Hữu Thỉnh-Thơ

Sang thu

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây màu hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi.

Thơ viết ở biển

Anh xa em

Trăng cũng lẻ

Mặt trời cũng lẻ

Biển vẫn cậy mình dài rộng thế

Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn

Gió không phải là roi mà đá núi phải mòn

Em không phải là chiều mà nhuộm anh đến tím

Sóng chẳng đi đến đâu nếu không đưa em đến

Vì sóng đã làm anh

Nghiêng ngả

Vì em…

Gởi từ đảo nhỏ

Những cánh chim năm ngoái lại bay về

Mùa lại gửi những con tem đúng hẹn

Chiến sĩ nhận ra trên từng đôi cánh

Những chân trời chim đã bay qua

Đảo vắng cỏ non vẫn biết mùa xuân đến

Khi trông bờ ngắm một lá thư thăm

Biển xanh quá ước gì anh gói được

Nhờ con tàu bè bạn đến tay em

Ước gì gửi cát cho em nhỉ

Để cát mang về những dấu chân

Những đêm xô cát đi tuần đảo

Gió cát lùa ngang trắng áo quần

Mênh mông lãnh hải cao chân sóng

Rừng rong bọt nước cũng thiêng liêng

Ước gì gửi sóng cho em được

Nghe cá ngoài khơi quẫy dưới thuyền

ở đây Tết đến đào không có

Hoa đảo là hoa những cánh chim

Chim ơi bay nữa bay xa nữa

Làm chiếc cầu mây nối đất liền

Mặt trời qua đây về nở với ao bèo

Đám mây qua đây để thành gà gáy

Ngọn gió qua đây để thành sóng dậy

Sóng qua đây thành nỗi nhớ hàng dương

Khi cửa sông xếp lại lá buồm

Chiều về ngủ dưới khoang thuyền rậm rịch

Em có thấy đảo gần hơn một ít

ở nơi này anh vừa thả trăng lên

1977

Tự thú

Ta đâu có đề phòng từ phía những người yêu

Cây đổ về nơi không có vết rìu

Ôi hoa tặng, chiều nay ai dẫm nát

Mưa dập vỡ trên đường em trở gót

Người yêu thơ chết vì những đòn văn

Người say biển bị dập vùi trong sóng

Người khao khát ngã vì roi mơ mộng

Ta yêu mình tan nát bởi mình ơi.

1987

Thư mùa đông

Thư viết cho em nhòe nét mực

Phên thưa sương muối cứ bay vào

Núi rét đêm qua chừng mất ngủ

Sáng ra thêm bạc một nhành lau.

ở đây tuyết trắng bên chăn mỏng

Bếp đỏ cơm trưa núi vẫn mờ

Mực đóng thành băng trong ruột bút

Hơ hoài than đỏ chảy thành thư.

Chắn gió cây run trong rễ tím

Hạt ngô gieo xuống cũng co mầm

Có hôm đồng đội đi công tác

Nhớ đấy, nhưng mà... thêm lớp chăn.

Gà buốt gáy lười dâm tiếng khản

Ca bát khua cho đỡ bất thường

Núi giấu trong lòng trăm thứ quặng

Anh bòn không kiếm đủ rau ăn...

Gạo thường lên sớm, thư thời chậm

Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm

Bao năm không thấy màu con gái

Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em...

Mây đến thường rủ anh mơ mộng

Biết vậy, khuya em đỏ ánh đèn

Ước gì có chút hương bồ kết

Cho đá mềm đi núi ấm lên.

Mèo Vạc 3-82

Hỏi

Tôi hỏi đất: -Đất sống với đất như thế nào?

-Chúng tôi tôn cao nhau

Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?

- Chúng tôi làm đầy nhau

Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?

- Chúng tôi đan vào nhau

Làm nên những chân trời

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

Tôi hỏi người:

- Người sống với người như thế nào?

