Thảo Hảo-Tạp Văn

Thảo Hảo

TẠP VĂN

Mục lục

1. 150 diễn viên = 75 cân thịt?

2. 34 tỉ, 16 tỉ, và bao nhiêu đồng bào?

3. À ở Việt Nam mình cái đó rất khó nói...

4. Ai cho mày chê con tao xấu?

5. Ai khiến mày lạ?

6. Ai sẽ làm việc này đây?

7. Biết tin ai bây giờ?

8. Cái bệnh hòn non bộ

9. Cái đẹp, cái nết, cái nào chết

10. Cái không thuộc về y đức

11. Có đổ tội được mới nhẹ người

12. Có đức mà không có tài

13. Có giáo dục mà vẫn đáng ghét

14. Cụ Rùa thuộc biên chế bộ nào?

15. Cuối cùng là lè luỡi

16. Đánh kẻ ngã ngựa

17. Để bóp (gần) chết lòng yêu nghề

18. Giao trứng cho ác

19. Gửi Đoàn của tôi

20. Gửi ông X, người ghét Karaoke

21. Hàng không có biết thương dân?

22. Học cách chết

23. Học phí trả bằng máu

24. Không bao giờ hoàn hảo

25. Không có chồng thì đừng có làm giầu

26. Không sợ nghèo, chỉ sợ ...

27. Lên đường đi, các bác!

28. May mà không biết vẽ

29. Món nợ của ngành giáo dục

30. Mỳ gói, bạn hay thù

31. Nếu tao là nhà nước...

32. Nhân trường hợp chị thỏ bông

33. Nhật ký (gã) đào đường

34. Ở đâu có bán kính viễn vọng?

35. Ra về lúc giải lao

36. Sự hấp dẫn của lưu manh

37. Sự nan giải của Tí

38. Tâm trạng của anh phóng viên “kém tiếng Việt”

39. Tôi biết ơn Hội Nhà văn và …

40. Tôi có đủ thuốc ngủ rồi!

41. Tôi cũng muốn ăn cắp

42. Tôi muốn đời tôi mầu gì?

43. Tôi nghi ngờ ông Heghen!

44. Tư cách con cá

45. Yêu + Hiểu

1.150 diễn viên = 75 cân thịt?

Buổi sáng, mở báo ra, ở trang 2 có một cái ảnh, chụp một lũ trẻ con chăm chú xem một đàn vịt trượt cầu tuột xuống hồ nước. Bên cạnh là tin: 150 "diễn viên" vịt … bị thiêu

"150 diễn viên vịt tại khu du lịch sinh thái dân tộc thiểu số Củ Chi đã phải chia tay vĩnh viễn với sàn diễn vì bị tiêu hủy toàn bộ để tránh dịch cúm gà. Như vậy du khách còn lâu mới lại được xem tiết mục xiếc vịt độc nhất vô nhị ở đây, vì ngay cả khi dịch cúm gà đã được khống chế thì phải mất ít nhất nửa năm mới 'đào tạo' được một đàn diễn viên vịt khác để biểu diễn…"

Khi đem đi thiêu sống 150 con vịt đã được huấn luyện, hàng ngày vẫn biểu diễn cho trẻ em xem, cái khu du lịch sinh thái trên hẳn đã coi hành động hy sinh của mình là một sự cao cả, hoặc cũng có thể chỉ quan niệm một cách đơn giản, là "thiêu có 75kg vịt thôi mà!", (tôi cho là nửa cân một con đi).

Trẻ con đọc tin xong, thắc mắc: "Nhưng người ta có nói bọn vịt này bị cúm đâu?", "Sao không nhốt bọn nó riêng ra, cho uống thuốc phòng? Khi nào hết dịch cho ra diễn lại?"… Trẻ con! Đúng là cái bọn máu còn ấm, chưa lạnh như người lớn. Có lẽ trong ban quản lý các sở thú, các khu sinh thái cũng nên có chúng nó.

Gần hai tháng nay, dịch cúm gà thì ai cũng thuộc. Trong chương trình thời sự mỗi tối đều có tin hủy gà. Hình như đối với những nhà làm tin, cảnh bỏ gà chết vào bao, vứt xuống hố là chưa đủ sinh động và thời sự, nên có thêm rất nhiều cảnh nhồi gà lớn đang giãy giụa, vứt gà con đang vùng vẫy vào lửa.

Báo chí cũng sôi nổi đưa tin. Trên một tờ báo thứ Hai vừa qua giật tít lớn: "Một số tỉnh mạnh tay tiêu hủy gà sống", và bức xúc hỏi: "Bao giờ mạnh tay hơn trong tiêu hủy gà sống?", nghe thật đáng sợ (cho người viết báo). Giá như người viết bài nào, người làm tin truyền hình nào trong nhà cũng đang chứa chấp vài con gà, thì may ra trong cách đưa tin mới có được sự thương nông dân. Người nuôi gà trông chờ vào cả đàn gà. Giờ vì việc chung, cần bảo vệ cộng đồng mà phải đem chúng đi giết, thì phải giết. Nhưng đó làm cơm áo, là mồ hôi, là cả những dự định bị tan tành của người ta, chưa kể, đó còn là tình cảm của người ta. Cúm gà là một "tai nạn". Người đưa tin, làm báo ắt không thể đứng ngoài dửng dưng tường thuật tai nạn của người khác theo cái lối "máu lạnh" đó được.

Cho nên, thỉnh thoảng đọc được những tin "đầy tính người" về dịch bệnh thì mừng vô kể, thí dụ như tin người ta không tiêu hủy đàn cò ở vườn cò, mà tận tâm vệ sinh vườn cò để bảo vệ chúng; Hay Thảo Cầm Viên TPHCM với kế hoạch "nội bất xuất, ngoại bất nhập", xịt thuốc chuồng để giữ cho đàn chim khỏi dịch… Cũng thế, hôm trước, trên một tờ báo có đăng một bức ảnh thật cảm động, chụp một con gà con đang được bế cho uống thuốc chủng. Đó cũng là ảnh nói về cúm gà, nhưng cúm gà ở một nước khác. Chắc chắn là ở nước đó, người ta cũng phải tiêu hủy gà bệnh, gà dịch thôi, để ngăn ngừa dịch; Nhưng cái quan điểm mà người chụp ảnh kia và tờ báo kia muốn mang đến cho người dân là quan điểm "cố bảo vệ mầm sống", dù đó là mầm sống của một con vật thấp kém hơn ta rất nhiều. Và thật ra, không biết động lòng trước mầm sống thì làm sao bảo vệ mầm sống được?

Thế thì, cứ yêu thương con vật đi, còn con người thì sao? Những người mất mạng vì cúm gà thì sao? Người ta sẽ thộp cổ tôi mà hỏi.

Cho đến hôm nay, báo chí vẫn đưa tin theo kiểu: "Đã có 119 người vào viện vì viêm phổi do virus (nghi do cúm A). Trong đó xác định có 15 người là cúm A. Tử vong 10 người."

Đọc tin đưa theo kiểu này, hai con số sau có lẽ sẽ gây chú ý nhất: 119 và 10. Không ai rảnh mà làm phép tính

119 - 15 = 104

104 là số bệnh nhân mà người ta chưa xác định được là cúm gì, bệnh gì. Cứ ghi vào cho chắc ăn là "nghi cúm A" cái đã. Và nếu những người đó khỏi bệnh, ra viện, bác sĩ sẽ thở phào, "Không phải cúm A", mà cũng không tìm hiểu xem, vậy thì thực chất họ mắc phải chủng virus gì mà cũng làm sốt cao, khó thở… như cúm A? Cách đưa tin như thế, tuy có tác dụng làm người ta không liều ăn thịt gà bệnh nữa, nhưng thực ra lại rất lù mù, không thực chất, làm hốt hoảng không đúng mức, chưa kể là còn che lấp những bệnh khác.

Nhưng thôi, tôi cũng phải kết thúc bài, bằng cách quay trở lại cái tin ở đầu bài:

"…Để thay thế tiết mục vịt bị xóa sổ này, khu du lịch sinh thái dân tộc thiểu số đã xây dựng tiết mục mới là đua heo cũng khá hấp dẫn và độc đáo."

Thương thay, mấy con heo! Rơi vào tay cái ông khu du lịch máu lạnh này, thì dù có giỏi giang đến mấy, cũng đừng mong được bảo vệ một khi các ông ấy cần an toàn. Nhưng biết đâu đấy, may ra với phong cách "phần xác át phần hồn" của cái khu du lịch này, mà con heo - vì nhiều thịt hơn con vịt - nên sẽ sống?

Thể thao - Văn hoá, 06.02.2004

2. 34 tỉ, 16 tỉ, và bao nhiêu đồng bào?

Tháng trước, đến làm việc tại phòng y tế xã nọ, thuộc miền núi phía Bắc, ngồi một lúc lâu và uống rất nhiều trà xong, thì xin lỗi, cả đoàn có “nhu cầu”.

Nhà vệ sinh nằm ở một góc vườn xa, xây bằng gạch, ngang chừng 80 phân, cao quá đầu người một tí, cánh cửa gỗ ọp ẹp chắp vá, không khép kín nổi.

Hỏi trưởng phòng y tế, nhà vệ sinh của các anh bẩn thế này, bé thế này, làm sao anh vận động được dân trong vùng ở sạch?

Anh trưởng phòng y tế cho biết, thật đáng thương, chỉ có hai trăm nghìn đồng để làm cái nhà vệ sinh ấy thôi. Bằng gạch cơ mà. Đến cánh cửa là hết tiền, anh em phải lấy gỗ ở nhà chắp lại tạm.

Sẵn dịp, anh đưa sang nhà bếp tập thể. Hai triệu một cái bếp ăn cho nhân viên, cũng là nơi nấu nước sôi cho công việc y tế. Tiền bên trên chỉ cho chừng ấy, anh em đốn một cây mít, một cây gì nữa (tôi quên rồi) trong sân, bán lấy tiền bù vào để hoàn tất nhà.

Cả một vùng nghèo lắm, thư viện không có, rạp hát không có, trường học lụp sụp, thanh niên không có gì giải trí nên chích hút rất nhiều...

*

Trong khi đó, trên báo Tuổi Trẻ, ngày 1. 12. 04, có một mẩu tin ngắn, trong đó UBMTTQ TP.HCM đã phải kiến nghị với UBNDTP về cái kế hoạch (đã được UB phê duyệt) là dùng 34,7 tỉ đồng để biến đường Đồng Khởi - một con đường tuy trung tâm nhưng có thể gọi là ngắn - thành phố đi bộ.

Với 34,7 tỉ này, theo báo, người ta chắc sẽ lại nạy gạch (mới lát) lên, lát lại bằng granite cả lòng đường lẫn vỉa hè. Người ta lắp mấy cột điện thoại công cộng (cái thứ mà giờ gần như không ai dùng nữa, vì rất khai), rồi xây thêm các bồn hoa trang trí... Con đường sang trọng đó, xưa nay vốn không phải dành cho người Việt số đông, nay sẽ sang trọng hơn, khách Tây ghé lại vài ngày sẽ có một cái nhìn về Việt Nam hào nhoáng đầy giả tạo.

*

Còn ở Hà Nội thì sao?

Hà Nội đang hối hả lắp cho xong tượng đài “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” ở vườn hoa Vạn Xuân. Người ta sẽ dành cho cái tượng đài này khoảng 16 tỉ đồng. Tượng đài cũ đã có, nằm ở vườn hoa Bà Kiệu, cách nơi sẽ đặt tượng đài mới khoảng một cây số rưỡi. Cả hai tượng đài nói chung đều phải có người chiến sĩ ôm bom ba càng, một cô gái Hà Nội... 16 tỉ để gần như lặp lại một cái đã có, chỉ có những thành phố lớn mới vô tâm trước cái nghèo của đất nước như thế.

*

Thế đấy, đất nước ta, mấy chục tỉnh thành như mấy chục anh em, lại là anh em con nhà nghèo, vậy mà lại rất đúng với câu “anh em kiến giả nhất phận”. Thành phố lớn thờ ơ trước khó khăn và bế tắc của các thành phố bé. Nếu cán bộ thành phố lớn có hôm nào đi ngang qua một thị xã đìu hiu, thì chắc cũng chỉ thấy hả hê trong lòng, “thằng này thua mình xa”.

Thành phố lớn sẽ nói, mỗi vùng có một nhiệm vụ, một đặc thù, tiền chi mỗi nơi phải mỗi khác.

Nhưng dùng 34,7 tỉ phố đi bộ để nâng cấp 34 cái trường học miền núi, hay dùng 16 tỉ tượng đài để cải tạo 16 trung tâm y tế xã, các vị thấy cái nào mang tính “vì đồng bào” hơn?

Chúng ta vẫn có phong trào Thanh niên Tình nguyện để dạy cho sinh viên cái tinh thần tương trợ những người yếu hơn mình. Nhưng sinh viên chỉ là những người chưa là gì cả trong guồng máy. Họ đến với hai bàn tay và tình cảm của họ, để đào mấy con mương, làm mấy cái cầu khỉ. Rồi cái nghèo ở một vùng xa vẫn hoàn nghèo, khoảng cách thành thị-nông thôn chẳng thu ngắn lại được sau mấy tháng hè. Sẽ chỉ là vô ích và hình thức, nếu chính cái tinh thần tương trợ ấy không có trong bản thân những người đứng đầu các tỉnh thành.

Nhưng thôi (có thể tôi nghĩ sai?), biết đâu trong chiến lược của các vị lại có mục cứ giữ nguyên những vùng nghèo đói, để mùa hè còn có nơi mà giáo dục thanh niên hai chữ “đồng bào”!

2.12.04

Nguồn: Văn hoà-Thể thao, 03.12.2004

3. À ở Việt Nam mình cái đó rất khó nói...

Chuyện như sau: Có một anh phóng viên(*) gặp một quan chức ngành vệ sinh an toàn thực phẩm. Nói trắng ra cho rồi: ông Phó Cục trưởng.

Anh phóng viên so sánh kiểu "chạm tự ái": nước người ta có những công trình lớn, nghiên cứu các mầm ngộ độc, để kịp thời phát hiện mà cảnh báo cho dân. Còn nước ta ít làm như thế. Ðợi ngộ độc rồi mới (bị động) lật ra xem đó là cái gì.

Ông Cục phó bảo, anh nói sai rồi. Hai năm nay, chúng ta cũng nghiên cứu, phải gọi là "chủ động" chứ!

Anh phóng viên (là người hay ăn hoa quả?) cãi lại: thế cái nghiên cứu cách đây hai năm, về độc chất trong hoa quả Trung Quốc, sao mãi các ông không "chủ động" đưa kết quả ra cho dân biết?

Ông Cục phó nói, kết quả có rồi. Nhưng tại chúng tôi đưa táo lê Tàu đi 3 nơi xét nghiệm. Mà ba nơi này, mỗi nơi thiết bị, thuốc thử, phương pháp khác nhau, nên cho kết quả khác nhau, không thống nhất được, nên không thông báo được. Vả lại, mẫu táo, lê chúng tôi đem đi xét nghiệm ít quá, không nói được.

Anh phóng viên bảo, gì mà kỳ vậy, thế theo Tiến sĩ (ông này tiến sĩ nhé), chừng nào mới có một cách làm việc khoa học để có kết quả chính xác?

Ông Cục phó nói: À ở Việt Nam mình cái đó rất khó nói...

Anh phóng viên vẫn dai dẳng: thế sao không thuê chuyên gia nước ngoài xét nghiệm cho chính xác? Cả một dân tộc ăn táo lê Tàu cơ mà...

Ông Cục phó nói, thôi đi, đắt lắm. Vả lại, cái gì chúng ta đã làm rồi thì không làm nữa. Hơn nữa, xét nghiệm chỉ là xét nghiệm, trong khi chỉ cần "chủ động" nhìn lâm sàng (trợn mắt, tê môi, co giật, chết?) thì biết ngay là ngộ độc chứ gì!

Và giải pháp cuối cùng cho vệ sinh và an toàn thực phẩm, theo ông, là: giáo dục dân, "địch vận" các cơ sở kinh doanh, sản xuất. Tuyên truyền là hàng đầu.

Tuyên truyền, giáo dục là hàng đầu. Nhưng cho đến bây giờ, chỉ vì kết quả của ba phòng thí nghiệm cho ra khác nhau mà những bà nội trợ chúng ta vẫn chỉ nghe phong thanh về chất độc trong hoa quả Trung Quốc, cho nên vẫn khó mà cầm lòng được trước sự mơn mởn, rực rỡ của chúng. Không ai cho một bảng phân chất rõ ràng, cho nên chúng ta đành chỉ biết thắc mắc về sự quá trắng của bún, quá dòn của rau câu, quá to của đu đủ... Và cái nền ẩm thực của chúng ta đây phải chăng là một nền ẩm thực đầy nghi ngờ? Bố mẹ vẫn can con cái bằng một câu mơ hồ: "Ðừng ăn cái đó, độc lắm." Ðộc cái gì, may mà con cái không vặn lại, vặn lại thì bố mẹ bí. Sự bí lời giải thích cũng như sự nghi ngờ bao giờ cũng đến từ sự thiếu thông tin. Ở đây lại là cái thiếu thông tin từ một Cục với ông Cục phó quan niệm rằng công việc mình chủ yếu là thông tin cho dân đầy đủ!

Cứ xét theo tên gọi, thì nếu bạn là vua, có phải Cục Quản lý Chất lượng Vệ sinh An toàn thực phẩm phải là kẻ nếm trước bạn? Phải là kẻ nhìn thấy đôi đũa bạc ngả xám đen trước khi bạn thấy? Còn nếu để bạn trợn mắt, chảy dãi rớt rồi, kẻ kia mới chạy đến và (chủ động) hô to: "Thạch tín!", thì kẻ ấy đáng chịu tội gì?

"À ở Việt Nam mình cái đó rất khó nói..."

Bởi vì, ông Cục phó kia đã giải thích việc phân chia quyền lực như sau: quản rau sạch là bộ Nông nghiệp. Quản thuốc trừ sâu không đúng cách là Cục Bảo vệ thực vật. Tác động của rau bẩn, thuốc độc thì không thấy nói ai quản, chỉ thấy anh bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vùi đầu vào nghiên cứu. Thậm chí có báo cáo lên là có tác động đến sức khỏe thì Bộ Y tế chỉ có chỉ đạo, đề xuất thôi, chứ cũng không quản. "Vấn đề nào thì Bộ ấy nghiên cứu", ông nói. "Ðược hay không là do phối hợp liên ngành".

Cho nên cái Cục của ông muôn đời chẳng bị sao cả. Nhưng cái đáng buồn ở đây là cái thái độ của ông. Ông là quan chức mà không hề điên tiết lên trước cái cơ chế "đổ tội liên ngành" - một cơ chế tù mù không quan tòa tối thượng làm người ta nhụt chí làm việc. Ông ẩn náu vào đó mà ung dung trả lời phỏng vấn. Nếu bạn đọc tận mắt bài phỏng vấn này, thì bạn sẽ thấy thái độ của ông thật chẳng khác gì thái độ của một... ông Tây thực dân, nghĩa là thờ ơ với tính mạng con người và với cả... thức ăn bản xứ; như thể cái mà dân ta đưa vào miệng không phải là cái mà ông đưa vào mồm.

Thế ông đưa cái gì vào mồm?

"À ở Việt Nam mình cái đó rất khó nói..."

4. Ai cho mày chê con tao xấu?

Tôi xin tóm tắt một tí cho tiện dòng theo dõi:

Phim Vua Bãi Rác được chiếu ở rạp. Tôi đi xem về và viết bài chê. (*)

Sau đó đạo diễn của phim (ông Ðỗ Minh Tuấn) viết lại một bài chê cái bài chê của tôi, mắng là tôi đã chê sai. (**)

Rồi bây giờ tôi được phép viết thêm một bài nữa.

Nhưng lần này tôi không đi cãi nhau chuyện Vua Bãi Rác làm gì nữa. Cái việc khen chê là của người đi xem phim (cũng như tôi đã là người đi xem phim). Vả lại chê thế là đủ rồi, cũng "hết chỗ chê" rồi, tôi đang thấy những chân trời mới hé lộ ra tươi sáng hơn cho bài tuần này đây.

Ðó là tôi thấy cái bệnh: AI CHO MÀY CHÊ CON TAO XẤU?

1.Hãy tưởng tượng, bạn là nhà đạo diễn phim, 50 năm sau, nếu may mắn phim của bạn chưa mốc trong kho lưu trữ, nó sẽ được chiếu lại trong rạp. Rồi một khán giả về nhà viết lại cảm xúc hôi hổi của mình về bộ phim. Bài viết đăng lên báo. Bài viết có thể sai bét (theo bạn), người viết chẳng hiểu gì ý đồ của bạn, không thấy hết cái mà bạn muốn nói, lại còn áp đặt những ý đồ của anh ta vào...

Giả sử, lúc đó bạn đã "xanh cỏ" rồi, bạn làm gì nào?

Bạn hiện hồn về bóp cổ?

Bạn đi đến từng nhà độc giả của tờ báo, nói thì thầm ma quái giữa cơn mơ: "Sai bét rồi!"?...

Tóm lại, bạn chẳng làm gì được. 300 năm sau, người ta khóc hay cười cho phim của bạn, bạn cũng phải chịu thôi.

2.Một trong những cái thú nhất của người chuyên làm báo tường trong cơ quan như chúng tôi là: rình rập.

Khi báo dán lên cái bảng chung rồi, cả bọn nhấp nhổm rình xem phòng tài vụ đã lên đọc chưa? Phòng quản trị đã tới xem chưa? Có cười không? Có cau mày không?... Ai cau mày không hiểu thì xông ra hỏi liền, vì sao cau mày? Rồi giải thích ngay, viết thế có nghĩa là thế này, thế này... Một cái cơ quan bé tí, chỉ có chừng 40 nhân viên, rình chừng hai ngày là đã có đủ danh sách ai thích, ai không thích, và cũng có thể thu phục hết cái đám không thích mình.

Nhưng ở một nước 70 triệu dân, thì rình mò dư luận như thế là chuyện thật không nên làm (làm sao cho xuể!), chưa nói đến chuyện cố bịt dư luận, là việc nghệ sĩ (thật) không nên bắt chước bọn làm báo tường mà dính vào.

Một bộ phim anh chiếu ra, thì tốt nhất là anh nên coi nó như sự đã rồi, và mình đã chết rồi. Tiền (nhà nước) đã mất, tâm sức (anh) đã bỏ vào, việc bây giờ là của người xem. Anh không có nhiều phép như Tôn Ngộ Không để hóa thành 100 anh con con, bám vào tai của 100 khán giả trong rạp, thuyết minh cho họ cái chủ đề của anh, giải thích cái triết lý của anh, ngăn chặn kịp thời cái cau mày của họ. Họ có quyền có những nhận xét của họ, tùy theo kinh nghiệm và trình độ cá nhân, và cái tính đa chiều lắm hướng đó trong cảm nhận tác phẩm mới là cái hấp dẫn của nghệ thuật.

Chưa kể, quay lại phần 1 của bài, nếu anh đã chết rồi, thì vô phương, nghệ sĩ ạ. Tác phẩm của anh như con mồ côi, anh không bảo vệ nó được nó rồi. Muốn bảo vệ nó, đáng ra anh phải chuẩn bị cho nó có những phẩm chất đủ để chống chọi ngay khi không có mặt anh kìa. Có nghĩa là, thưa đạo diễn, phim của ông làm ra rồi thì cũng như con ông vứt ra giữa chợ. Chúng tôi thấy nó xinh thì chúng tôi khen. Chúng tôi (mắt mù) thấy nó xấu thì chúng tôi chê. Ðó là quyền của khán giả - người đi chợ. Nếu ông hỏi: "Ai cho chúng mày chê con tao xấu?", thì chúng tôi sẽ trả lời: "Tại ông đã tự nguyện vứt nó ra giữa ''rạp đời''."

3.Hỡi nghệ sĩ, đừng bắt chước bọn báo tường chúng tôi. Hãy tập câm, tập mù, tập điếc. Ai khen không cười, ai chê không giận, cắm cúi mà làm việc. Người ta không hiểu mình trong khi mình có giá trị thật thì trăm năm sau thể nào cũng có thằng sáng mắt nhìn ra. Mà nếu may thì có khi cũng chẳng phải đến trăm năm sau, ngay tuần sau, số báo sau, đã có người nhận ra mình rồi, và kinh phí làm phim năm sau lại rơi vào tay mình tiếp. Chưa kể còn hàng ngàn khán giả âm thầm khen mà mình không biết (tại họ không viết thành bài), và cũng không loại trừ được trường hợp xấu là có hàng ngàn khán giả khác đang chê ở nhà mà mình không hay. Hì hục phá cái chóp con của tảng băng trôi làm gì cho nó mệt.

Nhưng thôi, tôi chưa có con, hoặc đứa con tinh thần của tôi cũng vớ vẩn, nên tôi chưa hiểu được tâm lý quý con. Có lẽ phải làm nghệ thuật thực thụ, mà là làm nghệ thuật như một số người ở Việt Nam kìa, chừng đó mới thông cảm được với những bậc phụ huynh múa gậy giữa đường cấm không cho ai chê con mình xấu.

5. Ai khiến mày lạ?

Trong "Tôi nghe, đọc, thấy, xem" tuần trước của Khuê Văn có bàn về việc "nếu một ngày kia nhặt được vật lạ" [ talawas 11.04.2003 ].

Khuê Văn cho rằng, nếu bỗng nhặt được vật thể lạ, người Việt ta sẽ về gọi mọi người cùng ra xem, sau đó cãi nhau như mổ bò mỗi người một ý, tiếp đó mỗi anh tự về bắt chước làm một cái vật na ná với cái vật lạ mà họ chưa biết gọi tên kia. Còn cái tên gọi thật, bản chất thật của cái vật đó, là việc cần biết nhất thì vẫn không ai biết...

Thưa bạn Khuê Văn,

Bạn nói chẳng có gì sai, duy có việc là bạn sống trong một đất nước có hẳn những cơ quan có thể giúp ta giám định vật thể lạ, vậy mà trong toàn bài của bạn không hề có một chữ nào nói đến vai trò của họ là sao? (xem tôi chụp mũ nhé!).

Bởi vì, ở nước ta, bản thân việc nhặt được vật lạ chưa phải là tốt hay xấu, mà phải đợi cho có kết luận của cơ quan chức năng sau khi xem xét mới biết là rủi hay may. Chính điều này nhiều khi làm ta lưỡng lự khi bất chợt thấy một vật lạ trên đường.

"Có nên mang về không? Có nên hét lên cho mọi người biết là nó "lạ" không?" ta tự hỏi.

Bởi vì ta đã biết bố mẹ chúng ta hình như hơi sợ những cái gì là "lạ", họ cho rằng hệ tiêu hóa của chúng ta còn non nớt. Nếu chúng ta hét lên, họ giấu béng vào tủ, và chúng ta cũng mất luôn cả cái cơ hội gọi bạn bè đến mà thảo luận về bản chất cũng như tên gọi của cái vật lạ kia.

Nếu bạn thường xuyên sống trong tâm trạng "không-để-bố-biết-mình-nhặt-được-vật-lạ", thì lâu dần, bạn sẽ mất thói quen ngắm nghía vật lạ ngay cả khi nó nằm hẳn trong lòng bàn tay. Trong khi con cái nhà người ta, được bố mẹ khuyến khích đi tìm cái lạ, sẽ băng rừng, vào núi, mang về những thứ lóng lánh để mà tự hào. Cũng có khi mang về, bố mẹ nó sẽ cho nó biết, vật này thường lắm, chẳng lạ đâu con, khiến nó thất vọng vứt đi, thì ít nhất cái cuộc hành trình đi tìm cái lạ của nó cũng đã là một phần thưởng.

Thế đấy, người Việt Nam ta là con nhà lành, bố mẹ cẩn thận (có lý do). Cẩn thận dạy con tránh vật lạ ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường, với những bài văn không được đi trệch lối, sách đọc tham khảo thì chỉ nên đọc tác giả này (tức là thầy) mà đừng đọc tác giả kia, không thì điểm kém. Cẩn thận tránh ngắm những triển lãm nhìn-mãi-không-hiểu-ý; tránh cho nhau đọc những từ ngữ mạnh bạo, tình tính dục gì đó - những cái có thể đề cập đến tận đáy sâu con người; Ở tầng nông, lửng lơ thôi, vì đáy sâu là đáy lạ, không ai xuống tận nơi thẩm tra được.

Chúng ta đã được giáo dục để tránh xa cái lạ, đến mức gán cho cái lạ đến 70% là nguy hiểm. Trước những vật thể lạ, chúng ta không dại mà cầm lên ngay, dí sát vào mắt tìm tương quan thị giác như người Pháp, càng không mạo hiểm lắc lắc bên tai tìm tiếng nhạc như người Ðức, càng quyết không đập vỡ xem cái bản chất, cái tận cùng của nó là gì, như chú Tây Ban Nha...(những cái này tôi lấy ở đọan trích trong bài của Khuê Văn, chứ "lạ" thế, tự tôi không nghĩ ra.)

Không, chúng ta không liều mạng thế. Việc trước nhất, ta phải ghi nhớ: đã lạ là nhiều phần nguy hiểm. Nên nếu thấy vật lạ, chúng ta cần rủ vài người cùng đến xem cho có nhiều kẻ cùng phạm tội. Ta đứng từ xa, và quyết không đưa ra ý kiến rõ ràng. Bởi vì, nếu ý kiến của ta hay, anh bên cạnh sẽ ăn cắp mất (và đăng trên báo khác), nếu ý kiến của ta nhỡ đâu không đúng, thế thì mất mặt ta. Mà thật ra, ta không phát biểu bởi vì ta cũng không chắc được lời ta nói ra là đúng hay là sai, là hay hay là dở. Về vật lạ, ta cần có một cơ quan thẩm định, với những nhân vật ta biết thẩm định còn dở hơn ta, họ hẹn 2h nhưng 6h vẫn chưa thấy tới. Nhưng ta phải đợi họ đến, vì không thì ai là người chịu trách nhiệm trước cái vật lạ khốn kiếp tự nhiên rơi xuống cuộc đời đều đặn và an nhàn này.

Thế rồi ta oán vật lạ... Lạ làm gì không biết cơ chứ!

Cơ quan thẩm định rồi cũng tới, khi tất cả đều đã mòn mỏi. Và vì họ cũng là người Việt Nam, cho nên họ cũng sẽ im lặng, vì họ cũng hoang mang như ta...

Tất cả sẽ đợi như thế. Trăng sẽ lên. Trong ánh trăng bàng bạc mà cô độc ấy, vật thể lạ trên mặt đường tan dần, tan dần. Nó teo tóp lại, lộ rõ vẻ vô hại, bợt bạt dần đi, mang theo cả cái bí mật trong lòng, trôi đi mất cả xuất xứ.

Và chúng ta ra về, hội đồng giám định về trước vì có xe con. Chúng ta ra về sau, lòng hơi buồn buồn, vì mãi vẫn không có ai sờ được đến vật lạ đó, ngửi tới nó, thậm chí đá vào nó một cái. Và nhất là, trong lòng ta lại tiếc rẻ, nếu biết nó không hại như thế này, thì lúc nãy mình đã liều khen một câu, rồi mang về, bán.

6. Ai sẽ làm việc này đây?

Cả đám ăn trưa xong, ra đến bãi gửi xe thì thấy ở giỏ xe mỗi người đã có một tờ rơi in trên giấy cứng, vẽ một con gấu mặt buồn bã. Nội dung:

Kính chào quý khách

Hiện nay chúng tôi có TRẠI GẤU Trọng lượng từ 150 đến 300 kg/con

Quý khách có nhu cầu lấy mật trực tiếp TỪ GẤU ÐANG SỐNG

Chúng tôi đưa đón miễn phí. Xe xuất phát vào hồi 7h30 sáng thứ bảy hàng tuần tại cổng chính công viên X, TP. HCM.

Xin liên hệ chúng tôi tại..., số điện thoại...

Quý khách có xe riêng đi đến trại theo sơ đồ sau...

(sơ đồ vẽ rất chi tiết, dễ tìm)

Hai tuần trước, trong chương trình "Người Ðương Thời" của VTV3, đạo diễn Lê Hoàng - người làm phim "Gái Nhảy" - có nói về ý thức trách nhiệm công dân của văn nghệ sĩ bên cạnh việc làm nghệ thuật, giải trí đơn thuần. Bản thân ông là người rất quan tâm đến các vấn đề khác nhau trong xã hội (chứ không phải chỉ vũ trường). Ông là người vẫn viết các bài tiểu phẩm châm biếm, và trong chương trình Người Ðương Thời này, người ta giới thiệu một bài mới viết của ông, trước một vụ việc thời sự. Bài có tên: "Ðiếu văn đọc trước mộ bò"[1]

Ðại ý, hai mẹ con bò tót thấy một quan chức kia là rất xấu xa, nhưng mãi các cơ quan chức năng chưa phanh phui ra. Hai con bò bàn nhau, thôi thì mình hy sinh, chạy ra trước họng súng khi kẻ kia đi săn trộm, nhân cái chết của mẹ con mình, người ta mới phanh phui ra những cái tội còn to gấp trăm lần của hắn - những cái tội làm hại đến con người chứ không phải chỉ con bò, nhưng phải nhờ đến con bò thì con người mới đi tố cáo.

Tổng hợp cả lại: ý của đạo diễn Lê Hoàng về trách nhiệm công dân của nghệ sĩ, bài viết về mẹ con hai con bò tót của ông, thêm tờ rơi quảng cáo hút mật gấu sống, tôi xin thử đề xuất một chuyện sau với một số văn nghệ sĩ (và chỉ một số thôi ạ!).

Ðó là lâu nay tôi thấy các vị sống một đời sống thật là phí phạm, với mình và với cả đất nước.

Sống bằng sự nhớ dai của những người yêu thơ và mến văn, đã từ lâu không sáng tác nữa, nhưng các vị vẫn an tâm, chẳng thấy cần làm gì nữa.

Nhận một thứ lương nhỏ nhoi của những cơ quan văn nghệ, các vị làm việc cầm chừng rồi la cà trong quán nước; ngây ngất hơi rượu, các vị nói những chuyện thông minh và chua cay về người này kẻ nọ trong giới văn chương. Còn cái cuộc sống cụ thể xung quanh đang ngùn ngụt thay đổi, với những tin vui đến chảy nước mắt cùng những điều bất cập, ngu dốt nghe mà tức đến nghẹt thở, đều bị các vị coi khinh, như chuyện của người khác. Coi việc khoanh tay đứng bên lề cuộc sống như một việc sang trọng, các vị chẳng bao giờ dùng ngòi bút của mình lên tiếng nói như một công dân trong cuộc.

Nhưng tôi biết, là nghệ sĩ, các vị còn yêu thiên nhiên, còn sự đa cảm, chẳng nỡ bó tay nhìn bầy gấu bị hút mật sống ngay giữa lòng một thành phố văn minh. Vả lại, đến mẹ con con bò tót còn xả thân cho công lý như thế được, chẳng lẽ ta không thể hy sinh để cứu gấu sao?

Thế thì "2 trong 1", nên chăng có người trong các vị hy sinh làm một chuyện sau:

Hãy mượn cho được một khẩu súng săn, và đi săn trộm trong rừng quý. Rình bắn cho được một con gấu. Bắn được cả hai mẹ con nó càng tốt. Rồi làm cách nào cho kiểm lâm họ túm gọn cả ta lẫn gấu.

Khi đó, tên của các vị có thể trở lại một cách tiếng tăm trên mặt giấy, dù là trong một vụ săn trộm. Nhưng đó là chuyện nhỏ. Chẳng ai cần chuyện ấy, đúng không ạ! Hy sinh này chỉ cốt để cho vế thứ hai: đó là nhân vụ việc đó, người ta sẽ nói rằng "gấu là động vật quý, phải bảo vệ". Và thế thì, khi ra tòa, xin các vị cãi hộ cái câu này:

"Nếu các ông bảo là nó quý, sao vẫn để bao nhiêu đứa giết gấu dần mòn, công khai ngay giữa ban ngày?

