Hoàng Cầm-Thơ

Hoàng Cầm

Tiểu sử

Thi sĩ Hoàng Cầm có tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; quê gốc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm”, ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.

Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.

Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

Ông mất ngày 5/5/2010.

Tác phẩm

Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940);

Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen 1940);

Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);

Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);

Thoi mộng (truyện vừa, 1941);

Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944, 1942);

Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);

Kiều Loan (kịch thơ, 1945)

Ông cụ Liên (kịch nói, 1952);

Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957);

Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956);

Những niềm tin (thơ dịch của Bonalan Kanfa – Algérie, 1965);

Men đá vàng (truyện thơ, 1989);

Tương lai (kịch thơ, 1995);

Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993) – Giải thưởng Nhà nước 2007

Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993) – Giải thưởng Nhà nước 2007

Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994);

99 tình khúc (tập thơ tình, 1955) – Giải thưởng Nhà nước 2007

Lá diêu bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm

Đồng chiều

Cuống rạ

Chị bảo

Đứa nào tìm được lá diêu bông

Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày sau em tìm thấy lá

Chị chau mày

Đâu phải lá diêu bông

Mùa đông sau em tìm thấy lá

Chị lắc đầu

trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới chị

Em tìm thấy lá

Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xòe tay phủ mặt chị không nhìn

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hời…

…ới diêu bông…!

Bên kia sông Đuống

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp loáng

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen

Bãi Tràm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa mầu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng

Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong

Bước cao thấp trên bờ tre hun hút

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu?

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm

Ú ớ cơn mê

Thon thót giật mình

Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống bên dòng sông Đuống

- Con là ai? – Con ở đâu về?

Hé một cánh liếp

- Con vào đây bốn phía tường che

Lửa đèn leo lét soi tình mẹ

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng

Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể

Những chuyện muôn đời không nói năng

Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống

Bộ đội bên sông đã trở về

Con bắt đầu xuất kích

Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao loé giữa chợ

Gậy lùa cuối thôn

Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn

Ăn không ngon

Ngủ không yên

Đứng không vững

Chúng mày phát điên

Quay cuồng như xéo trên đống lửa

Mà cánh đồng ta còn chan chứa

Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân

Gió đưa tiếng hát về gần

Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa

Tiếng bà ru cháu buổi trưa

Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu

“À ơi… cha con chết trận từ lâu

Con càng khôn lớn càng sâu mối thù”

Tiếng em cắt cỏ hôm xưa

Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay

“Thân ta hoen ố vì mày

Hờn ta cùng với đất này dài lâu…”

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau

Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu

Cánh đồng im phăng phắc

Để con đi giết giặc

Lấy máu nó rửa thù này

Lấy súng nó cầm chắc tay

Mỗi đêm một lần mở hội

Trong lòng con chim múa hoa cười

Vì nắng sắp lên rồi

Chân trời đã tỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi

Để nó cuốn phăng ra bể

Bao nhiêu đồn giặc tơi bời

Bao nhiêu nước mắt

Bao nhiêu mồ hôi

Bao nhiêu bóng tối

Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống

Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trảy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

(Việt Bắc, tháng 4-1948)

Một mình

Dường như cánh gió không bay

Lời ca không hát, rượu đầy không men

Dường như nhớ lại không quen

Một mình tôi… một mình em… lạ thường

Dường như trăng chếch bên giường

Tiếng gà tiễn biệt đêm trường lặng im.

(1942)

Nén linh hương

Đã hẳn em về xa mê tâm linh

Sao còn đứng nghiêng khói thiêng vươn mình

Đã hẳn em lên thượng tầng khinh thanh

Sao còn rưng rưng cỏ mồ bình minh

Đã hẳn em bay cõi im vô cực

Sao còn mưa mau quất đau lá cành

Em hết phiên canh tổng kho thế tình

Sao còn nhập siêu nhiều chiêm bao anh

Anh vâng ý em vâng mệnh đào hồng

Cưới người kế em hồi môn nắng đông

Xóa nhanh quầng thâm nhặt thầm sợi tóc

Từ hôm em đi ghi âm cười khóc

Ghi nét mày chau ghi sắc môi hồng

Băng ngắn mật gấu băng dài mật ong

Một thời yêu anh một thời như không

Anh đi & Em đi

Anh đi về phía không em

Em đi về phía dài thêm bão bùng

Anh đi sắp đến vô cùng

Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi

Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười

Tám mươi đứng khóc nẻo đời chưa khô

Trăm năm nhào quyện hư vô

Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn

Nguyên hình ảo vọng

Khi lửa khói tàn đêm

dòng sông êm ái

Tôi lại gặp em

tưởng tháng năm dài chững lại

Em vẫn thế… thon cây mềm trái

tóc hong chiều còn óng tuổi mơ xanh

Sao mắt em cứ nhìn mê mải

về một phương trời…

- Có phải đấy phương anh

Có phải sắc đời miên man tơ dệt liễu mành

hay thời gian cũng đa tình đến thế

không muốn trôi trên mặt em diễm lệ

vun vút quay vòng

Em vẫn đợi

Nguyên trinh.

Theo dõi một phương trời…

- Có phải đấy phương anh?

Tôi huyễn tưởng hay em là ảo tưởng

Tôi vu vơ hoa?

