Sương Nguyệt Minh-Dị Hương

Dị Hương

Nhợt nhạt. Khô xác. Và thất sắc.

Nằm đườn đưỡn tựa hồ cái xác vô hồn. Dị hương sang trọng quý phái thanh tao biến mất. Yểu điệu dịu dàng chỉ còn trong hình cũ bóng xưa. Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã thuở nào. Chẳng còn ngọc ngà sắc nước hương trời ngày trước. Cứ mỗi lần ân ái xong là Đức phi tam cung Ngọc Bình như con cá ươn nằm trên thớt. Hết sạch hứng thú, lòng lạnh nguội, Nguyễn Ánh chỉ muốn đạp Đức phi ra khỏi long sàng. Đã đôi lần Ánh tức giận và chán chường, muốn gọi thái giám đem nàng đang khỏa thân héo rũ giam vào lãnh cung. Cái gì đã làm cho nàng tàn tạ, ươn lạnh?

Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hẳn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi nhiều vết răng bầm tím, sáng ra vẫn nhuận sắc, nuối tiếc trong niềm hân hoan, mắt sáng long lanh, mặt mày rạng rỡ. Mỹ nữ trong vòng tay vần vò của Ánh, dù khi chính ngọ hay lúc chiều tà, ái ân xong vẫn cười tình tứ, mắt ướt rượt, thịt da căng mẩy, no nê, thỏa mãn. Còn Đức phi tam cung, Ánh chiều chuộng nâng niu, vuốt ve, mơn trớn, đam mê cuồng nhiệt. Vậy mà nàng vẫn ở ngoài trái tim tráng niên sung mãn của Ánh. Điều gì khiến lòng nàng băng giá, thờ ơ? Ánh không cắt nghĩa được. Còn một điều kỳ lạ, cứ mỗi lần Ánh ra khỏi long sàng mặc quần áo thì thân thể Đức phi lại nhuận sắc hồng hào, tươi mởn. Dị hương lại vấn vít quyến rũ không dứt… Cũng là điều Ánh không hiểu nổi.

Vó ngựa phi đến bờ sông An Cựu thì dừng đột ngột. Con ngựa tía chân xước sát bởi cành lá quệt gai đâm không chịu cất thêm nửa bước. Nó nghênh nghênh đầu lắng nghe những câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông.

Hơn hai mươi năm trường

Nếm mật nằm gai

Chí cao ngút trời xanh

Vó ngựa xéo nát bàn dân thiên dạ

Trước mặt máu chảy đầu rơi

Sau lưng xương trắng đống gò…

Sự lạ? Một vùng hoang vu. Quạ đen bay rợp trời. Xác binh lính chết như ngả rạ. Đồ khí giới quẳng vô tội vạ. Ngựa què nằm bẹp, máu tím bầm đen. Ruồi trâu bay vù vù. Xe mộc bỏ vương vãi. Đồng không mông quạnh. Xơ xác. Tiêu điều. Thật ai oán thê lương nước lửa và ống đồng. Ánh vốn lạnh lùng đến độc nghiệt, cũng không khỏi xót xa, cô đơn và buồn.

Đường dọc ngang bôn tẩu

Dị hương bay bất chợt

Vương tướng lòng dạ xốn xang

Ngỡ ngàng say người đẹp châu sa

Đôi chân đạp đổ thành phá lũy

Bồi hồi không qua ải mỹ nhân.

“Gái đâu có gái lạ đời

Con vua lại lấy hai chồng làm vua”

Những câu hát xa gần man mác, hoang liêu vẫn cứ rót vào tai người máu lạnh.

Sinh thời Ánh trọng võ hơn văn. Đất nước tao loạn, ru rú thù tạc những vần thơ cũ mèn nhạt nhẽo thử có ích gì? Chẳng ai lấy được thiên hạ từ những bài thơ kẽo kẹt, à ơi. Bất quá, mua vui được chốc lát qua miệng con hát con đào. Lưỡi gươm chém vào trời xanh mới đáng mặt anh hùng. Ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt. Cứ như chỉ có Ánh mới đáng mặt lấy thiên hạ từ tay anh em Nguyễn Huệ. Nghe mãi cũng chán. Thực ra, bọn hủ thơ chỉ rặt một lũ ăn bám. Chẳng ích tóp gì. Huống hồ mấy câu hát vặt của trẻ con...

Nhưng sao bọn trẻ chăn trâu cắt tóc để chỏm lại hát: “Gái đâu có gái lạ đời. Con vua lại lấy hai chồng làm vua”?

Có điềm gì tốt hay lành như lời sấm truyền đang rơi xuống bầu trời Phú Xuân?

*

Dưới trướng của Ánh có một nhân vật rất kỳ dị tên là Trần Huy Sán. Sán vốn là bộ hạ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Huệ thấy Chỉnh hẹp hòi, đố kỵ, gian hùng lòng dạ hai nơi nên giết đi. Sán bơ vơ ở Thăng Long một thời gian rồi bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Sán người lùn tịt. Chân tay ngắn tủn. Cổ bé, dài ngẵng, chằng chịt những mạch máu như đường gân xanh. Nhưng, đầu to như cái chõ xôi. Tóc búi tó củ hành to như vốc tay. Thật dị biệt. Trí lực hơn người. Tính tình khảng khái. Gàn dở hết chỗ nói. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Y có cái yếm thắm nhỏ và hai cái dải đứt rời nhau, lúc nào cũng mang theo bỏ trong túi áo. Lúc ngủ thì đắp cái yếm lên mặt. Nhòm rất tức cười. Có một điều kỳ lạ, yếm thắm có mùi hương rất dị biệt. Mỗi lần lấy yếm ra khỏi túi áo là hương bay dìu dịu thoang thoảng xa gần quyến rũ. Bí ẩn hương thơm kỳ lạ ấy từ đâu thoảng đến, chỉ mình y biết. Y có tài văn thơ, hiểu nho y lý số. Những ý nghĩ dù u tối hay ranh mãnh, sáng sủa trong đầu Ánh đều không qua mắt Sán. Ánh tin dùng lắm, luôn cho đi theo cùng trời cuối đất. Kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ.

*

Thấy minh chủ mặt hằn những điều âu lo, ngẫm ngợi, băn khoăn, Trần Huy Sán liền phán rằng:

“Hạ thần nghĩ, cứ theo những câu hát kia thì âu cũng là điềm trời thả xuống nhân gian. Phen này chúa vương lấy được Phú Xuân, thống nhất bờ cõi là chuyện đại sự dễ như thò tay vào lồng bắt chim sẻ. Nhưng, chúa vương cũng sẽ bắt đầu sống vật vã thật với chính lòng mình, đó cũng là sự lớn của đời người”.

Giương cặp mắt nhìn u ám đầy nghi ngờ, Ánh bảo:

“Ngươi nói ta không hiểu. Ta đồ rằng riêng ý tưởng này cao siêu quá, ngươi lại nói những điều viển vông như đám nho sĩ Bắc Hà rồi. Rõ nực cười”.

Sán lại tâu:

“Thưa chúa vương. Ý chí phục tộc của vương quyết liệt cháy ngùn ngụt như ngọn lửa trong lò bát quái. Người đứng trên thiên hạ nên không thèm để ý đến các điều nhỏ nhặt trong cõi nhân gian và chính mình. Song thần nghĩ, thực ra chúa vương tự hiểu được mình rồng mới là điều khó nhất, hiểu lòng thiên hạ chỉ mới là cái khó thứ hai thôi”.

“Sao ngươi có lắm điều tâm sự thế? Lòng dạ đang ngổn ngang rồi. Có phải ngươi đã nhìn thấy trước mọi việc sẽ xảy ra với ta?”.

“Chính phải. Quang Toản là tên bất tài, bạc nhược. Chúa vương sẽ lấy được tất cả những gì thuộc về Toản kể từ cõi bờ thiên hạ, cung tần mỹ nữ đến con chó con lợn. Chung quy cũng bởi đại anh hùng Nguyễn Huệ vắn số”.

Nghe Sán nói, mặt Ánh tối sầm lại, rút phắt gươm ra, quát: “Ngụy Huệ thiên tài thực, nhưng chỉ là tên giặc cỏ”.

Sán vươn cổ cò dài ngẵng nổi chằng chịt những đường gân xanh rợn chờ một ánh chớp. Ánh chùn tay, tra gươm vào bao. Sán im lặng, không nói gì, lui ra. Sán vừa đi vừa nghĩ: Mai mốt chúa thượng sẽ hân hoan, mình thì khốn nạn, bẽ bàng không kể xiết.“Sự đâu có sự lạ đời/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”. Miệng Sán cứ lảm nhảm mãi, như thằng tâm thần.

*

Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân dễ như trở bàn tay. Được một ngày hân hoan mừng vui, hôm sau buồn hẳn. Ánh đeo gươm đi ra đi vào rồi ngồi ủ dột nhìn sông Hương xanh rợn phẳng lì như ngưng chảy. Mấy con đò vắng khách neo vào bờ, có lẽ chủ sợ hãi loạn binh đao bỏ của chạy lấy người. Nguyễn Văn Thành đang đốc quân truy quét, bắt bớ gia thất, quan lại Tây Sơn lẩn trốn và chuẩn bị cho ngày ra Bắc đánh Thăng Long. Y thấy minh chủ lặng trầm liền hỏi:

“Phú Xuân đã vào tay chúa công. Ba quân nhảy nhót reo ca. Sao Chúa vương có điều gì không vui?”.

Ánh thở dài, bảo:

“Giờ ta mới thấy Sán nói đúng. Ngụy Huệ là bậc đại anh hùng thiên hạ thực. Huệ chết bất đắc kỳ tử, ta mới lấy Phú Xuân dễ dàng như đi vào chỗ không người. Vậy phỏng có vẻ vang kiêu hãnh gì với bậc Chúa vương đại nguyên súy như ta? Tiếc y không còn sống để ta thi thố đường gươm vó ngựa”.

Trần Huy Sán lúc đó đang ngồi thảo bài chiếu yên dân, liền ngừng bút, bẩm:

“Thưa Chúa vương, đất nước mệt mỏi, binh đao loạn lạc đồng không xương trắng đã quá lâu. Chả lẽ, chúa công lại muốn Nguyễn Huệ sống lại để thi thố tài năng trên xương máu dân đen con đỏ?”.

“Ta biết… ta biết… rồi binh đao cũng đến hồi kết. Ngụy Huệ hoặc ta chết sớm thì cuộc chiến tranh mới mau chấm dứt. Nay mai ra Bắc, bắt ngụy Toản cũng chỉ dễ như bắt cua bỏ giỏ. Chả lẽ nước Nam này chỉ còn mỗi mình ta là bậc đại anh hùng? Bờ cõi sẽ thuộc về ta, hạt lúa củ khoai trong thiên hạ, đến cung tần mỹ nữ nhà Tây Sơn cũng thuộc về ta nốt”.

Sán nghĩ thầm trong bụng: Thiên hạ này chỉ có hai kẻ cao ngạo, Sán là một, có dễ Ánh là người thứ hai. Trước sau rồi mình cũng chết dưới lưỡi gươm của Ánh. Lòng dạ Sán ngao ngán, nhớ lại câu hát, lòng vừa phục Ánh lại vừa thầm ghen với Ánh.

*

Phú Xuân yên ổn, Ánh muốn lòng tĩnh lại, tìm về những ký ức mù xa thiếu thời êm đềm và đẫm nước mắt chạy loạn Tây Sơn. Ánh bảo Trần Huy Sán kêu quân lấy thuyền rồng của Quang Toản bỏ lại, ngược dòng Hương Giang.

Nước sông xanh ngắt. Mây trôi dưới dòng. Bao la một vùng non sông cẩm tú. Ánh đứng ở đầu mũi thuyền. Tay nắm đốc gươm báu đeo hông. Đôi mắt hướng lên phía thượng ngàn. Vẫn buồn. Cô độc.

