỗ những cánh tay không ngừng giương ra hay giấu đi để né tránh sự tiếp cận của chúng.

Cuối cùng, người ta bắt ép cậu phải đi ăn mày. Người ta mang cậu ra những con đường những ngày có phiên chợ, và ngay khi cậu nghe thấy tiếng bước chân hay tiếng bánh xe lăn, cậu vừa chìa chiếc mũ của mình ra vừa ấp úng : “Làm ơn cho kẻ khó.”

Nhưng người nông dân không hoang phí và trong suốt mấy tuần lễ, cậu chả mang về được xu nào.

Và điều đó khiến cậu được đáp lại bằng một sự thù hận nhẫn tâm tàn bạo. Và đó là lý do khiến cậu qua đời.

Một mùa đông, mặt đất phủ đầy tuyết và trời giá rét một cách khủng khiếp. Thế mà một buổi sáng, anh rể cậu dắt cậu đi rất xa trên một con đường lớn để bắt cậu xin của bố thí. Gã để cậu ở đó cả ngày và khi đêm xuống, gã khẳng định với những người làm của mình là không tìm thấy cậu nữa. Rồi gã thêm : “Mặc kệ ! không cần phải bận tâm, có người đã dắt nó đi vì nó bị lạnh. Dĩ nhiên ! nó không bị lạc đâu. Nó sẽ về ăn xúp ngay ấy mà.”

Hôm sau, cậu vẫn chưa về.

Sau nhiều giờ chờ đợi, bị lạnh cóng người, cảm thấy sắp chết, kẻ mù lòa bắt đầu bước đi, vì không thể nhận ra con đường bị chôn vùi dưới đám băng tuyết, cậu đã lang thang vô định, ngã xuống những cái rãnh, câm lặng đứng lên, tìm một mái nhà.

Nhưng sự tê cóng của tuyết dần dần xâm nhập vào người cậu, và đôi chân yếu ớt của cậu không thể mang cậu đi thêm nữa. Cậu ngồi giữa một bình nguyên và thôi không đứng dậy.

Những bông tuyết trắng vẫn rơi xuống vùi lấp cậu. Cơ thể đông cứng của cậu biến mất dưới sự tích tụ liên tục của cái đống tuyết bất tận đó ; và chẳng còn gì chỉ ra được chỗ cái thi thể đang nằm.

Những người bà con của cậu làm ra vẻ dò hỏi và tìm kiếm cậu trong tám ngày. Họ cũng than khóc nữa.

Mùa đông khắc nghiệt và tuyết chẳng tan nhanh. Vậy mà một chủ nhật, trong lúc đi lễ nhà thờ, những người chủ trại nhận thấy một đàn quạ lớn lượn vòng không dứt phía trên bình nguyên, rồi đáp xuống như một trận mưa đen ngòm tụ thành đám ở cùng một chỗ mà chúng vẫn bay đi bay lại.

Tuần tiếp theo,những con chim sẫm màu vẫn còn ở đó. Trên trời có một đám mây chim như thể chúng được tụ lại từ mọi góc chân trời ; và chúng buông mình xuống cùng với những tiếng kêu lớn trên đống tuyết sáng nhoáng mà chúng vấy bẩn một cách kì cục và khăng khăng đào bới.

Một anh chàng đã trông thấy những gì chúng làm, và phát hiện ra thi thể nham nhở của người mù, đã bị ăn một nửa. Cặp mắt xanh xao của cậu đã biến mất, bị mổ bởi những chiếc mỏ dài háu ăn.

Còn tôi không bao giờ có thể cảm nhận niềm vui sống trong những ngày đầy ánh nắng mà không gợi nhớ một kỉ niệm buồn bã và một ý nghĩ u sầu về người ăn mày bị thua thiệt trong đời đến nỗi cái chết khủng khiếp của cậu là một sự an ủi cho tất cả những ai biết cậu.

Lời tình yêu

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Chủ nhật.

Con gà trống to lớn yêu quý của em,

Anh chẳng viết cho em, em chả gặp anh nữa, anh chẳng bao giờ đến với em. Thế anh đã thôi yêu em rồi ư ? Tại sao ? Em đã làm gì ? Hãy nói em hay, em xin anh, người yêu quý giá của em ! Còn em, em vẫn yêu anh như thế, như thế, như thế ! Em muốn có anh luôn ở bên mình và ngày nào cũng ôm hôn anh, trao gửi anh, ôi trái tim của em, con mèo yêu dấu của em, mọi tên gọi dịu dàng đến với ý nghĩ của em. Em tha thiết yêu anh, tha thiết yêu anh, tha thiết yêu anh, ôi con gà trống đẹp mã của em.

Gà mái tơ của anh.

Sophie

Thứ hai.

Người bạn thân thiết của anh,

Em sẽ hoàn toàn không hiểu gì về những lời anh sắp nói. Mặc kệ. Nếu tình cờ bức thư của anh lọt vào mắt một người phụ nữ khác, nó có thể bổ ích với người ấy.

Nếu em câm và điếc, chắc chắn là anh sẽ yêu em lâu dài, lâu dài. Nỗi bất hạnh đến từ những lời em nói, tất cả là ở đó. Một nhà thơ đã nói :

Em chưa từng hiếm gặp nhất trên đời

Chỉ là nhạc cụ tầm thường dưới archet của anh đắc thắng,

Nơi khoảng trống tim em, anh khiến ước mơ mình hát

Như nơi miệng đàn guitar, một điệu nhạc ngân lên.

Trong tình yêu, em thấy không, người ta luôn khiến những ước mơ hát lên ; nhưng để những ước mơ hát lên, người ta không cần phải làm chúng đứt đoạn. Thế mà, khi người ta cất tiếng nói giữa hai nụ hôn, người ta luôn làm đứt đoạn ước mơ cuồng nhiệt mà những tâm hồn tạo ra, trừ phi nói những lời lẽ tuyệt vời, và những lời lẽ tuyệt vời không nảy nở trong những cái đầu bé nhỏ của những cô gái đẹp.

Em chả hiểu gì hết, có phải không ? Càng hay. Anh nói tiếp đây. Em chắc chắn là một trong những người phụ nữ quyến rũ nhất, đáng yêu nhất mà anh chưa thấy bao giờ. Liệu trên trái đất có cặp mắt nào chứa đựng nhiều mơ ước, nhiều hứa hẹn mới lạ, nhiều tình yêu bất tận hơn cặp mắt của em ? Anh không nghĩ thế. Và lúc miệng em cười với đôi môi đầy đặn phô ra hàm răng sáng, như thể từ cái miệng làm say lòng người ấy sắp sửa thốt ra một điệu nhạc khó tả nên lời, một cái gì đó ngọt ngào huyền hoặc, êm dịu đến thổn thức.

Thế rồi em bình thản gọi anh là : “Con thỏ to lớn yêu dấu của em”. Dường như anh bất ngờ xâm nhập vào đầu óc em, thấy sự vận hành của tâm hồn em, tâm hồn bé nhỏ của một người phụ nữ bé nhỏ xinh đẹp, xinh đẹp, nhưng điều đó làm anh khó chịu, em có biết không, rất khó chịu. Anh thà không thấy còn hơn.

Em vẫn không hiểu tí gì phải không ? Anh chắc thế.

Em có nhớ lần đầu em đến nhà anh không ? Em đột ngột bước vào với hương hoa violet tỏa ra từ váy áo ; chúng ta đã nhìn nhau thật lâu mà không nói một lời, rồi ôm hôn nhau như những kẻ điên cuồng… rồi… rồi đến tận hôm sau chúng ta cũng không hề nói.

Nhưng khi chúng ta từ biệt nhau, bàn tay chúng ta run rẩy và mắt chúng ta tự nói ra những điều, những điều mà người ta không thể diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ nào cả. Ít ra là anh đã tưởng thế. Và vừa từ biệt anh, em vừa thì thầm thật khẽ : “Hẹn sớm gặp lại !” – Đó là tất cả những gì em đã nói ; và em sẽ chẳng bao giờ hình dung ra ước mơ ấp ủ nào mà em đã để lại, mọi điều mà anh thoáng thấy, mọi điều mà anh ước đoán trong ý nghĩ của em.

Em biết không, em bé đáng thương của anh, bởi vì con người ta không phải là những con vật, hơi tinh tế, hơi cao cấp, nên tình yêu là một nhạc cụ phức tạp đến nỗi chẳng có gì làm rối loạn được nó. Còn chị em, những người phụ nữ khác, chị em chẳng bao giờ nhận thức được cái nực cười của một vài thứ khi chị em yêu và cái lố lăng của những biểu đạt mà chị em trót buột miệng.

Tại sao một lời thích đáng ở miệng của một phụ nữ tóc nâu nhỏ nhắn lại hết sức lệch lạc và hài hước ở miệng của một phụ nữ tóc vàng to béo ? Tại sao cử chỉ mơn trớn của người này lại không thích đáng ở người kia ? Tại sao một số vuốt ve duyên dáng của người này lại gây khó chịu ở người kia ? Tại sao ? Bởi vì trong tất cả mọi việc, nhất là trong tình yêu, cần phải có một sự hòa hợp hoàn toàn, một sự hài hòa tuyệt đối giữa cử chỉ, giọng điệu, lời nói, biểu lộ dịu dàng với chủ thể hành động, nói năng, biểu lộ, với tuổi tác, mức độ tầm vóc, mầu sắc của đôi mắt và diện mạo nhan sắc người ấy. Một phụ nữ ba mươi tuổi, độ tuổi có những đắm say lớn lao mãnh liệt, người chỉ giữ lại chút ít sự màu mè mơn trớn của những mối tình của mình năm hai mươi tuổi, người không hiểu rằng cần phải biểu lộ khác đi, ôm hôn khác đi, rằng cần phải là một Didon chứ không còn là một Juliette nữa, chắc chắn sẽ làm chín trên mười người tình chán ngấy ngay cả khi họ không nhận thấy lý do chán ghét của mình.

Em có hiểu không ? – Không à ? – anh mong thế lắm !

Kể từ hôm em mở miệng tuôn ra những lời âu yếm, với anh thế là hết đấy, bạn gái ạ.

Có lần chúng mình ôm hôn nhau năm phút, một nụ hôn bất tận duy nhất, say đắm, một trong những nụ hôn làm mắt phải nhắm vào, như là chúng có thể băm nát bằng cái nhìn, như để giữ gìn chúng trọn vẹn hơn trong tâm hồn u sầu mà chúng tàn phá. Rồi khi chúng mình tách môi ra, em vừa cười một nụ cười trong sáng vừa bảo anh là : “ Tuyệt, con cún của em !” Thế là anh đã đánh em.

Bởi vì em đã liên tiếp đặt cho anh mọi tên gọi của thú vật và rau cỏ mà chắc chắn là em đã tìm thấy trong những cuốn Chị đầu bếp trưởng giả, Người làm vườn hoàn hảoNhững nhân tố lịch sử tự nhiên dùng cho những tầng lớp dưới. Nhưng chuyện đó chả là gì nữa.

Cái mơn trớn của tình yêu thật hung tợn, có thú tính và còn hơn thế, khi người ta nghĩ về nó. Musset (*1) đã nói :

Anh vẫn nhớ những co thắt khủng khiếp,

Những cơ bắp dữ dằn, Những nụ hôn câm lặng.

Của người bị thu hút, tái xanh và hàm răng nghiến chặt.

Nếu không phải tuyệt trần, những lúc ấy thật là kinh khủng.

Hay là lố lăng !... Ôi ! em bé đáng thương của anh, tài năng bông lơn nào, trí tuệ tai ác nào đã có thể gợi cho em những lời em nói ở đoạn kết vậy ? Anh đã chịu đựng chúng rất nhiều, nhưng vì tình yêu với em, anh đã không để lộ ra.

Và rồi em đã sai lầm thật đúng lúc, và em đã tìm được cách buông ra một “Em yêu anh !” cuồng nhiệt trong những dịp nào đó đặc biệt đến nỗi nó khiến anh phải kìm lại những cơn tức cười dữ dội. Có những lúc câu “Em yêu anh” này không đúng chỗ đến nỗi nghĩa rõ ràng của nó thành ra không tưởng tượng được.

Nhưng mà em chẳng hiểu anh đâu.

Nhiều phụ nữ cũng không hề hiểu anh và cho là anh ngu ngốc. Dù vậy, có hề chi. Những người phàm ăn ăn uống một cách tham lam, nhưng những người khó tính thì tế nhị, và họ thường ủng hộ ít món vì những nỗi chán ghét không sao cưỡng nổi. Chuyện tình yêu cũng như nghệ thuật nấu ăn vậy.

Điều mà anh không hiểu, chẳng hạn như những người phụ nữ nào đó, người mà biết rất rõ sự quyến rũ không sao cưỡng được của những đôi tất dài bằng lụa mịn màng có thêu thùa, sự lôi cuốn tuyệt vời của những sắc thái, sự mê hoặc của những dải đăng ten quý giá khuất sâu ở trang phục bên trong, sự thú vị khêu gợi của những bí mật xa xỉ của lớp lót tinh tế và mọi nét nhẹ nhàng tế nhị của vẻ duyên dáng nữ tính, lại chẳng bao giờ hiểu được nỗi ngao ngán không sao cưỡng nổi mà những lời không đúng chỗ hay những luyến ái ngớ ngẩn gây ra cho chúng tôi. Một từ thú tính đôi khi có tác dụng tốt, quất vào da thịt, làm con tim nẩy lên. Những từ ấy được phép trong thời chiến. Từ ấy của Cambronne (*2) không tuyệt vời sao ? Chẳng có gì gây chướng nếu đến đúng lúc. Nhưng cũng cần phải im lặng và tránh những lời nói kiểu cách của Paul de Kock (*3) trong những lúc nào đó.