Hay em liệng xuống

để sớm nay trao cánh thiếp hồng

- Vâng. Đêm rằm…

Anh có về dự cưới em không?

Nếu anh còn trẻ

Nếu anh còn trẻ như năm ấy

Quyết đón em về sống với anh

Những khoảng chiều buồn phơ phất lại

Anh đàn em hát níu xuân xanh

Nhưng thuyền em buộc sai duyên phận

Anh lụy đời quên bến khói sương

Năm tháng… năm cung mờ cách biệt

Bao giờ em hết nợ Tầm dương?

Nếu có ngày mai anh trở gót

Quay về lãng đãng bến sông xa

Thì em còn đấy hay đâu mất?

Cuối xóm buồn teo một tiếng gà…

Chị em xanh

Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ

Quay bánh linh xa miết triệu vòng

Nhặt sợi vô cùng thêu áo gối

Mau về mừng cưới

(nhớ Em không?)

Đón Chị hồn chênh

lệch bóng đêm

Chân không dìu dặt cánh tay mềm

Tóc buông đổ thác về vô tận

Bát ngát mùa

đương độ tuổi Em

Vậy thì Em ngắt quãng tân hôn

Theo Chị lùa mưa đuổi nắng buồn

Hai đứa lung linh lơi yếm áo

Thuyền trăng dềnh sã cánh cô đơn

Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay

Hồn trong Em chuốc Chị chiều say

Là Em cưới Chị xanh thiêm thiếp

Sinh một đàn con

Mây trắng bay.

Cây tam cúc

Cỗ bài tam cúc mép cong cong

Rút trộm rơm nhà đi trải ổ

Chị gọi đôi cây

Trầu cay má đỏ

Kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm

Em đừng lớn nữa Chị đừng đi

Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa

Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

Đứa được

chinh truyền xủng xoẻng

Đứa thua

Đáo gỡ ngoài thềm

Em đi đêm tướng điều, sĩ đỏ

Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giã

Quan Đốc đồng áo đen, nẹp đỏ

Thả tịnh vàng cưới Chị

võng mây trôi

Em đứng nhìn theo, Em gọi đôi.

Ánh mơ

Nhắn em tìm lại giấc mơ

Hỏi cây khô, gốc già nua giữa rừng

Diệu kỳ thổ nhưỡng mông lung

Mởn xanh lộc nõn ngây cùng như thơ

Đã xanh xanh suốt bốn mùa

Chẳng e băng tuyết chẳng ngờ nắng thiêu

Em nghe lắng một sông chiều

Giấc mơ linh hiển thương yêu nghìn trùng

6-2000 (Gọi đôi, NXB Hội nhà văn)

Hai ngả

Anh đi về phía không em

Em đi về phía dài thêm bão bùng

Anh đi sắp đến vô cùng

Em đi sắp đến cánh hồng đang rơi

Bảy mươi đứng phía ngoẹn cười

Tám mươi đứng khóe nẻo đời chưa khô

Trăm năm nhào quyện hư vô

Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn.

Khi mùa xuân đến

Khi mùa xuân đến mắt em

Bỗng dưng biển sóng trào lên ngang trời

Dâng theo cả chín trận cười

Đậu chênh vênh bến mi dài rợp xanh

Khi mùa xuân đến mắt anh

Chon von dòng tóc

................em thành sông xa

Bên này sông

............đỏ phù sa

Bên kia sông

.........trắng nhập nhòa khói sương

Em thường khấn nguyện

...................mười phương

Mà quên cánh gió

................dân đường xuân đi

Đến nơi em cát khô lì

Đi bên em

Hỡi em khua guốc ưu phiền

Chìm trong mặt đá nét hiền dáng quê

Trăng đêm qua chẳng nhớ về

Áo mong manh cởi chiều mê mải sầu

Em đi chân lạnh từ đâu

Chắt chiu quấn lụa càng đau ruột tằm

Nhớ em gió nhẹ nhàng thăm

Em đau sao ruỗi dáng nằm nhẩn nha

Tiếng cười hay tiếng xót xa

Tiếng yêu hay tiếng khóc òa vì thương

Em chia khế ớt tẩm đường

Môi tê hé gọi mười phương ngọt ngào

Hàng mi em rớt ánh sao

Em đi chân đất khuất vào cõi anh.

(Tập Mưa Thuận Thành - 1991)

Xanh xưa

(berceuse)

Gửi Ph. Q.

Thương em sóng cuốn mà quên

Dọc đê toàn ớt chỉ thiên tía hồng

Đôi ba năm khép một vòng

Vòng cay xé lưỡi mắt ròng tuổi mưa

Chợt nghe sông cạn bao giờ

Đắng cay đứng sững mấy bờ nhân duyên

Đáy bùn quẫy mạnh ngó sen

Hỡi ơi! Sông Sở sông Tiền đó chăng?

Sương mù đóng chắc giá băng

Vùi trong trắng... xóa vĩnh hằng thơ ngây

Để em đau nỗi riêng này

Chỉ thiên cứ mọc ngón tay nguyện thề!

Thôi em! Cỏ mịn chân đê

Anh đưa em nhẹ gót về xanh xưa

Chỉ tay xuống đất làm mưa

Mát chân em khoả lững lờ nguồn xuân

Tan rồi hạt bụi ái ân

Vướng mi em một đôi lần... phải không?

(Đêm 25-8-1990)