1992

Phan Thiết có anh tôi

Anh không giữ cho mình dù chỉ là ngọn cỏ

Đồi thì rộng anh không vuông đất nhỏ

Đất và trời Phan Thiết có anh tôi

Chính ở đây anh thấy biển lần đầu

Qua cửa hầm

Sau những ngày vượt dốc

Biển thì rộng căn hầm quá chật

Khẽ trở mình cát đổ trắng hai vai

Trong căn hầm mùi thuốc súng mồ hôi

Tim anh đập không sao ghìm lại được

Gió nồng nàn hơi nước

Biển như một con tàu sắp sửa kéo còi đi

Những ngôi sao tìm cách sáng về khuya

Những người lính mở đường đi lấy nước

Họ lách qua những cánh đồi tháng chạp

Trong đoàn người dò dẫm có anh tôi

Biển ùa ra xoắn lấy mọi người

Vì yêu biển mà họ thành sơ hở

Anh tôi mất sau loạt bom tọa độ

Mất chỉ còn cách nước một vài gang

Anh ở đây mà em mãi đi tìm

Em hy vọng để lấy đà vượt dốc

Tân Cảnh

Sà Thầy

Đắt Pét

Đắc Tô

Em đã qua những cơn sốt anh qua

Em đã gặp trận mưa rừng anh gặp

Vẫn không ngờ có một trưa Phan Thiết

Em một mình đứng khóc ở sau xe

Cánh rừng còn kia trận mạc còn kia

Vài bước nữa thì tới đường số Một

Vài bước nữa

Thế mà

Không thể khác

Biển màu gì thăm thẳm lúa anh đi

Em chưa hay cánh đồi ấy tên gì

Nhưng em biết ngày ngày anh vẫn đứng

Anh chưa biết đã tan cơn báo động

Chưa biết tin nhà không nhận ra em.

Không nằm trong nghĩa trang

Anh ở với đồi anh xanh cỏ

Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình

Đồi ở đây cũng là con của mẹ

Lo liệu trong nhà dồn xuống vai em

Tiếng còi xe Phan Thiết bước vào đêm

Đèn thành phố soi người đi câu cá

Anh không ngũ người đi câu không ngũ

Biển đêmđêm trò chuyện với hai người

Cứ thế từng ngày Phan Thiết có anh tôi

1981

Năm anh em trên một chiếc xe tăng,

Năm anh em trên một chiếc xe tăng,

Như năm bông hoa nở cùng một cội,

Như năm ngón tay trên một bàn tay,

Ðã xung trận cả năm người như một.

Ha ha! Vào lính xe tăng anh trước anh sau,

Cái nết ở ăn mỗi người một tính,

Nhưng khi hát ta hòa cùng một nhịp,

Một người đau ta tất cả quên ăn.

Năm anh em mỗi đứa một quê,

Ðã lên xe ấy là cùng một hướng,

Nổ máy lên là một dạ xung phong,

Trước quân thù lòng chỉ biết có tấn công.

Ha ha! Năm anh em ta mang năm cái tên,

Ấy khi lên xe không còn tên riêng nữa,

Trên tháp pháo một ngôi sao màu lửa,

Năm quả tim chung nhịp đập ơ dồn.

Một con đường đất đỏ như son,

Một màu rừng xanh bạt ngàn hy vọng,

Một ý chí bay ra đầu ngọn súng,

Một niềm tin chiến thắng trong trận này.

Hữu Thỉnh còn có bút danh Vũ Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942 tại làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương (nay là huyện Tam Đảo), tỉnh Vĩnh Phúc.

Hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1976).

Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình nông dân có truyền thống nho học. Đã trải qua tuổi thơ ấu không dễ dàng: ở 6 năm với bác ruột, 10 tuổi phải đi phu, làm đủ mọi thứ lao dịch .cho các đồn binh Pháp: Vân Tập, chợ Vàng, Thứa, Thanh Vân. . . và bị đánh đập tàn nhẫn. Chỉ thực sự được đi học từ sau hoà bình lập lại ( 1954). Tốt nghiệp phổ thông năm 1963 . Vào bộ đội Tăng – Thiết giáp. Đơn vị nhập ngũ đầu tiên là Trung đoàn 202, học lái xe tăng, làm cán bộ tiểu đội, dạy bổ túc văn hoá, viết báo, làm cán bộ tuyên huấn. Nhiều năm tham gia chiến đấu tại các chiến trường Đường 9 – Nam Lào (1970-197 l), Quảng Trị ( 1972), Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau 1975, học Đại học Văn hoá (Trường Viết văn Nguyễn Du khoá I). Từ 1982: Cán bộ biên tập, Trưởng ban thơ, Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội . Từ 1990 đến nay, chuyển ngành ra Hội Nhà văn Việt Nam, làm Tổng biên tập Tuần báo Văn nghệ. Đã tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn các khoá 3, 4, 5 , ủy viên Ban Thư ký khoá 3. Hiện nay là Phó Tổng thư ký thường trực Hội, ủy viên thường vụ Đảng uỷ khối Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Bí thư Đảng uỷ Đảng bộ cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá X).

Tác phẩm chọn lọc

Âm vang chiến hào (in chung);

Đường tới thành phố (trường ca);

Từ chiến hào tới thành phố (trường ca, thơ ngắn);

Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in chung);

Thư mùa đông

Trường ca biển.