Và anh ôm hôn em đắm đuối miễn là em đừng nói.

René.

Chú thích :

(*1) Alfred de Musset (11/12/1810 – 02/05/1857) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch Pháp.

(*2) Pierre Jacques Étienne Cambronne, còn gọi là Tử tước Cambronne (26/12/1770 – 29/1/1842), là một vị tướng của Đế chế Pháp. Ông đã chiến đấu trong suốt những cuộc chiến tranh Cách mạng và thời đại Napoleon. Người ta khẳng định rằng trước sự nài ép của người Anh, ông đã trả lời bằng cách văng ra từ mà ngày nay được biết đến như “Từ của Cambronne” : Merde! Việc này xảy ra sau khi đại tá Anh Hugh Halkett, người chỉ huy lữ đoàn Hanover số 3, bắt giữ Cambronne. Chuyện Cambronne lúc đó bị thương nặng và bị người Anh tống ngục sau trận chiến là đích xác. Còn chuyện “Từ của Cambronne” dù có thật hay không thì cũng đã trở nên liên đới tới ông một cách không thể gột rửa được do được đề cập đến trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của Victor Hugo và vở kịch “Đại bàng con” - chỉ Hoàng đế Pháp Napoléon II - của Edmond Rostand. Tuy nhiên trong phần còn lại của cuộc đời mình, Cambronne đã từ chối sử dụng từ này.

(*3)Charles Paul de Kock (21/5/1793 – 27/4/1871) là nhà tiểu thuyết Pháp và tác giả của nhiều libretto cho opera.

Nấm mộ

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Ngày mười bảy, tháng bảy, năm một ngàn tám trăm tám mươi ba, lúc hai giờ rưỡi sáng, người bảo vệ khu nghĩa trang Béziers, sống tại một căn chòi nhỏ ở cuối bãi tha ma, bị đánh thức bởi tiếng chó sủa ăng ẳng, ấy là con chó của ông đang bị nhốt trong bếp. Ông đi xuống và thấy con vật vừa đánh hơi dưới cánh cửa vừa sủa lên giận dữ, như là có tên du đãng nào đó đã lảng vảng quanh nhà. Vincent, tên người bảo vệ, vớ lấy cây súng và thận trọng bước ra ngoài. Con chó của ông thông thạo tiến về hướng đi tới khu mộ họ Bonnet và dừng lại ngay cạnh mộ chí của bà Tomoiseau.

Vậy là người bảo vệ thận trọng tiến lên và nhanh chóng nhận thấy một luồng sáng yếu ớt bên lối đi của khu mộ Malenvers. Ông lướt nhìn giữa những ngôi mộ và chứng kiến một hành vi uế tạp khủng khiếp.

Một gã đàn ông đã đào xác một thiếu phụ được chôn cất hôm trước, và gã đang kéo tử thi ra ngoài ngôi mộ.

Một cây đèn nhỏ mờ mờ, đặt trên một đống đất soi rọi cái cảnh gớm ghiếc này. Ông bảo vệ Vincent xông vào kẻ khốn nạn, quật gã xuống , trói tay rồi điệu gã tới đồn cảnh sát.

Đó là một luật sư trẻ của thành phố, giàu có, rất nổi tiếng, tên là Courbataille.

Anh ta bị xét xử. Viện công tố trình bày lại biên bản quái gở của viên cảnh sát Bertrand khiến cử tọa bất bình.

Những cơn phẫn nộ lan truyền trong đám đông. Khi quan toà ngồi xuống, những tiếng thét bùng nổ : “tử hình ! tử hình !” Chủ toạ phải vất vả lắm mới thiết lập lại được trật tự. Rồi ông tuyên bố bằng giọng trầm :

“Anh đã chuẩn bị trước lời bào chữa cho mình chưa ?”

Courbataille, người không hề muốn có luật sư, đứng dậy. Đó là một anh chàng đẹp trai, cao lớn, tóc nâu, gương mặt rộng với những đường nét cương quyết, ánh mắt bạo dạn.

Từ đám công chúng có những tiếng huýt bật ra.

Anh ta không luống cuống. Và bắt đầu nói bằng giọng hơi khàn, ban đầu hơi trầm, song rắn rỏi dần lên.

“Thưa ngài chủ toạ,

“Thưa bồi thẩm đoàn,

“Tôi có rất ít điều để nói. Người đàn bà mà tôi đã xâm phạm mộ phần từng là tình nhân của tôi. Tôi yêu nàng.

Tôi yêu nàng, không chỉ bằng tình yêu thể xác, không chỉ bằng sự âu yếm giản đơn của tâm hồn và trái tim, mà còn bằng một tình yêu tuyệt đối, trọn vẹn, bằng một niềm đắm say điên cuồng.

“Hãy nghe tôi :

“Khi tôi gặp nàng lần đầu tiên, lúc nhìn nàng tôi đã cảm thấy một cảm giác lạ lùng. Nó không chỉ là sự ngạc nhiên lẫn khâm phục, nó không chỉ là cái mà người ta gọi là tiếng sét ái tình, mà còn là cảm giác thoải mái tuyệt diệu như thể ta đắm mình trong một bồn tắm ấm áp. Những cử chỉ của nàng quyến rũ tôi, giọng nói của nàng cuốn hút tôi, toàn bộ con người nàng khiến tôi vui thích ngắm nhìn không dứt. Dường như tôi đã quen biết nàng từ lâu, như là tôi đã từng trông thấy nàng. Nàng mang trong mình cái gì đó của hồn vía tôi.

“Nàng xuất hiện trước tôi như một lời đáp cho tiếng gọi thốt ra từ tâm hồn tôi, cho tiếng gọi mơ hồ, không nguôi ngoai mà chúng ta hướng tới niềm hy vọng trong suốt hành trình của cuộc đời.

“Khi tôi đã quen biết nàng hơn một chút, ý nghĩ duy nhất về việc gặp nàng lại giày vò tôi bằng trạng thái bối rối diệu kỳ và sâu sắc ; sự tiếp xúc của bàn tay nàng trong tay tôi tạo cho tôi một niềm vui thú đến nỗi trước kia tôi chưa bao giờ hình dung ra cái gì tương tự, nụ cười của nàng rót vào mắt tôi một niềm hoan hỉ cuồng dại, khiến tôi khao khát được chạy, được khiêu vũ, được lăn mình trên đất.

“Vậy là nàng trở thành tình nhân của tôi.

“Nàng còn hơn cả thế nữa, nàng chính là cuộc đời tôi. Nơi trần gian này tôi không còn cần gì hơn, không mong chờ gì hơn, không khao khát gì hơn.

Thế mà một chiều, giữa lúc chúng tôi dạo chơi xa hơn một chút dọc bờ sông, mưa bất thần đổ xuống. Nàng bị cảm lạnh.

“Ngày hôm sau, chứng viêm phổi phát tác. Tám ngày sau đó nàng tắt thở.

“Trong những giờ hấp hối, nỗi lo sợ, hoảng hốt ngăn trở tôi hiểu rõ và suy ngẫm thấu đáo.

“Khi nàng đã chết rồi, cơn tuyệt vọng nặng nề khiến tôi choáng váng đến nỗi tôi không còn suy nghĩ được. Tôi than khóc.

“Trong mọi công đoạn khủng khiếp của việc mai táng, nỗi đau đớn mãnh liệt và dữ dằn của tôi còn là nỗi đau điên cuồng, giống như một kiểu đau xác thịt, thực thể.

“Rồi khi nàng đã ra đi, khi nàng ở trong lòng đất, đầu óc tôi bỗng minh mẫn trở lại và tôi đã trải qua mọi đau khổ tinh thần khủng khiếp đến nỗi ngay cả tình yêu nàng đã trao tôi cũng đắt ngang với cái giá ấy.

“Vậy là trong tôi bắt đầu có ý nghĩ thường xuyên này :

“Mình sẽ không còn gặp lại nàng nữa.”

Khi ngẫm nghĩ điều này trong suốt một ngày, sự suy sụp tinh thần sẽ xâm chiếm quý vị ! Hãy nghĩ mà xem ! Một người ở đó, người mà quý vị yêu tha thiết, một người duy nhất, bởi vì trên khắp mặt đất rộng lớn không tồn tại một người thứ hai giống như thế. Người này đã dâng hiến cho quý vị, đã cùng với quý vị tạo ra sự hoà hợp huyền bí mà người ta gọi là Tình yêu. Với quý vị, con mắt người ấy còn mênh mông hơn vũ trụ, quyến rũ hơn thể giới, con mắt trong veo âu yếm mỉm cười. Người này yêu thương quý vị. Khi nói với quý vị, giọng người này truyền vào quý vị một làn sóng hạnh phúc.

“Và bỗng nhiên, người này biến mất ! Hãy nghĩ mà xem ! Người này không chỉ biến mất với quý vị mà còn biến mất mãi mãi. Người này đã chết. Quý vị có hiểu được cái từ này không ? Không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ, không nơi nào có sự hiện diện của người này nữa. Không bao giờ con mắt của người này còn nhìn được nữa ; không bao giờ còn giọng nói này, không bao giờ có một giọng nói giống thế, giữa tất cả các giọng người, phát âm từ giống như cách phát âm của người này.

“Không bao giờ còn hiện ra một gương mặt giống gương mặt người này. Không bao giờ, không bao giờ ! Người ta giữ các khuôn đúc tượng ; người ta bảo tồn các dấu ấn tái tạo các vật thể với những đường nét tương tự và mầu sắc tương tự. Nhưng thân thể này và gương mặt này, chẳng bao giờ chúng còn xuất hiện trở lại trên mặt đất. Ấy thế mà tạo hoá sẽ sinh ra hàng nghìn, hàng triệu, hàng tỉ, và còn nhiều hơn thế, giữa tất thảy những người phụ nữ tương lai, chẳng bao giờ còn tìm thấy được người ấy. Điều này có thể được chăng ? Ta trở nên điên dại với ý nghĩ ấy !

Nàng đã sống hai mươi năm, không hơn, và nàng đã biến mất mãi mãi, mãi mãi, mãi mãi ! Nàng đã suy nghĩ, nàng đã mỉm cười, nàng đã yêu tôi. Không có gì hơn. Với tạo hoá, lũ ruồi chết vào mùa thu cũng như chúng ta. Không có gì hơn ! Và tôi nghĩ rằng thân thể nàng, thân thể tươi tắn, ấm áp, thật êm ái, thật trắng trẻo, thật đẹp đẽ sẽ bị mục nát trong một cái hòm dưới lòng đất. Thế còn tâm hồn của nàng, ý nghĩ của nàng, tình yêu của nàng thì ở đâu ?

“Không gặp lại nàng nữa ! Không gặp lại nàng nữa ! Ý nghĩ về thân thể mục nát này ám ảnh tôi, rằng có lẽ tôi sẽ không thể nhận ra. Và tôi muốn nhìn ngắm nàng thêm một lần nữa !

“Tôi mang theo một cái mai, một đèn lồng, một cái búa. Tôi nhảy qua tường rào nghĩa trang. Tôi tìm thấy một lỗ hổng trên mộ nàng ; người ta còn chưa lấp kín hoàn toàn.

“Tôi phơi trần áo quan ra. rồi tôi nhấc tấm ván lên. Một thứ mùi ghê tởm, luồng hơi thối rữa ghê người bốc vào mặt tôi. Chao ôi ! chiếc giường của nàng, từng thơm mùi hương hoa diều!

Tuy vậy tôi vẫn mở quan tài ra, và tôi đưa cây đèn lồng thắp sáng vào bên trong rồi ngắm nhìn nàng. Gương mặt nàng xanh xao, sưng húp, khủng khiếp ! Một chất dịch đen đúa chảy ra từ miệng nàng.

“Nàng ! Đó là nàng ! Một nỗi khiếp sợ xâm chiếm tôi. Nhưng tôi vươn tay tới mái tóc nàng để kéo gương mặt kinh khủng này về phía mình !

Đến đó thì người ta bắt giữ tôi.

“Suốt đêm tôi đã giữ gìn cái mùi thối rữa nhơ nhớp của người yêu dấu, như người ta giữ gìn hương thơm của người đàn bà sau khi ôm ấp yêu đương !

“Hãy xử tôi như các ngài muốn.”

Một sự im lặng lạ lùng đè nặng trong phòng. Dường như người ta còn đợi chờ điều gì đó. Bồi thẩm đoàn lui vào để thảo luận.

Khi họ trở lại sau vài phút, bị cáo dường như chẳng lo sợ lẫn nghĩ ngợi gì.

Chủ toạ theo những thể thức thường lệ, thông báo với anh ta rằng bồi thầm đoàn tuyên vô tội.

Anh ta không phác một cử chỉ nào, còn công chúng thì vỗ tay tán thưởng.

Sau khi...

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

- Các cháu thân yêu, bà bá tước nói, phải đi ngủ thôi.

Ba đứa trẻ, trai và gái, đứng lên và tới ôm hôn bà mình.

