Phan Chí Thắng-Nhà số 10

NHÀ SỐ 10

Cái Xu chiêng

Xu chiêng là tên gọi cái áo ngực của phụ nữ, nó được phiên âm từ tiếng Pháp "soutien".

Tôi phải nói ngay là đây không phải chuyện sex hay có dính dáng tới sex, bạn nào quan tâm đến chuyện sex thì xin đừng đọc tiếp.

Hồi đó là vào giữa những năm 60 của thế kỷ trước. Minh Dậu là hàng xóm nhà tôi. Chị ta tên Minh nhưng vì trong xóm có hai Minh nên người ta thêm tên chồng chị ấy vào để tiện bề phân biệt.

Đây là chuyện kể về Minh Dậu.

Minh Dậu người nhỏ nhắn nhưng cực kỳ nhanh nhẹn. Nhanh, láu cá và lì lợm. Minh Dậu có tài chen hàng, không ai bằng, vừa thấy Minh Dậu ra chợ Đồng Xuân, thoắt đã thấy xách làn đầy ắp quay về.

Thực ra cái tài chen hàng không phải là cái gì ghê gớm, chỉ cần trơ trẽn là được, song ở đời mấy ai dám trơ nên Minh Dậu được coi là thiên tài chen hàng. Có lần Minh Dậu bị mấy tay đàn ông đấm cho vì tội chui vào đứng ngay trước mặt khi họ đang xếp hàng, thế mà Minh Dậu vẫn không sợ, chui tiếp. Lâu dần người ta buộc phải quen với việc Minh Dậu chen hàng, chả thèm chấp, chả thèm dây với hủi, thế là chị ấy tha hồ chen.

Nhà tôi cũng hay gửi tem phiếu nhờ chị ấy mua giúp. Gạo, thịt, cá, dầu hoả, cái gì cũng tem phiếu, cái gì cũng phải xếp hàng. Nhờ Minh Dậu thì chắc chắn bị chị ta ăn bớt, nhưng còn hơn là vác mặt ra chợ đồng Xuân xếp hàng từ 3 giờ sáng, nhất là vào những ngày mưa phùn gió bấc?

Điểm nổi bật thứ hai của Minh Dậu là thích khoe. Tôi cũng xin nói ngay là chị ta chỉ có duy nhất hai điểm nổi bật thôi, kẻo người đọc lại sốt ruột.

Mua được cái xe đạp mới, Minh Dậu đạp xe lượn đi lượn lại dọc phố, mắt láo liên xem có ai nhìn thấy mình đi xe mới không. Làm thịt con gà, Minh Dậu mang ra ngay trước ngõ để cắt tiết, mồm lắp đi lắp lại: "Con gà này lắm tiết ghê!"

Có một lần tôi vô tình đi qua cửa sổ nhà Minh Dậu, và cũng vô tình nhìn vào buồng nhà chị ta. Minh Dậu đang đứng trước gương, gương đối diện với của sổ nên ai đứng ở cửa sổ cũng có thể trông rõ mồn một là Minh Dậu đang mặc độc có cái xu chiêng, xoay qua xoay lại để ngắm nghía và cũng để biết xem có ai nhìn thấy cái xu chiêng mới của mình hay không. À, quên chưa nói, Minh Dậu có mặc quần.

Hồi đó xu chiêng toàn là được may bằng vải thường, chần nhiều lớp, cứng như mo cau. Cái xu chiêng của Minh Dậu chắc hẳn là đồ ngoại, có cả đăng ten đàng hoàng. Bạn đọc đừng cười tôi là thằng vớ vẩn đi nhìn trộm nhé, nó cứ thế đập thẳng vào mắt thằng bé 17 tuổi, làm gì mà không nhìn thấy?

Hôm sau, Minh Dậu hỏi tôi:

- Em thấy cái xu chiêng của chị có đẹp không?

Tôi đỏ mặt, không phải vì ngượng cho tôi mà là ngượng thay cho Minh Dậu, tìm cách nói lảng sang chuyện khác:

- Em có biết mấy cái đó đẹp xấu thế nào đâu.

Đến tận bây giờ tôi cũng không biết là nếu sắm được quần lót đẹp thì Minh Dậu có khoe hay không.

Biết đâu chị ta cũng có khoe song tôi đã không may mắn nhìn thấy.

Đức xồm

Người ta cho thêm vào tên Đức một chữ xồm vì hắn có bộ râukhác người. Nói khác là khác so với người Việt chúng ta, chứ so với dân Trung Áthì bộ râu ấy chả khác tẹo nào, chỉ vài ngày không cạo râu là Đức có quyền quỳxuống, hướng về phía mặt trời mọc mà khấn vái thánh Ala.

Nhưng đó là chuyện khi Đức đã xồm, còn khi cả hai chúng tôichưa đứa nào có râu thì bọn trẻ con trong phố đều gọi Đức là Đức piano. Cả mấyphố, có khi cả chục phố không nhà ai có đàn piano mà nhà Đức lại có. Cái piano3 chân có bánh xe, loại nằm, dùng để biểu diễn, một mình nó chiếm cả gian phòngnhà Đức. Trên đàn có dán một tờ lịch được bóc ra từ blog với dòng chữ "Tặng conNguyễn Tài Đức thương yêu. Bố Nguyễn Tài Khánh".

Bạn đọc chắc thể nào cũng nghĩ là nhà Đức rất giàu và bố Đứcyêu thương con ghê lắm? Chả phải đâu, để tôi kể cho mà nghe.

Bố Đức là dân võ nghệ, thân hình tráng kiện, được ông Tây mù,chủ cửa hàng piano ở đường Tràng Thi thuê làm bảo vệ. Ông Tây có tên Tây, nhưngtên Tây khó đọc, người ta quen gọi là ông Tây mù, mặc dù ông chỉ chột có một mắt.

Đầu năm 1954, tình hình chiến sự chuyển hướng bất lợi cho ngườiPháp, ông Tây mù khôn ngoan chuyển tài sản dần về nước, nhưng hơn hai trăm cái đànpiano trong kho thì ông không thể chuyển đi được. Sau thất bại Điện Biên Phủ,người Pháp rục rịch rút khỏi Việt nam, chưa cần đợi ký xong Hiệp định Giơnevơ. ÔngTây mù đề bạt Nguyễn Tài Khánh lên làm quản gia, sau đó, ngay truớc khi Quân độiNhân dân Việt nam vào tiếp quản Thủ đô, ông Tây mù giao lại toàn bộ tài sản cònlại cho ông Khánh và chuồn vào Sài gòn, tiếp tục kinh doanh đàn piano cho đến tậnlúc nào nữa thì chính tác giả truyện này cũng không biết.

Ông Khánh từ một anh làm thuê trở thành nhà tư sản và nhà tư sản Khánh bị tịch thu toàn bộ gia sản trong đợt cải tạo tư bản tư doanh sau đó.Ông Khánh vội kịp kiếm tờ lịch cũ, ngày lùi lại mấy tháng, đề tặng con trai, dán lên cái đàn đẹp nhất và thế là cái đàn piano đen bóng kia không bị tịchthu, coi như đó là tài sản cá nhân của cậu con trai mới 10 tuổi.

Nhà tôi ở cạnh nhà Đức, chúng tôi chơi thân nhau. Hàng ngày Đức phải tập đàn, những ngón tay thuôn dài biếng nhác gõ lên phím đàn. Để khỏi phải tập đàn, Đức nghĩ ra mẹo nhờ tôi ngồi gõ bài tập, để luôn luôn có tiếng đànvang lên, còn Đức thì làm một việc gì đó, đan lồng chim hay khoét lỗ ống sáo.Nhờ vậy tôi có được bài học i tờ rít về nhạc lý và các phím đàn piano từ rất sớm.

Bị tịch thu tài sản, không kế sinh nhai, ông Khánh bố Đức cùng bà vợ ba vượt tuyến trốn vào Nam, nào ngờ đường dây vượt tuyến lại do chính côngan ta bố trí, ông bị tóm gọn đưa ra Hà Nội và bị đi tù 3 năm.

Nhà Đức như rắn không đầu, mẹ Đức bán cái đàn piano đen bóngkia đi để ăn dần, Đức không còn bị tập đàn và tôi thì không còn được tập thaycho Đức nữa.

Học đến lớp 7 thì Đức bỏ học, đi nông trường chăn lợn, được ít lâu chịu khổ không nổi Đức quay về Hà nội, chơi bời lang thang.

Cô em gái Đức có thân hình khoẻ mạnh, được chọn vào đội mô tôthể thao, lâu lâu được lái xe biểu diễn trên sân vận động Hàng Đẫy hay Quảng trườngBa Đình. Những ngày khác cô lái ca nô đưa du khách lượn một vòng Hồ Tây, trongsố du khách đó thỉnh thoảng có một vài đồng chí lãnh đạo cao cấp đi dạo mát bằngca nô sau giờ làm việc.

Chỉ cần một đồng chí lãnh đạo hé ra một tiếng với Sở Thể dụcthể thao là Đức được nhận vào làm ở Phòng Hành chính Quản trị của Sở.

Không có văn hoá, không có nghề nghiệp, Đức làm chân điếu đóm.Không ở đâu trên đời này mà lại không cần đến điếu đóm và người điếu đóm. Ngườiđiếu đóm là chất độn cơ bản cho mọi cấu trúc xã hội cũng như mọi thứ hàng hoá.Sắp Trung Thu rồi đấy, bạn thử bẻ một cái bánh Trung Thu giá mấy chục ngàn ra màxem, có tí thịt mỡ, một ít nhân đậu xanh, còn lại toàn là bột? Ở đời chất độnthường chiếm đa số?

Đức thuộc loại điếu đóm cần cù và năng nổ, hắn hầu hạ các sếp chuyện công tác cũng như tư tác. Chuyện công tác thì đương nhiên rồi, còn chuyệntư tác thì tôi xin kể một ví dụ nho nhỏ. Sếp có bồ nhí, hôm nào hẹn bồ đi chơithì Đức phải đến nhà sếp, gãi đầu gãi tai kêu là có việc gấp, giám đốc Sở gọi.Sếp nhăn nhó tỏ vẻ miễn cưỡng xách xe ra khỏi nhà, hai thầy trò đi đến ngã tư đầuphố thì chia tay nhau.

Đến năm 1987, thực hiện chủ trương giảm biên chế của Nhà nước,Đức bị ra khỏi biên chế. Theo tôi lý do chính là Đức đã biết quá nhiều chuyệnriêng của các sếp, để hắn biết nhiều hơn nữa sẽ bất lợi.

Năm đó tôi đã không ở cùng nhà với Đức. Gia đình tôi được phân căn hộ, nhà Đức một vợ bốn con cũng được phân cân hộ theo diện đối tượng có diện tích bình quân chưa được 2m2 trên một nhân khẩu, tít trong Kim Giang. Đức bán ngay căn hộ đó, tiếp tục sống trong căn phòng chưa đầy 8m2 nguyên thuỷ là cái phòng vệ sinh.

Thỉnh thoảng tôi lui tới thăm Đức. Đức mua lại của mấy bà đồngnát những miếng tôn phế thải, ngồi ngay giữa sân, cắt gò thành cái xẻng hót rác,mỗi ngày sản xuất và tiêu thụ được mươi chiếc.

Ngày tháng trôi qua, công việc, hoàn cảnh sống khác nhau, tôivà Đức xa nhau dần. Chỉ còn gặp nhau vào dịp tết âm lịch hoặc có việc hiếu hỉ gìđó.

Năm ngoái tôi phải dự một cái đám ma bố của một người trongcơ quan. Đám được tổ chức theo kiểu tân cổ giao duyên, vừa có lễ truy điệu, diễnvăn long trọng, vừa có đội kèn đám ma và có cả ông thầy cúng chỉ huy mọi nghi lễtiến hành đám.

Ông thầy cũng mặc bộ áo quần giống như tăng ni Phật tử phíaNam chứ không mặc bộ màu nâu ta hay thấy ở phía Bắc, giọng cúng bái có vẻ thànhthục, không cần qua phóng thanh cũng đã sang sảng vang xa.

Tôi đang ngồi ở bàn nước thì Đức chạy đến bắt tay, hoá ra ôngthầy cúng là ông bạn Đức xồm của tôi ngày nào. Nách cặp quyển sách viết toàn chữnho, râu dài như dân đạo Hồi, trán hói, cặp kính lão tôn lên cái vẻ thần bí vàthông tuệ nơi Đức. Giọng nói chậm rãi và uy nghi, nhưng Đức vẫn vồ vập tôi, thằngbạn từ thời... chưa có râu.

Hỏi thăm nhau qua quít, Đức mở ngay quyển sách vẫn cặp ở nách,chìa ra cho tôi xem, mặc dù chữ Nho thì tôi chỉ biết có mỗi hai chữ là chữ nhấtvà chữ ngũ, chữ nhất thì khỏi phải nói, chữ ngũ tôi biết được là do tìm hiểu vìsao có câu "vắt chân chữ ngũ". Đảm bảo với bạn, đống kiến thức Nho học của tôituy ít ỏi nhưng dù sao vẫn hơn hẳn Đức.

Đức phán:

- Cậu mệnh Thổ, lấy vợ mệnh hoả là tốt nhất.

Cái này thì tôi cũng biết, đếch cần Đức dạy, chỉ có điều làvợ thì tôi đã lấy gần bốn chục năm trước, bây giờ có biết điều này cũng chả đểlàm gì. Tôi cười:

- Thế bố định bảo con lấy thêm vợ nữa à?

Không hiểu ra câu nói đùa của tôi, Đức bấm bấm mấy đốt ngóntay rồi phán tiếp:

- Chứ sao, số cậu hai vợ, có vợ hai sẽ đẻ con trai.

Nhìn bộ mặt nghiêm trang của Đức, tôi không dám đùa nữa. Đúnglúc này gia chủ chạy tới, mời Đức ra làm lễ tiếp. Gia chủ nhìn tôi có vẻ kính nể,bởi tôi là bạn thân của ông thầy cúng nổi tiếng.

Chuyện đến đây là hết. Tôi nghĩ thế, nhưng nếu bạn đọc cho rằngchuyện chưa hết thì đó là việc của bạn, tôi không chịu trách nhiệm về việc bạnnghĩ gì.

Lão Hợp

Lão Hợp là con cụ Nhẫn. Cụ Nhẫn tên thật là Quế nhưng người ta gọi là Nhẫn theo tên người con gái đầu của cụ. Khi tôi biết cụ thì cụ đã ngoài sáu mươi, bán nước chè chén dưới gậm cầu. Nhan sắc một thời oanh liệt vẫn còn chưa phai dấu ấn, nhất là nụ cười lúc nào cũng đỏ au nước trầu.

Người ta bảo cụ Nhẫn ngày trước rất đẹp, làm nghề gì không rõ nhưng mỗi người con của cụ là từ một ông bố. Riêng Hợp và Hùng là hai anh em chung bố.

Cụ Nhẫn có nhiều con, người nào cũng có sắc và tài vặt, trừ cô út lùn một mẩu, thường gọi là cô Tâm lùn. Từ từ tôi sẽ kể về gia đình cụ Nhẫn, hôm nay kể về Hợp.

Khi gia đình tôi dọn về ở nhà số 10 thì Hợp không ở đấy, chỉ lui tới thăm mẹ là cụ Nhẫn nên tôi biết Hợp. Khi đó tôi 15 tuổi, Hợp khoảng ba mươi, tôi gọi Hợp bằng anh. Bây giờ Hợp chắc ngoài 75, già rồi, nên tôi đặt tên truyện ngắn này là "Lão Hợp".

Hợp không cao, người đậm, ăn trắng mặc trơn nhưng nước da có màu tái bì bì của người hay thức khuya. Vào những năm 60 của thế kỷ trước, khi ai cũng gầy gò thì Hợp thuộc loại béo tốt, tóc luôn chải sáp bóng nhẫy, chiều chiều cưỡi xe đạp Pờ-giô lượn vài vòng phố, miệng phì phèo điều thuốc Điện Biên - thứ thuốc mà chỉ cán bộ bìa C trở lên mới có tiêu chuẩn cung cấp mỗi tháng dăm bao - rồi ra quán bia ở Ô Quan Chưởng làm dăm vại trước khi về ăn cơm.

Cặp mắt Hợp đen, nhỏ và sắc. Lông mày rậm.

Nghe dân tình xì xào Hợp là cộng tác viên của Công an, cha tôi không tin. Ông nhờ người quen bên Sở Công an tìm hiểu giúp thì đúng thế thật.

Trước đó vài năm, học chưa hết lớp 4, Hợp vô công rồi nghề, bắt mối với một đường dây buôn thuôc phiện từ Tây Bắc về Hà Nội. Sau quả đầu tiên trúng đậm, Hợp lật kèo, báo công an rình bắt tại chỗ cả băng buôn lậu đang giao nhận lô hàng thứ hai. Đường dây buôn lậu bị phá, Hợp được công an giam mấy tháng nghi binh, sau được cấp môn bài ngồi sửa đồng hồ ở Cửa Nam. Mấy tháng trong tù, Hợp khoe là để học nghiệp vụ. Lão cứ nửa kín nửa hở mình là điệp ngầm để dọa bọn trẻ con chúng tôi.

Từ đó Hợp ung dung ngồi sửa đồng hồ ở một điểm đầu mối gần ga Hàng Cỏ, gần bến xe điện Cửa Nam. Trong lúc sửa cho khách, lão bắt chuyện, giở giọng chống chế độ ra than vãn, ai vô tình a dua theo là lão cho vào sổ đen. Hoặc là chuyện buôn bán mánh mung, làm ăn lừa đảo v.v. lão đều ghi nhớ hết. Đêm đêm lão đi đánh bạc, chơi gái. Ổ bạc nào lão không lai vãng ít nhất ba tháng thì ổ đó sẽ bị cất vó.

Nhờ cái thế cộng tác viên, Hợp không phải đi nghĩa vụ quân sự, ung dung và phởn phơ giữa đời, coi đám cán bộ nhà nước như cha mẹ tôi không là cái đinh rỉ gì.

Hồi đó Hợp đã có vợ và hai con. Nhưng rồi lão cặp với mụ Loan, hơn lão năm tuổi. Mụ Loan bán hàng ở phố Hàng Mã, người đẫy đà phốp pháp rất chi là gợi mở. Chồng buôn lậu bị bắt đi tù ba năm, người đàn bà ba mươi lăm tuổi phừng phừng sức sống ấy dụ Hợp về nhà, cho ăn uống no say rồi đùa bỡn thân xác với lão. Hợp quen thói trăng hoa, cái thói trăng hoa di truyền từ trong máu bây giờ được dịp phát tiết, lão cũng chỉ định chơi bời ăn uống cho vui chứ không tính chuyện lâu dài.

Một hôm vợ lão bắt quả tang Hợp đang chở Loan đi trên đường Thanh niên (hồi đó đường Thanh niên là địa điểm lý tưởng cho các đôi tình nhân dạo chơi hoặc ngồi... vặt cỏ), chì chiết cấu véo Hợp hồi lâu mà Hợp chỉ cười: "Vì công việc mà tao phải đi với nó, chứ loại gái vừa già vừa xấu như con mụ Loan thì ai mà yêu!".

Tin hay không thì vợ lão Hợp cũng phải chịu.

Loan và Hợp tiếp tục hú hí với nhau, quên ngày quên tháng. Bỗng có tin chồng Loan sắp mãn hạn tù, bắn tin ra là lão sẽ xin tí tiết thằng nào dám cắm sừng lão trong khi lão đi vắng.

Hôm đó mụ Loan làm gà gọi Hợp đến ăn, có chai rượu Làng Vân sủi tăm đặt cạnh mâm. Loan và con gái là Liên ngồi ăn cùng Hợp. Liên mười sáu tuổi, mông mẩy ngực nẩy, má phính đào tơ trông rất bắt mắt. Hợp cũng đã nhiều lần hấp háy mắt nhìn trộm Liên, có lần bóp mông nó, nó cười ré lên như trẻ con: "Chú này, chú làm cháu đau thế!"

Ăn xong, chuyện phiếm một lúc, mụ Loan kêu to lên là thôi chết rồi, để quên nải chuối dưới nhà, vội chạy đi lấy. Ra ngoài, mụ đóng cửa, vặn khoá cái rẹt, nói vọng vào:

- Hợp ơi, cứ vui vẻ đi nhé!

Hợp vừa là con hổ đói, vừa là gã say rượu, ngay lập tức đè nghiến Liên xuống đất, xé toạc luôn cái quần lụa đen khá đắt giá thời bấy giờ của Liên...

Nửa tháng sau, Loan bỏ tiền ra làm đám cưới cho Hợp và Liên lấy nhau, trước đó rỉ tai mấy bà bạn buôn là hai đứa lỡ dính trấu rồi, phải cưới gấp. Loan mua nhà cho hai con, con gái và con rể ra ở riêng. Hợp để lại nhà cho vợ cũ, chả thèm tranh chấp làm gì, thế là càng được tiếng là người tử tế.

Khi chồng ra tù, mọi tin đồn bậy bạ là Loan với Hợp từng cặp bồ với nhau đều được Loan phủi sạch hết: "Hồi đó thằng Hợp hay lui tới là để tìm hiểu con Liên ông ạ. Ai bảo ông làm ăn không khéo để bị đi tù, tôi ở nhà một mình suốt ngày lo chợ búa, làm sao giữ nổi con gái? May mà thằng Hợp cũng là thằng tốt, làm ăn được và cũng biết kính trọng chúng ta."

Thằng chồng bị mọc sừng đành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, chứ biết làm gi bây giờ?

Tôi còn nghe nói hồi con Liên đẻ con, bà ngoại sang chăm con gái, hình như có nhiều lần mụ và lão Hợp ôn tập lại chuyện giường chiếu ngày xưa, tuy nhiên việc này tôi không dám chắc lắm.

Năm 1985 tôi rời nhà số 10 đi ở chỗ khác, ít khi gặp lão Hợp. Mãi sau này tôi mới nghe nói lão thôi chữa đồng hồ, về làm tổ phó dân phố, sáng sáng chiều chiều đọc ở trên loa phóng thanh của tổ, thúc dục bà con làm vệ sinh những nơi công cộng và vận động phong trào xây dựng gia đình văn hoá mới.

Gia đình tôi

Năm 1957 cha tôi được "sửa sai". Trên mời cha tôi ra Hà nội nhận công tác. Dịp chỉnh huấn năm 1953 riêng cơ quan cha tôi có 7 người tự tử. Họ bị khép nhiều tội mà họ không hề mắc. Không ai tìm ra cha tôi có tội gì. Cha bị ghép là xuất thân con nhà quan lại, bản thân thành phần tiểu tư sản, theo cách mạng chưa chắc đã thật lòng. Không thật lòng thì có thể làm cho địch, biết đâu đấy?

Cha tôi không tự tử. Sau này cha nói là một phần do cho đến năm đó cha chưa hề biết mặt tôi. Cha sợ nếu chết đi thì tôi sẽ khổ vì không có cha, hoặc có cha nhưng cha mang tiếng phản động (vì mình chết rồi, lấy ai thanh minh).

Từng là thư ký của tướng Nguyễn Chí Thanh, đang là Trưởng ban Chính trị Công an Thừa thiên, cha tôi được (hay bị) thuyên chuyển ra Nghệ an chờ nhận công việc mới.

Qua đường dây liên lạc, cha nhắn tin đón mẹ con tôi lên chiến khu. Phải lần thứ hai chúng tôi mới đi thoát. Du kích đưa chúng tôi lên rừng, bố trí ở trong một căn nhà lá. Sáng hôm sau cha và mấy người trong cơ quan mới đến. Trong số những người mặc bộ bà ba đen, đeo xắc cốt giống hệt nhau, tôi vẫn đoán ra ai là cha mình và lao vội vào lòng ông.

Sau một tháng đi xuyên rừng, chúng tôi mới ra đến Nghệ an. Đoạn nào dễ đi thì tôi tự đi, chỗ hiểm trở thì có người cõng tôi. Tôi mới 6 tuổi. Vì hầu hết là đi ban đêm nên chủ yếu là tôi được cõng. Tôi đi qua những địa danh mà sau này tôi không bao giờ quên. (Hôm đầu tháng Tư vừa rồi tôi về Lệ Thuỷ, thăm quê của nhà thơ Trần Quang Đạo, đại tá Thọ bạn của Đạo khoe ở vùng này có một suối nước nóng 103 độ C, tôi nói tôi biết rồi, luộc trứng ăn được, nhưng hơi nồng vì trong nước có nhiều lưu huỳnh. Thọ ngạc nhiên: "Anh tới suối nước nóng này bao giờ?", tôi nói là từ năm 1953, Thọ tỏ ra rất thú vị).

Qua đất Hà Tĩnh có một đọan chúng tôi được đi "xe lửa" (một toa xe hàng còn sót lại, do người đẩy trên quãng đường sắt vẫn còn ray). Ngồi chen chúc trên sàn xe nhưng ai cũng thấy sướng sau những ngày đi bộ xuyên rừng hai chân nứt nẻ toé máu.

Chúng tôi được bố trí nghỉ một ngày ở nhà cụ Phan Châu Trinh. Tôi còn nhỏ quá, không biết cụ Phan Châu Trinh là ai, thấy mọi người nói về cụ với lòng ngưỡng mộ sâu sắc, con tim trẻ thơ của tôi ghi sâu tình cảm với cụ ngay từ lúc đó.

Ra đến Nghệ an, cha tôi mới biết là mình bị chuyển sang làm thuế vụ. Ông kiêu hãnh vứt trả quyết định, bỏ về ở Nam Vân - Nam Đàn. Phải chăngtừ ngày ấy, định mệnh đã gắn tôi Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 vĩnh viễn với mảnh đất Nam Đàn?

Ở Nam Đàn mấy tháng thì hoà bình lập lại, đất nước bị chia làm hai miền. Bà ngoại tôi chỉ có hai người con gái, mẹ tôi là con đầu, cậu tôi đã chết đuối năm lên mười tuổi. Ông ngoại tôi ghét thực dân Pháp, bỏ quan (tôi không biết ông làm chức quan gì, chắc là chức nhỏ thôi, Tôn thất, có ít chữ nghĩa thể nào chả được một chức quan) theo bạn sang Lào làm ăn, bị ngã nước chết khi bà tôi mới 27 tuổi. Bà ở vậy nuôi con. Bà yêu tôi lắm. Những năm ở Huế, tôi sống với bà là chính. Những lần bị Tây đuổi, bà một bên nách là tôi, bên kia là gói vài cái áo quần và cuộn thuốc Cẩm Lệ.

Đất nước chia cắt, nhớ thương con cháu quá, bà dắt dì tôi đi xuyên rừng ra Nghệ an tìm chúng tôi, bỏ lại sau lưng nhà cửa ruộng vườn và cuộc sống no đủ, dấn thân vào quãng đời gian khổ mấy chục năm trên đất Bắc chiến tranh và nghèo đói. Mẹ tôi dệt vải, nhuộm nâu còn bà giã lá gai làm bánh mang ra chợ bán. Có lần bà ngủ gật, chày giã phải tay, ngón cái từ đó bị tật, cong queo cầm điếu thuốc lá rê...

Sau đó cha tôi mua nhà và mảnh ruộng ở Thịnh Sơn, Anh Sơn. Ông quyết định về làm ruộng. Không hẳn là ông thấy cần tự cải tạo lao động, mà ông không có việc gì để làm, ngoài việc tối tối đi dạy bình dân học vụ. Ông làm thơ, những bài thơ ông làm thời cải cách ruộng đất sau này ông đốt hết và vĩnh viễn không làm thơ nữa, trừ những bài thơ khóc bạn đọc ở đám tang những người bạn ra đi trước ông. Ông cũng không thích tôi làm thơ, bài thơ nào tôi viết ra ông cũng xé đi hoặc cất giữ rất bí mật. Ông muốn tôi theo đuổi con đường khoa học kỹ thuật, tránh xa chuyện văn chương, vì vậy mãi tới năm 56 tuổi, khi cha tôi đã mất rồi, tôi mới tí toáy viết lách.

Như đã nói, năm 1957, trên mời cha tôi ra Hà nội nhận công tác, hình như có sự can thiệp của chính Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, điều này tôi không dám chắc vì tính cha tôi ít khi nói chuyện với con cái về công việc của mình, tôi chỉ nghe mẹ nói thế. Ông từ chối về lại ngành công an. Những người bạn vào sinh ra tử năm nào nhưng đã "đấu tố" ông trong chỉnh huấn nay vẫn còn đó, ông không muốn làm việc với họ nữa. Thế là ông về làm biên tập viên ở Nhà Xuất bản Sự Thật, nay là NXB Chính trị quốc gia. Ông chơi thân với ông Minh Tranh, Giám đốc Nhà xuất bản, người sau này bị cho là thuộc nhóm xét lại. Bởi vậy cha tôi cứ lẹt đẹt ở chức Trưởng phòng chính trị cho đến lúc về hưu, mặc dù từng tham gia dự thảo nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và lãnh tụ. Sau này, khi đã già, mắc bệnh pa-king-sơn, ông không tự đi được nữa, song năm nào dịp tết cũng bảo tôi lấy xe đưa ông đi thăm ông Minh Tranh.

Vài tháng sau cha tôi được phân một phòng 24 mét vuông trên tầng hai ở 169 Mai Hắc Đế, tiêu chuẩn độc thân. Cha đón mẹ tôi ra Hà nội trước, bà ngoại ở lại, bán nhà bán ruộng xong thì đưa tôi ra Hà nội.

Tôi có hai cái bình minh đáng nhớ ở Nghệ an. Một lần đi thuyền trên sông Lam. Sương khói lãng đãng trên sông, xa xa là những ngọn núi tím mờ, bãi ngô xanh mướt hai bên bờ sông, tiếng hò lan trên mặt nước, thấm vào đâu đó trong không gian tuyệt đẹp bao quanh. Và lần hai là khi bà cháu chúng tôi dắt nhau đi lúc tờ mờ sáng, sau lưng là 4 năm thơ ấu của tôi, là nấm mộ cô em gái tôi chết khi mới mấy tháng tuổi chỉ vì không có vài viên thuốc cần thiết. Chó sủa ăng ẳng tiễn đưa chúng tôi ra đi không ngày trở lại.

Hùng què

Hôm trước tôi đã kể chuyện lão Hợp, để cho liền mạch, hôm nay tôi kể luôn về Hùng em trai của Hợp.

Hùng có vóc người và khuôn mặt giống Hợp, duy có vẻ lam lũ hơn vì Hùng không có số chuột sa chĩnh gạo như Hợp.

Nhà số 10 là một khuôn viên mặt tiền 16 mét, sâu tới 40 mét. Ba nhà 10, 12 và 14 là do một chủ thầu xây nên để bán nên ba nhà giống hệt nhau, gồm nhà chính một tầng xây theo kiểu Pháp có 4 buồng lớn hai buồng xép. Một buồng xép làm nhà vệ sinh, buồng xép kia làm kho. Tường nhà dày 40 phân, mùa hè rất mát, mùa đông lại ấm.

Gia đình tôi ở một buồng phía trước có vi ran đa, cạnh là buồng của nhà Minh Dậu. Hai buồng phía sau là của nhà ông Khánh - anh ruột của Dậu, về sau con cái ông Khánh lớn lên lấy vợ lấy chồng sinh con đẻ cái, chia nhau ở, cơi nới tùm lum, tôi sẽ kể sau.

Sau nhà chính là sân, cuối sân là một nhà bán mái, ngày xưa là ga ra ô tô, bếp, nhà xí và mấy gian nhỏ cho con sen, tài xế ở.

Hai bên nhà chính có lối đi rộng 3m, phía bên trái đổ bê tông cho xe hơi chạy vào được.

Cụ Quế, cô Tâm lùn và hai đứa cháu ngoại trai ở một gian 9m2, chỗ ngày xưa giành cho tài xế. Chị Nhẫn con cả cụ Quế bán cà phê, có chồng rồi nên gửi hai thằng con trai Vân và Ngọc cho bà ngoại nuôi, Vân và Ngọc mỗi thằng một bố, thằng nào cũng kháu khỉnh.

Hùng què cùng vợ con cũng ở một gian tương tự, ngay cạnh gian của cụ Nhẫn, trước kia là chỗ ở của con sen. Tài xế ở cạnh con sen thế không biết tối đến nhà ngói có lẫn với nhà tranh không nhỉ?

Bây giờ nghe việc một gia đình bốn người ở có 9 mét vuông có thể nhiều người không tin. Nhưng thời đó là thế. Hồi đó thấy không đến nỗi chật. Đồ đạc không có, xe đạp cũng không, bố mẹ suốt ngày đi làm, con cái la cà ngoài vỉa hè, cần gì nhà rộng? Tối về ăn xong, mở cái đài ba bóng nghe cải lương hay ca nhạc một chút rồi đi ngủ. Bố mẹ nằm trên giường, hai đứa con ôm nhau ngủ dưới đất.

Hùng què chưa học hết cấp 1. Trình độ học vấn đủ để ngồi từ sáng đến chiều là đọc xong hết tờ báo Nhân dân. Hồi đó muốn mua báo phải có tiền và phải xếp hàng. Cha tôi có báo cơ quan, tối mang về cho cả nhà đọc. Nhớ lại giải vô địch bóng đá thế giới (bây giờ người ta hay gọi là Uân Cắp) năm 1962 tổ chức ở Chi lê, tôi không thể chờ đến tối cha mang báo về mà chạy ra trước cửa Báo Quân đội Nhân dân, có dán báo hàng ngày cho bà con đọc. Người lớn chen nhau, tôi bé, chui xuống dưới họ vẫn đọc tốt.

Người ta bảo con hoang thường thông minh. Điều này không khó giải thích. Các ông thông minh thì thường cái khoản duy trì nòi giống cũng rất tài. Có thông minh thì mới tìm ra cách vựot rào đi "gây hậu quả nghiêm trọng" được chứ!

Hợp và Hùng không biết bố mình là ai. Riêng cái việc cụ Nhẫn có tới hai người con với một người đàn ông cũng đủ chứng tỏ mối tình của họ với nhau ắt không phải là sớm nở tối tàn.

Hợp ma lanh, Hùng vừa thông minh vừa ma lanh. Học thức không đủ dắt cạp quần nhưng hắn rất tài học mót, rất có năng khiếu về máy móc. Là thợ sửa máy ô tô bậc cao, xe nào pan khó là đến tay Hùng. Một lần đứng bên cửa xe chạy thử máy, Hùng bị văng xuống đất, vỡ đầu gối, từ đó 1 chân thẳng đơ không gập lại được nên mới có thêm cái phụ danh là "què". Thỉnh thoảng xí nghiệp cử người về tận nhà đón Hùng đi "nghe máy". Nghe tiếng máy, Hùng có thể phán là máy đang hỏng cái gì.

Không tung tưởi được, Hùng ở nhà chữa đài và lắp đài ba bóng bán lấy tiền. Thời buổi chưa có TiVi, cái radio là cả một gia tài, kiếm được cái đài ba bóng để tối tối có tiếng nhạc tiếng đàn trong nhà là sướng lắm rồi, lại vừa túi tiền với đông đảo bà con lao động.

Đường - vợ Hùng là công nhân nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà, thân hình khoẻ mạnh, không biết đi xe đạp, toàn đi bộ đi làm, dáng đi chữ bát như lấy chân quét vỉa hè, bộ răng vẩu nhô ra phía trước tạo thêm giáng đi trông giống như con hải cẩu ở Bắc cực.

Đọc đến đây, chắc hẳn bạn sẽ kêu lên: "chuyện Hùng què không có gì đặc sắc!". Tôi cũng đồng tình. Làm sao cho câu chuyện đặc sắc lên được, khi ngoài đời Hùng là một người như thế? Què ngồi một chỗ với cái đài rú rít khi chỉnh trung tần chưa đúng thì làm nên cơm cháo gì.

Qua cái thời đài ba bóng, Hùng theo nghề "gia truyền" - mở quán bán nước chè, Gọi là quán cho oai, chứ đó chỉ là cái bàn gỗ nhỏ, bày vài ba hũ kẹo, mấy bao thuốc lá, khách ngồi lên mấy cái ghế gỗ thấp tẹt, năm xu chén nước cộng với năm xu điếu thuốc là có thể dẩu môi lên chê hết lượt các tổng thống các nước tư bản, các danh thủ bóng đá, hứng lên thì chê luôn cả phe ta. Tất nhiên lâu lâu khi có em nào đi xe đạp qua, ngực ưỡn mông ngoáy thì mấy vị trà đạo vẫn không bỏ qua cơ hội ném theo em một cái nhìn vừa ham hố vừa pha đôi chút khinh mị.

Nói chung Hùng niềm nở vui vẻ với mọi người nên khi hắn mở quán nước ngay trước cổng nhà số 10 cũng không ai tranh chấp hay thắc mắc gì, ngược lại cũng có cái lợi là cả số nhà vô hình trung có được một cơ quan thường trực luôn trông coi không cho kẻ cắp lọt vào.

Bà xã tôi được người ta cho một cái áo măng tô dạ cực đẹp, màu nhã, tôi chưa từng thấy có cái áo măng tô nào đẹp đến thế, dù đã đi mòn khá nhiều giày trên nhiều đất nước XHCN Đông Âu. Cáo áo này của Anh quốc, may bằng một loại dạ thượng thặng, mềm mại, đường kim mũi chỉ xứng danh một Nhà may nổi tiếng. Tôi cam đoan là vào khoảng sau năm 1975, ở Hà nội không thể có cái thứ hai.

Bà xã tôi làm truyền hình, hay phải trực đêm. Một lần mùa đông trời mưa nhấm nhẳng, đi khuya về, đồng chí ấy ngại không mang áo măng tô ướt vào nhà mà treo ngay trên chiếc xe đạp để trước cửa buồng. Thường thì xe đạp ướt vẫn hay để đó, ráo nước mới mang vào nhà. Loay hoay cho con uống sữa, quay ra thì chiếc áo măng tô đắt tiền đã không cánh mà bay!

Xót của, giận kẻ cắp, vợ tôi cắn môi đứng lặng người. Người hiền lành chỉ biết phản ứng có thế. Tôi thì, như bất cứ một thằng đàn ông nào khác, xót của, thương vợ mất cái áo quý, chả biết dồn cái cáu của mình vào đâu, dồn vào ngay chính nạn nhân. Tôi quát:

- Đã dặn cô nhiều lần rồi, mà không chịu cảnh giác. Thôi từ mai chịu khó khoác chăn đi làm nhé!

Nghe tiếng ồn ào, hàng xóm chạy sang. Hàng xóm của ta chưa ồn ào người ta đã nhanh chóng chạy sang xem có việc gì, huống hồ lại nghe thấy giọng tôi, một cái giọng ít khi cất cao. Hùng cũng tập tễnh chạy lên, lầm bẩm chửi: "Lịt cái con mẹ thằng lào nấy cắp. Đây chắc chắn nà người trong xóm nhà mình thôi, cổng khoá kín thế kia ai mà trèo vào được?"

Sáng hôm sau tôi lọ mọ đi mua cho bà xã cái áo ấm khác, tàm tạm, so với cái áo vừa mất thì nó chỉ đáng coi như mảnh chăn len đắp lên người.