Thuyền ngược dòng đến đoạn ngang Hương Uyển Sơn, Ánh nhìn núi non giống như con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước, liền hỏi một viên quan già. Y kính cẩn tâu rằng:

“Chúa vương bôn tẩu thiên hạ hơn hai mươi năm quên mất rồi ư? Xưa núi này có tên Hương Uyển Sơn, sau đặt lại là Ngọc Trản Sơn, dân gian gọi nôm là núi Chén Ngọc; bởi trên đỉnh núi có chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng. Hễ mưa xuống thì nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Ponagar ở Hương Uyển Sơn. Sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng Thánh Mẫu Thiên Yana…”

Ánh bảo:

“Ta phải lìa xa Phú Xuân chạy nạn binh đao từ thuở thiếu thời. Những nơi linh thiêng như thế chưa kịp đến. Thật tiếc lắm thay”.

Viên quan già khép nép tâu tiếp:

“Thưa Chúa vương! Nữ thần Ponagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian. Bà tạo ra trái đất và các loại gỗ, kỳ nam, lúa gạo,… và làm cho chúng tỏa hương. Ngọc Trản Sơn lúc nào cũng có mùi hương thơm lạ lan tỏa vấn vít”.

Ánh nghe thấy có vẻ lạ lẫm và thần bí lắm, bèn vẫy quân chèo thuyền cập bến. Phía Tây mặt trời đã gác núi. Hoàng hôn đỏ bầm như máu. Sông Hương xanh trong cũng quặn mình ngả màu đỏ hồng lai láng. Ánh đeo gươm bước ra khỏi thuyền.

Bỗng nhiên lòng dạ Ánh xao xuyến bởi mùi hương lạ ở đâu đó thoảng bay lãng đãng. Đúng như viên qua già tấu, mỗi bậc đá xanh lên núi lại ngửi được mùi hương đậm hơn. Bước thêm vài chục bậc nữa thì gặp người con gái mặc áo thôn nữ. Thị có vẻ ở nơi thâm cung nhàn nhã no đủ, chẳng giống thôn quê đói rách. Tóc đen óng ả buộc sau gáy thả dài chấm gót. Cổ trắng. Tay cũng trắng. Thị đứng án trước mặt Ánh gần như cản đường. To gan lớn mật nhỉ! Mặt mũi sáng sủa, nhưng lem nhem vết nhọ than. Ánh hỏi:

“Người có biết hương thơm lạ lùng từ đâu bay tới?”.

Thị lo sợ. Mặt lộ vẻ hốt hoảng:

“Dạ. Hoa cỏ… núi Hương Uyển”.

“Thì đã rõ! Ta bôn tẩu khắp Đàng Trong, có loại cây cỏ nào ta chẳng biết. Nhưng, còn một hương thơm lạ lùng nữa không phải từ thảo mộc”.

Thị lại càng ấp úng:

“Thưa! Từ thân thể… tiện thiếp… tỏa ra ạ”.

Ánh tức giận, thoáng nghĩ: Con hầu người ở chẳng phải. Cành vàng lá ngọc càng không. Áo xô gai. Chân đất. Như đám đàn bà con gái lần đầu đi làm thợ sơn tràng. Lại dám khi quân ư? Ánh đưa một đường gươm. Chớp lóe sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng. Lọn tóc dài tung lên trời bay liệng hình con rồng rồi quấn vào cành cây.

Ánh bước chục bậc đá xanh nữa lại một thị nữ xinh xắn, ưa nhìn, án giữa đường dốc lên. Thêm một con rồng tóc bay lên trời xanh. Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ.

“Ta muốn biết hương thơm dị biệt ở đâu bay đến?”.

“Hoa cỏ đất trời Ngọc Trản Sơn chỗ nào cũng có, thưa tráng sĩ”.

“Bàn chân ta xéo nát thiên hạ. Có loại cỏ cây nào ta không biết. Có một thứ hương thơm quý phái nữa không phải từ thảo mộc”.

“Dạ… thưa. Từ thân thể tiện thiếp”.

Ánh lại vung gươm nhưng nửa chừng thì hạ xuống. Ánh bỗng chùn tay không dám chém người người đẹp thứ sáu.

*

Trong điện thờ Thánh Mẫu Thiên Yana, lòng dạ Ánh vẫn bồn chồn. Ánh bước ra ngoài. Lai láng ánh trăng non vàng. Mùi hương lạ cứ vấn vương đâu đó. Tiếng nước xối chảy tong tóc lúc xa lúc gần. Ánh bảo quan quân đứng chờ. Dường như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, không, có thể là nữ thần Ponagar dẫn dụ Ánh đi đến bên giếng nước.

Không thể tin được! Một cô gái đẹp như nữ thần Ponagar khỏa trần đang tắm ở thềm giếng. Một tì nữ quăng gầu múc nước. Thân thể ngọc ngà. Những đường cong mẩy nuột nà tưới đẫm trăng non. Ánh bèn lẩn vào bên lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm. (Sau này Trần Huy Sán viết Phú Xuân thực lục đổ ấn cho Ánh nhòm trộm. Bởi khi nhìn thấy con gái đẹp tắm thì hoàng đế quyền nghiêng thiên hạ hay thằng ăn mày rách rưới cũng giống nhau thôi. Y còn bình rằng: Thật ra, Ánh dòng vương giả hoàng thân quốc thích, nhưng bôn tẩu 25 năm trong thiên hạ gian nan, vất vả, nhiều phen ngủ bờ ruộng chui bụi cây, rập rạ, khốn cùng, tuyệt vọng... Bấy giờ, bỗng dưng bắt gặp con gái đẹp khỏa thân tắm giữa đất trời cây cỏ thì như lạc vào cõi vừa trần tục vừa thanh cao, không nhòm trộm mới là giống nửa đàn ông nửa đàn bà. Điều này không biết thực hư thế nào).

Mùi hương lạ lúc ngào ngạt lúc vấn vương thoảng bay. Ánh nhận ra mùi hương da thịt con gái đang hứng tình nồng nàn trộn lẫn mùi bạch lan đài các và cỏ thi dân dã quý hiếm. Ánh ngẩn ngơ bởi dị hương và vẻ đẹp con gái khỏa thân giữa cây cỏ thiên nhiên. Bất ngờ, tay Ánh vô tình làm gẫy cành cây nhỏ. Con tì nữ ngang ngạnh hắt gầu nước về phía tiếng động và lớn tiếng quát. Quần áo người hùng vừa lấy kinh thành Phú Xuân ướt lướt thướt. Ánh bèn phải bước ra.

Trăng đầu tháng chênh chếch. Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra, mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bóng đen lên ngực nàng.

“Tự nhiên... Nàng cứ tự nhiên như thể ta chưa từng nhìn thấy”.

Mỹ nhân có vẻ trấn tĩnh lại song vẫn lóng ngóng, chân gạt đổ ào lu nước. Cái lu gốm đất nung lăn lông lốc. Ánh lưỡng lự, nửa muốn bước vòng qua thành giếng tiến lại gần, nửa muốn đứng im nhìn mỹ nhân trong bóng trăng mờ ảo. Cuối cùng thì Ánh quay gót trong sự ngập ngừng nuối tiếc.

“Tráng sĩ đã tha mạng cho tiện thiếp, thì hoàng hậu chắc chắn sẽ bình an. Xin hoàng hậu đừng sợ”.

“Hoàng hậu!” Sao lại là hoàng hậu? Thảng thốt trong lòng, Ánh quay lưng, bước lại. Mùi hương dị biệt lại ào vào mặt Ánh. Con tỳ nữ đứng án ngữ che gần hết thân người đẹp. Ánh dùng sống gươm khều xiêm y đang treo vắt vẻo trên cành cây bứa hất mạnh. Xiêm y bay vèo qua giếng nước. Tì nữ giơ hai tay đón được.

“Mặc xống áo vào cho mỹ nhân”.

Ánh nói xong rồi ngồi vắt lên thành giếng xây bằng đá xanh. Bao gươm xệ một bên hông. Bóng Ánh đổ xuống hòa lẫn mặt nước tối om. Lòng dạ ngẩn ngơ, miệng Ánh cứ lẩm bẩm: “Mỹ nhân… Hoàng hậu… Mỹ nhân…”.

Người đẹp đã trấn tĩnh lại bước đến gần, buông gót nhẹ nhàng, êm ái, giọng nói thanh và tự tin, phong thái ung dung:

“Này tướng Gia Định. Ngươi hãy về nói với Nguyễn Vương rằng ta đã chờ cái thời khắc này từ lâu rồi”.

Ánh sửng sốt. Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh. Nàng đã không hề sợ lưỡi gươm sáng lạnh. Ánh thầm khen và kêu quân hầu đưa mỹ nhân xuống thuyền, rồi đứng dậy đi trước.

Còn một người nữa lòng dạ đầy ngổn ngang bước chân nặng chình chịch đi theo sau là Trần Huy Sán. Y đã chợt nhận ra người xưa. Vẫn vẻ đẹp trẻ trung ấy, nhưng đã pha màu đậm đà. Y cũng nhận mặt bọn tì nữ ăn mặc theo lối nhà quê trốn sự truy tìm của quân nhà Nguyễn. Y bồi hồi nhớ lại thời còn ở kinh kỳ Thăng Long…

*

Mỹ nhân là cô bé lên mười hai tuổi đã phổng phao, sáng rỡ, tóc dài đổ óng mượt chấm gót. Y mê mẩn nàng đến nỗi mỗi khi gặp là cứ lẽo đẽo bước sau lưng. Lại làm không biết bao nhiêu thơ lấy cảm hứng từ nàng. Một lần có trận lốc khủng khiếp. Vòi rồng cuốn cả kho tiền đồng, quần áo vua quan, xiêm y cung tần mỹ nữ trong cung bốc lên trời rồi ào ạt ném tóe loe, vương vãi ra ngoài thành. Lúc đó, y đang ngẩn ngơ đi lẽo đẽo sau người đẹp cũng bị chìm trong lốc giông. Lòng tham mỗi người một vẻ. Đám thảo dân, binh lính đi tuần tranh nhau nhặt tiền đồng, trang phục vua quan, xống áo cái ướt cái khô… đến bươu đầu mẻ trán trong mù bụi. Chỉ riêng y lại chạy đuổi theo cái yếm thắm chao liệng như cánh diều hồng trên không trung. Chân y ngắn tũn chạy liến thoắng đến mức đám tì nữ cười ngặt nghẽo, quên cả cơn mưa tiền, mũ mão, xiêm áo. Cuối cùng y cũng nhẩy cẫng lên tay nắm “cái diều hồng”. Lập tức lòng dạ Sán mê mẩn bởi mùi hương kỳ lạ thoang thoảng từ cái yếm. Bọn tì nữ theo hầu nhận ra yếm thắm của mỹ nhân.

“Trả lại yếm cho công chúa út đi”.

Sán không chịu, còn ấp cái yếm thắm lên mặt. Bọn tì nữ quát:

“Đồ vô lễ. Ngươi muốn chết à?”.

Sán cứ khư khư giữ chặt vật báu trong tay. Rồi vươn cổ như cổ cò gân xanh nổi chằng chịt ra đợi chém.

Công chúa nhỏ hồn nhiên nhìn cái đầu to đùng cắm vào cổ dài ngẵng kì dị thích thú quá, bảo:

“Yếm nhặt được là yếm vô hồn. Ngươi cầm giữ phỏng có ích gì?”.

Sán lưỡng lự đôi chút, dứt phắt hai cái dải yếm rồi mới trả. Công chúa nhỏ không giận. Lúc đó, tự dưng nàng cảm động, trong lòng trào lên một niềm yêu quý không cắt nghĩa được. Cả đám quan quân và thảo dân tranh nhau hôi của vòi rồng cuốn không ra thể thống gì. Chỉ mỗi mình y bỏ qua tiền của, theo đuổi cái yếm thắm. Cũng là một con người dị thường.

“Yếm không dải còn làm gì được nữa. Thôi, ta tặng ngươi”.