Rồi chúng đến chào tạm biệt ông linh mục, người ăn tối ở lâu đài mọi ngày thứ năm trong tuần.

Tu viện trưởng Mauduit đang quỳ gối, luồn cánh tay dài bận đồ đen ra sau gáy bọn trẻ và kéo đầu chúng lại gần bằng một động tác ân cần, ông đặt lên trán chúng một nụ hôn dài dịu dàng.

Rồi ông đặt lại chúng trên sàn, và lũ trẻ đi ra, con trai đi trước, con gái theo sau.

“Cha yêu trẻ con, thưa cha, bà bá tước nói.

“Rất yêu, thưa bà.”

Người đàn bà già nua ngước cặp mắt sáng nhìn vị linh mục.

“Còn…nỗi cô đơn của cha chưa bao giờ quá trĩu nặng ư?

- Có chứ, đôi khi.”

Ông nín lặng, lưỡng lự rồi nói tiếp : “Nhưng tôi không được sinh ra cho đời thường.

- Sao cha biết điều đó?

- Ôi ! tôi biết lắm. Tôi được tạo ra để làm linh mục, tôi đã theo con đường của mình.”

Bà bá tước vẫn nhìn ông :

“Nào, thưa cha, hãy kể cho tôi chuyện đó, hãy nói tôi hay thế nào mà cha lại quyết định từ bỏ tất cả những gì khiến chúng tôi yêu cuộc sống, chúng tôi thì khác, với tất cả những gì làm chúng tôi khuây khỏa và che chở chúng tôi. Cái gì đã thúc đẩy cha, khiến cha quyết định cách ly mình khỏi con đường lớn, tự nhiên của hôn nhân và gia đình? Cha không phải là một người cuồng nhiệt, cuồng tín, u sầu hay buồn bã. Có phải một sự kiện, một nỗi buồn phiền đã khiến cha quyết định phát nguyện mãi mãi không?”

Tu viện trưởng Mauduit đứng lên, tới gần lò sưởi rồi hơ đôi giày cha xứ thôn quê của mình trên ngọn lửa. Ông hình như vẫn do dự trả lời.

Đó là một ông già có mái tóc bạc, người đã phụ trách giáo khu Saint-Antoine-du-Rocher từ hai chục năm nay. Dân quê nói về ông : “Ấy là một người tử tế !”

Quả thực đó là một người trung hậu, khoan dung, thân thiện, ôn hòa và trên hết là hào hiệp. Như thánh Martin, ông đã cắt tấm áo của mình làm đôi. Ông dễ cười và cũng dễ khóc vì những điều nhỏ bé, như một người phụ nữ, điều này cũng đã làm hại ông đôi chút theo đầu óc cứng cỏi của những người dân quê.

Bà bá tước Saville già nua, ẩn dật tại lâu đài của rmình ở Rocher để nuôi dạy đám cháu sau cái chết liên tiếp của con trai và con dâu, rất yêu quý ông linh mục của mình và nói về ông : “Đấy là một tấm lòng.”

Thứ năm nào ông cũng tới lâu đài chơi cả buổi tối và họ gắn bó với nhau bằng một tình bạn tốt đẹp và thẳng thắn của những người già. Gần như chỉ nửa lời họ đã hiểu nhau bởi cả hai đều có lòng nhân từ của những con người giản đơn và ôn hòa.

Bà cố nài nỉ : “Nào, thưa cha, đến lượt cha xưng tội đi.”

Ông nhắc lại : “Tôi không được sinh ra để sống cuộc sống của mọi người. May mắn thay, tôi đã nhận ra điều đó kịp thời, và tôi thường thấy rằng mình đã không lầm.”

Cha mẹ tôi, những nhà buôn hàng xén ở Verdiers và khá giàu, đã có nhiều tham vọng về tôi. Tôi được gửi ở nhà ký túc dành cho trẻ nhỏ. Người ta không biết điều gì có thể gây khổ sở cho một đứa trẻ trong trường học chỉ bởi tình trạng cách biệt và cô lập. Cuộc sống đơn điệu và không tình âu yếm đó tốt cho những người này và khó chịu cho những người khác. Những con người bé bỏng thường có trái tim nhạy cảm hơn người ta tưởng, và với việc nhốt chúng lại qua sớm, xa những gì chúng yêu mến, người ta có thể làm tính nhạy cảm tăng lên, phát triển một cách thái quá, trở thành bệnh hoạn và nguy hiểm.

Tôi ít chơi đùa, tôi không có bạn, thời giờ của tôi trôi qua với nỗi luyến tiếc ngôi nhà, ban đêm tôi khóc trong giường, tôi đào sâu trong óc để tìm lại những kỉ niệm ở nhà mình, những kỉ niệm nhỏ nhặt về những vật bé nhỏ, những sự việc nho nhỏ. Tôi không ngừng nghĩ về tất cả những gì tôi đã để lại ở đó. Tôi trở thành một kẻ cuồng nhiệt hết sức ngấm ngầm cho những bất mãn quá trớn nhất bởi những nỗi buồn khủng khiếp.

Với nó, tôi trở nên trầm mặc, không thổ lộ, không có bạn tâm tình. Việc kích động tinh thần xảy ra khó hiểu và chắn chắn. Thần kinh của những đứa trẻ biến động nhanh chóng; người ta cần phải chăm lo tới khi chúng sống trong một sự tĩnh lặng sâu xa cho tới tận lúc chúng phát triển gần như hoàn toàn. Vậy nhưng ai nghĩ rằng, với một số học sinh, một bài phạt bất công có thể là một nỗi đau cũng lớn bằng nỗi đau sau cái chết của một người bạn; vậy ai nhận thấy một cách chính xác rằng một số tâm hồn non trẻ thay vì hầu như chẳng có gì lại có những cảm xúc khủng khiếp, và đôi khi là những tâm hồn bệnh hoạn, không sao chữa khỏi?

Đó là trường hợp của tôi; tính năng luyến tiếc phát triển trong tôi theo cách mà cả cuộc sống của tôi trở thành một nỗi thống khổ.

Tôi không thổ lộ điều đó ra, tôi chẳng nói gì hết; dần dần tôi trở thành một người nhạy cảm hay đúng hơn là một người dễ mếch lòng dữ dội đến mức tâm hồn tôi giống như một vết thương gay gắt. Mọi thứ chạm vào nó đều gây ra ở đó những quằn quại đau đớn, những chấn động khủng khiếp và về sau là những tàn phá thực sự. Sung sướng thay cho những con người mà bản tính đã được làm cho dạn dày bằng sự lãnh đạm và được vũ trang bằng chủ nghĩa khắc kỉ !

Tôi đã mười sáu tuổi. Khả năng đau đớn vì mọi chuyện này gây ra cho tôi tính rụt rè quá mức. Với cảm giác chống lại mọi cuộc tấn công do tình cờ hay do số phận mà tôi để lộ ra, tôi sợ hãi mọi sự tiếp xúc, mọi sự đến gần, mọi sự kiện. Tôi sống trong sự cảnh giác như dưới một nguy cơ thường trực của một nỗi bất hạnh chưa biết tới và luôn chờ đợi. Tôi không dám cả nói năng lẫn hành động gì trước đám đông. Tôi có cảm giác rõ rệt rằng đời là một trận chiến, một cuộc đấu tranh khủng khiếp, nơi người ta nhận được những cú đánh ghê sợ, những vết thương đau đớn, chết người. Thay vì nuôi dưỡng niềm hy vọng hạnh phúc trong tương lai, như tất cả mọi người, tôi lại chỉ giữ nỗi lo sợ mơ hồ và tôi cảm thấy trong mình nỗi thèm muốn được ẩn nấp, được né tránh những cuộc chiến đấu nơi mà tôi sẽ thất bại và bị giết.

Những bài học của tôi kết thúc, người ta cho tôi nghỉ học sáu tháng để chọn một nghề nghiệp. Một sự kiện rất đơn giản đã khiến tôi đột ngột nhìn thấy bên trong mình, chỉ cho tôi tình trạng bệnh tật của tinh thần mình, khiến tôi hiểu được nỗi nguy hiểm và khiến tôi quyết định trốn chạy.

Verdiers là một thành phố nhỏ được bao bọc bởi những bình nguyên và cánh rừng. Nhà cha mẹ tôi ở phố trung tâm. Bấy giờ tôi đã qua những ngày ở xa mái nhà mà tôi đã luyến tiếc và ước ao đến thế. Có những ước mơ đã thức dậy trong tôi và tôi dạo chơi ở cánh đồng, chỉ có một mình để chúng biến tan hay tuyệt tích.

Cha và mẹ tôi, dành tất cả cho công việc kinh doanh và lo lắng cho tương lai của tôi, chỉ nói với tôi về việc buôn bán của họ hay những dự định có thể của tôi. Họ yêu tôi theo kiểu người tích cực, có tinh thần thực tiễn. Họ yêu tôi bằng lý trí hơn là bằng trái tim. Tôi sống khép kín trong những ý nghĩ của mình và run rẩy bởi mối lo âu dai dẳng.

Thế mà một buổi tối, sau một hành trình dài, tôi nhận thấy một con chó đang phóng về phía tôi, giống như tôi sải bước trở lại để không bị muộn. Đó là một con chó giống Xpanhơn màu hung, khá gầy guộc, có đôi tai dài xoăn.

Khi còn cách mười bước, nó dừng lại. Và tôi cũng làm thế. Thế là nó bắt đầu vẫy đuôi và tiến lại gần bằng những bước ngắn cùng chuyển động sợ sệt của toàn cơ thể, vừa oằn mình xuống trên những chiếc cẳng như để cầu xin tôi vừa nhè nhẹ lắc lư cái đầu. Tôi gọi nó. Thế là nó làm bộ bò tới với dáng vẻ khúm núm, buồn bã, van lơn đến nỗi tôi thấy lệ dâng trên mắt. Tôi đi về phía nó, nó chạy trốn rồi trở lại và tôi quỳ một gối xuống đất tỏ cho nó thấy sự âu yếm để dụ nó. Rốt cuộc tôi đặt tay lên nó và thật nhẹ nhàng vuốt ve nó với sự thận trọng vô cùng.

Nó mạnh dạn lên, từ từ đứng dậy, đặt chân lên vai tôi và bắt đầu liếm mặt tôi. Nó theo tôi đến tận nhà.

Đấy thật sự là con vật đầu tiên mà tôi yêu đắm đuổi bởi vì nó đáp lại tình âu yếm của tôi. Sự trìu mến tôi dành cho con vật này quả là quá đáng và nực cười. Tôi có cảm tưởng mơ hồ rằng chúng tôi là hai anh em, bị lạc trên mặt đất, cùng cô đơn và cả người nọ lẫn người kia đều không được bênh vực. Nó chẳng rời tôi nữa, ngủ ở chân giường tôi, ăn ở bàn mặc dù bố mẹ tôi không hài lòng và nó theo tôi trên những hành trình cô độc của tôi.

Tôi thường dừng lại bên bờ một con mương và ngồi trong đám cỏ. Sam chạy ào tới ngay, nằm xuống bên tôi hoặc là trên đầu gối tôi và nó dùng mõm nâng bàn tay tôi lên để được vuốt ve.

Một ngày, khoảng cuối tháng sáu, bởi vì chúng tôi đang trên đường Saint-Pierre-de-Chavrol, tôi nhận thấy một chiếc xe ngựa chở khách từ Ravereau đi tới. Nó phóng theo nhịp nước đại của bốn con ngựa, cùng thùng xe sơn vàng và cái nóc bằng da màu đen đội trên tầng thượng của xe. Người đánh xe đập roi đôm đốp; một đám bụi cuộn lên dưới những chiếc bánh xe nặng nề rồi lơ lửng phía sau như kiểu một đám mây.

Và đột nhiên, giữa lúc xe đến chỗ tôi, Sam có lẽ khiếp sợ bởi tiểng động và muốn bắt kịp tôi, đã xông lên trước xe. Chân của một con ngựa hất nó lộn nhào, tôi thấy nó lăn đi, quay cuồng, lại đứng lên ,lại ngã xuống dưới mọi cái chân đó, rồi cả cái xe lắc mạnh hai lần và tôi nhận thấy đằng sau xe, trong đám bụi, có cái gì đó động đậy trên đường. Nó gần như bị cắt làm đôi, mọi nội tạng từ cái bụng bị xé nát của nó thõng thượt, bật ra ngoài cùng với đám bọt máu. Nó cố gắng đứng lên, bước đi, song hai chân trước chỉ có thể cào và xới đất như để đào một cái hố; hai chân kia thì đã chết rồi. Và nó tru lên khủng khiếp, điên dại bởi đau đớn.

Sau vài phút thì nó chết. Tôi chỉ có thể biểu lộ những gì tôi cảm thấy cùng mức độ đau lòng của mình. Tôi ở lì tại phòng trong một tháng.

Thế mà, một buổi tối, cha tôi giận điên người vì trông thấy tôi trong tình trạng hiếm gặp đó, kêu lên : “Vậy sẽ ra sao khi con có những nỗi buồn thực sự, nếu con bị mất đi vợ mình, các con mình ! Người ta không phải là con vật ở điểm đấy !”

Lời nói này, ngay từ đó lưu lại mãi trong đầu tôi, ám ảnh tôi : “Vậy sẽ ra sao khi con có những nỗi buồn thực sự, nếu con bị mất đi vợ mình, các con mình !”