Chuyện gì rồi cũng qua, chúng tôi quên dần cái áo măng tô made in England đó.

Thế mà một hôm tôi nhìn thấy nó, trên người một cô gái đang ngồi sau xe Honda của một người đàn ông, chạy về hướng Thanh Xuân. Tôi tăng ga vọt theo. Cái xe rẽ vào một ngõ nhỏ, tôi vẫn bám sát. Đôi trai gái dừng lại trước một nhà trọ kín đáo. Tôi bỗng phanh xe gấp, quay mặt đi hướng khác.

Người đàn ông đó là Hùng què.

Sinh hoạt cộng đồng

Sát cạnh nhà cụ Nhẫn là gian nhà của Tường toét, cái chỗ ngày xưa là ga ra ô tô. Gian ấy cũng chỉ rộng khoảng 9m2. Cả ba nhà Tường toét, cụ Nhẫn và Hùng què sau này đều cơi nới thêm một tầng nữa, dãy nhà bán mái biến thành khu nhà hai tầng nhấp nha nhấp nhô.

Cạnh nhà Hùng què là gian bếp, các gia đình sử dụng chung. Sau bếp là đến nhà xí, cũng là công trình công cộng cho khoảng gần năm chục nhân mạng.

Chuyện nấu nướng không đến nỗi phải tranh chấp nhau nhiều. Đến giờ thổi cơm, đứng trong bếp tán phét quả là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng khá thú vị. Mọi thông tin trong khu phố, nhà nọ nhà kia v.v. thường được thông báo và bình luận trong khoảng thời gian người ta ở trong bếp. Việc dùng bếp chung còn có cái thuận tiện là người này có thể trông coi nồi cơm giúp người kia, bớt nhỏ lửa hoặc đẩy thêm củi vào bếp giúp bạn đang vướng bận việc gì đó. Nhờ nhà Tường toét làm nghề mộc, bà con có thể xin mùn cưa và mụn bào khá thoải mái nên trong nhà số 10 rất phổ biến loại bếp lò đun mùn cưa. Những hôm mưa gió hoặc nhà Tường hết hàng thì bà con đun củi hoặc bếp dầu.

Theo quá trình phát triển, nhà nào cũng cơi nới thêm nên hầu hết chuyển sang tổ chức đun nấu ngay trong nhà mình, đun dầu hoả hoặc đun điện, gian nhà bếp trở nên vắng lặng, chủ yếu là dùng để chứa gỗ bán thành phẩm hay các bao tải thước kẻ thành phẩm của nhà Tường toét.

Riêng nhà xí thì quả là một câu chuyện dài nhiều tập. Không hiếm khi xảy ra cảnh một người đứng ngoài năn nỉ người ngồi trong: "Nhanh lên bà ơi, tôi sắp ra quần rồi đây này!". Hoặc hai mẹ con đi chung cho nó nhanh. Hoặc..., thôi bạn cứ thả sức tưởng tượng ra cái cảnh sáng sáng chờ nhau, đứng xếp hàng chờ đến lượt leo cầu. Đám công chức hay công nhân cố gắng giải quyết nỗi buồn của mình ở công sở hay xí nghiệp, hãn hữu mới bị một quả đột xuất phải sử dụng tiện nghi tại nhà số 10.

Có điều là thanh niên bây giờ không chắc đã tưởng tượng nổi thế nào là đổ thùng nên tôi phải kể cho rõ. Đó là công nghệ cổ điển thu dọn và mang phân ra khỏi thành phố. Những người công nhân của Công ty vệ sinh đi đến từng nhà, múc phân vào thùng rồi xếp các thùng đầy phân lên một chiếc xe, đẩy đi về đâu đó ra ngoại ô Hà nội. Họ đổ xuống hồ Tây cho cá ăn hoặc bán cho các nhà trồng rau ở ven đô. Thỉnh thoảng có một vài người cá lẻ đi đổ thùng, họ không phải là người của Công ty Vệ sinh, mà là dân Cổ Nhuế đi lấy phân như một nghề kiếm sống. Bởi vậy có câu:

- Thanh niên Cổ Nhuế xin thề,

Chưa đầy hai sọt, chưa về quê hương!

Người Cổ Nhuế dọn dẹp kỹ và sạch sẽ hơn công nhân ăn lương Nhà nước nên được dân chúng thích hơn. Lâu lâu phe Nhà nước và phe cá lẻ lại đụng độ nhau một lần, tranh nhau miếng ăn. Cánh cá lẻ toàn thua, chạy vừa mất dép vừa mất cả... phân.

Các bạn có thể hình dung mỗi một đợt đổ thùng thì không khí trong nhà số 10 (chả riêng gì nhà số 10, nhà nào cũng thế) sẽ biến mùi như thế nào, cái mùi đậm đà ấy phải vài hôm mới giảm dần tác động mạnh mẽ của nó lên khứu giác con người.

Nằm giữa căn nhà chính khang trang và giãy nhà bán mái lụp xụp là một cái sân rộng, rộng tới mức người ta đã tổ chức được đám cưới linh đình ngay trong sân. Ngày thường sân làm chỗ phơi quần áo và phơi gỗ của Tường toét. Mỗi nhà chăng một sợi giây phơi riêng của mình. Khi giặt quá nhiều quần áo, ta có thể phơi nhờ dây hàng xóm, với điều kiện phải có một lời xin phép. Bọn trẻ con chúng tôi không để ý chứ đám thanh niên và người lớn thì chỉ cần căn cứ vào cái dây phơi là có thể biết ngay bà nào cô nào là đang trong thời kỳ "treo cờ".

Do phơi chung quần áo nên hay xảy ra chuyện cầm nhầm. Nếu đúng là cầm nhầm thì mình sẽ mang sang trả lại cho hàng xóm, cười đùa vài câu là hoà. Còn nếu ai đó cố tính cầm nhầm thì chắc chắn nguyên tối hôm đó cả xóm sẽ được nghe miễn phí bản ca kịch dân gian "Tiên sư cha con đẻ mẹ thằng nào lấy cái quần rách của bà. Cái quần của bà rách rồi mà mày vẫn lấy mang về phủ lên bàn thờ nhà mày hở cái thằng mặt bẹp, cái con mặt lồi kia!". Đó là tôi chép minh họa, nếu chép đầy đủ chắc phải tốn mấy tờ A4.

Giặt quần áo và phơi quần áo cũng là một sinh hoạt tập thể rất thú vị. Nước máy không chảy nổi lên mặt đất, người ta phải múc nước từ bể ngầm ngay sát nhà tôi lên để giặt giũ tắm rửa, nấu ăn. Bâu chung quanh miệng bể, mỗi người hai cái chậu giặt, một cái xô múc nước. Thế là hình thành cái chợ, thông thường rất vui vẻ, thỉnh thoảng cũng có tranh chấp đôi chút về trình tự múc nước.

Ăn mặc kiểu ở nhà, đàn ông quần đùi áo may ô, đàn bà con gái thì quần dài áo cộc. Giặt thì phải ngồi chành bành. Ngồi chảnh bành thì dễ bày ra những thứ đáng ra phải che đậy. Bà nọ hí hí bảo ông kia:

- Tòi hết cả cà muối với dưa chuột ra ngoài rồi kìa, khiếp!

Ông kia bình thản kéo quần đùi che của quý rồi tiếp tục vừa giặt vừa tán phét vô tư như không có gì xảy ra, chờ đến khi có bà nào khoe hàng thì ông ta sẽ chọc lại.

Không ngày nào là không có chuyện người này va chạm cãi vã với người kia, nhưng hễ nhà nào có việc là cả xóm lăn lưng ra giúp, rất nhiệt tình, không nề hà vất vả. Người ta mất dạy là do không được dạy. Cái tốt, cái tình chân thực thì nằm trong bản chất con người Việt nam chúng ta.

Gia đình tôi, gia đình Minh Dậu và đại gia đình nhà ông Khánh ở chung trong một nhà, các cửa thông buồng bình thường đóng lại, mỗi nhà đều buộc chốt bên phía nhà mình, cánh cửa trở thành bức tường ngăn cách. Đám cưới tôi tổ chức đúng vào ngày mồng hai tết. Minh Dậu và ông Khánh tự nguyện mở toang cửa ngăn phòng, dọn dẹp đồ đạc gọn lại rồi nhường cho tôi kê bàn ghế, lấy chỗ tiếp khách. Sau đám cưới, vĩnh viễn vợ chồng tôi không được Đài Truyền hình Việt nam phân nhà vì lãnh đạo Đài đến dự đám cưới, tận mắt thấy nhà tôi to quá, bốn buồng rộng thênh thang! (Hồi đó quy định phân phối nhà ở theo bên vợ).

Đám cưới tổ chức theo kiểu "đời sống mới", chủ và khách ăn kẹo, hạt dưa, hút thuốc lá và uống nước chè. Ngày hôm sau, cha mẹ tôi làm mấy mâm đãi thân nhân ở xa về dự đám cưới và đại diện các hộ cùng sống trong nhà số 10. Để có tiền tổ chức đám cưới cho tôi, cha tôi phải bán cái đài Spidola, loại đài bán dẫn nhiều băng tốt nhất của Liên xô mà tôi đã mua ở Liên xô tặng ông. Phải vài năm sau, tôi mới dành dụm được tiền mua cái đài khác biếu cha đẻ.

Có giấy đăng ký kết hôn trong tay, bạn ra Phòng Thương nghiệp quận, làm thủ tục xin tiêu chuẩn Nhà nước quy định cấp cho đám cưới: 2 cây thuốc Tam Đảo, mấy cân kẹo, một số gói trà (tôi không nhớ chính xác là bao nhiêu). Ngoài ra, bạn được mua một cái giường đôi, một màn tuyn, một chăn bông, hai cái chiếu, hai cái gối, he he!

Đến khi có con, bạn mang giấy chứng sinh ra, người ta sẽ cấp tiêu chuẩn đường sữa và tem phiếu mua vải làm tã lót cho cháu.

Tôi nhớ là sắp đến giờ khai mạc đám cưới mọi người mới sực nhớ ra, hỏi phù dâu phù rể đâu. Bà xã tôi tóm lấy một cô cùng cơ quan làm phù dâu. Không phải vì cô này thân nhất hay xinh đẹp gì lắm, mà đơn giản là vì cô ấy đang mặc áo dài quần trắng. Bạn bè nam của tôi toàn đi có cặp, với vợ hoặc với người yêu. Bí quá, tôi tóm ông bạn cùng cơ quan, cựu trung uý công binh Đinh Phơ, người lúc đó đã có một vợ hai con nhưng đến đám cưới có một mình. Ông này vô tư nhận lời và hoàn thành xuất sắc vai trò phù rể.

Chả biết chọn người đã có vợ con rồi làm phù rể thì có bị làm sao không nhỉ? Cho tới giờ này, sau ba mươi sáu năm, tôi chưa phát hiện ra vấn đề gì.

Cụ Khánh

Khi gia đình tôi dọn về ở nhà số 10 thì cụ Khánh còn đang ngồi tù về tội vượt tuyến trốn đi Nam năm 1960.

Đức xồm kể cho tôi nghe là cụ Khánh dùng xe Java 350 chở bà Ba (bà này nhũ danh là Út, vợ thứ ba của cụ Khánh nên con cái cụ Khánh gọi bà là bà Ba) vào Sầm Sơn ăn chơi nhảy múa một tuần, hàng ngày đi ngao du hoặc tắm biển đến tối mịt mới về, hoặc chở nhau đi các chùa chiền danh thắng ở Thanh Hoá để đánh lạc hướng công an. Chờ cho thân thể mặt mày cháy nắng đen sạm, hai người bất ngờ trả khách sạn, quay xe về Hà nội. Đi cách thị xã Thanh Hoá được vài chục ki lô mét, thấy không có đuôi bám theo, Khánh quay đầu xe, thẳng hướng Nam mà quất ngựa sắt.

Đến Đồng Hới lúc nửa đêm, "cơ sở" chờ sẵn, nấu cháo gà cho ăn. Hai vợ chồng nghỉ ngơi cho lại sức, đi "thăm bà con", ngắm nghía phong cảnh. Vào một đêm không trăng, vứt xe mô tô lại, hai người leo lên một chiếc xe tải đã được bố trí sẵn, nằm kín dưới tấm bạt phủ thùng xe, lẫn với các kiện hàng hoá. Đến Đông Hà lúc 3 giờ sáng, "cơ sở" ở đó đưa ngay vợ chồng nhà Khánh đến điểm tập kết để vượt tuyến. Các trinh sát của Công an Quảng Trị bình tĩnh ngủ một giấc, tỉnh dậy ngồi hút thuốc lào chờ "hàng" đến, nhẹ nhàng mời hai khách du lịch về tạm giam rồi gửi họ ra Hà nội.

Cụ Khánh chịu hết tội về mình. Bà Ba, đạo diễn và là động lực của cuộc phiêu lưu, được coi là "thuyền theo lái, gái theo chồng", thân phận từ cô hàng xén được Khánh kết nạp vào hàng ngũ vợ của y nên được công an tha, cho về ăn giải quản thúc ở Hà nội. Bà Ba khoe với tôi là có ông anh làm to trong Nam, trước năm 1954, anh bà đã là Trung tá trong quân đội (ta gọi là ngụy quân làm việc cho Pháp), có xe riêng đi, có lính hầu, oai cực. Bây giờ ở trong kia chắc ông ấy còn to hơn chức trung tá. Bà bảo nếu trốn vào Nam trót lọt, bà sẽ sướng như tiên, chả phải ăn tem phiếu, chả phải đi làm hợp tác xã thước kẻ như thế này. Bà cho tôi xem ảnh người anh trai, trông rất giống bà Ba, song ác và dữ tợn hơn nhiều.

Cụ Khánh ở tù ba năm. Xuất thân là dân lao động, cơ thể cường tráng, lại từng kiếm ăn bằng nghề mộc, ở trong tù cụ Khánh chăm chỉ lao động, đóng hết bàn này tủ nọ giường kia cho các cán bộ quản giáo nên được nhận xét là cải tạo tốt, ra trại đúng hạn. Tôi nói thế là vì hồi đó nhiều người cứ thế mà ngồi tù, không chịu khó lao động thì chờ đến Tết con Vịt mới được thả.

Cụ Khánh ra tù, béo đỏ hồng hào.

Tôi tò mò hỏi:

- Bác ở tù chắc là sướng lắm?

- Sướng sao mày không đi tù đi? "Nó" cho ăn đói mặc rách gần ba năm, còn ba tháng nữa trước khi thả, "nó" cho ăn no, ngủ kỹ, thằng chó nào chả béo. Nhưng mày không được bép xép nói linh tinh kẻo tao lại bị cái tội vu khống chế độ nhà tù của Chính phủ rồi tao lại được mời đi thêm ba năm nữa đấy.

Tôi hứa sẽ không nói với ai. Chả phải vì tôi thương cụ Khánh, sợ cụ lại đi tù hiệp hai mà vì hồi đó có rất nhiều thứ không nên phát ngôn bừa bãi, cha tôi dặn kỹ rồi mà.

Xuất thân là một kẻ mãi võ, cơ thể cụ Khánh đến lúc về già vẫn rắn chắc, bụng có 6 múi căng như múi mít. Trẻ con chúng tôi nằn nì Khánh bày cho vài miếng phòng khi bị bắt nạt, Khánh từ chối, bảo chúng mày không có số học võ, không bày.

Bà ba béo, mặt nhiều thịt, không có con. Người ta nói bà ấy béo quá, mỡ lấp mề nên không đẻ được. Nếu không thì bà ấy có thể đẻ cho Khánh cả chục đứa. Bà làm xã viên hợp tác xã sản xuất thước kẻ do ông Tường toét làm chủ nhiệm. Làm chân gì tôi không rõ, nhưng chưa hề thấy bà ấy ngồi bào hay sơn thước như mấy xã viên khác.

Bà Cả già rồi, ho lao, lưng gù ngực sụp xuống, nhìn qua tưởng là mẹ của Khánh. Bà đẻ 9 người con, chết ba còn sáu.

Thỉnh thoảng vào dịp lễ tết hay cưới hỏi, bà Hai ở quê dắt thằng Thuận ra nhà số 10, tham gia việc nọ việc kia như dâu con trong nhà. Thằng Thuận làm ruộng, hiền như củ khoai, mặt giống cụ Khánh như tạc. Bà Hai nguyên là đứa ở, cụ Khánh đi qua đầu giường có vài lần mà bà có chửa thằng Thuận. Bụng bà Hai mới nhỉnh bằng quả bưởi bà đã bị bà Cả đuổi về quê.

Đận cải tạo tư bản tư doanh, Khánh bị tịch thu hết nhà cửa, mấy trăm cây đàn piano và bị đưa về ở nhà số 10. Nhờ đông con lắm vợ, lại kéo thêm chú em họ Tài Dậu vào danh sách người trong nhà nên nhà Khánh được ở ba buồng, chiếm ba phần tư ngôi nhà Tây gắn biển số 10. Tài Dậu cùng vợ con ở riêng một buồng.

Khánh từ vai bảo vệ đùng một phát lên làm quản lý rồi dùng một phát thành tư sản. Các vị cán bộ trong đoàn công tác cải tạo tư bản tư doanh niêm phong tịch hết số đàn piano do lão Tây mù giao lại cho Khánh quản lý trước khi tếch vào Nam. Nhưng họ không hề biết giá trị của đống phụ tùng, vật tư ngành đàn nên cho phép Khánh tự do mang về nhà mới.

Đó chính là những thứ đảm bảo cho cuộc sống sau này của Khánh. Ra tù Khánh bắt đầu đi sửa đàn piano. Ở Hà nội, không phải một mình Khánh biết sửa, song một mình Khánh có phụ tùng.

Những năm 60, 70 và 80 thế kỷ trước, chỉ có các đoàn ca nhạc, nhà giàu hoặc con em cán bộ cao cấp mới có piano. Tôi nhiều lần chứng kiến một ông to nào đó cho xe đến đón kẻ mới ra tù đến nhà mình sửa đàn. Nhờ thế Khánh được Trường Âm nhạc (sau này là Nhạc viện) nhận vào biên chế, làm công nhân viên Nhà nước đàng hoàng, có tem phiếu khác dân thường. Ít lâu sau Tài Dậu cũng được nhận vào làm cùng ông anh.

Tôi vốn thích máy móc từ bé, mới học lớp bốn đã tự mình lắp đài ga-len, nên hay tò mò ngồi xem cụ Khánh sửa máy đàn. Máy đàn gồm một dàn các búa gỗ, đầu búa đựơc bọc một lớp dạ hình trăng lưỡi liềm. Khi ta gõ phím đàn, một cơ cấu đòn bẩy sẽ đập đầu búa vào dây đàn, tạo ra âm thanh du dương. Âm thanh này sẽ hết du dương khi miếng dạ bọc đầu búa bị mòn hay xẹp xuống. Cách duy nhất để khắc phục là thay miếng dạ. Người duy nhất có dạ chính hãng của Pháp là cụ Khánh. Và ngưòi duy nhất biết công thức pha chế loại cồn dán đặc biệt sao cho vừa giữ chắc được miếng dạ lại không cứng ngắc. Nếu cồn cứng quá, tiếng đàn sẽ đanh.

Cụ Khánh đắt khách, làm không xuể. Nhưng cụ chỉ biết sửa đàn, phơi nắng sấy khô và làm lại máy đàn, thay dây. Cụ không biết lên dây. Lên tàm tạm thì được chứ lên cho chuẩn thì không vì cụ không có tai nhạc. Do đó, chủ đàn piano thuê cụ sửa xong thì phải thuê thêm người khác lên dây đàn cho mình.

Cụ Khánh truyền nghề chữa đàn cho hai người con trai là Đức xồm và Tuấn, tuy nhiên, khi số dạ và dây đàn hết dần thì vai trò độc quyền chữa đàn của giòng Nguyễn Tài cũng kết thúc. Người ta đã được phép nhập vật tư linh kiện từ những hãng tên tuổi trên thế giới về. Cụ Khánh, Tài Dậu nghỉ hưu. Tài Đức, tài Tuấn xoay sang nghề khác.

Cô Mùi

Mùi bằng tuổi tôi, nhưng vì tôi chơi với Đức xồm anh trai Mùi nên Mùi luôn gọi tôi bằng anh, đến bây giờ, già rồi, Mùi vẫn gọi tôi là anh xưng em như hồi ấy.

Hồi nhỏ Mùi bụ bẫm, xinh xắn, cái miệng ít nói mà hay cười. Năm Mùi khoảng mười tuổi, em bị sốt rồi bị teo một chân, may mà không liệt hẳn. Từ đó Mùi đi chân cao chân thấp, thân lắc sang một bên theo nhịp bước chậm chạp của người què. Cũng từ đó, cái miệng em không những ít nói mà cũng ít cười.

Hết lớp bảy phổ thông, Mùi xin đi công nhân, vào làm ở nhà máy Văn phòng phẩm Hồng Hà, chắc là trong ngành công nghiệp nhẹ có một số việc khá nhẹ nhàng, phù hợp với em.

Bọn chúng tôi cứ thế lớn lên, tôi đi học, đi học suốt, anh trai Mùi đi làm, rồi đi bộ đội, rồi lại đi làm công nhân. Mỗi người một con đường, mỗi người một mớ lo toan riêng nên tôi hầu như quên hẳn Mùi, không còn biết trên đời này còn có một người con gái què quặt tên là Mùi nữa.

Khi tôi trở về với khu nhà chật chội mà ở đó chúng tôi đã lớn lên, từng chơi bi đánh đáo, thì Mùi đã sang những năm cuối của tuổi hai mươi. Cô thường mặc bộ quần áo bảo hộ lao động màu xanh công nhân rộng thùng thình, người gầy teo tóp. Mùi có cô bạn thân là Bích, một cô con lai tây đen. Hai cô chơi với nhau, vì chẳng ai chơi với họ. Bích cao lớn, tóc xoăn tít. Có thể một người Châu Phi sẽ thấy là Bích rất đẹp, nhưng con trai Hà nội thì chưa chắc có cùng quan điểm.

Hàng ngày Bích đạp xe đến đón Mùi đi làm, cô đứng chờ Mùi ngoài cổng, bàn chân to đùng gác lên bàn đạp cái xe Liên xô cao lồng ngồng. Mùi tấp tểnh bước ra, leo lên đèo hàng ngồi, tay ôm vòng qua bụng bạn, trông như con nhái cắp vào con ếch. Họ vừa đi vừa ăn sáng, hôm thì gói xôi sắn, hôm thì vài củ khoai luộc. Mùi đút đồ ăn vào mồm cho bạn, họ âu yếm như một cặp tình nhân.

Có lần Bích bị tai nạn giao thông phải nằm viện mất một tuần. Mùi tấp tểnh đi chợ, lúi húi xào nấu món ăn rồi lại bước cao bước thấp mang vào bệnh viện cho bạn. Nhìn bạn đánh bay hết chỗ thức ăn đủ cho ba người, Mùi cười: "Mày ăn như Tây!".

Cô gái lai đen rất khó chịu mỗi khi có người nhắc đến nguồn gốc của mình, nhưng nghe thấy Mùi nói vậy, Bích cũng bật cười rung cả bộ ngực đồ sộ mà hai cô lúi húi mất mấy ngày mới may xong cho Bích cái áo nịt. Thánh cũng không thể tìm ra ở cái đất Hà nội này một cái gì đó cho Bích mặc vừa, ngoài áo bảo hộ lao động.

Cô gái lai đen không biết bố mình là ai, chỉ đoán đó là một ông tây đen nào đó đi càn rồi làm mẹ cô có chửa, phim và truyện về kháng chiến có kể nhiều về chuyện này.

Lâu dần rồi bọn trẻ con cũng không trêu chọc Bích nữa, cô cùng nhảy dây, chơi chuyền với bọn con gái. Lớn lên đi làm cũng thế. Nhưng cái tiếng nói thì thầm ngàn đời về nguồn cội luôn vương vấn trong cô. Nỗi bơ vơ của người ngoài cuộc đã kéo cô đến gần với Mùi - cô gái như một trái chưa kịp chín đã lép, đang đi bên lề cuộc đời.

Hai người con gái đi đâu cũng có nhau, họ dựa vào nhau để khẳng định sự tồn tại của mình, để chống đỡ sự bàng quan của toàn thể thế giới đàn ông giành cho họ. Họ nói với nhau những gì, tôi không thể biết. Họ có thèm một câu đùa suồng sã, một cú sờ nắn của một thằng công nhân ấm ớ cùng làm ca đêm? Làm sao tôi biết được?

Họ đi ăn đám cưới hết lượt những người quen, trả góp cho đám cưới không bao giờ có của mình.

Thế rồi ông bố tây đen của Bích xuất hiện, cái ông lính lê dương ngày xưa đã đè ngửa mẹ Bích - cô hàng xén trong một lần say khướt, và làm thủ tục đón Bích về quê nội. Cá về với nước, Bích thật hạnh phúc.

Hơn một chục ngày, Mùi lăng xăng chuẩn bị các thứ để Bích "về quê". Bích thì bận chở ông bố đen chùi chũi đi tham quan Hà nội, về quê thắp hương cho mẹ cô. Rồi chính cô cũng còn phải đi thăm chia tay hàng xóm, người quen cùng phân xưởng. Cô sẽ rời xa mãi mãi mảnh đất mà cô đã lớn lên, đã sống mấy chục năm trong cô đơn và buồn tủi lẫn tình bạn chân thành của Mùi. Cô cười luôn miệng, cặp môi dày mọng uốn lên dưới cái mũi to bè.

Hôm chia tay, Mùi ra tận sân bay, lần đầu tiên và có thể cũng là lần cuối cùng em có mặt ở sân bay. Hai chị em nói chuyện bình thường như mọi khi. Chỉ đến lúc nhân viên sân bay đến giục Bích vào phòng cách ly thì cả hai mới oà khóc, ôm chặt lấy nhau.

Bạn đọc ơi, bạn đừng bắt tôi phải tả cảnh Mùi từ sân bay về, không có cái buồn nào có thể lớn hơn sự mất mát người bạn thân thiết, nơi bấu víu tình cảm duy nhất của mình.

Mùi còn lại một mình, em không thể kiếm cô bạn thứ hai như Bích.

Tháng ngày lặng lẽ trôi qua. Người ta yêu nhau, cưới nhau, sinh con đẻ cái. Người ta ghen tuông, cãi vã. Người ta làm lành, dắt nhau đi công viên chụp ảnh. Mùi không có tất cả những cái đó.

Một lần Đức, say rượu hoặc là kiếm cớ say rượu, chửi vợ từ chiều đến tối, lôi đủ thứ xấu xa của vợ ra kể lể. Chốc chốc cô vợ không chịu được, vằn mắt lên cãi thì hắn lại bịch cho mấy quả, cô vợ ngồi ty tỷ khóc, réo cả họ nhà chồng ra chửi. Người nhà Mùi khuyên can mãi không được bèn gọi điện nhờ tôi đến nói một câu vì biết Đức chỉ nể mỗi một người trên đời này là tôi, thằng bạn chơi với hắn từ bé.

Tôi đến, lấy can rượu Đức đang uống dở rót cho mình một cốc, ực một hơi hết sạch:

- Thôi Đức ơi, về nhà tao ngủ đi!

Không ngờ Đức dằn mạnh cốc rượu xuống bàn:

- Về nhà ông làm gì? Để thấy ông vợ đẹp con khôn, để tôi càng thấy cái thân tôi là khốn nạn à?

Tôi lặng người, không biết nói gì nữa. Đúng lúc đó Mùi đẩy cửa, không bước vào, chỉ đứng vịn tay vào cửa. Mặt em tái xanh:

- Anh Đức, anh nhìn em đây này, em mong có một người đui què mẻ sứt để lấy, em thèm dù là thằng chồng lếu láo mất dạy mà cũng không có, chị đã nông nỗi nào mà anh tệ thế?

Mùi khóc hu hu, Đức và tôi im lặng.

x

x x

Sức khoẻ kém, Mùi về hưu mất sức, ngồi bán nước chè đầu ngõ. Khuôn mặt dúm dó, má hóp lại vì răng rụng đã nhiều.

Tôi thường tránh mặt Mùi, nếu có việc phải đi qua thì kiếm đường vòng để khỏi gặp em. Tôi sợ gặp em. Tôi sợ một cái gì đó mơ hồ, rất khó giải thích.

Chẳng hiểu sao hôm vừa rồi tôi ghé qua quán nuớc của Mùi, đầu đội mũ sùp sụp, đeo cặp kính đen to để Mùi không nhận ra tôi trong cái ông đường bệ và sung mãn, gọi một cốc chè Thái và một điếu thuốc Vina. Vừa lặng lẽ uống nước, hút thuốc, tôi vừa nhìn trộm Mùi. Em già quá, mặt như quả bưởi héo. Bàn tay đen đúa run run cầm cốc nước chè trao cho tôi rồi lại run run vuốt những tờ tiền lẻ cho thẳng lại, mắt lơ đãng như không chú ý gì nữa vào thế giới xung quanh.

Hút hết điếu thuốc, tôi đứng lên móc túi trả tiền. Mùi xua tay:

- Anh Thắng ơi, em không lấy tiền của anh đâu. Thỉnh thoảng anh ghé qua thăm em thế này là quý rồi. Cho em gửi lời thăm chị và các cháu anh nhé.

Tôi chạy xe thêm mấy vòng nữa qua những con phố quen thuộc rồi mới về nhà. Những cây bàng tỏa bóng mát cả tuổi thơ tôi còn đó, chỉ có nhà cửa là khác đi nhiều, xây cất nhấp nhô.

Những người đàn ông, những người đàn bà lướt qua trước mắt tôi, kẻ thong dong, người hối hả. Có ai trong số họ để ý đến vẻ thảng thốt của tôi không nhỉ? Mà tôi là gì để họ phải để ý?

Đến như bà hàng nước thọt chân móm mém không chồng không con ở đầu ngõ kia cũng chỉ là một sự bình thường mà thôi?

Tường toét

Ông Tường là chiến sỹ Điện Biên. Hoà bình lập lại, ông xuất ngũ về quê làm ruộng. Thời gian đi bộ đội không mhững đã cho ông cái huy hiệu "Chiến sỹ Điện biên" mà ông lúc nào cũng tự hào đeo, kể cả khi chỉ mặc áo may ô, mà còn làm cho ông sáng ra được một điều là làm ruộng thì mãi mãi anh vẫn chỉ là thằng nông dân, vẫn nghèo đói và tăm tối sau luỹ tre làng.

Tường bỏ làng ra Hà nội, làm đủ thứ nghề kiếm sống, ai thuê gì làm nấy. Với sức khoẻ của gã thợ cày, quyết tâm của anh lính Điện Biên, Tường bám trụ được ở chốn thị tứ và lần mò học được nghề làm thước kẻ.

Tường kéo vợ ở quê ra, hai vợ chồng kiếm một cái gậm cầu chưa bị "dột", khá khô ráo sạch sẽ, ăn ngủ và tổ chức sản xuất ngay ở đó. Sau mấy năm tích cóp tiền, hai vợ chồng ông Tường tậu được một gian nhà bán mái trong nhà số 10.

Giai đoạn ấy cụ Khánh còn đang ở tù, bà Cả nuôi cả gia đình gồm bà và năm người con. Vốn quen sống dựa vào chồng, quen ngồi một chỗ sai khiến người khác, bản thân không nghề nghiệp, lại có bệnh trong người, bà Cả chỉ biết nhận len về đan gia công cho mậu dịch. Hồi đó thế giới chưa phát minh ra máy đan len, Tocontap (Tổng Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Bộ Ngoại thương) ký hợp đồng đan len thuê cho nước ngoài rồi trao lại cho chị em phụ nữ làm kiếm thêm đồng ra đồng vào.

Các bà các cô đan len tại nhà hay đan tập trung ở nhà một ai đó, tay nhoay nhoáy những động tác khéo léo mà các em gái của chúng ta ngày nay ít ai biết làm.

Bà Cả nhận len về nhà đan cùng hai cô con gái lớn là Thuần và Ngoạn. Để đan được nhanh và mũi đan đều tay, không quá chặt hoặc quá lỏng, người ta không đan trực tiếp từ cuộn len mà tháo len ra khỏi cuộn, tãi ra một cái mẹt nhỏ hoặc cái mâm sạch rồi mới đan.

Bà Cả ngồi gập người, đầu gối quá tai. Hai cô con gái rượu ngồi hai bên. Họ đan len trong im lặng, khác với những tổ len đông người luôn đầy ắp tiếng cười và một thứ mà ngày nay chúng ta gọi là buôn dưa lê.

Đan len thuê cho mậu dịch không đủ sống, bà Cả bán dần những gì có thể bán được trong nhà.

Cái đàn pianô ra đi đầu tiên. Đức xồm thở phào vì khỏi phải tập đàn. Bà Cả nhờ chú Thọ, một người bạn thân thiết của gia đình bán giúp. Chú Thọ này được cụ Khánh coi như em út trong nhà. Chúng ta còn dịp gặp lại người đàn ông này.

Tiếp theo là bán những gian nhà chật chội và xấu xí ở sau sân, nhờ đó mà Hùng què, cụ Nhẫn và gia đình ông Tường mới có chỗ chui ra chui vào và quan trọng hơn nữa, là có được hộ khẩu Hà Nội.

Tường có cặp mắt của hầu hết đàn ông nông thôn hồi đó, nơi người ta rửa ráy, tắm giặt, vo gạo chỉ bằng một cái ao. Hầu hết bị đau mắt hột. Mắt lúc nào cũng kèm nhèm, đầy ghèn gỉ. Và vì thế mà chúng tôi cho ông ta thêm một chữ "toét" vào đằng sau tên cúng cơm.

Tường không có con, đúng hơn là bà Tường không sinh đẻ được, vì vậy ông không được gọi theo tên con như những người khác.

Tường biến cái sân chung của nhà số 10 thành nơi phơi gỗ, phơi những thanh thước kẻ chưa bào và đã bào. Mùn cưa và mụn bào Tường vin thành một đống, ai muốn lấy đun nấu thì cứ xin tự nhiên, đó coi như một khoản thuế Tường đóng cho các gia đình trong cùng nhà số 10 để được phép khai thác miễn phí cái sân của tập thể.

Tường và vợ làm nghề được một thời gian thì có phong trào xây dựng hợp tác xã hoặc tổ sản xuất thủ công. Cái này là theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, tất tần tật phải mang tính tập thể. Các cửa hàng tư nhân kinh doanh ăn uống bị xoá sổ dần, thay vào đó là quán ăn Mậu dịch. Phở Mậu dịch có hai loại, loại có thịt và loại không có thịt. Loại không có thịt nhanh chóng được gọi là phở không người lái, bắt chước tên một loại máy bay do thám của Mỹ thường bay vào vùng trời miền Bắc do thám và thường được thông báo trên đài Tiếng nói Việt nam là bị bắn rơi ở đâu đó. Có người bảo gọi phở không người lái như thế là phản động, nhưng cái tên đó vẫn cứ tồn tại và phở không người lái vẫn được đám dân nghèo thành thị và cả công chức mới ra nghề như tôi hâm mộ vì nó rẻ hơn phở có người lái. Ăn phở Mậu dịch phải xếp hàng, phải chịu đôi mắt gườm gườm và đôi môi miệt thị của cô Mậu dịch viên, coi khách như kẻ ăn xin đến chờ bố thí. Việc này người ta quen dần, không mấy ai phản ứng. Nếu có ai phản ứng thì sẽ được cô Mậu dịch viên béo tốt buông thõng cho một câu: "Chỉ có thế thôi, ăn không ăn thì biến!".

Có cửa hàng Mậu dịch đục thủng một lỗ ở chính giữa lòng cái thìa nhôm nhằm chống ăn cắp thìa. Thử hỏi còn ai tha thiết với cái thìa bị thủng một lỗ? Và cũng xin hỏi có ai cảm thấy thoải mái ngon miệng khi múc nước phở bằng cái thìa oái oăm đó? Vậy mà phở vẫn bán hết veo, người ta vẫn múc được đến giọt phở cuối cùng, ai không múc được thì xin cứ tự nhiên nâng bát phở lên mà húp!

Trước sức ép phải vào hợp tác xã, Tường toét nói vợ về quê đón bà Liên - chị gái của bà Tường cùng hai đứa con gái tên là Tâm và Sự ra Hà nội cùng làm thước kẻ và tất nhiên là cùng làm xã viên hợp tác xã do Tường toét làm Chủ nhiệm. Hình như bà Ba vợ cụ Khánh cũng được kết nạp vào hợp tác xã Tường Toét trong giai đoạn này, làm nhân viên kế toán thì phải.

Bà Liên cao ráo hơn bà Tường, gái nhà quê hai con trông mặn mà hấp dẫn. Chồng bà Liên hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên. Chả hiểu hai ông bà nghĩ gì mà đặt tên cho hai cô con gái là Tâm và Sự. Tôi không dám tìm hiểu. Thời buổi chiến tranh, nhiều nhà đặt tên rất có ý đồ, hoặc ý đồ văn chương hoặc theo một khẩu hiệu nào đó. Tôi có người bạn, ba anh em tên là Dân, Quân và Hoàn. Bạn tôi nói là các cụ định đặt tên các con theo câu "Dân quan hoàn thành nhiệm vụ", nhưng mới được ba con thì ông bố hy sinh ngoài mặt trận, đã hoàn thành nhiệm vụ trước Tổ quốc và nhân dân, nhưng không hoàn thành nhiệm vụ đã hứa với bà xã.

Bà Tường cơi ra sân mấy mét vuông, ngay trước cửa gian phòng chật chội của mình cho chị Liên và hai cháu ở. Nóng bức ngột ngạt. Vạn sự khởi đầu nan. Còn hơn ở làng vào hợp tác xã nông nghiệp có mà chết đói sớm?

Trong sân nhà số 10 ngày ngày vang lên tiếng cưa tiếng bào. Hai vợ chồng Tường và bà Liên cùng làm hoặc bà Liên đóng vai điếu đóm bưng bê phụ cho vợ chồng cô em.

Thỉnh thoảng hứng chí tường Toét cất cao giọng hát mấy bài hát Trung Quốc mà Tường học được từ các cố vấn quân sự nước bạn trực tiếp huấn luyện cho bộ đội ta trước chiến dịch Điện Biên Phủ. Tường hát "Đông Phương Hồng" - bài hát ca ngợi Chủ tịch Mao Trạch Đông, giọng khê đặc mùi thuốc lào nhưng nghe vẫn hay hơn là không có ai hát. Tường rất tự hào về mấy bài hát ngoại quốc này, hát say sưa, hết bài này sang bài khác, tất nhiên tổng số chỉ có ba bài nên hết bài thứ ba thì Tường lại quay về bài thứ nhất. Khán giả nhiệt tình là vài con mèo nằm phơi nắng trên mái nhà và vài ba đứa trẻ con chả có trò gì mà chơi.