Y bất ngờ quá, đứng trân trối.

“Tiếc rằng ngươi không dũng mãnh anh hùng như Nguyễn Huệ; kỳ tài, nhẫn nhịn nuôi chí đoạt lại thiên hạ như Nguyễn Ánh để ta chọn làm chồng. Ánh còn bôn tẩu nơi chân trời góc bể. Huệ đã lấy Ngọc Hân chị ta, lại cũng đã chết sớm rồi. Thật hoài phí lắm thay”.

Công chúa than thở rồi vẫy đám tì nữ bước đi. Những bóng hồng xa mờ mà Sán vẫn đứng nghệt mặt nhìn theo. Tay nắm dải, tay nắm yếm chặt cứng…

*

Đèn lồng và nến sáng rực. Mặt nước sông Hương lung linh ánh trăng non lẫn ánh đèn. Ánh khoác trang phục màu vàng uy nghi, ngù vai, vương hiệu lóng lánh trên ngực áo. Bấy giờ, mỹ nhân mới nhận ra Nguyễn Vương, lòng đầy cả thẹn, e lệ và mừng vui. Thực ra, nàng nhận ra cái thân hình ngắn tũn kỳ dị và cái mặt bần thần của Trần Huy Sán trước, muốn hỏi thăm vài câu về Thăng Long mà chưa tiện.

Giọng vương giả, quyền uy, Ánh hỏi:

“Có phải nàng là công chúa Ngọc Bình?”.

Khoan thai, ung dung tự tại, mỹ nhân đường hoàng thưa:

“Chính phải. Thần thiếp còn là Chính cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn Cảnh Thịnh Hoàng đế Nguyễn Quang Toản, thưa Nguyễn Vương!”.

Ánh cau mày, tức giận, quát to đến nỗi bao gươm đeo bên hông gõ xuống ghế rồng cạch cạch. Không gian tràn ngập mùi binh khí lạnh lẽo rợn đến ghê người:

“Tây Sơn chẳng qua là một lũ giặc cỏ, chẳng có tên nào là đế vương trong mắt ta. Ta không muốn nghe nàng nhắc đến tên Toản đớn hèn, bất tài”.

Mỹ nhân bỗng thở dài. Các huyệt, và những lỗ chân lông đóng chặt cứng. Mùi dị hương biến mất. Nỗi buồn tê tái lộ rõ vẻ thất vọng trên gương mặt quí phái:

“Thời nhỏ, thần thiếp nghe đồn chỉ có Nguyễn Vương mới sánh được bậc đại anh hùng trong thiên hạ Nguyễn Huệ. Thần thiếp đã lâu vốn lòng kính phục, yêu dấu. Té ra Nguyễn Phúc Ánh cũng hẹp hòi nhỏ nhen chưa bằng Quang Toản chồng ta vậy”.

Nói rồi mỹ nhân lao đầu vào sập rồng tự sát. Ánh nhanh tay túm được vạt xiêm. Mỹ nhân mất thế, loạng choạng đổ nhào. Ánh đỡ được mỹ nhân, ôm choàng vào lòng. Thân thể Ngọc Bình mềm oặt trong tay Ánh. Lụa xiêm mềm mại mát rượi. Hơi thở mỹ nhân nóng hổi vấn vít mùi hương. Máu bốc hỏa lên đầu Ánh dịu hẳn. Tay phải Ánh vẫn nắm chặt mảnh xiêm y vừa bị xé toạc.

“Sao nàng lại liều thân như thế. Nàng đã ở bên ta đâu mà biết được đâu là vương giả đâu là tiểu nhân, đâu là vàng thau?”.

Mỹ nhân vẫn nhắm hờ mắt, như chết lịm. Nỗi buồn lặng thầm hằn trên gương mặt khả ái làm vẻ đẹp của nàng càng thêm mặn mà. Lòng Nguyễn Vương quặn thắt, suýt nữa thì làm vỡ ngọc quý:

“Sao mỹ nhân nói rằng, mỹ nhân chờ đợi thời khắc gặp Ánh này đã lâu?”.

Ngọc Bình chợt nhớ ra điều gì đó. Nàng như từ xa xăm trở lại trần gian:

“Nguyễn Vương thừa biết thần thiếp chờ đợi điều gì rồi còn hỏi”.

Nói rồi, Ngọc Bình nép sát đầu vào ngực Ánh. Lòng dạ Ánh nôn nao, cồn cào như sóng biển Tây Nam. Bọn Lê Văn Duyệt, theo hầu lúc đó bối rối nửa muốn đi nửa ngồi lại. Trần Huy Sán rầu lòng quá, lại thêm chút bẽ bàng, thò tay lấy yếm thắm trong túi áo ra lúc nào chẳng biết. Mùi binh khí khét lẹt lạnh lẽo nhạt dần, mùi dị hương thoảng đưa. Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mân mê yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém. Y lại vươn cổ ra.

Ngọc Bình ngăn Ánh lại, kể vắn câu chuyện vòi rồng hút kho tiền ở kinh kỳ Thăng Long, rồi tâu:

“Thưa Nguyễn Vương! Thần thiếp cũng không ngờ Sán giữ cái yếm từ dạo ấy. Thần thiếp thật cảm động”.

Ánh bảo:

“Hóa ra, dị hương lãng đãng tỏa ra từ cái yếm thắm của nàng chứ không phải từ cơ thể thằng khốn này”.

Đoạn Ánh quay ra bảo Sán:

“Vậy là, người hạnh phúc trước cả ta rồi”.

Sán nhét cái yếm thắm vào túi rồi rũ tay áo, cung kính tâu:

“Dạo còn ở kinh kỳ Thăng Long, hai đấng kỳ tài mà công chúa khao khát được thành thân hoặc là Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Ánh, chứ không phải hạ thần”.

Bấy giờ Lê Văn Duyệt mới lên tiếng:

“Chúa thượng bình sinh khắp thiên hạ, binh đao nước lửa từng qua, lụa là châu báu, gái đẹp không thiếu. Hà cớ gì phải hạ mình trước con đàn bà vợ ngụy Quang Toản? Bọn thần lấy làm đau lòng và bẽ bàng lắm lắm”.

Ánh cười gằn, bảo:

“Bọn các ngươi không nghe câu thơ cổ: "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng". Nàng còn hơn cả danh tướng. Ta được nàng như được nửa cuộc đời”.

Cả bọn thấy Ánh cười gằn lạnh như ánh chớp đường gươm thì không ai bảo ai, đều lui ra.

*

Đêm ấy, Ánh hạ lệnh neo thuyền rồng giữa sông Hương, bày trò hát múa. Nửa chừng cuộc vui, Ánh đã xao xuyến, thổn thức nhìn Ngọc Bình âu yếm lắm. Ánh cảm thấy có lỗi với nàng, than thở, ra chiều thương xót bọn cung nữ đã bị mình chém ngang cổ. Mỹ nhân nhìn Ánh, trìu mến cười hiền hậu, thưa:

“Ơn trời! Vương đã không phạt đầu đứa cung nữ nào của thiếp. Của đáng tội, chúng mất mái tóc dài cũng tiếc, nhưng được toàn thân. Chúa công không thấy chúng đang xúm quanh thiếp đấy sao”.

Ánh kinh ngạc lắm, chẳng hiểu mình đã làm gì với đám cung nữ. Dọc đường cầm gươm lên Ngọc Trản Sơn cứ hư thực tựa hồ như trong mơ vậy. Nhìn đám cung nữ xinh đẹp của Ngọc Bình, tóc đứa nào cũng bị phạt thả lòa xòe chấm vai, trông rất ngộ. Ánh cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Chả lẽ… chả lẽ… gươm của ta chưa vấy máu cung nữ”.

Ánh uống rượu đến tận khuya rồi vào khoang đã kê long sàng ngủ với Ngọc Bình. Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng. Loáng một cái cắt nát xiêm y, lụa bay tung lên rồi rơi xuống tơi tả. Như bị bóc trần, mỹ nhân khỏa thân hoàn toàn, mà mũi gươm không hề chạm đến da thịt ngọc ngà. Thuyền rồng lắc lư, dềnh lên dập xuống. Sông Hương nổi sóng. Tiếng rên rỉ trong niềm khoái lạc tột cùng của Ánh tựa hồ tiếng binh khí chạm vào nhau lan ra mặt sông làm váng đầu quan quân. Cá chép ở thượng nguồn xuôi về. Con đực bám đuôi con cái, quẫy ùm ũm giao phối không đợi mùa động dục. Cả khúc sông Hương nổi đầy màng nhầy trong suốt lấm tấm trứng cá, nồng nàn mùi đực cái. Từ lính, quan đến cung tần không ai ngủ nổi. Lại có một người ngũ đoản, cổ dài, đầu to đứng còm cõi ở mũi thuyền. Một lúc sau, cũng không chịu được tiếng rên lạnh lẽo của Nguyễn Ánh, y rút gươm khỏa lia lịa xuống dòng sông. Cá chép động dục bị các đường gươm cắt đôi nổi trắng, máu loang đỏ bầm. Kỳ lạ thay, chỉ những con cá đực bị chết tức tưởi mà chẳng biết lý do gì.

Trên long sàng, Nguyễn Ánh cảm thấy dễ chịu, thỏa mãn và kinh ngạc phát hiện ra điều bí mật:

“Ta không thể tin được nàng vẫn còn trinh trắng”.

Hai mắt sáng rỡ, lấp lánh. Nụ cười tươi tắn đầy thõa mãn, Ngọc Bình úp mặt vào vồng ngực vâm váp của Ánh, thưa:

“Thần thiếp đội ơn nhuần mưa móc của người. Sáu năm thần thiếp làm vợ Quang Toản, chưa một ngày được làm đàn bà đúng nghĩa. Phải như vương năng lượng đế vương thừa thãi, tính dục đàn ông dồi dào. Thần thiếp lấy làm sung sướng mãn nguyện lắm”.

Ánh bảo:

“Ta thấy làm lạ. Hóa ra, ngụy Toản là thằng vua liệt dương! Thật phí đời mỹ nhân cành vàng lá ngọc”.

“Toản lấy thần thiếp chỉ để ngắm nhìn, để ngửi mùi hương. Thần thiếp như cây trầm hương bị phong bao trong lầu son. Không! Như cây khô héo trên cánh đồng mùa hạn”.

“Ta thương nàng giường chiếu với một thằng trẻ ranh èo uột, trí đoản. Hắn đâu xứng với nàng”.

Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực, Ngọc Bình rợn người, sững lại. Hai chân dài khép chặt. Người lạnh giá như đồng. Ánh thấy lạ hỏi:

“Sao nàng rùng mình, co rút người thế?”.

“Bỗng dưng, thần thiếp ngửi thấy mùi máu tanh tưởi, mùi cháy khét của binh khí chạm nhau lẩn quất ở long sàng này”.

Ánh nghênh mũi hít ngửi.

“Làm gì có! Làm gì có!”.

“Xin vương cất kín thanh gươm đang treo lủng lẳng kia đi. Thần thiếp sợ hãi lắm”.

Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:

“Có phải ta quá ham vui làm nàng mệt mỏi?”.

“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.

Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.

Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:

“Chúa công hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.

Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:

“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với đàn bà con gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.

Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. Còn vài canh về sáng, Ánh ngả mỹ nhân ra võng. Mỹ nhân chân dài quắp chặt hông lưng Ánh như hai con trăn. Hai tay vít chặt lưng vai Ánh, mặc cho võng bùng nhùng, dập dềnh. Rồi võng lắc hơn bị bão gió. Lá xanh rụng tơi tả. Hai đầu dây võng thay nhau giật cục thân cây. Có lúc hai ngọn vít vào nhau rồi bật trở ra. Chim chóc đang ngủ ban đêm bị đánh thức bay toán loạn. Voi, gấu, hổ, lợn lòi ở khu rừng bên cạnh vểnh tai nghe và nhăn mũi hít ngửi, động rồ chạy đi tìm đồng loại khác giống. Cả một vùng non ngàn rộn rã bước chân thú và tiếng kêu van vỉ gọi bạn tình, ầm ĩ như động rừng…

Sáng ra, Ánh thức dậy, ngái ngủ và mệt bã. Các khớp xương lục cục, mỏi rã rời. Ngọc Bình nhợt nhạt, mất hồn, thất sắc. Dị hương không còn, chỉ có mùi cỏ cây ải mục ngai ngái xông lên. Ánh ngạc nhiên thấy dây võng đứt mà vẫn đưa chao trên mặt đất. Té ra, nối hai đầu võng với thân cây là hai con trăn. Trăn đực, trăn cái đều ngóc đầu nhìn Ánh thân thiện, hiền từ và nhẩn nha vặn mình đưa võng nhè nhẹ. Ánh phát kinh nghĩ đến chuyện ma quỷ liền nhảy xuống đất, tháo thân lên thuyền giục quan quân giong buồm về Phú Xuân.

*

Trơ trọi một mình nằm trên long sàng. Ánh kinh hoàng ngỡ mình vừa trải qua cơn mê, bèn gọi Lê Văn Duyệt lại hỏi. Duyệt xác nhận câu chuyện ma quỷ ấy là có thật và khuyên Nguyễn Vương hãy vì đại sự quốc gia mà quên nàng Ngọc Bình. Ánh cũng thấy chút bẽ bàng của bậc quân vương, gật đầu chấp thuận.

Nguyễn Văn Thành chuẩn bị chiến thuyền, binh bộ trong cả tuần trăng cho cuộc tiến quân ra Bắc thì cũng ngần ấy ngày Ánh sống trong ủ ê, héo rũ. Có hôm bỏ bữa quên ăn. Người gầy đi mấy phần. Ánh không thể quên được nàng Ngọc Bình. Lúc nào cũng cảm thấy mùi hương lạ thoang thoảng xa gần. Không chịu nổi nỗi nhớ dày vò, Ánh lại kêu quân lính giong thuyền ngược sông Hương. Ánh leo lên Ngọc Trản Sơn. Núi vắng teo. Điện thờ thánh mẫu Thiên Yana quạnh hiu, không hương khói. Ánh nhìn quanh chỉ thấy những lọn tóc đen dài như con rồng quấn trên cành cây. Ánh cảm thấy cô độc, trống rỗng vô cùng.

Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường. Lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình ở Ngọc Trản Sơn. Ánh ân hận, cứ nghĩ mình bỏ rơi nàng lại Ngọc Trản Sơn. Ngày phát lệnh tiến quân ra Bắc đến gần mà bệnh tình của Ánh không nguôi. Việc đại sự quốc gia có nguy cơ hỏng. Bọn Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành biết minh chủ ốm tương tư liền kêu nhau phủ phục tận long sàng thưa:

“Ngụy Toản vẫn còn. Giang sơn chưa về một mối. Chúa vương suốt ngày thương nhớ một con đàn bà đến ốm o, mòn mỏi thì thần dân biết trông cậy vào ai?”.

Ánh bảo:

“Người xưa nói: Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”.

Lê Văn Duyệt lại phủ phục:

“Thưa chúa vương! Công chúa Ngọc Bình xinh đẹp sắc nước hương trời thật, nhưng lại là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ kẻ thù hận”.

Ánh cả giận, mắng:

“Ta đoạt lại thiên hạ từ giặc cỏ Tây Sơn, thì cành cây ngọn cỏ cũng thuộc về ta, huống chi là vợ Quang Toản. Vả lại, các ngươi là anh hùng thời loạn chỉ biết hùng hục đánh nhau chém giết, có biết yêu thương bao giờ mà hiểu được lòng ta. Các ngươi là hạng đàn ông võ biền chỉ nghĩ đến chuyện đực cái trần tục, đâu có biết cái thứ mùi hương kỳ lạ thanh tao tỏa ra từ ngọc thể của nàng”.

Nguyễn Văn Thành thì đỏ mặt. Đại giám quân Lê Văn Duyệt vốn là kẻ ái nam ái nữ ngượng ngùng, bẽ bàng quá. Hai đại thần không thể ngấm ngầm giấu mỹ nhân Ngọc Bình mãi, đành phải đưa nàng lại bên Ánh. Ánh cả mừng. Bao nhiêu bệnh tật trong mình bay biến hết. Ánh bảo:

“Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Tội các ngươi đáng chém. Ta được nàng là được thêm một “danh tướng”. Ta không muốn được danh tướng mới thì mất danh tướng cũ. Thôi, ta tha”.

Lưỡng lự một lát rồi Ánh túm ngực áo gầm lên:

“Sao các ngươi không hiểu lòng ta nhỉ?”

Bọn Thành, Duyệt ngơ ngác và bất lực, lui ra.

Suốt mấy tuần sau đó. Tiếng cười như binh khí chạm vào nhau đêm nào cũng văng vẳng trong không trung. Đất trời Phú Xuân sáng láng, tưng bừng. Cứ y như mùa xuân về sớm. Cây cối, cầm thú rạo rực mùa động tình.

*

Nhiều năm trôi qua.

Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long, lập Ngọc Bình làm Đức phi tam cung và yêu chiều vô cùng. Ánh sai đúc bồn tắm bằng vàng, thả những cánh hoa lan trắng cho đức phi tắm. Lại sai người lên tận rừng rú miền tây Quảng Nam tìm hương trầm về đặt trong cung của nàng. Và Đức phi tam cung cũng kịp đẻ cho Gia Long hai hoàng tử và hai công chúa.

Nhưng, thật trớ trêu, Ánh càng yêu quý đức phi Ngọc Bình bao nhiêu thì nàng lại càng thờ ơ, lạnh lùng bấy nhiêu. Ánh không hiểu nổi, trong lòng ủ dột vô cùng.

Bỗng dưng, Ánh nhớ đến chuyện xưa từ biệt nàng Tống Thị Lan với thoi vàng chặt đôi. Dạo ấy là mùa thu năm Quý Mão, Ánh bị quân Tây Sơn đuổi chạy dài. Đường cùng phải phiêu dạt ra Phú Quốc, đói khát hiểm nguy, tuyệt vọng tưởng tận số. Trước lúc sang Xiêm La, Ánh lấy thoi vàng ra chặt vát làm đôi, đưa cho Nguyên phi một nửa, rồi bảo:

“Nay ta phải đi Xiêm. Nàng ở lại cung phụng quốc mẫu. Ta bôn tẩu nơi chân trời góc bể chẳng biết ngày nào gặp lại. Đành lấy vàng này làm tin vậy”.

Nguyên phi phục xuống khóc dòng, vâng lời. Bao nhiêu năm nàng tần tảo hầu hạ mẹ chồng và thân hành may dệt trang phục giúp việc quân. Sau này, Ánh thu lại bờ cõi, có sum họp với đức nguyên phi nhưng dần cũng thưa vào ra cung nàng.

Bấy giờ, đang ủ ê với nàng Ngọc Bình, Ánh nghĩ: Mình lạt lẽo với Đức nguyên phi quá. Gắn bó với nhau lúc khốn cùng thì chẳng có mỹ nhân nào bằng nàng. Ánh bèn bảo thái giám đưa đến cung Nguyên phi.

“Nàng còn cầm giữ nửa thoi vàng xưa không?”.

Nguyên phi cung kính dâng:

“Thần thiếp dù nhịn đói, mặc rách, chứ quyết không bội tín”.

Ánh cầm nửa thoi vàng bị nhát kiếm chặt vát ngày xưa, cảm động lắm:

“Nàng còn giữ được vàng xưa là do ân trời đất giúp lúc khó khăn hoạn nạn. Ta không thể quên lãng. Phải để dành vàng này cho con cháu mai sau biết”.

Nói dứt lời, Ánh lấy nửa thoi vàng mình đang giữ, ráp với nửa thoi vàng của Nguyên phi thì vừa chằn chặn. Rồi giao hết cho nàng cất giữ.

Đêm ấy, Ánh ở lại cung Nguyên phi. Cảm giác ái ân vội vàng, thấp thỏm lúc chạy nạn quân Tây Sơn đuổi lại ùa về. Ánh quên hẳn mình đang ở giữa kinh thành Phú Xuân lộng lẫy vàng son.

*

Sau này, Trần Huy Sán bất đắc chí với đời. Y có viết một chương trong Phú xuân thực lục có đoạn rằng:

Thật là trớ trêu ở đời! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Phúc Ánh Gia Long lại là chồng công chúa Ngọc Bình; hai kẻ cừu địch không đội trời chung bỗng dưng lại trở thành anh em “cột chèo”. Ta đồ rằng: Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà là núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu để đoạt lại đến tận cùng nhà Tây Sơn, kể cả cái dị thường hư ảo. Ánh làm chính trị thâm độc, nghiệt ngã và khôn ngoan hơn Nguyễn Huệ…

Một đoạn khác viết:

Những năm cuối đời, Ngọc Bình sống trong cô đơn và thất vọng. Mỗi lần ở bên Ánh, nàng không chịu đựng được mùi binh khí lạnh lẽo va chạm vào nhau. Ta đồ rằng: 25 năm bôn tẩu, ý chí phục tộc ngút trời cao, Ánh đã bước qua bao nhiêu xác người, xác ngựa; đi qua bao nhiêu mộc, khiên, câu liêm, giáo, mác, gươm, kiếm… nhuốm máu. Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh. Vì vậy cứ mỗi lần ân ái xong là dị hương bị hút kiệt. Không! Mùi máu tanh tưởi và mùi khét binh khí đã lấn át trùm lấp, không cho dị hương của nàng tỏa ra.

Người xưa nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Ta đồ rằng: Nguyễn Huệ Quang Trung có sống lại cưới Ngọc Bình công chúa thì khát vọng của nàng cũng chìm trong bi kịch tuyệt vọng y như đoạn đời nàng sống với Nguyễn Ánh Gia Long.

Nghe đồn Đức tam phi đọc được đoạn này thì gật đầu. Nước mắt chảy lã chã hai hàng đỏ như máu.

Một đoạn khác Sán viết:

“Ánh là Tà hương, là âm u, lạnh lẽo, thiên về sức mạnh độc đoán. Ngọc Bình là Dị hương, là mùi thơm vừa trần tục vừa thanh tao, dịu dàng mà quý phái, cuồng dại mà thanh bình…chỉ hợp với Sán này”.

Có kẻ bên cung Nguyên phi ghen ghét Sán, trộm được Phú Xuân thực lục bèn dâng lên Nguyễn Ánh Gia Long. Ánh nghĩ: Té ra dị hương chưa bao giờ thuộc về mình mà lại thuộc về Sán. Có lẽ cái yếm thắm như một trò ma thuật. Y lại còn dám rủa ta là tà hương.

Ánh cho gọi Sán đến, mắng:

“Rút cuộc, ngươi cũng là loại phù thủy chọc gậy vào bánh xe”.

Sán bảo:

“Hạ thần chưa một lần xảo trá, luôn nghĩ và nói đúng sự thật”.

Ánh rút gươm khều lấy cái yếm thắm trong túi Sán, rồi mắng tiếp:

“Không những ngươi ám ta mà còn giở trò ma thuật để hút hồn đàn bà con gái đẹp”.

Sán im lặng trơ lì như đá.

“Lại còn cao ngạo nữa. Coi trời bằng vung. Tội ngươi thực đáng chém đầu”.

Sán vươn cổ cò ra như thách thức.

Một chớp sáng ngoằng như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này, Ánh chém thật. Cái “chõ xôi” lăn lông lốc, rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng, mùi dị hương ở đâu đó dào dạt xông lên rồi, mất hẳn. Về sau, có kẻ phán bừa rằng: dị hương ở yếm thắm đã tẩm hết vào người Sán. Khoảnh khắc đầu lìa khỏi cổ, chút dị hương còm ấy rút ra kết vón lại theo hồn vía Sán thăng thiên.