Và tôi bắt đầu thấy rõ trong bản thân mình. Tôi hiểu tại sao mọi nỗi khổ sở nhỏ mọn hàng ngày qua mắt tôi lại có tầm quan trọng của thảm họa. Tôi nhận thấy rằng mình được sắp đặt để chịu đựng một cách khủng khiếp tất thảy, để thu nhận mọi ấn tượng đau đớn và nhân chúng lên bằng tính nhạy cảm bệnh hoạn của mình và một nỗi lo sợ ghê gớm về cuộc đời xâm chiếm lấy tôi.

Tôi không đam mê, không tham vọng; tôi quyết định hi sinh những niềm vui có thể có để tránh né những đau đớn chắc chắn có. Cuộc đời ngắn ngủi, tôi đã dùng nó để phục vụ những người khác, để an ủi những nỗi đau khổ của họ và hưởng hạnh phúc của họ như tôi tự nhủ. Vì không trải nghiệm trực tiếp cả những cái nọ lẫn những cái kia, tôi chỉ thu nhận được những cảm xúc yếu ớt.

Và giá như bà biết rằng tuy nỗi khổ sở giằn vặt tôi, hành hạ tôi ! Song điều đã là nỗi đau đớn không chịu nổi với tôi đã trở thành lòng trắc ẩn, lòng thương hại.

Tôi đã không chống đỡ được việc những buồn phiền mà tôi gặp phải thường xuyên đổ ập xuống trái tim tôi. Tôi sẽ không thể thấy một đứa trong lũ con mình chết đi mà bản thân mình không chết đi. Và dù sao tôi vẫn giữ một nỗi lo sợ khó hiểu và thấm thía về những sự kiện đến nỗi cách nhìn nhận về những yếu tố xâm nhập vào tôi khiến một cơn run rẩy truyền qua huyết mạch của tôi hàng ngày, ấy thế mà giờ đây tôi không có gì phải sợ nữa.

Tu viện trưởng Mauduit nín lặng. Ông nhìn ngọn lửa trong cái lò sưởi lớn như để thấy ở đó những điều huyền bí, thấy mọi cái chưa biết của cuộc đời mà ông đã có thể sống nếu ông gan dạ hơn trước nỗi đau khổ. Ông nói tiếp bằng một giọng trầm hơn :

“Tôi đã có lý. Tôi đã không được tạo ra cho thế giới này.”

Bà bá tước chẳng nói gì; cuối cùng, sau một hồi lâu im lặng, bà tuyên bố :

“Còn tôi, nếu tôi không có các cháu, tôi tin là mình không còn can đảm để sống nữa.”

Và ông linh mục đứng lên không nói thêm lời nào

Bởi vì bọn đầy tớ thiu thiu ngủ trong bếp, tự bà dẫn ông tới tận cửa trông ra vườn, và bà nhìn cái bóng lớn, chậm rãi, phản chiếu ánh đèn của ông chìm vào đêm tối.

Rồi bà trở lại ngồi trước lò sưởi của mình và nghĩ đến nhiều điều mà người ta chẳng hề nghĩ khi người ta còn trẻ.

Sự tha thứ

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Nàng lớn lên từ một trong những gia đình sống khép mình, và dường như luôn xa lánh tất cả. Họ không biết tới các biến cố chính trị, dù là những việc đang được người ta bàn tán hay là những thay đổi của thể chế chính trị đã xảy ra rất lâu, lâu đến nỗi người ta nói về chúng như nói về một sự kiện lịch sử, như về cái chết của vua Louis XVI hay như việc hạ bệ Napoléon.

Người ta ít nhận thấy những thói quen thay đổi, những mẫu mốt nối tiếp nhau trong một gia đình bình lặng luôn tuân theo tập quán truyền thống. Và nếu có chuyện khiếm nhã nào xảy ra trong vùng, vụ sì căng đan sẽ tan biến ngay ở ngưỡng cửa ngôi nhà. Một buổi chiều, chỉ có người bố và người mẹ trao đổi với nhau vài lời sau đây, nhưng khe khẽ, bởi vì khắp nơi các bức tường đều có tai.

Người bố nói một cách kín đáo :

- Em đã biết chuyện kinh khủng này ở nhà Rivoil chưa ?

Và người mẹ trả lời :

- Ai mà tin được chuyện ấy chứ ? Thật kinh tởm.

Những đứa con chẳng nghi ngờ gì và tới phiên chúng đến tuổi vào đời với một cái băng bịt mắt và bịt cả tư duy, chẳng nghi ngờ những mặt trái của cuộc đời, chẳng biết rằng người ta nghĩ không như người ta nói, và người ta chẳng hề nói như người ta làm, chẳng biết rằng phải sống trong cuộc chiến đấu với cả thế giới, hay ít ra là trong hoà bình có vũ trang, chẳng đoán ra rằng người ta không ngừng bị lừa gạt lúc ngây thơ, bị đùa cợt khi chân thành, bị xử tệ khi người ta tốt bụng.

Một số, cho tới tận lúc chết, vẫn sẽ mù quáng mà ngay thẳng, thật thà, trọng danh dự ; tuyệt đối trung thực tới mức không gì có thể mở mắt họ được.

Số khác, đã tỉnh ngộ mà không lĩnh hội rõ ràng, vấp váp cuống cuồng, tuyệt vọng và chết trong ý nghĩ tự cho mình là đồ chơi của một định mệnh đặc biệt, là nạn nhân khốn khổ của một biến cố bi thảm và những tên tội phạm đặc biệt.

Nhà Savignol gả cô con gái Berthe của họ ở tuổi mười tám. Nàng cưới một chàng trai trẻ Paris, Georges Baron, người có mối làm ăn ở Bourse. Đó là một anh chàng điển trai, ăn nói giỏi, với mọi vẻ trung thực bề ngoài cần phải có ; nhưng ở tận đáy lòng, anh chàng hơi khinh thường bố mẹ vợ lạc hậu của mình, những người mà giữa đám bạn bè anh gọi là : “những người cổ hủ yêu quý của tôi”.

Anh chàng xuất thân từ một gia đình tốt ; còn nàng thì giàu có. Anh mang nàng về sống ở Paris.

Nàng trở thành một trong những người tỉnh lẻ ở Paris mà loại này đầy rẫy. Nàng vẫn không hay biết gì về thành phố lớn, về giới thanh lịch và những thú vui, thói quen của nó như từng không hay biết gì về cuộc đời cùng những phản trắc và những điều bí mật.

Sống khép mình trong công việc nội trợ, nàng không biết nhiều về con phố mình ở, và khi nàng mạo hiểm ở một khu phố khác, dường như nàng đã thực hiện trọn vẹn một chuyến du lịch xa xôi tại một thành phố vô danh và lạ lẫm. Một chiều kia, nàng nói :

- Hôm nay, em đã băng qua những đại lộ cơ đấy.

Hai hay ba lần một năm, chồng nàng dẫn nàng tới nhà hát. Đó là những lễ hội còn chưa phai mờ trong ký ức và được nhắc lại không ngừng.

Ba tháng sau, thỉnh thoảng ở bên bàn, nàng bỗng bật cười và kêu to :

- Anh có còn nhớ cái ông diễn viên vận trang phục tướng và bắt chước tiếng gà trống gáy không ?

Mọi mối quan hệ của nàng giới hạn trong hai gia đình thông gia mà với nàng là đại diện cho nhân loại. Nàng dùng từ “nhà” ở trước họ tên của chúng để phân biệt - nhà Martinet và nhà Michelint.

Chồng nàng sống theo sở thích, về nhà lúc nào muốn, đôi khi vào lúc bình minh, viện cớ là vì công việc, không hề bị làm phiền nhiễu, tin chắc là chẳng bao giờ một nghi ngờ nào lại nảy sinh trong tâm hồn trong trắng này. Nhưng một buổi sáng, nàng nhận được một lá thư nặc danh. Nàng chỉ biết cuống quýt lên, bởi tấm lòng quá ngay thẳng để hiểu được cái bỉ ổi của điều tố giác, để khinh thường cái thư mà tác giả của nó nói là xuất phát từ sự quan tâm đến hạnh phúc của nàng, lòng căm ghét cái xấu xa cùng tình yêu sự thật.

Người ta thức tỉnh nàng rằng từ hai năm nay, chồng nàng có một nhân tình, là bà Rosset, một goá phụ trẻ, người mà mọi buổi tối anh chàng đều tới nhà.

Nàng không biết cách vờ vịt, giấu giếm, rình mò hay dùng mưu mẹo. Khi anh chàng về ăn tối, nàng nức nở quẳng lá thư cho anh ta và trốn về phòng mình.

Anh chàng có thì giờ để hiểu, để chuẩn bị câu trả lời rồi tới gõ cửa phòng vợ. Nàng mở ra ngay, không dám nhìn anh ta. Anh ta mỉm cười, ngồi xuống, kéo nàng ngồi vào lòng mình, và nói bằng giọng êm ái, hơi giễu cợt :

- Em bé bỏng yêu quý của anh, quả là anh có quan hệ bạn bè với bà Rosset quen biết đã mười năm rồi và là người anh rất quý mến. Anh nói thêm rằng anh quen biết hai mươi gia đình khác mà anh chưa hề nói với em, bởi anh biết rằng em chẳng tìm kiếm thiên hạ, hội hè và những mối quan hệ mới. Nhưng để kết thúc một lần cho xong mọi sự tố giác bỉ ổi này, anh xin em hãy đóng bộ vào sau bữa tối rồi chúng ta sẽ tới thăm thiếu phụ này, người mà anh chắc chắn sẽ trở thành bạn em.

Nàng ôm choàng lấy chồng, và bởi một trong những đặc tính tò mò của đàn bà chẳng bớt hơn khi tỉnh táo, nàng không hề từ chối tới thăm người đàn bà xa lạ này dù vẫn còn đôi chút nghi ngờ. Theo bản năng, nàng cảm thấy gần như phải tránh né một mối hiểm nguy lạ lẫm.

Nàng bước vào một căn hộ nhỏ xinh xắn, đầy đồ mỹ nghệ, được trang hoàng một cách nghệ thuật, ở tầng tư một toà nhà đẹp. Sau năm phút chờ ở một phòng khách che tối bằng những bức trướng, rèm cửa, màn xếp nếp duyên dáng, cánh cửa mở ra và một thiếu phụ xuất hiện, mái tóc nâu sẫm, nhỏ nhắn, hơi mập, ngạc nhiên và tươi cười.

Georges giới thiệu họ :

- Vợ tôi, bà Julie Rosset.

Goá phụ trẻ thốt lên một tiếng ngạc nhiên và vui sướng, rồi tiến lên, chìa hai bàn tay. Bà chẳng hề mong đợi có được niềm hạnh phúc này, bà nói, vì biết rằng phu nhân Baron chẳng gặp gỡ ai cả. Nhưng bà rất sung sướng, rất sung sướng ! Bà đã quý mến Georges đến thế ! (bà gọi cái tên Georges thật cộc lốc theo lối gia đình thân mật) và rằng bà thèm muốn phát điên được quen biết người vợ trẻ mà bà cũng yêu quý.

Tới cuối tháng thì hai người bạn mới chẳng rời nhau ra nữa. Hàng ngày họ tới thăm nhau, thường là hai lần và luôn ăn tối cùng nhau, khi ở nhà người này, khi ở nhà người kia. Bây giờ, Georges không còn ra ngoài nhiều, không còn viện cớ công việc, ưa thích cái góc lò sưởi của mình, anh ta bảo vậy. Cuối cùng họ tìm thấy một căn hộ còn bỏ trống trong toà nhà bà Rosset ở, bà Baron sốt sắng thuê nó để được gần gũi và họp mặt tiện lợi hơn.

Và trong suốt hai năm trời, đó là một tình bạn không gợn một chút mây mù, một tình bạn hoàn toàn xuất phát từ trái tim và tâm hồn, tận tâm, thắm thiết, tuyệt vời. Berthe không còn có thể nói mà không nhắc đến cái tên Julie mà với nàng là đại diện cho sự hoàn hảo.

Nàng sung sướng với một niềm hạnh phúc trọn vẹn, yên bình và êm ái.

Nhưng rồi bà Rosset đổ bệnh. Berthe không rời bà nữa. Nàng trải qua những đêm đau buồn, chính chồng nàng cũng tuyệt vọng.

Thế rồi, một buổi sáng, Georges cùng vợ đón vị bác sĩ khi ông này bước ra từ phòng bệnh, ông thông báo rằng ông thấy người bạn của họ đang ở tình trạng vô cùng nghiêm trọng.

Ngay khi ông đi khỏi, những người trẻ tuổi rụng rời ngồi đối mặt với nhau rồi đột nhiên bật khóc. Ban đêm, cả hai cùng thức bên giường bệnh ; Berthe lúc nào cũng ôm người ốm một cách dịu dàng trong lúc Georges đứng ở cuối giường lặng lẽ nhìn ngắm đăm đăm kiên nhẫn.

Hôm sau, người bệnh còn ốm hơn nữa. Cuối cùng, vào khoảng buổi chiều, bà nói là đã cảm thấy khá hơn và ép buộc những người bạn của mình xuống nhà họ ăn tối.

Họ đang buồn bã ngồi trong phòng mình mà chẳng ăn uống gì nhiều lúc người hầu gái giao cho Georges một phong bì. Anh ta mở ra, đọc, tái mét đi, đứng lên nói với vợ vẻ lạ thường : “Đợi anh nhé, anh cần vắng mặt một lúc, anh sẽ trở lại trong mười phút. Nhất là đừng có ra ngoài đấy.” Và anh ta chạy vào phòng mình lấy mũ.