Nhờ có Tường mà tôi biết chút ít về nghề làm thước kẻ gỗ cho học sinh. Gỗ mềm, nhẹ, được xẻ ra dài khoảng 25 phân, phơi cho khô, nhưng không phơi dưới nắng trực tiếp, mà được che bằng một tấm cót hay chiếu cũ để nó khô từ từ, không cong vênh. Đó là lý thuyết chứ trên thực tế tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cái thước kẻ nào do Tường Toét sản xuất ra mà thẳng cả. Chỉ tương đối thẳng, tương đối không vặn vỏ đỗ. Xin thưa với các nhà nghiên cứu về giáo dục, nếu các vị có công trình nghiên cứu khoa học ăn tiền Nhà nước về việc vì sao cả một thế hệ người Việt chúng ta viết chữ không ngay hàng thẳng lối thì tôi xin có ý kiến là do chúng tôi đã dùng thước kẻ của Tường Toét sản xuất.

Ngoài thước kẻ cho học sinh, Tường toét còn làm thước thợ may. Đây là loại thước dẹt dài từ 50 phân đến một mét, làm từ gỗ tốt, nặng chình chịch. Tường toét dùng một cái khoan vê tay, khoan những lỗ nhỏ gần nhau, tạo ra các vạch đều cách nhau một nửa phân, Tường lấy dây đồng cắm vào các lỗ, cắt sát đầu rồi mài nhẵn, đánh véc ni, để khô rồi chở đi giao cho người buôn chuyến.

Tường ngồi giữa sân, thay đổi chỗ ngồi lựa theo bóng nắng. Hai chân dạng ra, hai tay đều đặn đẩy cái bào, thỉnh thoảng nhấc cái thước kẻ lên, nheo nheo cặp mắt toét kiểm tra xem cái thước đã vuông chưa, đều chưa.

Tôi xin phổ biến một kinh nghiệm quý báu cho các quý ông mắc phải chứng bệnh yếu kém về sinh lý. Đó là nên làm những động tác giống như Tường Toét vẫn ngồi bào hàng ngày: hai chân dạng ra, đều đặn đẩy cái bào về phía trước mỗi ngày cả ngàn lần. Đảm bảo chắc chắn sẽ có kết quả.

Vì sao tôi dám nói chắc như thế? Là vì một ngày nọ, tôi thấy bà Tường bỏ làm, nằm khóc một mình trong buồng. Khóc chán, bà Tường thu dọn quần áo, kéo bà Liên ra bến xe, mua vé cho hai chị em về quê. Mấy hôm sau bà Tường mò lên Hà Nội, về lại nhà số 10, không nói một lời, chỉ có hai con mắt vẫn còn đỏ hoe.

Tám tháng sau bà Liên mới lên Hà Nội, bế theo một đứa con gái mới sinh.

Đó là con của Tường toét.

Cả xóm xì xào xì xầm. Tôi còn bé những cũng đã hiểu là ông Tường ngủ với bà Liên đẻ ra một đứa con. Nhằm ngăn chặn tôi khỏi sa vào những dòng tư tưởng không lành mạnh, cha tôi gọi tôi đến ngồi cạnh, hỏi:

- Theo con thì ông Tường thuộc thành phần giai cấp nào, nông dân hay công nhân?

Tôi chưa được học một khoá chính trị nào, học sinh lớp 7, cuối cấp hai hình như chưa học chính trị. Song vì tính ham đọc sách, tôi đọc tuốt cả những cuốn của Ăng ghen, Lê nin... mà cha tôi để trên giá sách. Tôi đã lõm bõm hiểu thế nào là giai cấp.

Tôi thưa:

- Ông Tường vẫn là nông dân theo nguồn gốc và quá trình giáo dục, hiện nay ông ta làm thợ nhưng không thể nói ông ta thuộc giai cấp công nhân mà chỉ có thể nói là đang tiến đến thành phần dân nghèo thành thị trong thời kỳ quá độ tiến lên Chủ nghĩa Xã hội.

Cha tôi gật gù, không tỏ ra là tán đồng hay phản đối. Điều chủ yếu là ông muốn tôi không quan tâm đến việc đàn ông đàn bà làm gì để có con.

Về điểm này, hình như cha tôi đã sai lầm trong phương pháp giáo dục.

Đàn ông đánh vợ

Thời gian gần đây chúng ta ít thấy đàn ông đánh vợ. Có thể hiểu đó là nhờ đàn ông Việt nam văn minh tiến bộ hơn, mà cũng có thể cắt nghĩa là các bà vợ Việt nam ngày nay bớt hư đi nhiều, không đáng bị đánh đòn nữa. Bạn đọc đừng vin vào việc Quốc hội đã thông qua Luật phòng chống bạo lực gia đình có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2008 mà giải thích hiện tượng trên nhé, tôi xin nói là ở ta luật pháp nhiều khi mang tính định hướng, đôi khi chỉ mang tính tham khảo. Cảnh sát giao thông đứng đầy đường mà anh chị em ta vẫn luôn vi phạm Luật Giao thông đường bộ đấy thôi?

Ở nhà số 10 hồi đó, việc đánh vợ được cho là công việc nội bộ của mỗi gia đình. Nó trở nên không còn là nội bộ chỉ khi bà A đang ghét bà B mà bà B bị chồng bình bịch vào người thì bà A rất chi là mãn nguyện. Đương nhiên, sang ngày hôm sau, hai bà hoàn toàn có thể thay đổi vai trò vị trí cho nhau, bà B sẽ khoái chí khi nghe thấy bà A được chồng viện trợ không hoàn lại mấy cái tát nổ đom đóm mắt.

Nói thế không có nghĩa là tất cả đàn ông trong nhà số 10 đều đánh vợ. Trước hết phải bỏ ra ngoài những thằng chưa vợ, không có vợ, lấy đâu ra mà đánh? Kế đến là cụ Khánh vì bà Cả già quá rồi, cụ Khánh lại có võ, nhỡ tay đánh chết bà Cả thì chắc chắn sẽ phải đi tàu suốt không phải ba năm mà đến tận ba mươi năm. Tiếp theo nữa là cha tôi và ông Tường toét. Cha mẹ tôi bình thường nói với nhau bằng tiếng Việt, khi một trong hai người có điều gì không vừa ý thì nói ra bằng tiếng Pháp, chỉ hai người hiểu với nhau, các thành viên trong gia đình mù tịt.

Còn vì sao mà ông Tường Toét không đánh vợ (tôi chưa trông thấy ông ấy đánh vợ bao giờ, biết đâu tối ngủ ông ấy có cấu chí hay véo bà vợ thì tôi hoàn toàn không nắm chắc) có lẽ là nhờ mấy năm trong quân ngũ ông ấy được giáo dục không được đánh vợ, mà cũng có thể là cấp trên chỉ dạy đánh giặc chứ không ai dạy đánh vợ.

Các vị chồng khác đều đánh vợ tuốt. Phong cách và phương pháp đánh vợ rất phong phú và ở những đẳng cấp rất khác nhau.

Đức xồm tuy là con trai trưởng nhưng dưới chế độ trọng nữ khinh nam của bà Cả (chuyện vì sao bà Cả trọng nữ khinh nam tôi xin kể sau), Đức xồm chỉ được phân có cái buồng 8 mét vuông trước đây là buồng vệ sinh nay do nước máy không chảy lên sa-ta-nô được nữa nên buồng vệ sinh trở nên thất nghiệp. Đức sửa sang cái buồng nhỏ ấy thành tổ ấm của mình, tất nhiên có cơi nới lấn ra sân thêm mấy mét vuông nữa để làm bếp. Đức có kiểu đánh vợ rất hay, dùng roi đàng hoàng, nhưng không đánh vào mông hay vào lưng mà chỉ đánh vào hai bàn chân. Có lẽ hắn khôn, nếu đánh vợ vào mông thì vài hôm sau mông vợ vẫn còn sưng, vợ khó lòng mà nằm ngửa?

Đức ngồi chấn ngay cửa ra vào, dùng roi quất vào chân vợ. Cô vợ mắt đỏ ngầu, ngồi bệt xuống đất, lu loa khóc. Hễ vợ tru lên một tiếng là Đức xồm quất cho một roi, miệng rít lên: "Mày có câm mồm không? Mày muốn kêu to cho công an vào bắt tao đi tù để mày thoải mái đi với giai hử?"

Tôi chưa bao giờ tìm hiểu vì lý do gì mà Đức xồm đánh vợ. Thiếu quái gì lý do, khi người ta nghĩ mình có quyền đối xử với vợ như đối với con ở? Bực bội ở đâu đó, về nhà dồn lên đầu vợ. Món tiền đáng lẽ phải đưa cho vợ đi chợ mà mình trót thua lô đề, vợ cằn nhằn cáu kỉnh, thì tao đánh cho mày một trận! Vân vân và vân vân.

Hùng què có kiểu đánh vợ khác hẳn. Hắn què, không thể rượt đuổi theo vợ nên lựa thế vật vợ ngã xuống giường, khoá tay vợ lại, ngồi chễm chệ lên lưng vợ rồi cứ thế mà đấm bịch bịch. Đấm vào lườn. Vừa đau vừa không có dấu vết, hôm sau vợ vẫn đi làm vô tư.

Đánh vợ kiểu này nếu vợ không kêu khóc thì chả có ai biết là nhà kia chồng đánh vợ, có khi lại tưởng là hai anh chị đang đú đởn với nhau cũng nên.

Tài Dậu là người có khuôn mặt khó ưa nhất trong toàn nhà số 10. Khuôn mặt đó mang hình lưỡi cày, vừa xấc xược vừa khinh người. Trong kháng chiến chống Pháp, Tài Dậu đi lính ngụy, loại lính "a lô", ngồi trên xe jeep, chõ mồm vào cái mi crô leo lẻo tuyên truyền vận động thanh niên trai tráng đi lính Bảo Đại. Do không phải là lính chiến nên Tài Dậu được coi là không có nợ máu, không bị dân phố lườm nguýt như đối với một kẻ thù của dân tộc.

Tài Dậu người gầy, tóc luôn cắt gọn, áo sơ mi trắng cổ cồn nhét trong quần, mùa đông đi giày mùa hè đi dép. Sáng sáng dắt xe ra cổng đi làm, chiều chiều dắt xe về, mặt vác lên, không thèm nhìn ai, còn nói gì đến chuyện chào hỏi.

Đặc điểm nổi bật của tài Dậu là sạch sẽ. Về đến nhà, mưa hay nắng, nóng hay lạnh, việc đầu tiên là hắn lau xe, cái xe đạp hay cái xe máy mobylette luôn sáng bóng, không vương một hạt bụi. Lau xe xong, hắn lau nhà, nhà cũng bóng lộn như phòng lễ tân trong khách sạn.

Tài Dậu hầu như không chuyện trò với ai, không bao giờ đi họp tổ dân phố, toàn đùn cho vợ là Minh Dậu đi thay. Mụ vợ loe xoe ngồi tán phét, phủi đít ra về là chả còn nhớ hôm nay họp về vấn đề gì. Về việc bầu Quốc hội hay Hội đồng Nhân dân mụ cũng không thèm nhớ, bảo đến lúc đi bỏ phiếu, hỏi ông tổ trưởng dân phố là cần phải gạch tên ai cũng không muộn. Làm vệ sinh chung trong xóm, Tài Dậu cũng không thèm lộ diện, xua vợ và con gái lớn ra làm. Nhưng hắn kô bao giờ to tiếng với ai, không cãi vã, không chửi nhau, mặc dù hễ nhìn thấy cái bản mặt khinh khỉnh của hắn, ai cũng muốn chửi.

Thỉnh thoảng Tài Dậu cũng đánh vợ. Đánh nội bộ, theo kiểu "đóng cửa bảo nhau". Minh Dậu thuộc loại lắm mồm, gào khóc ầm ĩ. Tài Dậu thì ngược lại, thuộc loại kín tiếng, chỉ đánh chứ không chửi.

Một lần nọ, Tài Dậu đang "bôm bốp" vợ thì Minh Dậu chạy thoát, nhảy tót sang buồng nhà tôi, co chân leo lên giường trốn. Lúc đó cả nhà tôi đang ngồi uống nước, trò chuyện sau bữa ăn tối. Tài Dậu chạy đuổi theo vợ, đến cửa phòng nhà tôi thì khựng lại, cúi mình chào theo đúng phép lịch sự Tây phương, miệng nói rất rành rọt:

- Xin phép các ông các bà cho tôi vào tôi đánh vợ tôi!

Không chờ được chấp thuận lời đề nghị, Tài Dậu lao vào nhà với một tốc độ kinh nguời, tóm tóc vợ, lôi về buồng nhà mình đánh tiếp.

Trên đây tôi chỉ xin đơn cử ba kiểu đánh vợ, tôi sợ nếu kể hết các trường hợp đánh vợ khác nữa thì sẽ làm mất thì giờ vàng ngọc của người đọc. Tôi chỉ nói thêm là theo quan sát của tôi, những nhà nào mà chồng hay đánh vợ thì đó ắt đấy là những nhà đông con, chí ít cũng phải bốn đứa.

Thời đó đánh vợ xong là xong, một hai hôm sau sẽ là vãn hồi hoà bình, sẽ là "đền bù chiến tranh", là... vỡ kế hoạch!

Thời nay vợ chồng ít đánh nhau. Giận thì mỗi anh trốn vào một buồng. Mỗi anh một cái TiVi, mỗi anh một cái máy vi tính, nối mạng chát với bạn bè năm châu bốn biển hoặc lên blog đăng những bài thơ tình cực kỳ lâm li bi đát, làm râm ran người đọc.

Vì thế cho nên thời nay người ta ít sinh con.

11. Xem TV

Bây giờ nhà ai cũng có ít nhất một cái Ti Vi, người khá hơn một chút thì 2-3 cái. Có nhà mỗi phòng một cái, tiện đâu xem đó hoặc ai muốn thì bật kênh mà mình ưa thích, đỡ phải tranh nhau Ti Vi. Nhiều khi vì tranh chấp nhau bật chương trình nào mà ối nhà xảy ra mất đoàn kết nội bộ.

Thằng bé mẫu giáo thì xem phim hoạt hình, ông bố xem VTV2 đang phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật hoặc xem bóng đá trên VTV3, bà mẹ xem phim Hàn Quốc, phim nào cũng xoay quanh mối tình tay ba tay tư, diễn viên mắt xanh mỏ nâu, khóc lóc sướt mướt, loại phim mà cỡ như nhà văn Nguyễn Quang Lập thì có thể viết song song một lúc năm cái kịch bản. Bà già thì khoái xem cải lương - một loại hình nghệ thuật rất nhân bản, nhân vật chính bị bắn trúng giữa ngực mà vẫn còn hát được thêm năm phút nữa rồi mới chịu ngã gục xuống hy sinh. Tay diễn viên nào khôn thì ngã vào chỗ có quạt máy thổi từ trong cánh gà ra, chứ nai nịt áo quần mũ mãng cân đai nhiều thế kia mà nằm phải chỗ không có quạt thì đúng là làm nghệ thuật sân khấu không khác gì người công nhân đang khai thác than hầm lò.

Duy nhất trong cả dãy phố chỉ có nhà tôi có cái Ti Vi 20" đen trắng tôi mang từ Liên xô về. Nguyên giá cái Ti Vi này là 500 rúp, sinh viên ta dẫu có chịu khó tiết kiệm suốt năm sáu năm du học cũng khó đạt tới con số đó.

Học lên năm thứ ba, tôi nẩy ý định lắp Ti Vi. Ý định đó xuất hiện là do cả một ký túc xá mấy trăm sinh viên các nước mà chỉ có một cái Ti Vi để ở phòng chung, cho vào thùng khoá lại, bà thường trực giữ chìa khoá. Hôm nào có trận bóng hay hoặc có sự kiện chính trị nào đó gay cấn, muốn xem Ti Vi, bạn phải xé một trang vở, đề số phòng của mình rồi ghim lên ghế, coi như xí chỗ, đến giờ mò đến phòng chung, ngự lên cái ghế đã được chiếm mà xem truyền hình. Khoảng một trăm người mà chỉ có vài ba chục cái ghế, sinh viên chen chúc nhau, cố vươn dài cổ để nhìn vào màn hình bé tí xíu. Ngay giữa mùa đông mà phòng chung nóng hầm hập hơi người, tệ nhất là có anh chàng I van vừa uống rượu, phả vào mũi bạn cái mùi ruợu lậu quyện với mùi thuốc lá rẻ tiền. Chính vì chuyện xí chỗ nói trên mà một số sinh viên Nga gọi mấy anh em Việt nam chúng tôi là bọn xâm lược, một câu nói rất chi là vô chính trị, tổn hại đến tình đoàn kết keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nga. Mấy người này cứ lẽo đẽo đi theo chúng tôi xin lỗi mãi.

Mất mấy tháng tôi rạc cẳng đi khắp hang cùng ngõ hẻm khắp thành phố Kiep tìm mua linh kiện, hầu hết là đồ thứ phẩm. Ví dụ như cái thùng gỗ vỏ Ti Vi, giả sử trong quá trình sản xuất bị trầy sứt đôi chỗ, bộ phận kiểm tra chất lượng sản phẩm sẽ loại ra ngay và nó sẽ được mang ra cửa hàng đồ phế phẩm để bán, rẻ chỉ bằng 20 đến 25% nguyên giá. Đối với tôi, một hai chỗ trầy sát là chấp nhận được, lấy tấm vải hoa phủ lên Ti Vi, thế là chẳng còn ai biết nữa, giống như người có một cái bớt ở cổ thì cố mà mặc áo cao cổ, sẽ chẳng có ai nhìn thấy cái bớt đen xì.

Vì mua đồ thứ phẩm cho rẻ nên tôi buộc phải đo kiểm từng linh kiện, cái nào trị số của nó vẫn nằm trong phạm vi cho phép thì tôi sử dụng, cái nào không đạt thì vứt đi.

Riêng hai cái varistor (điện trở biến đổi trị số theo nhiệt độ) là tôi chịu, không có cách nào tìm mua được. Một lần đang làm bài tập lắp mạch khuyếch đại điện áp trong Phòng Thí nghiệm, tôi đánh bạo hỏi xin ông giáo hướng dẫn hai cái varistor. Nghe tôi đang lắp Ti Vi, ông đi theo tôi về nhà tập thể, tận mắt chứng kiến công trình của tôi đang ngổn ngang trên mặt bàn, cười hề hề, dúi cho tôi một nắm varistor quý báu, lại còn hứa khi nào mày lắp xong, tao cho mượn thiết bị cân chỉnh, đảm bảo chất lượng máy thu hình của mày nét hơn cả loại do nhà máy sản xuất hàng loạt.

Lắp như cách của tôi chỉ hết 180 rup. Nghe đồn có thằng sinh viên lắp được Ti Vi, nhiều nhà dân gần đấy liên hệ thuê tôi lắp, khoán cho tôi là 350 rup một cái. Như vậy họ mua được rẻ hơn ngoài cửa hàng 150 rúp, tôi thì lấy công làm lãi, kiếm được 150 rup hàng tháng, gấp hai lần rưỡi học bổng.

Tôi mang về nước cái Ti Vi đen trắng tôi lắp đầu tiên, lắp cho chính mình, như là vật kỷ niệm. Hồi đó Truyền hình Việt nam còn có tên gọi là Đài Truyền hình Trung ương, phát thử nghiệm tuần ba buổi, mỗi buổi không quá hai giờ.

Ai mà ngờ được căn phòng mười sáu mét vuông của gia đình chúng tôi sẽ biến thành trung tâm nghe nhìn ba lần trong tuần?

Hàng xóm, hàng xóm của hàng xóm, người của những số nhà khác cứ tự nhiên chào bác rồi vào chiếm một chỗ mà ngồi. Ai đến sau, hết chỗ thì chịu khó nhòm qua cửa sổ.

Chương trình thí nghiệm của Đài Truyền hình Trung ương quả không hổ danh là thí nghiệm. Bảng chữ hay thấy nhất là "Đứt phim, xin lỗi các bạn". Cứ vài phút là hình lại đổ nghiêng đổ ngửa. Tôi phải trực chiến ngay cạnh Ti Vi, luôn tay vặn các núm chỉnh đồng bộ.

Trời nóng, đứng cạnh máy thu hình dùng bóng đèn điện tử tổng công suất hơn 200 oát, tôi không thể khoác lên mình bộ vỏ lịch sự, cứ quần đùi áo may ô mà diễn. Mấy cô hàng xóm chả ai quan tâm đến việc này.

Sau đôi ba lần bị ăn cắp dép để ngoài cửa, các người xem truyền hình rút kinh nghiệm xách luôn dép vào nhà, kê xuống đít ngồi hoặc để ngay bên cạnh. Trẻ con ăn cắp dép mang bán cho đồng nát kiếm mấy đồng ăn quà, mà cũng có thể ai đó không chen chân vào nhà tôi được nên nảy ra biện pháp hạn chế người đến xem bằng cách thủ tiêu những đôi dép quý giá của họ. Xin bạn đọc biết cho là thời đó dép cũng phải mua phân phối!

Khoảng sau năm 1975, Sứ quán Liên xô trang bị một máy phát truyền hình loại công suất nhỏ trên kênh 4, phục vụ các nhân viên và gia đình những người trong Sứ quán cũng như số chuyên gia Liên xô sống trong Khách sạn Kim Liên. Để thu được tín hiệu truyền hình trên kênh 4, chấn tử thu của ăng ten phải có chiều dài một mét sáu mươi hai phân. Ăng ten ba chấn tử trông to như cái giường. Hai cha con tôi, tôi và cô con gái đầu, leo lên mái nhà treo cái giường đó lên, thế là nhà tôi thu được cả chương trình của Truyền hình Liên xô. Con gái tôi nghịch và học giỏi hơn con trai, việc leo lên mái nhà đối với nó không có gì là khó khăn.

Từ đó tôi có thêm chức năng phiên dịch tiếng Nga. Và cũng nhờ đó, sau mười năm không dùng tiếng Nga, tôi bắt tay vào công việc phiên dịch một cách dễ dàng trong suốt 15 năm. Các ngôi sao truyền hình ngày nay như Trần Bình Minh, Lại Văn Sâm cũng bắt đầu sự nghiệp bằng cách dịch tin lấy từ đài Hoa Sen - trạm liên lạc vệ tinh, kênh thông tin truyền hình quốc tế duy nhất hồi bấy giờ.

Nói của đáng tội, tín hiệu của đài Truyền hình Nga rất yếu, màn hình luôn có tuyết bay, hình lờ mờ. Gọi là xem bóng đá nhưng hầu như không trông thấy quả bóng, chủ yếu là để biết được diễn biến và kết quả trận đấu. Tính thời sự nóng hổi cao hơn nhiều so với báo đài mãi đến ngày hôm sau mới đưa tin.

Hồi Olempic 80 tổ chức ở Matxcơva ngay sau khi Phạm Tuân bay vào vũ trụ, bà xã tôi tham gia đoàn công tác của Truyền hình Việt nam sang Liên xô để tường thuật hai sự kiện trên. Một vài lần nhìn thấy mẹ trên Ti Vi, con gái tôi vô cùng sung sướng, gọi mẹ ầm ĩ mà không thấy mẹ trả lời.

Giải vô địch bóng đá thế giới năm 82 tại Tây ban nha được Đài Truyền hình Việt nam cố gắng tường thuật lại nhiều trận hay. Nhà đài thì cố gắng, nhưng nhà Đèn thì toàn cắt điện. Hôm đó đang có một cái Ti Vi bán dẫn 14" của khách tôi vừa sửa xong. Tôi quyết định cộng tác với ông Ngoạn ở nhà số 12, ông này lái xe cho thủ trưởng, tối đánh xe về nhà mình cất. Tôi mang Ti Vi ra vỉa hè. Vỉa hè đoạn đường nhà số 10 rất rộng, trẻ con có thể đá bóng được. Gôn là hai cái ống bơ sữa bò. Ông Ngoạn đánh xe com măng ca lên vỉa hè. Tôi nối vào bình điện xe ông Ngoạn, mở Ti Vi cho cả phố xem. Trước đó tôi gọi thằng đầu gấu nhất trong số đầu gấu ở phố tôi đến bảo:

- Chúng mày muốn xem ngon lành thì phải tự giữ lấy trật tự, hễ có chuyện lộn xộn là tao cất Ti Vi đi ngay.

Liên tục nhiều ngày, kể cả ngày mưa, các cuộc trình chiếu Ti Vi của tôi thành công trên mức mỹ mãn, diễn ra hoàn toàn trong trật tự và an toàn. Mấy chú công an trên đồn Công an Phường thấy tập trung đông đúc liền chạy xuống, rồi cũng nhập vào xem luôn cho đến hết trận.

Để kết thúc mẩu chuyện này, tôi xin kể câu chuyện về cô con gái thứ hai, một chuyên gia biến báo trong mọi trường hợp. Ở trên tôi đã nói là tôi và bà xã phải thay phiên nhau "dịch Ti Vi" cho mọi người nghe. Một hôm cả hai chúng tôi đều bận, tôi đi sửa Ti Vi kiếm tiền còn bà xã đi trực.

Về nhà lúc gần 10 giờ tối, tôi thấy cô con gái ba tuổi của mình đang dịch phim cho mọi người nghe.

Trên màn ảnh có một người đàn ông gõ cửa. Con bé nói: "Em ơi, anh có vào nhà em được không?"

Cô gái mở cửa, chàng trai bước vào phòng, thông báo về việc ngày mai chi đoàn sẽ tổ chức liên hoan văn nghệ ở câu lạc bộ nhà máy. Con gái tôi dịch:

- Từ lâu anh đã yêu em, em có biết không?

Nghe tin sẽ có văn nghệ, cô gái vui mừng reo lên. Con gái tôi dịch:

- Em cũng yêu anh lắm, ôi em vui quá!

...

Nó cứ thế mà bịa, mấy chục ông bà già và trẻ con thì há hốc mồm ra mà nghe!

(12) - Đám cưới chị Thuần

Thời gian ông Khánh đi tù, bà Cả một mình nuôi năm người con. Hai chị đầu đã vào tuổi lao động, còn ba người em, trong đó hai người em trai là Đức và Tuấn thì toàn lêu lổng, không làm gì ra tiền.

Lúc nào tôi cũng thấy bà Cả và hai cô con gái ngồi đan len. Bà Cả ngồi giữa, làm như là đang cầm chịch, đang chỉ đạo công cuộc đan len vô cùng trọng đại. Do lao động chính là hai cô con gái nên hai chị này được chăm chút nhiều hơn, trong nhà bà Cả mặc nhiên hình thành chế độ trọng nữ khinh nam.

Mặt bà Cả khó đăm đăm. Chị Thuần hai mươi hai tuổi, chị Ngoạn mười chín. Hai chị ngồi hai bên mẹ, cả ba người lặng lẽ đan. Thỉnh thoảng bà Cả ngưng tay len, cầm cái quạt nan phe phảy vài cái rồi cắm cúi làm việc tiếp.

Đó là tôi quan sát thấy như vậy. Năm đó tôi mới mười lăm tuổi, có nhiều thứ thằng bé mười lăm chưa thể nhìn nhận hết. Vả lại, tôi rất chăm học, ít khi la cà nhà nọ nhà kia nên cái sự quan sát của tôi chắc chắn là không đầy đủ.

Cái đức chăm học tôi có được là nhờ bốn năm sống và học cấp một ở Nghệ an. Người Nghệ an rất chăm học, nếu có người bắt họ lựa chọn giữa bữa ăn no và bài học mới, họ có thể chọn bài học rồi ngồi học với cái bụng lép kẹp. Anh Thảo lên xe ra Hà Nội nhập trường Trung cấp Bưu điện với duy nhất một lon ngô rang giành cho cả ngày, xe dừng ở đâu thì vào nhà dân xin nước giếng uống.

Buổi tối tôi ít đi chơi, ngồi nhà học. Tôi làm hết các bài tập có trong sách giáo khoa, làm bài xong thì vớ đống sách báo của cha đọc ngấu nghiến. Nhiều đề tài tôi không hiểu rõ lắm song tôi vẫn đọc. Tôi đã đọc cả Chống During của F. Engels: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế".

Tôi không hiểu mô tê gì. Cả nhà số 10 không có ai theo tôn giáo nào. Không ai theo đạo Phật, chẳng ai theo Thiên chúa giáo. Bà ngoại tôi từ nhỏ đã là phật tử, nay không có điều kiện thắp hương, tụng kinh, chỉ khi hàng xóm chồng đánh vợ, anh chị em chửi bới nhau hoặc máy bay Mỹ gào rú trên bầu trời Hà nội thì bà mới khe khẽ niệm: "Nam Mô A di đà Phật!"

Thứ tôn giáo duy nhất của cư dân nhà số 10 là Tiền. Họ kiếm tiền để sống qua ngày, để sống khá hơn, sống khá hơn để kiếm tiền nhiều hơn. Cứ thế đời này qua kiếp khác. Mọi khái niệm về tư tưởng, lý tưởng, đạo đức hoàn toàn xa lạ đối với họ.

Tôi được giáo dục "giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong". Tôi tìm trong cả nhà số 10 được có ba người công nhân. Trông ai cũng lam lũ, thiếu học, luôn luôn cáu bẳn và ích kỷ. Tôi băn khoăn: giai cấp công nhân như thế thì làm sao mà tiên phong?

Bà Cả và hai cô con gái không thuộc giai cấp công nhân, họ đan len thuê cho Mậu dịch. Chị Thuần và chị Ngoạn khá xinh xắn, thân hình nở nang khoẻ mạnh. Cả hai có nụ cười rất tươi.

Thấy bà Cả kèm chặt hai cô con gái như kèm kem, tôi nghĩ bà này khó tính muốn hai con không bị hư hỏng, không bị những cám dỗ nhất thời làm hại đời con gái. Tôi thoáng hiểu ra đôi chút khi nghe có người nói bà Cả dùng hai cô con gái xinh đẹp làm mồi kiếm sống.

Bất cứ anh nào, ông nào muốn tìm hiểu Thuần hoặc Ngoạn đều phải đến nhà, ngồi chơi nói chuyện ngay trước mặt bà Cả. Hai mẹ con vừa đan len vừa tiếp khách. Trông thật gia giáo, thuần phong mỹ tục.

Việc rủ một trong hai cô đi xem phim là cực kỳ khó khăn. Anh nào chịu khó lui tới, quà cáp một thời gian dài thì bà Cả mới coi như là đã quen thân, cho phép cô con gái rượu dời gót ngọc đi xem phim với anh ta, với điều kiện là hết phim phải về nhà ngay.

Cái gọi là "quà" nói trên đủ nuôi cả nhà. Anh này mang biếu "mẹ" dăm cân gạo, anh kia vài chục trứng gà, anh nọ tiện xe đi công tác biếu cả bao tải khoai, có anh còn biếu tem phiếu...

Kiếm sống bằng sắc đẹp và tuổi trẻ của hai cô con gái, bà Cả trở thành một loại Tú Bà độc đáo. Bà cố gắng kéo dài khoảng thời gian chưa chồng của hai con càng lâu càng tốt.

Tôi ít quan tâm chuyện nhà bà Cả. Thỉnh thoảng tôi sang chơi với Đức nên chứng kiến cảnh các chú các anh đến cưa cẩm hai chị. Nói cho đúng thì họ cưa cẩm bà Cả là chính. Đức bỏ học và bắt đầu học đòi yêu đương. Nó không có ai để thổ lộ, chia sẻ những cảm xúc rạo rực của thằng trai mới lớn. Nó tóm lấy tôi mà kể chuyện. Nó bắt tôi đi bộ cùng nó lên Tràng Thi, lượn qua lượn lại trước nhà "người yêu" của nó vì đi một mình thì nó không dám. Không rõ cô này có yêu nó không, chỉ biết sau này cô ấy là vợ một người bạn khác của tôi, vợ một thời gian thôi, khi anh này đi Nga học đại học thì cô ả phướn đi với người khác.

Đùng một cái, nhà số 10 nhộn nhịp chuẩn bị đám cưới chị Thuần. Thời đó đám cưới thường tổ chức vào mùa Thu, bây giờ mới tháng 6, nóng và ngột ngạt như hun chuột. Thế mà cũng cưới! Nhưng quan trọng gì, ai cưới, cưới lúc nào chả thế, trẻ con chỉ biết là sẽ được ăn kẹo.

Cái sân sau được dọn dẹp sạch sẽ. Đám gỗ xẻ, mùn cưa mụn bào của Tường toét biến đâu mất. Hơn chục cái dây phơi được tháo một đầu, cuộn gọn vắt lên mái nhà để ngày mai sẽ buộc lại như cũ, giây nhà ai nhà ấy dùng, không hề lẫn lộn.

Mấy chục bàn học sinh, những chiếc ghế gỗ dài được kê ra sân. Bàn được phủ bằng nhiều tấm vải hoa khác nhau do đi mượn từ nhiều nguồn rất khác nhau. Trên bàn có bày lọ hoa. Lọ hoa cũng năm cha ba mẹ. Một đĩa kẹo, một đĩa hạt dưa, một đĩa thuốc lá. Hạt dưa thì không ai đếm, bốc ra vài bốc cho lên đĩa chứ kẹo và thuốc lá thì phải kiểm soát chặt chẽ, không được bày thừa, vì bày thừa là người ta cho vào túi mang về ngay.

Bọn trẻ con chúng tôi không thuộc diện khách mời, không được ngồi vào bàn đám cưới. Chúng tôi chạy lăng xăng, thỉnh thoảng rình cơ hội nhón một cái kẹo.

Điều gây ấn tượng nhất đối với tôi là các cô các chị trong nhà số 10 mặc quần trắng áo dài trông ai cũng khác hẳn ngày thường. Tôi chưa xác định ra cái khác biệt đó là gì thì Đức xồm ghé vào tai tôi thì thầm ra vẻ hiểu biết:

- Mày xem tí các bà to chưa?

Ừ đúng, tôi tròn xoe mắt thấy tí ai cũng to hơn hẳn ngày thường. Đức bảo ban thêm:

- Độn cả đấy, mỗi bà nhét một cái khăn mặt vào một bên vú.

Thời đó thiếu ăn, ai cũng gầy gò, mặc áo dài muốn đẹp phải tự tôn tạo một cách thủ công chứ không có nhiều phương án như thời buổi văn minh ngày nay.

Màn cô dâu chú rể xuất hiện là ấn tượng nhất. Tôi chăm chú nhìn chú rể, cô dâu thì ngày nào tôi chả gặp rồi. Chú rể người Nam Bộ, bộ đội tập kết, đang chơi đàn violon cho đoàn Văn công Miền nam (tiền thân của đoàn Văn công Giải phóng rồi đoàn Bông Sen sau này). Anh ta đen, mắt hơi lác, người to đậm, có vẻ ngượng ngập. Tôi cho rằng mọi chú rể lần đầu tiên trong đời đều ngượng nghịu. Ai làm chú rể lần thứ hai hay thứ ba chắc sẽ bớt ngượng.

Chị Thuần mặc áo dài màu xanh dương, tóc phi - dê xoăn tít, chậm rãi bước theo chồng. Trời nóng mà chị khoác một chiếc khăn voan dài quanh cổ, phủ xuống quá bụng. Tôi nghĩ bà này khoe khéo là chồng mình mới đi nước ngoài biểu diễn về, người trong nước kiếm đâu ra cái khăn voan dài và đẹp thế.

Tôi phải thay đổi quan điểm khi nghe Minh Dậu nói với bà Tường toét:

- Con này phải chửa bốn tháng rồi là ít.

Khoảng một tháng sau Đức xồm lại rủ tôi lên Tràng Thi chơi. Lang thang trước cửa nhà người đẹp một lúc, Đức rủ tôi vào chơi nhà chú Thọ. Đức bảo chú Thọ là bạn thân của bố Khánh, thỉnh thoảng chú Thọ cho Đức tiền ăn kem.

Vừa đẩy cửa bước vào nhà chú Thọ, tôi và Đức đứng sững lại. Chú Thọ đang ôm chị Thuần vào lòng, an ủi vỗ về. Trên tay chị Thuần là một tập tiền khá dày.

Chị Thuần lườm Đức và tôi. Hai thằng chuồn nhanh ra phố, im lặng đi về, thằng nào cũng như đã nuốt lưỡi vào bụng mất rồi.

Tôi chỉ gặp chú Thọ mỗi một lần đó thôi. Song tôi không thể nào quên khuôn mặt người đàn ông có dáng ông chủ kia. Mà dẫu tôi có muốn quên cũng không được. Đứa con đầu của chị Thuần giống hệt chú Thọ, ngày nào tôi chả nhìn thấy nó.

(13) - Những trò chơi con trẻ

Vào năm 1962, ngoài chị Thuần với chị Ngoạn nhấp nhổm lấy chồng, đám chúng tôi đều là trẻ con hết. Sau năm 1975 xuất hiện lứa trẻ con mới, con của những đứa mười mấy năm trước vẫn còn là trẻ con. Đám trẻ con thế hệ hai ấy bây giờ cũng đã là bố mẹ hết rồi.

Nhà số 10 có sân rộng, có lối đi rộng và ưu việt nhất là vỉa hè rộng. Tha hồ chơi.

Điều quan trọng nhất đối với trẻ con là được chơi. Trẻ con ngày nay ít có điều kiện chơi, vỉa hè bị lấn chiếm, công viên không an toàn, đường phố ô nhiễm bụi bặm khí thải. Trẻ con rất hiếm khi được sống với thiên nhiên, chúng bị giam lỏng trong căn phòng tiện nghi đầy đủ, chúi mũi vào máy thu hình hay trò chơi điện tử. Bố mẹ lo làm ăn, thuê ô xin chăm sóc trẻ nhỏ, cho ăn uống đầy đủ, thậm chí dư thừa dưỡng chất. Việc học hành thì thuê thầy dạy thêm, mới vào lớp một mà đã phải học thêm, nhiều đứa đeo kính cận, béo như Milo.

Nhà tôi cũng như nhiều nhà, không có quạt điện. Tôi bắt chước người ta, mua cái dinamo xe đạp, lấy ống bơ sữa bò cắt ra làm cánh, quấn một cái biến thế xuống 6 vôn đấu vào dinamo. Mỗi lần "bật quạt" tôi phải xoay mấy lần khởi động cho quạt chạy. Có được một cái "quạt máy" như thế cũng đã là một niềm hạnh phúc lớn lao. Nhiều hôm tôi đi học nhóm, bà ngoại chạy sang gọi về bật quạt vì không có ai ngoài tôi dám khởi động cho quạt chạy.

Người ta lau nhà cho sạch rồi mọi sinh hoạt đều diễn ra trên sàn nhà: ăn, ngủ, chơi, làm bài tập.

Khoảng 5 giờ sáng, bộ đội chạy tập thể, từng trung đội chạy theo nhóm, hô "Rèn luyện thân thể, bảo vệ Tổ quốc!" rầm rầm. Đã lâu lắm rồi, tôi không thấy bộ đội chạy thể dục buổi sáng, không lẽ là họ đã hết cần rèn luyện thân thể, chứ bảo về Tổ quốc thì lúc nào chả cần? Trẻ con chạy theo, bắng nhắng đến tận cuối phố rồi quay về đá bóng.

Quả bóng cao su to hơn quả cam, nhỏ hơn quả bưởi, được chủ động chọc thủng một lỗ phòng khi bị ô tô cán thì không bị nổ, nó chỉ bẹp xuống, sau vài phút lại nở phồng như cũ. Giả sử hồi đó chúng tôi có quả bóng da nghiêm chỉnh thì chắc cũng không được đá trên vỉa hè. Bóng da to và nặng, bay vào cửa sổ nhà ai thì bố mẹ lấy đâu tiền mà đền đống kính vỡ. Phố tôi đào tạo khối lực lượng kế cận cho các đội bóng Thể Công và Công an Hà nội - hai đội bóng nổi tiếng nhất thời bấy giờ.