*

Đêm ấy, lòng dạ Ánh bồn chồn không yên.

Trăng hạ tuần đã gác mái điện Cần Chánh, Ánh vẫn không ngủ được. Ánh bảo thái giám đưa mình đến cung Đức tam phi Ngọc Bình.

Mỹ nhân đang tắm trong đêm khuya khoắt. Nàng ngập mình trong bồn vàng ngập nước thả đầy cánh hoa lan bé mỏng manh trắng muốt. Dị hương lãng đãng xa gần, quyến rũ vô cùng. Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, vội vã cuống cuồng. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn ra quá nửa. Nguyễn Ánh và mỹ nhân quấn lấy nhau như đôi thanh long giao phối đêm mưa bão. Từng chập từng chập nước sóng sánh tràn ra ngoài. Chỉ một lúc dập dềnh, nước dạt ra ngoài bồn tắm gần hết. Bao nhiêu cánh lan trắng nát bấy dính vào bồn tắm, nổi trên mặt nước thơm rập rờn bên da thịt mỹ nhân.

“Thưa Chúa thượng! Người cầm cái chi trong tay, cứ chạm vào da thịt thần thiếp nóng hổi?”.

Ánh đang ôm cổ mỹ nhân, vội bỏ tay ra, quơ quơ trước mặt nàng cái vật màu đỏ sũng nước lập lòe như đốm lửa.

“Cái yếm thắm của nàng. Ta chém đứt cổ cò thằng khốn ấy rồi”.

Trần Huy Sán đã chết!? Đức phi Ngọc Bình cảm thấy như tắc thở bởi mùi máu tanh tưởi và khét lạnh rợn ngợp của binh khí chạm vào nhau. Nàng rùng mình. Gân cơ co rút lại. Người thẳng đơ, cứng ngắc. Rồi thân thể ngọc ngà từ từ lạnh ngắt. Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh.

Lúc bọn thái giám vào, thấy Ánh đã khoác hờ tấm hoàng bào, ngồi bệt xuống sàn, thả một tay vào bồn tắm. Mặt ngơ ngác như người mất hồn vía. Hai mắt Đức phi tam cung nhắm hờ như ngủ. Tóc mây xõa lập lờ trong nước. Hai đùi dài khép sát. Thân thể đã mềm mại và trắng hồng trở lại. Thần sắc đã hồi. Văng vẳng đâu đó như có câu ca vọng vào tam cung:

“Gái đâu có gái lạ đời

Con vua lại lấy hai vua làm chồng”.

Cái yếm đỏ vụt bay khỏi tay Ánh lượn những đường ngoằn nghèo như hương khói.

Tháng 8. 2009

S.N.M

Nhà văn Sương Nguyệt Minh

VanVn.Net - Lâu lắm rồi mới lại có tập truyện ngắn nhận Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam thuyết phục đến thế, tập “Dị hương”. Sương Nguyệt Minh, nhà văn của những chi tiết lạ lung, kỳ dị; nếu là người phương Tây, thể nào ông cũng bị các nhà lý luận gọi là người Tân kỳ chủ nghĩa. Nguyễn Ánh khi diệt xong Đế Toản, lấy phi của ông rồi múa kiếm xé xiêm y của người đẹp mà hành lạc. Không biết vì lưỡi kiếm tanh mùi trận mạc hay cái cách thụ hưởng của kẻ chiến thắng khiến mùi kỳ hương trong thân thể nàng lập tức biến mất; đưa cái đẹp thiên thần trơ trở lại xác phàm. Ám ảnh về chiến tranh thật tinh tế, thật mảnh nhưng cũng thật nhiều mãnh lực; nó bùng nổ và văng nhiều cảm thức đi xa, trong đó có tên tuổi nhà văn. Xin chúc mừng Sương Nguyệt Minh và trân trọng giới thiệu “Dị hương” cùng bạn đọc…

DỊ HƯƠNG

Nhợt nhạt. Khô xác. Và thất sắc.

Nằm đườn đưỡn tựa hồ cái xác vô hồn. Dị hương sang trọng quý phái thanh tao biến mất. Yểu điệu dịu dàng chỉ còn trong hình cũ bóng xưa. Không còn là mỹ nhân thanh mai trúc mã thuở nào. Chẳng còn ngọc ngà sắc nước hương trời ngày trước. Cứ mỗi lần ân ái xong là Đức phi tam cung Ngọc Bình như con cá ươn nằm trên thớt. Hết sạch hứng thú, lòng lạnh nguội, Nguyễn Ánh chỉ muốn đạp Đức phi ra khỏi long sàng. Đã đôi lần Ánh tức giận và chán chường, muốn gọi thái giám đem nàng đang khỏa thân héo rũ giam vào lãnh cung. Cái gì đã làm cho nàng tàn tạ, ươn lạnh?

Cung tần qua đêm với Ánh, dù ngực hằn đầy vết hồng đỏ của bàn tay thô ráp cầm kiếm, hai đùi nhiều vết răng bầm tím, sáng ra vẫn nhuận sắc, nuối tiếc trong niềm hân hoan, mắt sáng long lanh, mặt mày rạng rỡ. Mỹ nữ trong vòng tay vần vò của Ánh, dù khi chính ngọ hay lúc chiều tà, ái ân xong vẫn cười tình tứ, mắt ướt rượt, thịt da căng mẩy, no nê, thỏa mãn. Còn Đức phi tam cung, Ánh chiều chuộng nâng niu, vuốt ve, mơn trớn, đam mê cuồng nhiệt. Vậy mà nàng vẫn ở ngoài trái tim tráng niên sung mãn của Ánh. Điều gì khiến lòng nàng băng giá, thờ ơ? Ánh không cắt nghĩa được. Kỳ lạ, cứ mỗi lần Ánh ra khỏi long sàng mặc quần áo thì thân thể Đức phi lại nhuận sắc hồng hào, tươi mởn. Dị hương lại vấn vít quyến rũ không dứt… Cũng là điều Ánh không hiểu nổi.

***

Nguyễn Ánh nhớ lại.

Vó ngựa phi đến bờ sông An Cựu thì dừng đột ngột. Con ngựa tía chân xước sát bởi cành lá quệt gai đâm không chịu cất thêm nửa bước. Nó nghênh nghênh đầu lắng nghe những câu hát của bọn trẻ chăn trâu thả ra khắp triền sông.

Hơn hai mươi năm trường

Nếm mật nằm gai

Chí cao ngút trời xanh

Vó ngựa xéo nát bàn dân thiên dạ

Trước mặt máu chảy đầu rơi

Sau lưng xương trắng đống gò…

Sự lạ? Một vùng hoang vu. Quạ đen bay rợp trời. Xác binh lính chết như ngả rạ. Đồ khí giới quẳng vô tội vạ. Ngựa què nằm bẹp, máu tím bầm đen. Ruồi trâu bay vù vù. Xe mộc bỏ vương vãi. Đồng không mông quạnh. Xơ xác. Tiêu điều. Thật ai oán thê lương nước lửa và ống đồng. Ánh vốn lạnh lùng đến độc nghiệt, cũng không khỏi xót xa, cô đơn và buồn.

…Đường dọc ngang bôn tẩu

Dị hương bay bất chợt

Vương tướng lòng dạ xốn xang

Giao long hư ảo gần xa

Đôi chân đạp đổ thành phá lũy

Bồi hồi không qua ải mỹ nhân.

“Gái đâu có gái lạ lùng

Con vua lại lấy hai chồng làm vua”

Những câu đồng dao xa gần man mác, hoang liêu vẫn cứ rót vào tai người máu lạnh.

Sinh thời Ánh trọng võ hơn văn. Đất nước tao loạn, ru rú thù tạc những vần thơ cũ mèn nhạt nhẽo thử có ích gì? Chẳng ai lấy được thiên hạ từ những bài thơ kẽo kẹt, à ơi. Bất quá, mua vui được chốc lát qua miệng con hát con đào. Lưỡi gươm chém vào trời xanh mới đáng mặt anh hùng. Ánh rất ghét bọn hủ nho làm thơ. Chúng thường xúm vào tâng bốc, ngợi ca Ánh như một bậc kỳ tài trong thiên hạ chí lớn ngùn ngụt. Cứ như chỉ có Ánh mới đáng mặt lấy thiên hạ từ tay anh em Nguyễn Huệ. Nghe mãi cũng chán. Thực ra, bọn hủ thơ chỉ rặt một lũ ăn bám. Chẳng ích tóp gì. Huống hồ mấy câu hát vặt của trẻ con.

Nhưng sao bọn trẻ chăn trâu cắt tóc để chỏm lại hát: “Gái đâu có gái lạ lùng. Con vua lại lấy hai chồng làm vua”?

Có điềm gì tốt hay lành như lời sấm truyền đang rơi xuống bầu trời Phú Xuân?

***

Dưới trướng của Ánh có một nhân vật rất kỳ dị chỉ thấy chép trong dã sử. Y tên là Trần Huy Sán. Sán vốn là bộ hạ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Huệ thấy Chỉnh hẹp hòi, đố kỵ, gian hùng lòng dạ hai nơi nên giết đi. Xã hội loạn lạc, nhiễu nhương, Sán không tìm được minh chủ ở đất Thăng Long. Hoang mang. Chán ngắt. Sán nhìn cây thấy cây héo rũ. Nhìn cung điện lầu son gác tía chỉ thấy một màu ảm đạm, rêu phong bụi phủ. Thấy rồng đá ở điện Kính Thiên cứ nghĩ là con trăn gầy mùa đông. Chẳng ai hiểu nổi mình và mình cũng không hiểu ai. Thực là sinh bất phùng thời. Sán bơ vơ ở Thăng Long một thời gian rồi bỏ vào Nam theo Nguyễn Ánh. Sán người lùn tịt. Chân tay ngắn tủn. Cổ bé, dài ngẵng, chằng chịt những mạch máu như đường gân xanh. Nhưng, đầu to như cái chõ xôi. Tóc búi tó củ hành to như vốc tay. Thật dị biệt. Trí lực hơn người. Tính tình khảng khái. Gàn dở hết chỗ nói. Coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Y có cái yếm thắm nhỏ và hai cái dải đứt rời nhau, lúc nào cũng mang theo bỏ trong túi áo. Lúc ngủ thì đắp cái yếm lên mặt. Nhòm rất tức cười. Có một điều kỳ lạ, yếm thắm có mùi hương rất dị biệt. Mỗi lần lấy yếm ra khỏi túi áo là hương bay dìu dịu thoang thoảng xa gần quyến rũ. Bí ẩn hương thơm kỳ lạ ấy từ đâu thoảng đến, chỉ mình y biết. Y có tài văn thơ, hiểu nho y lý số. Những ý nghĩ dù u tối hay ranh mãnh, sáng sủa trong đầu Ánh đều không qua mắt Sán. Ánh tin dùng lắm, luôn cho đi theo cùng trời cuối đất. Kho tàng tri thức Nho học của Sán đã giúp Nguyễn Ánh được cái danh thâm sâu, khỏi tiếng võ biền mà cánh sĩ phu Bắc Hà cao ngạo thường mỉm cười coi rẻ.

***

Thấy minh chủ mặt hằn những điều âu lo, ngẫm ngợi, băn khoăn, Trần Huy Sán liền phán rằng:

“Hạ thần nghĩ, cứ theo những câu hát kia thì âu cũng là điềm trời thả xuống nhân gian. Phen này chúa vương lấy được Phú Xuân, thống nhất bờ cõi là chuyện đại sự dễ như thò tay vào lồng bắt chim sẻ. Nhưng, chúa vương cũng sẽ bắt đầu sống vật vã thật với chính lòng mình, đó cũng là sự lớn của đời người”.

Giương cặp mắt nhìn u ám đầy nghi ngờ, Ánh bảo:

“Ngươi nói ta không hiểu. Ta đồ rằng riêng ý tưởng này cao siêu quá, ngươi lại nói những điều viển vông như đám nho sĩ Bắc Hà rồi. Rõ nực cười”.