Berthe đợi anh ta, khổ sở bởi nỗi lo lắng mới. Nhưng vâng lời nhất nhất, nàng không hề muốn trở lên chỗ bạn mình trước khi anh ta về.

Khi không thấy anh ta xuất hiện lại, nàng nghĩ là nên vào phòng mình xem anh ta có mang theo găng tay không, điều này chỉ ra nơi anh ta phải tới.

Nàng nhìn thấy đôi găng tay trong chớp mắt. Gần chúng là một tờ giấy nhàu nát bị quăng ở đó. Nàng mau chóng nhận ra chính là thứ mà người ta vừa giao cho Georges.

Và một sự cám dỗ cháy bỏng, lần đầu tiên trong đời, xúi nàng phải đọc cho biết. Lương tâm nàng nổi dậy đấu tranh, song sự thèm muốn do tính tò mò quay cuồng và đau đớn đã thúc đẩy bàn tay. Nàng chộp lấy tờ giấy, mở ra và nhận ngay ra lối viết của Julie, một lối viết run rẩy, bằng bút chì. Bà ta viết : “Hãy đến một mình để ôm hôn em đi, người bạn đáng thương của em. Em sắp chết rồi.”

Lúc đầu, nàng không hiểu, vẫn còn ngơ ngẩn, toàn thân lạnh toát bởi ý nghĩ về cái chết. Rồi đột nhiên một sự dày vò chộp lấy ý nghĩ của nàng ; nó tựa như một ánh chớp lớn soi rọi cuộc đời nàng, chỉ cho nàng thấy toàn bộ sự thực bỉ ổi, mọi bội bạc và lòng nham hiểm của họ. Nàng hiểu ra cái ngón xảo trá kéo dài của họ, ánh mắt của họ, thiện ý của nàng bị đùa cợt, sự tin cậy bị lừa gạt. Nàng nhớ lại cảnh họ đối diện nhau dưới cái chao đèn của nàng, cùng đọc một cuốn sách, đưa mắt hỏi nhau ở cuối mỗi trang.

Và lòng nàng nổi cơn phẫn nộ, bầm dập đớn đau, sa vào một nỗi thất vọng vô bờ bến.

Có tiếng bước chân trở lại ; nàng lánh đi và đóng cửa phòng mình.

Chồng nàng gọi nàng ngay.

- Đến mau lên, bà Rosset sắp chết rồi.

Berthe xuất hiện ở cửa, môi run run

- Anh hãy trở lại một mình với bà ấy, bà ấy không cần tôi đâu.

Anh ta nhìn nàng ngây dại, ngây dại bởi nỗi buồn, và nhắc lại :

- Nhanh, nhanh lên, bà ấy đang chết.

Berthe trả lời

- Anh đã yêu bà ấy hơn là tôi :

Vậy là anh ta hiểu ra, có lẽ thế. Và bỏ đi, đến bên người hấp hối.

Anh ta khóc thương bà không hề giả dối và ngượng ngùng, dửng dưng trước nỗi đau của vợ mình, người không còn nói và nhìn anh ta, sống cô đơn, khép mình trong nỗi kinh tởm, trong cơn tức tối và sớm hôm cầu Chúa.

Tuy thế họ vẫn sống cùng nhau, đối mặt nhau khi dùng bữa, lặng câm và tuyệt vọng.

Rồi dần dần anh ta nguôi ngoai, nhưng nàng chẳng hề tha thứ cho anh ta.

Và cuộc sống của cả hai cứ tiếp diễn. Người nọ đối xử với người kia xa lạ như thể không quen biết. Berthe suýt nữa phát điên.

Rồi một buổi sáng ra ngoài ngay từ rạng đông, nàng trở về lúc khoảng tám giờ, tay mang một bó lớn hoa hồng, toàn là hoa hồng bạch.

Và nàng nói với chồng những lời dự tính từ trước, làm anh ta lo lắng, luống cuống :

- Chúng ta hãy cùng đi, nàng nói, cầm lấy hoa này, chúng quá nặng với tôi.

Anh ta cầm bó hoa và đi theo vợ. Một chiếc xe chờ họ khởi hành ngay khi họ lên xe.

Nàng dừng lại trước lưới sắt rào một nghĩa trang. Rồi Berthe, mắt đầy lệ, nói với Georges

- Dẫn tôi đến mộ bà ấy.

Anh ta run run không hiểu, và bắt đầu bước đi trước, tay luôn ôm hoa. Cuối cùng anh ta dừng lại trước một phiến đá trắng và ra hiệu cho nàng mà không nói gì cả. Thế là nàng lấy lại bó hoa, quỳ xuống, đặt nó lên chân ngôi mộ. Rồi nàng một mình khấn khứa lạ lùng và van vỉ !

Đứng đằng sau nàng, bị ám ảnh bới những kỷ niệm, chồng nàng than khóc.

Nàng đứng lên, chìa bàn tay cho anh ta, nói :

- Nếu anh muốn, chúng ta sẽ là bạn.

Tình yêu

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Tôi vừa đọc trong mục tin vặt trên báo một bi kịch của tình yêu say đắm, Chàng yêu nàng vậy mà lại giết nàng rồi tự sát. Chàng và nàng thì có quan trọng gì chứ ? Chỉ tình yêu của họ đáng làm tôi quan tâm ; và điều đó chẳng hề làm tôi hứng thú nếu chỉ vì khiến tôi mủi lòng hay ngạc nhiên, hoặc vì khiến tôi xúc động hay suy nghĩ, nhưng là bởi nó làm tôi nhớ lại một kỉ niệm trong thời trẻ của mình, một kỉ niệm lạ lùng về chuyến đi săn mà tình yêu đã hiển hiện với tôi như những cây thập tự hiển hiện giữa trời với những tín đồ Công giáo đầu tiên.

Tôi sinh ra với mọi bản năng và cảm xúc của người sơ khai, được tiết chế bởi những luân lý và cảm xúc của người văn minh. Tôi yêu thích săn bắn đến độ đam mê. Cảnh tượng con vật chảy máu, máu dây trên bộ lông vũ, máu trên tay tôi làm tim tôi đập rộn ràng ngây ngất.

Năm đó, vào độ cuối thu. Không khí lạnh đột ngột tràn về và Karl de Rauville, một trong những người anh họ của tôi, gọi tôi tới để cùng anh săn vịt trong đầm lấy vào lúc bình minh. Anh họ tôi, hoạt bát ở tuổi bốn mươi, đỏ đắn, mạnh khoẻ, râu rậm, một quý tộc của thôn quê, đáng yêu pha chút thô bạo, tính khí vui nhộn thiên bẩm của người Gô-loa khiến vẻ tầm thường hoá thành dễ mến, sống trong một kiểu lâu đài khép kín ở một thung lũng có sông chảy qua. Trong những khu rừng già của điền chủ bao phủ những ngọn đồi hai bên tả hữu vẫn còn lại những cái cây tuyệt đẹp nơi chim chóc hiếm thấy nhất vùng này của nước Pháp.

Ở đấy đôi khi người ta giết được cả đại bàng. Những con chim di cư, những con mà hầu như chẳng bao giờ đến những xứ sở đông người của chúng ta, đậu lại gần như cố định trên những cành cây già cỗi cứ như thể chúng đã quen thuộc hoặc nhận ra một góc rừng từ thời xưa đã có ở đó để dọn sẵn cho chúng chỗ trú ngụ trong khoảng thời gian nghỉ đêm ngắn ngủi.

Trong thung lũng là một đồng cỏ lớn được tưới tiêu bằng những mương nước và được những hàng rào phân cách ; Rồi xa hơn là con sông, dồn nước về và tràn vào một đầm lầy lớn. Cái đầm lầy này, vùng săn tuyệt diệu nhất mà tôi từng thấy, là tất cả những mối âu lo của anh họ tôi, người đã khoanh vùng nó như một bãi nuôi. Băng qua một đám lau sậy lớn rì rào, xao động, bao phủ đầm lầy, mang lại sinh khí cho nó , người ta đã vạch ra những con đường hẹp mà thuyền dẹt dẫn lái bằng sào lặng trôi trên mặt nước yên tĩnh, lướt qua những đám song mây, khiến lũ cá trốn nhanh qua đám cỏ và lũ gà rừng rúc cái đầu đen và nhọn đột nhiên lủi mất.

Tôi yêu thích nước bằng sự đam mê vô lối : biển cả dẫu rằng quá lớn, quá sôi động và không thể sở hữu ; những con sông thật đẹp nhưng chảy trôi đi mất, và nhất là những đầm lầy nhộn nhịp vì sự hiện hữu của tất thảy những loài thuỷ cư vô danh. Đầm lầy, đó là một thế giới trọn vẹn trên mặt đất, một thế giới khác lạ, có cuộc sống riêng, dân định cư và du khách ngang qua, có tiếng nói, âm thanh và những bí mật ở khắp mọi nơi. Đôi khi chẳng có gì rối loạn, đáng lo ngại và khủng khiếp hơn một đầm lầy. Sao mà nỗi lo sợ này lại bay lượn trên những đồng cỏ trũng ngập nước ? Có phải là bởi những làn sóng rì rầm của lau sậy, những đốm lửa ma trơi lạ lùng, sự im lặng thẳm sâu bao trùm trong một đêm yên ắng, hoặc giả đám sương mù kỳ cục kéo trên những thân song mây như những tấm áo váy của người chết, hay còn là tiếng tắc lưỡi khó nhận thấy, thật nhẹ, thật êm hoặc đôi khi kinh dị hơn là tiếng súng của người hay tiếng sấm trời làm cho đầm lầy tựa như những xứ sở mộng mơ, những xứ sở nguy hiểm đang che dấu một bí mật không sao hiểu nổi và nguy hại. Không phải, một bí mật nổi trội hơn, một bí mật sâu sắc hơn, nặng nề hơn, bồng bềnh trong sương mù dày đặc, bí mật có lẽ cũng như sự sáng tạo vậy ! Chẳng lẽ không phải vì chính trong nước tù đọng và bùn lầy, trong hơi ẩm nặng nề của đất ướt, dưới sức nóng của mặt trời mà mầm sống đầu tiên đã xao động, rung rinh, ló mình ra ánh sáng hay sao ?

Tôi đến nhà anh họ vào buổi tối, Trời giá lạnh đến đá cũng phải nẻ.

Trong bữa tối ở căn phòng lớn mà bàn tủ, những bức tường và trần nhà được phủ đầy những con chim hoang, với đôi cánh trải rộng hoặc treo trên những nhánh móc bằng đinh, những con diều hâu, diệc, cú vọ, cú muỗi, chim ưng, chim diều mốc, kền kền, chim cắt, anh họ tôi trông như một con vật lạ lùng của xứ lạnh, mặc một áo giắc-két bằng da hải cẩu, đã kể cho tôi cách thức mà anh nắm bắt được cho một đêm như thế này. Chúng tôi phải khởi hành lúc 3h30 sáng để vào khoảng 4h30 đến được địa điểm chúng tôi đã chọn mai phục. Người ta đã cất ở chỗ đó một căn lều bằng những phiến băng để chúng tôi trú ngụ chốc lát chống lại thứ gió khủng khiếp đã tràn về trước một ngày. Gió này mang theo giá lạnh xé da thịt như lưỡi cưa, cắt như dao, châm như ngòi chích tẩm độc, vặn xoắn như kìm và rát như lửa. Anh họ tôi xát hai bàn tay vào nhau và nói : “ Anh chưa từng thấy một mùa đông nào lạnh đến thế, lúc 6h chiều, đã là 12 độ âm rồi.” Tôi quăng mình lên giường ngay sau bữa ăn và ngủ trong ánh sáng bập bùng của một ngọn lửa lớn đang cháy trong lò sưởi của mình.

Khi đồng hồ điểm 3h, tôi được đánh thức dậy, Tôi khoác lên người một tấm da cừu và thấy anh họ Karl của mình mặc một áo lông gấu. Mỗi người sau khi uống hai tách cà phê nóng uống tiếp hai cốc sâm-panh hảo hạng. Chúng tôi khởi hành cùng với một người hầu cận và hai con chó của chúng tôi là Plongeon và Pierrot.

Ngay những bước đầu tiên ở ngoài trời, tôi đã cảm thấy giá lạnh đến tận xương tuỷ. Đó là một trong những đêm mà mặt đất dường như chết cóng. Không khí đóng băng thành cứng nhắc, có thể rờ được đến là đau ; không một luồng khí nào lay động ; trời đông cứng, bất động. Nó gặm nhấm, xuyên qua, làm tê liệt, giết chết cây cỏ, côn trùng. cả những con chim nhỏ rơi từ cành cây xuống đất cứng cũng bị cứng lại như thế, dưới sự ghì siết của cái lạnh.

Trăng hạ tuần chếch hẳn về một mé, thật nhợt nhạt, lộ ra vẻ yếu ớt giữa không trung, yếu đến nỗi nó không thể lặn đi được nữa, và cứ ở lại trên cao đó, bị bầu trời khắc nghiệt tóm được và làm tê cóng. Nó trải một thứ ánh sáng lạnh lùng và buồn bã xuống trần gian, ánh sáng mờ mờ nhợt nhạt sắp lụi tàn này phát ra vào cuối chu kỳ trăng mỗi tháng.