Thưa các vị,

Lằng nhằng quá phải không? Nhưng một kế hoạch giải cứu phải có những bước zích zắc của nó. Tôi đã tính kỹ càng (tuy có hơi lẩn thẩn) từng bước để cứu loài gấu. Nhưng tới đây, tôi chợt nghĩ lại, có một yếu tố quan trọng, rất có thể làm hỏng bét kế hoạch của chúng ta.

Ðó là: các vị chỉ là văn nghệ sĩ. Nếu lâu nay các vị vẫn sống vô trách nhiệm, bông đùa, không có gì là nghiêm túc, thì xã hội gọi là phục tài đó mà vẫn có phần xem thường các vị; nhìn các vị phù du như chim hoa cá kiểng, hoặc coi hành vi của các vị nhiều phần chỉ như của trẻ con hư.

Nếu người ta đã xem thường mình như thế, thì đến ngay cả khi mình phạm tội, cái tội ấy cũng có cơ bị người ta xem thường nốt.

Vậy nên, việc bắn chết gấu của các vị rất dễ bị người ta phẩy tay bỏ qua, chỉ coi là một chuyến thực tế lên mây của mấy ông làm thơ say rượu lỡ tay cò.

Và thế thì, mọi chuyện chẳng đâu vào đâu cả. Kế hoạch của chúng ta tan nát. Các vị được thả, mà gấu thì mất.

Ồ, nhưng vẫn chưa mất hết. Vẫn còn túi mật. Ngâm ra cũng được mấy bầu rượu (thơ).

7. Biết tin ai bây giờ?

Như thế này:

Ông bà chủ giàu sang có mỗi cô con gái rượu. Hàng ngày cô có anh tài xế đưa đi học. Một hôm cao hứng, anh ôm cô, hôn. Cô tát cho anh một cái rồi đi mách bố mẹ. Anh tài xế thế là bị đuổi việc.

10 năm sau. Cô gái đã bỏ chồng. Ông bà chủ sa sút. Biệt thự bán đi. Ðã có lúc cùng quẫn cả nhà đe nhau treo cổ. Anh tài xế ngày xưa đột ngột xuất hiện, tay hoa hồng, tay chai rượu, đến cầu hôn.

Cô gái không yêu nhưng đồng ý, với điều kiện: anh phải trả cô 200 triệu và chỉ 6 tháng vợ chồng.

Họ về sống với nhau, ngay trong ngôi biệt thự cũ (anh đã mua lại).

Làm ơn lấy giấy, bút, và hãy làm bản trắc nghiệm sau, xong tôi nói bạn nghe chuyện này...

Bạn là cô con gái nói trên. Khi lấy anh tài xế, bạn vẫn chỉ mong cho hết 6 tháng hợp đồng hôn nhân trên. Những ngày đầu mới về, bạn thấy gớm mỗi khi anh chồng này đến ôm lấy bạn. Anh đụng đến người là bạn né. Cho nên:

1. Những lúc anh đùa âu yếm:

Bạn cười gượng gạo hoặc không cười, lảng tránh

Bạn liếc mắt, mắng yêu anh ấy.

2. Bạn không muốn ngủ cùng anh ấy. Buổi tối:

Bạn lên ngủ với con riêng của bạn.

Bạn khiêu khích: "Mèo mà chê mỡ à!"

3. Có một cô gái là bạn thân của anh ấy đến tìm. Cô rất đẹp, và lẳng lơ. Anh ấy không có nhà. Bạn xông ra:

Tiếp đãi bình thường, nghĩ bụng: "Có con này càng tốt."

Ghen tuông lồng lộn. Xưng mình là vợ. Làm cho cô kia mất mặt.

4. Rồi đến lúc, bạn thấy yêu anh ấy vì anh ấy quá tốt với con bạn, bố mẹ bạn, và bạn. Bạn không muốn ngủ một mình nữa. Bố mẹ bạn lại thúc giục việc ngủ chung. Anh ấy cũng muốn ngủ chung. Bạn gọi anh ấy sang phòng bạn:

Mọi việc sẽ diễn ra bình thường.

Chỉ là đóng kịch. Ðợi đến khi bố mẹ bạn ngủ rồi, bạn bắt anh ấy phải quay về phòng của mình.

Rồi, bạn thuộc loại (a) hay là loại (b)?

Tôi có hỏi một số người, tất cả là (a). Tôi cũng vậy.

Thế người là (b) thì sao?

Tôi cắt và ghép lại đây cho bạn thấy (b) là người nào:

Khi lấy anh tài xế, bạn vẫn chỉ mong cho hết 6 tháng hợp đồng hôn nhân trên. Những ngày đầu mới về, bạn thấy gớm mỗi khi anh chồng này đến ôm lấy bạn. Anh đụng đến người là bạn né. Cho nên những lúc anh đùa âu yếm, bạn liếc mắt, mắng yêu anh ấy. Bạn không muốn ngủ cùng anh ấy. Buổi tối bạn khiêu khích: "Mèo mà chê mỡ à!" Có một cô gái là bạn thân của anh ấy đến tìm. Cô rất đẹp, và lẳng lơ. Anh ấy không có nhà. Bạn xông ra, ghen tuông lồng lộn, xưng mình là vợ, làm cho cô kia mất mặt.

Rồi đến lúc, bạn thấy yêu anh ấy vì anh ấy quá tốt với con bạn, bố mẹ bạn, và bạn. Bạn không muốn ngủ một mình nữa. Bố mẹ bạn lại thúc giục việc ngủ chung. Anh ấy cũng muốn ngủ chung. Bạn gọi anh ấy sang phòng bạn, nhưng chỉ là đóng kịch. Ðợi đến khi bố mẹ bạn ngủ rồi, bạn bắt anh ấy phải quay về phòng của mình.

Ðó là kịch "Hợp Ðồng Hôn Nhân", đang diễn ở Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần. Ðúng là một khối lùng nhùng của những phản ứng bất nhất. Bản trắc nghiệm trên mới chỉ ra cái sự bất nhất của cô con gái. Tôi còn có thể làm thêm bản trắc nghiệm cho hai vợ chồng ông chủ, của anh chồng cũ, và nhất là của anh tài xế. Bất nhất đến nỗi nhân vật không còn tính cách. Họ chỉ còn là những cái xác đựng những phản ứng bất chợt của biên kịch. Có lẽ trong lúc viết, biên kịch nghĩ cái phản ứng này thì gây hiệu quả sân khấu đây, và cứ thế nhồi vào nhân vật, bất kể lúc đầu mình định nặn nó thành người tốt hay người xấu.

Có người bạn tôi làm một bộ phim tài liệu nhỏ về kịch nói Việt Nam. Nhận xét của chị về kịch VN là: tâm lý không lô-gích nên dẫn đến kịch tính giả tạo. Thôi, chị không phải mắng chúng tôi chị ạ. Chúng tôi đã phải trả giá rồi đây, không thấy sao: sân khấu kịch sống mà như chết. Chết theo một cách khác, sân khấu hơn. Nghĩa là khán phòng vẫn đông, màn hạ vẫn có vỗ tay, lúc diễn thì khán giả cười vang từng chặp. Nhưng kịch mới chỉ động được ví người mua vé mà chưa động đến trí não người xem. Người ta ngồi xem diễn viên vấp té, nói giỡn trong một tư thế hưởng thụ thụ động như xem "Trong nhà ngoài phố" ở truyền hình. Thụ động vì người ta không giật mình nhận ra bản thân ở những nhân vật kịch đó. Mà nhận ra sao được, mỗi nhân vật ở đây, như đã nói, tính cách bất định, giả tạo, có lẽ chỉ tồn tại dưới ánh đèn lung linh của sân khấu (Việt Nam), làm gì có giữa ánh sáng ban ngày của cuộc đời thực.

Có câu chuyện nhỏ sau, chắc nhiều người đã biết: một ông bố mang thằng con bé tí ra bờ biển, bảo nó bơi đi. Nó nói, con không biết bơi, chết thì sao. Bố nó bảo, chết sao được, tao ở đây mà. Nó nhảy xuống bơi và bị sặc nước. Trong cơn vùng vẫy, nó thấy bố mình đứng khoanh tay trên bờ. Thoát chết, nó đến sừng sộ, sao bố nói thế kia... Bố nó bảo, tao muốn cho mày biết, không tin ai được, kể cả bố mày.

Một cách nào đó, đi xem những vở kịch bất nhất kiểu này cũng là một cuộc luyện-bơi-không-tin-nổi-bố. Bạn sẽ thấy ở đời đúng là không tin ai nổi, bởi vì chẳng hề có quy luật của tình cảm, tâm lý ở đây nữa: lúc (biên kịch và đạo diễn) đã hứng lên rồi thì ai cũng có thể hành động ngược với bản chất của mình, bất chấp những nguyên tắc về lô-gích tâm lý đã được dạy ở... trường sân khấu.

8. Cái bệnh hòn non bộ

Năm nào cũng thế, cứ đến dịp Tết là có hội Hoa Xuân, thi mai kiểng, lan đủ màu, với hòn non bộ. Tôi rất thích xem khu hòn non bộ. Ðúng như một bài viết, lâu rồi (của nhà văn Sơn Nam? Trên Tuổi Trẻ?), đã giải thích vì sao người ta thích hòn non bộ, ấy là vì cái gì nó cũng có: một tí nước, một tí núi, một tí cá, một tí tiều phu, một tí lãng mạn, một tí hoang sơ, một tí chỉn chu, một tí hùng vĩ, một tí tí...

Nhưng không phải cứ "một tí" là thích. Cho nên mới có hòn non bộ đẹp và hòn non bộ xấu.

Một người chơi non bộ nói với tôi: hòn non bộ đẹp khác hòn non bộ xấu ở chỗ có để lộ ra cái tính chất "mỗi thứ một tí" đó của mình hay không. Hay nói cách khác nữa, hòn non bộ đẹp là thu vạn vật lại trên một đầu kim, trong khi hòn non bộ xấu là lấy kim chọc mỗi nơi một tí.

Nếu bạn đang ở Hà Nội, bạn có thể đến Fansland, xem một bộ phim Việt Nam có tên là Vua Bãi Rác. Tôi gọi phim này thuộc nhóm "hòn non bộ xấu".

Khoảng 20 phút đầu của phim quả thật đã làm được cái mà các phim Việt Nam khác hiếm khi làm được, đó là: cuốn hút người xem.

Câu chuyện mở ra bằng một anh chàng đi chơi gái. Anh gặp một cô gái trinh trắng, bị bố ép làm "gái". Anh đưa cô về nơi mình sống. Hệt như chuyện Vua Sáo, cô biết được người yêu mình chính là một ông vua, với vương quốc là bãi rác ngoại thành Hà Nội, cùng những thần dân móc rác một lòng kính nể, và những luật lệ chỉ có ở riêng đây...

Quả thật, một cái tứ khởi đầu như thế đã có thể là một miếng mồi ngon cho nhiều nhà biên kịch. Chỉ khai thác đời sống lạ lùng ở bãi rác, cùng cá tính của ông vua rác kia thôi, mà khai thác đến cùng, hợp logic, thì đã có thể hấp dẫn hết sức; bởi đó là mảnh đất (theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng) mà đa phần chúng ta không biết gì về nó. (Chúng ta chẳng phải đã từng bị những phim về maphia, về gái điếm, về đua xe... thu hút sao? Với điều kiện, thông tin về những thế giới xa lạ ấy phải "thật", phải "giàu có"...)

Nhưng trong Vua Bãi Rác, bạn chỉ gặp một bãi rác uể oải, nhợt nhạt, không mùi, thiếu thông tin, đến mức bạn có thể thay bãi rác bằng bãi gì cũng được: bãi bốc vác, khu chích hút, bãi cá... Có vẻ như một hôm, cái tứ hay hay "làm-vua-trên-đống-rác" bay qua đầu đạo diễn, và thế là ông quyết định xin kinh phí làm phim; Chứ bộ phim không phải là một sự thôi thúc đến điên người của tác giả, muốn làm cho được một bộ phim, để thể hiện cho hết những hiểu biết của mình về đời sống cơ cực tại bãi rác, về số phận một ông vua bãi rác; hay để trình bày một triết lý về người-trong-rác... đủ sâu, đủ đầy.

Và có lẽ cũng là cái bệnh chung của phim ta. Hình như luôn luôn cái tứ (là cái tóm tắt trong 2- 3 dòng, đủ cho nghệ sĩ rung đùi) thì nhiều, còn phần tư liệu, phần vốn sống (là phần mồ hôi, khổ nhọc đi thực tế của nghệ sĩ) để nâng cái tứ đứng được, thì mỏng. Thiếu thông tin của bối cảnh xảy ra câu chuyện, thiếu một triết lý đủ sâu sắc và mạch lạc, chỉ với cái tứ đơn thuần và chút chi tiết hời hợt, người làm phim không tài nào đi hết được 90 phút phim.

Ý chính không đủ lớn để đi hết đường, thì sa vào ôm đồm ý tưởng (vặt). Và thế là lâm vào thế "chọc mỗi nơi một tí" của hòn non bộ xấu. Quả thật, bộ phim "Vua Bãi Rác" như một người dùng một cái que cời rác chọc vào mỗi nơi một tí (sau khi đã chọc vào bãi rác một cách hời hợt): chọc vào du côn, chọc vào tình yêu, chọc vào tình người, chọc vào tranh vẽ, chọc vào (cả) nghệ thuật sắp đặt...

Chọc vào mỗi nơi một tí xong hình như lại hoang mang, sợ mình không đủ cao, không đủ sâu, không đủ trữ tình, không đủ dữ dội..., và thế là cứ đắp thêm vào tiếp, tung ra tiếp trăm thứ bà rằn cho cái tư tưởng của phim dầy dặn lên, bề bộn lên.

Nhưng, tung ra cho lắm rồi không quản nổi, nhân vật, tình huống như con nhà đông anh em, bỏ đi lúc nào, bất nhất lúc nào, chết lịm đi ở đâu..., đạo diễn cũng như buông tay, tặc lưỡi cho rồi. Phim cứ đuội dần, đuội dần theo các câu chuyện giải quyết vội vàng, đơn giản. Cái hấp dẫn trong khoảng 20 phút đầu đã bị cái ham muốn làm hòn non bộ đè cho nhợt nhạt suốt 70 phút còn lại.

Viết đến đây, tôi nhớ ra và phải nói ngay, rằng nếu bạn chưa xem, thì có lẽ bạn nên thuê băng về xem, một bộ phim của Mỹ có tên là "Chiến Hữu".

Phim lâu rồi, cốt truyện không có chuyện. Chỉ là một quãng đời của một tay anh chị. Cả phim là lời kể. Toàn là những chuyện bình thường, sinh hoạt "bình thường": lấy vợ đẻ con buôn thuốc phiện giết người... của tay anh chị; và đạo diễn chỉ tập trung vào cái gọi là "chiến hữu" trong thế giới maphia ấy; Dùng tất cả kiến thức của mình về thế giới maphia, với dày đặc chi tiết đời sống (mà hẳn là đã phải khổ công tìm hiểu), cắm cúi đi theo một chủ đề, bám theo nó tới cùng. Xem xong phim, đảm bảo bạn sẽ ngẩn ngơ mất ít nhất nửa ngày, như nhớ lại một cuộc thám hiểm một thế giới lạ lùng, và ngẫm nghĩ mãi về điều mà đạo diễn muốn nói, (đạo diễn nói gì, tôi xin không nói lộ ra với bạn.)

Nhưng thôi, đó là phim người ta, nói nhiều bạn lại bảo tôi là vọng ngoại. Quay lại với "Vua Bãi Rác", nếu bạn vẫn còn đọc tới đây, thì tôi khuyên bạn nên đi xem ngay phim này. Ít ra bạn được thấy 20 phút đầu hấp dẫn hiếm hoi của phim Việt Nam. Còn khoảng 70 phút sau, nếu bạn đang học lớp biên kịch trường Ðiện Ảnh, thì bạn thử làm bài tập này xem: rằng bạn có thể san bỏ bớt phần nào, đào sâu thêm khúc nào, để khối chất liệu làm phim đó không trở thành một hòn non bộ xấu.

9. Cái Đẹp, Cái Nết, Cái Nào Chết

Mấy tuần qua, báo chí đã nói nhiều về cuộc thi "Hoa hậu Việt Nam qua ảnh", do một tờ báo của phụ nữ[1] cùng một công ty mỹ phẩm chủ trì.

Chung quy nội dung cuộc bàn luận, là: vì sao để các em (tuổi) còn bé thế mà đi thi. Bé quá, già như tôi khéo ngồi xem tuy có thích cũng phải hơi ngượng, thấy mình tự nhiên thiếu tư cách phụ huynh khi cứ nhìn chằm chằm vào người các cháu. Và theo lời một bà cụ xem T.V có biết tí Nguyễn Du, thì có thí sinh ở đây còn bé hơn cô Kiều lúc bán mình.

Khía cạnh đạo đức, lợi hay hại, nên hay không nên, trách nhiệm thuộc về ai... thì mọi người đã bàn kỹ lắm rồi. Ở đây, tôi thì thấy hé ra một chuyện khác. Ấy là cái tính bất nhất của phụ nữ.

Sự bất nhất của phụ nữ, ai cũng biết, muôn đời là cái đau đầu cho cả đàn ông (lẫn đàn bà).

Sự bất nhất của Hội Liên hiệp Phụ nữ dĩ nhiên còn làm đau đầu gấp bội.

Bởi vì Hội có tiếng nói của mình, ấy là báo Hội. Và tiếng nói này có tác động đến xã hội hẳn hoi. Thế mà hóa ra tiếng nói ấy cũng có lúc này, lúc khác, tuy phát âm kiểu gì cũng chặt chẽ, nhưng chính thế mới làm điên cái đầu chị em độc giả.

Trước tiên, nếu bạn là độc giả cần cù của những tờ báo thuộc Hội Liên hiệp Phụ nữ, "mưa lâu thấm đất", bạn sẽ thấm nhuần cái câu mà khi còn trẻ, còn tí sắc, chẳng bao giờ bạn tin: "Cái nết đánh chết cái đẹp".

Báo của Hội, lúc nào cũng thế, mục nào cũng thế, từ hỏi đáp tâm tình cho đến mua sắm, nấu ăn... đều tôn vinh "cái nết", từ cái nết ăn mặc kín đáo (không anh ấy coi thường), cho đến cái nết cắn chặt răng sống đời trầm cảm, đợi qua cơn (anh ấy sẽ về mà, con ranh ấy chỉ là đồ mất nết!)

Thế đấy! Biết bao nhiêu phụ nữ nước ta (nhất là phụ nữ không thể thi hoa hậu) đã tựa vai tin cẩn vào những trang báo Hội, như một điện thờ của sự đoan trang, một pháo đài của giữ gìn đạo đức gia đình, như một vòng tay an ủi những ai thừa hương mà thiếu sắc.

Ấy nhưng,

Chỉ cần có một nhà tài trợ, một ngày kia xách cặp đen đến rủ rê thôi, thì hỡi các chị em công nhân viên chức, các chị em nội trợ, buôn bán nhỏ! Chính tờ báo kia của Hội Liên hiệp Phụ nữ- chỗ dựa tinh thần của các chị - sẽ bắt tay với nhà tài trợ, dẹp qua một bên những lý thuyết "kín đáo" với "duyên ngầm", mà biểu diễn chứng minh cho các chị một câu nói lâu nay các chị vẫn ngấm ngầm lo: "Cái đẹp dẫm bẹp cái nết".

Và, ác một cái, để cho các chị choáng váng, họ lại dùng đến rất nhiều "cái đẹp" bé tí teo, có khi mới lớp 9, lớp 10. Bé đến mức phải dùng đến chữ "vô đạo đức", khi ngày thường có thể chính các cô bé ấy bị bố mẹ cấm đi chơi quá 9h tối, nay lại được đem ra tỉ thí ba vòng; rồi thịt da trẻ con mềm như sữa, quay ngang cùng nghiêng ngửa cho hàng ngàn, hàng ngàn người già, người lớn xăm soi. So ra, chẳng khác nào tôi bảo con gái tôi, nào con mặc áo tắm vào, lên phòng khách lượn vài vòng cho mấy bác ở cơ quan mẹ xem một tí. Và người xem vừa xem vừa thắc mắc, chà, cái bà (Hội) phụ nữ này, bà thật là bất nhất. Ngày thường bà nói chuyện đạo đức trên báo, bà vẽ đường bày cách chính chuyên cho người ta kéo chồng về lại tổ ấm; rồi bây giờ cũng chính bà lại khuyến khích trẻ con gái nhà người ta sớm biết khoe thân.

Nhưng sự bất nhất này cũng tìm được lý do. Bà Phó chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - cũng là thành viên của Ban tổ chức cuộc thi, đã nói trên một báo khác: "Phụ nữ VN hiện nay ngày càng đẹp hơn và trí tuệ hơn trước."

Như vậy, có thể hiểu rằng mọi việc đã ổn. Vòng đầu của các thí sinh đã to hơn xưa, đủ để "bảo lãnh" cho việc biểu diễn ba vòng còn lại trên sân khấu.

Vả lại, đã có biết bao nhiêu số báo, bao nhiêu hoạt động để cổ vũ, động viên sự "đẹp nết", thế sao lại hẹp hòi với sự khuyến khích "đẹp người" nhỉ! Dù hình thức cổ động sự "đẹp người" lần này hơi khác thường một chút khi dùng cả đến học trò cấp II, nhưng xét cho cùng, cái đẹp cũng như cái nết, không phân biệt tuổi tác. Các chị tốt nết có thể giữ được cái nết đến tận khi đầu bạc răng long, thì tại sao các cháu bé kia không có quyền phô một vài vòng lúc vừa mới... thi chuyển cấp?

Thế đấy! Các chị em vẫn đọc báo Hội! Sau cuộc thi này, có thể các chị sẽ hoang mang mất một lúc. Các chị không còn tin vào đường hướng thuần phong của Hội nhà nữa, và các chị đâm lo âu vào giá trị của mình.

Thế nhưng, may thay, anh nhà là người tinh tế (và nhất là anh biết thương chị). Sau khi xem truyền hình trực tiếp cuộc thi xong, giấu nỗi buồn tuổi tác và "lực bất tòng tâm" thật kín đáo, anh xuống bếp rửa mặt rồi lên nhà, vừa ngáp vừa nhìn chị cười buồn bã: "Trẻ con mà toàn son phấn. Thua xa em giản dị mỗi áo dài!".

10. Cái không thuộc về y đức

Hôm qua là ngày thầy thuốc Việt Nam. Hôm qua chúng ta đã tặng hoa và những lời biết ơn.

Nhưng bên cạnh lòng biết ơn chân thành đó, thì cũng phải xét đến điều sau.

Ðó là, phàm ở đời, cái gì người ta càng cần thì càng sợ bị mất lòng. Càng sợ bị mất lòng thì đến dịp cần chúc mừng thì càng chúc mừng nhiều. Thí dụ, kỷ niệm ngày thành lập ngành cao su thì mấy ai nhớ, nhưng ngày hiến chương các nhà giáo thì phụ huynh lũ học trò đã nô nức từ tận mấy hôm trước.

Có lẽ dân ta đối với ngành Y nước ta cũng vậy, mà còn nặng hơn. Bởi vì cái ngành này không chỉ liên quan đến sinh tử, mà còn dính líu đến vô vàn điều không liên quan đến sinh tử, nên cái "cần" và cái "sợ" của người dân đối với ngành này đi liền với nhau, lẫn lộn vào nhau, quyện thành một khối treo lơ lửng trên đầu; đầu người bệnh, và nhất là, đầu người nuôi bệnh.

Tôi còn nhớ, một lần cô tôi đi xe máy và bị ăn cướp giật giỏ xách, làm gãy tay

Người ta đưa cô vào bệnh viện, nằm ít hôm, chờ mổ đóng đinh vào trong xương.

Cô nằm đó, thật như một bà hoàng, ngủ thiêm thiếp cả ngày, tỉnh dậy là ăn một tí, rồi nhìn ngó chung quanh, xem mấy trang báo, đòi uống nước cam, rồi lại lim dim ngủ.

Chỉ có chúng tôi - những người đi nuôi cô là khổ.

Bị cuốn vào dòng xoáy nuôi bệnh rồi, chúng tôi không còn đầu óc đâu mà nghĩ về bệnh tật, sinh - tử. Cũng không nghĩ tới viện phí hoặc giấy tờ.

Chúng tôi chỉ đau đáu nghĩ tới giờ cô đòi... đi vệ sinh, vì mỗi lần như thế, cả đám lại phải đối mặt với cái tưởng là bé nhất mà thật ra lại rất to của các bệnh viện nước mình, ấy là khu nhà vệ sinh, tắm giặt.

Ở cái bệnh viện rất to ấy, rất đông người bệnh và người nuôi bệnh, mà cái khu vực tối quan trọng này lại ẩm thấp và tối tăm, tanh tanh mùi bông băng, đèn tù mù soi những sọt đầy giấy và rác. Ðưa cô tôi vào rồi thì bọn tôi chỉ muốn về nhà để "tẩy trần" ngay.

"Thế này là còn tốt", vẫn có người nói thế.

Bởi vì ở một bệnh viện khác, tại khoa dành cho người bị liệt nửa người, mà phòng vệ sinh là "xí xổm", khiến có bệnh nhân già yếu đành phải chọn cách ngồi bệt xuống, xung quanh là nước chảy ướt đầm đìa...

Hay như ở một bệnh viện lớn khác, nhà vệ sinh cho sản phụ lại ở ngoài hành lang đầy gió, bên trong không có đến một cái đinh móc áo, một cái gương con tối thiểu tiện nghi. Chỉ có một cái xô bẩn, mấy cái vòi, và nước thì lạnh toát. Bồn vệ sinh thì rất bẩn, người nhà thà nhịn còn hơn là phải rùng mình.

"Thế này là còn tốt". Ai cũng nhăn mặt nói thế, trong bệnh viện cô tôi nằm.

Có đi nuôi bệnh thì tôi mới "ngộ" ra, người ta sợ bệnh nhiều phần không phải vì "bệnh" mà vì sự mất vệ sinh của "bệnh viện".

Nếu như bệnh viện của ta cũng như trong phim truyền hình Hàn Quốc: ai cũng sạch, chỗ nào cũng sạch - giường bệnh, nhà tắm, với lại căng tin... thì có lẽ mỗi khi có bệnh, người dân ta đã không trù trừ khi quyết định nhập viện như thế này, đến mức người nhà nhiều phen phải năn nỉ rồi dọa nạt.

Thế đấy, cái đức hy sinh, không muốn làm phiền người khác của dân ta, nhiều khi là do hoàn cảnh (y tế) xô đẩy mà có. Lắm lúc ta không muốn nhập viện không phải vì sợ dao kéo hay kim chích; chỉ vì nghĩ đến cảnh kẻ đi nuôi mình sẽ phải ăn uống, tắm rửa, vệ sinh trong bệnh viện không thôi đã thấy rợn người, mà thương.

Vào nuôi người trong bệnh viện rồi, mới thấy ngành Y tế nếu thương bệnh nhân và người nuôi bệnh một chút, thì cũng chẳng cần phải làm gì nhiều lắm đâu: chỉ cần nghĩ rằng họ cũng như ta, cũng có cái nhu cầu được ăn trong một căng tin sạch sẽ, được tắm giặt trong một nhà tắm sạch sẽ, được thảnh thơi về những nhu cầu vệ sinh tối thiểu, dành tâm trí cho những điều đáng để lo hơn.

Và khi bất lực rồi, thì lại chỉ mong sao có ngay được một ông giám đốc bệnh viện sâu sát và quyết đoán như ông thủ tướng Hun Xen: ông này từng ra lệnh cho khu du lịch Ankor Wat phải xây nhà vệ sinh đàng hoàng, không thì ông cách chức.

Nhưng điều này có lẽ cũng rất khó. Bởi vì ông giám đốc bệnh viện kia hẳn cũng là bác sĩ.

Mà ngày ra trường của các bác sĩ, chắc có lẽ người ta chỉ đọc lời thề Y đức, mà không đọc lời thề Vệ sinh.

11. Có đổ tội được mới nhẹ người

Thưa ngành du lịch,

Tôi biết tôi có những cái tội sau, mà với tư cách một công dân thì e khó có thể tha thứ:

1. Nắm thông tin gì về nước mình cũng lù mù dù mỗi ngày đều có đọc báo, xem TV.

2. Ở ngay trong thành phố mà không biết thành phố mình có cái gì đẹp. Ðến khi “cái gì đẹp” sắp bị phá đi thì mới giật mình.

Tôi phát hiện ra những cái tội này khi hôm trước, đọc báo Tuổi Trẻ, thấy có cả một chuyên đề nói về dự án Ðại lộ Ðông Tây cùng những di tích có thể bị dự án này phá bỏ trên đường đi thần tốc của nó, rồi sau đó, tôi mới hối hả rủ một chị bạn đi dọc theo bến Bình Ðông cùng kinh Tàu Hủ, thăm thú những con đường (nghe nói) sắp bị phá đó. Và chị bạn tôi nói, “Hóa ra Sài Gòn có hẳn cả một vùng đẹp thế này sao?!”

Thưa ngành du lịch,

Với tư cách công dân của thành phố Hồ Chí Minh, tôi thấy mình có lỗi, vì lâu nay bạn bè phương xa đến, tôi chỉ quẩn quanh dẫn vào chợ Bến Thành mua guốc, sau đó vào chùa Vĩnh Nghiêm xem tượng, đi vòng quanh khu Nhà thờ Ðức Bà với Diamon Plaza xem này chúng tao chẳng thua gì chúng mày, buổi tối thì lên Bình Quới ăn thức ăn khẩn hoang, và ngày hôm sau thì đăng ký ngay một chuyến “Mekong Delta”, đêm nằm nghĩ đến ngày về Sài Gòn mà rởn tóc gáy, tao dẫn mày đi đâu bây giờ?

Tôi lại còn để cho bạn phương xa thích thú chụp những bức ảnh của Hành lang Eden ngày xưa giờ điêu tàn ngay giữa lòng thành phố, hoặc những dãy nhà cổ bề thế Quách Ðàm xây quanh chợ Bình Tây hoang phế hàng chục năm như những dãy nhà ma. Tôi đã không cãi lại khi chúng nó nói: “Thành phố này có cũng như không có công viên.” Và thú thực là tôi đã hào hứng mua vé máy bay hộ chúng nó đi Hội An, kèm theo một câu thiếu tinh thần địa phương hết sức, là: “Hội An làm du lịch tốt hơn Sài Gòn gấp bội.”

Tôi xin lỗi, tôi có tội.

Nhưng làm cho tôi mắc cái tội trên, thì là tội của ai?

Ði buổi tối dọc kinh Tàu Hủ. Tối không đủ nhìn thấy rác trên dòng nước thẳng tắp mà theo sách cụ Vương Hồng Sển viết là đào bằng tay từ thế kỷ thứ 19, để “trở thành con đường chiến lược” một thời, với những nhà máy xay lúa trên bờ cũng một thời vang bóng; Chỉ thấy hai bên bờ, chen giữa những nhà ống mới xây là những tòa nhà cổ rất đẹp, cùng không khí của sông nước ngang dọc mênh mang rất Nam bộ.

Thưa ngành du lịch,

Bây giờ thì đến “tội” của ông (bà).

Sao có cả một khu vực (có thể thành) hữu tình thế này mà không khai thác thành một khu đi dạo như kiểu Hội An, cho tôi có thể dẫn bạn đến chơi và thả bộ, ghé vào cửa hàng này mua lụa, tạt vào quán nhỏ này ăn bát chè; thăm những căn nhà cổ bán sách và quà lưu niệm, và buổi tối có thể ấm áp đèn lồng trước cửa nhà dọc suốt hai bên bờ?

Thưa ngành du lịch,

Tôi đã nghĩ ra cách chuộc lỗi của tôi rồi: tôi sẽ chụp lại thật nhiều ảnh của cái khu Bình Ðông này, để sau này đổi thành màu đen trắng hay nâu nâu, cho con cháu nhìn, một khi những khu phố không còn nữa.

Với cái máy tính, tôi có thể xóa rác trên dòng kinh, đổi màu dòng nước, xóa nhà ổ chuột bên bờ, trồng thêm cây vào, dặm vá lại các tòa nhà cổ, thay những căn nhà ống bằng những tòa nhà giả cổ. Những gì các vị không làm được thì cái máy của tôi làm được hết.

Nhưng, tôi đang lo. Nếu con tôi nhìn thấy những cái ảnh này, thì nó sẽ hỏi: “Phố du lịch đẹp thế này, sao lại phá?”

Thế thì tôi bí mất. Chi bằng cứ để nguyên trạng thế này trên ảnh, và vu cho là nó xấu, nó mục nát, nó không phục hồi được, mới phải phá đi. Thế có lẽ tiện hơn, phải không ạ?

Tôi đã nhận ra lỗi, và nhận lỗi. Lại tìm ra giải pháp làm yên ả cái lương tâm (công dân) tôi.

Lại càng yên ả hơn, khi tôi đã đổ được một phần lỗi của tôi sang một cơ quan có thẩm quyền khác.

12. Có đức mà không có tài

Ở một trường P.T.C.S miền núi phía Bắc, có một ông hiệu trưởng tên Tành quê Nghệ Tĩnh và hai cô giáo miền xuôi còn trẻ, Giao và Minh.

Trường chỉ có hai phòng học, và những giáo viên là những người đã bị Bộ Giáo dục bỏ quên. Tuy nhiên, họ vẫn cố gắng, bằng cách của mình, duy trì các lớp học.

Ông hiệu trưởng vô cùng tốt bụng nhưng dốt nát. Ông đem lòng yêu cô giáo Giao, nhưng cô yêu một anh chàng thăm dò địa chất, cũng người miền xuôi lên. Chuyện ân ái của cô và người yêu bên suối bị học trò bắt gặp. Và hậu quả là sau đó bọn học trò lớp cô Giao nghỉ gần hết vì cho rằng cô giáo như thế là xấu.

Cô giáo còn lại (Minh) đem lòng yêu ông hiệu trưởng, nhưng không được đáp lại, cô tự ái bỏ về xuôi.

Không còn cô giáo nào, ông hiệu trưởng phải một mình cáng đáng hai lớp học gồm khoảng mấy chục học trò với trình độ mới ở mức tập đọc, chính tả, và định nghĩa góc nhọn. Nhưng cố gắng đến mấy, ông cũng không thể nào dạy nổi, ông chỉ biết hát dân ca và cho đọc lại những gì các cô giáo đã dạy. Trường học miền núi thế là tan.

Ðó là phim "Thung Lũng Hoang Vắng", mà trong brochure giới thiệu là "một bài thơ về nỗi cô đơn nhưng rất nhân bản". Xem rồi lại nhớ một bộ phim của đạo diễn Pháp, Bertrand Tavernier - phim "Bắt Ðầu Từ Ngày Hôm Nay......", nói về công việc của một thầy hiệu trưởng trường mẫu giáo vùng mỏ nghèo. Thầy phải đấu tranh với cái tăm tối của phụ huynh, cái thiếu hỗ trợ của chính quyền, và cả cái phá phách của đứa con riêng của vợ thầy. Cái sự cô đơn của thầy là sự cô đơn giữa đông đúc người, của một trí thức đang đấu tranh cho quyền lợi cộng đồng mà chưa đạt được kết quả. Nhân vật này làm người xem phải giật mình, tự hỏi rằng mình lâu nay đã thực sự sống cho ra sống chưa, khi chỉ dùng năng lực và kiến thức của mình vào những công việc có ích cho riêng bản thân.

Nhưng để làm cho người xem giật mình và soi lại bản thân, thì đầu tiên, ông hiệu trưởng của Tavernier phải là một người giỏi trong chuyên môn cái đã. Chúng ta hay nói, có đức mà phải có tài. "Tài" đâu nhất thiết phải tài năng bẩm sinh, hơn người, mà đây chính là cái mà ông André Maurois đã viết, đó là sự đi đến tận cùng trong công việc mình làm, trong việc mình được giao, không thể lấy "miệng mồm đỡ chân tay", hay chân tay đỡ trí não được. Và đó lại là phẩm chất mà ông Tành của "Thung Lũng Hoang Vắng" thiếu hoàn toàn.