Sán lại tâu:

“Thưa chúa vương. Ý chí phục tộc của vương quyết liệt cháy ngùn ngụt như ngọn lửa trong lò bát quái. Người đứng trên thiên hạ nên không thèm để ý đến các điều nhỏ nhặt trong cõi nhân gian và chính mình. Song thần nghĩ, thực ra chúa vương tự hiểu được mình rồng mới là điều khó nhất, hiểu lòng thiên hạ chỉ mới là cái khó thứ hai thôi”.

“Sao ngươi có lắm điều tâm sự thế? Lòng dạ đang ngổn ngang rồi. Có phải ngươi đã nhìn thấy trước mọi việc sẽ xảy ra với ta?”.

“Chính phải. Quang Toản là tên bất tài, bạc nhược. Chúa vương sẽ lấy được tất cả những gì thuộc về Toản kể từ cõi bờ thiên hạ, cung tần mỹ nữ đến con chó con lợn. Chung quy cũng bởi đại anh hùng Nguyễn Huệ vắn số”.

Nghe Sán nói, mặt Ánh tối sầm lại, rút phắt gươm ra, quát:

“Ngụy Huệ thiên tài thực, nhưng chỉ là tên giặc cỏ”.

Sán vươn cổ cò dài ngẵng nổi chằng chịt những đường gân xanh rợn chờ một ánh chớp. Ánh chùn tay, tra gươm vào bao. Sán im lặng, không nói gì, lui ra. Sán vừa đi vừa nghĩ: Mai mốt chúa thượng sẽ hân hoan, mình thì khốn nạn, bẽ bàng không kể xiết.“Sự đâu có sự lạ lùng/ Con vua lại lấy hai chồng làm vua”. Miệng Sán cứ lảm nhảm mãi, như thằng tâm thần.

*

Nguyễn Ánh lấy được Phú Xuân dễ như trở bàn tay. Được một ngày hân hoan mừng vui, hôm sau buồn hẳn. Ánh đeo gươm đi ra đi vào rồi ngồi ủ dột nhìn sông Hương xanh rợn phẳng lì như ngưng chảy. Mấy con đò vắng khách neo vào bờ, có lẽ chủ sợ hãi loạn binh đao bỏ của chạy lấy người. Nguyễn Văn Thành đang đốc quân truy quét, bắt bớ gia thất, quan lại Tây Sơn lẩn trốn và chuẩn bị cho ngày ra Bắc đánh Thăng Long. Thành thấy minh chủ lặng trầm liền hỏi:

“Phú Xuân đã vào tay chúa vương. Ba quân nhảy nhót reo ca. Sao Chúa vương có điều gì không vui?”.

Ánh thở dài, bảo:

“Giờ ta mới thấy Sán nói đúng. Ngụy Huệ là bậc đại anh hùng thiên hạ thực. Huệ chết bất đắc kỳ tử, ta mới lấy Phú Xuân dễ dàng như đi vào chỗ không người. Vậy phỏng có vẻ vang kiêu hãnh gì với bậc Chúa vương - đại nguyên súy như ta? Tiếc y không còn sống để ta thi thố đường gươm vó ngựa”.

Trần Huy Sán lúc đó đang ngồi thảo bài chiếu yên dân, liền ngừng bút, bẩm:

“Thưa Chúa vương, đất nước mệt mỏi, binh đao loạn lạc, đồng không xương trắng đã quá lâu. Chả lẽ, chúa vương lại muốn Nguyễn Huệ sống lại để thi thố tài năng trên xương máu dân đen con đỏ?”.

“Ta biết… ta biết… rồi binh đao cũng đến hồi kết. Ngụy Huệ hoặc ta chết sớm thì cuộc chiến tranh mới mau chấm dứt. Nay mai ra Bắc, bắt ngụy Toản cũng chỉ dễ như bắt cua bỏ giỏ. Chả lẽ nước Nam này chỉ còn mỗi mình ta là bậc đại anh hùng? Bờ cõi sẽ thuộc về ta, hạt lúa củ khoai trong thiên hạ, đến cung tần mỹ nữ nhà Tây Sơn cũng thuộc về ta nốt”.

Sán nghĩ thầm trong bụng: Thiên hạ này chỉ có hai kẻ cao ngạo, Sán là một, có dễ Ánh là người thứ hai. Trước sau rồi mình cũng chết dưới lưỡi gươm của Ánh. Lòng dạ Sán ngao ngán, nhớ lại câu hát, lòng vừa phục Ánh lại vừa thầm ghen với Ánh.

*

Phú Xuân yên ổn, Ánh muốn lòng tĩnh lại, tìm về những ký ức mù xa thiếu thời êm đềm và đẫm nước mắt chạy loạn Tây Sơn. Ánh bảo Trần Huy Sán kêu quân lấy thuyền rồng của Quang Toản bỏ lại, ngược dòng Hương Giang.

Nước sông xanh ngắt. Mây trôi dưới dòng. Bao la một vùng non sông cẩm tú. Ánh đứng ở đầu mũi thuyền. Tay nắm đốc gươm báu đeo hông. Đôi mắt hướng lên phía thượng ngàn. Vẫn buồn. Cô độc.

Thuyền ngược dòng đến đoạn ngang Hương Uyển Sơn, Ánh nhìn núi non giống như con sư tử đang nằm thò đầu xuống sông uống nước, liền hỏi một viên quan già. Y kính cẩn tâu rằng:

“Chúa vương bôn tẩu thiên hạ hơn hai mươi năm quên mất rồi ư? Xưa núi này có tên Hương Uyển Sơn, sau đặt lại là Ngọc Trản Sơn, dân gian gọi nôm là núi Chén Ngọc; bởi trên đỉnh núi có chỗ đất trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như bờ giếng. Hễ mưa xuống thì nước đọng lại trông như cái chén đựng nước trong. Ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Ponagar ở Hương Uyển Sơn. Sau đó người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà với danh xưng Thánh Mẫu Thiên Yana…”

Ánh bảo:

“Ta phải lìa xa Phú Xuân chạy nạn binh đao từ thuở thiếu thời. Những nơi linh thiêng như thế chưa kịp đến. Thật tiếc lắm thay”.

Viên quan già khép nép tâu tiếp:

“Thưa Chúa vương! Nữ thần Ponagar là con của Ngọc hoàng Thượng đế được sai xuống trần gian. Bà tạo ra trái đất và các loại gỗ, kỳ nam, lúa gạo,… và làm cho chúng tỏa hương. Ngọc Trản Sơn lúc nào cũng có mùi hương thơm lạ lan tỏa vấn vít”.

Ánh nghe thấy có vẻ lạ lẫm và thần bí lắm, bèn vẫy quân chèo thuyền cập bến. Bấy giờ, trong đầu Trần Huy Sán đang đầy ắp sự nghĩ ngợi mông lung, vội bừng tỉnh. Y liền quỳ rạp xuống can ngăn:

“Đêm trước vào thành Phú Xuân, hạ thần thấy hồn khí ngút trời. Hồn phách rồng, hổ, giao long, rắn rết, khỉ, chó, lợn… chạy loạn tán loạn, bỏ cung điện thăng thiên tìm nơi lẩn tránh. Hạ thần đồ rằng: Ngọc Trản Sơn này cũng là nơi ẩn náu của gia thất hoặc quan quân nhà Tây Sơn. Xin Chúa vương cẩn trọng.”

Ánh bảo:

“Đừng lo. Ta ngửi mùi ta biết ở nơi nào có binh khí, tên độc, nơi nào có mùi hơi người, hơi cầm thú.”

Ánh đeo gươm bước ra khỏi thuyền.

Phía Tây mặt trời đã gác núi. Hoàng hôn đỏ bầm như máu. Sông Hương xanh trong cũng quặn mình ngả màu đỏ hồng lai láng.

Bỗng nhiên lòng dạ Ánh xao xuyến bởi mùi hương lạ ở đâu đó thoảng bay lãng đãng. Đúng như viên qua già tấu, mỗi bậc đá xanh lên núi lại ngửi được mùi hương đậm hơn. Bước thêm vài chục bậc nữa thì gặp người con gái mặc áo thôn nữ. Thị có vẻ ở nơi thâm cung nhàn nhã no đủ, chẳng giống thôn quê đói rách. Tóc đen óng ả buộc sau gáy thả dài chấm gót. Cổ trắng. Tay cũng trắng. Thị đứng án trước mặt Ánh gần như cản đường. To gan lớn mật nhỉ! Mặt mũi sáng sủa, nhưng lem nhem vết nhọ than. Ánh hỏi:

“Người có biết hương thơm lạ lùng từ đâu bay tới?”.

Thị lo sợ. Mặt lộ vẻ hốt hoảng:

“Dạ. Hoa cỏ… núi Hương Uyển”.

“Thì đã rõ! Ta bôn tẩu khắp Đàng Trong, có loại cây cỏ nào ta chẳng biết. Nhưng, còn một hương thơm lạ lùng nữa không phải từ thảo mộc”.

Thị lại càng ấp úng:

“Thưa! Từ thân thể… tiện thiếp… tỏa ra ạ”.

Ánh tức giận, thoáng nghĩ: Con hầu người ở chẳng phải. Cành vàng lá ngọc càng không. Áo xô gai. Chân đất. Như đám đàn bà con gái lần đầu đi làm thợ sơn tràng. Lại dám khi quân ư? Ánh đưa một đường gươm. Chớp lóe sáng lên phạt ngang cổ thôn nữ. Máu đỏ phun lên như mạch nước ngầm hở miệng. Lọn tóc dài tung lên trời bay liệng hình con rồng rồi quấn vào cành cây.

Ánh bước chục bậc đá xanh nữa lại một thị nữ xinh xắn, ưa nhìn, án giữa đường dốc lên. Thêm một con rồng tóc bay lên trời xanh. Ánh lên đến đỉnh Ngọc Trản Sơn thì cũng kịp vung gươm phạt bay năm đầu thị nữ.

“Ta muốn biết hương thơm dị biệt ở đâu bay đến?”.

“Hoa cỏ đất trời Ngọc Trản Sơn chỗ nào cũng có, thưa tráng sĩ”.

“Bàn chân ta xéo nát thiên hạ. Có loại cỏ cây nào ta không biết. Có một thứ hương thơm quý phái nữa không phải từ thảo mộc”.

“Dạ… thưa. Từ thân thể tiện thiếp”.

Ánh lại vung gươm, nhưng nửa chừng thì hạ xuống. Ánh bỗng chùn tay không dám chém người người đẹp thứ sáu.

*

Trong điện thờ Thánh Mẫu Thiên Yana, lòng dạ Ánh vẫn bồn chồn. Ánh bước ra ngoài. Lai láng ánh trăng non vàng. Mùi hương lạ cứ vấn vương đâu đó. Tiếng nước xối chảy tong tóc lúc xa lúc gần. Ánh bảo quan quân đứng chờ. Dường như “ma đưa lối quỷ đưa đường”, không, có thể là nữ thần Ponagar dẫn dụ Ánh đi đến bên giếng nước.

Không thể tin được! Một cô gái đẹp như nữ thần Ponagar khỏa trần đang tắm ở thềm giếng. Một tì nữ quăng gầu múc nước. Thân thể ngọc ngà. Những đường cong mẩy nuột nà tưới đẫm trăng non. Ánh bèn lẩn vào bên lùm cây, kéo cành lá, mặt đần ra mê đắm nhìn mỹ nhân tắm. (Sau này Trần Huy Sán viết Phú Xuân thực lục đổ ấn cho Ánh nhòm trộm. Bởi khi nhìn thấy con gái đẹp tắm thì hoàng đế quyền nghiêng thiên hạ hay thằng ăn mày rách rưới cũng giống nhau thôi. Y còn bình rằng: Thật ra, Ánh dòng vương giả hoàng thân quốc thích, nhưng bôn tẩu 25 năm trong thiên hạ gian nan, vất vả, nhiều phen chạy trốn trên mặt biển ăn cơm nấu bằng gạo lứt với mắm tôm, rồi nhịn đói nhịn khát, ngủ bờ ruộng chui bụi cây, rập rạ, khốn cùng, tuyệt vọng... Bấy giờ, bỗng dưng bắt gặp con gái đẹp khỏa thân tắm giữa đất trời cây cỏ thì như lạc vào cõi vừa trần tục vừa thanh cao, không nhòm trộm mới là giống nửa đàn ông nửa đàn bà. Điều này không biết thực hư thế nào).