Karl và tôi đi kề vai, lưng khom xuống, bàn tay đút túi và súng kẹp dưới cánh tay. Giày chúng tôi được bọc len để có thể bước trên sông băng tránh trơn trượt và không gây tiếng động ; Chúng tôi hút thuốc chốc lát trên bờ đầm rồi đi vào một trong những con đường đầy lau sậy khô dẫn qua cánh rừng thấp.

Khuỷu tay chúng tôi sượt qua những dải là dài, để lại phía sau tiếng động nhè nhẹ. Tôi cảm giác mình bị chộp lấy, như chưa hề cảm thấy trước đấy, bởi một xúc cảm mãnh liệt và kỳ cục mà những đầm lầy làm nảy sinh trong tôi. Nó đã chết, chính cái đầm lầy ấy, chết vì giá lạnh bởi vì chúng tôi đang bước giữa những đám song mây khô khốc của nó.

Đột nhiên, ở khúc ngoặt của con đường, tôi nhận ra một cái lều băng mà người ta đã dựng cho chúng tôi dùng trú ẩn. Tôi vào đó và vì chúng tôi vẫn còn gần một giờ để chờ những con chim lang thang thức dậy, tôi cuộn mình trong tấm chăn cố thử sưởi ấm.

Và rồi, nằm ngửa ra, tôi bắt đầu ngắm nghía mặt trăng biến dạng. Nó có bốn cái sừng yếu ớt xuyên qua bức vách trong của ngôi nhà băng này.

Nhưng cái giá lạnh của đầm lầy đông cứng, cái lạnh của những bức tường dày này, cái lạnh từ trời dổ xuống đã sớm xuyên thấu tôi một cách khủng khiếp khiến tôi bắt đầu ho.

Anh họ tôi lo lắng bảo : “ Nếu hôm nay chúng ta không săn được con gì lớn thì cũng chẳng sao, anh không muốn chú bị cảm lạnh, chúng ta sẽ đốt lửa.” Và anh ra lệnh cho người cận vệ cắt lau sậy.

Người ta đánh một đống lau sậy lớn giữa lều khơi thông ở đỉnh để khói thoát được ; Lúc ngọn lửa đỏ cháy lên dọc theo những vách ngăn bằng tinh thể trong suốt, nó phản chiếu lại và ngay sau khi những phiến băng đổ mồ hôi, chúng tan chảy một cách nhẹ nhàng. Karl vẫn còn ở bên ngoài gọi tôi :” Lại đây mà xem này.”

Tôi bước ra và ngạc nhiên tột độ. Túp lều của chúng tôi ở dạng hình nón, có dáng vẻ của một quái vật bằng kim cương, từ lòng nó ngọn lửa đột ngột phụt lên mặt nước đóng băng của đầm lầy. Và ở bên trong, thấy hai bóng hình mờ ảo, đó là hình dáng lũ chó của chúng tôi đang sưởi ấm.

Nhưng một tiếng kêu lạ lùng, tuyệt vọng, phiêu diêu vọng qua đầu chúng tôi. Ánh sáng mờ mờ của lửa sưởi đã đánh thức lũ chim hoang dã.

Chẳng có gì làm tôi xúc động như âm thanh khởi đầu này của sự sống không hề nhìn thấy, vọng trong không khí u buồn, thật chóng vánh, thật xa xăm, trước khi tia sáng đầu tiên của một ngày mùa đông xuất hiện ở đường chân trời. Trong giờ phút giá lạnh này của bình minh, đối với tôi, dường như tiếng kêu trốn chạy cất lên bởi con vật có lông vũ ấy là một tiếng thở dài của linh hồn người !

Karl bảo : “Dập lửa đi, rạng đông rồi.”

Trời quả thực bắt đầu chuyển màu xanh tái và lũ vịt kéo nhau lướt nhanh thành những vệt dài trên bầu trời và nhoà đi nhanh chóng.

Một tia sáng mờ mờ loé lên trong đêm tối, Karl vừa mới bắn, hai con chó đã phóng lên.

Thế rồi, từ phút này sang phút khác, khi thì anh ấy, khi thì tôi, chúng tôi nhanh nhẹn ngắm bắn ngay khi có bóng dáng một đàn đang bay hiện ra trên đám lau sậy.

Còn Pierrot và Plongeon thì thở dốc, mừng rỡ. Chúng tôi thu về những con chim vấy máu mà con mắt đôi khi vẫn còn nhìn chúng tôi.

Trời đã sáng, một ngày xanh trong ; mặt trời hiện ra trên thung lũng và chúng tôi nghĩ đến việc quay về. Khi có hai con chim vươn thẳng cổ và dang cánh bất ngờ lướt nhanh trên đầu chúng tôi, tôi kéo cò. Một con rớt xuống gần chân tôi. Đó là một con le le bạc bụng. Thế rồi có một tiếng, một tiếng chim kêu thét trong không trung phía trên tôi.

Đó là một lời thở than ngắn ngủi, lặp lại, não lòng. Con chim, con chim còn lại bắt đầu vừa lượn tròn trên nền trời xanh phía trên chúng tôi vừa nhìn cô bạn đã chết của nó đang nằm trong tay tôi.

Karl quỳ gối, súng đặt trên vài, mắt háo hức, rình và đợi cho nó đến đủ gần

-Chú đã giết con mái, anh nói, con đực sẽ không bay đi nữa đâu.

Quả thực, nó không hề bay đi, nó luôn vòng lại và than khóc xung quanh chúng tôi.

Chưa có tiếng rên rỉ đau đớn nào lại làm tôi não lòng như tiếng kêu đau buồn, như lời oán trách thảm thương của con vật tuyệt vọng tội nghiệp này trong không trung.

Đôi khi, nó trốn khỏi tầm đe doạ của cây súng hướng theo đường bay của nó ; nó dường như chuẩn bị tiếp tục hành trình của mình, hết sức cô đơn ngang qua bầu trời. Nhưng rồi không thể quyết định được, nó lại sớm quay về tìm con mái của mình.

“Hãy để bạn nó trên mặt đất, Karl nói, lát nữa nó sẽ quay lại đấy.”

Quả thực, nó bay lại gần, chẳng nghĩ gì đến hiểm nguy, hoảng hốt vì tình yêu ngốc nghếch của mình, để tìm con chim mà tôi đã giết.

Karl bắn, giống như thể người ta cắt sợi dây treo giữ con chim. Tôi thấy một vật đen rớt xuống và nghe một tiếng rơi trong đám lau sậy. Pierrot mang nó lại cho tôi.

Tôi để chúng, đã giá lạnh, trong cùng một túi săn... và khởi hành về Paris ngay hôm ấy.

Tombouctou

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê ngọc Anh dịch

Đại lộ, cái dòng đời ấy, chật ních trong đám bụi vàng của ánh chiều tà. Cả bầu trời đỏ rực, chói lòa ; và phía sau nhà Madeleine, một đám mây lớn sáng rực đổ suốt dọc đại lộ một trận mưa xiên màu lửa, rung rinh như đám khí bốc lên từ bếp lò. Đám đông vui vẻ, hồi hộp, đi dưới đám mây mù bừng cháy này và dường như đang tột cùng phấn khích. Những gương mặt nhuốm vàng, những chiếc mũ đen và những trang phục ánh lên màu tía ; lớp xi bóng của những đôi giày hắt ánh lửa lên lớp nhựa đường trải vỉa hè.

Trước những quán cà phê, một đám người đang uống những thứ đồ uống óng ánh sắc màu như thể trong cốc pha lê có hòa tan đá quý.

Giữa những thực khách trang phục nhẹ nhàng sẫm màu nhất, hai sĩ quan cao cấp thu hút mọi ánh mắt thán phục bởi sự bóng bẩy của mình. Họ chuyện gẫu vui vẻ, trong niềm vẻ vang của cuộc đời và trong ánh chiều rạng rỡ tỏa lan ; họ nhìn ngắm đám đông, những người đàn ông chậm rãi và những người đàn bà hối hả để lại phía sau một mùi hương tuyệt trần và khêu gợi.

Đột nhiên, một gã da đen to lớn, bụng phệ, bận đồ đen, đeo trang sức lòe loẹt trên cái áo gi-lê may bằng vải chéo, gương mặt bóng nhoáng như được quang dầu bỗng đi qua trước họ với vẻ hoan hỉ. Gã cười với những người qua đường, gã cười với những người bán báo, gã cười với bầu trời rực rỡ, gã cười với cả Paris. Gã cao lớn đến nỗi nhô lên trên mọi cái đầu khác ; và đằng sau gã, tất cả những kẻ hiếu kì quay lại để ngắm nghía gã từ phía lưng.

Nhưng thình lình, gã nhận ra hai sĩ quan, gã vừa hất nhào những khách đang giải khát vừa xông đến. Rồi thì gã đã ở trước bàn của họ, gã chòng chọc nhìn họ bằng đôi mắt sáng bừng và vui sướng, khóe miệng gã ngoác đến tận mang tai để lộ ra hàm răng trắng, sáng loáng như mảnh trăng lưỡi liềm trên bầu trời đêm. Hai người đàn ông sửng sốt, ngắm nghía người khổng lồ đen nhánh này, không hiểu sao gã lại vui vẻ thế.

Và gã kêu lên bằng một cái giọng khiến mọi bàn ăn khác phải bật cười :

- “Xin chèo” trung úy.

Một trong hai sĩ quan là tiểu doàn trưởng, người kia là đại tá. Người thứ nhất nói :

- Tôi không quen ông, thưa ông. Tôi không biết ông muốn gì ở tôi.

Người da đen đáp :

- Tôi, quý ông lắm, trung úy Védié, khu Bézi, rất nhiều nho, tìm tôi.

Viên sĩ quan, hoàn toàn luống cuống, nhìn gã đàn ông chăm chú, lục tìm sâu trong ký ức của mình, rồi đột nhiên hét lên :

- Tombouctou phải không ?

Người da đen hớn hở, vừa vỗ tay lên đùi vừa cười rống ầm lên :

- Phải, phải, ừa, thưa trung úy, đã nhận ra Tombouctou, ừa, xin chèo.

Người chỉ huy vừa chìa tay cho gã vừa mỉm cười với cả tấm lòng rộng mở. Rồi Tombouctou nghiêm mặt lại. Gã cầm lấy tay viên sĩ quan, và nhanh đến nỗi người kia không kịp lúng túng, gã hôn lên đó theo thói quen của người da đen và Ả-rập. Ngượng nghịu, người quân nhân nói với gã bằng giọng nghiêm nghị :

- Nào, Tombouctou, giờ chúng ta không ở châu Phi. Ngồi xuống và nói cho tôi hay thế nào mà tôi lại thấy cậu ở đây.

Tombouctou ưỡn bụng ra, ấp úng bao nhiêu rồi lại nói nhanh bấy nhiêu :

- Kiếm được nhiều tiền, nhiều lắm, nhà hàng lớn, ăn ngon, bọn Phổ, tôi, bắt được nhiều, nhiều lắm, món ăn Pháp, Tombouctou, đầu bếp của hoàng đế, hai trăm ngàn frăng cho tôi. Ha ! ha ! ha ! ha!

Và gã ta cười, quằn quại, gào thét với vẻ vui sướng điên dại trong ánh mắt.

Khi viên sĩ quan hiểu ra thứ ngôn ngữ lạ lùng của gã, hỏi han gã một lúc rồi bảo gã :

- Được rồi, tạm biệt, Tombouctou ; hẹn sớm gặp lại.

Người da đen mau chóng đứng lên, lần này thì xiết chặt bàn tay mà người ta chìa ra cho gã và vẫn luôn tươi cười, gã kêu lên :

- Xin chèo, xin chèo, trung úy !

Gã biến mất, rất hài lòng, vừa bước vừa khoa chân múa tay, và người ta cho gã là một kẻ điên.

Viên đại tá hỏi :

- Kẻ hoang sơ ấy là ai thế ?

Người đồng ngũ đáp :

- Một chàng trai can trường và một người lính can trường. Tôi sẽ kể cho anh hay những điều tôi biết về anh ta ; Thế cũng đủ kỳ cục rồi.

Anh biết là vào hồi đầu chiến tranh năm1870, tôi bị bao vây ở Bézières mà người da đen này gọi là Bézi. Chúng tôi không những bị vây xung quanh mà còn bị siết chặt. Phòng tuyến quân Phổ bao quanh tứ phía, ngoài tầm đại bác, không bắn về phía chúng tôi nữa, nhưng bỏ đói chúng tôi từ từ.

Tôi mới chỉ là trung úy. Quân đồn trú của chúng tôi bao gồm những đội quân nguyên là đám tàn quân của những trung đoàn tan tác, lính đào ngũ, những kẻ trộm hoa mầu, tách ra từ những binh đoàn có vũ trang. Cuối cùng, một buổi chiều chúng tôi có thêm mười một lính bản xứ An- giê-ri mà không biết từ đâu và làm thế nào họ đến được. Họ trình diện ở các cửa ô, mệt nhoài, áo quần rách rưới, đói khát và say sưa. Người ta trao họ cho tôi.