Vỉa hè là thế giới thần tiên của trẻ con Hà nội. Chơi trên vỉa hè đất là sướng nhất, đánh bi, đánh đáo, chọi quay, nhảy dây, chơi ù, chơi nhảy dây chun, chơi chuyền, chơi ô ăn quan, chơi chun ăn chun v.v. Lúc vắng người còn có thể đánh khăng. Ôi, lắm trò để chơi lắm, nhắc lại mà thấy thèm!

Dân phố thường tổ chức đội bóng đi đá giao lưu với các phố khác. Cũng gian lận, thuê cầu thủ ngoài như ai. Cũng đánh nhau, không chỉ cầu thủ mà cả các cổ động viên, không chỉ cổ động viên nhí mà cả người lớn đi xem cũng xông vào xô xát.

Tôi bắt gôn hay còn gọi là thủ thành. Chú em tôi kém tôi bảy tuổi, lon ton chạy theo các anh ra sân, đứng ngoài cổ vũ, mỗi khi ông anh bắt được một quả đẹp, cu cậu nhảy tưng tưng. Có hôm đá giải ngoài sân Long Biên, thấy có tiền đạo đối phương chơi xấu đạp vào bụng ông anh, thằng bé mới học lớp ba cầm cục gạch chạy luôn vào sân, đuổi theo thủ phạm, miệng chửi như hát hay: "Đ. mẹ mày dám đánh anh tao?"

Khi lũ con trai đá bóng thì bọn con gái chơi chuyền sáu. Cũng có lúc thiếu người đá bóng thì con gái cũng nhảy vào đá hoặc thiếu người chơi chuyền sáu thì con trai được phép vào làm một tay. Bọn nhí hơn đứng ngoài thèm thuồng xem liền anh liền chị chơi. Có đứa vừa chơi vừa trông em, để em bò lồm cồm bên cạnh, muốn gặm cái gì lọt vào tầm tay thì gặm, không loại trừ chiếc dép của chị.

Hầu hết các môn chơi đều có thưởng. Chơi bi ăn bi, đánh đáo thì ăn đồng xèng. Một số đứa chơi ăn tiền, món nào cũng thanh toán bằng tiền, món tá lả thì đương nhiên. Bọn này là dân quái, lớn lên hầu hết thành đầu gấu vào tù ra tội. Đồng xèng là cái nắp chai bia đựơc đặt lên ray xe điện, tàu điện chạy qua, cán phẳng thành đồng xèng. Đồng xèng còn có thể đục 2 lỗ, luồn dây kéo cho nó quay tít.

Các môn chơi tập thể có quy định bên thua cõng bên thắng một vòng hoặc chui đít bên thắng. Búng mũi là phương pháp nhẹ nhàng nhất, tuy vậy xin bạn chớ vội mừng, sau mấy chầu thua, mũi bạn có thể mang hình thức và màu sắc của quả cà chua đấy! Có nhiều trường hợp bên thua không "thanh toán sòng phẳng", thế là chửi nhau, nhiếc móc một hồi để rồi ngày mai lại chơi tiếp.

Món bắn chim bằng súng cao su thì phải đi xa, về tận mạn Quảng Bá hay Cầu Giấy. Thửa được một cái súng cao su vừa ý không phải là dễ. Phải kiếm chạc ổi, vót gọt cho đều hai bên, dây cao su thật tốt. Cái món này dấu trong cặp đi học không khéo mà bị thầy cô phát hiện thì rầy rà to.

Chơi mệt rồi thì chia nhau thành những nhóm nhỏ đập quả bàng lấy nhân ăn. Phố chúng tôi rất nhiều bàng. Quả nó rụng xuống đập không xuể. Với nửa viên gạch trong tay, bạn có thể đập bàng đến chán thì thôi, đập được quả nào, ăn luôn cái nhân bùi bùi thơm thơm của nó, không cần phải chú ý đến những nguyên tắc vệ sinh thực phẩm cầu kỳ. Thằng Tuấn em Đức xồm là tên đập bàng "mể" nhất, hầu như không bị vỡ cái nhân nào. Khác với chúng tôi, nó không chén nhân bàng ngay tại chỗ mà gom vào ống bơ mang về cho mẹ thổi xôi. Không có món xôi nào có thể ngon hơn xôi nhân bàng.

Cây bàng cho ta quả có thể ăn và nhân có thể chén, song nó còn cho rất nhiều sâu róm. Đến mùa lông sâu sâu róm bay, cả phố ai cũng gãi như gảy đàn.

Không ai căm ghét chính quyền thành phố bằng trẻ con. Ý tôi là việc Thành phố luôn luôn lát lại vỉa hè. Mỗi lần lát lại vỉa hè là một lần trẻ con mất chỗ chơi. Không biết có nơi nào trên thế giới này người ta làm vỉa hè như ở Hà nội không, nơi cứ vài năm lại sửa hoặc lát lại vỉa hè một lần.

Mấy người công nhân uể oải san lớp cát vàng mỏng tang, đặt lên đó viên gạch vuông xi măng đúc, vỗ vỗ cho bằng mặt, chít ít vữa, thế là xong. Và thế là chả bao lâu lớp bánh đa kia rộp lên, bong tróc hết. Chưa kể nhà nhà mang củi ra đường chẻ, thanh củi tạ mà dội xuống thì bố vỉa hè nào chịu nổi.

Vỉa hè Hà nội mấy năm lại một lần "thay áo", đó là bằng chứng hiển nhiên về sự ăn bớt trong xây dựng, về nguyên tắc "vẽ ra dự án để ăn tiền" đã trở nên thâm căn cố đế trong đời sống hiện nay.

Đến năm chợ Đồng Xuân cháy lần thứ nhất, người ta sơ tán chợ vào các phố gần đó. Phố chúng tôi biến thành cái chợ với đầy đủ đặc điểm, tính cách và hệ luỵ của nó. Hai dãy ki ốt được dựng lên, người mua kẻ bán từ sáng sớm đến đêm khuya, ồn ào nhức nhối.

Không khí xú uế, rác rưởi tràn ngập, trẻ con không còn chỗ để chơi, chúng thâm nhập cuộc sống chợ búa. Một số được thuê mang vác, trông hàng, giữ xe. Thương nhân làm thị phạm cho trẻ con những kiểu lừa đảo, đánh chửi, xô xát hàng ngày. Trẻ con phố tôi bắt đầu hư hỏng. Nhiều đứa ăn cắp, nghiện hút, bỏ học.

Năm 1985 vợ chồng tôi được phân căn hộ trong Khu tập thể Bách khoa. Năm 1996 cha mẹ tôi bán nhà đưa tiền cho cậu em làm nhà ở chỗ khác, tránh xa môi trường độc hại của khu chợ tạm. Chúng tôi là những người rời bỏ nhà số 10 trước nhất.

Kể về trò chơi trẻ con mà không nhắc đến trò thổi xì đồng là một thiếu sót lớn. Người ta dùng một cái ống, bằng đồng, bằng trúc hay bằng thuỷ tinh, bằng gì cũng được, miễn là ống thẳng, càng dài càng tốt. Lấy những vật gì tròn tròn làm đạn, cho vào đầu ống, nhắm vào mục tiêu, thổi mạnh một cái, viên đạn bay vút đi, có thể hạ đo ván con chim.

Đạn nhẹ là hạt cơm nguội, hạt xoan, đất sét vo tròn. Đạn nặng có thể là viên sỏi, viên gạch mài tròn.

Tôi cũng từng chơi xì đồng, từng bắn được chim. Có mỗi một con chim sẻ mà làm thịt, nướng lên, bốn đứa trẻ con chơi giả bố mẹ con cái tổ chức được thành bữa ăn thịnh soạn!

Hồi đó người ta đang đào hồ để làm Công viên Thống nhất. Đất sét rất nhiều. Tôi lấy đất sét về nghịch, nặn đủ thứ hình thù kỳ dị và chơi pháo tập tang. Có lẽ nhiều thế hệ trẻ con sau này sẽ không bao giờ hình dung ra pháo tập tang là gì.

Sẵn đất sét, tôi vê viên làm đạn bắn xì đồng. Đáng ra phải để "đạn" khô rồi mới sử dụng, tối hôm đó trời xui đất khiến thế nào mà tôi cứ vê được viên đạn nào là thổi luôn lên trần nhà tầng 2 của nhà bên cạnh. Các viên đạn dính hết lên trần nhà người ta.

Không may cho tôi là đó lại trúng vào đêm tân hôn của vợ chồng hàng xóm. Sàn lát gỗ, thỉnh thoảng viên đất sét khô rơi xuống sàn nhà phát ra một tiếng "cạch", cô dâu chú rể bật dậy xem có gì xảy ra. Không phát hiện có kẻ trộm hoặc cái gì đó tương tự, tân lang cùng tân nương leo lên giường ngủ tiếp, hay làm gì tiếp thì có trời mà biết. Lại một tiếng "cạch" khác. Lại choàng dậy...

Ngày hôm sau cha tôi bắt tôi viết kiểm điểm, bản kiểm điểm đầu tiên trong đời.

(14) - Trường ca mất điện

Lâu nay ta quên dần chuyện mất điện.

Cái từ "mất điện" ở Việt nam bây giờ có thêm một nghĩa nữa ngoài nghĩa đen là nghĩa bóng dùng để ám chỉ ai đó chịu thua, hết đường cãi. Nghĩa này chắc chắn những người Việt xa xứ sẽ không hiểu, giống như các từ "lăn tăn", "bắt giò"...

Ở đây tôi xin kể về mất điện theo nghĩa đen.

Tự nhiên như nhiên đèn tắt phụt, TV tối om, riêng cái quạt trần thì cố quay thêm dăm vòng, như thể tiếc nuối một cái gì đó, tần ngần lưu luyến. Nói văn chương ví von thế, chứ thầy giáo vật lý thì biết dùng cái quạt điện làm ví dụ cho bài dạy về quán tính.

Cả nhà bỗng nóng rực. Nhà ai có máy phát điện dự phòng thì bố con ý ới gọi nhau đi khởi động máy nổ. Khói và tiếng ồn được ưu tiên giành cho hàng xóm.

Ở Việt nam, mất điện là một hiện tượng bình thường. Và người Việt có khả năng cam chịu rất tốt. Vừa mới bị cúp điện, bạn có thể thò đầu qua cửa sổ hỏi xem hàng xóm có bị mất không, hàng xóm bảo mất cả dãy, thế là cuộc tán phét liên cửa sổ bắt đầu, giờ này qua giờ khác, rôm rả cười ha hả.

Tôi nói mất điện là chuyện bình thường bởi nó hay xảy ra, chứ nó chả bình thường tẹo nào. Hãy tưởng tượng một cô phát thanh viên xinh đẹp đang cho đầu vào cái nồi cơm điện to đùng trong hiệu làm đầu, bộ tóc đang trên tiến trình đến chỗ xoăn xoăn theo dự định, thì... xèo, mất điện. Nếu cô phát thanh viên đó là người vui tính, cô ấy hoàn toàn có thể biến cái đầu "nửa xoăn" của mình thành một kiểu tóc mới và lăng xê nó trên màn ảnh truyền hình trong cả nước.

Còn cái lò nướng bánh thì sao nhỉ? Cái máy tính của nhà nghiên cứu, cái mẻ luyện kim sắp ra lò v.v. thì ai lo?

Bạn hãy tưởng tượng cảnh rạp chiếu phim bỗng nhiên mất điện, mấy trăm con người mò mẫm chen nhau thoát ra ngoài như thế nào. Và tưởng tượng thêm là có dăm cô gái kêu ré lên: "Thằng mất dạy!". Mấy thằng mất dạy đã không để đôi tay của mình rỗi rãi, tranh thủ túm vào một đôi chỗ trên cơ thể cô gái...

Riêng các người làm trong ngành điên nặng điện thì không sao hết, họ thường hay kéo về nhà một đường ưu tiên (làm nghề nào ăn nghề nấy), ai mất thì mất, nhà họ luôn có điện theo đúng khẩu hiệu của ngành: "Dòng điện không bao giờ mất".

Hồi những năm chiến tranh và sau chiến tranh khoảng mươi lăm năm, cái thời việc có điện là chuyện hiếm hoi (dòng điện không báo giờ mất), nhà anh thợ điện đầu phố tôi lúc nào cũng có điện. Trong bóng tối bao trùm, ánh sáng đèn nhà anh ta giống như một sự trêu tức trường kỳ. Tức trong sự thèm muốn.

Mất điện, không cách nào ngồi nổi trong căn buồng chật chội hầm hập, dân tình đổ ra vỉa hè ngồi. Tuy vỉa hè bốc hơi nóng do mặt trời cung cấp suốt ngày, nó vẫn còn mát hơn trong nhà. Anh nào sang thì mang cái đài bán dẫn chạy pin ra mở nghe tình hình trong nước và thế giới. (Tôi xin mở ngoặc một chút: hồi đó khó kiếm pin tiểu, nhiều người dùng pin đại, lấy dây cao su buộc vào phía sau lưng cái đài bán dẫn. Đài bán dẫn luôn bụng mang dạ chửa, song không bao giờ đẻ). Đa số quần chúng còn lại thì nói chuyện vặt, cũng là nói về tình hình trong nước và thế giới mà thôi, một tay phành phạch cái quạt, tay kia gãi bật máu những đám rôm phân bổ khá đồng đều trên cơ thể. Nói thế có nghĩa là một đôi chỗ kín cũng cần được gãi, chủ nhân của đám rôm không nhất thiết phải giữ ý quá nhiều.

Ngồi một lúc nóng quá, người ta lần lượt chạy vào nhà múc vài xô nước, dội ào một cái cho mát. Những khi như thế, nếu có một cốc nước chanh đường có đá thì thật là tuyệt. Song ta phải biết điều tiết, vì cả tháng mỗi người chỉ được mua có mấy lạng đường, loại đường tuy tên là trắng nhưng hầu hết mang màu nâu thơm thơm mùi mía. Thời gian khổ ấy, ít ai bị bệnh đái tháo đường, thừa mỡ và đạm trong máu như ngày nay.

Gia đình tôi có căn phòng 16 mét vuông, cộng thêm cái vi-ran-đa khoảng 6 mét vuông nữa vị chi là 24 mét vuông mà có tới 9 nhân khẩu. Chúng tôi thưng cái vi-ran-đa lại, biến nó thành "phòng khách", kiêm chức năng phòng khám bệnh để mẹ tôi chữa bệnh ngoài giờ, cụ có nghề châm cứu và chữa trĩ ngoại rất giỏi. Trên vi-ran-đa là gác xép số một, cha mẹ tôi ngủ ở gác xép đó.

Đã nói đến gác xép một thì tất nhiên phải có gác xép số hai. Gác xép hai ở buồng trong, nó chiếm khoảng hai phần ba diện tích căn phòng, là căn cứ địa cách mạng của hai vợ chồng và hai đứa con chúng tôi.

Bà ngoại tôi, chú em và cô em gái con bà dì ngủ ở "tầng một" phòng trong, cùng với một cái xe máy và bốn cái xe đạp, chưa kể những đồ đạc linh tinh khác do sợ mất cắp mà tối nào cũng phải mang vào nhà, ban ngày mới mang ra.

Tôi có người bạn thân làm công nhân ngành cầu đường. Máy bay Mỹ ném bom trúng một nhịp cầu, cấp trên ngành đường sắt ra lệnh cắt bỏ vai cầu (bây giờ ta còn thấy cầu Long Biên mất một đoạn vai). Anh bạn tôi cắt cho tôi một khúc dài gồm bốn thanh cooc-ne áp lưng vào nhau, gỡ đinh ri vê ra, tôi có được bốn dầm gác xép tuyệt hảo. Chạy chọt mua được mấy cái hòm gỗ về gỡ ra làm sàn, mặt dưới của nó bây giờ đóng vai trò trần nhà cho "tầng dưới", tôi sơn một màu xanh nhạt trông khá dịu mắt.

Mùa đông nằm trên gác xép rất ấm. Mùa hè nó lại càng... ấm!

Hồi đó làm việc hai tầm, khoảng 5g rưỡi chiều tôi đi làm về đến nhà. Dựng chân chống xe máy, cởi bỏ bộ quần áo ngoài xong, việc đầu tiên tôi phải làm là lau gác xép. Lau chỗ này thì chỗ khác đã khô cong. Việc lau này nhằm mục đích làm sạch bụi trên gác xép là chính. Việc quan trọng tiếp theo là nhúng nước ướt sũng một cái chăn len dày, trải lên sàn gác xép. Bạn sợ chưa? Nhưng thế chưa ăn thua đâu bạn ơi, tôi còn phải nhúng ướt cả cái màn (mùng chống muỗi), treo nó lên như ta vẫn treo màn khi đi ngủ nữa cơ.

Đến tầm mười giờ rưỡi tối, cả cái chăn len và cái màn đã khô hoàn toàn, như thể chúng chưa từng ướt sũng cách đó mấy giờ. Nhiệt độ trên gác xép hạ xuống gần bằng dưới nhà, đủ để có thể ngủ nếu có sự trợ giúp của hai cái quạt tai voi chạy xành xạch suốt đêm.

Trong khi chờ đợi chăn và màn khô, dù có điện hay mất điện, tôi vẫn phải chở hai đứa con lên Hồ Tây hưởng gió mát, khoảng 10 giờ mới cho chúng nó về đi ngủ. Cũng có hôm Hồ Tây đứng gió, tôi cho xe chạy lòng vòng, đứa con lớn ngồi phía sau, đứa nhỏ đứng phía trước, cùng cái bình xăng xe Babetta, người bạn thân thiết của tôi trong hơn mười năm vác mỏ hàn đi chính chiến với những cái Ti Vi hỏng ở khắp nội ngoại thành Hà nội.

Những hôm mất điện, tôi hầu như suốt đêm gà gật, luôn tay quạt cho con, hễ chẳng may tôi ngủ gật, cái quạt dừng lại thì ngay lập tức, một trong hai cô con gái thương yêu của tôi lên tiếng "e e" ngay.

Bạn có thể tưởng tượng ngày hôm sau làm sao tôi có thể "một người làm việc bằng hai" được?

Tôi không có con số thống kê chính thức, nhưng hình như cái thời mất điện nhiều là cái thời sinh đẻ vô kế hoạch nhất. Tự nhiên nửa đêm mất điện, hai vợ chồng không ngủ được, chả biết làm gì...

Cách đây ít lâu, tôi mất toi con cá rồng dài hơn 60cm, cũng là vì mất điện suốt một buổi sáng, thiết bị sục khí không hoạt động, con cá bị thiếu ôxy, tối về tôi thấy nó ngáp ngáp, ý chừng thông báo cho tôi biết là tôi đang vĩnh biệt số tiền mấy triệu đồng.

Ông điện lực luôn đòi tăng giá điện, kêu rằng giá điện ở Việt Nam chưa bằng giá thế giới (mà sao ở ta chỉ riêng giá cả thì người ta hay cố phấn đấu cho bằng nước ngoài thế nhỉ?) Về mặt này thì ông ấy đúng. Nhưng sản phẩm ông ấy bán ra có chất lượng bằng mặt bằng thế giới chưa? Ở các nước tiên tiến, hợp đồng mua bán điện có quy định rõ nhà cung cấp điện phải đền bù thiệt hại do mất điện gây ra cho người mua điện. Quan hệ ở đây là quan hệ mua bán chứ không phải quan hệ xin cho.

Ở Trung Quốc, giá điện được quy định là luỹ lùi, nghĩa là bạn dùng càng nhiều số điện, giá điện sẽ giảm theo, giống như bán hàng, ai mua nhiều thì được giảm giá. Ở ta, ngược lại, là luỹ tiến. Vì ta chỉ thích tiến, có bao giờ chịu lùi? Kiểu cách mua bán theo cơ chế thị trường, ông Điện lực có biết là phải làm theo thế giới không?

Ngày nay đã ít khi mất điện, thỉnh thoảng mất chút đỉnh cũng có cái hay, thứ nhất là thỉnh thoảng bị mất điện, ta mới biết quý những lúc có điện, giống như thỉnh thoảng cãi nhau với người thân nhất, để rồi biết rằng chả dại mà cãi nhau nữa. Thứ hai là để nhớ lại một thời chúng ta đã sống, học tập, sản xuất và chiến đấu trong hoàn cảnh mất điện thường xuyên như thế nào.

Năm 1985, gia đình nhỏ của chúng tôi dọn về ở căn hộ đầu hồi trong khu tập thể Bách Khoa. Căn hộ 24 mét vuông được chúng tôi tiếp nhận như một toà lâu đài tráng lệ. Cuộc sống được nâng cấp lên một mức vô cùng sung sướng và đáng tự hào !

Anh chàng mất điện vẫn bám theo chúng tôi, làm như quý mến chúng tôi đến mức không thể rời xa.

Tôi và hai con gái ngồi vắt vẻo bên ô cửa sổ. Cửa sổ đầu hồi nhìn ra sân vận động nên gió rất mát. Chương trình văn nghệ quẩn chúng bắt đầu. Ba cha con hát đủ các thể loại bài hát, bài người lớn, bài thiếu nhi, thậm chí cả bài mẫu giáo.

Các bạn có biết chương trình văn nghệ này kết thúc ra sao không? Nó kết thúc bằng một tiếng reo hò đồng loạt của cả khu tập thể mười mấy ngôi nhà cao tầng, tiếng reo hò thật lòng nhất mà tôi từng biết, nó phát ra trên tất cả các cung bậc tình cảm của con người:

- Có điện rooooooồi!

Không có hạnh phúc nào bằng phút giây sáng bừng lên ánh sáng của sự có điện.

Tuy vậy, chưa hẳn có điện đã là hoàn toàn sung sướng. Những đường dây trục dẫn điện hạ thế bị quá tải nặng nề đến mức chúng đỏ lên như than hồng, gặp trời mưa thì dây điện sôi xèo xèo bốc khói, một cảnh tượng độc đáo ngày nay rất khó gặp.

Nguồn điện 110 vôn vào giờ cao điểm tụt xuống còn 30 vôn, có khi nó hứng chí tụt thấp hơn nữa. Suýt vôn tơ (bộ tăng giảm điện) là thứ mà nhà nào cũng phải sắm. Ai ít tiền chỉ mua nổi cái suýt vôn tơ không khoẻ lắm thì chỉ còn cách ngồi chửi cái thằng hàng xóm dùng suýt vôn tơ khoẻ quá, "hút" hết điện về nhà nó.

Dùng suýt vôn tơ rất lắm chuyện bi hài. Nhà nào cũng phải phân công một người nhanh tay nhanh mắt "trực suýt vôn tơ", hễ thấy điện tăng là phải ngay lập tức vặn roẹt roẹt cho kịp giảm điện, không thì ngày mai ông chồng sẽ phải đi mua cả đống bóng đèn điện về thay, bà vợ đi tìm thợ sửa Ti Vi, đài đóm. Mấy tháng lương vĩnh biệt ra đi chỉ vì một cú chậm tay chỉnh suýt von tơ!

Một cậu công nhân ở đơn vị tôi nhờ quấn suýt vôn tơ mang bán mà giàu to. Như các nhà chính trị kinh tế học thường nói, anh ta đã kịp tích luỹ tư bản để đợi đến thời kỳ đổi mới là đủ sức trở nên một đại gia ở Hà nội.

Cả nhà số 10 gần chục hộ gia đình song vẫn lấy điện từ một cái công tơ 5 am pe lắp đặt từ trước năm 1945, treo trong phòng kho của nhà cụ Khánh. Công tơ thường chạy như ngựa tế, đĩa nhôm quay tít thò lò.

Thời gian đầu tiền điện được tính theo số bóng đèn mỗi gia đình thắp, sau các nhà lác đác có thêm quạt điện, bàn là, đèn nê ông, việc tính tiền điện trở nên rắc rối. Đức xồm đòi tính tiền điện cho một đèn nê ông chỉ bằng nửa cho bóng đèn tròn. Tôi hay dùng mỏ hàn điện để sửa Ti Vi, ngại lời ra tiếng vào, tôi lắp riêng một cái công tơ. Từ đó lần lượt các nhà đều lắp công tơ riêng. Cầu chì mỗi nhà đều để ở phòng xép nhà cụ Khánh để chống ăn cắp điện. Chả may nổ cầu chì nhà mình vào lúc Cụ Khánh đi vắng thì hãy chịu khó chấp nhận cảnh mất điện cục bộ cho đến khi bạn có khả năng tiếp cận cái cầu chì nhà mình nằm trên bảng điện to đùng và nhằng nhịt trong buồng xép của cụ Khánh.

Hùng què lắp đài ba bóng chỉ dùng mỏ hàn đốt trên ngọn lửa bếp dầu. Thỉnh thoảng tôi cho anh ta vài cái bóng bán dẫn, Hùng què sướng rơn. Bóng bán dẫn tôi có cả bịch, hồi đi thực tập ở Viện Vật lý Kiev, nhiều hôm tôi lấy cả vốc. Việc này do chính ông Trưởng phòng hướng dẫn thực tập bày cho tôi. Vào trưa ngày cuối tuần, ông Trưởng phòng khẽ nhắc anh nhân viên thí nghiệm cầm một cặp bóng công suất đã được đo kiểm cẩn thận và ghép thành đôi, chạy ra góc khuất ngoài hàng rào của viện, nơi luôn có dăm ba chàng trai trẻ lởn vởn đợi. Cặp bóng công suất được chuyển hoá thành tờ 10 rúp, năm phút sau tờ mười rúp lại được chuyển hoá thành một chai rượu Vodka, một ký giò, bơ, pho mai, bánh mì và dưa chuột muối. Lãnh đạo cùng nhân viên đóng chặt cửa phòng thí nghiệm có treo ngoài cửa tấm biển màu đỏ "Đang làm thí nghiệm tĩnh điện. Cấm vào!" rồi nâng ly chúc ngày nghỉ cuối tuần vui vẻ.

Do mất điện triền miên, tôi lắp một bộ giao động biến điện từ bình điện 12 vôn thành xung điện hàng trăm vôn thắp sáng một bóng đèn nê ông 60 phân. Khi có điện thì tôi nạp ac quy ở nhà, hễ mất điện dài dài thì tôi mang bình điện đến cơ quan nạp, lặng lẽ "cầm nhầm" một ít năng lượng điện của Nhà nước - cách ăn cắp điện ít bị lên án nhất trong rất nhiều kiểu ăn cắp điện thời bấy giờ.

Như đã kể về Phòng thí nghiệm Viện vật lý Kiev, bản chất chế độ bao cấp tạo ra nạn ăn cắp vặt, từ ăn cắp lặt vặt dẫn đến những vụ việc tham nhũng lớn hơn.

Người Hà nội ăn cắp điện bằng nhiều cách. Cách thông thái nhất là chi cho anh công nhân điện lực quản lý khu vực bạn sinh sống một số tiền (bao nhiêu thì tôi không rõ vì tôi không ăn cắp điện), anh này sẽ đấu tắt công tơ điện nhà bạn sao đó để đáng ra công tơ phải chỉ một trăm số điện thì nó lại chỉ là hai mươi số thôi. Bạn dùng điện xả láng, gấp năm nhà bên cạnh mà hàng tháng bạn cũng chỉ phải trả tiền điện ngang bằng với ông bạn tội nghiệp kia.

Cách mang tính trộm cắp thô lỗ nhất là "câu điện". Bạn làm một cái cần câu, ở đầu buộc một đoạn dây thép như cái lưỡi câu, dùng dây điện nối "lưỡi câu" vào mạng điện nhà bạn. Bạn móc cái lưỡi câu kia vào đường dây điện trần chạy qua gần cửa sổ nhà bạn, cứ thế mà dùng điện chùa. Hễ có hiện tượng đáng ngại thì hạ ngay cái cần câu xuống, có trời mà biết!

Còn có một cách rất khoa học kỹ thuật. Đó là khoan một lỗ cực nhỏ trên vỏ công tơ, luồn cái dây đồng qua lỗ nhỏ đó, hãm không cho dĩa nhôm của công tơ quay nữa. Đĩa nhôm không quay thì công tơ ngừng đếm công suất tiêu thụ. Gần đến ngày người của Điện lực đến ghi chỉ số công tơ thì ta rút cái dây đồng ra, công tơ chạy vo vo. Rất đơn giản!

Hồi đó tôi hay đi công tác nước ngoài. Mỗi lần về, tôi mang tặng bạn bè một cái mũi khoan 0,3 ly. Món quà đó quý hơn là một bao ba số, hơn một cái bút bi, hơn hẳn một lạng kẹo mềm mà người ta hay biếu nhau mỗi khi trở về từ nước ngoài.

(15) - Chuyện yêu đương

Ai lớn lên rồi cũng yêu. Kẻ sớm người muộn. Người này yêu nhiều, người kia yêu ít. Có kẻ được yêu và có người yêu hoài không được.

Tình yêu là lãnh hạt mà khái niệm công bằng không có đất dụng võ, nó trở nên vô nghĩa nên chẳng ai quan tâm đấu tranh cho công bằng trong tình yêu.

Khi Đức xồm tấp tểnh yêu đương thì tôi chưa biết gì. Tôi chỉ tò mò, bắt đầu quan tâm đến các bạn gái trong lớp, chứ không hề xao xuyến phải lòng một cô nào cả.

Đức xồm bỏ học đi cưa gái. Nó bảnh trai, cựu con nhà giàu nên quần áo cũng khá hơn nhiều đứa cùng tuổi. Hình như cưa không được em nào, hay cưa được rồi mà bị đá cộng với việc thường xuyên bị mẹ mắng là đồ ăn hại, Đức chán nản, bỏ đi làm nông trường chăn lợn. Nó không cần phải chứng minh đúng là nó đi chăn lợn, vì thỉnh thoảng nó mò về Hà nội, người toả ra một mùi khăm khẳm không đâu có, ngoài chuồng lợn.

Cha tôi là người rất nghiêm khắc trong chuyện giáo dục con cái. Từ khi tôi lên cấp hai, ông không kiểm tra bài vở của tôi nữa, để tôi tự giác học. Nhưng ông rất quan tâm việc tôi vào Đội Thiếu niên Tiền phong, tổ chức cách mạng của các em thiếu nhi.

Muốn được kết nạp đội, chúng tôi phải tham gia nhiều hoạt động thể thao văn nghệ, dạy bình dân học vụ. Tối tối thằng bé lớp năm "đứng lớp" dạy mấy bà trong cùng số nhà đánh vần a bờ cờ. Thù lao không có gì. Một hớp nước cũng không. Tuy nhiên những đợt cha mẹ tôi đi công tác vắng, các bà ấy mua rau, mua trứng hộ và giúp tôi tự nấu cơm ăn.

Cha tôi rất ghét trò xướng ca vô loài, thấy con tham gia văn nghệ thì không hài lòng, nhưng không dám phản đối vì đó là một mặt công tác quan trọng, nếu con không tích cực tham gia sẽ khó được kết nạp vào đội.

Cùng phố Mai Hắc Đế với tôi, bên dãy nhà đối diện có một bạn tên là Hảo, rất xinh gái. Hảo đã biết ra đứng ngoài cổng, khoanh tay trước ngực, ngón tay trỏ chống vào má, các anh đi qua, anh nào cũng phải ngoái lại nhìn. Một buổi tối nọ Hảo sang nhà tôi, hai đứa tập hát để chuẩn bị biểu diễn song ca.

Cha tôi như ngồi trên đống lửa, đi ra đi vào, không làm được việc gì.

Tôi được kết nạp đội xong thì gia đình tôi chuyển về nhà số 10. Cha nói với mẹ là may quá, con mình được cách ly với con bé Hảo lẳng lơ. Cá nhân tôi không quan tâm đến chuyện ở gần hay ở xa Hảo.

Năm học lớp bảy ở trường Thanh Quan B (cùng một địa điểm, một cơ sở vật chất mà người ta đẻ ra hai trường, trường sáng gọi là Thanh Quan A, trường chiều là Thanh Quan B, chả có lý do gì ngoài việc để có hai ban giám hiệu, hai bộ máy), tôi tiếp tục học giỏi, là trường hợp duy nhất đạt điểm giỏi kỳ thi tốt nghiệp cấp hai của cả trường Thanh Quan B, vớt vát chút ít sĩ diện cho Ban Giám hiệu nhà trường vì trường Thanh Quan A có tới ba học sinh đạt điểm giỏi.

Một cô học năm dưới thích làm quen với tôi, lúc tan học hay bắt chuyện, thường là hỏi bài, nhờ tôi "phụ đạo".

Hễ nói đến chuyện học hành là tôi rất nhiệt tình giúp đỡ. Chúng tôi quen nhau được khoảng một tháng thì xảy ra sự cố.

Trang - tên cô bạn gái - muốn ở tôi một điều gì đó. Hồi ấy chưa có điện thoại dây, điện thoại di động thì đúng là nằm mơ cũng không ai tưởng tượng ra. Nếu có điện thoại như ngày nay thì tiện biết mấy? Trang bèn viết mấy chữ vào tờ giấy vở, gấp làm tư mang đến nhà tôi nhờ chú em chuyển giúp.

Ông em thân mến của tôi đang đá bóng say sưa, thấy có người nhờ chuyển bức thư thì nhận ngay, gài vào trong cái áo may ô đang nhét vào quần đùi, tiếp tục chạy theo quả bóng.

Chơi mệt, cu cậu về nhà kềnh cang một giấc cho đến năm giờ chiều, cha đi làm về mà vẫn không hay.

Cha gọi chú em dậy đi tắm, sờ thấy tờ giấy gấp tư trong bụng con, lôi ra xem, mặt lập tức hầm hầm như trời sắp sập. Ông em tội nghiệp của tôi khai là chị Trang gửi cho anh. Nó tắm xong ra đứng đầu ngõ chờ tôi, mặt trắng hơn vôi, vừa sợ cha mắng anh vừa nhận thức đầy đủ lỗi lầm của mình.

Tôi về đến nhà, được cha "mời" ngay ngồi nói chuyện. Ông bắt đầu nhắc về lý tưởng cộng sản, về nhiệm vụ của người thanh niên trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Ông nói tới đâu tôi gật gù đồng ý tới đó.

Bỗng ông gằn giọng:

- Năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Dạ, con mười bốn, sắp mười lăm.

- Tuổi này là tuổi học tập, phấn đấu tu dưỡng hay là tuổi yêu đương?

- Dạ, học tập phấn đấu tu dưỡng ạ.

- Thế à? Thế cái cô Trang là cô nào?

Tôi không hề hay biết gì về lá thư được chuyển qua hòm thư là cái áo may ô của chú em tôi và đã bị thân phụ phát hiện, tự thấy mình không có gì sai phạm, bình tĩnh thưa rằng tôi với Trang chỉ là bạn học, không hề có quan hệ yêu đương gì cả.

- Không yêu đương mà viết thư cho nhau?

- Con không hề viết thư.

- Tôi đang cầm trong tay lá thư của cô Trang gửi cho anh.

Tôi bị bất ngờ nhưng đủ tỉnh táo để phản công:

- Thế là Trang viết cho con chứ không phải chúng con viết cho nhau.

Cha là người rất hay bày cho tôi cách chọn từ ngữ sao cho chính xác, ông đang từ thế dẫn điểm chuyển sang thế cân bằng.

- Nhưng phải quan hệ thế nào nó mới viết thư cho anh chứ?

- Con không biết Trang viết gì, con chỉ biết là con với Trang chỉ là bạn. Tôi trả lời cứng rắn.

Cha tôi dừng cuộc nói chuyện vô cùng cởi mở ở đây. Ông không cho tôi xem nội dung lá thư và mãi mãi tôi không biết trong thư Trang đã viết gì.

Sau này khi con gái tôi học phổ thông, tôi không áp dụng những biện pháp giáo dục lạc hậu mà cha đã từng dùng đối với tôi. Một lần có cậu học sinh đến hỏi con gái, tôi mời vào nhà nói chuyện tử tế. Thằng bé lí nhí:

- Cháu muốn trả bạn Thuỷ cái bút chì.

Anh bạn trai của con gái tôi mò mãi trong túi mới lôi ra được một mẩu bút chì dài khoảng hai phân!

Tôi cẩn thận cất mẩu bút chì, lịch sự tiễn chú chàng ra đến tận cổng.

x

x x

Sự là người em trong cặp hai chị em Tâm và Sự. Sự bằng tuổi em trai tôi, sinh năm Hoà bình lập lại.

Ngày tháng trôi qua, Sự trở thành một cô con gái xinh đẹp. Với cơ thể khoẻ mạnh của người gốc gác nông thôn được ăn uống tốt hơn các bạn ở quê, nước da trắng, cặp mắt xếch có cái vẻ như ngây thơ như vừa thách thức.

Hồi tôi chưa đi học nước ngoài thì Sự còn bé, mày tao chi tớ với em trai tôi. Khi tôi về nước, Sự đã là một cô gái mười tám, tóc xoã quá lưng, biết hò hẹn với bạn trai lên Hồ Tây tâm sự.

Tôi bận nhiều việc, thời chiến có rất nhiều chuyện phải lo toan, chồng sơ tán một nơi, vợ sơ tán một nẻo. Tôi ít biết về Sự.

Sự xin vào làm công nhân ở Nhà máy Điện Cơ, lấy Bình con trai của Bí thư Đảng uỷ Nhà máy. Thời đó Bí thư to hơn Giám đốc. Giám đốc phải vâng lời Bí thư chứ không như thời nay, Giám đốc nắm toàn quyền.

Bình học ở Liên xô, mắc khuyết điểm gì đó bị đuổi về nước. Ông bố thần thế xin cho con đi tàu viễn dương. Mấy tháng một lần, Bình mang Ti Vi, tủ lạnh, xe máy về cho Sự bán lấy tiền tiêu. Cô gái nhà quê, không có cha dạy bảo từ khi mới sinh ra, nay thành bà quý phái, đi chợ không thèm mặc cả, quần áo son phấn đẹp nhất nhà số 10.

Từ xe đạp Mi pha, Sự chuyển lên xe máy Pơ-giô cổ cò. Nếu bạn muốn so sánh, thì bạn có thể coi cái xe Pơ-giô cổ cò hồi đó cũng giá trị ngang bằng như xe du lịch Toyota Camry ngày nay.

Bình lênh đênh trên biển, lênh đênh trên các cô gái điếm ở các cảng mà tàu hắn ghé qua. Sự ở nhà vi vu ăn chơi thỏa sức. Trong những trường hợp như thế, toà án là nơi gặp gỡ cuối cùng của cặp vợ chồng trẻ, để nhận phán quyết cho ly dị.

Quen nếp tiêu xài, nay mất nguồn cung cấp tiền bạc, cô công nhân chuyên quấn động cơ nhanh chóng tìm ra cách kiếm được nhiều tiền và dễ dàng. Đó đơn giản là một sự trao đổi kinh điển, anh đưa tôi Tiền, tôi cho anh Tình.