Nếu như trong phim "Thung Lũng Hoang Vắng", các cô giáo chỉ gọi "anh Tành ơi" mà không gọi là "thầy hiệu trưởng ơi" thì người ta đã nghĩ ông Tành chỉ là một người làm tạp vụ tốt bụng trong trường: sáng ra đánh kẻng vào lớp, vận động học trò đến lớp; đi chợ mua rau, thắp đèn dầu, sửa mái lá... Chắc rằng thầy giáo miền núi thì phải làm kiêm nhiều thứ hơn thầy giáo miền xuôi, nhưng cái ông Tành này, ngoài những việc nêu trên, hoàn toàn không thấy có một phẩm chất gì thuộc về chuyên môn nhà giáo, chưa nói gì đến chuyên môn hiệu trưởng. Chưa bao giờ thấy ông đọc sách, kiểm tra giáo án. Buổi tối thì ông uống rượu (trong khi các cô giáo phải vào bản dạy lớp tối), hoặc ông sang phòng giáo viên nữ ngồi thừ ra làm người ta khó xử. Cái tốt của ông đi kèm cái dốt và tình cảm lộ liễu, nếu tôi mà là giáo viên như Giao, như Minh, ở một nơi hoang vắng như thế, chắc tôi đã phải gai người.

Xem phim xong, cứ thắc mắc hoài, vì sao một người như ông Tành, chịu bao nhiêu năm xa quê để sống với ngôi trường miền núi, tâm huyết đến mức khó tin với việc làm sao cho học trò tới lớp như thế, mà lại bàng quan với những gì học trò học trong lớp đến vậy. Và một thầy hiệu trưởng mà sao dốt thế không biết! Ông này học trường nào ra? Ai cử ông làm hiệu trưởng? Hay là Bộ giáo dục (trong phim) thấy ông dốt mà tốt, Bộ cử ông làm cái chức này, để Bộ dễ bắt nạt và bỏ mặc ông?

Ra khỏi phòng chiếu rồi còn thấy thương. Cái sự cô đơn của ông Tành, quả thực chẳng bao giờ giải quyết được đâu, trừ khi cho ông lấy cô Giao, hoặc cho ông về miền xuôi (nhưng phải tiếp tục làm hiệu trưởng, trong một ngôi trường có nhiều việc tay chân để làm).

13. Có giáo dục mà vẫn đáng ghét

Có những tài liệu in đã lâu, nhưng tính thời sự và đúng đắn của chúng vẫn còn thích hợp với ngày hôm nay. Nếu chúng ta đọc được, và đưa ra cho mọi người cùng đọc (thay vì giữ riêng làm tài liệu), thì đó là một cách tiết kiệm chất xám, của người đi trước, cho người đi sau. Ðó là chưa kể đến lợi ích tiết kiệm...giấy, bởi vì sách in ra đâu phải chỉ đọc trong một lần, một thế hệ.

Ðây là đoạn trích diễn văn khai mạc của Thủ tướng Nehru đọc tại Ðại hội lần thứ X của Tổng liên đoàn Giáo giới Quốc tế, diễn ra tại New Delhi vào năm 1961.

(Không thấy ghi tên người dịch của bài này. Xin thông cảm. Tít đoạn trích do người chọn đặt)

Tôi cho rằng khắp nơi mọi người đều lưu tâm đến giáo dục, bởi vì càng ngày người ta càng ý thức được rằng chính bằng giáo dục mà người ta có thể ảnh hưởng đến tâm trí chúng ta một cách thiết thực, và nhờ đó ảnh hưởng đến thời cuộc. Tôi nghĩ về bài mở đầu Hiến chương UNESCO, đã nói rằng chiến tranh khởi sự từ tâm trí con người. Vậy nếu chiến tranh khởi sự từ tâm trí con người chắc chắn như là nó đã xảy ra, thì người ta cần phải gây ảnh hưởng trên tâm trí nam nữ quần chúng.

...

Quý vị hội họp lại đây hôm nay để thảo luận những vấn đề này, trong khi khắp thế giới nhiều vấn đề nghiêm trọng đương diễn ra, và không một người nào có thể nói được việc gì sẽ xảy ra trong vòng mấy tháng sắp tới. Ðây thật là một tình trạng éo le và khó khăn, nhưng có lẽ chính sự khó khăn của tình trạng này có thể dẫn chúng ta đến chỗ suy nghĩ chắc chắn về những sai lầm trong sự suy tưởng của chúng ta - không phải chỉ chúng ta tại nơi này, mà nói chung cho mọi nơi khác. Có một cái gì chắc hẳn lệch lạc. Một bên, chúng ta đi đến kết luận rằng giáo dục cần phải là phương tiện để giải quyết những vấn đề của thế giới. Ðiều này thực rõ ràng. Nhưng chúng ta lại nhận thấy rằng những quốc gia và dân tộc có một nền giáo dục cao độ nhất trên thế giới, có tất cả những thuận lợi về mặt giáo dục kỹ thuật cũng như văn hóa, và đã thành công trong việc bài trừ được một số lớn những tai họa cố hữu mà từ trước nhân loại phải chịu đựng, như nghèo đói, v.v... lại không thể nào chung sống êm đẹp với nhau, mà còn nuôi căm thù đối với nhau.

Như vậy, đây là hậu quả của các chính sách giáo dục hay của sự thiếu giáo dục? Có phải giáo dục dẫn đến thù hận, mặc dầu có một sự hiểu biết lớn lao? Ðây là một vấn đề mà tôi xin đem ra để quý vị nghiên cứu. Tôi tin chắc rằng giáo dục là điều thiết yếu, và tôi không hề phản đối giáo dục, nhưng sự thật là giáo dục, hay nói đúng hơn - một lề lối giáo dục mà chúng ta đã có trước đây không dẫn đến những phương thức giao tế hòa bình và hợp tác cho thế giới; chính phương thức giao tế ấy là điều cốt yếu cho việc tiến triển, hay nói thẳng ra, cho sự sống còn của thế giới. Ðiều này làm cho tôi bối rối.

Và có điều làm cho tôi kinh ngạc, là trong khi nền giáo dục chắc chắn được quý mến, trở nên chính yếu và không thể tránh được, thì tôi lại không thấy những kẻ được giáo dục luôn luôn đáng mến. Thường thường họ có một tầm trí thức hẹp hòi và hay đổ gánh nặng lên những kẻ, mà họ xem như người dưới, họ hành động như vậy với tư cách một cá nhân, một đoàn thể, hay một quốc gia, bất chấp nền giáo dục của họ. Và mặc dầu đã được hấp thụ giáo dục, trên nhiều phương diện, họ cũng chỉ có được một trí óc hẹp hòi. Họ không nhìn vào trí óc người khác, đi sâu vào tìm hiểu, vì họ bắt đầu mọi việc bằng cách nghĩ rằng họ đã tìm được tất cả những gì họ muốn có trong đầu óc họ, và họ không chịu mở rộng trí óc đón nhận những cảm tưởng của kẻ khác. Chắc rằng đó không phải là một kết quả tốt đẹp của giáo dục. Giáo dục cần phải mở mang trí tuệ và làm cho một người có khả năng thấu hiểu những người khác, và để được người khác thấu hiểu họ.

Và từ ngày rất xa xưa, các hiền triết và vĩ nhân đã nói với chúng ta rằng: căn bản của một nền giáo dục thực sự là tự biết mình, - dù điều này có thể mang ý nghĩa nào đi nữa - và đôi khi hình như trong khi tìm kiếm sự hiểu biết, chúng ta thâu lượm được một mớ kiến thức mà vẫn không khám phá được sự khôn ngoan thêm, và do đó chúng ra vẫn không hiểu nổi chính chúng ta hay kẻ khác, mặc dù chúng ta thu lượm được vô số những bản thống kê về cách thức người ta ăn như thế nào, người ta ăn bao nhiêu, và người ta làm những gì. Chúng ta có những pho sách lớn, những tài liệu thống kê về kinh tế và về những thứ khác, tuy vậy chúng ta vẫn thiếu đức khôn ngoan và đức khôn ngoan đó thiếu chính vào lúc khó khăn xảy ra. Làm cách nào để luyện được đức tính ấy - một chút khôn ngoan trong bộ máy giáo dục của chúng ta? Phải, đó là một vấn đề đáng cho quý vị nghiên cứu.

Chớ có giật mình

Ðoạn trích này (không rõ người dịch) nằm trong một bài phát biểu của Sir Ronald Gould - Chủ tịch Tổng liên đoàn Giáo dục quốc tế - phát biểu tại hội nghị Liên đoàn Giáo dục Quốc tế vào năm 1961. Tựa đề do người chọn đoạn trích đặt.

Khi đọc "Candida" của Bernard Shaw, tôi cảm động trước tinh thần cao cả và lý tưởng của mục sư Morrell. Thế mà, vợ ông đã chỉ trích ông nặng lời: "Khi có tiền bạc để trao tặng thì chính ông đem cho; còn khi cần từ chối, thì lại chính tôi phải từ chối". Quả vậy, tất cả những gì dễ chịu thì phần ông, những gì khó chịu thì phần bà. Tuy ông có một tinh thần lý tưởng cao cả, chính ông là kẻ tính tình hèn kém hơn, đáng khinh đôi chút nữa là khác, bởi vì ông trốn tránh những trách nhiệm của ông.

Một nhà kinh doanh có nói với tôi rằng, ông có thể tìm được hàng tá nhân viên có khả năng và vui lòng thi hành các mệnh lệnh, nhưng ít khi ông tìm thấy một người nào nhìn được những gì phải làm và làm công việc ấy với trách nhiệm riêng của mình. Vậy nên không có gì đáng kinh ngạc về việc Truman đã treo trước cửa văn phòng ông ở Bạch Ốc phương châm này: "The buck stops here", nói cách khác, "Ở đây người ta không thể đổ các quyết định cần phản chọn lên lưng kẻ khác."

...

Tôi đã tham dự những buổi họp trong đó người ta phải đương đầu với nhiều công việc, và phải đưa ra những quyết định quan trọng. Tôi nghe một cách nhẫn nại những lời lẽ trống rỗng mà hoa mỹ, và những lời tuyên bố mơ hồ vu vơ không gây nên trách nhiệm nào cho kẻ nói ra.

George Orwell đã nhận xét: "Kẻ thù lớn nhất của một ngôn ngữ minh bạch là sự thiếu thành thật" và tôi tự hỏi sự mù mờ ấy là do sự không làm chủ được ngôn ngữ một cách đầy đủ, hay là có nguyên nhân sâu kín hơn, và do một sự thiếu thanh liêm đạo đức.

Tôi ghi lại những câu thường được dùng đến. Người thì nói: "Có lẽ tôi nhầm, nhưng mà...", kẻ khác nói: "Hãy sửa giùm tôi, nếu tôi lầm, vì đây chỉ là ý nghĩ thô sơ." Người thứ ba nói: "Ðây chỉ là một ý kiến ngộ nghĩnh vừa hiện ra trong trí tôi..." Nói như vậy, họ muốn gì? Phải chăng do đức khiêm tốn hay chỉ do sự đớn hèn tinh thần và đạo đức? Tôi để ý đến lối mở câu của họ. Thà rằng họ cứ nói, không cần ẩn ý nào: "Tôi nghĩ rằng...", "tôi tin rằng...", hay "tôi chắc rằng...". Nhưng họ không nói thế, và như thế tránh được việc gánh lấy một trách nhiệm. Trái lại, những người như Churchill, Lincoln đã không bao giờ trút trách nhiệm, họ đã biết chọn những quyết định, và chỉ định đúng vị trí của họ. Khi nói với hiệp hội các luật gia ở Oxford, Lord Atlee đã tuyên bố: "Ðiều cốt yếu trong thể chế Dân chủ là cai trị bằng những cuộc thảo luận, nhưng nền dân chủ sẽ không thể điều hành được trừ phi người ta ngừng nói." Lương tri chỉ rõ cho chúng ta rằng chính nền dân chủ sẽ lâm nguy vì những lưỡng lự tinh thần và đạo đức, và vì sự thiếu hăng hái đảm nhận lấy trách vụ trọn lựa những quyết định và hành động.

...

Tự do và trách nhiệm, cũng như tình yêu và hôn nhân, bia và trò chơi ném đích, cá và khoai tây rán, Sodome và Gomorrhe, không thể nào tách rời nhau. Con người chỉ tự do một khi có trách nhiệm và ngược lại, con người chỉ có thể được xem như có trách nhiệm khi được tự do. Vì vậy Milton đã nói: "Không một người nào có thể hoàn toàn yêu mến tự do, nếu không phải là những người đức độ (nghĩa là những người có tinh thần trách nhiệm). Những người khác không phải yêu mến tự do mà chỉ là yêu mến sự phóng túng." Và đây là một vấn đề căn bản: Chúng ta có muốn các trường học của chúng ta sản xuất nên những người đức độ và những người công dân tốt hay không? Chúng ta có muốn cho các trường học của chúng ta làm việc như là những tổ chức văn minh không? Những người đức độ và những công dân phải là những kẻ chấp nhận một - cách - tự - do những trách nhiệm của họ.

... Vậy chức vụ của nhà giáo không phải chỉ việc nói đến tự do và trách nhiệm, mà còn phải dần dần truyền đạt những điều đó cho trẻ em, và nhờ đó dần dà làm cho mình trở nên ít cần thiết hơn đối với chúng.

Thể thao- Văn hoá 2002

14. Cụ Rùa thuộc biên chế bộ nào?

Cụ Rùa sống tại Hồ Gươm. Tổ tiên cụ đã làm một việc thiêng liêng tại chính cái hồ này, nên theo đúng luật thừa kế, cụ được sống tại hồ, được nhắc tới một cách trân trọng, được nâng lên hàng biểu tượng, và có nghĩa là, cụ rơi vào bi kịch của những gì tương tự cụ (di tích, thắng cảnh, bảo tàng…).

Ông nhà báo Sáng Ánh, trong một bài viết về lối sống, đã từng có một câu: "Chừng mực là yếu tố làm nên sang trọng." Có lẽ lấy từ gương cụ Rùa. Không được oai hùng như tổ tiên ngậm lấy thanh kiếm của vua ngay giữa hồ sóng nổi, thì cụ Rùa cũng biết giữ gìn gia phong bằng cách chừng mực trong việc xuất hiện - chỉ vài lần phơi nắng ở bãi cỏ trên tháp Rùa giữa hồ: đủ thanh thiên bạch nhật để mà có người tụ tập xem rồi chụp ảnh, và cũng đủ thưa thớt để mà giữ được sự thiêng liêng, bí ẩn.

Nhưng nếu chừng mực trong tác phong làm nên sang trọng, thì chừng mực trong vệ sinh lại làm hỏng chiến lược của cụ Rùa. Và vấn đề vệ sinh thì cụ hoàn toàn bất lực. Vệ sinh của cụ, phần bên trong mai là cụ đã đứng ra tự lo, nhưng phần ngoài mai (tức trong hồ), theo báo Hà Nội Mới Chủ Nhật (số 12537, 4. 1. 04), là thuộc một/và những cơ quan sau:

* Quận Hoàn Kiếm (nơi tọa thủ cái hồ của cụ)

* Sở Văn hóa thông tin thành phố Hà Nội

* Sở Giao thông Công chính thành phố Hà Nội

* Sở Tài nguyên Môi trường và Nhà đất thành phố Hà Nội

* …

Tất cả những cơ quan này, ngoài việc ngăn chặn người ta nhảy xuống hồ bơi lội, người ta chặt cây quanh hồ lấy củi, hay người ta vớt cụ Rùa lên xem chơi…, thì việc quan trọng nhất là phải quản lý nước cho cái hồ. Bởi vì không có nước thì không còn hồ. Đơn giản vậy. Thế nhưng mực nước này, bao lâu nay trông vẫn gợn sóng, cho cảm giác vua tôi cỡi thuyền ra trả kiếm, vừa rồi mới được biết, đã cạn đến mức chỉ cần thiếu ý thức và bất chấp pháp luật một tí, thì ai cũng có thể ung dung lội qua. Nơi sâu nhất còn có 1.2m, nơi nông nhất có 0.4m, mà từ đây đến mùa mưa còn những 5 tháng nữa! Trời chưa ra tay thì cũng không ai động thủ. Bơm nước vào hồ mỗi ngày một tí bù lượng bốc hơi? Nạo vét bớt bùn và rác cho lòng sâu thêm?... Tất cả còn phải bàn, phải đổ trách nhiệm cho nhau đâu vào đấy rồi mới thực thi. Trong khi đó, những cái hồ con con, không lịch sử, không quốc hồn quốc túy được dịp hả hê. "Hoàn Kiếm! Ai bảo mi chứa cụ Rùa! Thiêng liêng lắm rồi thành ra khó xử!"

Giờ thì cụ Rùa đã hiểu thế nào là "lắm thầy thối mai". Nước chắc sẽ không cạn đến mức cụ phải bò đi kiếm ăn trên nền đất nẻ. Cái cụ lo là nước rồi sẽ cạn đến cái mức dung tục, để cụ bơi thế nào cũng lộ cả mai, cho trẻ con chỉ chỏ và bình phẩm. Trong khi đó, cái công thức làm nên sức hấp dẫn của Hồ Gươm chứa đến 50% là sự thiêng liêng, bí ẩn: có bao nhiêu cụ Rùa? Các cụ trông như thế nào? Cuộc sống của các cụ dưới đấy ra sao?... Quản lý một biểu tượng đâu phải chỉ là quản lý cái phần xác của biểu tượng đó, mà còn là quản lý cái phần hồn kìa. Nhưng than ôi, việc giữ cho nước Hồ Gươm đầy, nước Hồ Gươm sạch còn không xong, mong gì có được cái chiến lược cao cấp giữ cho Hồ Gươm được thiêng liêng, bí ẩn như một biểu tượng cần phải thế!

Xét cho cùng, tất cả chỉ tại cụ Rùa. Cụ không thuộc một biên chế bộ nào rõ ràng để người ta quy trách nhiệm. Cụ là một niềm tự hào chung nên bắt buộc phải có những thiệt thòi riêng. Điều này, khi cho mượn kiếm, tổ tiên cụ đã không ngờ tới.

15. Cuối cùng là lè luỡi

- Lè lưỡi để làm gì?

- Ðể liếm ghế.

- Ghế gì?

- Ghế cô giáo.

Ai đọc mẩu đối thoại trên mà không hiểu thì đúng là chưa đọc báo Tiền Phong, số ra ngày 9.03.2003, với câu chuyện có thật sau mà tôi xin tóm tắt lại:

Cô giáo Phương Lan, 26 tuổi, dạy tiếng Anh, vào lớp, thấy ghế của mình đã bị trò nào vẽ đầy phấn. Cô nổi điên, không chịu để lớp thay ghế mới, không chịu để lớp lau ghế cũ, mà bắt thủ phạm phải tự ra khai báo và lau.

Thủ phạm không đầu thú.

Hình phạt của cô dành cho cả tập thể dung dưỡng tội phạm là: cả lớp lên liếm cho sạch ghế của cô.

47 học sinh lớp 7 của trường PTCS Liên Hoa, Nghi Xuân, Hà Tĩnh đã lên liếm sạch ghế cho cô.

Nhưng, cô chưa hả giận. Cô bắt bỏ phiếu kín khai báo thủ phạm. 47 cái phiếu thu về toàn phiếu trắng.

Cô tức giận ra lệnh: lên liếm ghế đợt hai, và không được liếm dối.

47 học trò lớp 7 lại lên liếm lần nữa, ngoan ngoãn.

Phần tôi, đọc xong, thấy giận cái "con" cô giáo kia 1, thì giận đám học trò kia 47 (bởi có 47 trò mà!). Giả sử tôi có con học trong cái lớp ấy, nếu đi học về cháu mách, bố mẹ ơi hôm nay con phải liếm ghế cho cô,

- Thế mày không dám bỏ ra khỏi lớp rồi lên mách ông hiệu trưởng à?

- Không ạ!

thì tôi ắt sẽ quật cho cháu nó một trận đến... thụt cả lưỡi vào. Bởi vì, cái nỗi xấu hổ có con mất dạy đánh thầy, làm sao bằng nỗi nhục có con ngoan ngoãn liếm ghế cô!

Và sau khi đánh con xong, phụ huynh (như tôi) sẽ nghiến răng trèo trẹo:

"Hừ hừ... hừ hừ... Ðể xem cái ngành giáo dục lần này xử ra sao, xử ra sao... Thật tức quá, giận quá, tức quá!..."

Rồi lật tung sách Ðạo Ðức của con mình ra, xem thử có bài nào dạy về lòng tự trọng hay không.

Lòng tự trọng, đó là cái mà từ nhiều năm nay, ngành giáo dục nước ta đã tước dần tước mòn của học sinh, khởi đầu bằng những việc tưởng như nhỏ.

Hồi bé, là lớp phó học tập, khi tôi làm bài, có trò ngồi bên luôn quay cóp. Tôi để yên cho chép nhưng rất khinh. Một lần, trò nhìn không rõ, còn nhấc cánh tay tôi lên. Tôi cáu, mắng: "Không có lòng tự trọng à!" Trò ấy giận, xin đổi chỗ, đến ngồi cạnh một trò khác dốt hơn tôi.

Ôi, cái thời hoàng kim ấy qua rồi! Cái thời mà trẻ con học giỏi học ngu rất phân minh, và nhận đúng những gì mình đáng nhận. Lòng tự trọng của trẻ con được kích thích, khi thước đo giá trị của chúng được rõ ràng.

Nhưng giờ đây, cuộc tỉ thí giữa học trò cũng đã hết. Ðề thi có khi còn được thầy cô cho biết trước. Có khi thầy cô lại còn đọc bài cho chép. Còn nếu mày không cho tao quay bài, mày để cho lớp tụt hạng thì mày chết với cô!

Và lòng tự trọng của lũ học trò chết dần, khi dễ dãi nhận những danh hiệu "giỏi", "xuất sắc" mà mình chưa đáng hưởng, khi ngoan ngoãn thủ tiêu "cái tôi" để làm theo văn mẫu, bài mẫu... Chúng trẻ con mà! Vả lại, có về nói với bố mẹ thì bố mẹ biết thế, nhưng cũng chẳng xui con mình bóp quả cam; tặc lưỡi nói con thôi chấp nhận sự giả dối đi, cho yên chuyện lên lớp.

Ðể rồi từ đó đến việc muốn cho yên chuyện thì liếm ghế, quả thật cũng không xa.

Ðấy là chuyện của học trò cấp nhỏ. Ðến sinh viên đại học, thì cái sự lôi thôi tự bằng lòng lại là một hình thức thiếu tự trọng khác.

Tôi nhớ có lần đi ngang một trường đại học lớn ở nước mình. Hông trường có những hàng cà phê "cóc", với các "cử nhân" tương lai ngồi đó, mà nhiều người trong số ấy, xin lỗi, trông nhem nhuốc, tối tăm. Trông họ rất "hãm" cả về quần áo lẫn thần sắc. Cứ nghĩ bụng, không biết đám sinh viên này thiếu một cái gì nhỉ?... Ừ, có lẽ họ thiếu sự kiêu căng về bản thân. (Tôi dùng chữ "kiêu căng" là mức hợm nhất đi, vô lối nhất đi, mức "chiếc áo" của ông "thầy tu" thôi đấy, chưa dám nói đến "kiêu hãnh", mà họ cũng không có được). Họ không thấy mình oai, không tự phục mình vì những gì mình đang có trong đầu. Họ chẳng làm cho đám thanh niên bán CD lậu bên đường ghen tị gì cả, vì cứ nhìn bên ngoài thì có gì khác nhau lắm đâu!

Ôi, cái sự kiêu hãnh về bản thân... Vì sao nó cứ dần teo tóp...

Còn nhớ khi bạn mới vào lớp 1 không? Bạn tự hào biết bao nhiêu phải không? "Con học lớp 1.", nói mà mặt nghiêm trang, không đùa đâu đấy! Cả gia đình "lợi dụng" sự kiêu hãnh này để ép bạn ăn thêm một bát cơm ("Mình lớp 1 mà!"), để nói bạn đừng trêu em ("Lớp 1 người lớn ai lại trêu em!")...

Rồi lòng kiêu hãnh ấy mất dần. Chẳng ai khuyến khích nữa. Thế rồi một ngày kia, cái đứa trẻ cách đây mới có bảy năm, bướng bỉnh nhưng đầy tự trọng khi bước vào lớp 1, qua bao nhiêu lửa luyện của một lối giáo dục, đã sẵn sàng cúi đầu liếm cái ghế sạch như lau.

16. Đánh kẻ ngã ngựa

Một cúp bóng đá thế giới đã xong. Mọi người bải hoải quay lại công việc cũ. Cứ bốn năm một lần, người ta lại rút được thêm một vài bài học qua bóng đá. Năm thì "mất bò mới lo làm chuồng", năm thì "thà đánh người trước khi người đánh mình", năm lại "hai đánh một chẳng chột cũng què", nhưng có một thứ, lần cúp thế giới nào cũng có, mà cũng chẳng phải bài học, chỉ là một thực tế mà trong đời thường cũng vẫn gặp, lại gặp nhiều khi xem đá bóng (trên T.V hay đọc báo) ấy là "đánh kẻ ngã ngựa".

Năm nay thì anh Hàn Quốc vào sâu tận những vòng trong. Nhớ những vòng ngoài, khi các anh hùng hục chạy trên sân và thỉnh thoảng ghi bàn thắng, bình luận viên suýt xoa như dõi theo một đội bóng của Hercule, lại còn dự đoán họ sẽ tranh trận chung kết. Rồi cũng chính những anh Hàn Quốc đó, vào vòng sâu và bắt đầu thua, mà thua oanh liệt đẹp mắt, chỉ vì đối thủ của họ giờ là những kẻ mạnh hơn; thì bình luận viên bẻ lái ngay sang hướng độ lượng mà cho rằng, những gì đội Hàn Quốc đạt được trước kia chỉ là nhất thời, họ nay "sức cùng lực kiệt", rằng đội Hàn Quốc đã "lạc quan tếu", rằng... nhiều thứ lắm, chỉ biết cuối cùng làm người xem như tôi hoang mang, bởi vì tôi vốn tin vào mấy anh bình luận viên, và khi anh thay đổi chính kiến quá nhanh, thì tôi bẻ lái theo không kịp. Lại hoang mang nữa vì nhìn ra trong đời hình như sẽ không có chỗ cho kẻ ngã ngựa. Khi bạn ngã, không có chuyện tại ngựa hôm nay cao hơn hôm qua, hay đường hôm nay xóc hơn hôm kia, mà người ta bắt buộc bạn phải nhận lỗi, tại hôm nay bạn cưỡi ngựa dở hơn mọi ngày. Có thể tôi coi không đủ, nhưng chưa bao giờ tôi thấy một anh bình luận viên nào bình luận trước một đội thua: "Họ chơi hay quá, chơi hay hôm cả mọi khi, nhưng đối thủ của họ quá mạnh. Thua thế này cũng là thắng rồi."

Tôi nhớ có lần xem chương trình Yan Can Cook; Ông Yan băm tỏi rất nhanh, chặt thịt phăm phăm, đến khi bốc vào chảo thì ông làm rơi ra ngoài. Yan lập tức gân cổ lên, đại loại, ai mà chẳng có sai lầm, (chỉ xuống khán giả) cô cũng có sai lầm, anh cũng có sai lầm, sao tôi không được sai lầm? Tôi rất thích cái đoạn này, vì biết rõ là ông ấy đùa, nhưng ông ấy chỉ cho khán giả biết cách bảo vệ mình mỗi khi gặp sai lầm. Mình phải có một khoảng sai số để tự tha thứ cho mình. Mình phải trung thành với mình...

Nhưng xem tường thuật bóng đá thì ngược lại. Bạn được học một nguyên tắc: thua tức là có lỗi, và chỉ nên ngả theo người mạnh. Bóng ào qua sân này, ta phải hồ hởi khen ngợi. Bóng ào ngược lại, ta phải đổi chiều ngay. "Ðã đến lúc đội X. phải xem lại mình," hay "Vâng, quả thực, tuổi tác, thưa các bạn, tuổi tác...", cũng là những nhân vật đó, trước đấy ít phút, ta mới khen là "đầy áp đảo", là "lão tướng đầy kinh nghiệm"... đại loại vậy. Nhưng, ta phải cứu lấy ta thôi, vì thế cờ đã đổi. Tí nữa bóng ào qua lại, ta đổi chiều cũng chưa muộn.

Ngày trước tôi vẫn hay vào cơ quan mẹ tôi chơi. Trong cơ quan có một chị mà tôi rất ghét. Chị nói năng rất ngọt. Chị lại hay nịnh. Bác trưởng phòng mẹ tôi có vẻ thân với chị ấy. Tôi thấy chị ấy hay đùa với bác, gọi bác là "sếp" luôn miệng, và "dạ" thật to mỗi khi bác gọi.

Thế rồi bác ấy đến tuổi về hưu. Nhưng bác ấy nhớ cơ quan và thỉnh thoảng vẫn đến chơi. Vả lại, đây là cơ quan về chữ nghĩa nên "hưu" nói chung cũng chỉ là một cái mốc hành chính, chứ về mặt công việc, quan hệ, thì vẫn thế. Người ta vẫn ngồi bàn chuyện với bác về sách vở, kiến thức. Chỉ có chị kia là không nói chuyện nhiều với bác nữa.

Một buổi chiều, mẹ tôi nhờ tôi ngồi đánh máy công văn. Bác trưởng phòng ấy vào cơ quan, lúc ấy chỉ có tôi và chị "đáng ghét". Bác ấy tìm cái gì đó trên bàn chung mà không có. Rồi bác nói to, cái sổ điện thoại đâu rồi nhỉ? Chị kia ngồi im, không trả lời. Bác hỏi lần nữa, và nhìn vào cái gáy chị "đáng ghét" đang cúi xuống chăm chú làm việc. Chị không ngẩng lên. Thật không giống chút nào với ngày xưa, cái ngày chị có gì ăn cũng mang mời "sếp", thân thiết "bố bố con con"... Từ hôm ấy, tôi thấy bác ít vào cơ quan hẳn.

Nói bác về hưu là "kẻ ngã ngựa" thì thật là quá đáng. Nhưng nói "ngã ngựa" thật ra cũng là dành cho những ai không còn trên lưng ngựa. Mà đâu đâu cũng gặp cảnh người-ngồi-ngựa-ngã-ngựa thế này. Thế nên tôi thích cái cách cổ động viên Hàn Quốc hô to rồi đồng loạt giơ tay ra sau mỗi tiếng hô, mặt nghiêm trang và đáng tin cậy, như bố mẹ giơ tay sẵn sàng đón con rơi từ trên lưng ngựa xuống, thấy mới nhân nghĩa làm sao. Lại nghe anh bình luận viên nói, người Việt Nam chúng ta phải học họ thôi. Anh nói đúng, nhưng nhiều khi các anh đã chẳng làm gương cho chúng tôi, từ đầu giải đến cuối giải, có gần một tháng thôi, người ta đã thấy các anh quật bao nhiêu là kẻ ngã ngựa.

17. Để bóp (gần) chết lòng yêu nghề

Ngày chủ nhật ở Hà Nội, lại là ngày lạnh nhất, bạn sẽ ngại ra đường (có thể vướng mắc không phải ở khâu phóng xe, mà là ở khâu thay quần áo). Nếu bạn có con nhỏ, khoảng dưới 6 tuổi; nó - bất chấp trời lạnh, nhèo nhẹo đòi đi chơi (và bạn bắt buộc phải đi, vì đã trót dại hứa), thì bạn chọn mục nào trong danh sách dưới đây ?

về nhà ông bà ngoại

về nhà ông bà nội

đi siêu thị, vào khu trò chơi

ra công viên chơi đu quay

ra Lương Văn Can mua đồ chơi

đi xem xiếc

đi hội chợ với mẹ

đi uống cà phê cùng với bố

Danh sách có thể còn dài hơn nhiều, nhưng với một đầu óc chưa có con nhỏ như tôi thì chỉ dừng ở mức ấy. Và bởi vì "con cá lớn" của tôi không phải là làm thống kê cho một tổ chức gia đình - xã hội nào, mà là, tôi muốn bạn dẫn con bạn đi xem xiếc.

Vẫn nhớ hồi bé, thỉnh thoảng vào những dịp đặc biệt ngoan, tôi lại được đi xem xiếc. Rạp bên hồ Hale. Trong cái nhà bạt vòm cao cao ấy đầy những người, ngồi chỉ lo rơi dép xuống những khe ghế gỗ. Nhạc rộn ràng, những đoạn gay cấn thì trống rền rền căng thẳng. Giữa chừng các tiết mục là hai anh hề chạy ra, hình như trong đó luôn có một anh khá béo. Xong đến xiếc thú, có tiết mục lớp học chó. Cô giáo chỉ số 1 là ẳng một tiếng, chỉ số 2 là ẳng ẳng 2 tiếng...

Rồi vào miền Nam, đi xem xiếc trong Sở thú. Xiếc miền Nam lúc đó phổ biến là mô-tô bay. Giữa rạp là một cái ống to, quay càng lúc cành nhanh, xe phóng trên thành ống, mà trẻ con cứ bị ám ảnh là nếu ống ngừng quay thì cả người lẫn xe sẽ bị văng ra, tan xác trên mái bạt....

Hơn 20 năm rồi tôi mới đi xem xiếc trở lại. Lại vẫn bên hồ Hale, vào những ngày mà người ta nói là lạnh nhất ở Hà Nội. Tay buốt hết. Lạnh từ trong lạnh ra, từ ngoài lạnh vào, ép mình ở giữa lập cà lập cập. Thế mà vào rạp xiếc, giờ đã là nhà xây đàng hoàng, nhìn một cái mà muốn rơi nước mắt: khách trong rạp chỉ lèo tèo vài hàng ghế, lại đa phần là người du lịch, Á với Âu; trẻ con rất ít, mà nhạc vẫn tưng bừng, đèn sáng trưng, diễn viên áo xanh áo đỏ, cười rất tươi, chéo chân chào khách. Trong rạp không có sưởi, lạnh không khác gì ngoài trời, khách như tôi mấy lần áo và găng vẫn còn run lẩy bẩy, ngại cả vỗ tay, và có vỗ cũng không to nổi vì tay tê cóng. Vậy mà diễn viên mặc phong phanh như muôn thuở, vẫn nhiệt tình trải hết tinh xảo này đến nguy hiểm khác, nào nhào lộn, phi ngựa, cưỡi voi..., mà tổng cộng số tiền bán vé cả rạp sáng hôm ấy thật không đáng để mà bất kỳ ai liều thân; giải thích được chăng chỉ có lòng yêu nghề và sự không đắn đo vì coi đó đã là nghiệp.

Nhưng nghĩ kỹ thì, oái oăm thay, khi nước đã giàu hơn, rạp đã to hơn, trẻ con không cần ngoan bằng ngày xưa cũng có thể được đi xem xiếc, thì sao lòng yêu nghề của diễn viên lại bị đem ra thử thách như thế này? (Nghe nói) lương thì thấp, người xem thì ít. Lại biết không chỉ diễn viên người mà cả "diễn viên" thú cũng bị thử thách, khi đi ngang qua chuồng voi, thấy voi mốc meo gầy guộc, đứng trong chuồng tối tăm; chuồng chó, chuồng ngựa lạnh lẽo, và chó xiếc trông nhem nhuốc như mấy con chó... nhà tôi.

Alphonse Daudet có một cái truyện ngắn về ông già làm nghề xay bột. Khi bắt đầu có nhà máy xay bột hiện đại hơn về làng thì cái cối xay gió của ông ế ẩm. Nhưng ông quá yêu nghề và không chấp nhận mình thua. Người ta vẫn thấy ông mỗi ngày cho la chở đi những bao bột và những cánh quạt cối xay vẫn quay đều. Rồi đến một hôm, người ta phát hiện ra, đó không phải là bột, mà là những bao thạch cao. Dân làng thương ông quá, lũ lượt đem lúa mì đến nhà máy của ông, để cái cối xay của ông được phục vụ những hạt lúa mì thực thụ.