Tôi sớm nhận ra rằng họ không chịu tuân theo mọi kỉ luật, luôn ra ngoài và luôn chếnh choáng. Tôi đã dùng thử cả đồn cảnh sát lẫn nhà tù, chẳng cái nào được việc cả. Người của tôi biến mất suốt ngày, tựa như họ đã độn thổ vậy, rồi lại xuất hiện say xỉn đến ngã nhào. Họ chẳng có tiền. Họ đã uống ở đâu nhỉ ? Và thế nào, và bằng thứ gì ?

Điều này bắt đầu khiến tôi vô cùng tò mò, hơn nữa còn vì những người hoang dã này khiến tôi hứng thú với nụ cười bất diệt và tính cách của những đứa trẻ lớn xác tinh nghịch .

Thế là tôi nhận ra rằng họ tuân theo người lớn nhất trong cả bọn một cách mù quáng, người mà anh vừa thấy đấy. Anh ta điều khiển họ theo ý mình, sắp đặt sự vi phạm bí ẩn của họ một cách toàn quyền và không ai cãi lại. Tôi triệu anh ta tới chỗ mình và truy hỏi. Cuộc nói chuyện của chúng tôi kéo dài tới ba giờ, chính vì tôi phải khổ sở để hiểu được thứ ngôn ngữ khó nghe kỳ cục của anh ta. Cứ mỗi lần tới lượt mình, cái gã tội nghiệp ấy lại nỗ lực phi thường để làm người ta hiểu mình, bịa ra các từ, làm điệu bộ, khổ sở toát mồ hôi, lau mặt, thở, ngừng lại, thình lình lại nói tiếp khi anh ta tưởng rằng đã tìm ra một cách thức mới để trình bày.

Rốt cuộc, tôi đoán ra rằng anh ta là con của một thủ lĩnh lớn, một kiểu vua của người da đen vùng xung quanh Tombouctou. Tôi hỏi tên. Anh ta trả lời cái gì như là Chavaharibouhalikhranafotapolara. Anh ta tỏ ý rằng để đơn giản hơn, gọi tên anh ta bằng tên xứ sở : “Tombouctou”. Và tám ngày sau, cả đội quân đồn trú không còn gọi anh ta theo cách khác nữa.

Nhưng một mong muốn điên rồ buộc chúng tôi phải được biết nơi vị cựu hoàng tử Phi châu này tìm thấy đồ uống. Tôi đã phát hiện ra điều này một cách đặc biệt. Một buổi sáng, tôi ở trên tường thành, đang ngắm nghía đường chân trời, tôi nhận thấy trong một ruộng nho có cái gì đó động đậy. Đã đến kỳ thu hái, nho đã chín, nhưng tôi ít nghĩ tới điều này. Tôi nghĩ đó là một tên mật thám đang tiếp cận thành phố, và tôi sắp đặt một giải pháp hoàn hảo để tóm cổ kẻ rình rập. Chính tôi chỉ huy sau khi được phép của tướng quân. Tôi điều ba nhóm quân nhỏ tiến ra ngoài theo ba cửa khác nhau rồi tụ lại gần ruộng nho có nghi vấn và bao vây nó. Để cắt đường rút của tên mật thám, một trong những phân đội đã hành quân từ trước đó ít nhất một giờ. Một người ở lại quan sát trên tường ra dấu chỉ dẫn cho tôi rằng kẻ bị phát hiện chưa hề rời khỏi cánh đồng. Chúng tôi đi vô cùng lặng lẽ, bò sát đất, gần như nằm trên những con đường mòn. Cuối cùng, chúng tôi tiếp cận địa điểm chỉ định. Tôi bất ngờ triển khai lính của mình, họ xông vào ruộng nho và tìm thấy… Tombouctou đang bò bằng bốn chân giữa những gốc nho và đang ăn quả, hay đúng hơn là đang đớp quả nho như một con chó đang ăn xúp, ngoạm đầy mồm, vừa ăn cả cây, vừa dứt những chùm nho bằng cách bập răng vào.

Tôi ra lệnh dựng anh ta dậy, không cần nghĩ ngợi, vậy là tôi đã hiểu vì sao anh ta bò lê trên cả hai tay và đầu gối. Đến khi người ta dựng anh ta đứng lên trên hai chân, anh ta lắc lư mất mấy giây, dang tay ra rồi ngã sấp mặt xuống. Anh ta chếnh choáng như thể tôi chưa từng thấy một người chếnh choáng thế bao giờ.

Người ta khiêng anh ta về trên hai cái cọc leo, anh ta vừa cười không ngừng suốt dọc đường vừa hoa chân múa tay. Đó là tất cả điều bí ẩn của tôi. Những anh chàng vui tính của tôi đã uống ở chính ruộng nho. Rồi đến khi say sưa chán chê không nhúc nhích được, họ đã ngủ tại chỗ. Đến lượt Tombouctou, tình yêu với nho đã vượt qua mọi tín ngưỡng và mọi chừng mực. Anh ta sống ngay ở trong ruộng theo cách của những con chim sáo mà anh ta căm thù còn hơn cả lòng căm thù của kẻ tình địch ghen tuông. Anh ta không ngừng lặp lại :

- Những con chim sáo ăn hết nho, bắt lấy !

Một tối, người ta đến tìm tôi. Người ta nhận thấy một cái gì đó đang tiến về phía chúng tôi qua cánh đồng. Tôi không hề dùng kính và phân biệt rất tồi. Người ta cho là một con rắn lớn đang duỗi mình, hay một đoàn xe ngựa, sao tôi biết được ?

Tôi cử vài người tới trước cái đoàn người lạ lùng đã nhanh chóng tiến vào ca khúc khải hoàn này. Tombouctou và chín đồng đội của anh ta khiêng một kiểu bàn thờ, chế tạo bằng những cái kiệu thôn dã, trên có tám cái đầu lâu bị cắt, nhuốm máu và nhăn nhúm. Người lính bản xứ An-giê-ri thứ mười dắt một con ngựa mà ở đuôi nó còn buộc kèm theo sáu con khác, cũng theo cách thức như vậy. Đây là điều tôi biết được. Khi đang ra khỏi ruộng nho, những người Phi của tôi bỗng nhận thấy một biệt đội quân Phổ từ một ngôi làng đang tiến đến. Thay vì chạy trốn, họ ẩn nấp ; và khi các sĩ quan đặt chân xuống đất trước một quán trọ để giải khát, mười một anh chàng vui tính tiến lên, từ chỗ nấp nhằm tới các kị binh những tưởng mình là người tấn công, giết chết hai lính canh, rồi đến tên đại tá cùng năm sĩ quan tùy tùng.

Hôm ấy, tôi ôm hôn Tombouctou. Nhưng tôi nhận ra rằng anh ta đi lại rất khó khăn. Tôi tưởng là anh ta bị thương : anh ta bắt đầu cười bảo tôi rằng :

- Tôi, “vìa” xứ sở.

Thì ra Tombouctou không hề chiến đấu vì danh dự, mà hẳn là vì lợi lộc. Mọi thứ anh ta tìm thấy, mọi thứ xuất hiện trước anh ta đều có một giá trị nào đó, mọi thứ lóng lánh nhất, anh ta đều cho vào trong túi của mình. Một cái túi thật là ! Một vực thẳm bắt đầu từ hông và kết thúc ở mắt cá chân. Khi còn trong quân ngũ, anh ta gọi nó là “cái đáy”, và quả là cái đáy của anh ta !

Vậy là anh ta đã gỡ vàng từ những bộ quân phục của lính Phổ, đồng từ mũ cát, những cái khuy vv…, và bỏ tất cả vào trong “cái đáy” đã đầy tràn của mình. Hàng ngày, anh ta quẳng vào trong đó mọi thứ đồ sáng loáng lọt vào mắt mình, những mẩu thiếc hay những mảnh bạc mà đôi khi gây cho anh ta một tư thế hết sức buồn cười.

Anh ta toan tính mang nó về xứ sở của những con đà điểu Phi tuồng như đúng là anh em, con cháu của vị vua bị giày vò bởi nhu cầu ngốn ngấu những vật thể sáng nhoáng. Nếu anh ta không có cái đáy của mình thì anh ta sẽ làm thế nào ? Có thể là anh ta sẽ nuốt chúng.

Mỗi buổi sáng, cái túi của anh ta lại rỗng không. Anh ta có một cái kho lớn nơi anh ta chất đống của cải của mình ư ? Nhưng ở đâu ? Tôi chưa thể phát hiện ra.

Tướng chỉ huy, liên đới với hành động của Tombouctou, đã mau chóng cho chôn cất những thi thể còn lại ở làng lân cận để người ta không phát hiện ra chúng đã bị cắt đầu. Quân Phổ hôm sau lại tới . Thị trưởng và bẩy thân hào lập tức bị bắn bằng súng trường để trả đũa lại như là đại diện người Đức tuyên bố.

Mùa đông đã đến. Chúng tôi mệt mỏi và thất vọng. Giờ đây ngày nào cũng đánh nhau. Những con người đói khát không còn bước đi được nữa. Chỉ riêng tám lính bản xứ An-giê-ri (ba người đã bị giết) là còn béo tốt, bóng nhoáng, khỏe mạnh và luôn sẵn sàng chiến đấu. Cả Tombouctou cũng béo ra. Một hôm anh ta bảo tôi :

- Ngài đói lắm rồi, tôi có thịt ngon.

Và quả thật anh ta mang cho tôi một lườn thịt ngon tuyệt. Nhưng là thịt con gì ? Chúng tôi không còn cả bò lẫn cừu, dê, lừa, lợn. Anh ta thì không thể kiếm được thịt ngựa. Tôi ngẫm nghĩ về điều này sau khi đã ăn miếng thịt của mình. Rồi một ý nghĩ khủng khiếp chợt đến với tôi. Những người da đen này đã sinh ra ở rất gần xứ sở mà người ta ăn thịt người ! Và hàng ngày khi những người lính dạo quanh thành phố ! Tôi truy hỏi Tombouctou. Anh ta không muốn trả lời. Tôi không ép, nhưng từ đó tôi tuôn từ chối những món quà của anh ta.

Anh ta rất quý tôi. Một đêm, tuyết rơi trước cửa khiến chúng tôi ngạc nhiên. Chúng tôi đang ngồi trên đất, tôi thương xót nhìn những người da đen khốn khổ đang run lập cập dưới đám bụi trắng băng giá đó. Vì bị lạnh nhiều, tôi bắt đầu ho. Ngay lúc ấy tôi cảm thấy có cái gì ập lên người tựa như một tấm chăn lớn và ấm áp. Đó là cái áo khoác của Tombouctou mà anh ta đã choàng lên vai tôi.

Tôi đứng dậy, trả lại áo cho anh ta :

- Cứ giữ lấy, chàng trai, cậu còn cần nó hơn tôi.

Anh ta đáp :

- Không, thưa trung úy, để cho ngài, tôi không cần, tôi ấm, ấm.

Và anh ta nhìn tôi bằng cặp mắt van vỉ.

Tôi nhắc lại :

- Thôi nào, tuân lệnh đi, giữ lấy áo khoác của cậu, tôi muốn thế.

Thế là người da đen đứng dậy, rút thanh kiếm sắc như nước của mình ra, tay kia cầm cái áo ca pốt rộng tôi vừa từ chối :

- Nếu ngài không giữ áo, tôi sẽ cắt ; không ai có áo.

Vì thế nên tôi đành chịu thua.

Tám ngày sau, chúng tôi đầu hàng. Vài người trong số chúng tôi có thể trốn thoát. Những người khác ra ngoài thành phố và đầu hàng những kẻ thắng trận.

Tôi đang tìm đường về quảng trường Armes nơi chúng tôi phải tập hợp, lúc tôi còn ngơ ngẩn lạ lẫm trước một người da đen khổng lồ mặc đồ vải chéo và đội mũ rơm. Đó là Tombouctou. Anh ta có vẻ hớn hở và đang dạo chơi, tay đút túi, trước một cái quán nhỏ nơi người ta thấy trưng bầy hai đĩa và hai cốc.

Tôi bảo anh ta :

- Cậu làm cái gì thế ?

Anh ta đáp :

- Tôi không đi, tôi đầu bếp tốt nấu ăn cho đại tá, An-giê-ri ; tôi ăn bọn Phổ, đuổi bắt nhiều, nhiều lắm.

Trời lạnh cóng đến mười độ. Tôi run lập cập trước người da đen mặc vải chéo này. Thế là anh ta kéo tay tôi vào bên trong. Tôi nhận thấy một biển hiệu quá khổ mà anh ta treo ngay trước cái cửa mà chúng tôi qua, bởi vì anh ta hơi ngượng. Và tôi đọc, những dòng vạch bằng tay của kẻ tòng phạm nào đó viết thế này :

MÓN ĂN BINH LÍNH CỦA NGÀI TOMBOUCTOU

ĐẦU BẾP CŨ CỦA S.M HOÀNG ĐẾ

NGHỆ SĨ ĐẾN TỪ PARIS. – GIÁ VỪA PHẢI.

Mặc dù sự thất vọng gặm nhấm lòng tôi, tôi không thể nhịn cười được, và tôi để mặc người da đen của tôi với công việc kinh doanh mới.

Thế tốt hơn là đẩy anh ta vào tù đúng không ?

Anh vừa thấy là anh ta đã thành công, cái anh chàng vui tính.

Ngày nay, Bézières thuộc về Đức. Nhà hàng Tombouctou là bước đầu phục thù.