Và Sự vẫn là người ăn sang mặc đẹp nhất nhà số 10, mặt vênh vênh mỗi khi cưỡi xe máy lao thẳng từ ngoài đường vào trong sân, chui vào "căn phòng" bé có 6 mét vuông mà cô ả cơi nới ra trong tiếng la ó của đám anh chị em nhà Đức xồm.

Người duy nhất mà Sự nể sợ là tôi. Chắc không phải do tôi có vai vế gì trong xã hội, Sự nể tôi theo thói quen hình thành từ bé nơi cô ấy.

Sau ba mươi tuổi, Sự điều chỉnh hoạt động của mình sang hướng cặp bồ với những ông giàu có, không đi linh tinh lang tang như trước kia nữa. Ngày ngày ngồi nhà, chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp, chỉn chu, rất có dáng mệnh phụ phu nhân.

Năm tháng trôi qua, một lần tôi gặp Sự đang ngồi với một chị bạn trong quán cà phê. Tôi lễ phép chuyển sang ngồi cùng bàn với họ, hỏi thăm công việc làm ăn, đời sống của Sự hồi này ra sao. Sự hỏi tôi còn làm Tổng Giám đốc ở chỗ cũ nữa hay chuyển đi chỗ khác rồi. Câu hỏi này, như tôi hiểu, chỉ nhằm loè chị bạn là Sự quen biết toàn hạng cao cấp, bét ra cũng phải là Tổng Giám đốc.

Lúc chia tay, Sự trao cho tôi tấm danh thiếp trên đề "Nguyễn Kim Sự, Phó Giám đốc Công ty TNHH Ngàn xanh".

Đúng rồi, làm cái công việc ngàn xanh thì trách nhiệm hữu hạn thôi.

16. Vô tiếng tàng hình

Tôi hành nghề sửa Ti Vi đến năm 1985 thì ít đi chữa dần rồi bỏ hẳn. Do công việc bận bịu, hay đi công tác xa, tôi gác mỏ hàn, nhường thế giới của những chiếc máy thu vô tiếng tàng hình với những vui buồn khó quên của nó cho lứa thợ đàn em tiếp tục vật lộn.

Đối với dân trong nhà số 10, hễ họ ới một cái là tôi chạy sang ngay, nhí nhoáy một lúc rồi đóng nắp máy, vui vẻ về nhà, không bao giờ lấy một xu tiền công. Tài Dậu là người lịch sự nhất, bao giờ cũng pha chè ngon, để hẳn một bao thuốc lá Tam Đảo lên cái đĩa con, mời "thầy" muốn hút bao nhiêu thì hút, tuỳ thích. Ngược lại, cụ Khánh không bao giờ mời thuốc nước, tỏ ý tôi là con cháu trong nhà, không nên khách khí. Những người khác thì cũng pha chè, bảo con ra đầu phố mua từ hai cho đến năm điếu thuốc bày ra đĩa. Ông bố còn phải chầu rìa bên cạnh, không hẳn là giám sát tôi - người hàng xóm kính mến - xem có tráo đổi linh kiện nào hay không, mà đứng sẵn đó để còn điếu đóm, tôi nhờ làm cái gì thì làm ngay.

Sau năm 1975 giải phóng miền Nam, máy thu hình cũ kìn kìn chạy ra Bắc. Nhiều người vượt biên bán đồ đạc, gom tiền đóng đủ số tiền người ta yêu cầu để mình được thành thuyền nhân. Người khó khăn về kinh tế cũng bán dần đồ trong nhà để duy trì cuộc sống, trong đó có Ti Vi, rồi đận người Hoa năm 1979 ra đi ồ ạt, khu Chợ Trời gần chợ Bến Thành và trên Chợ Lớn đầy ắp Ti Vi cũ các loại. Một lực lượng đông đảo các nhà buôn nghiệp dư vận chuyển Ti Vi cũ ra Bắc, nhiều người tự mang ra để dùng.

Máy thu hình ở phía Nam hoạt động theo hệ chuẩn NTSC trong khi Đài Truyền hình Trung ương ở Hà nội lại phát tín hiệu theo chuẩn của các nước Xã hội Chủ nghĩa. Máy NTSC mang ra Bắc có thể xem được hình, nhưng tiếng thì không. Công chỉnh tiếng lúc đầu là 70 đồng, khi số thợ học được cách chỉnh tiếng tăng dần lên, tiền công hạ xuống còn 50 đồng. Xin lưu ý là lương kỹ sư khởi điểm lúc đó là 63 đồng, muốn ăn được lương này, anh chị kỹ sư mới ra trường phải qua ba năm thực tập hưởng 85% mức khởi điểm, với điểu kiện trong ba năm đó không mắc khuyết điểm nào, được lãnh đạo đánh giá là làm việc tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật v.v.

Bên cạnh những máy thu hình do những người học tập, thực tập hay công tác ở nước ngoài mang về theo đường phi mậu dịch, Bộ Nội thương cũng phân phối hàng ngàn cái Ti Vi do Ba Lan sản xuất. Số Ti Vi có nguồn gốc từ các nước Đông Âu XHCN không được nhiệt đới hoá, rất hay hỏng linh kiện do độ ẩm ở nước ta cao hơn nhiều so với các nước đó. Cái Ti Vi do tôi tự lắp cũng nằm trong tình trạng như thế, tôi phải gắn một cái bóng đèn vào trong Ti Vi để thường xuyên sấy khô máy, khi nào sử dụng Ti Vi thì tắt cái bóng đèn sấy đi.

Nguồn máy thu từ phía Nam ra là đồ cũ, nguồn máy mới từ các nước Đông Âu thì không được nhiệt đới hoá, do đó Ti Vi nào cũng năm ngày ba tật. Cùng với cái xe đạp, chiếc máy thu hình là tài sản chính của nhiều gia đình. Máy hỏng ai cũng nóng ruột tìm thợ để chữa. Càng không thể để con nhỏ phải chạy sang hàng xóm xem nhờ.

Vào thời kỳ một tuần phát sóng thử nghiệm ba buổi tối, mỗi tối khoảng hai giờ, thợ sửa Ti Vi là những vận động viên ma ra tông đích thực.

Đi làm về, lo lau nhà lau cửa cho thật nhanh, ăn vội ăn vàng để kịp đến nhà người ta khoảng 18g30. Mở máy, tháo sa xi, mò tìm bệnh, thay thế linh kiện, chạy thử, lắp máy và đóng nắp hậu, lại chạy thử thêm mươi lăm phút nữa để "bàn giao công trình", tất cả những việc đó phải hoàn thành trong hai giờ đồng hồ. Vào những đêm mùa đông lạnh giá mà trán người thợ vẫn lấm tấm mồ hôi. Nếu làm không xong, vẫn phải đóng máy cẩn thận, lần sau đến lại mở ra. Làm không xong trong một tối, phải đi đi lại lại nhiều lần rất mệt.

Việc sửa Ti Vi nói chung là giống nhau. Điều rất khác nhau là việc lấy tiền công.

Tôi thường ngớ ngẩn tính tiền công rất thấp. Tự nghĩ chỉ trong mấy tiếng đồng hồ mà mình kiếm được bằng cả tháng lương thì thật quá đáng. Những người khác không nghĩ như vậy. Họ nắm chắc tâm lý khách hàng, dân tình luôn cho rằng "tiền nào của nấy", nếu ông thợ đã lấy nhiều tiền thì chắc chắn ông ta đã khắc phục xong một cái bệnh rất trầm trọng. Ông thợ lấy ít tiền thì hoặc là ông ta không có giá hoặc là ông ta đã làm lớt phớt cho xong chuyện.

Vì thế đám đệ tử của tôi giàu lên trông thấy sau vài năm vác mỏ hàn đi lấy tiền thiên hạ, còn tôi thì vẫn chỉ là anh công chức làm thêm cho đủ ăn, đủ tiền nuôi con.

Một lần nọ tôi chữa máy cho hai ông bà già về hưu. Nhà họ nghèo, trong nhà cái gì cũng xấu và rẻ tiền. Tôi nhanh chóng phát hiện một cái tụ điện bị hỏng, thay xong, máy hoạt động ngon lành. Hai ông bà mừng rỡ, hỏi tôi chữa hết bao nhiêu tiền. Tôi cười, ngượng nghịu không nói ra lời. Ông già gợi ý:

- Thế bác có phải thay liên kiện gì không để chúng tôi gửi bác tiền đã mua giúp linh kiện.

Tôi lý nhí:

- Cháu có thay một cái tụ điện.

- Tụ điện giá bao nhiêu?

- Dạ, 5 xu ạ.

Bà già tìm mãi không ra đồng 5 xu, ông già gắt:

- Thì bà gửi cả cho bác ấy một hào luôn.

Tôi cẩn thận nhét tờ một hào vào túi áo ngực, chào ông bà già ra về. Về đến nhà tôi nói với mẹ tôi là hôm nay tôi chỉ lấy của gia chủ có một hào và giải thích vì sao chỉ lấy có bấy nhiêu. Thường kiếm được đồng nào là tôi đưa ngay cho mẹ hoặc bà xã tôi vì chúng tôi phải nuôi bà ngoại già và hai đứa em nhỏ. Hai đứa con tôi thì khỏi nói, chúng là những cái tàu há mồm mà Hải quân Mỹ cũng không có tàu nào sánh nổi.

Mẹ tôi cười hiền hậu:

- Thế là được một phần năm bát phở Mậu dịch? Nhưng con làm thế là phải, để phúc đức lại cho con cháu sau này.

Cái kiểu lấy ít tiền của khách là tôi học được từ mẹ, mẹ chữa bệnh cho người ta mà thường chỉ lấy tiền mang tính chất tượng trưng, người nhà quê ra có khi mẹ còn biếu họ tiền tàu xe để họ về. Sau ngày Giải phóng, tôi về quê, được bà cô kể một chuyện về ông nội rất hay.

Ông cảm thấy yếu lắm rồi, gọi bà nội đến bảo:

- Tôi sắp chết rồi, không thể đợi đến ngày gặp lại các con từ miền Bắc về nữa. Bà cố sống mà đợi chúng nó. Cả đời tôi không xin bà điều gì, nay bà cho tôi xin một chuyện. Bà vào lấy mấy quyển sổ nợ ra đây cho tôi.

Ông tôi gần năm chục năm hành nghề chữa bệnh, ai không có tiền trả thì ông ghi vào sổ nợ. Ông chậm rãi châm lửa đốt từng quyển sổ nợ một, vừa đốt vừa từ tốn giải thích:

- Những người nợ ta mà không trả là vì họ quá nghèo, nếu có tiền thì họ đã trả lâu rồi. Sau khi tôi chết đi, hai mẹ con bà sẽ không dư giả như khi tôi còn sống, bà sẽ đi đòi nợ người ta, người ta không có tiền trả, thế là sẽ xấu mặt cả người mắc nợ lẫn người đòi nợ?

Ông nội tôi quan chức không cao mà đám tang ông ngưòi ta đi đông chưa từng thấy.

x

x x

Nghề nào cũng phải có đôi chút lừa gạt dối trá thì mới có tiền. Máy hỏng nhẹ ta phán là hỏng nặng, máy hỏng nặng thì kêu là không thể nào chữa được, có bán thì chúng tôi mua giúp cho để lấy số linh kiện còn tốt. Vài ba cái Ti Vi hỏng mua với giá vứt đi có thể dồn lại thành một cái Ti Vi chạy ngon, bán được với giá thị trường. Đống linh kiện thừa ra sẽ có khi dùng đến.

Nghề nào cũng có tai nạn nghề nghiệp. Tôi ít gặp tai nạn nhất do tôi không gian dối lừa gạt. Có một tay nghệ sỹ thổi kèn clarinet kiêm chủ hiệu phở trên đường bờ sông, lâu quá tôi quên tên hắn mất rồi, chỉ nhớ khuôn mặt đầy mỡ và đầy cao ngạo của hắn. Tối hôm đó có tường thuật tại chỗ trận đấu bóng đá trên sân vận động Hàng Đẫy, hắn cho con sang mời tôi sửa giúp để kịp xem. Đồng bệnh tương liêu, tôi rất máu xem bóng đá nên thông cảm với những người máu mê như mình, xách xe đi ngay.

Máy Sanyo bốn loa cửa lùa, loại xịn nhất thời đó, bị mất tiếng. Bệnh đơn giản. Một cái điện trở bị đứt. Tôi thay cái mới, rồi khẳng định là phần âm thanh của máy là tốt rồi, đến giờ cứ việc bật lên mà xem. Ông chủ quán phở hỏi tôi hết bao nhiều tiền, những ngón tay múp míp cầm cả nắm tiền dứ dứ trước mặt tôi. Tôi bảo bệnh nhẹ, tôi làm giúp, không đáng bao nhiêu mà phải lấy tiền rồi ra về.

Hết thời sự, bắt đầu tường thuật bóng đá từ sân Hàng Đẫy. Xe truyền hình lưu động là xe của Ba Lan thải ra cho ta, máy móc thiết bị cũ kỹ xập xệ. Chất lượng tín hiệu rất kém, hình còn tàm tạm, tiếng hoàn toàn không có. Mười phút sau khi trận đấu bắt đầu, thằng con trai ông nghệ sỹ bán phở phi xe sang nói là máy nhà cháu chú chữa hồi chiều lúc nãy có tiếng bây giờ lại không có tiếng, bố cháu bảo chú sang kiểm tra lại ngay. Tôi chỉ cho nó xem cái Ti Vi của tôi cũng đang không có tiếng, bảo nó về giải thích cho bố là tín hiệu truyền hình bị hỏng kênh tiếng chứ không phải do máy thu.

Hai mươi phút sau thằng thanh niên ấy lại chạy sang, bảo bố cháu đang cáu ầm ĩ, yêu cầu chú phải sang ngay, nếu không sẽ gọi công an bắt. Đến lượt tôi nổi cáu:

- Về bảo với bố mày là có cáu thì ra đá tung cái cầu Long Biên lên cho đỡ cáu nhé, tao không sang đâu! Hết bóng đá tao sẽ sang.

Hết bóng đá, tôi tắt máy, đi tay không sang nhà hàng phở, không mang theo đồ nghề. Ông chủ quán phở đang ngồi với mấy ông bạn và mấy chai bia Trúc Bạch. Ông khoát tay giới thiệu ông này là Chánh kiểm sát Khu Hoàn Kiếm (thời đó quận gọi là "khu"), ông kia làm trên Sở Công an, ông nọ bên Toà án. Còn tôi thì được phong là phó Giáo sư, Tiến sỹ về Truyền hình. Không thấy ông hàng phở còn cáu kỉnh nữa, vì Ti Vi đang chiếu một bản cải lương, nữ nghệ sỹ đang trình bày một giọng ca rất mùi mẫn.

Có phải ông ta gọi mấy người bạn đến cùng xem bóng đá hay để bắt tôi bỏ tù? Nghệ sỹ phở coi như không có vụ cáu kỉnh dọa dẫm cách đây một giờ, rót bia mời tôi uống. Tôi từ chối, bảo về còn phải sửa mấy cái Ti Vi của khách đang chờ, uống bia vào hoa mắt không sửa được.

Sau này, dù đích thân lão ấy sang mời đi sửa Ti Vi, dù hắn có dúi trước vào túi tôi cả nắm tờ mười đồng đỏ chót tôi cũng không bao giờ đi.

Dân ta rất lạ, mang xe đạp ra vá xăm, vài hôm sau bị đứt giây phanh, không ai mang xe ra bắt đền ông thợ vá xe hôm trước. Ấy thế mà tôi luôn được nghe giọng điệu bắt đền như sau:

- Tháng trước chú chữa cho anh cái Ti Vi hết đổ hình, hôm nay nó lại bị rè tiếng, chú phải xem lại cho anh!

Tôi bảo nếu anh nói tử tế thì tôi chữa cho chứ nói giọng ấy khác gì bảo hôm trước bác sỹ bó bột cho vợ em, hôm nay vợ em đau bụng, em bắt đền bác sỹ!

x

x x

Tôi bảo hành bảo dưỡng máy thu hình cho Đồn Công an Phường, một số cơ quan ở gần nhà. Đồng chí Đồn trưởng là người lịch thiệp và nhã nhặn. Hễ máy hỏng là đồng chí ấy không dám cử lính gọi mà đích thân xuống tìm tôi, khẩn khoản:

- Nhờ anh giúp ngay cho, máy hỏng là lính tôi sẽ đi chơi linh tinh, khó quản lý lắm.

Câu nói của Đồn trưởng làm tôi nhớ đến anh công an khu vực mấy năm trước đã rủ một cô ra bờ đê, dưới gầm cầu Long Biên, không biết anh công an làm gì cô ta mà cô ta gào lên rất to và rất lâu: "Ôi sướng quá!". Đơn vị bộ đội bảo vệ cầu tủa ra, "bắt sống" anh công an giam lại. Anh này bị đuổi ra khỏi ngành, Đồn mất danh hiệu thi đua năm đó.

Đồn trưởng ngồi cạnh khi tôi sửa sửa máy. Một chú công an chạy ra hàng nước gần đó, lấy bao Tam Đảo mang về. Tôi có thể cá với ai tin rằng anh công an này đã trả tiền bao thuốc lá cho mụ hàng nước.

Theo thói quen, tôi hay vứt đồ nghề bừa bãi trên bàn. Đồn trưởng luôn tay sắp xếp kìm cắt, panh kẹp, tuốc nơ vít các loại gọn về một góc bàn. Đồng chí ấy nhỏ giọng giải thích:

- Phải cẩn thận kẻo mất đồ nghề của anh thì ngày mai anh không có đồ mà làm.

Tôi hơi bị bất ngờ trước câu nói đó. Ngay giữa đồn Công an mà có chuyện gì lạ vậy?

Những năm chiến tranh, người ta bị cấm không được nghe radio bằng tai nghe, vì nghe bằng tai nghe ắt là nghe đài địch. Một thời gian sau thì cấm dân dùng máy ghi âm. Chỉ gián điệp mới ghi âm! Tiếp đến giai đoạn cấm dùng đầu máy video. Lý do vì sao cấm thì tôi không rõ, cấm là cấm, cần gì phải giải thích?

Một lần tôi chở cái đầu video của cơ quan mang về nhà sửa. Về gần đến nhà thì bị công an tuýt còi giữ lại, đưa về Đồn giải quyết. Giải thích kiểu gì cũng không được, chờ mấy tiếng đồng hồ cho đến khi Đồn trưởng đến, nhìn thấy tôi liền xin lỗi rồi bắt lính đi kiếm cốc chè sen đá ép tôi uống bằng được rồi mới cho về.

Có lần tôi được một đợn vị quân đội gần Sơn Tây đón lên sửa Ti Vi. Cả tiểu đoàn chỉ có một cái máy thu hình. Sửa xong, tôi được chiêu đãi cháo gà. Gà bộ đội nuôi ăn rất ngon. Tiểu đoàn trưởng đích thân tiếp tôi. Nói chung bộ đội tiếp dân là hết ý, quân với dân như cá với nước mà. Xe đưa tôi trở về Hà nội cùng với lời cảm ơn chân thành khi chia tay của anh trợ lý Tiểu đoàn. Tôi nghĩ bộ đội lấy đâu ra tiền, mình coi như được đi chơi một chuyến thế là thích rồi. Năm ngày sau, vào lúc trời nhá nhem tối, một chiếc U oát đỗ xịch ngay trước cổng nhà số 10, hai chú bộ đội xuống xe, lăn vào nhà tôi phuy xăng 100 lít, nói là Tiểu đoàn biếu anh để chạy xe máy!

Tiêu chuẩn phiếu mua xăng là 6 lít một tháng. Người chạy xe máy thường phải mua xăng ngoài, rất đắt.

Thấy thùng phuy 100 lít xăng, cha tôi sợ quá, nói là công an sẽ bắt tôi về tội có 100 lít xăng trong nhà. Khổ cái thân tôi, phải phóng xe đi gọi bạn bè đến chia nhau cho hết phuy xăng, không thì cả đêm hôm ấy cha tôi không thể nào chợp mắt.

x

x x

Tôi kể khá nhiều về máy thu hình và sửa máy thu hình rồi, bây giờ xin nói thêm chút ít về truyền hình.

Lúc đầu Đài Truyền hình Trung ương chưa có địa điểm, đóng tạm ở 56 Quán Sứ, trụ sở của Đài Phát thanh Tiếng nói Việt nam. Khi được chia đất ở đường La Thành hiện nay, nhà cửa vẫn chưa có gì hết. Ông Trịnh Lý Thản, phó Đài liên hệ xin được một bộ khung thép hồi đó hay gọi là khung chuồng bò Cu ba, về dựng lên, xây tường bao, thế là có cái gọi là Trường quay Truyền hình. Không hề có điều hoà nhiệt độ, phát thanh viên MT nổi tiếng thường ngồi đọc bản tin thời sự với áo vét, cà vạt nghiêm chỉnh, nhưng phía dưới là... quần đùi đang bị một cái quạt máy thổi bay phần phật!

Chưa có máy phát hình cái đồng hồ đang chạy, quân ta sáng kiến dùng camera quay cận cảnh một cái đồng hồ ba kim, khi đồng hồ chạy đúng đến 19g thì đạo diễn hình chuyển sang phát hình hiệu, nhạc hiệu và bắt đầu chương trình thời sự. Có lần tất cả những người xem truyền hình ở Hà nội và khu vực lân cận (hồi đó chưa có phủ sóng toàn quốc như bây giờ) được thấy rõ bàn tay của một cán bộ Đài THVN thò vào gạt cái kim phút nhanh lên chút ít, chả là đồng hồ chạy chậm nên buộc phải chỉnh lại!

Nói đến hình hiệu, có một câu chuyện rất vui. Một bức ảnh mặt trống đồng Đồng Sơn được chọn làm hình hiệu, xoay từ từ bức ảnh đó để quay, ta có được đoạn băng hình hiệu là mặt trống đồng đang xoay. Trông rất đẹp và có ý nghĩa.

Được vài hôm, có người phát hiện là khi trống đồng quay theo chiều kim đồng hồ thì các con chim hạc trên trống đồng toàn bay giật lùi. Đuôi đi trước còn đầu đi sau! Các cụ ta ngày xửa ngày xưa làm trống đồng cho chim bay ngược chiều kim đồng hồ, làm khổ con cháu.

Bàn bạc mãi, cuối cùng đi đến biện pháp lật ngược bức ảnh, nghĩa là tạo bức ảnh mặt trống đồng trên đó các con chim bay theo chiều kim đồng hồ. Tuyệt vời!

Cán bộ, kỹ sư được ăn gạo 13,5 kg một tháng. Bà xã tôi làm ở bộ phận dựng băng, hay phải bưng bê những cuộn băng ăm-pex nặng 14 kg. Đài Truyền hình mời cán bộ Thương nghiệp vào kiểm tra thực tế, họ cấp cho công nhân vận hành 17,5 kg hoặc 21 kg, vợ tôi cũng bê từng ấy băng từng ấy lần trong ngày thì được cấp tiêu chuẩn 15 kg, vì quy định đối với kỹ sư chỉ được cấp tối đa 15 kg!

Người có thân hình nhỏ bé và ăn ít nhất trong gia đình tôi lại được tiêu chuẩn gạo cao nhất.

(17) - Năm tháng chiến tranh

Người Việt chúng ta ai cũng liên quan đến chiến tranh, không cách này thì cách khác, không trực tiếp thì gián tiếp.

Chiến tranh thế giới thứ hai. Những người nông dân Việt nam bị lùa lên tàu thuỷ, đi chiến đấu cho nước Pháp chống lại Chủ nghĩa Phát xít Đức.

Phát xít Nhật chiếm Đông dương, hất cẳng Pháp.

Phe Phát xít thua. Cách mạng Tháng Tám thành công, Việt nam giành độc lập dân tộc trong một thời gian ngắn rồi buộc phải tiến hành kháng chiến chống Pháp kéo dài chín năm. Hoà bình lập lại năm 1954. Đất nước bị chia làm hai miền. Cuộc chiến vẫn âm ỉ, máu của người Việt nam vẫn chảy khi ở phía nam Ngô Đình Diệm diệt cộng sản, ngoài Bắc tiến hành cải cách ruộng đất với những sai lầm đau đớn. Máu lại chảy nhiều hơn nữa trong cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Rồi chiến tranh ở Căm pu chia, chiến tranh biên giới phía Bắc.

Theo tôi, chiến tranh ở Việt nam kéo dài suốt bốn mươi năm từ năm 1941 đến 1980, việc chia lẻ ra thành các cuộc chiến khác nhau chỉ là để phân biệt đối tượng của chiến tranh, mục đích của nó vẫn là giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.

Nhiều thế hệ người Việt đi qua mấy cuộc chiến. Nhiều lớp người đã ngã xuống. Buộc phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân ngay trên đất nước mình, khái niệm "chiến trường" ở Việt nam không còn giới hạn là nơi quân đội triển khai những hoạt động quân sự mà được nới rộng ra và mang nhiều ý nghĩa. Người này đang đi B - chiến trường miền Nam (chiến trường B còn được chia nhỏ ra thành B1, B2...), người kia từ chiến trường C - chiến trường Căm pu chia về an dưỡng, người nọ chuẩn bị đi chiến trường A - Lào. Người ở hậu phương thì giống như câu khẩu hiệu: "Công nhân là chiến sỹ, nhà máy cũng là chiến luỹ".

Từ khi Đế quốc Mỹ tạo ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 5 tháng 8 năm 1965, chiến tranh lan ra khắp miền Bắc.

Đối với cư dân nhà số 10, chiến tranh trực tiếp đến từ trên trời và đến từ mọi ngõ ngách cuộc sống. Những chiếc máy bay chiến đấu phản lực Thần sấm, Con ma gầm rú trên bầu trời Hà nội, thả bom, phóng tên lửa, pháo đài bay B52 rải thảm dọc đường Khâm Thiên.

Người Hà nội sống với tiếng thông báo qua loa phóng thanh: "Máy bay địch cách thành phố Hà nội tám mươi ki lô mét về phía Đông Nam, các lực lượng vũ trang sẵn sàng chiến đấu, đồng bào tìm nơi ẩn nấp, xuống hầm trú ẩn" đi kèm với tiếng còi báo động gắn trên nóc Nhà Hát lớn rú lên liên hồi.

Cũng có lúc không hề có thông báo phòng không, chỉ nghe thấy tiếng súng cao xạ và tiếng máy bay phản lực xé rách bầu trời. Một lát sau, loa phóng thanh vang lên giọng của cô phát thanh viên nay đã trở nên quen thuộc: "Máy bay địch đã đi xa, mọi sinh hoạt trở lại bình thường". Mãi về sau, khi không còn chiến tranh, câu này được hóm hỉnh dùng để chỉ đoàn kiểm tra cấp trên đã rút xa rồi, anh em chúng ta cứ việc bậy bạ như thường.

Đức xồm chán đời bỏ đi nông trường chăn lợn. Nông trường viên đa số là nữ. Các đợt tuyển quân không đụng nổi tới nông trường hay có đụng mà chị em tìm mọi cách giữ số đàn ông ít ỏi lại như giữ mấy con lợn giống quý báu. Điều này rất khó xác minh. Thỉnh thoảng về Hà nội chơi mấy hôm, Đức xồm khoe là hắn chỉ huy tiểu đội du kích, từng dùng súng trường bắn rơi máy Mỹ. Chuyện này cũng khó xác minh. Tin hay không tin tuỳ người nghe, bản thân Đức rất tin chuyện tự mình bắn rơi máy bay.

Chị Phạm Thị Viễn, tự vệ Nhà máy cơ khí Mai Động, bố bị máy bay Mỹ giết hại, đã cùng đơn vị bắn rơi một máy bay F.111

Hai lực lượng chính bắn máy bay đang bay trên trời là Phòng không và Không quân. Thành tích to lớn (số máy bay Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam là 4.181 chiếc, có 68 máy bay B52. Tên giặc lái Mỹ đầu tiên bị bắt ở miền Bắc Việt Nam là Trung úy Everett Alvarez Jr., bị bắt tại Quảng Ninh ngày 5-8-1964...) được trên phân bổ cho các địa phương, các đơn vị du kích, thậm chí là cả các cụ phụ lão (lời bài hát "các cụ già bắn rơi máy bay...") để động viên chung.

Thanh niên Thủ đô sẵn sàng lên đường nhập ngũ

Người đầu tiên nhập ngũ là Tuấn - con trai cụ Khánh. Tuấn ít nói, khéo chân khéo tay, nhà vô địch về đánh bi và đập bàng ở phố tôi đã trở về nguyên vẹn năm 1976, không có một chiếc huân chương huy chương nào hết. Tôi hỏi mày đánh bao nhiêu trận, lập được chiến công gì. Nó lầu bầu:

- Em được giao trông kho vũ khí nằm sâu trong rừng, cả tháng trời không thấy bóng người, lấy đâu ra địch mà đánh. Mỗi tội đói quá, tiếp tế không kịp hay người tiếp tế hy sinh dọc đường là bọn em đói dài mấy tháng trời. Đói vàng mắt, đói ngất xỉu. Địch nó có đến cũng chịu, mình không đánh nổi. Có nhiều đêm mơ mơ tỉnh tỉnh nhớ Hà nội, anh biết em nhớ gì không? Không nhớ bố, không nhớ mẹ, không nhớ người yêu mà lại nhớ mấy quả bàng chín vàng rộm ngọt lịm trước nhà số 10.

Tuấn không lập chiến công, không hy sinh nhưng bị nhiễm chất độc màu da cam. Vợ đẻ mấy lần ra cái thai đều hỏng.

Năm 1965 tôi tốt nghiệp phổ thông. Lần lượt tiễn bạn bè nhập ngũ hoặc ra nước ngoài học tập. Chờ mãi đến tháng 10 tôi mới có giấy gọi tập trung học tiếng Nga ở Trường chuyên tu Ngoại ngữ Thanh Xuân để đi Liên xô học đại học. Ngày 29-6-1966, không quân Mỹ tấn công kho xăng Đức Giang. Đụn khói đen bốc cao đến mức từ Thanh Xuân chúng tôi vẫn nhìn thấy rất rõ. Chiến tranh chính thức đụng đến Thủ đô Hà nội.

Ngày 29-6-1966, không quân Mỹ tiến công kho xăng Đức Giang mở đầu chiến tranh phá hoại vào Thủ đô

Cuối tháng 8 chúng tôi tập trung trong trường Tài chính, xếp hàng đi bộ dọc đường Giải phóng lên Ga Hàng Cỏ. Tàu chúng tôi đi về phía bắc. Những chuyến tàu chở quân bổ sung cho phía Nam chạy theo chiều ngược lại. Những khuôn mặt không quen biết, cũng trẻ trung măng tơ như chúng tôi. Hai đoàn tàu hò reo chào nhau. Chúng tôi khóc. Những chàng lính trẻ thì cười, không hề quan tâm là chỉ vài ngày nữa, họ đối mặt với bom đạn.

Không phải là nhờ có ý thức tổ chức kỷ luật cao nên tôi sống và học nghiêm túc trong suốt những năm ở nước ngoài, mà chính những khuôn mặt đang cười tươi đó luôn hiện lên trong tôi, mong mỏi tôi phải xứng đáng với họ. Một người bạn tôi có câu thơ:

"Tổ Quốc giục ta đi và vẫy gọi ta về"

Thời gian tôi học đại học thì em trai tôi còn nhỏ, lên cấp ba nó học cùng với liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc. Đang học đại học năm thứ nhất, nó rậm rịch đi bộ đội. Tôi bàn với mẹ để cho em học xong đã, nhà hai người con trai phải có một người đi bộ đội, tôi sẽ làm đơn xin nhập ngũ để nó "hết tiêu chuẩn". Tôi lý giải là tôi có chuyên môn, vào quân đội phục vụ trong đơn vị kỹ thuật, khả năng hy sinh ít hơn là bộ binh. Mẹ tôi giấu nước mắt, lặng lẽ gật đầu...

Ông thủ trưởng cơ quan tôi bắt tôi phải trình bày nguyện vọng thật, chứ không nói lý tưởng chung chung. Nghe xong ông đồng ý cho tôi vào danh sách tuyển quân. Hơn hai mươi năm sau, khi lên làm Giám đốc, tôi tổ chức Lễ kỷ niệm 25 năm thành lập đơn vị và đón nhận Huân chương Lao động hạng 3, có mời các đời thủ trưởng trước đây về dự. Gặp lại ông tôi mới biết là vị thủ trưởng khô khan và máy móc đó đã một mặt ký danh sách thanh niên tham gia tổng động viên năm 1973, mặt khác làm công văn gửi Bộ, đề nghị xin tôi quay về để tiếp tục hoàn thành đề tài cấp Nhà nước, một trong những công việc quan trọng của cơ quan.

Chiến tranh đến từ những phía, những ngóc ngách nhỏ nhoi của cuộc sống. Người cầm súng hy sinh xương máu, người hậu phương hy sinh từng phút từng giờ, từng mảnh nhỏ trên cơ thể, từng mẩu nhỏ của cuộc đời. Người vợ chờ đợi, những đứa con chưa biết mặt bố. Người mẹ già trệu trạo ngồi nhai cơm độn ngô, độn bo bo cứng ngắc...

Chúng ta đã hy sinh hiện tại và hy sinh cả tương lai. Nhiều thế hệ thanh niên đói nghèo, thất học. Văn hoá, đạo đức xuống cấp, tệ nạn xã hội lan tràn. Giá phải trả cho thắng lợi là không bao giờ đo đếm hết được.

Năm 1979, đến lượt thằng Vân cháu ngoại bà Nhẫn đi bộ đội. Tôi không kịp dự buổi liên hoan thân mật nhà số 10 tổ chức tiễn đưa nó, sáng hôm nó lên đường, tôi dúi vội cho nó toàn bộ số tiền tôi có trong túi: "Cho cháu tiền ăn quà". Vân là đứa ngoan nhất trong nhà số 10. Không có bố, sống với bà, nó lễ phép, chăm chỉ hơn nhiều đứa cùng lứa. Lớn lên, nó đẹp trai, đôi mắt đen láy. Tôi từng có ý định xin cho nó vào làm công nhân ở chỗ tôi, tiện dịp thì cho nó đi học nghề ở nước ngoài.

Thế mà nó không trở về. Nhận được giấy báo tử đứa cháu ngoại, cụ Nhẫn bỏ ăn nằm khóc mấy ngày.

x

x x

Chính quyền cho đúc những ống bê tông tròn một người chui lọt, đào vỉa hè thả xuống tạo thành cái hố phòng không cá nhân. Nghe tiếng còi báo động, ta nhảy xuống cái hầm gần nhất, mắt ngước lên trời xem máy bay, tên lửa và đạn pháo như thể xem pháo hoa ngày tết. Chiến tranh kết thúc, nhiều việc cần làm hơn, những cái hầm cá nhân kia bị bỏ quên khá lâu, biến thành cạm bẫy trong những ngày mưa to nước ngập, nhiều người bị tụt xuống đó.

Hầm trú ẩn cá nhân tránh các cuộc ném bom của không quân Mỹ

Đầu phố là Vườn hoa Hàng Đậu. Người ta phá bỏ các khóm hoa, những cái đu quay, cầu tụt, xây một hầm trú ẩn rất to. Thật tình tôi không thấy mấy ai chui xuống đó. Hầm đọng nước, rác rưởi, bốc mùi khó chịu. Người Tràng An thà chết chứ không chịu hôi hám.

Đầu phố kia là Xưởng phim Quân đội ngày nay. Lúc đó là trại giam tù binh Mỹ, chính xác là trại giam những phi công Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc. Sự hiện diện của trại giam bí mật này được cả phố tôi biết. Tôi hay trèo lên gác nhà 16 nhòm sang sân trại giam, xem các tù binh Mỹ mặc bộ đồ sọc dưa xếp hàng tản bộ trong sân. Người ta nửa kín nửa hở như thế để Mỹ không ném bom vào các trọng điểm gần đó như Bộ Quốc phòng, Nhà máy điện yên Phụ, cầu Long Biên v.v.

Gia đình tôi mỗi người sơ tán một nơi theo cơ quan trường học. Cơ quan trung ương phải sơ tán xa dăm bảy chục cây số, cơ quan Hà nội chỉ sơ tán ra ngoại thành. Bệnh viện Y học dân tộc của mẹ tôi sơ tán lên Trích Sài, không xa chợ Bưởi mấy, mượn nhà dân làm phòng khám, duy trì bệnh viện hoạt động bình thường.

Mỗi người một bếp dầu, vài cân gạo, một ít mì sợi, chai xì dầu, lọ muối và gói mì chính. Đài truyền hình Trung ương sơ tán ở Vân Đình. Bà xã tôi, lúc đó chưa phải là bà xã, học ở Liên xô từ nhỏ, chưa một lần trong đời đặt đòn gánh lên vai. Nước ăn và sinh hoạt phải phân công nhau gánh từ một cái như cái ao được gọi là giếng nằm ngoài đồng. Đến phiên bà xã tương lai phải gánh nước, tôi chạy xe máy lên Vân Đình, buộc hai thùng nước sau xe, tải nước về đổ vào bể nước (vì tôi cũng đâu có biết gánh). Về đến nhà thì mỗi thùng chỉ còn một nửa.

Mỹ ném bom B52 rất kỳ cục, thường là buổi tối, vào một giờ nhất định. Ban ngày tôi về Hà nội, sâm sẩm tối thì phi xe lên lại khu sơ tán. Tôi khom khom ngồi ven đê sông Hồng, đội cái chậu thau đồng lên đầu, say sưa xem tên lửa ta bắn B52. Máy bay B52 cháy đẹp hơn máy bay thường nhiều, nó nổ như pháo hoa, sáng rực một vùng trời. Già trẻ lớn bè hò reo, hoan hô ầm ĩ. Ai bỏ lỡ cơ hội không kịp xem cứ ngồi tiếc mãi.

Kỷ niệm lần thứ 77 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-5-1967, Hà Nội bắn rơi 10 máy bay giặc Mỹ

Trớ trêu thay, cơ quan tôi có một anh bộ đội chuyển ngành lại có tên là Mỹ, nhà ở Khâm Thiên. Máy bay Mỹ ném bom, đứa con mới mấy tháng tuổi của anh Mỹ chết. Thành phố cho chở đến các hòm quan tài vừa mới đóng, chưa kịp sơn, xếp đống ở đầu ngõ. Anh Mỹ sợ con mình không có suất quan tài, chui vào một chiếc quan tài nằm chiếm chỗ, dứt khoát không chịu ra, ai nói gì cũng mặc. Ông cán bộ dân phố bế xác đứa bé mang ra tận nơi, anh Mỹ mới chịu nhường chỗ cho con mình.

x

x x

Từ hôm Huế giải phóng ngày 26 tháng 3 năm 1975, cha tôi mua một cái bản đồ Việt nam về treo, giải phóng đến thành phố nào thì tô đỏ thành phố đó. Cái đài bán dẫn luôn mở to hết cỡ, thông báo tin chiến thắng cho cả nhà số 10 cùng nghe.

Nhà thơ quân đội Thanh Tịnh, bạn của cha tôi, thỉnh thoảng từ bên Lý Nam Đế chạy sang, thì thầm với cha tôi những bí mật quân sự. Hai ông vỗ đùi nhau: "Sắp được về quê hương rồi!". Tính đến năm 1975, cha tôi rời bỏ làng xóm gần tròn 30 năm. Ông tôi không sống nổi để gặp con cháu, bà nội và cô tôi chờ đợi trong nơm nớp lo sợ cũng ngần ấy năm trường!