Mùi hương lạ lúc ngào ngạt lúc vấn vương thoảng bay. Ánh nhận ra mùi hương da thịt con gái đang hứng tình nồng nàn trộn lẫn mùi bạch lan đài các và cỏ thi dân dã quý hiếm. Ánh ngẩn ngơ bởi dị hương và vẻ đẹp con gái khỏa thân giữa cây cỏ thiên nhiên. Bất ngờ, tay Ánh vô tình làm gẫy cành cây nhỏ. Con tì nữ ngang ngạnh hắt gầu nước về phía tiếng động và lớn tiếng quát. Quần áo người hùng vừa lấy kinh thành Phú Xuân ướt lướt thướt. Ánh bèn phải bước ra.

Trăng đầu tháng chênh chếch. Bóng Ánh đổ dài kéo thành vệt đến giếng nước. Mỹ nhân vội khép hai đùi, một tay che hai trái tuyết lê căng mẩy, một tay che đám lông mu đen mượt. Thực ra, mỹ nhân không cần phải hốt hoảng che đậy vì chỏm đầu của Ánh đã đổ bóng đen lên ngực nàng.

“Tự nhiên... Nàng cứ tự nhiên như thể ta chưa từng nhìn thấy”.

Mỹ nhân có vẻ trấn tĩnh lại song vẫn lóng ngóng, chân gạt đổ ào lu nước. Cái lu gốm đất nung lăn lông lốc. Ánh lưỡng lự, nửa muốn bước vòng qua thành giếng tiến lại gần, nửa muốn đứng im nhìn mỹ nhân trong bóng trăng mờ ảo. Cuối cùng thì Ánh quay gót trong sự ngập ngừng nuối tiếc.

“Tráng sĩ đã tha mạng cho tiện thiếp, thì hoàng hậu chắc chắn sẽ bình an. Xin hoàng hậu đừng sợ”.

“Hoàng hậu!” Sao lại là hoàng hậu? Thảng thốt trong lòng, Ánh quay lưng, bước lại. Mùi hương dị biệt lại ào vào mặt Ánh. Con tỳ nữ đứng án ngữ che gần hết thân người đẹp. Ánh dùng sống gươm khều xiêm y đang treo vắt vẻo trên cành cây bứa hất mạnh. Xiêm y bay vèo qua giếng nước. Tì nữ giơ hai tay đón được.

“Mặc xống áo vào cho mỹ nhân”.

Ánh nói xong rồi ngồi vắt lên thành giếng, hai tay chống trên mặt đá xanh. Bao gươm xệ một bên hông. Bóng Ánh đổ xuống hòa lẫn mặt nước tối om. Lòng dạ ngẩn ngơ, miệng Ánh cứ lẩm bẩm: “Mỹ nhân… Hoàng hậu… Mỹ nhân…”.

Người đẹp đã trấn tĩnh lại bước đến gần, buông gót nhẹ nhàng, êm ái, giọng nói thanh và tự tin, phong thái ung dung:

“Ngươi hãy về nói với Nguyễn Vương rằng ta đã chờ cái thời khắc này từ lâu rồi”.

Ánh sửng sốt. Bao nhiêu cái đầu lăn lóc dưới đôi chân bôn tẩu của Ánh. Nàng đã không hề sợ lưỡi gươm sáng lạnh. Ánh thầm khen và kêu quân hầu đưa mỹ nhân xuống thuyền, rồi đứng dậy đi trước.

Còn một người nữa lòng dạ đầy ngổn ngang bước chân nặng chình chịch đi theo sau là Trần Huy Sán. Y đã chợt nhận ra người xưa. Vẫn vẻ đẹp trẻ trung huyền ảo ấy, nhưng đã pha màu đậm đà. Y cũng nhận mặt bọn cung nữ ăn mặc theo lối nhà quê trốn sự truy tìm của quân nhà Nguyễn. Y bồi hồi nhớ lại thời còn ở kinh kỳ Thăng Long…

***

Mỹ nhân là cô bé lên mười hai tuổi đã phổng phao, sáng rỡ, tóc dài đổ óng mượt chấm gót. Y mê mẩn nàng đến nỗi mỗi khi gặp là cứ lẽo đẽo bước sau lưng. Lại làm không biết bao nhiêu thơ lấy cảm hứng từ nàng. Nước giếng Ngọc trong nội cung không quyến rũ và làm cho da nàng đẹp. Nàng thích tắm nước sông Nhị Hà, ngụp lặn cùng tôm cá, ba ba thuồng luồng và chìm ngập thân thể ngọc ngà vào hương sen hồ Dâm Đàm lúc hoàng hôn. Một lần có trận lốc khủng khiếp. Vòi rồng cuốn cả kho tiền đồng, quần áo vua quan, xiêm y cung tần mỹ nữ trong cung bốc lên trời rồi ào ạt ném tóe loe, vương vãi ra ngoài thành. Lúc đó, y đang ngẩn ngơ đi lẽo đẽo sau người đẹp bên hồ Dâm Đàm cũng bị chìm trong lốc giông. Lòng tham mỗi người một vẻ. Đám thảo dân, binh lính đi tuần tranh nhau nhặt tiền đồng, trang phục vua quan, xống áo cái ướt cái khô… đến bươu đầu mẻ trán trong mù bụi. Chỉ riêng y lại chạy đuổi theo cái yếm thắm chao liệng như cánh diều hồng trên không trung. Chân y ngắn tũn chạy liến thoắng đến mức đám cung nữ cười ngặt nghẽo, quên cả cơn mưa tiền, mũ mão, xiêm áo. Cuối cùng y cũng nhẩy cẫng lên tay nắm “cái diều hồng”. Lập tức lòng dạ Sán mê mẩn bởi mùi hương kỳ lạ thoang thoảng từ cái yếm. Bọn cung nữ theo hầu nhận ra yếm thắm của mỹ nhân.

“Trả lại yếm cho công chúa út đi”.

Sán không chịu, còn ấp cái yếm thắm lên mặt. Bọn cung nữ quát:

“Đồ vô lễ. Ngươi muốn chết à?”.

Sán cứ khư khư giữ chặt vật báu trong tay. Rồi vươn cổ như cổ cò gân xanh nổi chằng chịt ra đợi chém.

Công chúa nhỏ hồn nhiên nhìn cái đầu to đùng cắm vào cổ dài ngẵng kì dị thích thú quá, bảo:

“Yếm nhặt được là yếm vô hồn. Ngươi cầm giữ phỏng có ích gì?”.

Sán lưỡng lự đôi chút, dứt phắt hai cái dải yếm rồi mới trả. Công chúa nhỏ không giận. Lúc đó, tự dưng nàng cảm động, trong lòng trào lên một niềm yêu quý không cắt nghĩa được. Cả đám quan quân và thảo dân tranh nhau hôi của vòi rồng cuốn không ra thể thống gì. Chỉ mỗi mình y bỏ qua tiền của, theo đuổi cái yếm thắm. Cũng là một con người dị thường.

“Yếm không dải còn làm gì được nữa. Thôi, ta tặng ngươi”.

Y bất ngờ quá, đứng trân trối.

“Tiếc rằng ngươi không dũng mãnh anh hùng như Nguyễn Huệ; kỳ tài, nhẫn nhịn nuôi chí lớn đoạt lại thiên hạ như Nguyễn Ánh để ta chọn làm chồng. Ánh còn bôn tẩu nơi chân trời góc bể. Huệ đã lấy Ngọc Hân chị ta, lại chết sớm rồi. Thật hoài phí lắm thay”.

Công chúa than thở rồi vẫy đám cung nữ bước đi xuống thuyền. Bóng hồng xa mờ chập chờn ngụp lặn như con giao long quẫy sóng dưới hồ mà Sán vẫn đứng nghệt mặt nhìn mê mải. Tay nắm yếm, tay nắm dải chặt cứng…

***

Đèn lồng và nến sáng rực. Mặt nước sông Hương lung linh ánh trăng non lẫn ánh đèn. Ánh khoác trang phục màu vàng uy nghi, ngù vai, vương hiệu lóng lánh trên ngực áo. Bấy giờ, mỹ nhân mới nhận ra Nguyễn Vương, lòng đầy cả thẹn, e lệ và mừng vui. Thực ra, nàng nhận ra cái thân hình ngắn tũn kỳ dị và cái mặt bần thần của Trần Huy Sán trước, muốn hỏi thăm vài câu về Thăng Long mà chưa tiện.

Giọng vương giả, quyền uy, Ánh hỏi:

“Có phải nàng là công chúa Ngọc Bình – Con vua Lê Hiển Tông?”.

Khoan thai, ung dung tự tại, mỹ nhân đường hoàng thưa:

“Chính phải. Thần thiếp còn là Chính cung Hoàng hậu nhà Tây Sơn Cảnh Thịnh Hoàng đế Nguyễn Quang Toản. Thưa Nguyễn Vương!”.

Ánh cau mày, tức giận, quát to đến nỗi bao gươm đeo bên hông gõ xuống ghế rồng cạch cạch. Không gian tràn ngập mùi thuốc nổ, binh khí lạnh lẽo rợn đến ghê người:

“Tây Sơn chẳng qua là một lũ giặc cỏ, chẳng có tên nào là đế vương trong mắt ta. Ta không muốn nghe nàng nhắc đến tên Toản đớn hèn, bất tài”.

Mỹ nhân bỗng thở dài. Các huyệt, và những lỗ chân lông đóng chặt cứng. Mùi dị hương biến mất. Nỗi buồn tê tái lộ rõ vẻ thất vọng trên gương mặt quí phái:

“Thời nhỏ, thần thiếp nghe đồn chỉ có Nguyễn Vương mới sánh được bậc đại anh hùng trong thiên hạ Nguyễn Huệ. Thần thiếp đã lâu vốn lòng kính phục, yêu dấu. Té ra Nguyễn Phúc Ánh cũng hẹp hòi nhỏ nhen chưa bằng Quang Toản chồng ta vậy”.

Nói rồi Ngọc Bình lao đầu vào sập rồng tự sát. Ánh nhanh tay túm được vạt xiêm. Mỹ nhân mất thế, loạng choạng đổ nhào. Ánh đỡ được mỹ nhân, ôm choàng vào lòng. Thân thể Ngọc Bình mềm oặt trong tay Ánh. Lụa xiêm mềm mại mát rượi. Hơi thở mỹ nhân nóng hổi vấn vít mùi hương. Máu bốc hỏa lên đầu Ánh dịu hẳn. Tay phải Ánh vẫn nắm chặt mảnh xiêm y vừa bị xé toạc.

“Bờ cõi này là của ta cũng là của nàng. Sao nàng lại liều thân như thế. Nàng đã ở bên ta đâu mà biết được đâu là vương giả đâu là tiểu nhân, đâu là vàng đâu là thau?”.

Mỹ nhân vẫn nhắm hờ mắt, như chết lịm. Nỗi buồn lặng thầm hằn trên gương mặt khả ái làm vẻ đẹp của nàng càng thêm mặn mà. Lòng Nguyễn Vương quặn thắt, suýt nữa thì làm vỡ ngọc quý:

“Sao mỹ nhân nói rằng, mỹ nhân chờ đợi thời khắc gặp Ánh này đã lâu?”.

Ngọc Bình chợt nhớ ra điều gì đó. Nàng như từ xa xăm trở lại trần gian:

“Nguyễn Vương thừa biết thần thiếp chờ đợi điều gì rồi còn hỏi”.