Lòng yêu nghề, lòng yêu nghề... đó là cái mà chúng ta vẫn hay nói, và muốn con cái của mình cũng có được cái phẩm chất đó, để sau này đời nó vui. Nhưng mà muốn nuôi được cái phẩm chất đó chắc cũng phải có sự động viên của cả cộng đồng, đừng để nó bị thử thách quá lâu mà nản, mà thui đi. Sự khổ luyện mỗi ngày của các diễn viên xiếc ở đây đúng ra phải được đền bù bằng tiếng vỗ tay của người lớn (chịu dẫn con đi), bằng sự nín thở của trẻ con (được bố dẫn đi), đó chính là thứ lương thực tinh thần để nuôi cho lòng yêu nghề đó không teo tóp.

Thế đấy, nếu như mỗi người trong chúng ta chịu khó một năm dẫn con đi xem xiếc một lần, trước là để nó có được thú vui tuổi thơ, sau là mình ôn lại tuổi thơ của mình với nó, sau nữa (tí ti thôi cũng được), nghĩ việc này như mình đem bao bột của mình đến xay cho ông già vui, thì những buổi diễn xiếc như hôm nay đỡ đáng thương biết bao. Mà còn cao hơn nữa, nhìn tấm gương những nghệ sĩ xiếc, cái lòng yêu nghề trong chúng ta, lâu nay tưởng đã chết, biết đâu lại tự nhiên mà sống dậy thì sao!

18. Giao trứng cho ác

Hãy làm bài tập nhỏ này (*):

Tìm từ trái nghĩa của các từ sau:

Nàng dâu

Chị dâu

Con rể

Chú

Bạn chịu khó làm một tí, rồi hẵng đọc tiếp...

Nếu bạn đang có con học lớp nhỏ, thì hãy luyện cho cháu làm những bài tập như trên, bởi vì, đề năm nay đã ra như thế rồi.

Như báo Tuổi Trẻ, số ra ngày 23.5.02, đã đưa tin: ngày 21.5.02, Sở GD-ÐT Cần Thơ ra đề thi tốt nghiệp tiểu học, trong đề có cái câu dễ thương sau: "Một hôm, Sẻ được bà ngoại gửi cho một chiếc hộp đựng đầy hạt kê." Rồi Sở ra một yêu cầu hóc búa là: tìm và ghi ra từ trái nghĩa với từ "bà ngoại" trong câu trên.

Ðáp án của Sở là "bà nội".

Cuộc tranh chấp giữa bà ngoại - bà nội, ai cũng biết, là một cuộc tranh chấp mang tính truyền thống gia đình, kiểu mẹ chồng - nàng dâu, anh vợ - em rể.

Tôi có đứa cháu gái, mỗi lần về nhà chơi, bà ngoại thể nào cũng lén lút hỏi một câu: "Yêu bà nội hay yêu bà ngoại?" và các dì vẫn trêu nó: "Mày là thuộc bên nội, không phải bên ngoại," làm con bé tức đỏ mặt tía tai.

Thế nên, xét về nguyên nhân tâm lý sâu xa, người ra cái đáp án trên hẳn không phải là vô lý, nếu không nói là quá đúng.

Thế nhưng, đề ra ngày hôm trước, ngày hôm sau, cũng theo báo Tuổi Trẻ, Sở GD - ÐT Cần Thơ đã họp với các trường tiểu học. Tại đây, sau nhiều tranh luận, cuối cùng Sở đồng ý đưa thêm các đáp án là "ông nội", "ông ngoại".

Vì sao lại là ông ngoại?

Ông ngoại quả là địch thủ của bà ngoại, điều này rõ quá rồi. Những cặp vợ chồng già, suốt ngày câu mâu nhau, khiến những cảnh ông ngoại râu bạc khề khà chịu để cho bà ngoại tóc trắng chăm cho mình mà không gắt um lên, thật chỉ có trong những clip quảng cáo sâm hay trà thanh nhiệt. Thế nên Sở GD - ÐT Cần Thơ có cái lý của họ.

Thế ông nội dính gì vào đây?

Ðúng là ông nội thường chỉ liên hệ rất mờ mịt với bà ngoại, ông nghe nói về bà mà thấy xa xôi chẳng khác gì nghe về một bà bán hàng ngoài chợ. Ông sinh hoạt tổ hưu và chỉ đọc báo phần "Diễn đàn Bạn đọc" mỗi ngày cũng đủ bực mình với những điều chướng tai gai mắt trong xã hội. Ông lên thăm con trai mỗi hai tháng một lần để gấp máy bay cho cháu nội. Và trong suốt thời gian được con dâu chăm sóc, ông không bao giờ nghĩ đến mẹ của cô ta. Bà như một đám mây mù mịt, nếu bà có đến chơi, ông cũng chỉ hỏi vài câu lấy lệ rồi ông xem tiếp phần thời sự thế giới trên T.V. Ông cũng không quan tâm đến chồng của bà, tức là ông ngoại. Tóm lại, giữa ông nội và bà ngoại là không có thù oán, đối địch nhau. Cho nên, đáp áp cho từ trái nghĩa với "bà ngoại" là "ông nội" thì đã có nhiều phần không đúng.

Tôi không thích đáp án này.

Tuy vậy, xét về mặt "đối chan chát" thì đáp án này khả dĩ hơn cả.

"Bà" đối với "ông"

"Ngoại" đối với "nội",

(làm tôi nhớ bài tập của tôi hồi bé tí là làm câu đối, tôi đã làm:

"Chị mèo đi vào nhà

Anh chó chạy ra sân" )

Nhưng như thế, những đáp án "bà nội", "ông ngoại" là vứt đi à?

Tóm lại, Sở GD - ÐT Cần Thơ đã chọn đáp án "từ trái nghĩa với bà ngoại" theo tiêu chí nào? Quan hệ xã hội hay đối chan chát?

Bạn đã thấy tôi lẩn thẩn chưa? Ðó là nãy giờ tôi mới chỉ lảm nhảm viết một mình thôi đấy. Trong khi đó, xin nhắc lại, cả một Sở GD - ÐT Cần Thơ đã phải họp với các trường tiểu học trong địa phận Cần Thơ, tốn bao nhiêu giờ đồng hồ, uống bao nhiêu là nước, cãi bao nhiêu là lời lẽ, về một cái đề thi mà phải dùng cái từ trái nghĩa của "thông minh" để mô tả... thì bạn mới thấy mức độ lẩn thẩn của tôi so với độ lẩn thẩn của ngành sư phạm nước ta thật chẳng thấm tháp gì.

Cứ tưởng tượng chừng đó con người, hàng ngày sẽ là người đưa con cái chúng ta vào khu vườn tri thức mênh mông và mới lạ, một hôm có thể tụ tập lại (theo lệnh triệu tập), để bàn bạc một cách nghiêm túc, xem từ trái nghĩa với bà ngoại là gì, mà kinh. Trong số những người dự cuộc họp như vậy, có mấy người coi chuyện đó là điên rồ, là ngớ ngẩn? Ðể đến nỗi sau cả một cuộc họp như thế, cái đề thi ấy vẫn giữ nguyên. Và hôm sau, thí sinh tiểu học vào phòng, ngơ ngác khi lần đầu trong đời biết được (bằng văn bản) là bà ngoại cũng có đối thủ.

Hai chị em tôi học chung một trường, đứa trước đứa sau. Cả hai đứa đều học qua chung một số thầy, cô. Thỉnh thoảng ngồi nhắc lại, có những người chúng tôi xuýt xoa mãi, vì sự giỏi giang, uyên bác của họ. Những người thầy ấy, ngay trước khi bước vào trường sư phạm, họ đã là những học sinh rất giỏi. Họ chọn ngành sư phạm vì họ biết mình giỏi, và người giỏi hình như bao giờ cũng có một nỗi khao khát được đứng trên bục giảng, truyền lại những điều mình say mê cho những cái cây còn non, còn có thể uốn được.

Nhưng hình như, cũng có những người bước vào ngành sư phạm vì trình độ của họ trái nghĩa với "giỏi", và họ chỉ có thể vào cái trường lấy điểm tương đối thấp này. Cái sự dốt đeo đuổi, ám ảnh họ, làm họ sợ rừng kiến thức. Họ phải giới hạn nó lại bằng những bài tập mẫu, bằng chép-nguyên-xi-mới-được-điểm-cao; Họ sợ nhất học sinh đi lang thang vào rừng, bứt về một bông hoa lạ và hỏi họ: "Cái gì đây?" Cái gì vượt quá sức họ là họ thấy nguy hiểm. Và đối với những con sâu của ngành sư phạm, không gì nguy hiểm hơn là sự sáng tạo, tự do tìm hiểu của học trò.

Vấn đề của giáo dục nước mình, là hình như không có thuốc trừ sâu, nếu không nói rằng đây còn là môi trường cho sâu phát triển. Và với một nền giáo dục dung dưỡng cho những sự lẩn thẩn như đã dẫn chứng ở trên, thì việc đẻ con ra, ngoài những lo âu về tài chính, sức khỏe, nuôi nấng..., bạn còn phải tính đến một nỗi lo khác - nỗi lo "giao trứng cho ác" - là một ngày kia nó sẽ phải đến trường!

(*) Ðáp án (theo phong cách Cần Thơ) là: Mẹ chồng , Em chồng , Mẹ vợ , Thím , Dượng

19. Gửi Đoàn của tôi

Thưa Ðoàn, (Mà cụ thể là thưa anh - cái người vẫn hay soạn báo cáo cho Trung Ương Ðoàn)

Ðầu tiên, tôi xin đố anh, lá thư này là của ai:

"Từ tháng 11 năm 1924, tôi được Ban phương Ðông và Ðảng Cộng sản Pháp phái đến Quảng Châu để làm việc cho Ðông Dương.

... Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và An Nam, chúng tôi đã có thể:

Ðưa 75 thanh niên An Nam đến học ở trường Tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu,

Xuất bản 3 tờ tuần báo nhỏ,

Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ,

Thành lập một liên đoàn cách mạng do một ủy ban gồm 5 ủy viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Ðông Dương đó.

Thôi để nói luôn, cái thư này cũng là bản báo cáo của một thanh niên gửi cho tổ chức. Thanh niên đó là Nguyễn Ái Quốc. Và tổ chức đó là Ban Phương Ðông Quốc tế Cộng Sản. Bức thư viết vào tháng 6 năm 1927. Chừng đó công việc, viết ra và đọc lên nghe đơn giản, nhưng toàn là những việc lớn và cốt tử. Thí dụ, ở mục (1), cái trường Tuyên truyền được nêu rất vắn tắt với 75 học viên đó, lại chính là chậu ươm của Ðảng Cộng sản Việt Nam; Và Ðảng, qua năm tháng, ai cũng biết, có thêm cánh tay phải là Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

77 năm sau, "cánh tay phải" đã phải dùng tới 8 trang báo Thanh niên (số ra ngày 18.9.02), đặc kín chữ, chỉ để đăng cái dự thảo báo cáo công tác của mình trong nhiệm kỳ vừa qua và phương hướng sắp tới. Và cái người soạn bài báo cáo này cho Ðoàn chính là anh đấy, người thư ký nhiều chữ ạ.

Bản dự thảo Báo cáo này có một cái tên dài: "Phát huy truyền thống vẻ vang, tuổi trẻ Việt Nam thi đua học tập, rèn luyện, lao động sáng tạo, xung kích, tình nguyện xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa". Tôi nói thật, nếu một ngày kia, một đoàn viên bình thường trong 4 triệu đoàn viên trong cả nước, tự nhiên muốn biết, từ năm 1997 đến 2002, thanh niên cả nước đã làm được gì và sắp tới sẽ phải làm gì; thì anh ta sẽ phải đọc theo kiểu "dũng sĩ", nghĩa là kiên trì vượt qua bao nhiêu cửa ải của những câu choang choang trong báo cáo của anh, đã nghe mãi, nghe mãi, trong (gần như) mọi văn kiện, ở (gần như) mọi đại hội thanh niên, sực nức từ kép Hán Việt.

Thí dụ, nói về nhiệm vụ thời đại của thanh niên Việt Nam, anh viết:

"... ra sức thi đua học tập, rèn luyện, vươn lên nắm vững khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thi đua lao động sáng tạo, xung kích, tình nguyện tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn quốc phòng, an ninh, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước."

Còn báo cáo về công tác giáo dục của Ðoàn:

"... được tập trung chỉ đạo và thu được những kết quả quan trọng, nhất là sự chuyển biến tích cực trong giáo dục chính trị, tư tưởng; lực lượng làm công tác tư tưởng được tăng cường; cơ chế, nguồn lực phục vụ công tác tư tưởng, văn hóa được tập trung đầu tư hơn, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, củng cố niềm tin, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ."

Thưa anh, chỉ cần đọc bản Dự thảo Báo cáo của Ðoàn mà anh viết là biết ngay anh đang sống trong thời bình. Vì chỉ có thời bình thì người ta mới dám dùng nhiều chữ chung chung một cách xa xỉ như thế. Những chữ ấy, anh vặn lại tôi, sai chỗ nào nào, thì tôi thua, vì thật ra chúng chẳng có gì sai cả; nhưng mà anh viết báo cáo thì chắc anh cũng biết, chữ càng to thì càng che mất những việc làm cụ thể mà Ðoàn đã làm được những năm qua. Người ta thấy anh "bình" nhiều hơn "báo". Cứ báo cáo được một dòng thì anh lại bình (có khi) đến cả một cột. Ngay cả phong trào "Thanh niên tình nguyện" để tự nhiên đã đẹp đến thế, anh vẫn còn không tự tin mà vẫn phải ca ngợi nó lên đến mức sáo rỗng:

"Màu áo xanh tình nguyện không chỉ thể hiện sự thống nhất về tổ chức, mà còn in đậm trong lòng xã hội về hình ảnh đẹp của người thanh niên Việt Nam tình nguyện, xung kích, sáng tạo trong kinh tế thị trường."

Quay lại bản báo cáo của thanh niên Nguyễn Ái Quốc ở đầu bài. Chừng đó công việc, nếu giao cho anh - người soạn báo cáo cho Ðoàn vào những năm 2000, thì chắc đã phải kín 16 trang báo, mà vẫn không biết ai làm được việc nào, việc đã đi cụ thể tới đâu; trong khi Nguyễn Ái Quốc chỉ có 4 cái gạch đầu dòng mà cách mạng vẫn phát triển.

Tôi cũng như anh thôi, tôi làm việc trong một cơ quan Ðoàn. Ðoàn của anh và của tôi mang tên Bác - Người mà mở đầu một cuốn sách mà tôi rất thích - Ðường Kách Mệnh - gồm những bài học dành cho 75 học viên thanh niên cộng sản của mình, đã viết: "... nói việc gì thì nói rất giản tiện, mau mắn, chắc như 2 lần 2 là 4, không tô vẽ trang hoàng gì cả." (Quả có vậy, cái cuốn Ðường Kách Mệnh ấy, nếu Bác mà viết theo văn phong của bản dự thảo báo cáo của BCH TƯ Ðoàn mới đăng trên báo vừa rồi, thì chắc chắn 75 hạt giống cách mạng đầu tiên trong lớp học ở Quảng Châu đã chịu, không hiểu nổi, thậm chí mật thám Ðông Dương có bắt được tài liệu cũng khó lòng mà đọc cho hết được.)

Chúng ta vẫn cứ nói là phải học tập Bác, nhưng chuyện đơn giản nhất, là viết cho gần quần chúng, nói cho quần chúng hiểu, thật vắn tắt, thật cụ thể, thì hình như chúng ta ít làm theo.

Thế đấy, thưa đồng chí soạn văn bản cho Ðoàn. Cứ (viết báo cáo theo) cái đà này, thì càng ngày Ðoàn sẽ càng xa dần; để đến cái bản báo cáo công việc của đoàn viên cả nước không thôi, mà thanh niên bình thường, nếu không quen với từ ngữ hội nghị, cũng không len chân vào (hiểu) được.

Từ 8 đoàn viên vào buổi sơ khai, cho đến nay số đoàn viên đã hơn 4 triệu. Vâng, nhưng đâu phải vì thế mà số chữ (cũng như sự cầu kỳ về chữ) trong báo cáo cũng phải tăng theo mức độ đó? Và cái công việc mà Ðoàn chúng ta làm vào thời bình chẳng lẽ vất vả hơn cái thời sơ khai trứng nước đến thế sao? Hay chỉ vì thời bình thì chúng ta rảnh rỗi hơn, có nhiều thì giờ hơn, cả cho người soạn báo cáo lẫn cho những người ngồi suốt những ngày hội nghị chỉ để nghe và thảo luận báo cáo?

(*) Hồ Chí Minh Toàn Tập - tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, trang 241

20. Gửi ông X, người ghét Karaoke

Thưa ông, Chắc ông cũng biết, trên cơ thể ta có một số bộ phận mang tính hai mặt. Nếu ta quản được (về mặt đạo đức) thì những bộ phận ấy làm đời ta vui. Nếu ta quản không được, thì mặt tiêu cực của các bộ phận ấy lấn át mặt tích cực. Vì thế, trong trường hợp cái bộ phận ấy còn lành lặn mà lại sinh tiêu cực, thì là do ta quản kém. Ta chỉ cần chỉnh cách ta làm chủ nó, chứ ta không phải cứ thế mà cắt nó đi.

Nôm na ra, cái mồm ta chẳng hạn.

Karaoke là một bộ phận của cơ thể xã hội, nhưng vì nó [1] có những yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Hiện yếu tố tiêu cực ngày càng nhiều, lấn át cả yếu tố tích cực, nhiều nơi vi phạm quy định về ánh sáng và âm thanh, không quản được, đa số lao động ở quán là nữ, và làm gái ôm, không quản được, người đến quán chủ yếu là những người tiêu tiền nhà nước chứ không phải tiền cá nhân, không quản được.Cho nên, dù đó là loại hình giải trí rất phổ thông, thì cũng: dẹp nó đi.

Đó là lập luận của ông, người ký vào tờ trình của Bộ Văn hóa Thông tin, gửi Chính phủ ngày 2. 2. 2004, xin chính phủ hạ lệnh đến 01.01.2005 không cho các dịch vụ karaoke hoạt động nữa.

Thưa ông, Bộ Văn hóa Thông tin, như mọi người vẫn nghĩ nôm na, là một bộ đảm bảo sao cho cuộc sống của người dân có…văn hóa. Và muốn làm được thế, với các hoạt động rõ ràng là vô văn hóa, Bộ cần cấm tiệt. Cũng như với các hoạt động rành rành là có văn hóa, Bộ cần khuyến khích.

Nhưng ở đời không đơn giản thế! Có những vấn đề mập mờ, đi chênh vênh trên đường ranh giữa văn hóa với vô văn hóa. Và Bộ Văn hóa này hơn Bộ Văn hóa kia là ở chỗ nghĩ ra những biện pháp để xử lý. Làm sao sau khi xử lý thì cái khối mập mờ tốt xấu ấy "văn hóa" hẳn, cho người dân còn được sử dụng.

Trong tờ trình gửi Chính phủ, ông có viết: "Qua thực tế khảo sát, karaoke không là nhu cầu thiết yếu của người dân. Nếu tiếp tục cho phép hoạt động, loại hình dịch vụ này sẽ diễn biến phức tạp, làm suy thoái đạo đức." [2]

A! Tôi tin là mình đã hiểu được "bản chất" của ông rồi.

Không phải ông giáo điều. Không phải ông cứng nhắc. Không phải ông thù hận, ông ghét con người. Chỉ vì ông là một công chức quan liêu, sợ trách nhiệm thôi. Ông ngồi đấy, bên ấm chè, nghe những báo cáo về cuộc sống ngoài kia đang bộn bề, "phức tạp" mà nẫu cả ruột. Ông chỉ muốn nhàn, chỉ muốn mọi thứ hạ xuống đến mức tối thiểu cho ít việc, cho khỏi suy nghĩ. Mà "phức tạp" là một tính từ nguy hiểm đối với ông, nó không xấu hẳn hay tốt hẳn. Nó phức tạp. Nó làm ông có nguy cơ phải chịu trách nhiệm nếu nó "diễn biến phức tạp". Mà quản lý để nó không "diễn biến phức tạp" lại là một việc hết sức phức tạp, theo ông. Ông làm ngơ trước việc bao nhiêu cơ quan đi chơi cuối tuần ở quán karaoke, tập các bài hát "đỏ" cho hội diễn. Ông cũng làm như không biết karaoke là nơi bọn thanh niên vẫn tổ chức những buổi vừa hát vừa ăn sinh nhật trong lành. Ông muốn rảnh tay thì ông chỉ lấy những mặt xấu của karaoke ra làm cớ để thủ tiêu cái quyền được giải trí của người dân. Mà thưa ông, nói cho đúng, du nhập vào Việt Nam thoạt tiên dưới dạng trong veo, giờ nó trở nên càng ngày càng phức tạp như ông nói, thì đó không phải cũng là từ cái tội quản lý kém của ông sao?

Cuối cùng, tôi cũng phải thưa với ông: tôi là một phần tử "phức tạp".

Tôi không tốt hẳn mà cũng không xấu hẳn. Tôi có thể phạm nhiều tội, nhưng tôi chưa phạm tội. Thỉnh thoảng tôi cũng có "diễn biến phức tạp" nhưng nghĩ đến luật pháp, tôi vội dừng lại ngay.

Cho đến nay, tôi vẫn sống vui vẻ cùng gia đình. Thật là nhờ Trời, nhờ quản lý!

--------------------------------------------------------------------------------

[1]Bài phỏng vấn ông Lê Anh Tuyến, Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Văn hóa - Thông tin, báo Thanh Niên, ngày 24. 02. 2004

[2]Theo báo Tuổi Trẻ, ngày 24. 2. 2004

21. Hàng không có biết thương dân?

1. Có lần tôi đi đón người ở nước ngoài về. Sân bay Tân Sơn Nhất đã khác trước nhiều, giờ có thêm hẳn một hành lang dài để thân nhân có chỗ mà bám vào chờ đợi. Hành lang này che mái hẹp, hai bên thừa ra một tí chẳng đủ che nắng cho những người đứng đợi (đã nhiều giờ). Tôi dám lấy đầu mình ra mà cá độ, là bất kỳ ai đứng đợi ở đó từ một tiếng trở lên (ấy là tôi cẩn thận) đều nảy ra ý nghĩ: “Sao người ta không làm cái mái che rộng ra một tí?”

Những nhân viên hàng không đi đi lại lại trong khu vực có mái che, cổ đeo thẻ, tay có khi cầm máy bộ đàm, nhìn ra đám người đứng chen chúc hai bên lan can một cách thờ ơ. Tôi đứng đó mà nghĩ, nếu mình là con của anh nhân viên kia nhỉ, thể nào anh cũng quát, ai cho mày đứng ngoài nắng thế kia, vào ngay. Nhưng tôi không phải là con anh, tôi là “con đỏ”, nên đến khoảng 12h trưa thì người tôi đã gây gây sốt như cảm nắng.

Ðọc đến đây, bạn sẽ mắng: “Ðồ ngốc! Ai bảo đợi cho lâu, đến giờ máy bay xuống hẵng ra đón!”

Nhưng máy bay, ai đã đi thì biết, nhiều khi còn sai hẹn hơn bồ. Vả lại, xuống máy bay là một giờ, làm thủ tục xong để ra được đến nơi, lại là những giờ khác. Cả chỗ đợi chỉ có một màn hình duy nhất treo trên cao, cỡ cái T.V 21 inches, mà người biết tiếng Anh để mà diễn giải thì cũng khó đọc ra, còn người không biết diễn giải thì là đa số. Cái màn hình này lại chỉ có một mặt, đặt trường hợp bạn đã bám được vào một chỗ “ngon” ở cái hàng rào rồi, phía sau lưng màn hình, tôi đố bạn dám buông ra để chạy tới đọc các thông số trên màn hình phía trước. Ðâm ra màn hình gần như vô dụng.

... Không biết máy bay đến chưa, có trễ không, hành khách đang ở trong giai đoạn nào (làm thủ tục nhập cảnh? Lấy hành lý?...), đám người đứng ngoài không ai dám rời chỗ của mình để đi uống nước hay tìm một bóng mát mà ngồi. Một trong những cái ác nhất đối với dân, theo tôi, là cái việc không thông tin đầy đủ, dẫn đến lo lắng không cần thiết. Nhiều khi, chỉ cần thêm một màn hình và một cái loa, cứ 15 phút, nửa giờ lại thông báo những thông tin cho đám người mệt mỏi ngoài kia biết được để mà thêm sức đợi. Việc này, tôi nghĩ nào có khó. Khi làm trễ chuyến bay, hàng không ta vẫn ra rả đọc những lời xin lỗi (bằng tiếng Việt lẫn Anh) suốt được cơ mà! Hàng không Việt Nam ơi! Cứ cử người ra đứng bám cái hành lang này một ngày thì mới biết thương dân. Thương dân thì sẽ thấy được cái khối người bám ngoài hành lang kia mặt mày xám ngoét, gần như không có ai cười, vì nắng, vì nóng, vì lo. Có thương dân thì mới biết dân mình trình độ mới tới đâu và nhận ra những điểm thiếu tính (thương) người trong cách phục vụ của ta, mới không để họ ở một nơi hiện đại, bay bổng nhất lại như một bầy, một lũ nhốn nháo và thiếu thông tin như thế.

2. Thỉnh thoảng, chúng ta được xem những clip quảng cáo cho ngành hàng không: một cánh diều thơ mộng, một cành đào, một tiếp viên hiền hòa cười nhẫn nại, một đường băng, và một cánh bay...

Sự đẹp đẽ như thế chắc chỉ có ở... trên trời, và có lẽ chúng ta chỉ là “Thượng đế” khi đã “thắt dây an toàn, dựng lưng ghế thẳng đứng và cài bàn ăn phía trước”? Còn khi ở trên mặt đất, dù ngay trong lãnh thổ của Hàng không, thì chúng ta vẫn chỉ là “dân”? Tôi nhớ, cũng ở sân bay Tân Sơn Nhất, khách bay nước ngoài đã vô cùng bực bội trước băng chuyền lấy hành lý ở ga quốc ngoại: chỉ có một băng chuyền, thế là nhân viên hàng không bèn dỡ hành lý xuống, chất đầy trên nền, để sau mười mấy tiếng bay, hành khách giờ lại phải hì hục vào kiếm tìm, khuân khuân, vác vác. Hay như Nội Bài mới là đẹp thế, lớn thế, mà từ máy bay ra, hành khách lại phải đi một con đường dài đằng đẵng, với bao nhiêu là túi xách lỉnh kỉnh (theo thói của chúng ta)...

Ôi! Những sự vất vả lúc còn dưới mặt đất... Thật là trái ngược với lúc ở trong thân tàu bay, cơm được bưng và nước được rót, chẳng cần động đến tí chân tay!

22. Học cách chết

Khi chị tôi còn học Y, tôi đã từng được đến Trung tâm Ung bướu, chỗ chị thực tập. Tôi cũng có đến Trung tâm Huyết học; tại đấy, có khá nhiều bệnh nhân ung thư máu được điều trị.

Những người bệnh ung thư, tôi vẫn nhìn người ta thương cảm; vừa thương vừa sợ có ngày cái bệnh ấy vận vào mình, không biết khi ấy mình sẽ đối phó ra sao. Mình có còn làm việc không? Mình có còn đi học thêm không? Hay là mình tự tử?...

Rồi ông tôi mất vì bệnh ung thư. Tôi đã biết không khí của một gia đình có người bệnh nặng là thế nào, dù rằng người bệnh vẫn làm việc cho đến phút chót, cho đến khi ông mất ý thức và sống như một em bé trong nhiều tháng. Tôi nhớ khi đó, thỉnh thoảng có một ma xơ vẫn đến thăm. Cô giúp đỡ gia đình tôi cả về vật chất lẫn tinh thần. Cô tặng ông tôi cuốn sách về Thiền, cô nói với ông tôi những câu chuyện để ông tôi thấy cái chết là nhẹ nhàng.

Làm sao để thấy cái chết là nhẹ nhàng đây ? Tôi cũng có một thời gian đến những lớp học thêm của các xơ. Có một lần, xơ nói, chúng ta là những đứa con xa nhà, đi học nội trú ở trên đời. Khi nào chết là học xong, về với cha mẹ. Nhưng mà, tôi không thích cái thuyết này, vì thấy có những người sống rất dài mà có vẻ chẳng đi học gì cả, còn có những người đang là học trò giỏi mà sao lại phải về nhà sớm?

Lại có người nói, khi mình chết, mình như rơi xuống một cái ống rất to và sâu. Trên đường rơi, cả cuộc đời sẽ hiện lại, những lúc mình đau khổ, những khi mình vui sướng... Rồi rơi phịch xuống một cánh đồng. Ðồng mênh mông đầy hoa và cỏ. Ðồng giống như trong các phim về cõi tiên, nhưng ở đây không thấy tiên, mà đón mình là những người thân đã mất. Nhưng gặp lại người thân đâu có nghĩa là có lại tất cả!

Có lý thuyết nào thực sự làm người ta nguôi được nỗi buồn, khi đến một cái hạn cận kề mà mình đã biết, mọi thứ sẽ mất hết, sẽ tuột khỏi tay mình hết, và cái cuộc đời là duy nhất này, thế là xong, mọi nỗ lực từ trước tới nay chẳng để làm gì nữa. Từ đây cho đến mãi mãi, chẳng bao giờ được quay trở lại, để bước đi trên đường, để vuốt ve một con chó, để ngồi uống cà phê vào những sáng chẳng đi làm...

Chị Phạm Thị Oanh khi ấy đang theo học một lớp Tâm lý. Một ngày kia, chị phát hiện ra mình bị ung thư. Và thế là chị trở thành bệnh nhân của Trung tâm Ung bướu. Ở trong bệnh viện, chị không quên làm công việc an ủi tinh thần cho những người đồng bệnh. Ra viện rồi, chị vẫn quay lại với họ, gặp nhau mỗi tuần. Họ ngồi một vòng với nhau, và nói.

Những người bệnh này, họ nói gì với nhau? Họ nói gì về cái chết? Họ tìm ra cách gì để biến những ngày còn lại trên đời thành những ngày nhẹ nhàng cho cả mình, cho cả người thân? Làm cách nào để chuyện ra đi mãi mãi (dù trước hạn) không có gì phải vật vã?... Ðó là nội dung cuốn sách mà chị viết lại sau đó. cuốn "Người Bệnh Ung Thư Ði Tìm Ý Nghĩa Cuộc Sống" (NXB Trẻ - 1999)

Sách viết rất hay. Vừa tình cảm (bởi vì tác giả - người bệnh rút ruột ra viết), lại thực tế, cũng bởi vì do chính tác giả - người bệnh viết, sau khi đã loay hoay thử mọi phương cách để tự trấn an mình. Nhưng cái hay nhất của sách là không phải chỉ áp dụng nó cho những người mắc bệnh ung thư, mà nó có thể dùng được cho tất cả mọi người, cho mọi hoàn cảnh khó khăn, từ chán đời, thất bại, thất tình... Ðó là thường chúng ta, vào những lúc khó khăn, đau yếu, thì hay xấu tính; và ai ở cạnh ta nhất, quen ta nhất, thì hay bị "ăn đòn" nhất. Cuốn sách này dạy thêm cho những ai đang gặp khó khăn (tinh thần hay thể chất) biết cách biến những lúc khó khăn đó (dù là dịp khó khăn cuối cùng trong đời) thành những dịp để biết thêm cuộc đời, để sửa hết những gì mình làm không đúng trước đó, để trong mắt người thân mình không phải là gánh nặng.

"Trời đất ký thác cho ta hình thể, dùng sinh mệnh làm ta mệt nhọc, dùng già lão khiến ta an dật, dùng cái chết giúp ta nghỉ ngơi." (Trang Tử)

Ðã có nhiều sách dạy cách sinh, cách sống, cách hưởng tuổi già, nhưng chưa có nhiều sách dạy cách chết. Thì đây là một cuốn, mà đọc xong rồi lại thấy yêu cuộc đời này hơn, bởi vì sống hay chết gì cũng thuộc về nó. Vả lại, "Chết là một kinh nghiệm hay, tiếc là có mỗi một lần."

Mà có lẽ, phải biết cách chết sao cho ra chết trước đã, thì họa chăng sống mới ra hồn.

23. Học phí trả bằng máu

Mấy bạn trẻ có dùng email chắc hẳn đã có lần được bạn bè gởi cho cái file này, đại khái như sau:

Tôi đang đạp xe vòng vòng

Thì thấy một cô nằm trên đường

(Hai người tán tỉnh, linh tinh....Khoảng 12 hình.)

... Chín tháng sau, cô ta từ nhà thương gọi điện về.

Tôi lên chức bố

Công việc tôi tiêu tùng

Bây giờ tôi đi bộ

Hỏi như ngôn ngữ quảng cáo, thì: "Lần cuối cùng bạn quan tâm đến biển báo giao thông là khi nào?"

Chắc hẳn là nhiều người không nhớ nữa, vì lâu quá rồi, từ cái thời học quáng quàng lấy cho xong cái bằng lái, rồi thôi.

Hay như tôi, là từ cái lần lần nhận được file trên. Sau đó thì không có dịp nào để nghĩ ngợi về ý nghĩa của biển báo giao thông cũng như luật giao thông nữa.

*

Chuyện này không biết có chính xác không, nhưng xét ra nếu không chính xác thì cũng không có hại, cho nên xin kể ra:

Ở một nước thứ ba kia, nông dân đổ vào thành phố kiếm sống thật là đông.

Người ta vẫn còn giữ thói quen đi xe trên những đường làng vắng, và nếu đọc báo thì vẫn thích đọc quảng cáo hơn là đọc bài.

Chính phủ ra yêu cầu, các tờ báo lớn trong thành phố, như một hình thức làm việc công ích, mỗi tháng phải thay phiên nhau đăng liền tù tì một trang, trong mục quảng cáo, với nội dung chỉ toàn là giải thích biển báo giao thông (đương nhiên là không phải nội dung như cái file trên kia), in đẹp và to, như quảng cáo bia với lại xà phòng...

Nói cụ thể, tháng này 30 ngày, tôi đăng nội dung 10 cái biển báo. Tháng sau đến lượt anh đăng nội dung 10 cái khác. Tháng sau nữa tới báo của cô đăng nội dung của 10 điều luật giao thông...

Và tiền phạt vi cảnh của nước đó, ôi thôi, cao thật là cao, đau như một vết dao, ngang với thất tình, chẳng hạn.

*

Ði xe cũng là một hoạt động xã hội, giao tiếp con người có anh có tôi, càng nguy hiểm thì càng cần có văn hóa: tôi học nói năng cẩn thận để không làm anh đau lòng, và cũng cần học đi xe tử tế để không làm anh nhẹ thì cáu tiết, chửi um; nặng thì đổ máu.

Nhưng muốn đi cho tử tế, thì cũng cần phải học. Không phải chỉ một khóa sơ sài, kết thúc bằng bài thi đi vòng vèo theo vạch phấn số 8 trong sân cơ quan hay Sở Giao thông Công chánh; cũng không phải trong một chương trình phổ thông lớp nào đấy xa xăm; mà là học mỗi ngày, cho thành phản xạ.

Có người sẽ nói, dạy sao cho xuể? Mở lớp à?

Có người nói, nhà nước trăm công nghìn việc, sao mình không tự đọc sách luật giao thông?

Nhưng, cho dù có là người cẩn thận nhất, chăm chỉ nhất, thì chắc cũng không dành thời gian ngồi đọc sách luật giao thông mỗi ngày. Trong khi mỗi ngày đều phải áp dụng cái bộ luật đó. Và như cái nhà nước châu Phi nói ở trên kia, họ biết cái tâm lý không thể nào thay đổi được đó của số đông, cũng như biết rằng có những môn học chỉ cần tự nguyện, trong khi có những môn đòi hỏi phải nhồi sọ mỗi ngày, và có tốn bao nhiêu tiền thì cũng phải cố gắng mà trả học phí.

Làm sao cho bớt đổ máu thì làm. Ðó là phương châm của chính phủ nước ấy. Máu trong chiến tranh hay máu trong thời bình thì cũng là máu. Lúc nào cũng quý hơn tiền.