Ngày 30 tháng Tư là một ngày kỳ diệu. Cả cơ quan tôi không còn ai làm việc. Sướng quá không ai có thể ngồi yên một chỗ. Mọi người tập trung hò hét, phất cờ. Loa phóng thanh liên tục phát băng đầu hàng của Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng, ngắn ngày nhất của chế độ Việt nam Cộng Hoà. Bài hát "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng" của nhạc sỹ Phạm Tuyên vang lên không ngớt.

Nhân dân Thủ đô Hà Nội mít tinh mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước

Tôi phi ra Hồ Gươm. Những người không quen biết ôm nhau. Khóc, cười, nhảy cẫng lên như trẻ con. Tôi vào hiệu kem Bốn Mùa, mua gần hết thùng kem của cửa hàng, quấn giấy báo, cởi áo sơ mi túm lại, mặc có mỗi cái áo may ô phóng xe về nhà số 10 gọi cả xóm ra ăn kem.

Bà ngoại tôi đang ngồi niệm Phật, nước mắt chảy ròng ròng.

Việt nam lật sang một trang sử mới, nhiều khó khăn chồng chất phía trước. Nhưng vui cái đã, sướng cái đã: Việt nam thống nhất rồi!

(18) - Đất và nước

Cha ông ta dùng từ kép "đất nước - non sông" để cụ thể hoá khái niệm Tổ quốc. Đối với người nông dân lúa nước, có đất và có nước là có cuộc sống. Tổ quốc là những vùng đất, vùng nước của ta. Đã ngàn đời nay chúng ta gắn chặt với ruộng đồng. Mảnh đất là nơi ta sinh sống, ta tạo ra của cải vật chất và cũng là nơi ta có muôn vàn kỷ niệm buồn vui. Chế Lan Viên viết:

"Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn"

Người nông dân không suy nghĩ văn vẻ, họ phấn đấu cả đời cho những mục đích rất cụ thể:

"Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà

Cả ba việc ấy thật là khó thay"

Con trâu là công cụ sản xuất (sức kéo chủ yếu trong nông nghiệp), đồng thời nó cũng là nhà máy sản xuất phân bón.

Hồi còn là thằng bé nhà quê, hễ thấy có con trâu nào vừa "bạch" một đống phân nóng hổi ra đường, tôi liền kiếm đồ đựng mang ngay về nhà. Nếu trong tầm tay không có cái gì để hót, ta có thể bẻ một ngọn cây cắm vào đống phân, thông báo cho toàn thế giới biết là đống phân này đã có chủ. Bộ luật không thành văn về sở hữu phân trâu ngoài đường được chấp hành nghiêm chỉnh, không như ngày nay, con người vô tư chiếm hữu những thứ rõ ràng là đã có chủ nhân.

Ra thị thành sinh sống, người nông dân vẫn giữ bản sắc đậm đà của mình, những tính hay cũng như tật xấu. Nổi bật nhất là việc "mở mang bờ cõi" của từng nhà.

Nhà số 10 khá rộng. Có lối đi rộng ba mét bao quanh nhà chính và một cái sân to. Khuôn viên được thiết kế cho một gia đình trung lưu thời Pháp sinh sống, nay chia nhỏ cho hơn mười hộ. Ngày tháng trôi qua, hộ gia đình nào cũng tăng trưởng, nhân số tăng vọt, mà diện tích sinh hoạt không hề thay đổi.

Quá trình cơi nới bắt đầu rồi kéo dài một cách dai dẳng nhiều năm với những cơn bùng phát cãi cọ chửi bới đau đớn và khôi hài.

Gia đình tôi ở quá chật, cha mẹ tôi làm một cái bếp và buồng tắm trên rẻo đất để không, sát với tường nhà số 8, chừa lại khoảng một mét hai làm lối đi chung. Bếp và nhà tắm lợp giấy dầu, che nắng tương đối tốt, che mưa thẳng góc cũng khá tốt, song mưa hơi chéo một tý là chịu, trong bếp và ngoài bếp đều ướt như nhau. Không ai phản đối nhà tôi cơi nới vì việc cơi nới đó không ảnh hưởng đến ai. Nhà chị Ngoạn rất tán thành, coi đó là tiền lệ để sau này chị ấy cơi ra phần đất tương ứng, bên cạnh cửa sổ nhà chị ấy.

Chị Ngoạn, cho đến lúc rời nhà số 10 đi ở chỗ khác, vẫn chưa cơi nới ra miếng đất đó, chủ yếu tập trung lấn chiếm ra sân, miếng đó được xếp vào danh sách để dành.

Nhà Tài Dậu làm bếp ra phía trước nhà, cũng để lại hơn một mét cho mọi người đi ra bể nước ngầm nằm phía trước nhà tôi.

Nhà số 10 có hai cổng. Cửa cồng bằng sắt bịt tôn. Cổng chính là giành cho xe hơi, cổng nhỏ nằm ứng giữa nhà tôi và nhà Tài Dậu, là lối cho người đi bộ. Cổng này bị đóng lại từ khi nào tôi không biết, chắc là từ khi ông chủ người Pháp rút về nước năm 1954, nay han rỉ, két lại, đóng vai trò bức tường có ô thoáng.

Tài Dậu bôi dầu hoả, lúi húi mở cánh cửa sắt. Mẹ tôi hỏi mở ra làm gì, Tài Dậu nói để đi lại cho tiện. Mẹ tôi không đồng ý, nói là nếu muốn mở cổng này thì phải họp xóm, xem ý kiến mọi nhà thế nào, không ai có quyền tự tiện mở vì một xóm có tới hai cổng thì rất khó quan sát, kẻ cắp dễ bề hoạt động.

Bí thế, tài Dậu không đòi mởi cổng nữa vì biết nếu đưa ra họp xóm thì sẽ không ai đồng ý. Người ta biết tỏng ý đồ của Tài Dậu là khi có hai cổng rồi thì Tài Dậu có thể bịt khoảng không gian giữa hai cổng, tạo ra một gian phòng khoảng 12 mét vuông mặt tiền. Những người phản đối nhiều nhất sẽ không là ai khác ngoài các con của ông Khánh, những kẻ gọi Tài Dậu là chú ruột.

Tài Dậu rút lui vào phòng, lầu bầu suốt buổi sáng ngày chủ nhật:

- Ai chả biết nhà bà toàn cán bộ đảng viên, dân đen như chúng tôi làm sao mà địch nổi?

Cha tôi xách xe đạp đến nhà bạn chơi để khỏi phải nghe Tài Dậu nói xấu Đảng, mẹ tôi xuống bếp, không ứng đáp gì với tài Dậu. Một mình tôi ngồi thắc mắc: "Cán bộ đảng viên có nói gì sai đâu nhỉ?"

Người đi tiên phong mở màn cơi nới ra sân là Đức xồm. Gia đình hắn hai vợ chồng bốn đứa con trú ngụ trong cái không gian trước đây là nhà vệ sinh diện tích khoảng sáu mét vuông. Năm 1983 thành phố có chủ trương cấp căn hộ cho những gia đình có diện tích dưới 1,5 m2 trên một đầu người. Thằng Tuấn em Đức xồm đi bộ đội về, có mác đảng viên, được đi học một khoá hành chính pháp chế hai năm, về làm Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân phường. Tuấn đấu tranh cho Đức được vào diện phân căn hộ, Hùng què bảo Tuấn chả tốt lành gì với anh trai mình đâu, chẳng qua là đẩy Đức xồm đi để thế chỗ vào ở thay Đức trong cái cựu toa-let mà thôi.

Đức xồm đâu có ngu. Nhận căn hộ ở Kim Giang xong, hắn sang tên ngay cho người khác, tiếp tục cuộc sống chật hẹp trong nhà số 10.

Đầu tiên Đức cơi ra một cái bếp khoảng sáu mét vuông, tương ứng với "diện tích chính" nhà hắn. Gia đình tôi, cụ thể mà mẹ tôi - bà xóm trưởng - không phản đối việc Đức nới rộng diện tích. Chị Ngoạn cũng không phản đối, mặt tươi như đi ăn cưới, đợi thằng em cơi nới xong, cũng cơi nối tiếp cái bếp của nhà Đức xồm, làm cái bếp riêng của nhà mình. Động tác này còn có mục đích ngăn cho Đức xồm không thể bành trướng tiếp sau này.

Đám dân "ngụ cư" như ông bà Tường, bà Liên, cụ Nhẫn, Hùng què cũng không nói gì, chỉ chăm chú theo rõi Đức xồm cơi ra có quá rộng hay không, lẳng lặng chờ cơ hội đến lượt nhà mình cũng sẽ cơi ra.

Bà Liên là người đầu tiên trong số đó tiến hành lấn chiếm đất công. Họ lấn kiểu mưa lâu thấm đất. Mang bếp dầu, chạn bát kê ra ngoài. Lúc đầu chỉ là làm cái chái che cho chỗ nấu nướng khỏi ướt, sau dần dần kiên cố hoá nó bằng vách gỗ, mái giấy dầu rồi cuối cùng là xây tường, đổ mái đàng hoàng.

Thợ xây bắt đầu triển khai đào móng, căng dây căng dọi. Cả nhà chị Ngoạn, Đức xồm xô ra phản đối. Âm thanh to, động tác mạnh, dáng vẻ hung hăng. Bà Liên yếu thế chưa biết làm cách nào để xây tiếp thì Kim Sự phóng xe Pơ-giô cổ cò về, dựng xe, hất hàm với Doãn tươi sống, chồng của chị Ngoạn:

- Ông muốn gì? Những lúc ông muốn "tươi mát" với tôi, ông ăn nói nhẹ nhàng và ngọt ngào lắm cơ mà, sao bây giờ ông hung hăng thế?

Doãn tươi sống sậm mặt, nói vuốt đuôi: "Đồ gái đĩ làm càn, ông éo thèm nói chuyện với mày nữa!" rồi cụp đuôi chui vào phòng nằm đọc báo.

Sự quay sang cười mỉa Đức xồm:

- Còn ông anh, ông anh có muốn em nói cho cả xóm biết ông chiến đấu được mấy phút rồi hết hơi không?

Đức xồm gầm lên: "Con khốn nạn, con khốn nạn!" nhưng rồi cũng nối gót ông anh rể, rời bỏ chiến trường trong danh dự. Chị Ngoạn và vợ Đức xồm ngượng nghịu lải nhải thêm một lúc rồi bỏ đi nhặt rau, công trình xây dựng nhà bà Liên tiếp tục thi công cho đến khi hoàn thành, quét vôi màu hồng trông rất chướng mắt. Bọn trẻ con gọi nhà bà Liên là Hồng Lâu, lấy từ truyện Hồng Lâu mộng của Trung Quốc.

Dần dần nhà ông Tường, cụ Nhẫn, Hùng què cũng lên tầng hai. Tóm lại là không ai không cơi nới, không dại gì mà không cơi nới. Nhà số 10 trở nên chật chội. Ông Tường không mang vật liệu gỗ về sân nhà số 10 để sản xuất thước kẻ nữa, hợp tác xã của ông ta mua được đất và có cơ sở khang trang rồi. Ông Tường không còn ngồi bào thước kẻ, dân chúng nhà số 10 mất cơ hội thưởng thức những bài hát Trung Quốc ngọng líu ngọng lô.

Đất chật, người đông, song các thú vui của con người thì không vì thế mà mất đi. Hùng què có vài chậu cây cảnh, để ngay trên bức tường trước cửa nhà xí, thỉnh thoảng ra hoa trông cũng hay, nhất là khi ngồi trong nhà xí nhìn ra.

Ông Khánh nuôi chim hoàng yến và chim vẹt. Sáng mang lồng chim ra treo dưới dàn nho cạnh phòng mình (trồng dàn nho cũng là một cách xí phần lãnh thổ, một ngày đẹp trời nào đó, bạn có thể phá giàn nho đi, thay vào đó là một phòng mái bằng vài chục mét vuông), chiều mang vào nhà. Ông Khánh rất chịu khó dạy con vẹt nói, nào là "chào ông, chào bà", nào là "nhà có khách" mà mãi nó vẫn không nói được. Một hôm ông Khánh đi làm về, con vẹt cất tiếng nói khàn khàn: "Đ. mẹ mày. Đ. mẹ mày!". Có lẽ đó là câu nói mà con vẹt nghe thấy nhiều lần nhất trong ngày.

Cha tôi được người ta cho một giò phong lan, nghe đâu như là phong lan của một ông tướng mang từ Trường Sơn ra. Cha tôi quý những thứ từ trong chiến trường ra lắm. Vỏ quả bom bi được dùng làm cái gạt tàn thuốc v.v. Khi tôi đang học ở Liên xô, cụ tìm cách gửi cho tôi mấy cái lược làm từ xác máy bay Mỹ, viết thư dặn kỹ tôi để một cái mà dùng, còn mấy cái kia có ai thật thân thiết hẵng tặng.

Không có chỗ treo phong lan, cha tôi treo ngay ở ô tò vò trên gác xép, ngày hai lần tưới phong lan trước khi đi làm và sau khi đi làm về. Trước khi tưới cụ phải gào to mấy lần:

- Có ai ở dưới đó không, tôi tưới cây đây!

Chả là vì đã không ít lần có người kêu ré lên:

- Ông ơi ông tưới ướt hết con rồi đây này!

x

x x

Hệ thống cấp nước ở Hà nội từ năm 1954 đến khoảng 1990 chỉ toàn xuống cấp và xuống cấp. Vòi nước máy công cộng bị ăn cắp, nước chảy xối xả, sũng cả một đoạn phố. Vòi nước trong nhà dân thì cứ phải hạ dần xuống, hạ mãi đến mức mỗi nhà phải đào một cái hố, tráng xi măng, cho nước chảy ở "cốt âm" vào đó rồi mới múc lên sử dụng. Người ta ngang nhiên đục ống trục cấp nước, cho vòi bơm vào đó hút nước về nhà dùng.

Nhà số 10 có cái bể ngầm từ xưa. Các gia đình ra đó tắm giặt, vo gạo rửa rau. Hai ba ông vừa tắm, kỳ cọ công khai các bộ phận kín đáo, vừa bàn chuyện thời sự quốc tế hay bình luận trận đấu bóng đá vừa xảy ra trên sân Hàng Đẫy!

Khi con gái tôi mới năm sáu tuổi, có một trò vui nay đã thành kỷ niệm là hai cha con cùng tắm ngoài trời. Tôi múc một xô nước lớn, hai cha con dựa lưng vào nhau, tôi dội xô nước lên đầu, nước chảy, cha con cùng cười vang khoái trá.

Nhiều người xách nước về nhà dùng. Nhìn cô Tâm lùn với chiều cao chỉ khoảng hơn một mét xách hai tay hai xô nước, tôi nghĩ sao cô này không xin vào đoàn Xiếc làm, thu nhập sẽ cao hơn rất nhiều.

Sang thời kỳ phát triển sau cơi nới, mọi gia đình đua nhau dẫn nước về nhà mình. Mấy chục đường ống nước, bằng cao su, bằng nhựa mềm, nhựa cứng, to có nhỏ có, được chăng thành một hệ thống nhằng nhịt, phức tạp và tạm bợ. Một đầu óc có trí tưởng tượng phong phú đến mấy cũng khó nghĩ ra được một hệ thống rắc rối tương tự.

Nhà bạn hết nước rồi ư? Bạn hãy xách cái bơm bắp chuối ra bể nước, kéo một đường dây điện ra đó, nối máy bơm vào đường ống của nhà mình, thả máy bơm chìm trong bể nước, cắm điện và đứng chờ cho đến khi vợ hoặc con gọi vọng ra "đầy rồi, tắt máy bơm đi" thì thu dọn dây điện, tha máy bơm về cất đi.

Đó là nói khi nước trong bể còn tương đối khá. Nếu bể ít nước, sẽ có vài ba người lẳng lặng rút phích điện máy bơm của bạn, không cần phải được bạn đồng ý và cũng không cần giải thích vì sao. Đâu chỉ có một mình bạn là yêu nước, cần nước? Bạn bơm hút hết đi thì lấy đâu ra nước để cho người khác cũng được yêu?

Nhiều khi bể hết nước. Chỉ còn cách đợi đến đêm khuya, lúc đó nước mới từ từ chảy vào bể. Nhà tôi ở ngay sát bể nước, chỉ cần nghe tiếng cũng biết được là nước chảy mạnh hay yếu. Lâu dần chúng tôi quen với tiếng nước chảy ban đêm, không lấy đó làm nguyên nhân mất ngủ nữa.

Nắp bể nước ngầm cũng chính là lối đi, là chỗ người ta ngồi giặt giũ hết năm này qua năm khác. Một số chỗ ghép tấm đan đã thủng, nước giặt, nước thải theo đó chạy trở lại vào bể. Tôi đã trăm lần kiếm xi măng về trám các lỗ đó lại mà không ăn thua. Không phải là do xi măng ăn cắp chất lượng kém hơn xi măng không ăn cắp, mà tôi vừa chít tối hôm nay, đáng ra phải chờ vài ngày cho xi măng đông cứng hẳn mới được sử dụng thì sáng ra bà con đã lại dẫm, lại dội nước ào ào lên mặt bể, xi măng trôi tuột đi hết.

Đã bao nhiêu năm, chúng tôi - cả nhà số 10 ăn nước bẩn như thế. Bây giờ nhớ lại mới thấy cơ thể con người có sức đề kháng ghê gớm, có thấy ai bệnh tật gì đâu?

Ai sử dụng nhà xí công cộng, người đó phải xách theo một ít nước để dội. Vào thời kỳ khan hiếm nước trong năm, thông thường là giữa mùa hè, nhà xí là nơi bất đắc dĩ ta đành phải đến. Tôi không cần phải viết chi tiết, bạn đọc có thể tưởng tượng ra mọi thứ ở nhà xí khi không có nước.

(19) - Văn nghệ

Cha tôi kiên trì và quyết liệt định hướng cho tôi tránh xa văn chương thơ phú xướng ca vô loài. Tôi tí toáy làm thơ từ rất bé, những bài thơ ngây thơ, không hứa hẹn tài năng gì đặc biệt. Đó là bây giờ tôi thấy thế chứ hồi nhỏ tôi đâu cần nghĩ và cần hiểu là làm thơ phải có tài. Tự nhiên có cảm hứng thì cứ tự nhiên viết ra, chép vào quyển sổ bé tẹo.

Khi tôi học lên cấp ba, cha tôi thường cất kỹ hoặc huỷ những bài thơ tôi viết mà theo ông là có vấn đề. Hồi đó bất kỳ cái gì "có vấn đề" đều không nên tồn tại.

May mà còn sót một bài thuộc diện "có vấn đề" tôi viết khi đã là chuyên viên Vụ Khoa học Kỹ thuật Bộ Cơ khí Luyện kim.

Tối thứ bảy vừa rồi tôi đến thăm mẹ. Người đã 84 tuổi nhưng còn minh mẫn và khỏe mạnh, tuy mình hạc thân mai. Nói chuyện một lúc, mẹ mang ra cho tôi một phong bì vàng ố, cười:

- Con đọc đi.

Cầm trong tay bài thơ tôi viết năm 1981, kín hai mặt tờ giấy A4 vàng khè, tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi không nhớ là mình từng làm bài thơ này, đọc rồi mới từ từ nhớ lại. Năm 1981, trong một chuyến đi xa nhà, trong đêm cô đơn, tôi chẳng có việc gì làm ngoài việc viết một cái gì đó. Bài thơ trăn trở với những tư duy đổi mới kinh tế và quản lý xã hội.

Cha tôi đã giấu biến bài thơ này đi, gần đây mẹ tôi mới tìm thấy nó trong đống tài liệu cũ.

Năm 81 là năm đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn, năm năm sau, đến tháng 12 năm 1986 mới có Đại hội VI của Đảng - Đại hội bắt đầu công cuộc đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Bài thơ "Đêm không ngủ" năm 81 ra đời trong bối cảnh "oi bức" của những năm đầu thập kỷ 80.

Về mặt thi ca, bài thơ không có gì đáng nói, nó chỉ là kỷ niệm day dứt thời điểm trước lúc bình minh đổi mới. Tôi chép nguyên văn, không biên tập lại.

Đêm không ngủ

(10/1981)

Đêm nay ai ngủ, ai thức

Hàng me bên đường cành nào lặng lẽ, cành nào đung đưa?

Đèn xa pha ánh trăng mờ

Nếu là nhớ sao nhiều đêm thức trọn

Nếu là yêu càng không đủ ưu tư

Là đau một nỗi vô bờ

Làm trai, làm gì cho đất nước?

Ôi Việt nam, ngàn năm dằng dặc

Nguyễn Trãi hoài đau đáu sao Khuê

Nguyễn Du khúc đàn gọi con người về

Quang Trung tỏa sáng rồi vụt tắt

Hồ Chí Minh, con tàu về cập đất

- Ai dựng lâu đài Việt nam?

Đâu phải chỉ mơ một nồi cơm Thạch Sanh

Chỉ thèm một sức vươn Thành Gióng

Người nông dân không nhìn thấy xa hơn thửa ruộng

Áo vải bạc màu chiến trận

Thi ca viết máu quân thù

Không đủ nữa rồi, con cháu không cho

Chúng ta như chàng Trương Chi chỉ có trái tim ngà ngọc

Ai biết tính từng xu, biết lo từng hạt thóc

Giải chuyện tầm gần, lo chuyện tầm xa

Quên chữ ĐẠO khô khan, nhớ chữ THỰC mặn mà

Lý của cuộc đời ở nơi quả ngọt

(Đôi tình nhân không hô khẩu hiệu trước lúc hôn nhau)

Cành táo đầu hè rung rinh rồi cũng rơi xuống đất

Tiếng cười vui là phía tận cùng nước mắt

Có sinh đẻ nào không vật vã đớn đau?

Đất nước này ơi, đã ngẩng cao đầu

Còn tay chân phải làm gì, bước tiếp

Kẻ thù trước mắt ta, ta giết

Kẻ trong thịt da ta, ta xử làm sao?

Ôi người mẹ gầy đôi má xanh xao

Em đến lớp bụng lưng cơm nguội

Anh công nhân hững hờ chờ đợi

Trí thức buồn chăn lợn trồng rau

Ôi hồn Việt nam nơi đâu

Cả giải Trường Sơn đứng đó

Một biển Đông mênh mông sóng vỗ

Hai vùng châu thổ nặng phù sa!

Đừng để bốn ngàn năm níu chặt chân ta

Bốn ngàn năm chỉ là chỗ đứng

Con người Việt nam, con người chiến thắng

Anh nghĩ gì, Anh?

Có phải diệt thù xong Lê Lợi trả gươm

Nguyễn Trãi nói dân là sức mạnh

Trần Hưng Đạo quên tị hiềm dưỡng dân cho nước thịnh

Dân chủ - Cộng hoà mơ ước Hồ Chí Minh?

Sự sống còn là hai chữ làm ăn

Cái khác giữa ta và Tư bản

Ở chữ ăn, không phải chữ làm?

Việt nam, Việt nam

Máu đào và lửa

Ngày hôm nay sẽ là ngày hôm qua của lịch sử

Mặt trời lên không do tiếng gọi con gà

Ai đêm nay cùng tôi làm thơ

Năm mươi triệu bài thơ không ngủ

Xin rút nhựa thân mình làm một sợi tơ

Dệt gấm vóc giang sơn đất nước bác Hồ

May sao hồi đó những bài thơ kiểu thế này tôi không mang đăng báo...

Cha cũng không thích tôi tham gia ca múa nhạc. Vậy mà tôi lại rất tích cực hoạt động văn nghệ, tham gia tốp ca của Trường Chu Văn An - tốp ca không năm nào không đoạt huy chương vàng Hội diễn toàn quốc. Tôi còn đóng kịch, ngâm thơ, thậm chí đóng cả hề xiếc! Cha thấy tôi tham gia văn nghệ mà không hư, không "anh nọ chị kia", không ảnh hưởng đến thành tích học tập nên ông cũng ít cấm đoán dần.

Sự giảm cấm đoán bắt đầu từ việc tôi tập thổi sáo và kèn ac mô ni ca. Chơi hai thứ này vẫn là văn nghệ nhưng chơi tại nhà, không giao du với dân son phấn lên sân khấu.

Không có ai bày, tôi dò dẫm tập thổi sáo. Ra Bờ Hồ mua ống sáo bằng số tiền hai ba ngày nhịn ăn sáng, tôi mò mẫm thổi các bài Đội ca, Làng tôi rồi cứ thế tăng dần số bài trong "chương trình biểu diễn" của mình. Thật đáng ca ngợi các vị hàng xóm đã bị tôi tra tấn bằng tiếng sáo vỡ lòng hồi đó mà không hề tỏ ra khó chịu.

Tôi mua đủ loại sáo, loại to, loại nhỏ, loại dọc, loại ngang. Lâu đâm ra quen anh hàng sáo. Anh này thổi sáo rất hay, khi không có ai mua hàng, anh thổi sáo một mình, bọn trẻ con chúng tôi tròn mắt đứng nghe. Thấy tôi mê sáo, một lần nọ anh nháy mắt bảo tôi mai ra anh bán cho cây sáo anh thửa riêng, cực hay. Ngày hôm sau tôi không ra vì chưa có tiền, hôm sau nữa ra thì anh lôi ra một cây sáo cất kỹ trong bọc, bảo tôi thổi thử xem sao. Đúng là cây sáo rất ưng ý, trau chuốt kỹ, tiếng sáo mê ly. Anh cười bảo tao cho mày đấy, giữ lấy mà chơi, tao sắp phải đi bộ đội rồi. Từ bấy đến nay tôi không gặp lại anh, không rõ sống chết ra sao.

Tôi chơi mãi cây sáo ấy, không đổi sang cây khác. Khi đi học nước ngoài, tôi không mang nó theo, sau về không thấy đâu nữa, tiếc quá.

Cùng sinh hoạt tốp ca trường Chu văn An có một cô tên là Cung Tú Cầu, học dưới tôi một năm, là con của Cung Đình Vận. Nghe đâu là Cung Đình Vận rất phản động, ông này phản động hồi nào, như thế nào thì chúng tôi không biết, chỉ biết ông ta không thích cho con gái tham gia các hoạt động do Đoàn Thanh niên Trường tổ chức. Mỗi lần sắp phải đi Hội diễn hay biểu diễn, tôi và Trần Như Lạc - phó Bí thư Đoàn trường phải đến tận nhà xin phép ông bà cho Cung Tú Cầu đi. Hai ông bà ngồi đan len, không thèm đứng dậy tiếp khách, gừ gừ mấy tiếng đồng ý để chúng tôi ra về. Buồn cười nhất là lúc đó tôi chưa phải đoàn viên, nhưng hễ việc gì khó Đoàn toàn mượn cái bản mặt đàng hoàng của tôi ra để sử dụng.

Son phấn chúng tôi dùng để hoá trang là loại rẻ tiền nhất trong số rẻ tiền. Chúng tôi xoa một lượt va dờ lin lên mặt, người này xoa cho người kia. Sau đó dùng phấn rôm xoa cho trắng. Môi thì lấy bút chì đỏ mà bôi. Mặt như hát bội, nhưng lên sân khấu đèn sáng, đứng xa nhìn cũng đẹp ra phết.

Một lần tôi xoa va dờ lin cho Cung Tú Cầu, vô tư không có ý gì thế mà cô ấy cứ đờ cả người. Hồi ấy trẻ con chứ bây giờ thì chết với ông! Sau này Cung Tú Cầu lấy một người bạn tôi, anh Dũng em của nhà văn Vũ Thư Hiên, con trai cụ Vũ Đình Huỳnh. Hiện nay hai vợ chồng đã ly dị, Cung Tú Cầu đang ở Mỹ với con gái.

Hồi đó nhạc sỹ Duy Quang mới tốt nghiệp trường nhạc, ông lăn lộn với ban ca của trường tôi mấy năm liền. Ban ca gồm tốp nam, tốp nữ, tốp nam nữ và các tiết mục đơn ca song ca. Nhạc sỹ phải dạy chúng tôi cả thanh nhạc, cách lấy hơi nhả chữ tròn vành rõ lời, vất vả vô cùng mà không lấy một đồng xu công xá nào hết, thương chúng tôi như em út trong nhà.

Trong tốp ca nam có Anh Dũng là rất tếu. Đứng trên sân khấu, trong tốp ca hát bài Vệ quốc quân, nó cứ ngang nhiên xướng lên: "Đoàn vệ quốc quân tụt quần ra đi, ra đi ra đi không quần không áo...". Nhạc sỹ Duy Quang cảnh cáo, lần sau nó vẫn thế, may mà hồi đó micro không nhạy như ngày nay.

Đi Hội diễn được giải, được giải rồi phải đi biểu diễn phục vụ các phong trào. Trên các sân khấu ngoài trời và cả sân khấu Nhà hát Lớn, Nhà hát Nhân dân (sau này phá đi xây Cung Văn hoá Hữu nghị), người ta hay lồng ghép các tiết mục của các nghệ sỹ chuyên nghiệp và các tiết mục nghiệp dư, chắc là để giảm chi phí. Chúng tôi được hát là sướng rồi, có nghĩ gì đến tiền bồi dưỡng đâu. Nhờ đó chúng tôi hay gặp các ông Trần Hiếu, Quý Dương, Trần Khánh, các bà Tuyết Thanh, Vũ Dậu, Diệu Thuý... Anh Mạnh Hà, công nhân Công trường Thủ Lệ, công nhân giả vờ thôi, chả đào được hòn đất nào trong quá trình xây dựng Công viên đẹp thứ nhì Hà nội này, hát hay và đặc biệt làm chúng tôi trố mắt là cứ mỗi đêm diễn là anh lại cắp theo một em xinh đẹp.

Trên gác hai nhà số 8, cửa số hướng sang nhà số 10 là buồng của ca sỹ Tường Vi. Hồi đó chị cao gầy chứ không to béo như sau này. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe chị luyện giọng à a a á, ồ ô ô ố, ề ê ê ế... Có lần đi biểu diễn, tôi gặp chị đứng sau cánh gà đợi đến lượt lên hát mà không dám mở miệng nói em ở ngay cạnh nhà chị.

Cũng bên nhà số 8 có hai vợ chồng đạo diễn Hồng Minh và diễn viên Hoàng Yến. Bà Hoàng Yến được phân đóng vai bà già từ năm 20 tuổi cho đến hết đời diễn. Ông Hồng Minh là đạo diễn theo chức danh, không làm được một bộ phim nào hết. Nhiều người trong ngành không gọi ông là đạo diễn mà gọi là "đạo dụ", chắc là có lý do. Một đêm nọ cả dãy phố mất ngủ vì bà hàng xóm ông Hồng Minh thấy ông ta đang make love với vợ, nổi cơn ghen ngược, ném hết bếp dầu nhà ông Hồng Minh ra sân. Chí choé rất lâu lúc ba giờ sáng.

Bà Hoàng Yến đóng nhiều phim, nổi tiếng thế mà cuối đời mới vớt vát được cái Nghệ sỹ ưu tú. Ở ta cơ quan chủ quản mà không đề xuất thì trên đâu có xét, trên biết ai vào với ai? Muốn cơ quan chủ quản quan tâm đề xuất thì mình phải quan tâm tới lãnh đạo cơ quan, bà Hoàng Yến hình như kém về mặt này.

Anh Trần Quế chồng chị Thuần là diễn viên Đoàn Giải phóng. Có một lần duy nhất anh mang đàn violon về nhà tập, đứng dạng chân trước chân sau, cái đầu nghiêng, má áp vào đàn, hai mắt gườm gườm nhìn vào một điểm nào đó xa xôi. Những ngón tay chuối mắn của anh tranh nhau bấm vào dây đàn thành ra âm thanh violon của anh làm cho tôi thấy nhớ cái đàn nhị mà ông hát xẩm ngồi cò cưa ở bến tàu điện Bồ Hồ. Xét cho công bằng thì ông hát xẩm chơi hay hơn. Về sau anh Trần Quế không diễn nữa, chuyển sang làm công tác tổ chức cán bộ ở đoàn Bông Sen. Một nghệ sỹ violon nữa của nhà số 10 là chồng cô Tâm con bà Liên. Anh này chơi cho dàn nhạc Xiếc, nơi tiếng trống tiếng thanh la chũm choẹ quan trọng hơn tiếng đàn violon nhiều. Tuy vậy anh này vẫn tự cho mình là nghệ sỹ, kiêu lắm.

Ca sỹ Tô Lan Phương ở nhà 15, đối diện nhà số 10 chúng tôi. Cô này học cùng trường lớp tám với tôi rồi bỏ đi Trung cấp âm nhạc, tốt nghiệp xong tình nguyện đi B phục vụ, nổi tiếng ở chiến trường. Có một đại đội nghe cô hát xong, đồng thanh xin lấy tên cô đặt cho đại đội. Sau Giải phóng Tô Lan Phương về đoàn Ca múa Bông Sen cho đến lúc về hưu, còn đại đội kia thì bây giờ ra sao tôi không rõ.

Tôi học lớp năm ở Trường Phổ thông II, lớp sáu ở Trường Vân Hồ cùng Tố Uyên - Con chim vành khuyên. Khi bọn con trai chúng tôi còn chưa biết chữ yêu đánh vần thế nào thì cô này đã biết đi chơi với con trai rồi. Đóng xong phim Con chim vành khuyên, Tố Uyên bỏ học, thi vào Trường Múa, sau bỏ Trường Múa đi đóng toàn các vai phụ. Mãi sau này tôi mới biết Tố Uyên lấy Lưu Quang Vũ, vì tôi ở nước ngoài suốt.

Đối diện chếch nhà số 10 một chút, sang phía gậm cầu, là nhà ông nhạc sỹ Vũ Tự Lân, đầu hói, ăn mặc chải chuốt và có hai cô con gái rất xinh. Tôi chưa nghe một bài nào do ông này sáng tác, cứ thắc mắc hoài do đâu mà người ta gọi ông là nhạc sỹ.

Còn sau lưng nhà số 10, bên kia tường là khu tập thể quân đội. Đại tá ca sỹ Dương Minh Đức hồi đó là thằng Đức con cô Oanh bạn mẹ tôi, ngang lứa với em trai tôi chạy lon ton bên đó. Bố của Dương Minh Đức là Dương Minh Đẩu, một ông nổi tiếng đào hoa. Về già hai ông bà ở hai nơi, bà Oanh sống ở Sài gòn.

Đầu phố Lý Nam Đế là "hang ổ" của các nhà văn nhà báo nhà điện ảnh Quân đội. Bọn trẻ con chúng tôi gặp các nhà nổi tiếng thường xuyên, chỉ cho nhau ông nào là ông nào. Các nhà văn nhà thơ hầu hết trông rất buồn cười và giản dị, không giống như thơ văn của họ đọc mê mẩn cả người. Những năm chữa Ti Vi, tôi hay sửa máy cho nhà văn Nguyễn Xuân Thiều ở ngoài bãi Phúc Xá, gần nhà ông Nguyễn Khải. Nói chuyện với ông Nguyễn Khải thấy nhàn nhạt, có lẽ ông cho tôi là người ngoại đạo, lại là con nít chăng. Ngược lại, tôi cũng không thích đọc hai ông này, văn hay nhưng không thật lòng.

Khoảng năm 1975 hay 1976 gì đó ca sỹ Ngọc Tân đến nhà tôi hàng chục lần, nằn nì mua lại cái máy quay đĩa do tôi lắp có nhạc màu. Hồi đó máy quay đĩa này là độc nhất vô nhị ở Hà nội, Ngọc Tân rất mê. Tuy cùng trạc tuổi tôi nhưng Ngọc Tân toàn gọi tôi bằng anh xưng em, làm tôi rất ngượng. Nghệ sỹ và cầu thủ bóng đá của ta rất lạ, thường được hàng ngàn người vỗ tay song lại rất tự ty trước những người có chút tên tuổi ở lĩnh vực khác.

Sau này Ngọc Tân vượt biên, gặp tai nạn đau lòng phải quay về. Cái máy quay đĩa của tôi không rõ rơi vào tay ai.

Ra làm việc, tôi không còn thời gian tham gia văn nghệ nữa. Những năm thơ ấu ham thích văn nghệ cũng hay, dầu sao thì cuộc sống cũng phong phú hơn, làm cho ta quên hết khó khăn gian khổ trong đời thường. Sau này tôi mua đàn oc-gan cho con gái tập, hướng cho chúng nó làm quen với âm nhạc một cách bài bản hơn, chơi cho biết thôi, không đi chuyên nghiệp.

Đúng lúc tôi mua đàn cho con thì chị Phương, con gái nhạc sỹ Nguyễn Xuân Khoát đang rơi vào cảnh khốn cùng. Đoàn Giao hưởng nơi chị công tác chẳng có ai xem, gần như tan rã, chia làm nhiều tốp nhỏ đi đánh quả. Chị Phương chơi đàn đại thụ cầm, thành ra thất nghiệp. Chồng chị Phương người dân tộc, nhờ chính sách dân tộc mà được sang Nhạc viện Kiev học đàn accordeon. Tôi chưa hề thấy anh cầm cái đàn trong tay bao giờ, nhưng uống rượu và chơi lô đề thì tôi thấy nhiều. Vợ chồng chị Phương mới ly dị, bán căn hộ chia đôi tài sản, chị không có chỗ ở, không có thu nhập, ra đầu phố bán chè đậu đen. Tôi bảo chả ai như chị, đáng ra phải phát huy thế mạnh thì chị lại đi phát huy thế yếu. Chị bảo thế mạnh là sao, có ai nghe chị đàn đâu. Tôi bảo không ai nghe thì chị đi dạy đàn. Chị cười nhăn nhúm: "Đàn thụ cầm cả Việt nam chỉ có vài cái, ai học làm gì?"

Tôi nói chị nên đi dạy đàn oc-gan, kỹ thuật cơ bản nó cũng giống như piano thôi, phần kỹ thuật điện tử thì không khó, tôi đọc sách hướng dẫn rồi phổ biến lại cho chị. Chị bắt đầu dạy hai đứa con tôi, coi như lấy đà. Sau đó chị nhận lời dạy nhiều nơi, đủ tiền nuôi con học xong đại học.

Bây giờ thằng con làm ăn khá lắm, đang trả nghĩa cho mẹ.

(20) - Doãn tươi sống

Anh Doãn là chồng chị Ngoạn. Lần đầu trông thấy anh Doãn, tôi mê mẩn. Anh đúng là hình ảnh người sỹ quan quân đội hào hùng và đáng kính nơi con mắt trong veo của mấy đứa học sinh phổ thông chúng tôi. Anh cao, vai rộng, ngực nở, bụng thon. Bộ quân phục mới tinh, hai sao một vạch lấp lánh. Lấp lánh hơn nữa là cái thắt lưng da mạ kền, trên đó đeo khẩu súng ngắn phía bên phải, cái đài bán dẫn National bên trái và mấy thứ gì gì nữa. Trên nắp áo ngực là cây bút Kim Tinh, cũng sáng lấp lánh. Bọn tôi ngắm anh mê ly.