Trong rừng

Truyện ngắn của Guy de Maupasant

Lê Ngọc Anh dịch

Ông đốc lí sắp ngồi vào bàn ăn lúc được báo rằng người canh điền đang chờ ông ở tòa đốc lí cùng với hai tù nhân. Ông liền tới đó ngay và quả nhiên ông nhận thấy người canh điền của mình, lão Hochedur, đang đứng giám sát một cách nghiêm ngặt hai thị dân đứng tuổi.

Người đàn ông, một ông lão to lớn, mũi đỏ và tóc bạc, có vẻ ủ rũ; trong khi người đàn bà, một bà lão nhỏ con diện xúng xính, người tròn lẳn, béo tốt, gò má sáng loáng, nhìn nhà chức trách đang bắt giữ họ bằng con mắt thách thức.

Ông đốc lí hỏi:

- Chuyện gì thế, lão Hochedur?

Người canh điền khai báo.

Buổi sáng, lão ra ngoài, vào giờ thường lệ, để đi tuần từ ven rừng Champioux tới tận biên giới Argenteuil, lão chẳng nhận thấy gì khác thường ở thôn quê ngoại trừ việc trời đẹp và lúa mì lên tốt, khi con trai nhà Bredel đang xới ruộng nho kêu lên:

- Hây, lão Hochedur, đến ven rừng mà xem, ở bãi cây nhỏ đầu tiên, lão sẽ thấy một cặp bồ câu đúng một trăm ba mươi tuổi cả đôi.

Lão đi theo hướng được chỉ dẫn. Lão bước vào khu rừng đệm và nghe thấy tiếng nói cùng tiếng thở, lão nghĩ rằng mình bắt được quả tang tội đồi bại.

Thế là lão bò tới như một tên săn trộm để rình chộp, lão tóm được một cặp đúng vào lúc chúng đang buông thả theo bản năng.

Ông đốc lý kinh ngạc nhìn kỹ hai kẻ tội phạm. Người đàn ông khoảng sáu mươi tuổi và người đàn bà ít ra là năm mươi tuổi.

Ông tiến hành hỏi cung họ, bắt đầu với người đàn ông, y trả lời với một giọng yếu ớt, rất khó nghe.

- Tên họ?

- Nicolas Beaurain.

- Nghề nghiệp?

- Bán hàng xén, phố Martyrs, Paris.

- Ông làm gì ở trong rừng?

Người bán hàng xén nín lặng, mắt cụp xuống cái bụng phệ của mình, tay đặt lên đùi.

Ông đốc lí nhắc lại:

- Ông có phủ nhận lời khẳng định của nhà chức trách tòa thị chính không?

- Không, thưa ông.

- Vậy là ông thừa nhận?

- Vâng, thưa ông.

- Ông có muốn nói gì để bào chữa cho mình không?

- Không gì cả, thưa ông.

- Ông gặp kẻ đồng phạm này ở đâu?

- Đó là vợ tôi, thưa ông.

- Vợ ông?

- Vâng, thưa ông.

- Thế ra…thế ra vợ chồng ông không sống cùng nhau…ở Paris?

- Xin lỗi, thưa ông, chúng tôi sống cùng nhau!

- Nhưng…vậy thì…ông điên rồi, điên hoàn toàn, ông thân mến, vì đã tới cặp kè như thế, ngay giữa đồng, vào lúc mười giờ sáng.

Người hàng xén hình như sắp sửa khóc vì hổ thẹn. Ông ta thì thào:

- Chính bà ấy muốn thế! Tôi đã bảo bà ấy rằng chuyện đó đúng là ngốc nghếch. Song khi một người đàn bà có ý nghĩ nào đó trong đầu…ông biết đấy…bà ấy không nghĩ gì đến chuyện khác nữa.

Ông đốc lí, người ưa thích tính thần Gô-loa, mỉm cười đáp lại:

- Trong trường hợp của ông, thật là tai hại gặp phải chuyện đã xảy ra. Ông sẽ không ở đây nếu bà ấy chỉ có nghĩ ở trong đầu thôi.

Thế là ông Beaurain nổi giận, quay về phía vợ mình:

- Bà đã thấy ý thơ của bà dẫn chúng ta tới đâu chưa? Hả, chúng ta thế đấy? Và bây giờ chúng ta sẽ ra trước tòa, ở tuổi chúng ta, vì vi phạm thuần phong mỹ tục! Và chúng ta phải đóng cửa tiệm, mất khách hàng và chuyển sang khu khác! Chúng ta thế đấy?

Bà Beaurain đứng lên, và chẳng nhìn chồng mình, bà giải thích không ấp úng, không thẹn thùng vô ích, hầu như không do dự.

- Lạy Chúa, thưa ông đốc lí, tôi biết rõ rằng chúng tôi nực cười. Mong ông cho phép tôi được tự biện hộ như một luật sư, hay đúng hơn như một người phụ nữ đáng thương; và tôi hy vọng rằng ông sẽ rất muốn tha chúng tôi về nhà và miễn cho chúng tôi khỏi nỗi hổ thẹn bị truy tố.

“Ngày xưa, khi tôi còn trẻ, tôi đã làm quen với ông Beaurain tại vùng này, vào một ngày chủ nhật. Ông ấy làm trong một tiệm hàng xén; còn tôi làm công trong một hiệu may. Tôi vẫn nhớ chuyện đó y như ngày hôm qua. Các chủ nhật tôi tới đây, thỉnh thoảng cùng với một người bạn gái, Rose Levêque, người mà tôi sống cùng ở phố Pigalle. Rose có một người bạn trai còn tôi thì không. Chính anh ấy đã dẫn chúng tôi tới đây. Một ngày thứ bẩy, anh ấy vừa cười vừa báo cho tôi biết rằng hôm sau anh ấy sẽ mang theo một người bạn. Tôi hiểu rõ điều anh ấy muốn, nhưng tôi trả lời là vô ích thôi. Tôi là người đứng đắn, thưa ông.

“Vậy là hôm sau, chúng tôi thấy ông Beaurain trên tầu hỏa. Ông ấy rất được vào cái thời ấy. Nhưng tôi đã quyết không chịu nhượng bộ, và tôi đã không chịu nhượng bộ.

“Thế là chúng tôi đến Bezons. Tiết trời tuyệt đẹp, cái tiết trời làm nhộn nhạo trái tim người ta. Còn tôi, khi trời đẹp, bây giờ cũng như ngày xưa, tôi trở nên ngốc nghếch đến phát khóc. Cây cối xanh tươi, những con chim ca hót, én lượn rất nhanh, mùi hương của cỏ, hoa mỹ nhân, hoa cúc tây, tất cả những cái đó khiến tôi phát điên lên! Như thể rượu sâm-panh khi ta không quen uống vậy!

“Vậy là tiết trời tuyệt đẹp, êm ả và sáng sủa, xâm nhập vào thân thể ta qua con mắt ngắm nhìn và qua cái miệng hít hà. Rose và Simon phút nào cũng ôm hôn nhau! Nhìn họ khiến tôi thấy thế nào ấy. Ông Beaurain và tôi bước đi sau họ, hầu như không nói năng gì. Khi người ta không quen nhau thì người ta không tìm ra chuyện gì để nói cả. Anh chàng ấy có vẻ rụt rè và điều đó làm tôi hài lòng khi thấy anh ấy lúng túng. Chúng tôi tới một khu rừng nhỏ. Không khí mát mẻ như ở trong bồn tắm vậy, và mọi người ngồi lên cỏ. Rose và anh bạn trêu chọc cái vẻ ngiêm túc của tôi; ông biết rõ là tôi không thể khác được. Và rồi họ bắt đầu ôm hôn nhau chẳng còn ngượng nghịu như thể chúng tôi không có ở đó; và rồi họ tâm sự với nhau thật thầm thì; và rồi họ đứng dậy bước vào trong tán lá không nói năng gì. Hãy hình dung vai trò của tôi mới ngu ngốc làm sao, đối diện với một anh chàng mà tôi mới gặp lần đầu. Nhìn thấy họ đi tôi cảm thấy bối rối và việc đó cũng khiến cho tôi can đảm; và tôi bắt đầu nói chuyện. Tôi hỏi anh ấy làm gì. Anh ấy là nhân viên tiệm hàng xén, như tôi đã nói với ông lúc nãy. Vậy là chúng tôi nói chuyện một lúc; điều đó khiến chính anh ấy mạnh dạn lên, và anh ấy muốn suồng sã, song tôi vẫn cứng rắn chấn chỉnh anh ấy. Điều đó không đúng sao, thưa ông Beaurain?”

Ông Beaurain, đang ngượng ngùng nhìn chân mình, không trả lời.

Bà ta nhắc lại:

- Thế là anh chàng ấy đã hiểu là tôi đứng đắn, và anh ấy bắt đầu tán tỉnh tôi một cách tử tế, như một người đàn ông chính trực. Từ hôm ấy, chủ nhật nào anh ấy cũng trở lại. Anh ấy rất say mê tôi, thưa ông. Còn tôi, tôi cũng rất yêu anh ấy, yêu lắm! Hồi xưa, đó là một anh chàng điển trai.

“Nói ngắn gọn là anh ấy đã cưới tôi vào tháng chín và chúng tôi tiến hành buôn bán ở phố Martys.

“Đó là những năm khó khăn, thưa ông. Công việc làm ăn không chạy; và chúng tôi ít khi có thể chi tiêu cho những buổi đi chơi ở nông thôn. Và rồi, chúng tôi đã đánh mất thói quen đó. Trong việc kinh doanh, người ta có cái khác ở trong đầu, người ta nghĩ về tiền nhiều hơn là về hoa hoét. Chúng tôi già đi dần dần mà chẳng nhận thấy điều đó theo kiểu người bình lặng ít nghĩ tới tình yêu. Người ta chả hối tiếc gì khi mà người ta không nhận thấy những gì mình thiếu.

“Và rồi, thưa ông, việc kinh doanh phát đạt hơn, chúng tôi đã yên tâm về tương lai! Thế là, ông thấy đấy, tôi không biết mấy về điều đã xảy đến trong tôi, không, thực sự là tôi không biết!

“ Thế là tôi bắt đầu mơ mộng như một cô học trò bé bỏng. Trông thấy người ta kéo một chiếc xe nhỏ chở hoa trên phố cũng khiến tôi rơi lệ. Mùi hương hoa viôlét lan tới khiêu khích tôi ngay trên chiếc ghế bành kê sau hòm đựng tiền của tôi và làm tim tôi rộn đập! Thế là tôi đứng lên, rời khỏi chỗ ấy, bước chân ra cửa để ngắm nhìn mầu trời xanh giữa những mái nhà. Khi người ta ngắm nhìn trời trong một con phố, nó có dáng vẻ như một dòng sông quanh co chảy xuống Paris; và những con én bay qua trong đó tựa như những con cá. Những cái đó ở tuổi tôi thật là ngốc nghếch hết sức! Ông muốn gì, thưa ông, khi người ta làm lụng cả đời, đến lúc người ta nhận ra rằng người ta đã có thể làm khác đi, và thế là người ta tiếc nuối, ôi! vâng, người ta tiếc nuối! Vậy hãy nghĩ xem, khi hai mươi tuổi, tôi đã có thể tới đón nhận những nụ hôn ở trong rừng, như những người khác, như những người phụ nữ khác. Tôi nghĩ thật là tuyệt biết bao được nằm dưới những tán lá và yêu đương ai đấy! Và ngày nào, đêm nào tôi cũng nghĩ tới điều đó! Tôi mơ tưởng về ánh trăng trên mặt nước tới mức khao khát trẫm mình.

“Trong thời gian đầu, tôi không dám nói chuyện đó với ông Beaurain. Tôi biết rõ rằng ông ấy sẽ giễu cợt tôi và lại bắt tôi bán kim bán chỉ! Và rồi, nói thật là ông Beaurain không còn nói với tôi điều to tát nữa, nhưng khi ngắm mình trong gương, tôi cũng hiểu rõ là chính tôi sẽ không nói chuyện gì với ai nữa!

“ Vậy là, tôi tự quyết định và tôi đề nghị ông ấy đi về thôn quê ở nơi mà chúng tôi đã quen nhau. Ông ấy chấp thuận không hề ngờ vực và chúng tôi đến đây sáng nay, vào khoảng chín giờ.

‘Bản thân tôi cảm thấy tất cả xao động khi tôi đi giữa đồng lúa mì. Trái tim của những người phụ nữ không già đi! Và, thật sự, tôi không thấy chồng mình như ông ấy vẫn thế, mà tôi thấy ông ấy đúng như ngày xưa! Thế đấy, tôi để ông phán xét, thưa ông. Đích thị là tôi say. Tôi bắt đầu ôm hôn ông ấy; điều đấy làm ông ấy sửng sốt còn hơn cả việc tôi muốn giết ông ấy. Ông ấy lặp đi lặp lại với tôi: ”Bà điên rồi, bà điên rồi, sáng nay bà đã uống gì thế?...Tôi không nghe ông ấy, tôi chỉ nghe theo trái tim mình. Và tôi bắt ông ấy vào trong rừng… Và thế là!...Tôi đã nói sự thật, thưa ông đốc lý, hoàn toàn sự thật.

Ông đốc lý là một người dí dỏm. Ông đứng lên, mỉm cười và bảo: “Hãy thượng lộ bình an, thưa bà, và đừng có phạm tội…dưới tán lá nữa.“

The Vietnamese translations found on this site are copyright © 2003-2007 by Lê Ngọc Anh