(*)Tựa một tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Khắc Phục

24. Không bao giờ hoàn hảo

Khi tôi giữ cái mục này, trong nhà vẫn nói, rằng coi chừng mày càng ngày càng quá quắt, khó tính, bới bèo ra bọ, nhìn đâu cũng chỉ thấy sâu mà chẳng thấy hoa. Cho nên, bài tập mà trong nhà đưa ra là thỉnh thoảng viết một cái gì đó ca ngợi cái đẹp, cái hay, "vị nghệ thuật", đại loại vậy.

Ðề bài tuần này nhà tôi ra là: Hội An.

Vẫn chỉ đọc trên báo, xem trên T.V, về một Hội An phố cổ, tường rêu, người hiền hòa... Nhưng chắc phải đến tận nơi mới biết được Hội An là gì.

Trên đường phố Hội An, Tây rất nhiều, mặt mày ai nấy trầm trầm, như trẻ con đến giờ ngủ trưa mà không chịu ngủ, đi lang thang ngoài đường. Lúc mới tới không để ý, ngồi trong quán, nhìn ra sông một hồi thì mới nhận ra điều này, tại lúc ấy chính mình cũng bị cái cái cảm giác trì trì nó kéo xuống. Nhìn ra mới thấy ồ hình như sông không trôi, nắng không thay đổi, xe không bóp còi, người đi lại mà không nói...

Ði cũng nhiều nơi nhưng tôi thấy hiếm nơi nào làm du lịch tốt như Hội An. Nó làm tôi nhớ hồi đó cả nhà phải ăn chay mỗi cuối tuần, chị tôi ăn được nửa bữa thì bảo: "Kỳ lạ quá, ăn chay vào nó cứ làm mình lừ đừ, không nghĩ ác được", thế là phải chạy vào chạn, chấm một đầu nước mắm vào lưỡi cho đầu óc nó "chạy". Thì ở Hội An cũng thế. Sự yên bình làm bạn không nghĩ ác nổi. Bạn không cảm thấy hơi tiền lởn vởn trong không khí. Khách sạn mà có đắt thì bạn cũng chỉ nghĩ: "Ừ, ở đây nó đắt!" chứ không có cảm giác người ta "chặt" mình.

Ở Hội An tìm mãi không thấy ăn mày. Vắng cả đánh giày. Trẻ con không ăn xin "cô ơi cho con đồng lẻ", chỉ bưng cái rổ bán mấy con giống bằng gỗ nâu đỏ lặng lẽ hỏi có mua không. Xe vứt trước cửa, khách vào trong nói chuyện lăng nhăng với chủ nhà cả giờ, không thèm ngó tới một cái, ra đến nơi xe vẫn còn nguyên, có thay đổi gì chăng chỉ là bị nắng mất cái yên.

Thế nhưng, (thể nào cũng phải có "thế nhưng" ở cái nước mình), bạn có nhớ những phong trào nhân điển hình tiên tiến không? Khi đó hàng ngàn nữ công nhân dệt sẽ noi gương chị Bé Bảy "bàn tay vàng" mà dệt cho giỏi. Ðến Hội An và yêu phố cổ rồi, bạn thể nào cũng ước ao giá người ta áp dụng phong trào "nhân điển hình" trên trong việc quy hoạch thị xã này.

Bởi vì sao? Vì bạn hãy hình dung như sau:

Cái ô vuông này là khu phố cổ

Còn cái vòng này là khu ngọai vi

Và đây là phố cổ Hội An với ngoại vi của nó Cái ô vuông phố cổ không thu hẹp lại, nhưng chỉ dừng ở đó, không phát triển thêm.

Trong khi đó, ngoại vi với nhà ống, nhà màu vỏ tôm luộc, màu cà rốt ngày càng nhiều, lắt nhắt, lộn xộn mọc lên như nấm con, như một đống nếp dở bó chặt cái nhân phố cổ ở giữa. Và cứ cái đà ấy, đến một ngày nào đó, Hội An sẽ như thế này:

Tôi không nhớ đọc ở đâu, hay nghe ai đó nói, rằng trong bảo tồn di sản có nhiều nấc:

  • nấc tệ nhất là phá, (thí dụ: khu bến Bình Ðông - TPHCM)

  • nấc thứ hai là để nguyên cho nó hỏng (khu nhà cổ quanh chợ Bình Tây, chẳng hạn)

  • nấc thứ ba là có thiện chí trùng tu mà làm hỏng, bằng như phá, (thí dụ: tháp Rùa trên hồ Gươm)

  • nấc thứ tư là giữ nguyên không làm gì thêm, không cho hỏng (nhanh)

  • và nấc thứ năm là giữ nguyên cái cũ, biết khai thác giá trị của nó, rồi nhân rộng nó lên.

Hội An, nếu theo phân loại kiểu này, chắc thuộc nấc thứ tư: không mở rộng mô hình phố cổ, cố giữ cho nó vẫn (bé) như xưa, không cho nó hỏng.

Nhưng, nếu xét theo nấc thứ nhất: phá cho hỏng, thì khéo Hội An cũng lại rơi vào cái nấc này. Nghĩa là phá theo lối gián tiếp, đánh vòng ngoài: dùng nhà ống bóp chặt nhà cổ, lấy sặc sỡ đè bẹp rêu phong... Người ta giao cho anh cả một Hội An phố, vườn, và biển mênh mông để làm khu du lịch - di sản thì hình như anh chỉ chăm chăm vào một cụm phố cổ với những vật trang trí xinh xinh. Ừ thì đèn lồng ban đêm thắp lên cũng đẹp nhưng đêm nào cũng như đêm nào; nhà nào cũng như nhà nào, bán giống hệt nhau những khúc tre khắc tên, áo tơ tằm, hoặc đồ giả cổ. Sự đơn điệu, hiền lành làm du khách lừ đừ. Khách nước ngoài chân dài, loanh quanh trong mấy dãy phố hẹp mãi cũng chán, chẳng thấy diễn ra hoạt động văn hóa gì lạ mắt, lại bỏ đi.

Ðấy, cái thói bới bèo ra bọ mãi vẫn không bỏ được. Bài tập "khen một cái gì đó" lần này tôi chỉ làm được một nửa. Nhưng ở nước mình hình như cũng khó mà khen được hoàn toàn một cái gì. Hầu như cái gì cố lắm cũng chỉ dừng lại ở mức "tạm được". Có một chất gì đó nằm trong đầu óc của người Việt chúng ta, cản chúng ta để chúng ta không bao giờ nghĩ thêm, hoàn thiện thêm, sáng tạo thêm, làm đến cùng cái việc mình được giao, để cho nó trở thành hoàn hảo.

25. Không có chồng thì đừng có làm giầu

Một hôm, hội Không chồng của chúng tôi ngồi bàn: hẳn ai cũng biết, không có chồng thì (nói chung) rất buồn. Và một trong những cách giải sầu của thành phần này, có lẽ chỉ còn là... làm giầu.

Làm giầu thì có nhiều cách. Nhưng với thành phần căn cơ như chúng tôi, có lẽ cũng nên chọn cách căn cơ nhất là mua đất với mua nhà, loại có giấy tờ đàng hoàng, không hợp đồng xanh thì cũng sổ đỏ.

Các thành viên của Hội tỏa đi mua nhà. Chúng tôi sẽ xoay vòng vốn với những căn nhà này. Ðến một lúc nào đó mỏi mệt thì sẽ ngừng lại, dùng tiền lời xây một căn nhà chung làm nhà dưỡng lão cho cả hội.

Nhưng với những người như chúng tôi, hình như bao giờ sự tính toán cũng bị trật đi một tí. Khi một hôm, một chị trong hội muốn bán đi (để mua căn khác to hơn), và hạng người căn cơ như chị này cũng lại (dại dột) chọn con đường căn cơ nhất để làm giấy tờ: không mướn cò, tự mình đâm đầu vào chốn công quyền.

Tại phòng Công chứng 1, TP. HCM, người ta hỏi, tài sản này chị có chung với ai không? Chị nói, của mình tôi thôi, vì tôi độc thân, chưa chồng.

"Chị về phường lấy chứng nhận độc thân", người ta nói.

Hôm sau, chị hớn hở vác giấy lên.

Nhân viên công chứng xem và nói, vậy là phường chỉ xác nhận cho chị có một khoảng độc thân thôi, còn lùi lại trước đó cho đến năm 18 tuổi, chị có độc thân không, chúng tôi cũng cần giấy tờ chứng nhận.

"Sao lại tận 18 tuổi?" chị hỏi.

Nhân viên công chứng nói ra một sự thật đau lòng: 18 tuổi, đúng ra là người con gái nào cũng có thể lấy chồng rồi.

Nhưng chị, một người đã lên rừng xuống biển suốt những năm tháng đáng ra phải lăn lộn trong bếp đó, đành bó tay. Vì muốn có giấy chứng nhận cả cuộc đời độc thân của mình, chị phải lặn lội ra tận (nhiều tỉnh) miền Bắc, sau đó vào Sài Gòn, kế tới trở về Ban chỉ huy lực lượng Thanh niên Xung phong, tiếp tục quay sang Nga xin một con dấu, trở về lại miền Nam (vài địa chỉ khác nhau), và tại đây phải đối diện với 2 trường hợp đều vô phương giải quyết (ở nước ta):

Gặp lại nhân viên cũ của chính quyền địa phương, ông này hẳn đã về hưu hay đổi công tác, và không nhớ ra chị là ai (dĩ nhiên). Ông không còn một con dấu nào hết. Và đương nhiên là ông sẽ không chứng nhận được cho chị.

Gặp nhân viên mới của chính quyền địa phương. Anh này sẽ nói, làm sao tôi biết chị là ai một khi chị đã chuyển nhà trước khi tôi về đây công tác. Và làm sao tôi dám chứng nhận là trong những năm (xa xưa đó), khi chị ở đây, chị đã không lấy chồng?

Tóm lại, chị nghĩ, việc không có chồng của mình không ai chứng nhận được, trừ mình.

Nhưng nhà nước là gì? Phải chăng là nơi đưa ra luật cho dân và hướng dẫn cách thi hành cái luật đó? Nhưng đó không phải là nước ta. Bởi vì khi chị bạn tôi hỏi anh nhân viên phòng Công chứng 1, rằng theo anh, tôi phải làm sao để có được tờ giấy chứng nhận cả cái quá trình độc thân của mình mà không phải đi ngược lại tất cả những nơi mình đã từng sống, thì anh này nói, tôi cũng không biết, có lẽ chị phải lên Phòng Tư pháp quận.

Lên đó khác gì vào cửa tử. Bạn thử tưởng tượng xem. Bạn là trưởng phòng Tư pháp, một sáng kia thấy một người phụ nữ lù lù bước vào, chìa cái đơn ra và xin chứng nhận tôi chưa có chồng, bạn có điên dại đến mức mà chứng nhận vào không?

Dĩ nhiên là không. Ai cũng thế thôi. Và đó là đúng luật. Chị cũng biết mọi việc sẽ như thế nên không đi. Chị về nhà, ôm mớ hồ sơ đầy bế tắc và nghĩ xem liệu có đáng không nếu chỉ vì để bán căn nhà cho dễ dàng mà phải lấy một ông chồng?

Ngồi nghĩ quẩn, chị đâm oán hận Sở Nhà đất. Cách đây 5 năm, vào cái tuổi chị vẫn còn có thể lấy chồng được, khi mua căn nhà này, lúc đi làm giấy tờ nhà, nhân viên Nhà đất đã mặc nhiên công nhận đây là sở hữu riêng của chị, rất nhanh nhẹn, chẳng ai cần biết chị đang yêu ai, đã lấy ai; không ai đánh động hộ chị một tiếng rằng nếu chị không lấy chồng thì căn nhà này sẽ không thể bán được.

Thế nên chị mới chủ quan.

Mà chị nghĩ, giả sử chị có một thằng chồng đi, mà nó ngốc nghếch đến mức không đứng tên trên tài sản cùng với vợ, thì hoặc là nó đã coi cái tài sản đó không đáng kể, hoặc là nó nghĩ, vợ chồng có những cách chia với nhau, bằng dao hay bằng hoa hồng, thì lúc vợ nó bán, việc gì Nhà đất phải bận lòng...

Nhưng, may cho chị, và may cho cả hội chúng tôi. Trời sinh voi, sinh cỏ. Trời sinh Sở Nhà đất, sinh cò.

Có một anh cò giấy tờ nói với chị, rằng đau đầu mà làm gì với những bất nhất của luật pháp, và vì sao lại đi theo đường chính thống? Bởi vì, nếu đưa giấy tờ và tiền cho anh ấy (mà không phải cưới anh ấy), thì chỉ trong ít ngày mọi việc sẽ xong ngay.

Anh ấy nói tự tin đến mức khiến hội chúng tôi phải họp lại, nghi ngờ, hay chính hệ thống cò của anh đã mớm cho Nhà đất những cách khó khăn để cò có tôm tép sống? Cái thế lực này gầy gò mà ghê gớm làm sao, lặn lội kiếm cơm ở khắp nơi một tí mà như có thể lũng đoạn toàn toàn guồng máy.

Chị bạn tôi nổi xung, định làm cho ra nhẽ... Nhưng cả hội chúng tôi xông vào cản. Thôi mà con này, bỏ thói cầu toàn đi, còn cò thế chẳng hơn sao; Trong chuyện này, ít ra mày không phải lấy chồng mà cũng còn lối thoát! Nhưng một tương lai bỗng mờ mịt trước mắt: cách giải khuây (gần như) duy nhất của hội chúng tôi đã bị nhiêu khê khép lại rồi.

26. Không sợ nghèo, chỉ sợ...

Ðề bài:"Tổ dân phố có 25 hộ. Trong đó có 4 hộ nghèo gia truyền. Hãy trình bày biện pháp giúp cho 4 hộ này hết nghèo chỉ trong vòng 1 năm.

Lưu ý: - có một số tiền lớn của Phường cho."

Xin bạn đọc kỹ giúp đề bài, và vận dụng ý thức trách nhiệm của một công dân mà làm thử bài toán trên, trong vòng 5 phút thôi, trước khi đọc tiếp đáp án ở phần dưới. Cảm ơn bạn đã làm theo chỉ dẫn.

Tôi dám đảm bảo với bạn, rằng đáp án của bạn chắc cũng không đi xa lắm khỏi các biện pháp sau:

– Cấp cho 4 hộ nghèo đó một số vốn

– Mở lớp dạy nghề miễn phí cho con cái họ theo học

– Giới thiệu việc làm hoặc nhận họ vào làm cho cơ sở của mình

– Cấp cho họ một số thẻ ưu đãi về y tế, giáo dục

Thế thì, cho rằng 4 biện pháp kia được hưởng ứng, nghĩa là với số tiền vốn bạn cấp, họ không dùng để mua đầu máy, mà để mở hàng cơm con; cho rằng con cái họ hăng hái theo học ngay lớp dạy nghề của bạn; cho rằng họ được nhận ngay vào một xí nghiệp bạn giới thiệu và trở thành những công nhân tốt..., thì bạn có nghĩ từ đây đến cuối năm 2003, 4 hộ nghèo đó có hết nghèo không?

Nếu bạn nói "không", bạn nên xem lại bạn. Xem lại cái ý chí của bạn có được "duy ý chí" chưa, bởi vì giao cho bạn có mỗi cái đề trên giấy thôi, với 4 hộ ít ỏi thôi, mà bạn đã lưỡng lự.

Trong khi đó, bạn có biết không, với thành phố Hồ Chí Minh khoảng 6 triệu dân, mà vừa qua, theo báo Thanh Niên số ra ngày 4. 3. 2002, hội nghị tổng kết về Xóa đói Giảm nghèo đã coi việc xóa sổ hết các hộ nghèo trong thành phố vào năm 2003 là một mục tiêu. Và quan trọng nhất, mục tiêu này đã được "nhất trí cao" của toàn thể hội nghị.

Ðọc bài báo Thanh Niên xong, trong tâm trạng của một người nghèo, vui thì vui lắm, nhưng tôi muốn được gặp ngay một người đi họp ở cái hội nghị kia về để hỏi: "Thế nào là nghèo?"

Bởi vì, cứ theo kinh nghiệm của mình, thì muốn xóa sổ một cái gì, tôi phải biết rõ nó là cái gì đã.

Nếu hỏi "đói" là gì, tôi có thể khai rành mạch cái tình trạng này, và thế là tôi có thể xóa đói bằng những phương pháp cụ thể, thiết thực.

Nhưng hỏi tôi "nghèo" là gì, thì e rằng khó trả lời.

Bởi nghèo là một tình trạng khó có thước đo chuẩn, ở nước ta.

Thí dụ:

Bạn có đủ ba bữa cơm, nhưng lòng canh cánh lo đến ngày đóng học phí cho con, thế có phải là "nghèo" không?

Bạn có đủ cơm ăn, đủ tiền đóng học phí, nhưng lúc ốm đau thì méo mặt vay tiền, thế có phải là "nghèo" không?

Bạn có đủ tiền cơm, tiền học, tiền viện phí, nhưng ngoài đó ra, bạn không còn tiền để đi chơi, để mua sách, để xem phim..., thế có phải là "nghèo" không?

(Tuần trước, tôi về Nam Ðịnh. Ði giữa cái thành phố xinh xắn, yên bình, vắng vẻ; vào ngày thứ bảy mà nhà nhà khép cửa, không tiếng nhạc xập xình, không cà phê chớp nháy; không một góc phố náo nhiệt mua bán, không những dãy hàng ăn đông đúc, không một khách du lịch ba lô thăm thú đền đài... Có vẻ như ở thành phố này không ai ăn được tiền của ai. Ði ngoài đường không thôi, bạn không thể mạnh miệng nói rằng đây là thành phố nghèo được. Bạn chỉ mơ hồ cảm giác như thể người ở đây bình an trong đời sống tối thiểu, ngày hai bữa chính một bữa phụ, một T.V, điện, nước, nhà tắm có xà phòng..., làm tôi nhớ, khi tôi "nghèo" (chưa lãnh lương), tôi chỉ duy trì đời sống tối thiểu, những nhu cầu của tôi tắt lịm, tôi giống con gà kiếm sao cho đủ miếng ăn rồi về ngủ mà thôi. Lãnh lương rồi, tôi mới nghĩ đến vui chơi và những thứ ngoài cơm.

Như thế thì có phải là "nghèo" không?)

Và nếu như anh cán bộ Xóa đói Giảm nghèo ở hội nghị đồng ý rằng những tiêu chuẩn tôi đưa ra trên kia đúng là "nghèo", thì thưa anh, anh lại làm tôi nghi ngờ rồi. Cái tình trạng đó, đến tự thân tôi lo cho tôi, mãi đến 20 năm rồi tôi vẫn chưa xóa sổ được, chỉ GIẢM được thôi, mà các anh quyết chí XÓA hết cho cả thành phố này, dù rằng với thiện chí to lớn và đáng khích lệ của những người lo cho dân, nhưng vì các anh nói rằng chỉ cần trong vòng có một năm, thì liệu có thiết thực không? Và liệu tôi có nên hy vọng?

Nhưng thôi, có lẽ tôi nên hy vọng. Không hy vọng vào tính thực tiễn, thì nên hy vọng vào ý chí. Bởi vì các anh có ý chí.

Theo bài báo, về việc làm sao cho thành phố này không còn hộ nghèo nữa, một cán bộ Xóa đói Giảm nghèo trong các anh đã khẳng định thêm chắc nịch: "Không sợ nghèo, chỉ sợ thiếu quyết tâm".

Thế thì, tôi tin vào các anh. Tôi chỉ xin thêm vào:

"Không sợ nghèo, không sợ thiếu quyết tâm, chỉ sợ thiếu duy ý chí."

27. Lên đường đi các bác

Còn nhớ vào những năm 77 - 78, ở phường tôi, cứ vào nghỉ hè, buổi sáng khoảng 5h, trẻ con dậy, tập họp, mang theo cái chổi đi quét đường cho cả phố. Lại nhớ, khi đó, đường Nam - Bắc còn diệu vợi. Phong trào "Con tàu Kế hoạch nhỏ" ra đời. Trẻ con thấy giấy vụn là nhặt. Giấy không vụn cũng vu cho là giấy vụn. Vỏ chai, vỏ hũ chao đố mà thoát được. Có đứa hũ chao cả nhà ăn chưa hết cũng lén đổ đi để lấy hũ không; tất cả tình nguyện làm kế hoạch nhỏ để hướng tới một con tàu nối hai miền mà bản thân cũng không hề nghĩ là mình sẽ được ngồi trên đó.

Không chỉ nhặt giấy vụn, ở ngoại thành, có trường còn đào ao nuôi cá. Ngay trong trường tiểu học cạnh nhà tôi lúc đó, học sinh cũng trồng rau lang tăng gia. Chiều chiều chia nhau đi tưới rau và bắt sâu, nhổ cỏ. Quỹ rau lang do một trò được cô tin cẩn nhất giao cho giữ. Ngày nào cũng đếm đi đếm lại tiền bán rau. Có hôm để lạc mất túi tiền con thì thật là một cơn ác mộng cho toàn thể đại gia đình.

Ðó là những năm, theo trí nhớ của tôi, phong trào Ðội và Ðoàn vô cùng đẹp. Khăn quàng đỏ đối với Ðội viên không phải là xa xôi biểu tượng, mà đúng nghĩa đen là vật bất ly thân. Và Ðoàn viên Thanh niên xung phong với mũ tai bèo, đào không biết bao nhiêu con kênh, khi ấy với rất nhiều thanh thiếu niên, là thần tượng.

25 năm rồi, có những khi tưởng tinh thần thanh thiếu niên tình nguyện ấy biến mất. Anh phụ trách Ðội chiều nào cũng thấy nhậu. Trung tâm sinh hoạt thanh thiếu niên thành quán cà phê...

Thế rồi bây giờ cái không khí Ðoàn rõ ràng đã sống lại; lại "mạnh giỏi" dưới những hình thức khác, là thanh niên khu phố chiều chiều mặc áo xanh, đội tai bèo, cầm cờ đỏ điều khiển dòng xe lúc tan tầm; Là sinh viên đại học về vùng sâu, vùng xa làm "Mùa hè xanh", (có khi chia tay, trẻ con đi theo khóc sướt mướt); Là thanh niên tình nguyện hướng dẫn thí sinh tỉnh xa lơ ngơ về thành phố thi đại học; Là những hình thức Ðoàn địa phương gây quỹ, hiệu quả mà chẳng ồn ào [1] ...

*

Càng vui chuyện phong trào thanh niên tình nguyện hồi sinh, thì lại càng chán chuyện người già, nhất là người già trí thức.

Hôm nọ, tôi có dịp được rót trà cho khoảng chục vị trí thức cũng là có cỡ. Những câu chuyện của họ quả thật là thâm thúy. Thâm thúy và chua chát. Ðến nỗi sau khoảng hai tiếng đồng hồ ngồi hóng hớt thì tôi thấy cuộc sống này hoàn toàn bế tắc và chỉ những muốn lao ra đường, hít thở một thứ không khí gì đó, gì cũng được, miễn có lối thoát hơn.

Ðành rằng bản chất của trí thức là luôn luôn không hài lòng, nhất là khi xã hội còn vô vàn bất cập với tệ hại. Vả lại cái lối so sánh hoài cổ như Lỗ Tấn nói, "bánh bao ngày xưa bao giờ cũng to hơn bánh bao ngày nay", ừ thì không tránh khỏi. Nhưng ở nhà mình, hình như các bác trí thức già kia lại quá chìm đắm trong sự so sánh kêu ca mà ít làm gì bằng tay chân cụ thể. Các bác ngồi với nhau vạch ra cái sai sót của xã hội, của cơ chế thì hăng lắm, nhưng cùng nhau lên đường làm một Mùa Hè Xanh đóng góp với cộng đồng thì các bác ngại ngùng.

Tôi có đọc một bài báo nói về các cụ già ở một tỉnh nước Anh, trước là thợ máy, kỹ sư, nay rủ nhau làm việc tình nguyện bằng cách thu gom máy móc phế thải, cùng nhau sửa lại, gửi tặng những nước rất nghèo, thiếu máy móc. Và thế là, cuộc đời các cụ lại được cuốn vào công việc, không còn thì giờ rảnh mà ngồi so sánh bánh bao của các thời.

Thế thì, lên đường đi, các bác trí thức hưu trí ơi!

Quanh quẩn mãi ở những thành phố lớn mà hóa hẹp, trong khi có biết bao nhiêu thứ kỳ thú đợi các bác ở những vùng xa. Nếu bác từng là giáo sư, thì giờ là lúc bác dạy học cho trẻ con chưa biết chữ. Nếu bác từng là bác sĩ, thì nay bác chỉ cho nông dân biết cách lập tủ thuốc gia đình. Hay nếu bác từng là nghệ sĩ ưu tú của Nhà hát, thì bác hãy đứng ra tập kịch cho thanh niên của bản. Còn như bác nhà văn kia tính vốn thúc thủ không muốn làm gì, thì ít nhất bác cũng nên sống thử đời sống của những người còn lạc hậu, và nếu có thì giờ, thì bác dạy cho con họ đánh răng.

Lên đường đi, các bác trí thức hưu trí ơi! Ðã được hưởng đời sống thành thị đủ rồi, giờ không còn bị hành chánh cơ quan câu thúc, các bác có thể ung dung mà san sẻ kiến thức và kinh nghiệm với cộng đồng rồi đấy!

Hãy nghĩ xem, thưa các bác! Các bác có uy tín hơn hẳn lũ đầu xanh sinh viên kia! Mỗi lời nói và hành vi của các bác đều có cả một sự nghiệp sau lưng bảo chứng, trong khi lời bọn chúng nói đến chúng nhiều khi cũng còn hồ nghi. Vậy sao cái bọn trẻ ấy, chúng dám có Mùa Hè Xanh cho mình, mà các bác thì cây đời càng ngày càng xám?

28. May mà không biết vẽ

Nếu giữ cái mục này mà cứ viết một cách cầu kỳ, vòng vo, bé xé ra to mãi thì e rằng sớm muộn gì tôi cũng phải ngưng.

Quả thực lâu nay có những điều "nghe", điều "thấy" đáng để nói. Thế mà rồi chỉ vì cứ loay hoay tìm hình thức diễn đạt mà cuối cùng đành bó tay.

Tôi nghĩ thế là không nên.

Lần này tôi sửa sai. Tôi nói thẳng vào cái điều mình thấy. Ðó là: May mà không biết vẽ

Hay nói một cách cụ thể hơn, theo vốn sống ít ỏi của tôi, là may mà không biết vẽ ở Sài Gòn. Ở đâu tôi không biết rõ nên không dám nói, chứ ở đây, tôi dám nói, là may cho ai không biết vẽ.Vì nếu biết vẽ, thì tranh sẽ triển lãm ở đâu?

Ðã có thời đi làm thuê cho một phòng tranh, tôi biết. Một bức tranh là một vật thể có đời sống chẳng độc lập tí nào. Cái gì cũng có thể làm nó xấu đi hoặc đẹp lên được: mảng tường treo nó, ánh đèn chiếu sáng nó, cái khung của nó, miếng "bo" xung quanh, ngay cả miếng nhãn tên tranh dán bên cạnh cũng có thể làm ảnh hưởng đến cái đẹp của bản thân bức tranh.

Những nguyên tắc sơ đẳng đó, phòng tranh lớn nhỏ nào của tư nhân hình như cũng (ít nhiều) nắm. Nhưng phòng triển lãm của nhà nước thì có vẻ tuyệt nhiên không.

Ðến Nhà Trưng bày và Triển lãm TPHCM trên đường Lê Thánh Tôn, bạn sẽ phải nghĩ, rằng nếu nó thuộc về một tư nhân thì hẳn số phận họa sĩ Sài Gòn đã khá hơn rồi. Tôi nói nghiêm túc.

Bởi vì họa sĩ vẽ tranh, bên cạnh phần để bán, còn vô vàn phần là để treo. ("Cái quyền tối thiểu của một bức tranh là được treo lên và được ngắm".)

Không có một phòng triển lãm nơi công cộng, tranh của họa sĩ sẽ chỉ được xem trên báo, trong những phòng tranh tư nhân, treo sít sít, nơi sinh viên không thể đường hoàng kéo nhau vào từng đám, đứng gần và lùi xa để thưởng thức hàng giờ.

Vậy mà bây giờ, khi Nhà Trưng bày và Triển lãm đã có rồi, cái quyền được treo (đẹp) của tranh vẫn không được bảo đảm. Chỉ vì nó rơi vào tình trạng "cha chung", nằm trong tay những người có lẽ chẳng yêu tranh và có lẽ cũng chẳng yêu công việc.

Phải là không yêu lắm thì mới để cho cái nhà to đùng ấy, ở một nơi đắc địa nhường ấy, đông người đến xem nhường ấy, mà trông nhếch nhác chẳng ra sao. Ở một góc phòng, vào ngày triển lãm tranh (18.8.02), một đám các ông ngồi ăn cơm, ghế nhựa đỏ ngổn ngang. Trên tường tranh treo lổn nhổn tầng này lớp nọ. Không có nhãn tên tranh, chỉ là những mẩu giấy dán xộc xệc trên tường, ký hiệu B-5, hay C-12, thí dụ vậy. Ðèn chiếu sáng nhợt nhạt, chẳng khác gì đèn nhà tôi, nếu bây giờ có chê tranh xấu cũng có thể oan, bởi treo tranh trong tình trạng như thế này thì tranh đẹp cũng thành xấu...

Ðến một công trình văn hóa nào thuộc quốc doanh, gần như bao giờ cũng thế, bạn nảy ra trong đầu câu hỏi: "Ai mà xây cái này đây?"

Trong khi nhà mới của tư nhân thi nhau mọc, như lâu đài, với bố trí hợp lý, hiện đại, cùng nội thất sang trọng, tinh tế..., chứng tỏ tầng lớp kiến trúc sư tài năng chưa bị diệt vong; thì các công trình văn hóa công cộng của nhà nước cứ như là giao cho một đám thầu khoán quen tay, thực hiện.

Cũng như vậy, khi vẫn có những phòng triển lãm tư nhân rất xinh xắn và sang trọng, chứng tỏ những chuyên gia về triển lãm vẫn còn sống, thì cái phòng xem tranh chung của dân toàn thành phố lại có vẻ như chỉ được giao cho những người chỉ biết cho thuê phòng.

Chất xám và lòng yêu nghề của những chuyên gia tốt nhất, ở nước ta, hình như không chảy về khu vực quốc doanh. Dù việc nó không chảy về là chủ động hay bị động, thì đó cũng là chuyện đáng buồn. Bởi vì, người bị thiệt hại đầu tiên chính là những người dân bình thường.

Quay trở lại với cái Nhà Trưng bày và Triển lãm trên kia, cái cơ hội được treo cho ra treo của tranh, cũng như cơ hội được ngắm cho ra ngắm của người xem tranh, đã bị cướp mất. Và các họa sĩ Sài Gòn sẽ không có một không gian thật đẹp, như một lời hứa hẹn và khích lệ (của nhà nước, để mà vẽ), rằng nếu anh có tác phẩm hay, anh sẽ được bày ra trang trọng cho mọi người cùng xem, và chúng tôi sẽ chăm chút cho đứa con của anh, từ cái khuy, cái áo...

(Mà không phải chỉ trong chuyện vẽ tranh, trong chuyện nào thuộc về văn hóa cũng vậy, cái sự khích lệ cụ thể của nhà nước sao mà khó thấy, chưa kể nhiều khi nó còn làm người ta cụt hứng, nản lòng.)

Thế nên, quay lại với chuyện vẽ vời, trong khi chưa có một bà bảo mẫu yêu nghệ thuật và thương người làm nghệ thuật như thế, thì theo tôi, không biết vẽ là tốt nhất, mà cụ thể là không biết vẽ ở Sài Gòn, như vậy sẽ khỏi rơi vào nỗi buồn vẽ-rồi-chẳng-có-ai-xem, hoặc xem-rồi-thì-thêm-tức.

29. Món nợ của ngành giáo dục

1.

"Ai bảo chăn trâu là khổ?

Không, chăn trâu sướng lắm chứ! Ðầu tôi đội nón mê như lọng tre. Tay cầm cành tre như roi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tai nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượn trên đám cỏ. Trong khoảng trời xanh, lá biếc, tôi với con trâu thảnh thơi vui thú, tưởng không còn gì sung sướng cho bằng!"

Một trong những truyện ngắn của Sơn Nam mà tôi thích nhất là "Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư", nói về cái tình cảm gắn bó giữa những con người dùng chung một hệ thống sách giáo khoa với nhau.

Trong truyện, một anh nhà báo đi thu tiền bạn đọc nợ quá hạn, khó đòi. Ðến nơi, sau ít câu trò chuyện, hai người phát hiện ra cùng từng học qua bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư. Họ cùng nhắc lại những bài học trong sách. Và cái "tình nghĩa giáo khoa thư" này đủ làm cho anh phóng viên không nỡ đòi nợ nữa.

Nhắc lại một tí, bộ Quốc Văn Giáo Khoa Thư này dùng cho hệ Tiểu học suốt gần nửa đầu thế kỷ 20, do nhà nước giao cho 4 ông, đứng đầu là ông Trần Trọng Kim, soạn. Nội dung sách dễ hiểu, dễ nhớ. Những bài trong sách không quá hay. Nó vừa phải, chừng mực thôi, nhưng mẫu mực giáo khoa. Tiếp theo lại có những câu hỏi dễ thương để trò nhỏ tóm được cái chân lý mà ông thầy muốn dạy, thí dụ trong bài trên, là:

Ta thường chăn trâu ở đâu?

Ta chăn trâu để làm gì?

Ði chăn trâu có gì là thú vị?

Lại cẩn thận tóm tắt cuối bài bằng một câu ngộ nghĩnh, không sai vào đâu được; Trong bài trên, câu tóm tắt đó sẽ là:

Dắt trâu ra đồng cho nó ăn cỏ.

Quay lại với sách giáo khoa ngày nay, các thế hệ học trò Việt Nam mình, trải qua bao đợt cải cách sách giáo khoa, có thể khó mà có được cái tinh thần "Tình Nghĩa Giáo Khoa Thư" như ngày xưa nữa. Ngay cả trong một gia đình bây giờ, cái hố ngăn cách giữa bố mẹ và con cũng đã lù lù, do mẹ không thể dạy con vì không hiểu sách của con nói gì, và con thì chê mẹ dốt vì sách lớp 6 của con mà mẹ đọc mãi không hiểu thì đúng là mẹ dốt rồi.

(Quả thật, chẳng cần bạn là người yếu bóng vía, chỉ cần đọc sách giáo khoa của các thời kỳ rồi so sánh, cũng sẽ sợ hãi và hoang mang, nghĩ hay là thế hệ mình kém quá chăng, khi bọn trẻ con ngày nay giỏi thế, hiểu được những câu đặc từ kép Hán Việt, mà điểm số cuối năm vẫn cao ngút trời.

Thí dụ, nghĩ tới cảnh con mình, 11 tuổi, non nớt và ngây thơ, thỉnh thoảng còn đái dầm, mà đã có thể hiểu được và học thuộc lòng được đoạn "bác học" sau trong sách Ngữ Văn cải cách lớp 6, ngay bài 1:

Giao tiếp là hoạt động truyền đạt, tiếp nhận tư tưởng, tình cảm bằng phương tiện ngôn từ.

Văn bản là chuỗi lời nói miệng hay bài viết có chủ đề thống nhất, có liên kết, mạch lạc, vận dụng phương thức biểu đạt phù hợp để thực hiện mục đích giao tiếp.

... thì bạn chẳng hãnh diện sao? Vì đó rõ ràng là bằng chứng sống của sự tiến hóa (theo hướng tích cực) của loài người mà!)

2.

Soạn sách Giáo khoa chắc không phải chuyện đùa, cho nên ngày trước đã phải dùng tới tận ông Trần Trọng Kim để soạn cái bộ sách Tiểu học.