Nói về chuyện cái thắt lưng lấp lánh, tôi mới nhớ là có lần tốp ca chúng tôi đứng hát trên sân khấu Nhà hát Nhân dân, làm động tác rất chi là đều. Bỗng nhiên khán giả cuời ồ. Một lát sau khán giả lại cưòi ồ. Chúng tôi không hiểu vì sao khán giả cười, bắt đầu cuống. Nhạc sỹ Duy Quang đứng nép sau cái phông phía trước sân khấu, vung tay bắt nhịp cho chúng tôi hát, ngụ ý tốt lắm, cứ hát tiếp đi.

Xong tiết mục, thoát ra phía sau sân khấu, chúng tôi nhìn nhau dò xét, xem có thằng nào ăn mặc hớ hênh không, đúng ra là xem xem có thằng nào quên cài cúc quần. Tất cả đều ngon, vậy sao khán giả lại cười nhỉ?

Thầy Hiệu phó từ trong đám khán giả chạy lên chỗ chúng tôi, mặt tươi như hoa. Tôi nghĩ thời nay khó kiếm được một ông Hiệu phó như ông Hiệu phó này của chúng tôi. Ông mê văn nghệ thể thao, chính xác là mê học sinh trường ông giỏi văn nghệ thể thao. Bọn chúng tôi đi hội diễn hay thi đấu bóng đá, ông toàn bỏ tiền túi bồi dưỡng chúng tôi, khi thì phở, khi thì nước chanh.

- Các em hát tốt lắm! Nhà sư phạm phấn khởi bắt tay chúng tôi.

- Thưa thầy, thế vì sao thỉnh thoảng khán giả lại cười ồ lên ạ?

- À, tại cái khoá mạ kền trên thắt lưng đấy. Khi các em quay người sang bên này, rồi quay lại về bên kia, mấy cái khoá mạ kền ấy hắt ánh đèn pha, cùng loé sáng lên, trông rất buồn cười.

Thú vị thật!

Thầy hiệu phó đích thân vào đơn vị Công an vũ trang ngay gần trường mượn mười mấy bộ quần áo, giày, thắt lưng cho tốp ca chúng tôi mặc lên sân khấu, sáng hôm sau ông lại lui cui mang đi trả.

Quay lại chuyện anh Doãn. Tôi không được dự đám cưới anh Doãn chị Ngoạn, lúc làm đám cưới họ tôi không ở Hà nội. Năm 1972 tôi về nước, họ đã có hai con gái, Hường và Giang. Anh Doãn già xọp, không còn vẻ hiên ngang như trước nữa. Mẹ tôi kể anh Doãn bất chấp quân lệnh, đang ở chiến trường Lào bỏ về cưới chị Ngoạn, thế là tuột xích hết, mất quân tịch, mất đảng tịch, chỉ còn lại cái danh ông miền Nam tập kết.

Không mặc binh phục nói riêng, không mặc đồng phục nói chung, trông người ta tầm thường hẳn. Thế mới biết cái câu "người đẹp nhờ lụa" cũng ứng với cả đàn ông.

Nhờ mấy ông đồng hương Phan Thiết xúm vào giúp đỡ, anh Doãn được nhận vào làm ở Công ty Tươi sống. Thực tình tôi không biết tên đầy đủ của Công ty này là gì, chỉ biết nó kinh doanh thực phẩm tươi sống. Anh Doãn chuyên đi thu mua lợn cho Công ty, chiều tối về nhà, người toàn mùi heo, con lợn theo cách gọi của anh.

Chị Ngoạn học Trung cấp tiếng Hoa. Ngồi ở buồng nhà mình, tôi vẫn nghe thấy chị học bài, nỉ tủng, ủa pu tủng, ủa tủng nỉ pu tủng, bùn cừi lắm. Riêng bài Tung Phang Hùng (Đông Phương Hồng) thì chị hát hay hơn Tường toét. Không có trọng tài phán xét xem ai phát âm tiếng Hoa đúng hơn, nội cái giọng thì chị Ngoạn ăn đứt giọng vịt đực già của Tường toét rồi.

Sau năm 1979, hình như ta bỏ không dạy tiếng Hoa ở trường phổ thông, chị Ngoạn xoay sang học cấp tốc tiếng Anh rồi chiến đấu tiếp trong trường cấp hai với cái tiếng Anh cấp tốc của chị, cho đến khi về nghỉ hưu một cách thanh thản là đã làm tròn nhiệm vụ cao cả của người kỹ sư tâm hồn. Nếu có một người Anh nào hiểu chị Ngoạn nói gì thì tôi xin đi đầu xuống đất. Tất nhiên ý tôi là khi chị ấy nói tiếng Anh, chứ nếu chị ấy nói tiếng Việt thì khả dĩ cũng có người Anh nào đó hiểu được, nếu họ biết tiếng Việt.

Lương giáo viên thấp. Tôi nhớ những năm khó khăn đói kém, có ông thầy ở Huế ra câu đối: "Thầy giáo tháo giày đi chợ Tết". Thầy giáo và tháo giày là cặp từ nói lái, khó đối ra phết.

Dân Huế hay nói trạng và hay nói mỉa. Tôi nghe kể có lần ông Tố Hữu về quê, đi thăm nông dân. Nhà thơ kiêm nhà lãnh đạo hỏi han sâu sát quần chúng: "Hồi này ăn uống răng?" Ông già nông dân cười tươi trả lời: "Lo chi. Ăng uống qua loa là sôống được thui mừ!". Nhà thơ thừa hiểu "ăn qua loa" là ăn qua loa phóng thanh, bỏ đi luôn.

Làm anh nhân viên Công ty tươi sống lương chả đáng bao nhiêu, giỏi là hơn bốn chục bạc một tháng. Cha tôi lương Trưởng phòng một trăm đồng, thuốc lá tiêu chuẩn thường để dành tiếp khách, bản thân phải mua thuốc lá sợi vàng Lạng Sơn về quấn mà hút. Chuyện hút thuốc lá bây giờ kể lại chắc ít ai tin. Giấy quấn thuốc lá hiếm đến mức người đi công tác nước ngoài mang về được khoảng một cân giấy thuốc lá coi như chuyến đi đã thành công rực rỡ, mặt mày hớn hở tận mấy tháng.

Không biết ông nào phát hiện ra là giấy của tờ "Bản tin Bắc Kinh" do Sứ quán Trung Quốc phát có thể dùng quấn thuốc lá rất tốt, tàn trắng. Một "Bản tin" có thể hút được nửa tháng. Lâu lâu cha tôi lại đạp xe lên Sứ Quán Trung Quốc xin Bản tin, cẩn thận cho vào cặp mang về. Tôi trêu ông già: "Ba không sợ Công an ghi sổ đen à?". Ông cười rất tươi (cha tôi cười tươi lắm, cười tươi hơn tôi nhiều!) nói ông không sợ, vì có ông cùng cơ quan đã bị Công an hỏi rồi, ông này bảo lấy về quấn thuốc lá, chứ đọc làm đếch gì mấy thứ tài liệu vớ vẩn này. Vị công an không tin, ông cán bộ bèn xé bản tin, quấn ngay một điếu mời tay công an hút, được anh ta khen ngon đáo để!

Doãn cũng thế, ai thì cũng thế, đều hút thuốc lá quấn.

Đùng một cái tôi thấy Doãn móc bao ba số năm ra mời tôi, động tác ngụ ý thuốc ba số là chuyện vặt, chú mày cứ hút đi. Nhà văn Nguyễn Quang Lập trong tập tản văn "Ký ức vụn" của mình vừa mới xuất bản viết một lần có anh chàng ứng viên con rể người nước ngoài đến chơi thăm ứng viên bố vợ - nhà thơ Phùng Quán, bóc bao ba số hút một điếu rồi giả vờ để quên trên bàn, ra về. Hôm sau nhà thơ Phùng Quán định mang bao thuốc sang trọng đó ra mời khách thơ, ông kia sừng sộ: "Sao ông dám lãng phí thế!?" rồi mang bao thuốc khuyết một điếu kia ra đổi được nguyên một lít rượu và cả đống mồi. Ai không tin chuyện này thì xin tìm sách của Nguyễn Quang Lập mà đọc.

Thuốc lá ba số là biểu hiện của sự sang trọng. Ai hút ba số là người giàu hoặc làm công việc gì đó mà tên gọi của công việc tự nhiên đồng nghĩa với chữ giàu.

Nhưng chuyện Doãn giàu ta hãy để lại sau, bây giờ kể chuyện Doãn về quê sau giải phóng miền Nam như thế nào đã.

Doãn khuân ra cả núi đồ: xe đạp, Ti Vi cửa lùa, quần áo các loại. Đương nhiên là phải có con búp bê biết chớp chớp mắt.

Rồi chị Ngoạn cũng nhảy vào Phan Thiết, cũng khuân ra cả núi đồ, lần này có thêm cái xe nữ Honda 50, đời thế là lên hương.

Hai vợ chồng đi đâu cũng khoe là sắp chuyển vùng về quê Doãn, ở trong đó sướng hơn ở Hà nội nhiều. Họ đi mấy tháng, không cắt hộ khẩu, vẫn để con cái ở lại Hà nội rồi đột ngột quay ra, tịnh không bao giờ nhắc đến thành phố Phan Thiết quê hương thân yêu của Doãn nữa.

Sau này tôi mới biết sự thể.

Ở tuổi mới lớn, Doãn lêu lổng chơi bời bị ông già đánh cho một trận, Doãn bỏ nhà ra đi, đi cái kiểu mà sau này người ta gọi là đi bụi đời. Lúc sắp chết đói, Doãn được một đơn vị bộ đội cứu sống, cho ăn, cho quần áo rồi giữ lại làm liên lạc. Ra Bắc, Doãn được học trường Sỹ quan Lục quân, dăm năm sau lên Trung uý.

Doãn về quê như người hùng, như kẻ thắng trận trở về. Không biết Doãn làm tới chức gì, đoán là đi từ thủa kháng chiến chống Pháp, bây giờ cầm chắc cấp tá, ai cũng nể sợ, nhất là mấy người họ hàng có thân nhân tham gia nguỵ quân nguỵ quyền. Hết nhà nọ mời ăn lại đến nhà kia mời nhậu. Cái bụng trường kỳ bị tra tấn bằng cơm gạo hẩm, hạt bo bo nay được chất chứa toàn sơn hào hải vị.

Nếu Doãn cứ đóng vai người hùng thì cũng chả sao, không có chuyện gì mà chép vào đây, đằng này Doãn đóng cả vai người hèn nữa.

Cô em gái hỏi ngoài đó anh có Ti Vi không, Doãn hỏi Ti Vi là cái gì?

Mẹ già hỏi ngoài đó con có được đi xe hơi không, Doãn ngơ ngác xe hơi là cái chi?

Ông chú hỏi quần áo đâu mà mặc áo rách về quê, Doãn nói bộ này là bộ tốt nhất của cháu rồi đó.

Lần đầu tiên vào nhà vệ sinh, thấy cái xí bệt, Doãn thò đầu ra hỏi mấy đứa cháu: "Ê, ỉa vào đâu tụi bay?"

Đại khái thế.

Cả họ cả hàng thương xót quá. Tội nghiệp quá. Thằng cháu ngày xưa thông minh nhanh nhẹn mà ra Bắc mấy chục năm, nay gần như là người rừng, u mê không biết gì cả. Thế là họ xúm vào, người cho cái này, kẻ cho cái khác, Doãn tha hồ khuân ra Hà nội.

Đến đoạn Doãn cùng vợ tính chuyện định cư ở quê hương. Đống vốn tiếng Anh của Ngoạn làm sao mà so được với các giáo viên Anh văn trong Nam, thế mà chị ta cứ dứt khoát đòi chiếm chức hiệu phó. Doãn thì chả có nghề gì, chả nhẽ lại phát huy nghề đi bắt lợn, đã thế lại muốn làm lãnh đạo. Thời mới giải phóng, "đại học ở xa không bằng lớp ba ở gần". Doãn tuy là người quê hương thật, nhưng ở xa về, không Đảng, không đại học, bị mấy ông lớp ba ở rừng về đá cho bẹp rốn là cái chắc!

Trong các bài giảng về quản lý kinh tế, chính các giáo sư Liên xô đã vạch ra những bất cập, bất hợp lý của chế độ bao cấp. Đời thủa nào một chị nhân viên thương nghiệp lại sống sướng hơn ông tiến sỹ (tiến sỹ thật hay tiến sỹ giấy thì cũng là tiến sỹ). Vậy mà đúng là như thế.

Những khoá quản lý kinh tế đầu tiên anh em phiên dịch không được cấp chứng chỉ đã qua học quản lý kinh tế. Học viên toàn ông nọ bà kia, mấy tay phiên dịch làm sao mà được cấp bằng. Có tay phiên dịch bướng, cãi là kiến thức đi qua người tôi mới tới tai các anh chị, làm sao tôi không có những kiến thức đó, chưa muốn nói là kiến thức đọng lại trong người tôi còn nhiều hơn. Nhờ đó mấy khoá sau phiên dịch cũng được cấp chứng chỉ.

Ở Liên xô bà thương nghiệp giàu hơn ông tiến sỹ thì ở Việt nam cũng thế thôi. Làm bà bán thịt mậu dịch hay bán gạo mậu dịch là chắc chân nhất.

Công thức đó Doãn mau chóng lĩnh hội, nếu không lĩnh hội thì đời cũng sẽ dạy ngay cho Doãn. Quy định là có hệ số hao hụt trong quá trình chở lợn từ xa về đến lò mổ. Giữa đường gặp mưa lạnh, lợn sụt cân rất nhiều. Ta cứ theo hệ số đó mà thực hiện. Quy định từ lợn sống sang thịt lợn cũng có hệ số nhất định, thường cao hơn thực tế. Con to con nhỏ, con gầy con béo, đâu có ra thịt giống nhau. Vậy ta cứ theo hệ số mà thực hiện. Cái này cũng giống như ở các đội xe của cơ quan Nhà nước, định mức xăng cho một trăm cây số bao giờ cũng cao hơn thực tế, xe chạy hết 10 lít xăng thì định mức là 13 lít. Thiếu gì cách giải thích, nào là đường xấu hao xăng, nào là xe cũ uống xăng, nào là định mức của nhà sản xuất là định mức lý thuyết, ít hơn so với thực tế. "Thực tế là thước đo chân lý", các cụ dạy thế. Và thực tế là có đề ra định mức tiêu hao xăng cao thì cả đội xe mới có tiền ăn sáng, phì phèo điếu thuốc lá thơm bên ấm chè Thái bốc khói.

Áp tải xe ô tô chở lợn từ Hải Dương về, tranh thủ cho chúng nó ăn gì đó trên đường, số thức ăn này được coi là nằm trong thể trọng của lợn. Khi bàn giao nhập kho, cân cho đến khi nào đạt chỉ số cần thiết đã trừ hệ số hao hụt thì dừng lại, ký biên bản giao nhận. Số lợn "thừa ra" thì úm ba la ba ta cùng... chia nhau.

Đó là lời giải cho những bao ba số, những bữa nhậu triền miên và cái dáng vẻ phong lưu của Doãn.

Doãn kể với tôi, vào dịp các kỳ họp quan trọng, thịt phải đạt tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ, con nào không đạt là phải huỷ. Huỷ ngay, Doãn huỷ bằng cách bán ra cho các bà hàng thịt ngoài chợ. Ngoài ra chân giò và thủ thì vô thiên lủng. Mẹ tôi chả cần đài báo gì cũng biết là trên đang có cuộc họp gì đó, bà chỉ cần thấy mậu dịch bán nhiều chân giò và thủ là biết ngay.

Doãn đang làm ăn ngon trớn thì bị ép về hưu. Cái "ghế" không có "ghế" của Doãn vậy mà ối người nhòm ngó. Tổ chức gọi lên, bảo anh có từng ấy năm trong quân đội, theo quy định được tính hệ số (lại hệ số!) nên nay anh đã quá tuổi về hưu. Cơ quan đưa tiễn, tặng quà tặng cáp, vinh dự vô cùng, để rồi biến!

Quen ăn nhậu, quen giao du với người có tiền, về hưu Doãn buồn xiu, gầy tọp đi trông thấy. Mấy người ngày trước vồ vập nay gặp Doãn lờ không chào, mấy mụ hàng thịt trông thấy Doãn mắt đơ ra như thấy người xa lạ.

Chiều chiều Doãn ra đứng tựa cánh cổng, một tay xỉa răng, tay kia cầm điếu thuốc ba số, mắt lơ láo nhìn người qua kẻ lại. Cầm điếu thuốc thôi, không hút. Ai thấy thế, định móc bật lửa ra cho Doãn châm thì Doãn lắc đầu anh vừa mới hút rồi, lát nữa sẽ hút. Sau rồi chẳng có điếu thuốc ba số mà cầm nữa, Doãn đứng tay không, ai đi qua thương tình mời thuốc thì hút, thuốc gì cũng hút.

Thế cũng coi như xong một đời người. Nhưng số Doãn ăn về hậu vận, bây giờ Doãn lại không khổ nữa, chuyện này kể sau.

(21) - Xe đạp

Trước Tết vừa rồi vợ chồng con gái tôi sắm xe hơi, chúng nó lấy xe đưa tôi đi thăm họ hàng, bạn bè mấy ngày Tết. Đi xe hơi không phải chịu rét, không bị mưa. Ấy thế mà không hiểu sao khi ngồi êm ấm trong xe hơi, tôi lại nhớ đến cái xe đạp, nhớ một thời cả đất nước ta gắn bó với cái xe hai bánh diệu kỳ đó.

Năm 1957, cha tôi thuê một cái xe đạp, chở tôi từ Đô Lương về Diễn Châu, sang Cầu Bùng thăm dì và dượng tôi đang công tác ở đó, con đường khoảng 30 km, đi và về là 60 km. Hồi ấy mấy ai có xe đạp, cần thì thuê. Lần đầu tiên được đi "du lịch" xa, tôi rất thích, ngồi trên cái đèo hàng cứng ngắc, tha hồ ngắm đất trời thiên nhiên Nghệ an.

Vào những năm 60 thế kỷ trước, một cái xe đạp Thống nhất giá 270 đồng, do ta sản xuất, nhưng thực tế thời kỳ này còn tồn kho nhiều phụ tùng Pháp để lại, xe rất tốt. Một tháng cơm tập thể chỉ có 18 đồng, cơm sinh viên thì 15 đồng, ăn sáng chỉ hết 5 xu, gạo 4 hào một ký. Lương tháng công nhân có mấy chục đồng, kể vậy đủ thấy cái xe đạp là rất đắt. Cha tôi dành dụm mua được xe, thỉnh thoảng, khi cao hứng, ông cho tôi mượn xe để tập. Chưa đủ cao để ngồi lên yên, tôi đi theo kiểu "đứng đạp", mông ngoáy như khi con chó vẫy đuôi.

Học phổ thông, tôi toàn đi bộ hoặc "đi nhờ" tàu điện, đôi guốc gỗ mòn vẹt gần giống cái bay của thợ nề. Xe đạp là cả một ước mơ của thế hệ chúng tôi.

Năm 1965 học nội trú tiếng Nga trong trường Chuyên tu Ngoại ngữ Thanh Xuân, chiều thứ bảy tôi được về nhà.

Cô Chi Mai chủ nhiệm lớp bên cạnh, cô chỉ lớn hơn tôi ba bốn tuổi. Có lần tự nhiên cô hỏi: "Em có muốn về Hà nội cùng cô không?". Tất nhiên là tôi có muốn, rất muốn. Được đi xe đạp, được chở cô giáo, được nói chuyện tiếng Nga, còn gì bằng nữa? Cô thì muốn tôi chở để thoát mấy anh thanh niên bám nhằng nhẵng theo cô. Ngoài ra, tôi cũng không đến nỗi xí trai đến mức ngồi sau lưng tôi cô phải xấu hổ. Vậy là chiều thứ bảy nào tôi cũng đứng đợi cô giáo cạnh cổng trường, chở cô về nhà ở đường Trần Hưng Đạo hay Lý Thường Kiệt gì đó, lâu quá quên mất rồi, lễ phép chào cô xong nhảy tàu điện về Vườn hoa Hàng Đậu rồi đi bộ về nhà.

Học tiếng Nga, chúng tôi được xem phim tiếng Nga mà không có tựa đề, không thuyết minh để luyện nghe. Thấy trên màn ảnh người ta đi xe đạp, anh bạn cùng lớp người Thái Bình buột miệng: "Mình sang Liên xô sẽ cố mua một cái xe đạp!". Thế là chúng tôi mất toi hai buổi tối họp kiểm điểm thái độ, động cơ, mục đích học tập sai trái của anh bạn tiến sỹ tương lai kia, người suýt nữa bị gửi trả về địa phương, nếu không chịu tỏ ra ăn năn hối lỗi, khóc sưng hai con mắt.

x

x x

Xe đạp không chỉ là phương tiện giao thông, phương tiện vận tải, nó còn là tài sản, là vật trang sức, là niềm kiêu hãnh của nhiều người.

Xe Pờ giô (Peugeot) của Pháp là sang nhất, màu đồng là đầu bảng. Xe Đia măng (sau này có loại khác cũng của Đức là Mipha xanh ngọc, của Tiệp khắc là Praha xanh thẫm...) cũng hay, vành 680, đi rất bon, nhất là nó tạo dáng cho phụ nữ rất tốt, ngồi lên xe Đia măng, ngực bạn gái ưỡn ra, mông hình như cũng tròn và căng hơn, chị em đi xe này rất lãi. Bạn hãy tưởng tượng mấy cô thanh nữ lượn xe đạp quanh Bờ Hồ, chầm chậm, duyên dáng hưởng cảnh đẹp Hồ Gươm mà cũng là để cho thiên hạ phải dán con mắt ái mộ vào các đường cong của mấy nàng đang uyển chuyển đạp xe, dẫu mỗi nàng dùng kẹp phơi quần áo kẹp túm cái ống quần bên phải quần lụa ta tăng đắt tiền để nó khỏi hy sinh nếu sa vào miệng cái đĩa bẩn thỉu sẵn sàng nhá bất cứ cái gì lọt vào hàm răng của nó.

Xe Vĩnh Cửu của Trung Quốc làm theo kiểu Anh, nó giống như xe đạp mang từ Thái lan về, nặng nhưng rất chắc chắn, làm xe thồ rất tốt, vành có lớp mạ lót đồng trước lớp mạ kền, ít rỉ. Trong quân đội, sỹ quan thường có xe Vĩnh Cửu hoặc Phượng Hoàng.

Những người học ở Liên xô về thì đi xe Sport, sau này là Start, thuộc giòng xe đua bán chuyên. Chiếc xe đạp Liên xô là cái chứng chỉ hiển hiện anh là người mới từ đất nước Xô viết trở về, là địa chỉ đến của những cặp mắt đàn bà con gái đang kiếm chồng cũng như của những ai hay có tính ghen tỵ.

Người già hoặc trẻ con thì đi cái xe đạp trẻ con, cũng do Liên xô sản xuất, thường được dân tình âu yếm gọi là "xe con vịt".

Năm học cuối, tôi được một anh bạn Nga là dân đua xe đạp bán rẻ cho cái xe Champion cũ, khi anh ta được thưởng xe mới nhờ thành tích thi đấu tốt. Đó là xe đua chính hiệu, lốp liền xăm, nhẹ chỉ bằng nửa xe thường. Mỗi tội về không sao đăng ký xe được, vì trong dãy số khung có một con số bị mờ, tôi thì nói là số năm, tay công an dứt khoát bảo đó là số ba. Có thể là trong một cú ngã, xe này bị cái gì đó đâm vào làm "mất gin" con số đáng ghét kia.

Ngoài ra tôi cũng xách thêm về một cái khung xe Start, làm quà cho cậu em. Phải mất cả năm, chú em mới kiếm đủ phụ tùng dựng thành cái xe mà đi học.

x

x x

Một hình ảnh đặc trưng sau năm 1975: bộ đội, cán bộ trong Nam ra Bắc, ai cũng xách một cái khung xe đạp và một con búp bê tóc vàng. Bến xe, nhà ga rặt thấy hai thứ đó, tô điểm cho khuôn mặt rạng ngời hỷ hả của chủ nhân "đồ quý hiếm".

Một hình ảnh nữa không kém phần tiêu biểu: Nhà chật, người ta treo xe đạp lên hai cái móc lên trần nhà, tất nhiên là sau khi đã lau chùi cái xe sạch bóng. Bạn hãy hình dung: xe ngủ ở trên, người nằm ở dưới.

Nói về lau xe, có nhiều người mê lau xe thành nghiện, họ lau xe bất kỳ lúc nào có thể, kể cả khi cái xe không bẩn. Chính vì thế mới sinh cái tên Dậu "lau". Tài Dậu không ngủ trưa, không đi chơi với bạn bè, cần mẫn lau xe, cái xe của y lúc nào cũng sáng loáng, bóng bẩy, bóng hơn cái mặt hắn nhiều.

Chăm sóc xe đạp cũng là một thú vui, hầu như ai cũng có bộ đồ sửa vá xe. Ngày rảnh lôi xe ra lau dầu, bôi mỡ, tăng xích, cân vành... Đức xồm cắt miếng cao su cho vào líp thay vào chỗ cái râu tôm, đi xe, líp kêu lách tách rất vui tai. Người khác thì dán thêm mấy cái đề can, lắp đèn nhấp nháy, tạo cho cái xe đạp một phong cách điệu đàng riêng.

Bạn trẻ thời nay chắc không thể tin được hồi đó xe đạp phải được công an cấp giấy đăng ký mới được lưu hành? Có đăng ký thì Thuơng nghiệp mới cấp cho bạn sổ mua phụ tùng. Bạn cũng không thể tin nổi là cả cơ quan hơn một trăm con người thi thoảng mới được phân phối dăm cái xích, vài bộ nan hoa, mấy cái xăm lốp? Tôi chả bon chen, thường nhường tiêu chuẩn của mình cho mọi người (chả phải tôi cao thượng gì, tôi bảo hành Ti Vi cho ông cửa hàng trưởng cửa hàng phụ tùng mô tô xe đạp đầu phố Hàng Đậu, muốn phụ tùng gì cũng có). Nhiều vị kỹ sư, phó tiến sỹ đêm hôm trước kỳ cạch tháo xích đang dùng, lắp cái xích nát vào xe, sáng ra chịu khó đạp cái xe với cái cái xích cũ lủng lẳng như khúc ruột gà, mất vài chục lần dừng xe do tuột xích để đến cơ quan trưng ra "hoàn cảnh thảm hại" của cái xe đạp cũng như đôi bàn tay nhem nhuốc nhằm chiến đấu giành quyền mua sợi xích.

Kể về xe đạp, sẽ phải nói thêm chuyện sau Giải phóng miền Nam, tên gọi các bộ phận của xe đạp rất khác nhau giữa hai miền. Khoảng năm 80, 81 gì đó, chúng tôi phải làm một đợt khảo sát năng lực sản xuất xe đạp và phụ tùng xe đạp trên toàn quốc nhằm sắp xếp sản xuất tiến tới xuất khẩu xe đạp. Sau này chúng ta có xuất khẩu xe đạp sang Cu ba và một vài nước XHCN khác. Khổ thân mấy ông Tây, ngồi lên cái xe ẻo lả, phụ tùng chất lượng thấp của Việt nam, không biết họ lê được mấy ngày.

Chúng tôi gặp một khó khăn bất ngờ: báo cáo của các đơn vị phía Nam dùng toàn từ địa phương, thoạt đầu chúng tôi đọc mà không hiểu gì cả, phải mất rất nhiều công tìm hiểu và "dịch" ra cách gọi của Hà nội. Tôi còn nhớ một vài ví dụ: sườn là khung, vỏ là lốp, ruột là xăm, sên là xích, thắng là phanh, đạn là bi v.v. Trong quá trình đi đến thống nhất hoá thuật ngữ, đã xảy ra một số cuộc cãi nhau to, bởi có mấy anh đã không biết thì thôi lại còn hay tinh tướng, bắt chúng tôi hiểu nghĩa sai lè.

x

x x

Kỷ niệm về xe đạp nhiều lắm, nó gắn với cả một giai đoạn dài của đất nước ta, kể ra không xiết.

Phố xá hồi ấy náo nhiệt tiếng leng keng chuông tàu điện, tiếng reng reng chuông xe đạp và những tiếng rao hàng rong. Những cô gái làng Ngọc Hà hay Nhật Tân đội nón trắng, đèo theo mẹt hoa tươi đầy màu sắc. Ông già bán kẹo kéo với cái hộp gỗ đựng đầy kẹo nhân lạc đằng sau. Những xe đạp buộc những dây bóng bay hay giá đồ chơi nhựa đỗ trước cửa công viên thu hút trẻ con...

Bạn rủ người yêu đi chơi ư? Hãy làm theo câu vè: "Bơm xe, nghe thời tiết, liếc đồng hồ, dò thủ trưởng" rồi phắn đi đón nàng ở điểm hẹn, chở nàng đi dạo vài vòng phố trước khi vào công viên, dựng chân chống lên, khoá xe cẩn thận. Rồi hoặc bạn để nàng ngồi trên đèo hàng, bạn đứng, nói và làm những chuyện chỉ có hai người biết, hoặc bạn ngồi còn nàng đứng, tuỳ thôi.

Hình ảnh anh bộ đội đạp xe vài trăm cây số về tranh thủ gặp vợ là chuyện rất bình thường. Có một sáng thứ hai nọ, tôi đạp xe lên khu sơ tán, gặp anh sỹ quan chồng của một cô trong cơ quan đang dắt xe lên đê, mặt xanh lét như đít nhái, miệng phều phào: "Chào cậu!". Khi vào đến cơ quan, tôi thấy mấy thanh niên trong đang mua tre về sửa đền cái chõng mà cặp vợ chồng kia muợn của nhà chủ và làm gãy đêm qua!

x

x x

Đi xe đạp bạn phải thủ một đoạn dây chun. Dây chun là cắt từ cái xăm không cách nào có thể vá được nữa. Để làm gì? Để phòng khi cái lốp của bạn bị "chửa" thì bạn lấy cái dây chun đó mà quấn lại, còn đi tạm được cả tháng. Từ đó có câu nói vui: "Mặc áo chuyên gia, đi xe cố vấn", nghĩa là mặc áo hở da, đi xe vấn lốp - nụ cười lạc quan và hài hước đậm chất Việt nam.

Dân gian còn có câu vè "Đẹp trai đi bộ không bằng mặt rỗ đi Lơ", Lơ là tên gọi tắt xe Pơ-giô. Mãi sau này mới xuất hiện câu vè khác, liên quan đến xe máy: "Một trăm câu nói không bằng làn khói Honda"

Mất xe đạp là cả một tai họa. Vì thế nên có câu ví trêu anh chồng cho vợ đi Tây:

Có vợ mà cho đi Tây

Giống xe không khoá để ngay Bờ Hồ

Thay vào hình ảnh ông xe ôm ngày nay, là ông xe đạp thồ. Ông này có thể chở bạn đi bất kỳ đâu, hoặc chở đồ của bạn nữa, giá cả rất phải chăng, và nhất là không hề có khói xăng làm ô nhiễm môi trường, trừ cái mùi mồ hôi chua lòm của ông ta. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ cái mùi mồ hôi đó là "một phần của cuộc sống" thì chuyến du lịch trên xe thồ cũng sẽ vẫn rất thú vị. Thằng Tấn em Đức xồm đi bộ đội về phải làm xe thồ mấy năm rồi mới được bố trí công việc.

Chúng ta nhích từng bước đến văn minh hiện đại. Cái xe đạp dường như đã lui vào quá khứ. Không hẳn vậy. Mấy bà đồng nát, mấy anh bơm gas bật lửa, mấy ông thợ khoá vẫn đi xe đạp, mỗi ngày rạc cẳng dăm chục cây số chứ không ít. Đám học sinh vẫn đi xe đạp tới trường, ríu rít mỗi sáng mai. Chúng sẽ có gì để kể cho con cháu về cái xe đạp như tôi đã kể với bạn?

x

x x

Có một ông bạn thân của bố vợ tôi hẹn mồng hai Tết năm 1976 đến để cùng ông đi thăm một số bạn bè cũ của hai vị mà tôi chưa được biết (bố vợ tôi đã mất lâu rồi).

Đúng hẹn tôi đạp xe đến sớm, ông mặc bộ gụ nâu ra tiếp tôi. Nói chuyện một hồi, ông đứng dậy: "Ta đi nhỉ?". Tôi nhìn ra cửa không thấy cái xe hơi thường đến đón ông đi làm. Ông vỗ vai:

- Chúng mình đi xe đạp cho khỏe cháu ạ!

Thế là tết đó một ông quan khá to ngồi trên đèo hàng xe đạp tôi đi khắp Hà nội!

Hồi ấy người ta làm quan thế đấy.

x

x x

Bà xã tôi một ngày đạp xe hai vòng đến cơ quan và về nhà. Nghỉ trưa đồng chí ấy phải về cho con bú. Đang giữa trưa nắng như thiêu như đốt, ngực căng sữa, thì bị một chú công an trẻ măng chặn xe ở đường Cát Linh, đòi kiểm tra giấy Đăng ký xe. Bà xã tôi để giấy tờ ở cơ quan, vì vội nên không mang theo người. Van xin trình bày đủ kiểu hồi lâu không xong, bà chị đành xuống giọng lễ phép nói với tay công an chỉ áng bằng tuổi cậu em út mình:

- Xin anh thông cảm cho em đi, lần sau em sẽ nhớ mang theo giấy tờ ạ.

Người thi hành công vụ khoát tay:

- Có thế chứ, thôi đi đi!

Bà xã tôi cú mãi vụ này. Về sau, hễ đụng đến làm chương trình truyền hình An ninh Tổ Quốc thì bà ấy bao giờ cũng khó tính hơn, he he!

(22) - Đi tây

Con người ta luôn có xu hướng tìm đến những nơi có điều kiện sống tốt hơn, nói một cách nôm na là ai cũng có nhu cầu "đổi đời". Anh ở nông thôn tìm cách ra thành thị, anh ở thành phố nhỏ tìm đến thành phố lớn, người ở vùng núi phía bắc thì tìm đường di dân vào các tỉnh Tây Nguyên. Đi hợp pháp hay bất hợp pháp đều là đi tìm miền đất hứa.

Chúng ta thấy có hiện tượng những năm sau Giải phóng, nhiều người ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và phía Nam nói chung tìm cách vượt biên di tản mà dân số của thành phố vẫn không hề giảm bớt, đó là nhờ những làn sóng di dân từ những vùng miền khác, nghèo khó hơn, liên tục bổ sung vào đó và phát triển không ngừng.

Rồi đến lượt người phía Bắc cũng vượt biên. Chả mấy ai vượt biên vì lý do chính trị, họ thuần tuý theo nhau đi tìm cuộc sống no đủ hơn ở những đất nước có nền kinh tế phát triển, năng suất lao động cao hơn và đương nhiên là phúc lợi xã hội cũng nhiều hơn.

Những năm đó, mấy từ "đi học nước ngoài" hay "đi công tác nước ngoài" gần như đồng nghĩa với việc kiếm được một món tiền kha khá, nó là ước mơ và niềm kiêu hãnh của cán bộ công nhân viên chức nhà nước, đến nỗi có câu:

Cầm vàng còn sợ vàng rơi

Cầm sổ hộ chiếu đời đời ấm no

Từ "đi Tây" ban đầu có một nghĩa cụ thể là đi Pháp, sau này mang ý nghĩa là đi về phía trời Tây, không phân biệt là đi các nước xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa. Cũng chính vì vậy, anh em sinh viên, nghiên cứu sinh quen miệng nói gộp dân bản xứ là "tây" hết, dù đang ở Liên xô hay ở Thuỵ Điển, Đại sứ quán nhắc nhở hoài mà vẫn thế.

Dù lãnh đạo ngành giáo dục lý giải kiểu gì, chính sách ưu tiên cho con em những người có công với cách mạng và ưu tiên cho công nhân có thành tích trong sản xuất, bộ đội có công trong chiến đấu đi học nước ngoài vẫn mang nặng ý nghĩa đãi ngộ, đã dẫn đến chất lượng đào tạo giảm sút rất nhiều so với thời kỳ chỉ chọn đi nước ngoài những người có thành tích học tập tốt.

Ca sỹ Ngọc Tân trốn đi bất hợp pháp, người ta gọi là vượt biên. Ca sỹ Ái Vân đi biểu diễn ở nước ngoài rồi không về nước nữa, được cho là di tản.

Có vô số chuyện đi Tây, tôi chỉ kể về những ai ở nhà số 10 thôi.

Người đầu tiên của nhà số 10 di tản là Chíp, con thứ ba của Đức xồm. Nó là một đứa con gái ít nói, điềm đạm và khá lễ phép. Nhờ có bố làm trong ngành thể thao, dẫu chỉ là anh điếu đóm thì cũng vẫn là người trong ngành, Chíp được chọn vào lớp năng khiếu điền kinh. Năm 15 tuổi, Chíp tham gia đoàn tài năng trẻ của điền kinh Việt nam sang Đức tập huấn. Nó tập tành chăm chỉ, ý thức kỷ luật tốt trong suốt thời gian tập huấn. Các cô chú phụ trách bận theo rõi những đứa hay quậy (và bận cả việc đóng hàng về Việt nam nữa chứ) không ngờ đến lúc tập trung lên xe ra sân bay về nước thì tìm không thấy con Chíp đâu cả.

Chíp ở lại Đức, tính đến nay đã gần hai mươi năm, với đầu óc biết tính toán và lối cư xử mềm mại, lịch sự, nó dần dần giàu lên, trở thành bà chủ một công ty hơn một trăm nhân viên. Cháu nội của ông tư sản rởm nay đã trở thành bà tư sản thứ thiệt trên đất Đức, biến ước mơ làm giàu của giòng họ mình thành hiện thực.

Một thời gian dài, con Chíp đánh hàng về Việt nam, chị nó là con Bông tiêu thụ rồi đánh hàng ngược lại sang Đức. Tuần có mấy chuyến bay đi Đức thì Bông từng ấy lần có mặt ở sân bay Nội bài, quen hết các anh hải quan trên đó.

Con Chíp giàu có, viết thư về nói Đức xồm xoay xở chạy tiền cho hai chị mình là Hạnh và Bông đi xuất khẩu lao động sang Đức, sang đó nó sẽ lo cho hai chị. Hạnh không đi, nó đang theo Kim Sự hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bằng vốn tự có, tiền nong rủng rỉnh cần gì phải đi đâu cho mệt. Con Bông cũng không thèm chấp nhận lời vẫy gọi của cô em gái, nó có tiền, học Đại học tài chính, ra làm mấy năm ở Phòng tài vụ rồi làm Kế toán trưởng cho một Công ty Liên doanh với nước ngoài, sống no đủ.

Thấy các con của Đức xồm không muốn đi Đức, chị Ngoạn bán đồ đạc, vay thêm tiền chạy cho con Hường đi xuất khẩu lao động sang Đức. Con Hường là đứa con gái khá tồ, lơ ngơ như gà tơ đội nón, bố mẹ phải dặn kỹ: "Mày sang đó nhớ dành dụm gửi tiền về cho bố mẹ trả nợ, xong rồi phải gửi tiếp tiền cho bố mẹ có cái sống lúc về già".