Không phải đùa, vì có lẽ, loại sách này, ngoài cái nhiệm vụ khai mở trí năng (tôi dùng từ Hán Việt nhé), hẳn còn phải làm thêm cái việc liên kết các thế hệ. Trong gia đình cũng có một thứ "tình nghĩa giáo khoa thư", khi ông bà, bố mẹ có chung với con, với cháu một loại kỷ niệm "xuyên thời gian" là những bài văn mẫu mực, hợp tuổi, của sách giáo khoa.

Nhưng, như đã nói ở đầu bài, nếu sách giáo khoa cải cách xoành xoạch, thì cái sợi dây nối thế hệ ấy đừng mong mà có.

Và, sự cải cách sách giáo khoa chỉ tránh khỏi (hay chậm lại) được, khi mà những bài học trong đó thật mẫu mực, "thời nào cũng thuộc được", với giá trị trải qua mấy chục năm vẫn không đổi.

Chuyện đó hơi khó với sách giáo khoa mình, khi còn những đoạn sau, nằm nghiễm nhiên trong sách giáo khoa (cũng sách Ngữ văn cải cách lớp 6, trang 29):

"Chiều ngày 3. 4. 2002, trại điêu khắc quốc tế lần thứ ba với chủ đề "Ấn tượng Huế - Việt Nam 2002" đã khai mạc tại công viên 3. 2, mở đầu các hoạt động nghệ thuật của Festival Huế 2002. Tham gia trại lần này có 27 tác giả quốc tế từ 18 nước của 4 châu lục và 11 tác giả Việt Nam. Giúp việc cho các nhà điêu khắc có gần 100 thợ đá, gò, hàn lành nghề và 15 sinh viên khoa điêu khắc của Trường Ðại học Nghệ thuật Huế. Trại bế mạc vào ngày 11. 5. 2002. Tất cả tác phẩm sẽ được tặng cho địa phương để xây dựng một vườn tượng tại Huế. (Báo Thanh Niên, ngày 4. 4. 2002)

Thật chẳng có gì sai cả, cái đoạn báo này. Nó đúng ngữ pháp, nó có thông tin, nhưng hình như nó thiếu một cái tiêu chuẩn gì đó để đưa vào sách giáo khoa - Một cái tiêu chuẩn gì đó tôi không biết gọi tên, nhưng nó mang "chất giáo khoa", rất mẫu mực đặc trưng, không cũ với thời gian, để các thế hệ học trò cùng thuộc, cùng nhớ.

Thế rồi sao? Thế rồi một vài năm sau, chắc lại có người thắc mắc, người ta nói, đưa như thế thì đoạn báo nào chẳng đưa vào giáo khoa được. Và người ta sẽ lại đòi thay đổi, thay những đoạn văn đại loại như trên bằng những đoạn văn khác, và học trò sẽ lại có sách cải cách.

Nhưng học trò không phải là thứ để chúng ta thí nghiệm. Cái sợi dây "đồng môn" giữa các thế hệ học trò cũng không thể là thứ nạn nhân "bao cấp" của các nhà cải cách giáo dục. Và nếu sách cải cách cứ như thế này, thì cái món nợ "tình nghĩa giáo khoa thư" của ngành giáo dục đối với các thế hệ người Việt Nam chỉ càng chồng chất mãi lên thôi.

Nguồn: Thể thao-Văn hoá 2002

30. Mỳ gói, bạn hay thù

1. Có một lần, em gái tôi được ra nước ngoài cùng một đoàn 10 người đàn ông. Mười người đàn ông Việt Nam dễ thương, rất chăm sóc thành viên nữ hiếm hoi trong đoàn, như những người anh chăm sóc em gái út.

Cả đoàn rong ruổi, từ ngày này sang ngày khác, từ thành phố này sang thành phố khác, đánh vật với phong cách ăn uống này rồi phong cách ăn uống khác. Trong cuộc chiến cuối cùng này, các anh trai của đoàn gục ngã. Và chị y tá, bà tiên, cô Tấm... đến nâng họ dậy chính là... mì gói.

Ðã được nghe nhiều những mẩu chuyện về người Việt Nam ta đi công tác với một va li toàn mì. Không chứng kiến tận mắt thì cứ nghĩ chắc đây là một cách tiết kiệm. Có ở cạnh những chủ nhân của đống mì rồi mới thấy, nhiều khi không phải thế, em tôi nói. Chủ nhân của những thùng mì rất rộng rãi, chi tiêu thoải mái, nhưng họ cần mì. Có mì họ mới an tâm, như em tôi lúc nào cũng phải mang theo thuốc đau bụng rồi mới dám ăn ốc. Anh hướng dẫn viên du lịch thất vọng ra mặt khi thấy những món ăn địa phương chỉ được động tới một cách tự tin khi mì gói của đoàn đem theo đã được rót nước sôi để sẵn. Tô mì gói đứng lù lù trên bàn như một cái ao làng thân thương, nhìn thấy nó rồi thì những cậu trai mới dám (rón rén) đi chinh phục những miền đất mới.

2. Có người bạn, chị X., hay đi công tác nước ngoài. Chị bảo, tao buồn cười nhất là sang đến nơi là y như rằng có người trong đoàn đòi đi ăn... cơm Việt Nam, hoặc tệ hơn, ăn phở. Có người ăn chỉ để so sánh cơm Việt Kiều với cơm Việt Nam (trong khi còn vô vàn cái lớn hơn thì không so sánh); có người lại đơn thuần ăn là để đỡ nhớ, dù cách đó hai ngày vừa mới chén một bát phở đêm tú hụ, đến nỗi lúc đứng dậy còn nghĩ bụng, khéo phải một tháng nữa mới dám ăn lại.

Chị bảo, mình thì chỉ muốn có dịp ra nước ngoài thì ăn thứ họ ăn, uống thứ họ uống, thở không khí họ thở, nói tiếng họ nói, cố mà hiểu theo cách họ hiểu. Lần nào đi đến một nơi mới lạ, chị cũng ám ảnh rằng cuộc đời mình chỉ có một lần duy nhất, và biết đâu lần ghé thăm này cũng là duy nhất, khi xa Trái Ðất rồi thì không còn dịp quay lại. Cho nên cố mà sống cho đầy, bằng tất cả những giác quan mà trời đã cho... Ấy thế mà những dịp hiếm hoi ra nước ngoài, thời giờ eo hẹp thế, vẫn có những người trong đoàn của chị đòi đi chợ Việt Nam bằng được, rồi lúi húi nấu cho dẻo một nồi cơm, đến nỗi chẳng còn mấy thời giờ mà đi chơi; hoặc tệ hơn, ăn không được thức ăn người, đến nỗi coi như chuyến đi ấy là thất bại, dù xứ sở ấy có đẹp đến chừng nào.

3. Gắn với nồi cơm hay gói mì đến mức không có không được, về sâu xa, cũng là một phần của tâm lý "giá người giống ta". Quên cái khẩu vị của mình đi ít ngày, "bỏ thói quen của mình ở nhà" vài bữa để sống với thói quen của người khác mà cũng đã khó vậy, thì cái gọi là "từng trải" làm sao có được nhiều?

Mà ở nước mình, hình như người ta không thích người từng trải cho lắm. Nếu bạn đổi mỗi hai năm một cơ quan, thì đến năm thứ sáu người ta đã e dè bạn rồi. Người ta đặt ra câu hỏi, hay là bạn có khuyết điểm gì mà không ai chịu đựng nổi? Không từng trải thì khó thông cảm, thế nên đa phần đàn ông Việt Nam chỉ chấp nhận vợ có quá khứ trắng tinh như... nồi cơm, và phụ nữ khó mà ngồi nghe (một cách đầy chia sẻ như một người bạn thân) chồng kể chuyện mình đi chơi vui với các cô bạn cũ ra sao. Lại đến bố mẹ thiếu từng trải, chưa bao giờ mạo hiểm, nên khó mà hiểu được tâm lý khi con làm liều để còn giúp nó vượt qua...

4. Tôi có người bạn, sống nay đây mai đó như chim, như gió. Sự tự do tỏa quanh anh này như một vòng hào quang. Trong cái bếp ở chỗ anh thuê có đầy mì gói. Nhưng đống mì để mãi chẳng thấy suy suyển là bao. Anh nói, để mì ở đấy cho tiện, nửa đêm có đói thì ăn, bận việc thì ăn, khỏi nấu, khỏi chạy ra ngoài; còn ra ngoài rồi thì ăn gì cũng được, có quan trọng gì!

Thế đấy, mì gói cũng như đàn bà, tùy hoàn cảnh mà biến thành bà hoàng hay chỉ là con ở, còn tùy theo người mua nó muốn là nô lệ hay ông hoàng (của thói quen).

31. Nếu tao là nhà nước...

Y.,

Tao mới đi rừng Cúc Phương về. Ðẹp kinh khủng. Cây to, lối mòn sạch, chim hót, ve ran, bướm bay từng đàn từng đàn, và không khí trong veo, mát lạnh như thể mày bôi dầu gió vào người rồi chạy xe máy vậy.

Nhưng càng đi vào sâu trong rừng, tao càng ước gì mình là nhà nước. (Tao nghĩ nhiều người cũng có cái ước như tao, mỗi khi đi đến một khu du lịch nào đó trên đất nước này.) Nếu tao là nhà nước, thì tao đã thu được khối tiền từ Cúc Phương. Có biết bao nhiêu là khách, mà dịch vụ thì lại quá sức tồi tàn. Chúng tao thuê một phòng trong khu nhà rông ở sát khu rừng chính (có cây chò và cây sấu nổi tiếng). Ðó là một khu đất đẹp đẽ, nhưng chỉ cất lèo tèo mấy cái nhà rông cho khách nghỉ, cạnh một nhà ăn to đùng xây bằng đá, như là ủy ban nhân dân huyện.

Phòng nghỉ tồi tàn, với chăn màn cũ kỹ, rèm cửa hồng hồng, một cái tủ cũ, một cái giường cũ... thật chẳng khác gì phòng của thầy giáo vùng cao. Cái gọi là khu nhà nghỉ đó không có nhà vệ sinh riêng. Chúng tao phải dùng nhà vệ sinh công cộng. Nhà tắm công cộng không có nước nóng, tao co ro dưới vòi nước lạnh mà ước gì mình là nhà nước.

Nếu tao là nhà nước, tao sẽ làm lại hết. Tao làm một khu nhà đơn giản, xinh xắn, nhiều cửa sổ; mở cửa ra, với tay ra, là đã chạm rừng. Chăn nệm sạch sẽ, nhà tắm nước nóng ở bên trong... Tao sẽ tính giá cao, nhưng tao chắc với mày là khách sẽ sẵn sàng bỏ tiền ra để ở lại một vài đêm giữa rừng như thế và phòng sẽ không bao giờ đủ; bởi vì, cứ như tao, nếu có một khu nhà nghỉ như thế, tao sẵn sàng mỗi năm đến đó nghỉ lại một lần.

Tao lại càng ước gì mình là nhà nước nữa, khi đến trưa thì tao đói. Chúng tao thong dong ra cái nhà bằng đá to đùng kia, và người ta nói là chẳng có gì mà ăn đâu. Chúng tao hỏi, mì gói thì sao? Mì gói cũng không có nốt. Chúng tao bảo, bất kỳ cái gì cũng được, đói quá rồi. Các chị mậu dịch viên tươi cười: không có gì hết. Cuối cùng, tao xông thẳng vào nhà bếp, tao gần như cầu cứu “em sắp ngất vì hạ đường huyết rồi”. Người ta linh động kiếm cho chúng tao ít đồ ăn. Chúng tao ăn trong sự biết ơn và tao ước gì mình là nhà nước.

Nếu tao là nhà nước, tao đã thu được khối tiền từ cái nhà ăn này. Cúc Phương thì xa, khách từ ngoài vào đến đây chỉ có nước ăn ở đây chứ biết ăn ở đâu. Tao chỉ cần nấu những món ăn thông thường, sạch sẽ cho khách ít tiền, học sinh, sinh viên đi cắm trại; hoặc điệu đàng hơn, tao kê những bàn ăn dưới tán cây trên bãi cỏ trước nhà hàng. Ngồi ở đó, vào buổi chiều chập choạng, nhìn bướm bay từng đàn, nghe vượn hót, trong hương rừng, trong gió rừng, khách khá giả sẽ chẳng tiếc tiền mua những phút thư giãn mà no bụng đó.

Nhưng, tao muốn làm nhà nước nhất, khi từ trong rừng chui ra. Chúng tao rã rời, và không có một dịch vụ nào giang tay mời gọi cả.

Nếu tao là nhà nước, tao sẽ giàu to. Tao sẽ mở một cụm dịch vụ ngay cạnh khu nhà nghỉ và cái nhà hàng tao vừa nói. Tao sẽ bán gậy cho khách đi rừng, bán ống nhòm cho trẻ con nhìn ngọn cây, cho thuê võng và tấm trải để khách nghỉ trong rừng, bán giày ba ta cho người lỡ đi cao gót, bán nước suối, bán phim chụp ảnh, bán dầu gió, bán thuốc chống muỗi bám... Tao sẽ làm tủ cho khách thuê để gửi lại bớt đồ đạc (như ở siêu thị). Khách lảo đảo từ trong rừng chui ra đã có khu tẩm quất, hoặc phòng tắm hơi, phòng gội đầu thảo dược. Chưa kể, tao có cả dịch vụ sửa xe cho những khách đi xe máy...

Y. ạ,

Xót ruột lắm khi thấy cái túi tiền nhà nước đáng lẽ được đầy mà lại vẫn cứ vơi. Một cơ hội làm ăn béo bở như vậy, tao còn thấy, sao nhà nước lại không thấy mà bỏ phí thế nhỉ?

Hay là thế này, tao với mày, chúng ta đến xin đấu thầu cái khu nhà nghỉ trong rừng Cúc Phương, và mỗi tháng nộp một khoản tiền cho nhà nước. Sẽ rất có ăn Y. ạ. Dân mình ngày càng giàu lên, và nhu cầu đi du lịch cũng tăng lên. Họ đã biết tiêu tiền. Họ chỉ cần dịch vụ tốt.

Mày cho tao biết ý của mày sớm để tao còn đi liên hệ người ta.

Tao,

X.

X.,

Tao đọc báo Phụ Nữ Thành Phố, có bài của nhà văn Trần Bạch Ðằng nói về ông Hun Xen ra lệnh cho khu du lịch Angkor Wat nếu không xây nhà vệ sinh ngay cho khách thì ông cách chức hết. Tao cũng đang nghĩ: “Nếu tao là nhà nước...” đây.

Nếu tao là nhà nước, tao sẽ bắt các quan chức phải trình bày cho tao nghe cái kế hoạch “Nếu tôi là nhà nước...” của họ. (Thí dụ, tao bắt ông Ninh Bình trình bày kế hoạch làm thế nào để thu được tiền từ Cúc Phương mà vẫn bảo vệ được Cúc Phương). Nếu các quan chức của tao không có kế hoạch gì cụ thể mà chỉ có những từ ngữ chung chung vẫn dùng trong văn bản báo cáo, thì đến lượt tao, tao sẽ thực thi các biện pháp trong kế hoạch “Nếu tôi là nhà nước...” của tao đối với họ.

Nhưng, X. ơi,

Nếu tao là nhà nước, tao cho mày đấu thầu ngay cái khu dịch vụ trong rừng Cúc Phương mà mày nói.

Nhưng xác suất xảy ra việc đó rất thấp, bởi vì, nếu tao là nhà nước, thì giờ tao đã không trả lời thư cho mày. Hoặc là tao không đọc thư mày, hoặc là cấp dưới của tao đã đọc trước và vứt đi.

Như vậy, không biết là may hay rủi cho mày, là tao chưa thành nhà nước.

Y.

32. Nhân trường hợp chị thỏ bông

Bạn tôi về quê thăm mẹ. Anh ở nhà, vào đúng ngày chủ nhật, thì buồn. Alô cho một người bạn, và cả hai đi mát-xa.

Cô gái làm mát-xa cho anh rất xinh, mặt tỉnh bơ, vừa làm vừa kể chuyện cười. Cô kể chuyện chị thỏ bông đi lạc.

"Chị thỏ bông có chồng là anh thỏ bông. Một hôm chị thỏ bông đi vào rừng tìm cà rốt. Lúc quay trở ra thì bị lạc. Chị đi một đoạn thì gặp anh thỏ trắng. Chị hỏi, đường về nhà tôi là đường nào. Anh thỏ trắng bảo, "muốn biết thì ở lại đây đêm nay". Chị thỏ bông đành ở lại.

Ngày hôm sau, chị đi tiếp, mãi vẫn không thấy đường. Chị nhìn thấy anh thỏ nâu. Chị hỏi, đường về nhà tôi là đường nào. Anh thỏ nâu nói, "muốn biết thì ở lại đây đêm nay". Chị thỏ bông cắn răng ở lại đấy một đêm.

Hôm sau nữa, chị đi tiếp. Vẫn lạc đường. Lần này thì gặp anh thỏ đen. Chị đến hỏi, đường về nhà tôi là đường nào. Anh thỏ đen cũng nói, "muốn biết thì ở lại đây đêm nay". Chị thỏ đen tặc lưỡi ở lại.

Sáng hôm sau, chị tỉnh dậy, và lên đường. Ði được một đoạn thì thấy nhà, với anh thỏ bông đang đánh răng trước cửa. Chị về nhà được hai hôm thì biết mình có mang."

Cô mát-xa đố: "Em đố anh, con của chị thỏ bông sẽ có màu gì?"

Bạn tôi đoán, cà phê sữa bông, khoang đen bông..., mãi cũng sai, đành hỏi cô.

Cô bảo: "Muốn biết thì ở lại đây đêm nay".

Ðương nhiên là bạn tôi không phải thỏ bông nên không ở lại. Chỉ cười khà khà, tí sau rút ví ra, cho tiền boa, và về kể tôi nghe, tấm tắc khen mãi cô gái massage tinh ranh làm anh buồn cười - cái việc mà cả mấy năm nay vợ anh không làm được.

Thưa chị em phụ nữ,

Không làm chồng cười được là một cái tội rất to. Nó khiến cho chồng các chị phải đi tìm nụ cười ở những nơi khác. Và đó là một cái quyền của đàn ông.

Cái này không phải là mình tôi nghĩ ra và phát ngôn. Mà điều này, báo (dành cho phụ nữ) nào cũng có nói. "Khi anh ấy có người khác, bạn hãy xem lại mình." Nghe như một châm ngôn.

Bởi vì các chị không biết kể chuyện chị thỏ bông, cho nên các anh phải đi nghe người khác kể lại câu chuyện ấy.

Bởi vì các chị không biết mát-xa, cho nên các chị không thể cấm các anh đi mát-xa.

Bởi vì các chị không biết quá nhiều thứ nên các anh phải đi lấy kiến thức từ nơi khác.

Bởi vì các chị biết quá nhiều thứ nên các anh sẽ đi phổ biến kiến thức cho nơi khác.

Bởi vì các chị quá hiền,

Bởi vì các chị quá dữ,

Bởi vì các chị quá ngăn nắp,

Bởi vì các chị quá bừa bộn...

Kiểu gì, như báo đã nói, cũng là lỗi của các chị thôi.

Và báo (có lẽ đã ăn hối lộ của đàn ông) mà đề cao quá sức cái công dung ngôn hạnh, gần như đặt hẳn các chị lên bàn thờ, khiến các chị không leo xuống được để đấu tranh bình đẳng với đàn ông, cho nên các chị đành ở đó mà vui vầy với bếp núc cùng con cái.

Trong khi đó, Thưa các chị,

Một món quà nhân ngày phụ nữ mà tôi muốn tặng cho các chị, dù mở ra các chị có thể nhăn mặt, thấy vô đạo đức, gói lại không nhận, là phần phân tích sau vụ việc chị thỏ bông vừa qua để các chị biết thực lực các chị đến đâu:

Các chị dễ rơi vào tình huống "chị thỏ bông" hơn các anh

Có lẽ, chẳng ai nói cho chồng các chị biết rằng: phụ nữ có khả năng sa ngã hơn đàn ông rất nhiều. Lại không phải kiểu sa ngã ăn-bánh-trả-tiền-một-lần-rồi-quên như đàn ông, mà đây là sa ngã tinh thần, thương thương nhớ nhớ mà chồng các chị có biết thì chỉ có nát tim gan. Không báo nào răn đe người đàn ông rằng nếu anh cứ để bụng bia đi lại nghênh ngang trong nhà mà quăng quật vợ, thì vợ anh, tuy cúi mặt hiền thục nấu ăn trong bếp cho anh đó, nhưng tâm trí là hướng về người khác rồi; như một nơi an ủi, như một chốn yêu thương; chỉ rất may cho anh, rằng chị đã ở cái thế "bàn thờ" của phụ nữ Á đông, nên ít khi để cho mọi việc đến nơi đến chốn, chứ còn không thì...

2. Luôn có những người khác mà chị không biết

Chị thỏ bông chỉ cần đi ra đường cũng đã thấy muôn sắc thỏ đón chào mình. Anh thỏ bông có thể thấy vợ là nhàm, nhưng những anh thỏ khác thì không thế.

Các chị cũng thế, để ra một ngày nhìn quanh mình đi, rồi các chị sẽ thấy, nếu các chị bật đèn xanh, sẽ có vài người đàn ông mong được các chị cười với họ một cái, hay ăn một bữa cơm của các chị nấu, hay được các chị xoa đầu.

Lâu nay các chị vẫn được giáo dục trở thành một bông hồng duy nhất cho một người duy nhất. Ðó hình như là chiến lược của cánh đàn ông. Ðàn ông không nói với các chị rằng, nếu càng nhiều người ngắm, thì họ càng quý bông hồng của mình. Không đời nào họ nói như thế. Họ chỉ muốn an toàn, nên cố hướng dẫn các chị nở mãi một cách, tỏa hương mãi một loại; loại nào, cách nào công dung ngôn hạnh tiết liệt nhất. Thế rồi sau đó, khi đã đúc được chị thành bông hoa nhựa rồi, họ lại chỉ muốn tìm đến những bông hoa dại biết kể chuyện thỏ bông.

Thường bao giờ họ cũng bắt các chị lựa chọn: hoặc là hoa dại và không có anh ấy, hoặc là thành hoa nhựa và có anh ấy; các chị sẽ chọn ngay con đường hoa nhựa.

Các chị không biết, rằng nếu các chị cứng đầu làm hoa dại, thì các chị sẽ không mất gì cả, mà còn kích thích người ta giữ các chị lại hơn.

Gia đình còn hay mất là do đạo đức các chị

Chị thỏ bông có cái khả năng đi ba đêm về mà anh thỏ bông vẫn không biết, và trên đường có rất nhiều anh thỏ đen, nâu, trắng sẵn sàng rủ chị phiêu lưu. Cái gia đình thỏ bông thật ra còn hay mất là do chị, do đạo đức của chị đến đâu. Chị thỏ bông hoàn toàn có thể tạo ra những vụ việc đi lạc lần nữa để phiêu lưu mà chẳng mất gì. Nhưng trời phú cho chị thỏ bông (cũng như cho các chị em phụ nữ) cái khả năng nghĩ về đạo đức rất mạnh, cho nên anh thỏ bông mới còn vợ cùng nhai cà rốt với mình.

Tóm lại: Sau vụ việc chị thỏ bông này, hẳn các anh đã thấy mình cũng cần cảnh giác mà giữ vợ?

Bởi vì con đường hư hỏng của phụ nữ không cần mất công như các anh đâu. Theo một thống kê mật, những lời đề nghị của phụ nữ được chấp nhận tới 8/10, trong khi đàn ông chỉ có 1.5/10 mà thôi.

Bình đẳng với phụ nữ là cho họ biết vũ khí mà họ có, và để họ tùy nghi xử dụng sau khi đã cân nhắc được mất.

Hôm nay, nhân vụ chị thỏ bông, tôi lấy lại chút bình đẳng cho các chị. Còn bây giờ, tôi phải đi. Có người đang đợi tôi để hỏi: muốn làm hoa dại hay hoa nhựa.

Tôi nghĩ kỹ rồi. Tôi chỉ hung hăng thế thôi. Ðể không mất anh ấy, tôi sẽ làm hoa nhựa.

33. Nhật ký (gã) đào đường

Tháng 4, năm 200...

Mình có nên đi khám bệnh không? Khi cái ham muốn điên cuồng kia lại trỗi dậy. Sáng nay ngủ dậy còn thấy rất sảng khoái. Có con chim nhà bên cạnh hót rất vui. Rồi mình đi tắm. Lúc trong nhà tắm mình còn vừa tắm vừa hát. Khi đó mình thấy yêu cuộc đời này quá...

Rồi lúc chạy xe đi làm mình cũng còn thấy vui. Thế mà khi vừa quẹo ra con đường mới, thì tất cả thay đổi. Vừa nhìn thấy mặt đường phẳng phiu mới trải nhựa xong ít ngày, xe chạy băng băng không vướng bụi, tự nhiên cái ham muốn kia bừng lên trong người mình. Nó ngùn ngụt đến mức mình tự hỏi, sao thế này? Chẳng lẽ thuốc uống suốt quý I năm nay không có tác dụng gì sao? Không, mình nghĩ rồi, đối với dạng bệnh này, thuốc chỉ có tác dụng khi "yếu tố khởi phát cơn" đừng xuất hiện nữa. Có nghĩa là đừng có những con đường mới ra đời, mặt đường đừng quá phẳng, và người đi đường đừng mang vẻ mặt quá thỏa mãn vì được thênh thang... Nhìn thấy tất cả những thứ này, Thánh cũng phải lên cơn đào bới như mình mất thôi. Mình chỉ muốn có ngay một cái xẻng trong tay, hay một cái cuốc chim cũng được, đào một cái gì đó trên đường, nhỏ cũng được, một cái lỗ cũng được, miễn ở ngay giữa cái mặt đường phẳng phiu kia...

Mình biết đào đường thế là sai. Một cái gì đi ngược lại quyền lợi của đám đông vô tội thì nói chung là sai, mình biết. Nhưng đó là bệnh, bác sĩ gọi tên nó là "ám ảnh phá hủy"; nó nằm ngoài ý muốn của mình, nó bất chấp ý muốn người khác, và mình chỉ mong nhân dân hiểu được cho là mình bị mắc cái chứng oan nghiệt này để mà tha thứ cho thôi.

Tháng 7, năm 200...

Tưởng đã đỡ sau đợt điều trị tháng tư, hóa ra kết quả lại còn đáng sợ hơn: bác sĩ nói mình chuyển sang một dạng khác của bệnh, như mặt kia của một đồng xu, có tên là "ám ảnh xây dựng".

Hình như có sự thay đổi về thị giác và ý thức vật cản. Những con đường ở Hà Nội, trước kia mình vẫn thấy nhỏ bé, xinh xắn, rất đặc trưng Hà Nội; thì từ khoảng một tháng rưỡi trở lại đây, mình thấy nó sao mà quá to, quá trống trải, lại như không có gì có thể ngăn được hai luồng xe (dù chậm) đâm sầm vào nhau. Cứ bước ra đường là mình chỉ muốn xây ngay một con lươn, xấu xí cũng được, gây chết người như chơi cũng được, nhưng phải xây ngay, xây vội vàng, cắt cho nứt đôi một con đường, cho hoa sữa rụng đều hai nửa, cho mọi thứ hẹp lại, chật chội lại, ùn tắc lại... Trời ơi, chỉ có ngồi đây, viết lại thôi, mà cái ham muốn làm con lươn đã trỗi lên trong mình như thế này rồi, nó lại bừng bừng không khác gì cái ham muốn đào đường mấy tháng trước. Nó thiêu đốt mình, làm mình chỉ muốn lấy trộm tiền của mẹ Nhà nước, thỏa mãn cái cơn làm lươn này xong rồi muốn gì thì muốn...

Mình đâm oán mẹ. Có lẽ mẹ chiều mình quá nên mình mới thế này. Trước tất cả những cơn điên của mình, mẹ vẫn đều đặn cấp tiền ăn sáng cho mình. Mẹ phải biết rằng, không có tiền của mẹ thì cơn điên nào có điên mấy cũng phải tỉnh chứ! Chỉ trong 2 tháng, mình đã phá được 6 con đường, cày tung 3 dãy phố, và làm được 4 con lươn. Nếu nhân dân có oán, thì phải oán mẹ mình, chứ không phải mình. Ðáng lẽ mẹ mình phải theo dõi mình chặt hơn, "siết" hết các phương tiện gây án của mình, hoặc nặng hơn, như tích Tàu, mẹ phải giết mình đi mới phải.

Tháng 12, năm 200...

Không có cái gì an ủi với một người bệnh hơn là việc nhìn thấy có một thằng cũng bệnh giống hệt mình.

Hôm nay mình đi qua khu X, đã thấy một thằng cũng đang đào bới. Hình như nhà nó giàu hơn nhà mình. Mình thấy nó đông công nhân hơn, xe ủi to hơn, và đường nó đào nát hơn mà người đi qua không ai dám nói.

Nhưng giữa những người bệnh, lại còn có cả tâm lý ganh đua: tao nặng hơn mày. Thằng này mới ở giai đoạn "phá hủy". Còn mình đã bước sang giai đoạn 3: "xây rồi phá". Mình giờ có cái thú làm đường mới, làm vừa xong thì đào bới lên. Mình thích xây đường thật to để sau đó phá thật nát. Và mình thậm chí còn tìm ra những lý do chính đáng để phá thật nát. Trò chơi này tốn tiền khủng khiếp, và mình biết mẹ phải vay tiền các dì bên nước ngoài. Trò chơi này lại làm đau lòng nhân dân qua đường, nhưng họ là nhân dân, nghĩa là không dính líu gì đến mình cả.

Mình đã ở giai đoạn cuối của bệnh, mình chẳng sợ ai.

Mình chỉ sợ công an.

Nhưng có lần mình nghe trộm được mẹ nói với bố: "Ðừng lo, pháp luật nào cũng có những lý do che chở cho những thằng điên, anh ạ!"

34. Ở đâu có bán kính viễn vọng?

"Cái chết của một sao chổi

Mỗi lần sao chổi tiến đến gần Mặt Trời, sức nóng của Mặt Trời làm nó mất đi hàng triệu tấn bụi khí. Trong lần xuất hiện cuối, sao chổi Halley đã bị mất từ 15 đến 30 tấn nước trong một giây. Ðến một lúc nào đó kho dự trữ nguyên liệu sẽ cạn kiệt và những dấu hiệu già cỗi bắt đầu xuất hiện... Một trong các sao chổi sắp kết thúc cuộc đời là sao chổi Encke. Sao chổi Encke đã biểu lộ những dấu hiệu của một sao chổi già cỗi, không còn khả năng tạo ra một cái đuôi có thể quan sát được. Có lẽ chỉ trong khoảng 100 năm nữa sao chổi nầy sẽ "chết" hẳn và chỉ còn để lại một tảng vật chất chu du đơn độc trong hệ Mặt trời."

Nhớ khi còn nhỏ, được đọc "Hoàng Tử Bé", đến đoạn Hoàng Tử muốn quay lại cái tiểu hành tinh của mình để gặp lại bông hồng năm ngày ba tật, mà thân xác thì nặng, đành phải nhờ con rắn mổ cho một phát giúp hồn lìa xác; tôi khóc quá là khóc, ra ngoài hiên ngồi nhìn lên trời, và ước gì mình có... cái kính viễn vọng.

Mấy chục năm sau, lại có cái thôi thúc muốn mua được cái kính viễn vọng con con. Lần này cũng do đọc sách, nhưng là sách khoa học, loại kiến thức phổ thông cho mọi người - cái quyển có đoạn nói về sao chổi bên trên, "Những Lữ Khách Của Hệ Mặt Trời", của tác giả Phạm Thanh Minh.

Trong sách, những phần công thức tính toán (ít thôi) tôi bỏ qua nhanh, đọc chủ yếu phần nói về các tiểu hành tinh (có cái dạng như củ khoai tây, có cái dạng như quả chuối...), phần giải thích thế nào là sao chổi (là những tảng băng tuyết đường kính vài km, trộn lẫn các hạt bụi bẩn, xuất phát từ một vùng tối tăm, lạnh lẽo của vũ trụ...), rồi giả thuyết vì sao khủng long tuyệt chủng (65 triệu năm trước, một vật thể rơi xuống trái đất...), hoặc rất hay là đoạn tả vệ tinh Giotto đi làm nhiệm vụ bay qua nhân sao chổi Halley để chụp ảnh cho chúng ta xem, rồi bị thương và lạc hướng như một người lính thực thụ.

Sách hơi ít hình và sơ đồ - cái cần có cho sách loại này. Sách còn một số lỗi chính tả loại Bắc - Nam, và thỉnh thoảng một số chỗ mâu thuẫn nho nhỏ. Nhưng trong hoàn cảnh sách hiện nay, đối với tôi, một cuốn sách như vậy là quá tốt rồi, khoảng trăm rưởi trang để đọc trong khoảng hai ngày, lúc rảnh rỗi, vừa có thêm kiến thức, lại vừa thúc đẩy mình ý muốn có cái kính viễn vọng, nghĩa là làm sống lại cái phần lãng mạn tưởng đã chết từ lâu.

Phải thú nhận cái phần mơ màng của mình khi đọc sách thì cũng hơi khó, nhưng quả thực đọc sách này có lúc thật là buồn, nhất là cái đoạn: "Chuyện gì sẽ xảy ra khi các nhà thiên văn phát hiện một vật thể có kích thước lớn khoảng vài km đang trên đường hướng vào Trái Ðất? Nếu người ta phát hiện ra nó chỉ 5 năm trước khi nó va vào Trái Ðất, thời gian quá ngắn để có những chuẩn bị đối phó cần thiết và có lẽ người ta sẽ hối hận vì đã không phát hiện ra nó sớm hơn."

Thật chẳng còn cái chữ nào làm người ta đau lòng hơn cái chữ "hối hận" trong đoạn này. Tôi bỗng nhớ hôm trước nghe chuyện về hai người bạn, một người gọi cho người kia, nói: "Anh đọc trên báo thấy bảo 300.000 năm nữa trái đất sẽ không còn, sao mà buồn quá." Thế là hai người cùng buồn. Họ biết rằng như thế thì có vẻ quá vớ vẩn, những 300.000 năm nữa và đây mới chỉ là giả thuyết. Nhưng mà vẫn cứ lặng cả người, tiếc thì đúng hơn, chừng đó công sức con người, rồi bao nhiêu là tình cảm... Mình là hạt bụi tỉ tỉ năm mới đến cái hành tinh mỏng manh này có một lần, và không bao giờ trở lại được nữa, nhưng sao mà yêu nó vậy!

Tôi định thế này, mỗi khi có dịp, đọc được quyển sách nào, có cái gì hay, tôi nói cho bạn cùng biết. Có khi cả quyển được có một chương, hay khá hơn là nửa quyển, nhưng có lẽ cũng không nên quá cầu toàn. Như quyển sách trên kia chẳng hạn, còn những chỗ trúc trắc, lại chưa thật là hệ thống, nhưng cái phần kiến thức bổ ích (dù là phổ thông) thu được thì rất nhiều. Chưa kể, nếu chịu khó đọc đi đọc lại thì lại càng an tâm mà đi chơi tối với... cháu, để nó có chỉ lên trời và hỏi câu này câu kia thì mình người lớn cũng có cái mà trả lời.

35. Ra về lúc giải lao.

Một cô gái tâm thần sống cùng ông nội nuôi. Hai ông cháu vẽ bong bóng rồi đi bán. Họ sống trong một khu chung cư, ở đó chiều chiều có một anh ca sĩ (sắp tới thời) lên sân thượng và hát một bài hát duy nhất (đợi thời). Chiều nào anh cũng gặp cô gái tâm thần kia trên sân thượng. Anh yêu cô, và ngay cả khi đã trở nên nổi tiếng, anh vẫn yêu cô.

Cô tâm thần kia lại chính là con gái của một người họa sĩ. Ông này khi trẻ lấy được vợ đẹp, rồi nổi tiếng, tiền nhiều, danh nhiều, đâm hắt hủi vợ. Vợ ông bỏ đi, mang theo cô con gái. Một ngày kia, vì một chuyện gì đó, cô con gái này bị bỏ giữa đường ngất xỉu, và ông bán bong bóng nhặt về, nhận làm cháu nuôi.

Ông họa sĩ có tiếng rồi thì lại mất vợ mất con. Nhớ thương khôn nguôi khiến ông năm nào cũng triển lãm tranh và lần nào cũng để bức tranh vẽ vợ mình ở gian trang trọng nhất, ai hỏi mua cũng không bán. Một hôm, cô gái bán bong bóng ghé lại, và ông họa sĩ sửng sốt, tưởng như vợ mình hiện về...

Tiếp theo thì sao?

Tiếp theo thì tôi không biết, bởi vì tôi bỏ về vào lúc giải lao.

Lúc đó vở kịch đã đi được khoảng 1 tiếng 30 phút, với những màn chọc ghẹo nhau, chửi qua lại tục tĩu, và hoàn toàn không có kịch tính.

Sự dung tục chen lẫn những ý đồ lãng mạn khuôn sáo không giấu vào đâu được. (Bong bóng biểu tượng ước mơ, dễ tan và dễ vỡ; Hiểu được và yêu được tâm thần là bằng chứng nhận đã đi được vào thế giới trong trắng chẳng bon chen...) Những màn mùi mẫn mẹ tìm lại được con kiểu kịch tôi vẫn xem khi còn 7 - 8 tuổi, nghĩa là cách đây 30 năm, xen lẫn với những cảnh nhí nhảnh thám tử "zé zé" của những phim thiếu nhi Mỹ... Có thể gọi, đây là một bữa ăn hổ lốn của những tác giả kịch đang cố tìm cách nhặt lấy từng tràng cười từ dưới khán phòng, bằng bất cứ giá nào.

Khán giả thì cười nhiều lắm. Khán giả, ai cũng biết, không phải là vị giám khảo đáng tin cậy trăm phần trăm. Họ chao đảo và phản ứng khá là "phong trào". Không tin, bạn cứ thử xem: bạn ngồi trong khán phòng, cạnh vài người lúc đầu cười khoái chí trước những câu thoại vô duyên. Bạn đăm đăm mặt vào nhé, rồi bạn cau mày. Những người ngồi quanh bạn sẽ để ý thấy bạn không vỗ tay, bạn còn chặc lưỡi bực mình. Chỉ sau đó một chút thôi, bạn sẽ thấy những hàng xóm của bạn cười ít đi, cười hoang mang hơn, và vỗ tay cũng nhẹ nhàng hơn. Thế đấy, khán giả là không đáng tin hoàn toàn. Tuy tác giả vẫn phải căn cứ vào khách hàng của mình mà lấy chuẩn làm việc, nhưng chỉ nên căn cứ một phần nào thôi. Việc của người sáng tác là phải cố hết sức đưa ra những cái hay, cái cao hơn khán giả, nói với họ, xem này, ở đây đẹp hơn, khó hơn nhưng đẹp hơn; chứ không phải là chiều theo khán giả, hạ mọi thứ xuống cho vừa tầm. Làm như thế là coi thường khán giả, bởi khán giả là một khối co giãn, anh dở mấy nó cũng hút anh được, và anh giỏi mấy thì nó cũng lớn hơn anh được. Anh chớ có tự cao mà hạ chuẩn mực mọi thứ đi và nghĩ là làm như thế là cho khán giả "hiểu được".

Quay lại với vở kịch, quả thực, ngoài việc đáng trách là đã để những khán giả "có lòng" với sân khấu (chịu khó đến nhà hát thay vì ra ngoài đường thuê băng Hàn Quốc về xem) không được hưởng một không khí trang trọng đúng nghĩa của nhà hát; thì đáng chán nữa là dàn diễn viên. Ðài từ của các diễn viên nữ chua ngoa, không khá hơn bất kỳ ai trong chúng ta, nghĩa là họ chỉ hơn ta là họ có... cái micro. Diễn viên diễn nhợt nhạt và ý thức là có cả khán phòng đang nhìn mình, cho nên họ nói mà không nhìn nhau, họ nhìn khán giả. Một Ngọc Trinh với giọng nói tưng tửng mà vở kịch nào rồi cũng gặp. Một Minh Nhí mãi vẫn như thế kể từ ngày anh mới xuất hiện trong mục "Trong Nhà Ngoài Phố". Mà thôi thế còn đỡ tệ hơn là một Ngọc Giàu chấp nhận nói những lời thoại tục tĩu sau bao nhiêu vai để đời của một thời sân khấu còn thịnh vượng.

Có lẽ bạn sẽ nói tôi sai, chưa xem hết vở kịch mà đã chê như thế này. Người ngồi đến cuối mới có quyền nói mạnh. Nhưng trong trường hợp này, nếu bạn có bỏ 50.000 đồng ra, mất một buổi tối chủ nhật, đến sân khấu kịch Nhà văn hóa Phú Nhuận, xem vở kịch Ðóa Hồng Gai, bạn mới thông cảm được cho tôi.

36. Sự hấp dẫn của lưu manh

Chiều 30 Tết, mọi việc đã xong, ngồi mở báo ra xem chương trình TV Tết năm nay có gì. Sau khi chọn qua chọn lại, cuối cùng tôi xem phim “Những người hết thời” (*).

Tóm tắt, phim nói về hai ông bộ đội già, vào năm 2000 đi tìm mộ đồng đội mất cách đó khoảng 30 năm. Trên đường đi, hai bác gặp hai thằng lưu manh chuyên sống bám vào bãi đào vàng. Hai thằng lưu manh nghi hai ông già đi đào lại kho báu nên ăn cắp cái bản đồ. Mất bản đồ, hai bác đành chỉ biết đi theo tiếng gọi tâm linh. Tới nơi, mộ đã được đào rồi, và hai thằng lưu manh sì sụp lạy trước bộ hài cốt. Hài cốt được đưa về lại với gia đình. Tình đồng đội vậy là trọn vẹn.

Tôi chỉ kể cốt chuyện phim ra cho bạn dễ theo mạch bài, chứ thực ra cũng không có gì đáng chê trách trong cốt phim cả. Cốt phim nào, nói cho cùng, cũng có thể làm phim hay được. Và ngược lại, một cốt phim hay, bao giờ cũng có thể khai triển thành một phim dở được, không khó.

Ở đây, cái muốn nói, là cả phim, chỉ những đoạn nào có dính đến hai thằng lưu manh thì mới hấp dẫn. Lời thoại tự nhiên hẳn, giọng nói lưu loát, sinh động. Tình tiết thật hẳn lên.

Còn lại, là giả và ẩu hết. Từ những chi tiết li ti.

Một bộ hài cốt suốt hai mươi mấy năm chưa đi tìm. Ðến năm thứ ba mươi tìm không ra thì ai nấy sụt sùi như thể người chết đuối ba ngày nay xác sao không thấy nổi lên. Nhạy cảm vậy, tình cảm vậy, nhưng khi hai cụ già này, trong lúc đi rừng, thấy có một xác thanh niên còng queo, thì lại thản nhiên như thể tôi gặp con gà con chết ngoài vườn, quấn lại, đem chôn, cũng không hề có tâm lý bối rối thời bình bàn chuyện báo xã, trình công an... Chôn xong, một trong hai cụ rửa tay qua loa bên suối (cụ kia không rửa), cùng nhau nhắc lại kỷ niệm chiến trường và bàn nhau chuẩn bị xơi cơm lam. Và từ đó cho đến hết phim, cái xác không bao giờ được nhắc lại nữa.

Ðó chỉ là đơn cử ra cho có cái gọi là dẫn chứng cụ thể. Còn nếu liệt kê ra hết, thì phải mất ít nhất 80 trang (tức ít nhất 80 phút phim).

*

Cứ mỗi năm, ở Hà Nội, người ta lại tổ chức một lớp học, kéo dài khoảng vài tuần, do những giảng viên từ Pháp sang, phụ trách.

Giảng viên là những đạo diễn lớn, nhà biên kịch lớn, hoặc là người làm nghề sửa kịch bản - tìm ra những cái yếu, cái dở của một kịch bản, và sửa.

Cứ mỗi năm, vào mùa đông, học viên lại đến, và càng ngày càng thưa. Có người đến một buổi rồi đi, bảo: “Toàn những điều mình biết rồi.” Có người đùa cợt, nói: “Nói không hơn gì mình.” Có người lại đưa ra cái cớ: “Ðiện ảnh Pháp chứ có phải điện ảnh Mỹ đâu mà học.”

Trong lớp, có khi giảng viên lấy vài trang kịch bản của học viên ra phân tích. Toàn những lỗi mà chúng ta thấy trên màn hình hôm nay: lời thoại giả, tình tiết giả, tâm lý vô lý, thiếu nhất quán, và giảng viên chê không tiếc lời, nhiều khi động đến phần tự ái nhạy cảm người Việt ta, có người đâm bực mình. Ngoài ra, có lẽ các giảng viên cũng đã phạm phải một sai lầm: đó là bắt người ta đối mặt với sự yếu kém của chính mình nhiều quá. Giảng viên nói, các bạn phải đọc sách, các bạn phải xem phim đi thôi, phải nghe nhạc đi thôi, phải SỐNG đi thôi; Các bạn thiếu quan sát, các bạn thiếu tập trung, các bạn thiếu nghiêm túc, thế thì các bạn bỏ nghề đi. Các bạn hãy nhìn xem, có phải mảng đời sống nào, khu vực kiến thức nào mà các bạn hiểu kỹ nhất, thân thuộc nhất, chịu khó đổ công cho nó nhất, thì các bạn mới làm ra được những thước phim hấp dẫn người xem không? Còn lại, chỉ là giả...

Các giảng viên đi lại như những lò lửa trong lớp học, và hẳn đã làm chạnh lòng một số con người đã nguội lạnh việc làm nghệ thuật, họ làm như trả nợ, cho có cái mà phát sóng. Họ không hiểu được cái sự sôi sục kia, bảo: “Làm gì mà hăng thế nhỉ?”

*

Hăng là phải, vì người ta còn lửa.

Bạn cứ xem những cái phim như “Những người hết thời” đi, rồi bạn sẽ hiểu thế nào là sự mất lửa của người làm nghệ thuật thế này. Những tia leo lét còn lại chỉ lóe lên thỉnh thoảng ở một vài đoạn phim thật sự hấp dẫn - những đoạn không làm anh đạo diễn mất công lắm trong lao động, tìm hiểu tâm lý, sự ăn khớp thời gian, thí dụ như những đoạn của hai anh lưu manh - một mảng đời sống dễ gặp, dễ hay khi đưa lên hình, không phải mất công nghiên cứu nhiều.

Tóm lại, “lưu manh cứu cả thế giới”. Không có hai anh lưu manh, hai cụ trong phim đã không tìm ra hài cốt đồng đội. Và nếu không có hai anh lưu manh, thì bộ phim này chắc vẫn còn đang luẩn quẩn bên bờ suối với những kỷ niệm chiến tranh nhắc lại bằng phong cách giả tạo nhất mà một người làm phim có thể có.

(*) Bộ phim được Huy chương Vàng Liên hoan phim Truyền hình Toàn quốc năm 2001

Nguồn: Văn Hoá Thể Thao, số 17, 23.02.2002

37. Sự nan giải của Tí

Cách đây hai năm, khi Tí mới vào cấp III, bố Tí - một người cấp tiến, đã đưa ra quyết định táo bạo: Tí không cần là học sinh giỏi trong trường.

Với giấy phép này, Tí được phép lơ là:

môn Văn

môn Địa lý

môn Thể dục

môn Sinh vật

môn Sử

Tí chỉ cần giỏi:

• môn Toán

• môn Lý

• môn Hóa

• môn Anh Văn

Trong suốt hai năm đó, bố Tí đã nỗ lực dạy Tí những điều mà trường không dạy. Bố dạy Tí đọc báo, phân tích tin thời sự và xã hội (theo kiểu bố Tí). Bố cùng Tí đọc sách và đi chơi… "Nghiêm trọng" nhất, bố cho Tí tham gia phần điện của các công trình xây cất, để một khi thi đậu vào trường Kiến trúc, Tí sẽ là một sinh viên khác các sinh viên khác.

Với lối giáo dục như thế, Tí trở thành một học sinh "cá biệt" của lớp theo nghĩa đặc biệt. Từ Tí toát ra sự khinh khỉnh trước cái lối dạy vẹt và học vẹt. Tí coi thường sự "mãi không chịu lớn" của đám bạn cùng tuổi. Tí bất chấp hệ số với thang điểm. Tí là một học sinh điểm số trung bình mà đáng nể. Tí là một thách thức với thày cô và đồng loại bạn bè.

Tóm lại, Tí "đáng ghét".

Nhưng, Mới ngày hôm kia thôi, quan niệm của Tí đã bị chao đảo. Khi nghe được ý kiến của Bộ Giáo dục - Đào tạo: "Chỉ những thí sinh khá giỏi mới nên dự thi đại học" [1] , các thầy cô đã nhìn Tí nín cười.

Bố Tí bảo, đừng lo, đó chỉ là "ý kiến", chứ chưa phải là một "quyết định".

Nhưng mẹ Tí bảo, ở nước ta, những "ý kiến" của cấp trên đều có thể được cấp dưới biến thành một "quyết định", rồi tự động triển khai thành một "đường lối" để lập công. Và nếu cái ý kiến trên của Bộ Giáo dục được đem vào áp dụng, để rồi Tí không được thi Đại học, thì mẹ Tí oán bố Tí cả đời. (Mẹ Tí thì vẫn oán bố Tí cả đời!)

Bố Tí lại cãi cùn, thế gương ông Anh-xtanh dốt Toán thì sao? Làm sao có thể căn cứ vào những gì người ta làm trong môi trường phổ thông, để mà chặn đường người ta đi vào tương lai cơ chứ? Cứ theo cái lối giáo dục này, thì chúng ta muốn có những công dân đặc sắc hay tròn đều ung ủng?

"Tôi không biết, tôi không biết!" Mẹ Tí xua tay và mở báo ra, trong đó [2] , ông Quách Tuấn Ngọc, Giám đốc Trung tâm Công nghệ thông tin - Bộ GD-ĐT, y như rằng, đã "triển khai" ý kiến mới nhen nhúm của Bộ. Ông ấy nói: "Vậy các em có học lực quá kém thì nên ở nhà hoặc đi thi trường THCN và dạy nghề, đỡ tốn tiền bố mẹ. Ở quê, 1 triệu đồng đã là rất quý rồi."

Thế nếu bố mẹ cái trò dốt đó có tiền, và 1 triệu là rất bé đối với ước mơ của trò ấy thì sao?

Thì ông nói tiếp: "Việc các em có học lực quá kém đi thi làm cho thành tích ngành giáo dục của tỉnh đó bị ảnh hưởng rõ rệt."

Vậy là, theo hướng suy luận đen tối của mẹ Tí, một thông điệp "ngầm" đã được gửi tới toàn thể giáo viên cấp III. "Hãy nghĩ tới thành tích tỉnh nhà!" Hãy ngăn chặn bọn học kém mà lắm ước mơ đi thử sức. Hãy gác cửa ước mơ chứ đừng khuyến khích ước mơ.

Đại học chẳng của riêng ai, lại càng không phải của riêng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Ai cũng có thể đứng trước cánh cửa Đại học mà hão huyền hay thực tế nghĩ mình có thể bước vào, và thử bước vào. Qua được những bài thi, được điểm chuẩn, được chỉ tiêu tuyển sinh hay không là sức của mỗi sĩ tử. Nhưng ít ra, cái quyền được thử sức là quyền chính đáng của mỗi học trò tốt nghiệp cấp III, kể cả những trò lêu lổng và dốt nát.

Đó là suy nghĩ của bố con Tí, nhưng nhỡ các thầy cô và các trường Đại học nghĩ khác thì sao?

Thế là, từ sáng nay, Tí đã biết thân, "hoàn lương" cắm đầu vào những bài học mình không yêu thích, để rủi khi cái ý kiến về học sinh khá giỏi hẵng đi thi của Bộ thành "quyết định", thì Tí cũng còn vớt vát được chút nào.

"Để đạt được ước mơ, nhiều khi cần thỏa hiệp", đó là bài học Tí dạy ngược lại cho bố Tí. Và bố Tí, giờ mới hiểu nỗi lòng của các giáo viên, khi phải đối mặt với tinh thần "thành tích" của mẹ Tí trước các chị em cơ quan, đành phải dẹp ngay cái lối giáo dục của riêng mình, ngậm ngùi nhìn theo Tí bay theo đàn chim vẹt.

38. Tâm trạng của anh phóng viên “kém tiếng Việt”

Ngày 8.12.04, qua điện thoại, phóng viên đài BBC phỏng vấn ông Nguyễn Xuân Hiển, Tổng Giám đốc Vietnam Airlines. Sau đây là đoạn cao trào nhất trong cuộc phỏng vấn 5 phút này.

PHÓNG VIÊN (PV): Các máy bay mà Vietnam Airlines mua thì sẽ dần dần thay thế các máy bay mà hiện nay đang thuê, phải không ạ? Hay vẫn có những máy bay mà Vietnam Airlines tiếp tục thuê?

ÔNG NGUYỄN XUÂN HIỂN (NXH): Không. Chúng tôi sẽ tiếp tục thuê. Bởi vì tại sao lại không thuê? Anh còn hỏi gì được thêm nữa không?

PV: Hiện nay thì hãng United Airlines ngay ngày mai họ đã bắt đầu khởi hành chuyến bay từ San Francisco, thì...

NXH: Tôi hoan nghênh, hoàn toàn hoan nghênh, rất hoan nghênh United Airlines mở đường bay đến Việt Nam. Bởi vì thị trường muốn rộng mở, muốn tiến tới mở rộng thị trường, tự do hóa thị trường. Có điều Vietnam Airlines sẽ cân nhắc đầy đủ để bay đến Mỹ cuối năm 2005 – 2006.

PV: Tại sao lại không thể sớm, cùng thời gian với lại United Airlines ạ?

NXH: BỞI VÌ TÔI KHÔNG THÍCH. BỞI VÌ TÔI CHƯA THÍCH.

PV: Mà thưa ông, rõ ràng là khi United Airlines họ bay đến Việt Nam vào cuối tuần này thì, rõ ràng là...

NXH: Đấy là một hiện tượng rất tốt đẹp, trên tất cả các lĩnh vực. Xin chúc mừng.

PV: Và ông không hề sợ là sẽ phải cạnh tranh với những hãng rất là sừng sỏ trên thế giới?

NXH: Ồ, tại sao lại dùng cái từ sợ ở đây nhỉ? Anh ơ... anh phỏng vấn trên điện thoại nhớ, nhưng anh ăn nói hơi thiếu văn hóa đấy.

PV: Dạ không, tôi cũng không nói là...

NXH: Vì có lẽ sống xa tổ quốc nên ngôn ngữ Việt Nam của anh hơi hạn chế. Vietnam Airlines không biết sợ ai hết.

PV: Thôi thì, có thể tôi dùng từ không đúng, nhưng mà theo ông...

NXH: Anh nên học lại tiếng Việt đi xong rồi hẵng tổ chức phỏng vấn, nhé!

PV: Thì tức là tôi có thể dùng...

NXH: Cái cuộc phỏng vấn này được ghi âm đấy!

Nhưng không cần đợi ông đe, anh phóng viên đã ra tay ghi âm trước.

*

Chẳng ai biết được tâm trạng anh phóng viên sau đó. Tôi xin đưa ra hai trường hợp:

Truờng hợp 1: Anh ray rứt vì tiếng Việt của mình

Sau buổi phỏng vấn, anh phóng viên kéo cổ áo đến tận mang tai, gục đầu ra phố, gọi một ly bia để giải sầu.

Anh điểm lại những câu mình đã nói, và thấy không hiểu sao lại bị mắng là “vô văn hóa”.

Anh càng lo âu vì không biết mình bắt đầu làm ông nổi nóng từ đâu?

Sách tâm lý có dạy là “đôi khi sự quá nhẫn nhịn và lễ phép sẽ khiến người đối diện muốn giơ đấm”. Anh đâm hoang mang về giọng nói của mình, về cách ăn nói của mình. Anh ân hận vì mình đã thêm những chữ “ạ” với lại “phải không ạ” đằng sau vài câu hỏi, mức độ lễ phép không thua gì lúc về ăn giỗ ở quê. Ông Hiển có mắng anh là xa tổ quốc lâu nên vô văn hóa. Anh thắc mắc, hay văn hóa hiện nay của người Việt “gần tổ quốc” là không có những chữ quỷ quái này trong câu hỏi?

Anh cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi, mà không tìm ra lý do. Anh đâm sợ quá.

Và ngay cái khoảnh khắc “sợ” đó, anh ngộ ra chân lý: Anh đã quá vô ý. Khi hỏi câu: “Và ông không hề SỢ là sẽ phải cạnh tranh với những hãng rất là sừng sỏ trên thế giới?”, anh đã không biết dùng từ “lo”, từ “ngại”, từ “băn khoăn”... thay cho từ “sợ”, khiến cho ông Tổng Giám đốc chạm tự ái. [1]

Ông, ông mà sợ ai! Bởi vì ông là Tổng Giám đốc một hãng hành không “không biết sợ ai hết” như ông nói. Ông chẳng sợ gì hết á! Nhìn những chuyến bay của Vietnam Airlines trễ hết giờ này đến giờ khác, hành khách mặt hầm hầm (thầm) rủa xả hàng không, ông còn không sợ nữa là... Chúng nó không bay ông thì bay ai? Bầu trời thì chỉ có một...

...

Ngày 14.12.04, đọc trên VnExpress, anh thấy ông giải thích nguyên nhân của cuộc to tiếng này là do “có sự vênh nhau về ngôn ngữ”. [2]

Anh đã biết lỗi và muốn xin lỗi ông, xin thay chữ “sợ” bằng chữ “trăn trở”. Câu hỏi của anh như vậy sẽ là:

“Và ông không hề trăn trở là sẽ phải cạnh tranh với những hãng rất là sừng sỏ trên thế giới?”

Nhưng nếu đổi “sợ” thành “trăn trở” như thế, thì cái câu: “Vietnam Airlines không biết sợ ai hết” sẽ phải đọc lại như thế nào?

Anh muốn điện thoại lần nữa về hỏi ông. Nhưng anh sợ tiếng Việt của anh “vênh”, nên thôi vậy.

Trường hợp 2: Anh đã vớ được niềm vui bất ngờ

Sau buổi phỏng vấn, anh phóng viên hớn hở chạy ra phố, gọi một ly bia để tự thưởng cho mình.

Trong cuộc đời làm phóng viên đài, mấy ai hy vọng có được một cuộc phỏng vấn bất ngờ như thế. Xét theo phương diện “giật gân”, thì cuộc phỏng vấn quá sức thành công, khiến thính giả râm ran suốt.

Anh thích nhất là khi ông liên tục cắt lời anh rồi chửi anh “vô văn hóa”. Anh lại càng “tâm đắc” cái câu của ông, khi nói về việc vì sao Vietnam Airlines chưa mở đường bay đến Mỹ. “BởI VÌ TÔI KHÔNG THÍCH. BởI VÌ TÔI CHƯA THÍCH.” Chà, ông trả lời như thể người ta hỏi vì sao hè này ông chưa ghé Sapa! Đường lối của cả một hãng hàng không mà ông nói như là sở thích riêng của ông vậy.

Lâu nay, anh vẫn được coi là “đài địch”. Mà “đài địch” thì có nhiệm vụ phải vạch cho được điểm xấu của “quan chức ta”. Lần này anh đã thành công. Anh đã cho thấy một ông Tổng Giám đốc đến những câu hỏi tầm thường, bé tí thế kia mà còn căng thẳng, mất bình tĩnh, trả lời hớ hênh; làm sao đảm đương nổi những chiến lược xây dựng hình ảnh hết sức tinh tế cho một hãng hàng không lớn?

Nhưng nhớ ra một việc thì anh hơi lo. Bởi vì bản thân anh cũng là một hành khách của Vietnam Airlines. Ông Nguyễn Xuân Hiển, khi “thích” thì gửi thư chúc mừng United Airlines mở đường bay tới Việt Nam, vì theo ông, đường bay đó sẽ “cung cấp dịch vụ cho một nhóm khách hàng, trong đó có cộng đồng người Việt mình bên Mỹ.” [3]

Nhưng khi ông “không thích” thì sao? Cụ thể là không thích anh chẳng hạn... Liệu máy bay của ông có chịu chở anh không? Có cho anh ăn không? Có cho anh dùng nhà vệ sinh trong suốt chuyến bay không?

Về nhà, anh lên mạng, vào thăm dò những hãng hàng không khác – những hãng hàng không “biết sợ ai”, những hãng không có chuyện “thích” hay “không thích”, mà chỉ có chuyện “phục vụ”.

Có nhiều hãng như thế. Chỉ tội bọn chúng không nói “tiếng Việt mình”, dù tiếng Việt mình thì đi lâu rồi anh cũng có hơi quên.

16.12.2004

39. Tôi biết ơn Hội Nhà văn và…

Thưa Hội Nhà văn Việt Nam...

Thưa Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam...

Tôi, một công dân Việt Nam như mọi công dân Việt Nam, yêu thơ và khi thuận tiện cũng có làm thơ (năm chữ), cảm ơn các vị đã tổ chức ngày hội Thơ vào ngày 15. 2. 03 vừa qua trên toàn quốc.

Mọi ngày hội đều có thể có thiếu sót, đó là điều không ai tránh khỏi, nhưng vượt lên khỏi những thiếu sót đó là điều cao cả nhất mà các vị đã làm được, ấy là nêu một tấm gương tiết kiệm sáng ngời cho toàn dân.

Trong khi chính phủ đang kêu gọi sự tiết kiệm và dân ta cứng đầu chưa chịu nghe theo, thì các vị, những người tưởng như phiêu bồng trên mây lại chính là những người tiên phong đáng nể.

Các vị đã tiết kiệm cái gì?

1. Tiết kiệm không gian

Thưa các vị trong Ban tổ chức ngày hội Thơ!

Tôi không thể phân thân để dự hội thơ khắp nước, chỉ được dự ở một nơi được coi là xôm tụ nhất, đó là Hà Nội. Và chừng đó thôi cũng để tôi kính phục các vị rồi. Bởi vì, giá như chương trình hội Thơ năm nay lọt vào tay một Ban tổ chức hoang tàng khác, thì hẳn bọn chúng đã dùng cả khu Văn Miếu đó để mà làm những việc lãng phí như:

- bày góc này bán sách thơ cũ, bán đấu giá sách thơ hiếm,

- bày góc kia bán sách thơ hiện đại với các nhà thơ vung tay cho chữ ký một cách phí phạm,

- in thật to (và như thế lại tốn một đống tiền) ảnh đám nhà thơ nổi tiếng, treo trong sân, đố người yêu thơ tìm cho ra trong đám đông để mà nắm áo giao lưu,

- dựng hai, ba sân khấu khác nhau cho các loại thơ khác nhau: thơ tự do, thơ vịnh, thơ Tân hình thức, thơ vần vèo... (và như vậy lại tốn điện, tốn micro).

Nhưng, thưa các vị! Là một người yêu thơ năm chữ, tôi phản đối những hình thức trên, vì nó đi ngược lại với đường lối tiết kiệm, dù là tiết kiệm cái không gian có sẵn, chẳng để làm gì kia của Văn Miếu.

Thật là cảm phục khi thấy buổi sáng hôm đó, trong cả khu Văn Miếu mênh mông ấy, các vị chỉ cắn răng xin dùng có mỗi một khoảnh con con để đọc và ngâm thơ, tối om om và hẹp vanh vanh, dù biết rằng, ngoài kia, trong nắng ấm, có hàng trăm người yêu Thơ và người làm thơ diện com-lê, áo dài, đang rộn chân cần nhiều chốn để loanh quanh. Nhưng, thưa các vị, ngày hội Thơ chứ có phải ngày hội Ẩm thực đâu phải không ạ? Chỉ cần đứng một chỗ, lắng nghe thơ ngâm theo kiểu cổ, qua micro, là đủ để diễn tả lòng yêu mến Thơ rồi!

Càng cảm phục hơn sự bền chí tiết kiệm của các vị, khi đến buổi chiều, các vị chỉ dùng mỗi nhà Thái Học để các cụ trong các câu lạc bộ đến ngâm thơ; Và buổi tối, các vị chỉ dùng mỗi một hội trường Tăng Bạt Hổ.

Cả ngày hội Thơ ở Hà Nội - nơi gần như mỗi người dân đều mang mầm mống một nhà thơ, nơi mỗi thước đất đều nảy chồi một tứ thơ, mà ngày hội Thơ chỉ tốn một diện tích khoảng chừng 500 mét vuông là hết.

Thật chưa có một lễ hội nào, cho một thể loại nghệ thuật thuộc loại đông đảo người biết nhất (ở nước ta) thế này, mà lại tiết kiệm không gian cho nhà nước đến vậy. Nếu ai cũng biết tiết kiệm cho nhà nước như các vị, thì hẳn nước ta từ lâu đã hóa con rồng (to)!

2. Tiết kiệm Thơ và hình thức lễ hội

Nhưng, quan trọng nhất, là ngay trong ngày hội Thơ mà các vị dùng Thơ rất tiết kiệm, hệt như các đầu bếp biết tiết kiệm đến cả hành ngò trong ngày hội Ẩm thực.

Cả buổi sáng ở Văn Miếu, các vị chỉ cho ngâm lại những bài thơ cũ, của đa phần là những nhà thơ đã ngậm cười nơi chín suối. Bọn nhà thơ trẻ đứng trong sân bực bội vì những bài thơ mới toanh của chúng không được đọc. Nhưng chúng phải biết chứ, làm ra một bài thơ để đời nào có dễ, và tim óc đó, tài năng đó, dù có cũ rồi, ai cũng thuộc rồi, cứ đến dịp ta vẫn nên đem ra dùng lại, kẻo phí hoài.

Cả ba buổi của ngày hội Thơ, có lẽ các vị chỉ dùng mất khoảng 40 bài, tôi đồ vậy. Hình thức khiêm tốn như những buổi đọc thơ ở câu lạc bộ "Ông & Cháu", ấm áp nghĩa tình như những buổi đọc thơ thượng thọ, tôi ví thế có sai không, về những buổi đọc thơ của ngày hội Thơ tại Hà Nội vào đêm Nguyên Tiêu?

Và để thích hợp với không khí trên, các vị cũng dùng lại hình thức đọc thơ "cổ kính" nhất, tức là ngâm. Tuy rằng cái hình thức đọc thơ y ỷ này có thể làm cho thơ không còn là thơ; với mục tiêu tiết kiệm đặt lên hàng đầu, tôi vẫn đồng ý với các vị. Loại hình nào mà ta đã dùng từ lâu thì cứ nên dùng lại. Chúng ta quyết không như cái Bộ Giáo dục hoang phí kia, cứ vài năm lại cải cách thay sách giáo khoa một lần. Chúng ta cố thủ trong cái ngôi đền hình thức bất khả xâm phạm của Thơ (ngâm). Không có cải cách gì hết, chúng ta tiết kiệm, tức là dùng mãi những gì đã có, dù nó có không hợp thời một chút, nhưng nó không làm chết người (mà chỉ chết Thơ), thế là xong!

3. Tiết kiệm thời gian cho người yêu Thơ

Thưa các vị, Tiết kiệm không gian giúp cho người yêu Thơ khỏi tốn thì giờ đi loanh quanh thăm thú những gian hàng thơ, tham dự những trò chơi thơ vô bổ, gặp gỡ và giao lưu với những nhà thơ thiếu thực tế, ngông cuồng.

Tiết kiệm số lượng Thơ đọc giúp ngày hội Thơ chỉ phải diễn ra trong khoảng 6 tiếng, hệt như giờ hành chánh của công chức sau khi đã uống nước chè và nghỉ sớm.

Tiết kiệm các hình thức sinh hoạt lễ hội Thơ, quy lại chỉ còn ngâm và đọc trong phòng, giúp cho người ta nhận ra bản chất thật sự của nhà thơ là cô đơn mà sáng tạo.

Và tiết kiệm thời gian sinh hoạt lễ hội giúp cho khối nhà thơ phải thòm thèm, hậm hực, chờ đợi đến tận ngày này năm sau để được đọc thơ mình.

Kết luận và tri ân

Thưa các vị, Làm được các điều trên trong một bối cảnh đáng lẽ không cần phải thế; tiết chế được những thứ đáng lẽ không cần phải tiết chế, giản lược những thứ đáng lẽ được phép cầu kỳ, để ra được một ngày hội Thơ nhỏ nhắn nhất, kín đáo nhất, gần như không ai nhận ra, thì chỉ có các vị mới làm được thôi, Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Liên hiệp ạ.

Và để làm được việc phi thường như thế, tôi cảm động mà nói với các vị, rằng các vị đã cắn răng tiết kiệm hai thứ - hai thứ mà có thể chính các vị là những người có nhiều nhất, và có thể dùng vung tay nhất.

Ðó là CHẤT XÁM và LÒNG YÊU THƠ. Một lần nữa xin cảm ơn các vị.

40. Tôi có đủ thuốc ngủ rồi!

Lỗ Ai Công hỏi Khổng Tử rằng: "Nước Vệ có một người tướng mạo xấu xí tên là Ai Ðài Ðà (thế mà) người nam ở với hắn lại yêu quý hắn không nỡ xa rời, còn nữ nhân nhìn thấy hắn đều về xin cha mẹ: "làm vợ người khác không bằng làm thiếp cho người ấy"... Không hề nghe hắn tự xướng lên điều gì.... Hắn không có địa vị vua chúa..., cũng chẳng giàu có mà cho ai ăn, lại xấu xí khiến thiên hạ kinh hãi... Tri thức không vượt quá bốn cõi, thế mà nam nữ đều tìm cách thân cận với hắn, nhất định hắn phải có chỗ khác người thường.

"Ta gọi hắn đến gặp ta, quả nhiên hắn xấu xí dễ sợ. Thế mà, hắn ở chung với ta chưa đến một tháng, ta để ý nết ăn nết ở của hắn, ở chưa đầy một năm, ta đâm ra tín nhiệm hắn. Lúc bấy giờ, trong nước không có tể tướng, ta bèn đem việc nước ủy thác cho hắn. Hắn lạnh nhạt ừ hữ, hờ hững như muốn chối từ, ta cảm thấy rất thẹn thùng nhưng cuối cùng vẫn giao việc nước cho hắn. Thời gian chưa lâu, hắn bỏ ta đi, ta rất hoang mang, cảm thấy như đánh mất cái gì đó, giống như trong nước không còn ai đáng chung vui với ta nữa. Thế thì sự thực hắn là loại người nào."

Khổng Tử đáp: "Tôi từng có lần xuất du đến nước Sở, đúng lúc nhìn thấy một bầy heo con đang bú xác mẹ. Rất mau chúng kinh hoảng nhận ra vội bỏ xác mẹ mà chạy trốn, vì heo mẹ không nhìn được chúng nữa và không có dáng gì là còn sống. Bọn heo con kia sở dĩ yêu mẹ chúng, không phải là yêu cái ngoại hình mà là yêu cái tinh thần chi phối, làm chủ hình thể... Ai Ðài Ðà không nói năng gì mà được tín nhiệm, không hề lập công lao mà khiến được người thân cận, khiến người trao việc nước cho mình mà còn e mình không nhận.

"...Sống chết, còn mất, cùng đạt, giàu nghèo, hiền và hư hỏng, khen chê, đói khát, lạnh nóng đều là biến hóa của sự vật, lưu thông của số phận... Những hiện tượng ấy không làm nhiễu loạn được thiên tính bình hòa của hắn, không xâm nhập được tâm linh sâu kín của hắn. Như vậy nội tâm hắn giữ được hòa thuận vui vẻ, tâm linh hắn không gián đoạn mà cùng vạn vật như xuân... Bình thản như nước đang ở trạng thái yên bình cao độ..., bên trong giữ được nội tâm an tĩnh mà bên ngoài không xao động. Cái gọi là đức chính là sự tu dưỡng thuần hòa của thiên nhiên. Người có đức không lộ, tự nhiên mọi người đều thích thân cận không muốn rời." (*)

Bây giờ là lúc tôi làm bạn bực mình đây, bởi vì cái đoạn trên kia gần như không ăn nhập đến những gì tôi sắp viết ra sau đây, lại càng không ăn nhập đến tít bài. Chẳng qua tôi đọc đoạn này xong thì thích quá, nên trích lại để bạn đọc thử, để bạn thích thì bạn đi mua sách về.