Con Hường làm đúng lời dặn, nhà Doãn tươi sống vượt qua giai đoạn khổ sở khi Doãn mới về hưu. Hường lấy chồng người Việt, định cư ở Đức, con cái nó vĩnh viễn không biết nhà số 10 với những trò chơi con trẻ mà mẹ nó từng sống, từng vui đùa.

Con gái lớn của Đức là Hạnh đi làm lễ tân ở khách sạn, trúng mánh quen được một ông Việt kiều Mỹ, ông này xin cưới nó, đưa nó về bên kia Thái Bình Dương. Nhà Đức xồm có hai ông con rể, một ở Đức, một ở Mỹ. Lương hưu bé bằng con kiến, nhà Đức vẫn sống đàng hoàng, quên hẳn cái thời đi nông trường chăn lợn.

Không phải hễ cứ đi Tây là giàu. Thằng Ngọc cháu ngoại cụ Nhẫn theo chúng theo bạn sang Tiệp, làm ăn thua lỗ phải chạy vòng về Việt nam, nai lưng cày cuốc mãi mới trả xong nợ, đến bây giờ vẫn chưa có tiền cưới vợ.

Tôi đi công tác nước ngoài rất nhiều, hàng năm xuân thu nhị kỳ có hai cuộc họp của Phân ban Công nghiệp Điện tử của Hội đồng Tương trợ Kinh tế (gọi tắt là SEV hoặc COMECON) và nhiều chuyến đi khác. Tôi nhát gan, không dám đánh hàng nên không giàu, chỉ đủ cơ số bàn là và nồi áp suất về cho hai cô con gái "gặm".

Giàu nghèo có số.

Đã thế lại còn có kẻ dèm pha nữa chứ.

Năm 1985 tôi đưa một đoàn sang Matxcơva thực tập tại Nhà máy vòng bi số 1. Một ông là sếp cũ của tôi đang làm việc trong Sứ quán gọi điện cho tôi bảo Bộ trưởng đang rất cáu cậu. Có người báo cáo với Bộ trưởng là cậu bị Hải quan sân bay Nội Bài phát hiện cậu quấn một vòng đồng hồ điện tử quanh cổ, dưới cái cà vạt. Tôi hỏi Bộ trưởng cáu sao. Ông sếp cũ nói Bộ trưởng không cáu là cậu mang đồng hồ điện tử đi mà cáu là cậu để Hải quan phát hiện: "Tưởng thằng ấy khôn ai ngờ cũng ngu bỏ mẹ!"

Tôi bảo cái thằng nào dèm pha mới là thằng ngu, nếu Hải quan phát hiện ra điều gì phi pháp, họ chả báo ngay về cơ quan chủ quản, đúng không?

Ông sếp cũ nhắn là tuần sau Bộ trưởng sang Matxcơva để bay tiếp đi Anh, cậu liệu lời mà nói. Khi gặp Bộ trưởng, tôi chả nói gì về chuyện mấy cái đồng hồ điện tử, cụ ấy cũng chả hỏi gì. Vì ông cụ là người rất thông minh.

(23) - Ngày tàn của nhà số 10

Hộ gia đình tôi rời khỏi nhà số 10 sớm nhất, khi chúng tôi được phân căn hộ năm 1985.

Cha mẹ tôi cùng gia đình chú em trai ở lại đó cho đến năm 1996 rồi cũng phải bán nhà ra đi.

Chỗ này phải giải thích thêm một chút. Ở trong một gian phòng mười sáu mét vuông mà có ba hộ khẩu. Hộ khẩu gốc đứng tên mẹ tôi. Hộ khẩu thứ hai là gia đình tôi gồm bốn người tách ra. Hộ khẩu thứ ba là gia đình chú em cũng từng ấy người. Các tiêu chuẩn phân phối như điện, chất đốt, cao quý hơn cả là nhà ở được phân theo hộ khẩu. Khi có điều kiện, ai cũng cố tách hộ.

Nhà số 10 cùng các nhà khác đã bị chợ tạm đầu độc. Chợ Đồng Xuân cháy, trong khi chờ xây lại chợ, chính quyền thành phố duy trì hoạt động chợ bằng cách sử dụng một số dãy phố gần đó làm chợ tạm. Ở ta không có công trình nào xây nhanh được, trừ mấy công trình chào mừng ngày lễ lớn nào đó.

Nên chợ tạm chiếm đóng cả dãy phố nơi có nhà số 10 một thời gian đủ lâu để chợ búa hoá cuộc sống và đạo đức cư dân nơi đây.

Vỉa hè không còn là sân chơi của trẻ con. Vỉa hè nay là nơi diễn ra các dịch vụ ăn theo với chợ: giữ xe, quán nước, kho hàng v.v. bên cạnh những dịch vụ không công khai khác như bảo kê, cò mồi và tiêu thụ đồ ăn cắp.

Đêm khuya, khi chợ nghỉ và dân hàng phố ngủ, những chiếc xe tải kìn kìn kéo nhau về đổ hàng. Từng đống hạt hướng dương và từng núi bia Vạn Lực có nguồn gốc từ Lạng Sơn lừng lững trên vỉa hè, trước lúc mặt trời mọc chúng biến mất, phân tán vào các quầy hàng hay bon bon trên những chiếc xích lô toả khắp Hà nội.

Không rõ ông nào yêu hàng nội hoá tới mức tung tin đồn rằng ăn hạt hướng dương của Trung Quốc sẽ bị ung thư, uống bia Vạn Lực của người Tầu sẽ bị vô sinh. Tôi từng nghe Đức xồm lớn tiếng hùng hồn giải thích rằng Quân đội Trung Quốc đặt hàng Nhà máy bia Vạn Lực sản xuất bia có pha chất hạn chế sinh dục để dễ quản lý lính tráng nước này.

Dù gì đi nữa, thị trường Việt nam đã cứu nhà máy bia Vạn Lực khỏi phá sản. Vỏ bia Vạn Lực nhiều tới mức ở các vùng quê gần Hà nội, người ta lấy chai bia thay cho gạch thuỷ tinh, gắn trên tường những ô lấy ánh sáng màu xanh khá vui mắt.

Trẻ con nhà số 10 được xã hội hoá rất nhanh (xã hội đen, hu hu). Chúng làm thuê cho những người bán hàng với tiền công rẻ mạt. Nói tục, tranh nhau mối hàng. Đánh nhau, bỏ học và ma tuý.

Nhà Đức làm ba gái rồi mới có một trai, nhà chị Ngoạn cũng thế. Nhà Minh Dậu hai trai hai gái, nhưng Quang còi dở người, coi như bỏ, thằng Hải con út đóng vai quý tử.

Các ông quý tử này không chơi những trò mà cha chú, anh chị mình từng chơi, chúng lê la quán nước, miệng ngậm lệch điếu thuốc rất sành điệu, mắt ánh lên vẻ nhìn khinh mạn của kẻ thị dân như là đã biết tất cả và không thèm hạ mình để ý đến cái gì.

Chúng biết cách búng cái tàn thuốc lá bay trúng miệng cống, phát ra tiếng xèo đơn độc. Làn thuốc lửng lơ một lúc lâu trên mặt nước đen ngòm rồi mới từ từ chìm xuống.

x

x x

Trẻ con suốt một đoạn phố có chợ tạm đứa nào đứa nấy đều hút hít. Sẽ không bằng nếu đổ hết tội cho chợ tạm. Nếu không có chợ thì bao nhiêu phần trăm trong số đó là không mắc vào vòng nghiện hút?

Không ai khác ngoài Lại Thị Ngấn, người ở nhà số 16, bị kết án tử hình vì tội buôn bán ma tuý là người có thể đưa ra câu trả lời khả dĩ có thể chấp nhận được.

Khi Ti Vi lần đầu đưa tin, mẹ tôi vẫn chưa tin đó là con Ngấn hàng phố nhà mình. Mẹ bảo nó tốt lắm, rằm mồng một thắp hương xong rất hay mang hoa quả sang biếu hàng xóm. Ai gặp khó khăn, cần là nó cho vay không lãi, đến hạn phải trả nó vẫn cười nhẹ nhàng "Ừ khi nào bác có thì gửi cho em sau cũng được". Ai có tờ một trăm đô bị bẩn hay tì vết gì đó, nó sẵn sàng đổi cho tờ mới toanh.

Tóm lại là Lại Thị Ngấn rất tử tế tốt bụng trong sinh hoạt tại địa phương, chấp hành tốt chủ trương chính sách v.v. Phải thế mới làm trùm buôn lậu ma tuý được chứ!

Tôi cứ buồn và tiếc mãi, vì sao cả đoạn phố có nhà số 10 chúng tôi không bói đấu ra một ông lãnh đạo, một nhà khoa học hay một ông sỹ quan cao cấp để có cái mà khoe với thiên hạ, để câu chuyện về nhà số 10 có thêm những gam màu hồng.

Tại sao lại chỉ có rặt một đám Hợp, Hùng, Dậu, Đức? Người nổi tiếng toàn quốc thì lại là trùm ma tuý!

x

x x

Trong bối cảnh đó, đại gia đình tôi thống nhất phải sớm rời bỏ nhà số 10. Tuân thủ khẩu hiệu: "Hy sinh đời bố, củng cố đời con", đắt rẻ gì cũng bán để cậu em tôi có tiền mua đất làm nhà chỗ khác. Nếu không thì hai đứa con của nó và là hai đứa cháu của tôi sớm muộn thể nào cũng hư.

Người mua nhà của chúng tôi tự xưng là công an. Đúng sai có trời mà biết. Chúng tôi bán nhà mình được 63 cây vàng, thực tế chỉ thu về có 60 cây, ba cây đòi lằng nhằng mãi đành chịu mất.

Người thứ hai bán nhà là Minh Dậu, ngay sát nhà tôi. Vẫn là anh công an đã mua nhà cha mẹ tôi nay mua tiếp nhà Minh Dậu. Minh Dậu khôn, bán được 70 cây, mặc dù vị thế nhà Minh Dậu không bằng nhà tôi.

Trong vòng hơn một năm, anh công an nọ gặm hết nhà số 10. Tất cả đều bán nhà, lấy tiền mua những căn xây sẵn, diện tích khoảng ba chục mét vuông trong ngõ, xây chồng bốn tầng, có cửa kéo, sân thượng ngon lành.

Riêng Hùng què dứt khoát không bán.

Anh công an vận động, đi lại nhiều lần, ép các kiểu Hùng vẫn không bán. Cuối cùng anh ta nhờ trung gian hỏi bao nhiêu thì Hùng bán, Hùng buông một câu gọn lỏn:

- Hai trăm cây!

Theo thời giá, cái chuồng cu của Hùng què bán được 40 cây là đã mừng hú, Hùng ra giá thế để bên mua hết ý định mua nhà Hùng. Nào ngờ sáng hôm sau, anh công an chồng đủ hai trăm cây, Hùng què run rẩy ký vào giấy bán nhà, không ngờ đời mình có ngày cầm hai trăm cây vàng trong tay!

x

x x

Bà ngoại tôi, ông Kháng, bà Cả, Tài Dậu, ông Tường Toét mất lâu rồi. Đám chúng tôi đã lên ông lên bà, mỗi người ở một nơi, rất ít khi gặp nhau.

Hôm rồi tôi đi đám cưới thằng Nù, con út chị Ngoạn. May mắn sao nó cai nghiện được, xin đi công nhân và lấy được vợ.

Đám cựu dân nhà số 10 kéo nhau ngồi cùng một góc, tranh thủ hỏi thăm nhau, hỏi thăm về người nọ người kia.

Con Xuân, đứa con thứ ba của Minh Dậu mở tiệm may thời trang, rất đông khách. Con Xuân có một kỷ niệm khủng khiếp. Năm 1980 thằng người yêu nó đi bộ đội, trong một chuyến về phép lậu vé, sốt ruột gặp người yêu, thằng này nhảy tàu ở ngay gần nhà số 10, bị tàu hoả cán chết. Tôi cứ nghĩ sau này con Xuân sẽ khó lấy chồng bởi cái kỷ niệm đau thương kia sẽ ám ảnh nó mãi. Nhưng tôi nhầm, cuộc sống cứ phải tiếp diễn, bây giờ con Xuân đã hai con, chồng mở Công ty du lịch Xuân Thành, coi như là thuộc hàng khấm khá. Thằng Hải, em con Xuân, học hành không ra nếp mà cũng chả ra tẻ, thi trượt đại học, may được con Xuân cho tiền sang Úc học, bây giờ về hễ mở miệng là ca ngợi bên Úc đẹp thế này bên Úc hay thế kia.

Minh Dậu luôn mồm khoe đã đi chùa này, cúng giàng ở chùa kia. Đức xồm làm thầy cúng. Hùng què mở hiệu sửa xe máy, Hợp thì tích cực tham gia công tác tổ dân phố...

Nhà số 10 được tay công an thâu tóm, tưởng hắn sẽ xây lên một khách sạn hay một cái gì đó để kinh doanh, nhưng đến lúc tôi gõ những dòng này trên bàn phím, nhà số 10 vẫn im lìm vắng vẻ, chìm đắm trong rêu phong cũ kỹ.

Chính vì nhà số 10 không thay đổi gì hết so với ngày xưa nên mỗi lần có việc đi qua, tôi dừng lại ngắm nó - nhân chứng mấy chục năm đời người của chúng tôi - cư dân nhà số 10, lòng buồn man mác.

Gần đây có một thông tin làm tôi ngớ người. Tay công an, người đã thu gom hết nhà số 10, chỉ là kẻ làm thuê cho chồng con Hạnh.

Chồng con Hạnh là Việt kiều Mỹ. Do lúc đó chưa có chính sách cho Việt kiều được mua nhà trong nước, chồng Hạnh phải qua trung gian để mua nhà. Cái nhà mà con Hạnh yêu thích nhất chắc chắn phải là nhà số 10.

Vả lại, dại gì mà nói là Việt kiều mua nhà, người ta lại chả hét vống giá lên?

Chủ nhân nhà số 10 bây giờ là một người quốc tịch Mỹ, có điều là y cứ để nguyên như vậy, chưa thèm đập đi xây cái khác.

(24) - Cường tồ

Tôi chạy xe chầm chậm trên đường Trần Hưng Đạo, ngắm những cô ma na canh mặc quần bò trễ rốn đứng lấn ra vỉa hè, có cô da đen, có cô da trắng mà lạ thay không có cô nào da vàng. Hễ thấy cái xe của đội trật tự đô thị vè vè chạy tới là từ trong cửa hàng một thanh niên chạy ngay ra, ôm ngang lưng các cô ma na canh chân dài vác dựng tạm lổn nhổn vào góc cầu thang. Mấy cô ma na canh thản nhiên dương cặp mắt nhìn đời, tiếp tục ưỡn mông trên cặp chân dài lêu nghêu.

Bỗng một chiếc Camry đi sát vào tôi, người lái xe hạ kính, rối rít gọi: "Chú Phan, chú Phan!" rồi táp xe vào mạn đường.

Tôi dừng cái xe máy Future phun xăng điện tử của mình lại, dương mục kỉnh nhìn người lái xe béo tốt đang mở cửa xe, hấp tấp chạy về phía mình:

- Chú Phan, cháu là Cường con bố Hùng nhà số 10 đây mà!

Hai chú cháu bắt tay nhau. Tôi nhận ra thằng Cường con trai Hùng què. Nó cũng đậm người như bố và bác Hợp nó, tóc xoăn giống bác song khuôn mặt lại giống mẹ, chất phác hơi quê quê.

Nhận ra rằng cứ đứng giữa đường nói chuyện là bất tiện, Cường mời tôi vào quán cà phê ngay gần đó. Tôi không từ chối, mình về hưu rồi, là tỷ phú thời gian, tiếc gì một cuộc cà phê với người "đồng hương" nhà số 10 đã hai mươi mấy năm rồi không gặp.

Cường không hút thuốc lá, thanh niên thời này quả là khá hơn cha chú. Tôi thầm nghĩ vậy và quan sát Cường, ngầm đánh giá xem đứa con trai của ông bố học chưa xong lớp ba nay ra sao.

Cường lịch sự hỏi chuyện về gia đình tôi, bà khoẻ không, gia đình chú em tôi thế nào, các con tôi ra sao. Rồi mới kể về mình.

x

x x

Năm 1990 Cường tồ học xong phổ thông, lúc đó tôi không còn ở nhà số 10 nữa. Bọn trẻ con trong xóm chê nó tồ, hay bắt nạt và sai vặt nó. Không ai ngờ thằng cháu nội bà bán nước chè chén với tiền sử có nhiều ông chồng bí ẩn, con trai một thằng thợ vườn lưu manh hoá, bản thân tính tình thật thà, không được ai kèm cặp bảo ban lại thi đỗ vào đại học. Chắc là cái gen thông minh từ xa xưa bây giờ mới có cơ hội phát triển.

Con đỗ vào đại học Hùng què rất mừng, làm cỗ mời họ hàng đánh chén. Khắp cả họ nhà Hùng duy có thằng Cường sẽ là ông Cử.

Rượu ngà ngà, Hợp vỗ đùi em trai, nâng ly:

- Thế là thằng Cường khỏi phải đi bộ đội, uống!

Hợp chỉ quan tâm mỗi một chuyện con cháu khỏi phải đi bộ đội. Đợt con trai Hợp đi nghĩa vụ quân sự, Hợp chạy chọt mất ối tiền để con được làm "lính Thủ đô, bảo vệ Bờ Hồ".

Đang lúc nhà Hùng què vừa phấn khởi vừa lo không biết lấy tiền đâu nuôi con ăn học năm năm thì một biến cố xảy ra. Tôi dùng từ "biến cố" vì trong toán học cao cấp có hẳn một nhánh chuyên nghiên cứu về biến cố. Và cũng xin đố nhà toán học nào lập trình nổi cái biến cố đã xảy ra với Cường.

Cường có một cô bạn gái cùng lớp. Nói cho nó gọn là hai đứa yêu nhau. Cô bé này là con một ông làm bên ngoại giao, ông này tiền không nhiều đến mức như quân Nguyên thì cũng ngang ngửa với số mảnh chai cắm chi chít trên tường quây quanh khu nhà rộng mênh mông của ông trên Xuân Đỉnh. Cô bé tuyên bố với hai vị phụ huynh tôn quý:

- Cường học ở đâu con học ở đấy. Cường học trong nước, con học trong nước.

Hai vị phụ huynh thông minh hiểu ngay kết luận của vấn đề. Ai dám chê họ không thông minh, không thông minh thì làm sao giàu vọt lên trong khi những người khác vẫn nghèo?

Quyết định nhanh chóng: Cường và cô người yêu đi Nga học. Hồi đó Mỹ chưa tháo bỏ cấm vận đối với Việt nam chứ không thì chúng nó đã đi Mỹ học rồi.

Lúc Cường kể đến đoạn này, tôi sốt ruột hỏi luôn:

- Thế sau mày có lấy con bé đó không?

- Dạ có chứ ạ, bọn cháu bây giờ có hai con rồi.

Tôi châm điếu thuốc lá, rít một hơi hài lòng:

- Thế kể tiếp đi!

Cường học giỏi. Học xong đại học, đang phân vân nên ở lại tiếp tục làm nghiên cứu sinh hay về nước xin việc thì bố mẹ vợ tương lai gọi điện sang:

- Các con về nước tổ chức đám cưới, nghỉ ngơi vài tháng rồi sang Nga học tiếp.

Lệnh gì chứ lệnh kiểu này chắc chắn sẽ không có ai bất tuân thượng lệnh.

Cường làm xong luận án phó tiến sỹ, vợ nó cũng xong. Nói chính xác là vợ nó đẻ xong đứa thứ nhất, luận án do chồng làm, con vợ chỉ việc làm thủ tục bảo vệ. Hai vợ chồng tiếp tục học nốt lên tiến sỹ.

Lý do: một phần là hai đứa ham học, phần nữa có ý nghĩa quyết định hơn là mấy đứa bạn thời đại học "bắt" chúng nó phải ở lại Nga, phải học tiếp lên tiến sỹ hoặc học đến khi nào hết nhu cầu học thì thôi.

Mấy đứa bạn quý báu ấy ở lại Nga, không về nước. Để hợp pháp hoá cái sự ở lại, chúng nó cũng xin làm nghiên cứu sinh. Công việc chủ yếu và chính yếu của chúng là phát triển sự hợp tác toàn diện và lâu dài trong lĩnh vực thương mại phi mậu dịch giữa Việt nam và Nga. Chúng cần người làm luận án thay cho chúng. Chúng trả tiền sòng phẳng. Thuê giáo sư Nga hết bao nhiêu thì chúng nó trả Cường bấy nhiêu, ngoài ra còn biếu thêm quà cáp là những thứ hàng xịn nhãn hiệu Tây phương. Chả gì cũng là bạn bè, cũng là máu mủ da vàng con Rồng cháu Tiên với nhau.

Về phía Cường, nó cũng cần liên kết với những vị soái tên tuổi ở Nga để đảm bảo sự an toàn cho cuộc sống trước mắt và lâu dài của mình.

x

x x

Khi giàu lên, nhiều người Việt đại gia bên Nga bắt đầu chuyển tiền về đầu tư ở trong nước. Người ta xây các khu nghỉ mát cao cấp ven biển, lập công ty kinh doanh bất động sản, làm nhà máy sản xuất hàng dân dụng và xây các siêu thị ở các thành phố lớn.

Cái gì tiền không giải quyết được thì nhiều tiền sẽ giải quyết được. Tôi không nhớ ai đã nói câu này, hình như là một nhà kinh tế học.

Các ông bạn vàng của Cường cũng về Việt nam, xây một siêu thị to tổ chảng trên một con đường rợp bóng cây của Hà nội. Siêu thị có tên tiếng Anh là Tower, đọc ra là "tau ơ". Nước ngoài có nhiều "tau ơ", ta cũng phải "tau ơ" cho chúng nó biết tau nỏ có kém chi mi!

Họ thuê Cường làm quản lý siêu thị.

Học vấn và trình độ Cường dư sức làm việc này. Hỏi được mấy ông giám đốc siêu thị có bằng cấp tiến sỹ kinh tế như Cường?

Nhưng làm được một năm thì Cường bỏ. Tôi ngạc nhiên hỏi Cường sao lại bỏ. Siêu thị tầm cỡ quốc tế, lương giám đốc cũng theo chuẩn quốc tế, sao lại bỏ, phí thế.

Cường gãi gãi mớ tóc xoăn:

- Chú có biết công việc nào chiếm nhiều thời gian và công sức của cháu nhất không? Chắc chú không thể ngờ, chính cháu cũng không ngờ. Sách vở không hề dạy bài đó.

Tôi đành lặng im nghe Cường kể tiếp.

Công nghệ bán hàng, theo rõi luồng hàng hoá và tiền là công nghệ tiên tiến, áp dụng những thành tựu mới nhất của kỹ thuật tin học. Quản lý nhân sự cũng không có gì khó khăn, ngoài một việc tưởng dễ mà lại rất đau đầu. Đó là phải quản hơn một trăm cô nhân viên bán hàng và tiếp thị đẹp như tiên.

Tôi nháy mắt đầy ngụ ý, ngắt lời Cường:

- Làm sếp giữa đám gái đẹp thì vất vả rồi!

- Đúng là vất vả, nhưng không phải như chú nghĩ đâu. Cháu phải quản sao cho không một em nhân viên chân dài nào bị dụ dỗ mua chuộc. Đối thủ cạnh tranh và cả những kẻ muốn tống tiền Siêu thị luôn rình rập, thuê những anh chàng đẹp trai đóng vai đại gia gạ các cô nhân viên siêu thị cháu làm tiền. Trước món tiền một ngàn đô, nhiều cô dám liều mình như chẳng có, qua đêm với khách. Thế là quay video, thế là rắc rối to.

Cường lo sẽ không hoàn thành nhiệm vụ quản lý siêu thị, xin thôi việc.

Ở nhà chơi một thời gian, nó ngứa chân ngứa tay, nộp đơn xin thi vào một chức danh ở bộ B. Nó đỗ, thằng này có số thi đâu đỗ đó. Nó không đỗ mới là lạ, bằng cấp cao, ngoại ngữ, chuyên môn, nghiệp vụ, cái gì cũng giỏi. Lại có ông bố vợ làm to nữa chứ.

Ở ta hay lắm, bố làm quan không bao giờ chiều chuộng nâng đỡ con đâu nha. Con rể thì khác, dân gian có câu "Dâu con, rể khách", ta lo cho con rể thì là lo cho người ngoài, vẫn liêm chính chán?

Nó tự nghĩ thôi mình làm anh công chức nhà nước cũng được. Chân chỉ hạt bột, bảo gì làm nấy, lương ít nhưng an toàn là tốt rồi.

Sếp giao công việc cho cả tuần, nó làm xong trong hai ngày.

Sếp giao thêm công việc cho cả tuần, nó làm xong trong ba ngày.

Sếp tiếp tục giao thêm rất nhiều công việc nữa, nó làm è cổ cả tuần mới xong.

Thấy những người khác nhởn nhơ, nó thắc mắc với sếp:

- Sao anh giao cho em nhiều việc thế?

Sếp cười, nụ cười của vị giáo sư dành cho học trò:

- Ai bảo cậu tích cực? Cậu tưởng một mình cậu là giỏi hay sao? Công việc cả tuần thì phải làm cả tuần, cớ gì cậu chỉ làm trong có hai ngày?

Cái kiến thức mới mẻ này không nằm trong sách giáo khoa nào hết. Học đến tiến sỹ chứ có học lên đến đại tiến sỹ cũng chưa chắc đã biết.

Cường chán, xách xe đi chơi bốn ngày trong tuần, hai ngày còn lại thì làm việc.

Nhờ thế hôm nay tôi mới gặp nó, mới được nó mời cà phê.

(bs1) - Doanh nghiệp trên địa bàn

Trên một đoạn phố khoảng ba trăm mét có mỗi một cơ sở sản xuất công nghiệp là Xí nghiệp Thương binh Nhựa Tự Cường. Ngoài ra còn có hai hợp tác xã, một là Hợp tác xã thước kẻ của Tường toét, hai là Hợp tác xã sản xuất vở học sinh bên nhà số lẻ. Và ba cơ sở tư nhân: nạo dừa của bà Hoà béo, đắp lốp của Hải dớ và lò rèn của Tân cụt. Không tính các dịch vụ giải khát, bún riêu, phở bò, xôi sáng, nước chè chén, xích lô ba gác, sửa xe bơm xe, cắt tóc, nấu kẹo... hoạt động rất náo nhiệt.

Nhà bà Hoà chiếm gần hết số nhà 12, bà có nghề gia truyền chế biến trái dừa thành nhiều loại sản phẩm khác nhau, không bỏ phí một tý vật tư nguyên liệu nào. Nước dừa và cùi dừa nạo dành cung cấp cho các cửa hàng giải khát bán món sen dừa. Cùi dừa già một phần bán ra chợ để người ta mua về kho thịt, phần nữa cung cấp cho các lò làm bánh, phần còn lại chế biến thành lương khô dừa đóng trong bịch ni lông, món này khá hấp dẫn trong gian đoạn khan hiếm lương thực thực phẩm.

Sọ dừa được chế tác thành gáo, muôi múc canh. Xơ dừa dùng thay củi, như một chất đốt nhiều năng lượng và cả nhiều khói. Sau này nhà bà Hoà giàu lên, tổ chức một cơ sở sản xuất than hoạt tính từ xơ dừa.

Bà Hoà rất béo. Tôi không xác định được khi bà ấy nằm thì thấp hơn lúc bà ấy đứng là bao nhiêu phân. Đến bữa cơm, nhà bà Hoà làm hai mâm giống hệt nhau, trên đó có một khoanh giò cắt làm sáu, một đĩa thịt kho, một bát canh chua dầm sấu và nửa nải chuối, mùa nào thức nấy. Một mâm dành cho bà Hoà bày trên sập gụ, có thêm ly rượu bổ, mâm kia bày trên chiếu trải dưới đất, thỉnh thoảng có thêm can bia năm lít, dành cho số thành viên còn lại trong gia đình. Bà Hoà ngồi bệ vệ trên sập, ăn xong, xỉa răng, có ngay một người bưng ấm nước chè thơm phức lên kính bà. Bà Hoà nâng chén trà:

- Chúng mày dẹp cái mâm đi cho bà!

Dẹp mâm là bưng cái mâm bà Hoà ăn dở xuống chiếu dưới, con cháu chén nốt. Nói chung đại gia đình nhà bà Hoà sống khá, con cháu đứa nào cũng có xe đạp hay xe máy vào loại hàng khủng.

Hải dớ đắp lốp ô tô xe máy, ở bên phía nhà số lẻ. Đó là chiêu bài bề ngoài, thực chất hắn tổ chức làm lốp Sao Vàng giả. Tôi sẽ không kể cái chuyện làm ăn phi pháp của hắn vào đây làm gì, thiết nghĩ không bổ ích cho người đọc. Hải dớ chưa bao giờ lấy một xu tiền công đắp lốp xe tôi, đổi lại tôi cũng chưa khi nào tính tiền sửa Ti Vi nhà hắn.

Tân cụt là thương binh cụt một tay, cũng ở bên số lẻ. Điều đáng nói là tuy còn mỗi một tay mà Tân vẫn làm được nghề rèn và đáng nể hơn nữa là Tân triển khai lò rèn ở trên tầng hai. Rất nhiều kỹ sư xây dựng lắc đầu lè lưỡi, khẳng định chẳng chóng thì chầy nhà Tân cụt sẽ sập. Nhưng không ai chờ được đến ngày nhà hắn sập vì đến năm 2000, Tân đã phá đi xây thay vào đó một toà nhà năm tầng, bỏ nghề rèn, chuyển sang kinh doanh nhà hàng ẩm thực. Tân đi lên từ một bàn tay trắng (vì cụt một tay mà!), cương quyết không để thế hệ mai sau phải cơ cực như mình. Con gái ông thợ rèn học piano, ông thuê bằng được Tôn Nữ Nguyệt Minh dạy.

x

x x

Cơ sở sản xuất đáng nể nhất ở phố tôi là Xí nghiệp Thương binh Nhựa Tự Cường.

Xí nghiệp có tên là xí nghiệp của thương binh, do Sở Thương binh (sau này nhập chung vào Sở Thương binh - Lao động và Xã hội) quản lý. Theo quy định của Nhà nước, các xí nghiệp thương binh chỉ phải đóng thuế doanh thu bằng 50% so với các xí nghiệp khác không thương binh. Đây là một món lợi vô cùng lớn mà Nhà nước dành cho các xí nghiệp thương binh, thoạt nghe có vẻ rất đẹp, rất quan tâm đến những người đã đổ xương máu cho đất nước. Nhưng chính sách này đã tạo ra sự cạnh tranh không cân sức giữa các cơ sở cùng sản xuất một ngành hàng, sau này bị huỷ bỏ khi chuyển sang cơ chế thị trường.

Theo tôi được biết, cả xí nghiệp Tự Cường chỉ có hai thương binh. Một ông là phó giám đốc, ông kia là bảo vệ. Còn lại toàn là vợ, con, em, cháu của các cụ trong Sở Thương binh và các sở khác, người ngoài Sở Thương binh được tuyển dụng vào đây trên cơ sở trao đổi ngang bằng: anh nhận con tôi, tôi nhận con anh. Không ai mắc khuyết điểm tìm cách đưa con em mình vào biên chế doanh nghiệp Nhà nước.

Phía bên kia đường, đối diện nhà 16 có một rẻo đất rộng mấy trăm mét vuông chưa xây cất gì. Tường Toét lăm le xí phần miếng đất này, cất một cái lều tạm, ra đó bào bào xẻ xẻ. Được dăm hôm thì bị Phường đuổi, Tường Toét hết ôm mộng mở mang bờ cõi.

Bà Hoà béo dùng mảnh đất công kia làm bãi tập kết dừa từ Thanh Hoá chở ra. Bà không bị Phường đuổi vì bà có làm đơn xin phép đàng hoàng, cam kết khi Nhà nước cần đến miếng đất đó thì bà sẽ rút lui ngay lập tức. Cũng có thể còn có thêm một cam kết nữa là cán bộ Phường mỗi khi xuống chơi nhà bà Hoà sẽ được uống nước dừa đá mệt nghỉ.

Có một món thuế vô hình mà các cơ sở sản xuất không cách nào trốn nổi, đó là "hỗ trợ các hoạt động của Phường và cụm dân cư".

Phường tổ chức Hội thi phòng cháy chữa cháy. Mấy ông xích lô ba gác xung phong đi chở tre phau, đồ đạc. Tân cụt ủng hộ chục cái câu liêm. Hải dớ cung cấp lốp xe cũ để đốt, khói mù mịt, cộng thêm vài cây thuốc lá, cũng mịt mù khói. Bà Hoà béo lo nước giải khát.

Xí nghiệp Tự Cường to nhất, phải ủng hộ nhiều nhất: trang bị quần áo đồng phục cho các đội viên đội cứu hoả, chi tiền làm giải thưởng và một téc bia nằm chờ được phun bọt mừng Hội thi thành công rực rỡ.

Năm nào cũng tập tành, cũng tổ chức hội thi chữa cháy. Năm nào cũng có hoả hoạn, song hoả hoạn toàn chọn thời điểm xảy ra đúng vào lúc các anh chị dân phòng đang bận đi kiếm ăn bên ngoài địa bàn dân cư.

Người được phân công giữ mối quan hệ với các "doanh nhân" trên địa bàn là Phó Chủ tịch Tấn. Tấn lớn lên ở đây, quen biết nắm vững từng người, có thể nói là biết đến từng gốc cây ngọn cỏ.

Tấn hồi bé nổi tiếng khéo tay, ít nói. Làm lãnh đạo phường hình như cần phải ít nói và khéo tay. Không hẳn là cái tay biết cắt vẽ khẩu hiệu trang trí các cuộc hội họp, mà là cái tay khéo léo chuyển tiếp các thể loại phong bì.

x

x x

Xí nghiệp Thương binh Nhựa Tự Cường cũng nhòm ngó từ lâu mảnh đất bà Hoà béo đang tạm dùng làm "kho vật tư đầu vào" mà chưa có cách nào biến được ước mơ thành hiện thực.

Thế rồi cơ hội đến.

Thành phố cấp đất ngoài bãi Phúc Xá cho Xí nghiệp xây nhà tập thể. Nhà này được thiết kế năm tầng, mỗi tầng tám căn hộ. Công nhân xí nghiệp làm ngay một phép tính nhân tám lần năm bằng bốn mươi và phấn khởi làm đơn xin phân phối căn hộ.

Tất cả những ai tính năm lần tám thành bốn mươi đều sai hết. Tổng số căn hộ được chia là ba mươi hai.

Tám căn hộ phải để "giải quyết chính sách".

Các anh trên thành phố tốt lắm, các anh ấy đã nhiệt tình giải quyết đất cho mình, mình phải ưu tiên cho các anh ấy hai căn. Sống là phải có tình có nghĩa, ăn ở phải có trước có sau. Mà các anh ấy có lấy diện tích nhà ở cho chính các anh ấy đâu, các anh ấy sẽ phân cho những đồng chí đang gặp khó khăn nhất trong cơ quan. (Ô hô, mấy người khó khăn nhất ấy, nói riêng thôi nhé, là người nhà các ông ấy đấy!)

Ở đây là bạn đang nghe tôi giãi bày chu trình ngược, chứ chu trình thuận của nó phải là thế này: nếu các ông cấp cho chúng tôi hai căn hộ thì chúng tôi sẽ cấp đất cho các ông làm nhà. Đơn giản như tấm phản!

Các anh trên Sở cũng tốt lắm, nhiều năm nay hỗ trợ đơn vị trong sản xuất kinh doanh, nay ta cũng phải giành hai căn cho các anh ấy, coi như bày tỏ lòng biết ơn chân thành của giai cấp công nhân đối với các đồng chí lãnh đạo.

Các anh bên Ngân hàng cũng quá tốt, tiền cho chúng ta vay rất kịp thời, đáo hạn thì cho gia hạn. Kinh phí xây nhà tập thể cũng là các anh ấy cho vay. Vậy Ngân hàng cũng có suất chia hai căn.

Không thể kể hết cái tốt của các anh lãnh đạo Phường. Đương nhiên Chủ tịch và Phó Chủ tịch Tấn được mỗi người một căn hộ. Đây cũng đồng thời là thắt chặt mối quan hệ giữa xí nghiệp công nghiệp với địa phương nơi mình cư trú.

Cái tốt của các anh lãnh đạo Phường đối với xí nghiệp không những chỉ là cái tốt trong quá khứ, mà sẽ là cái tốt trong tương lai, được tạm ứng bằng hai căn hộ.

Khi hai đồng chí lãnh đạo Phường đã dọn về Khu tập thể Xí nghiệp Thương binh Nhựa Tự Cường, họ mặc nhiên trở thành con dân danh dự của Xí nghiệp.

Giám đốc Xí nghiệp (không thương binh tẹo nào) đến nhà Chánh phó Phường mừng tân gia. Rồi tranh thủ trình bày nguyện vọng sử dụng mảnh đất hình tam giác bỏ trống cạnh cầu tầu hoả. Xí nghiệp sẽ đầu tư thêm thiết bị công nghệ, nấng cấp chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm nên rất cần kho bãi trong một thời gian dài.

Hai đồng chí Chủ tịch và phó Chủ tịch tốt lắm, đồng ý ngay.

x

x x

Đồng chí Hoà cũng tốt. Đồng chí ấy thừa biết rằng mình to béo thế chứ có to béo gấp đôi cũng không đánh thắng được liên minh Phường và Xí nghiệp Tự Cường.

Bà Hoà vui vẻ xua con cháu ra dọn dẹp dừa quả, sọ dừa và xơ dừa, giải phóng mặt bằng nhanh gọn trong vòng một ngày.

Và xin được cho một thằng cháu vào làm trong Xí nghiệp Tự Cường. Lương lậu không thành vấn đề, chủ yếu là tạm lánh đợt tuyển quân sắp đến.

Xí nghiệp Tự Cường cất nhà tạm để chứa vật tư thiết bị. Nhà thì tạm nhưng hàng rào không thể tạm được, phải kiên cố để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.

Mắc điện. Cử bảo vệ canh giữ hai bốn trên hai bốn.

Miếng đất mấy trăm mét vuông từ từ biến thành sở hữu của Tự Cường. Bây giờ bạn đọc đã hiểu cái tên Tự Cường có ý nghĩa như thế nào rồi chứ?

Cách đây mấy hôm tôi có việc đi qua nhà số 10. Xí nghiệp Tự Cường đã cổ phần hoá, đã được di dời ra khỏi thành phố theo chủ trương đưa các ngành nghề sản xuất độc hại ra xa khu dân cư trong thành phố.

Trên mảnh đất trước đây Xí nghiệp Thương binh Nhựa Tự Cường toạ lạc nay là một khách sạn cao lừng lững, mặt tiền ốp đá hoa cương, đèn hoa lấp lánh.

Bãi đất hoang ngày xưa bây giờ là bãi đỗ xe của khách sạn. Mấy anh bảo vệ mặc áo đồng phục đứng canh giữ, mặt mày rất nghiêm trang.