Ðó là cuốn Nam Hoa Kinh của Trang Tử (Nguyễn Tôn Nhan dịch và chú giải - NXB Thanh Niên). Mua được xong, tôi coi như một thắng lợi trong "quý I năm 2002". Ðúng là loại sách "gối đầu giường", tối nào tôi cũng đọc. Ðọc chậm chậm, vì mỗi bài, mỗi đoạn, mỗi câu, đều là những bài học; dễ hiểu có, khó hiểu có. Và có lẽ, cái hấp dẫn của sách chính là cái nhiều tầng ý nghĩa. Thêm tuổi, thêm kinh nghiệm thì đọc cũng hiểu thêm, cách khác, hoặc mức độ nông sâu khác...

(Viết đến đây, tự nhiên tôi thấy ngượng tay. Ðấy, cái thói mình là thế. Tôi đến tuổi này rồi, đáng ra phải đọc những sách "di sản" kiểu này từ cách đây 10 năm, nay mới đọc, mà nói ra là mình đi mua về, mình đọc (bản dịch)... thì cũng ngượng. Cũng không hẳn là ngượng, mà là sợ. Sợ người đọc (vô hình) bĩu môi nói mình bịp, khoe chữ. Cái phản ứng này, tôi cũng có, đâm tôi sợ người khác cũng có. Tỉ như nghe ai nói thích nghe nhạc cổ điển, thì tự nhiên trong đầu mình đã có cái nhếch mép ngầm, "anh này trưởng giả"... Thôi thì nghĩ sao cứ nói toẹt ra vậy! Biết đâu bạn thu lại cái bĩu môi mà đọc tiếp.)

Quay lại với Nam Hoa Kinh, sách có nguyên bản chữ Hán, bản phiên âm, chú thích từ, bản dịch nghĩa (tôi chỉ đọc được phần này), và cuối cùng là "con sâu" - phần chú giải.

Thí dụ cái đoạn ở đầu bài kia, đáng lẽ có thể để người đọc gấp sách lại nằm ngẫm nghĩ muôn hướng, thì phần chú giải (vội vã) ghi ngay dưới bài, rất ngô nghê: "Ðoạn thứ tư, tả Ai Ðài Ðà tuy ngoại hình xấu xí nhưng có tinh thần nội tại đủ hấp dẫn, cảm hóa người khác." Và chú giải kiểu thế có mặt gần như cả phần đầu của sách, chỉ từ chương thứ ba trở đi thì phần chú giải này mới tạm buông tha ta.

Bạn sẽ bảo tôi khó tính. Nó có gì sai đâu? Sao lại bực mình lên thế nhỉ?

Ờ, (tôi trích dẫn tiếp đây), nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, Jean Claude Carriere, trong một lớp học mở ở Việt Nam, có nói, cái đầu của người đọc là một con thú lười nhác, luôn muốn nghỉ ngơi. Khi có ai đánh thức, chìa ra cho nó một câu hỏi, thì bao giờ nó cũng tìm những giải đáp gọn gàng nhất, đến nhanh trong cái đầu mê ngủ của nó nhất. Nó bảo, thế là được rồi, được rồi, đi đi, cho tao nghỉ...

Những lời chú giải kiểu trên kia là một kiểu thuốc ngủ cho cái con thú-vốn-đã-buồn-ngủ trong chúng ta. Nếu cứ để cho người đọc đứng giữa rừng ý nghĩa, anh ta có thể lạc mất một lúc, nhưng tự anh ta sẽ tìm được đường, có khi dẫn đến thác nước bạc, có khi tới được hang u tịch, biết đâu sẽ kỳ thú gấp trăm lần cái lối mòn vạch sẵn dẫn ra... bãi giữ xe, như thế kia. Vả lại, sách của Trang Tử đâu phải loại sách đọc vào là gật gù đồng ý hay lắc đầu phản bác ngay một chiều. Chính ta có lúc thấy làm theo sách là đúng, lúc khác lại thấy thế là sai. Thế mà lời chú giải thì như đinh đóng cột, một chiều cắm vào gỗ.

Với người lớn chúng ta thì thôi, phẩy tay không đọc phần chú giải là xong. Nhưng lại nghĩ đến chuyện dắt-tay-làm-hại như thế này hiện có đầy ở sách giáo khoa mà con em chúng ta học trong trường. Cái con thú não bộ của bọn trẻ đã bị tiêm thuốc ngủ bằng những bài văn mẫu, những dòng tóm tắt nội dung bài học in sẵn cho học thuộc. Rừng đã biến thành công viên với những lối đi tráng cứng xi măng...

Nhưng dù sao, nói gì thì nói, mua được cuốn Nam Hoa Kinh này, tôi vẫn lấy làm đắc chí. Cũng biết ơn dịch giả bỏ công làm sách công phu, cho những kẻ không biết tí chữ Hán nào như tôi có thể đến được với một kho tàng. Tôi có chán là chỉ chán cái bản thân mình, chưa học được sự bình thản của ông Trang Tử để mà không bực với những dòng chú giải ở trong sách mà thôi.

(*) Đoạn trích trên lấy trong sách Trang Tử - Nam Hoa Kinh - dẫn ở trên. Vì mục đích khác của bài viết hơn là trích dẫn, nên xin được lượt bớt một số câu và đổi một vài chữ để tiện liền mạch theo dõi.

41. Tôi cũng muốn ăn cắp

Mười năm mới lò dò từ nước ngoài về. Ở nhà chán, gặp bạn bè chán, nhắc lại chuyện cũ hồi ấy mày thích cô này, cô kia thích mày... chán chê, lại đi ăn phở nhiều bột ngọt đến mụ mị cả người, thì cuối cùng cũng cạn thú vui. Tôi bèn vào thư viện.

Giờ thì mới thấy được cái lợi của việc mãi không hội nhập được vào môi trường sống nước ngoài của mình. Không có được tác phong Việt kiều, tôi mượn thẻ của đứa cháu cũng vêu vao, đen đúa và không đeo kính, bước vào thư viện, mượn sách. Nhờ có bước vào đây, tôi mới hiểu vì sao đàn ông nước nhà hay nhậu, đàn bà thì bị chồng chê là kém hiểu biết, và trẻ con thì bị mắng là không giỏi bằng thế hệ trước.

(Ðọc đến đây, bạn có thể đang ghét tôi, nghĩ rằng tôi lên giọng quay về dạy nước. Nhưng, tôi đùa đấy, tôi không phải Việt kiều. Tôi chỉ thử trêu một tí thôi, xem cái tính xấu của chúng ta, là hễ người ngoài chê là y như không tiếp thu nổi).

Ở thư viện tôi đến đọc, nội quy ghi rõ:

Sáng: từ 7h30 đến 11h30

Chiều: từ 13h30 đến 16h30

Và chỉ cấp thẻ cho những người có công ăn việc làm đàng hoàng, có cơ quan chứng nhận, hoặc không thì cũng phải là sinh viên, học sinh; tức toàn là bọn không thể đến thư viện vào cái giờ thư viện mở cửa được.

Nội quy ngặt nghèo trái khoáy khiến thư viện trở thành một chốn riêng của bọn mọt sách (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, cả về phương diện con người lẫn côn trùng). Vắng vẻ tới mức các chị thủ thư coi đây như một chốn không người, bàn với nhau chuyện con tao tuần sau thi rồi, con mày thi chưa; chuyện mẹ chồng tao hôm qua đi ăn giỗ bị ngã sái cả chân.

Cho nên, cách đây hai tháng, đọc cái tin có một anh nhân viên thư viện ăn cắp sách tuồn ra ngoài, không phải để bán theo kiểu giấy vụn, mà để bán theo diện sách quý, cho các nhà sách cũ, thì tôi thấy thế... cũng được.

Ăn cắp đành rằng là xấu, tôi biết chứ. Nhưng dẹp cái chuyện anh nhân viên kia bỏ tiền bán sách vào túi riêng kia qua một bên, thì cái hành động của anh này tôi lại nghĩ có thể là... đáng khích lệ, nếu chỉ xét trên phương diện chuyển một vật từ-vô-dụng-sang-hữu-dụng.

Ít ra, nhờ có anh, mấy bộ tạp chí cổ mới có cơ hội được người yêu sách sờ tới một cách tự do.

( Bạn sẽ chặn lại, bảo tôi "phản động" rồi, sách đang nằm trong thư viện công, chui vào tủ sách riêng, người dân không được đọc một cách bình đẳng nữa, mà là việc đáng khích lệ sao?)

Thật ra, cái lý của tôi dựa trên một bài báo cách đây 5 năm của ai đó mà tôi được đọc: cảnh người người sánh vai trong nhà sách, trước những đầu sách mới, và phải móc tiền ra mua, hoàn toàn không phản ánh được tình trạng "bình đẳng trước sách". Chỉ khi nào, sau giờ hành chính, anh thợ máy ham đọc đã tắm rửa thơm tho được ngồi đàng hoàng trong thư viện; chị kế toán trốn người yêu có thể lẩn quẩn giữa các kệ sách đến tận 10h tối, hoặc anh kỹ sư thất nghiệp không có nhiệm sở nào (nhận đóng dấu làm thẻ) vẫn giết thời gian được cả ngày dài trong thư viện..., thì khi đó chúng ta hẵng nói là có sự bình đẳng trước sách.

Ðằng này, hệt như những truyện thần thoại luôn luôn có ba cửa ải ngăn hiệp sĩ đi tìm công chúa, gần như thư viện nào cũng có sự bất hợp lý của nội quy là con rồng phun lửa thứ nhất, thủ thư khó tính là bầy rồng khạc lửa thứ hai, sự lề mề của thủ thư khi đi tìm sách là cú quật đuôi của con rồng thứ ba. Sách như gái già trong nhà đá, thà được một chú bất lương rình lúc rồng ngủ thì kéo ra ngoài, còn hơn cao sang bất đắc dĩ không hít được khí trời.

Thế cho nên, thưa anh ăn trộm sách,

Giờ thì anh hẳn đã y án, nhưng tôi chắc anh đang ngậm ngùi.

Anh ngậm ngùi cho cái thân anh. Ai bảo anh ăn cắp. Lại là ăn cắp cái thứ cồng kềnh, ai (ngoại trừ thư viện) có được cũng khoe ra, tự hào, nên dễ lộ.

Tôi thì tôi ngậm ngùi cho cả anh và đám sách kia.

Phải như anh chỉ ăn cắp và đem đến phát không cho các nhà sách cũ, thì anh đã là hiệp sĩ.

Và đám sách kia, nếu nhanh chân một tẹo, thì đã thoát khỏi thư viện, giang hồ tơi tả ngoài chợ đời một tí, mà được tiếp xúc với nhiều người, nhiều giới, cũng còn hơn .

42. Tôi muốn đời tôi mầu gì?

Ngày đầu năm lạnh ngăn ngắt, nhận được rất nhiều lời chúc: hạnh phúc, sức khỏe, may mắn, thành đạt…, xong rồi ra đường, mắt đeo cái kính xanh nên nhìn gì cũng xanh xanh. Ngoài đường, ai nấy áo lạnh, đèo trẻ con che mặt bằng khăn voan trông thật đáng yêu.

Chúc Mừng Năm Mới! Nhưng năm mới là gì?

Mới hôm qua ngồi trên tàu, nghe trộm tầng dưới, có hai người nói với nhau, "năm mới là một lời đếm ngược nữa, ăn lậm vào tuổi đời có hạn của mình, có gì đáng mừng? Chẳng lẽ tiêu dần đến những đồng tiền cuối mà lại hỉ hả!" Lúc ấy đã định trèo xuống mà cãi lại, thôi đi hai ông, cái thói bi quan. Đời thì có hạn, chẳng phải đã biết trước rồi sao? Sao cứ nấn ná không muốn rời, đến mức thấy gì cũng là buồn chán! Thật chẳng khác gì trẻ con, mẹ cho về quê một tuần. Trước khi đi đã cam kết đàng hoàng, đến ngày thứ năm, nghĩ tới cảnh sắp về lại thành phố mà não nề, mếu máo nì nèo, đến mất cả vui hai ngày còn lại.

Sáng nay, tôi đi vung vẩy trên đường với cái kính xanh, nghĩ đến việc mình thế là đã có mặt trên đời chừng ấy năm, mà lòng vui quá. Nhưng chừng ấy năm đã trải được gì? Chẳng được gì nhiều. Vẫn chỉ quanh quẩn thành phố lớn, cơ quan tốt, bạn bè hiền. Buồn thì cũng có lúc, nhưng cũng chẳng được lâu. "Thế thì muốn gì?" Bạn sẽ hỏi. "Muốn bất hạnh hả? Muốn đói khát hả?" Và bạn chắc đang chửi rủa tôi, "đúng cái đồ tiểu tư sản!"

Chẳng ai muốn khổ cả. Nhưng nghĩ đến lúc nhắm mắt xuôi tay mà vẫn không biết thế nào là khổ, thì chắc cũng giống như đi du lịch mạo hiểm về, hỏi có leo núi không. Không. Hỏi có vượt thác không. Không. Hỏi có cảm giác rùng mình không. Cũng không. Chỉ có cảm giác vui vui nhàn nhạt, rồi mỉm cười nhắm mắt.

Không, nếu được nói trắng trợn ra mà không bị mắng, thì cho sống êm đềm bằng phẳng như thế tôi không muốn sống. Tôi chỉ có mỗi một cuộc đời, nên muốn được thử nhiều kinh nghiệm, trải lắm cảm giác. Nhưng tôi cũng lại không muốn đời mình kết thúc trong nghèo khổ, bệnh hoạn triền miên. Tôi muốn như phim rẻ tiền kìa, rùng rợn ly kỳ, mà nhân vật chính lúc nào cũng thoát ra, sống nhăn, phẳng phiu. Tôi muốn khi sang tới thế giới bên kia (nếu quả thực có thế giới bên kia), mình phải là một con ma có nhiều chuyện để kể.

Nếu được chia thế giới, tôi sẽ chia làm hai: một nửa có Năm Mới cho những người mừng năm mới (trẻ con đang lớn, thanh niên đợi đủ tuổi có bằng lái xe…), và một nửa không Năm Mới, cho những người không muốn nghĩ tới quỹ thời gian mình đang cạn (thí dụ như hai cái ông đi tàu kia).

Với nửa chia thứ hai này, nhìn từ trên xuống, người ta như đi triền miên trên một tấm thảm dài, không ngắt đoạn tháng, năm, chỉ liên tục ngày và đêm luân chuyển. Từ một đường dọc giữa thảm tỏa ra hai bên là nhiều lối rẽ tự chọn. Thường trời sáng người ta tạt vào lối rẽ cơ quan, ghé hàng ăn, trời tối thì đi chơi rồi tạt vào giường ngủ. Những hoạt động như thế làm nên những đường dệt nền. (Cẩn thận: làm mãi một cơ quan, sống mãi một nơi, ăn mãi một quán… sẽ cho một tấm thảm đời tẻ nhạt!) Thỉnh thoảng, những biến cố rơi xuống trên mặt thảm: bệnh tật, nhặt được tiền, có người xéo lên thảm của mình,… tạo những hoa văn đặc biệt, nhưng dù sao cũng vẫn chỉ là những hoa văn "ngẫu nhiên". Muốn có những hoa văn cổ quái, màu sắc cực kỳ tăm tối hay vô cùng rực rỡ thì phải dấn thân mà tự dệt… Hết một đời, tấm thảm mỗi người được cuộn lại. Có tấm sặc sỡ sau đó được mở ra mở vào mãi. Có tấm chán mắt bị đóng mãi im lìm. Lại có tấm bị bỏ qua oan uổng…

"Không ai tắm hai lần trong cùng một dòng sông", tôi thì trong một đoạn ngắn có 700 chữ đã lặp lại hai lần cái ước muốn được sống một cuộc sống "giật gân" hơn bây giờ. Bập bềnh nổi sóng nhè nhẹ mãi thế này, tôi chán quá đi mất.

Nhưng mà, chúc mừng năm mới chẳng ai chúc nhau: "Một năm ly kỳ, gay cấn." Lại nghĩ, người tiền sử chui vào hang đá là để tránh sấm sét, mưa giông. Người hiện đại chui ra ngắm trời chẳng lẽ lại mong hứng mưa giông sấm sét! Đấy, cuộc cách mạng thay đổi đời sống của tôi mới đi đến 2/3 bài cũng đã bị chính tôi dập tắt. Những nghĩ ngợi lưỡng lự, nhút nhát cứ thế mà làm tấm thảm đời tôi nhìn từ trên xuống hẳn toàn những hoa văn nửa chừng, màu nhu nhu, loại để cắt ra lót ấm trà.

Và cũng cứ như thế, đến năm sau, cũng trên cái báo này, thể nào bạn cũng gặp lại tôi cho mà xem; lại như bao nhiêu người, than vãn cho một năm cũ chưa làm gì được, một năm cũ thiếu sắc màu… và đổ hết gánh nặng hy vọng lên đầu một năm mới sắp đến.

43. Tôi nghi ngờ ông Heghen!

Khi học tới môn Mỹ học, giảng viên có dặn lớp nhớ đọc thêm sách bên ngoài, nếu được. Tôi được người bạn tặng cho bộ Mỹ Học (2 tập) của Heghen (Nhà xuất bản Văn học) cách đây đã vài năm. Tuy nhiên thỉnh thoảng tôi có mở ra rồi đóng lại ngay, vì thấy khó hiểu, đọc cả một trang mất một lúc, nhưng nếu ai nói tóm tắt lại thì không tóm tắt được. Tôi không phải phim Tàu, cố bảo vệ mình bằng những “tiểu nhân đây”, hoặc “kẻ hèn mọn này”. Tôi nói thật, tôi không quen đọc Triết, và thấy ai hiểu được Triết, nhắc lại được, ứng dụng được... là tôi phục, nhất là hiểu được Triết qua... bản dịch tiếng Việt. Triết khó vì cái gì? Vì hệ thống lý thuyết cao hơn cái tầm nghĩ của người thường chúng ta? Hay vì cấu trúc câu phức rắc rối, dồn bao nhiêu vế, bao nhiêu ý, vào trong một câu? Bạn thử đọc câu này xem:

“Trong khi cố gắng tác động ra ngoài và biểu hiện cái bên ngoài nghệ thuật nhằm mục đích gây tác động ra ngoài, và nét chung nhất là cố gắng gây ấn tượng. Nghệ thuật có thể đạt được những hiệu quả này nếu như nó xử dụng yếu tố xấu xí, gò ép, đồ sộ... để gây nên những tương phản nhất định...”

Hoặc:

“Ðối lập lại thiên nhiên bên ngoài là nội cảm có tính chủ thể, tâm hồn con người nhờ đó và qua đó yếu tố tuyệt đối biểu hiện sự có mặt của mình.”

Và đến cả câu đơn, đưa đẩy thôi, cũng khó hiểu nốt:

“ ..., chúng tôi trình bày chi tiết hơn sự phân chia của phần thứ ba này phần chính của tác phẩm.”

Nếu bạn hiểu được ba câu này, tôi sẽ không nghi ngờ ông Heghen nữa, mà chuyển sang nghi ngờ tôi.

*

Ðặt giả thiết là dịch giả dịch đúng (vì dịch giả đã đối chiếu với bản tiếng Ðức, đã tham khảo các bản dịch tiếng Nga, và tiếng Pháp, và tiếng Trung, sau khi đã dịch từ bản tiếng Nga, như những trang đầu của sách viết), thì tôi hoang mang lắm. Chẳng lẽ “triết gia vĩ đại” này, như Từ điển Triết học đã viết, tác giả của phép biện chứng “mà Lê-nin coi như là một thành quả vĩ đại của triết học Ðức”, với hệ thống lý luận “đã trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác”, lại viết những câu lủng củng không thể hiểu nổi như trên sao?

Thế thì tôi đã ngờ oan. Thủ phạm chắc là người khác, không phải ông Heghen.

Cuốn sách (dịch) của ông đầy những câu tối nghĩa như vậy. Không thể bàn đến ngôn ngữ triết ở đây, vì người đọc đã phải dùng một con thuyền tồi là những câu què cụt, thiếu chấm, phẩy để cố mà ra với biển tri thức (và không ra được)... Tôi nhớ khoảng năm 76, mẹ tôi có đi mua một cuốn sách dạy nấu ăn về cho tôi tập làm bếp. Ðó là một cuốn sách bìa rất đẹp, hai ba bài đầu dạy dễ hiểu, những món đơn giản, không cần dạy. Nhưng sau đó, đến các món phức tạp, thì hoàn toàn không có chấm, phẩy, và chị em tôi đành bó tay vì không biết phải ướp thêm tỏi vào câu trước hay câu sau.

Ở đây, thì cũng vậy:

“Sự chiêm ngưỡng đưa các hình ảnh vào trong ý thức của ta ở đấy chúng được sắp xếp theo những phạm trù chung và do sức mạnh của trí tưởng tượng ở giữa các hình ảnh có những quan hệ và có một sự thống nhất đặc biệt...”

Một đoạn như thế này cắt được mấy câu, và cắt như thế nào? Cắt ở đâu? Quả thật chỉ có người dịch, trước chừng ấy nguồn bản dịch để đối chiếu, mới có thể biết được phải cắt ra như thế nào cho người Việt Nam hiểu đúng.

*

Thế hệ đi trước, có học, thường hay chê thế hệ sau ít hiểu biết hơn. Cái gì cũng biết một tí, mà nông cạn. Biết theo kiểu đọc báo, lớt phớt, đọc tí tít, tóm tí nội dung, đủ để ngồi uống nước, và nói. Nhưng có những sách thuộc loại nghiêm túc nhất thì như trên, nằm uy nghi trên giá, đợi một ngày kia bọn hậu sinh đủ can đảm và bớt lười nhác, mở ra, chỉ thấy có kiên nhẫn đến mấy cũng không hiểu được... bản dịch.

Nhưng viết đến đây, tôi lại cũng hơi chùn tay, mình có kết tội oan cho dịch giả không? Bởi vì, quay lại như đầu bài, tôi vốn không quen đọc Triết. Và Triết thì phải khó (không thế sao vẫn có nhiều người lấy việc hiểu được nó làm tiêu chuẩn hơn thua nhau?). Thành ra tôi phải xem lại, xem ngoài cái khó về mặt tư tưởng, sách Triết (dịch) có bắt buộc phải khó (thêm) về mặt ngữ pháp không.

Nguồn: Thể Thao Văn Hoá, số 20, ngày 08.3.2002

44. Tư cách con cá

Năm 1989, có người từ nước ngoài mang về một ít con ốc bươu vàng, khuyến khích người trong nước nuôi, nói rằng thịt nó ngon, xuất khẩu tốt. Đầu tiên, nuôi thử nó trong hồ xi măng, người ta cho nó ăn xà lách, nâng như nâng trứng, có lẽ sợ nó lệch múi giờ, không ăn tạp được.

Thế rồi hai sinh viên trường Đại học Nông nghiệp TP.HCM lúc đó là Phạm Uyên Nguyên và Thái Thị Kim Thảo tìm hiểu được, rằng cái con ốc bươu vàng này chẳng phải cảnh vẻ thế đâu, mà ở đâu nó sống cũng được, cái gì nó ăn cũng được, nhất là lúa. Và để cãi lại được những người muốn nuôi con ốc này đại trà, họ đã làm nhiều thí nghiệm, xin tóm tắt sơ lược bằng bảng sau:

NGƯỜI MUỐN NUÔI ỐC NÓI THÍ NGHIỆM PHẢN CHỨNG KẾT QUẢ

OBV không sống trên ruộng được, vì vào mùa khô ruộng sẽ khô Treo một xâu ốc lên gác bếp, không cho ăn 6 tháng sau OBV vẫn sống

OBV không sống trên ruộng lúa được. Vì ruộng mình phun thuốc trừ sâu Pha một chậu nước với nồng độ thuốc trừ sâu gấp 100 lần nông dân vẫn phun OBV sống khỏe

OBV không sống trên ruộng lúa được, vì ruộng mình nhiều khi nhiễm mặn Thả vào các nồng độ nước mặn, mà cao nhất là đem ra biển OBV chỉ chết trong nước biển (là nồng độ mà lúa đã chết trước ốc)

OBV không ăn lúa Thả ốc vào mẫu ruộng thí nghiệm, lập lại nhiều lần. Ốc ăn trông có vẻ ngon miệng (thực nghiệm cho biết thêm, ốc có thể ăn 100% mạ mới gieo)

Hai sinh viên này đã cho đăng báo về con ốc này ("Ốc vàng - nguy cơ hại lúa nghiêm trọng" - Tuổi Trẻ, 1990), nêu rõ "danh tánh" của nó là Pomacea sp.- một loài ốc hại lúa, thịt nhão mà tanh, đến cho vịt ăn vịt cũng chê. Năm 1991, đề tài này được trường nghiệm thu đạt điểm xuất sắc, và đoạt giải Eureka - một giải thưởng khoa học trẻ có uy tín.

Nhưng bất chấp tất cả những điều đó, đến năm 1995, tức là 5 năm sau, ốc bươu vàng vẫn không bị cấm, đã lúc nhúc trên các đồng ruộng, khiến Quốc hội phải lên tiếng và Thủ tướng chính phủ phải ra tay. OBV lúc này mới được coi là cái nạn cần tiệt trừ.

Giờ thì đến một câu chuyện khác đang gây xôn xao trong giới nuôi cá và ăn cá:

Người nuôi cá hiện đang đổ xô nuôi cá “chim trắng nước ngọt”. Con cá chim trắng này cùng họ với con cá hổ. Cả hai con cùng đồng hương Nam Mỹ, răng đều sắc như răng sói , ăn tạp, đi thành bầy đàn như nhau, lớn cũng nhanh vùn vụt như nhau. Cá hổ là dân côn đồ không cải tạo nổi, sách vở đã ghi và coi như mối nguy hiểm chết người, bởi nó có thể tấn công người như cá sấu. Nhưng người anh em cá chim trắng thì tư cách còn mập mờ: nuôi trong ao với thức ăn "tĩnh" (cám, xác cá tạp...) thì chỉ mới thấy rất phàm ăn , bơi lội nhanh nhẹn vô hại, còn thả ra sông có theo gót đàn anh mà cắn người và tận diệt các loài thủy sinh vật khác không thì chưa biết.

Chuyện xác minh tư cách cá với ốc trước khi cho nuôi tràn lan, đến đây, đáng lẽ phải là công việc của các Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản, ngay từ khi mới mang "cháu" về, tức là cách đây 5 năm.

Thế nhưng, nếu như hạnh kiểm của ốc bươu vàng đã được xác định mà suốt 5 năm vẫn được thả rông, thì cá chim trắng nay đã đầy các ao hồ từ Nam chí Bắc mà suốt 5 năm vẫn không ai nói nó là lành hẳn hay dữ hẳn. Khi bị báo chí dồn hỏi: "Có nên nuôi cá chim trắng nữa hay không?", thì vẫn là cái bệnh sợ trách nhiệm ở nước ta, cái câu kết luận cuối cùng được Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2 đưa ra rất mập mờ là: "Nuôi thì phải có quản lý nghiêm ngặt, không để thất thoát ra ngoài môi trường." Với lại: "Nên hạn chế, không nên phát triển đại trà." [1]

Úi chao, thưa các ngài!

Câu trả lời đó của các ngài có cũng như không. Cái gì làm cái ngài không dám nói "Có" hay "Không" một cách rõ ràng? Khoa học chứ có phải văn chương đâu mà có vùng xam xám cho chúng ta núp vào trốn trách nhiệm?

Hay các ngài đã tính, nếu cái con cá chim trắng kia một ngày kia ra đến sông, trở mặt côn đồ cấu xé trẻ em lội nước, thì khi ấy, các ngài sẽ nói là đã dặn phải quản lý nó nghiêm ngặt trong ao cơ mà, phải không?

Và vì sao cái Viện ăn lương của các ngài không thể như hai vị sinh viên năm nào, dùng mọi nỗ lực để xếp loại nhanh con ốc bươu vàng vào hàng ngũ "địch" hay "ta" mà cứu lúa? Suốt năm năm trời các ngài uống nước chè ở đâu?

Thương nhất trong vụ này cuối cùng là anh cá chim trắng (biển). Anh này đắt tiền, lại hiền hòa với đồng loại . Nổi tiếng vì thịt ngon thì cũng nổi tiếng rồi, có cái vụ mập mờ tên với cá chim trắng (nước ngọt) này chỉ gây thêm phiền toái không đáng có, khiến thực khách không sành bỗng nhìn anh như tội phạm.

Nhưng thôi,

Anh cá chim trắng (biển) ơi,

Nếu anh đã đến nằm trên thớt cơ chế nước tôi, thì anh phải hiểu cái sự không rõ ràng nó có trong vô vàn lĩnh vực. Và tập cho người ta dám nói "Có" hay "Không" một cách rõ ràng có lẽ còn phải rất lâu, biết đâu lúc đó những giống ưu việt như anh đã thành tuyệt chủng.

45. Yêu + Hiểu

Bạn có biết người Cil không? "... Ta gặp người Cil từ những vùng cao đầu tiên của Nam bộ cho đến biên giới phía Bắc của Tây Nguyên, bao giờ cũng là ở trên núi, tại những nơi rất khó leo tới, không bao giờ ở trong các thung lũng hay trên các cao nguyên... Chốn cư trú của họ thông thường chỉ có một nhà sàn duy nhất. Những người Cil khác ở cách đó đến ba hay bốn tiếng đồng hồ.

"Rú và rừng rất quen thuộc với người Cil. Người lạ không khỏi ngạc nhiên khi băng qua những khu rừng hoang dã của Tây Nguyên, họ bỗng khám phá ra một ngôi nhà sàn của người Cil trong khu rừng mà họ cứ ngỡ còn nguyên sinh... Rẫy của người Cil trồng lúa hay ngô. Sản phẩm đủ ăn một phần ba năm; thời gian còn lại, người Cil đi vay mượn và đói.

"Họ cũng không có chút tiện nghi tối thiểu trong nhà. Trong các kiểu nhà Tây Nguyên, đây là loại nhà thấp nhất, tối tăm, bẩn thỉu nhất. Dê sống chung với người trong ngôi nhà ấy; đôi khi lợn giành những mảnh chăn với người. Bao giờ cũng có một chỗ nước gần nhà, chỉ dùng để nấu ăn: một người Cil đúng kiểu không bao giờ tắm; có thể hình dung da họ màu gì vào kỳ đốt rẫy khi trong rừng chỗ nào cũng là than.

"... Sức chịu đựng và sự khéo léo của người Cil khiến họ đầy tự tin về mặt thể chất... Sự dai sức trong chuyện đi đường của họ đã thành truyền thuyết; đấy là một con sơn dương bất chấp mọi quy luật thăng bằng. Nếu họ muốn gặp những con người khác những người ở trong căn nhà của họ, họ phải leo núi nhiều giờ, và thường là chẳng có đường sá gì cả... Họ lao đi vững vàng và gấp gáp trên những đống đá lổn nhổn, những tảng đá to tướng trơn trợt vì rêu, trong những khu rừng muôn đời ẩm ướt, leo qua những rễ đa dựng đứng như những bức tường, vượt qua những vực thẳm không biết đâu là cùng trên những thân cây nhún nhảy; và bao giờ cũng trong một bóng tối lạnh buốt, vì các cây to ngăn không cho chút ánh nắng nào rọi được tới nền đất. Trong những dãy núi này, mọi thứ đều nhuộm màu đêm và bốc mùi mùn. Rắn lẫn với dây leo, chim ghẹo người đi qua, những con khỉ, vô hình, rít trên các cành cây cao.

"Ta hiểu sống trong một khung cảnh như vậy, chỉ có rừng già hoang vu là quen thuộc, đóng kín trong cô đơn tăm tối, quen cảnh khốn cùng, người Cil khó gần, không thích tiếp xúc và chậm tiến...

"... Cảnh đời họ là như vậy. Rừng già kinh hãi, bụi rậm dày kín, mùi ẩm mốc; nhưng giữa những thân cây thông to lớn khắc khổ, qua một lỗ thủng ở một bụi rậm đầy gai, ta nhận ra xa xa một vệt nhỏ sáng loáng, ánh bạc, trong suốt: bờ biển miền Trung, biển cả... Còn phải dạy cho họ biết nhìn, biết tìm cái điểm lý tưởng đó, giữa những thân cây thông cao lớn khắc khổ, sau một ngày lao động khổ sai..."

*

Ðọc những dòng như thơ trên, được viết ra cách đây hơn 50 năm, mà làm tôi tò mò quá. Người Cil giờ sống như thế nào nhỉ? Họ đã đến nhúng mình vào cái điểm lý tưởng qua kẽ lá, là biển cả, chưa? Và biết thế nào là lý tưởng đây: làm một người Cil không tắm một mình bình thản đi trong tịch mịch? Hay làm một người hiện đại như chúng ta loay hoay cho đến lúc chết làm sao để không bị cô đơn?...

Tác giả là Dam Bo (Jacques Dournes), một nhà Tây Nguyên học người Pháp, đến sống ở đây gần 30 năm. Cuốn "Miền Ðất Huyền Ảo"[1] này là một công trình nghiên cứu về Tây Nguyên, đầy những ghi chép tỉ mỉ lạ lùng, bỏ xa những cái bề nổi nhà mồ nhà rông rượu cần cồng chiêng đóng khố... mà lâu nay ta vẫn biết về Tây Nguyên một cách rất... cưỡi voi xem kơ nia. Dù bạn nói, không, tôi không thích đọc sách nghiên cứu; thì tôi vẫn mong bạn có cuốn này trong nhà; và khi đọc, bạn đừng quên mang theo bút để đánh dấu (dù rằng cái thói quen này có thể làm cho vợ bạn càu nhàu). Ðánh dấu rồi gấp lại mà nghĩ ngợi. Có vô vàn mốc "nghỉ mà nghĩ" khi đọc cuốn này. Thỉnh thoảng nó sẽ làm bạn ngượng nữa, khi so sánh mình với họ, ai mới là văn minh hơn ai. Thêm vào đó, sách lại được viết (và được dịch) bằng một giọng văn rất hay, sinh động.

Tác giả Dam Bo viết: "Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu." Phải yêu và hiểu lắm thì ông mới có thể tổng kết về người Tây Nguyên như thế này: "Người Tây Nguyên sống giống như trong quá khứ và họ sống bằng quá khứ. Họ không sống đúng thời của mình, trường hợp của họ là một ca lỗi thời... Ðấy là cả một bài thơ và một cuộc sống; Nằm ngoài thời gian, nó không chỉ chăm chăm vào quá khứ, cho nên nó không nhất thiết là một cản trở đối với sự phát triển."

Ôi Trời! Hiểu để mà yêu, yêu để mà hiểu. Cứ nghĩ đến sắp tới, một lô những công trình sách về 1000 năm Thăng Long Hà Nội sẽ được tung ra, chẳng biết có bao nhiêu cuốn được đủ cả "yêu" lẫn "hiểu", và bao nhiêu cuốn chỉ là xào nấu những "hiểu", những "yêu" của người khác? Những công trình dằng dặc tên người thực hiện, tốn bao nhiêu tiền nhà nước, đọc lên chỉ thấy na ná nhau.

Ừ thì cái gì cũng có giá của nó thôi. Không "hiểu" và không "yêu" khi nghiên cứu, thì suốt đời bao nhiêu tên tuổi cũng chỉ lẫn lộn, na ná nhau. Còn tài hoa lặn lội tỉ mẩn giữa rừng suốt ba mươi năm, thì cái tên Dam Bo người đã đọc rồi sẽ không quên được.

Thể thao-Văn hoá 01.8.2003

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Miền Ðất Huyền Ảo, NXB Hội Nhà Văn, 2003. Bản dịch của nhà văn Nguyên Ngọc. Tất cả các đoạn in nghiêng là trích từ trong sách