Nói rồi, Ngọc Bình nép sát đầu vào ngực Ánh. Lòng dạ Ánh nôn nao, cồn cào như sóng biển Tây Nam. Bọn Lê Văn Duyệt, theo hầu lúc đó bối rối nửa muốn đi nửa ngồi lại. Trần Huy Sán rầu lòng quá, lại thêm chút bẽ bàng, thò tay lấy yếm thắm trong túi áo ra lúc nào chẳng biết. Mùi binh khí lạnh lẽo, thuốc súng khét lẹt nhạt dần, mùi dị hương thoảng đưa. Ánh chợt nhìn thấy Sán cứ bần thần mân mê yếm thắm. Ánh lộn tiết, cho rằng Sán chơi trò ma thuật phù thủy, bèn quát lính lôi ra chém. Y vươn cổ cò ra.

Ngọc Bình ngăn Ánh lại, kể vắn câu chuyện vòi rồng hút kho tiền ở kinh kỳ Thăng Long, rồi tâu:

“Thưa Nguyễn Vương! Thần thiếp cũng không ngờ Sán giữ cái yếm từ dạo ấy. Thần thiếp thật cảm động”.

Ánh bảo:

“Hóa ra, dị hương lãng đãng tỏa ra từ cái yếm thắm của nàng chứ không phải từ cơ thể thằng khốn này”.

Đoạn Ánh quay ra bảo Sán:

“Vậy là, ngươi sung sướng hạnh phúc trước cả ta rồi”.

Sán nhét cái yếm thắm vào túi rồi rũ tay áo, cung kính tâu:

“Dạo còn ở kinh kỳ Thăng Long, hai đấng kỳ tài mà công chúa khao khát được thành thân hoặc là Nguyễn Huệ hoặc Nguyễn Ánh, chứ không phải hạ thần”.

Bấy giờ Lê Văn Duyệt mới lên tiếng:

“Lúc nãy, Trần Huy Sán có ghé vào tai thần hỏi rằng: có thấy bóng con giao long cái đang lướt trên mặt sông không? Hạ thần nhìn chỉ thấy trăng, nước, khói sương và cái dáng Ngọc Bình rất mềm mại, co rút, uyển chuyển bước lên thuyền. Lòng hồ nghi vô cùng mà không dám nói. Vì mối an nguy cơ nghiệp, xin Chúa vương cẩn trọng.”

Trần Huy Sán đứng bên Duyệt, tâu:

“Hạ thần nghe đồn thổi từ thời còn ở kinh kỳ Thăng Long, công chúa Ngọc Bình thường ra sông Nhị Hà tắm và nô giỡn với con giao long đực. Chuyện thực hư thế nào, chỉ có thể hỏi nàng mới biết được”.

Ánh nghĩ, bọn hạ thần này quá lắm. Chúng đang dệt huyền thoại và ngăn cản bậc đế vương. Ánh đưa ánh mắt soi mói nhìn mỹ nhân tìm nỗi đồng cảm. Nàng cung kính:

“Quả thực. Hồi còn ở kinh kỳ, thần thiếp có trốn vua cha ra hồ Dâm Đàm tắm chứ không phải tắm sông. Thần thiếp có nô giỡn với bọn thủy tộc: cua cá, ba ba, thuồng luồng, chứ tịnh như không biết con giao long là gì”.

Duyệt đang định tâu thì Ánh phẩy tay, bảo:

“Thôi, các ngươi không nói nữa. Nàng là giao long càng quý, là thuồng luồng cũng chẳng sao. Đừng dèm pha ta nữa.”

Lê Văn Duyệt vẫn cố nài nỉ:

“Chúa thượng bình sinh khắp thiên hạ, binh đao nước lửa từng qua, lụa là châu báu, gái đẹp không thiếu. Hà cớ gì phải hạ mình trước con đàn bà vợ ngụy Quang Toản? Bọn thần lấy làm đau lòng và bẽ bàng lắm lắm”.

Ánh cười gằn, bảo:

“Bọn các ngươi không nghe câu thơ cổ: "Mỹ nhân tự cổ như danh tướng". Nàng còn hơn cả danh tướng. Ta được nàng như được nửa cuộc đời”.

Cả bọn thấy Ánh cười gằn lạnh như ánh chớp đường gươm thì không ai bảo ai, đều lui ra.

*

Đêm ấy, Ánh hạ lệnh neo thuyền rồng giữa sông Hương, bày trò hát múa. Nửa chừng cuộc vui, Ánh đã xao xuyến, thổn thức nhìn Ngọc Bình âu yếm lắm. Ánh cảm thấy có lỗi với nàng, than thở, ra chiều thương xót bọn cung nữ đã bị mình chém ngang cổ. Mỹ nhân nhìn Ánh, trìu mến cười hiền hậu, thưa:

“Ơn trời! Vương đã không phạt đầu đứa cung nữ nào của thiếp. Của đáng tội, chúng mất mái tóc dài cũng tiếc, nhưng được toàn thân. Chúa vương không thấy chúng đang xúm quanh thiếp đấy sao”.

Ánh kinh ngạc lắm, chẳng hiểu mình đã làm gì với đám cung nữ. Dọc đường cầm gươm lên Ngọc Trản Sơn cứ hư thực tựa hồ như trong mơ vậy. Nhìn đám cung nữ xinh đẹp của Ngọc Bình, tóc đứa nào cũng bị gươm phạt thả lòa xòe chấm vai, trông rất ngộ. Ánh cứ luôn miệng lẩm bẩm:

“Chả lẽ… chả lẽ… gươm của ta chưa vấy máu cung nữ”.

Ánh uống rượu đến tận khuya rồi vào khoang thuyền. Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng trên long sàng. Loáng một cái cắt nát xiêm y, lụa bay tung lên rồi rơi xuống tơi tả. Như bị bóc trần, Ngọc Bình khỏa thân hoàn toàn, mà mũi gươm không hề chạm đến da thịt ngọc ngà. Thuyền rồng lắc lư, dềnh lên dập xuống. Sông Hương nổi sóng. Tay chân Ngọc Bình quấn lấy người Ánh. Hình ảnh con giao long thoáng lướt qua đầu Ánh rồi biến mất. Ánh trôi vào mê mị. Tiếng rên rỉ trong niềm khoái lạc tột cùng của Ánh tựa hồ tiếng binh khí chạm vào nhau lan ra mặt sông làm váng đầu quan quân. Cá chép ở thượng nguồn xuôi về. Con đực bám đuôi con cái, quẫy ùm ũm giao phối không đợi mùa động dục. Cả khúc sông Hương nổi đầy màng nhầy trong suốt lấm tấm trứng cá, nồng nàn mùi đực cái. Từ lính, quan đến cung tần không ai ngủ nổi.

Lại có một người ngũ đoản, cổ dài, đầu to đứng còm cõi ở mũi thuyền. Một lúc sau, cũng không chịu được tiếng rên lạnh lẽo của Nguyễn Ánh, y rút gươm khỏa lia lịa xuống dòng sông. Cá chép động dục bị các đường gươm cắt đôi nổi trắng, máu loang đỏ bầm. Kỳ lạ thay, chỉ những con cá đực bị chết tức tưởi mà chẳng biết lý do gì.

Trên long sàng, Nguyễn Ánh cảm thấy dễ chịu, thỏa mãn và kinh ngạc phát hiện ra điều bí mật:

“Ta không thể tin được nàng vẫn còn trinh trắng”.

Hai mắt sáng rỡ, lấp lánh. Nụ cười tươi tắn đầy thõa mãn, Ngọc Bình úp mặt vào vồng ngực vâm váp của Ánh, thưa:

“Thần thiếp đội ơn nhuần mưa móc của người. Sáu năm thần thiếp làm vợ Quang Toản, chưa một ngày được làm đàn bà đúng nghĩa. Phải như vương năng lượng hoàng đế thừa thãi, tính dục đàn ông dồi dào. Thần thiếp lấy làm sung sướng mãn nguyện lắm”.

Ánh bảo:

“Ta thấy làm lạ. Hóa ra, ngụy Toản là thằng vua liệt dương! Thật phí đời mỹ nhân cành vàng lá ngọc”.

“Toản lấy thần thiếp chỉ để ngắm nhìn, để ngửi mùi hương. Thần thiếp như cây trầm hương bị phong bao trong lầu son. Không! Như cây khô héo trên cánh đồng mùa hạn”.

“Ta thương nàng giường chiếu với một thằng trẻ ranh èo uột, trí đoản. Hắn đâu xứng với nàng”.

Hai người lại chìm vào biển ái ân nóng bỏng. Đang lúc Ánh sướng quá tru lên như con ngựa hoang động đực, Ngọc Bình rợn người, sững lại. Hai chân dài khép chặt. Người lạnh giá như đồng. Ánh thấy lạ hỏi:

“Sao nàng rùng mình, co rút người thế?”.

“Bỗng dưng, thần thiếp ngửi thấy mùi máu tanh tưởi, mùi cháy khét của binh khí chạm nhau và mùi thuốc súng lẩn quất ở long sàng này”.

Ánh nghênh mũi hít ngửi.

“Làm gì có! Làm gì có!”.

“Xin vương cất kín thanh gươm đang treo lủng lẳng kia đi. Thần thiếp sợ hãi lắm”.

Nửa đêm về sáng, Ngọc Bình mệt quá, mềm oặt, nằm không động đậy, như con cá chuối chết ươn. Ánh nhìn thân thể ngọc ngà đang có chiều trắng bệch, xót xa, bảo:

“Có phải ta ham quá làm nàng đau và mệt mỏi?”.

“Không! Tự nhiên thần thiếp thấy mình trống rỗng. Lúc đầu ân ái đam mê cuồng nhiệt bao nhiêu thì sau đó lãnh cảm bấy nhiêu”.

Ánh thở dài. Lại nghĩ: Ngọc Bình nhìn long sàng, thuyền rồng mà nhớ nhung Quang Toản trong lúc ái ân. Đang khi tranh tối tranh sáng, Ánh kêu quân hầu mang võng tía lên sườn núi tìm cây giăng mắc. Ánh bế Ngọc Bình đi lên theo. Sương đêm lành lạnh bay mỏng nhẹ như màn buông. Gió sông vẫn thổi không dứt quằn quặn. Gai người.

Đại giám quân Lê Văn Duyệt thức khuya, mệt phờ phạc ra sức can ngăn:

“Chúa vương hãy giữ mình rồng. Trước đây bôn tẩu gặp đâu ngủ đấy, cùng đường chạy giặc cỏ thì không nói làm gì. Nay đã có kinh kỳ Phú Xuân vàng son lộng lẫy, chúa vương nên về long sàng mà ngủ. Sao người cứ phải vui thú dập dạ trên cỏ cây như lối bọn thợ sơn tràng hạ dân”.

Ánh đang ẵm mỹ nhân, tức giận quá một tay quắp nàng một tay chỉ vào mặt Duyệt:

“Sao đế vương khổ thế!? Ta muốn sống như một người dân bình thường không được ư? Chả lẽ cái việc ngủ với gái mà còn phải hoãn cơn động cỡn lại chờ về nơi lầu son gác tía? Ta là chúa vương tối cao, ta thích sang trọng sẽ được sang trọng, ta muốn dân dã, lấm láp là được lấm láp. Ta không bằng một thợ cày sao? Đêm nay ta muốn ngủ với nàng trên cỏ cây như một thảo dân vô học”.

Mắng xong, Ánh bế phắt mỹ nhân đi như chạy. Bọn Lê Văn Duyệt không dám kêu can nữa. Còn vài canh về sáng, Ánh ngả mỹ nhân ra võng. Mỹ nhân chân dài quắp chặt hông lưng Ánh như hai con trăn. Hai tay vít chặt lưng vai Ánh, mặc cho võng bùng nhùng, dập dềnh. Rồi võng lắc hơn bị bão gió. Lá xanh rụng tơi tả. Hai đầu dây võng thay nhau giật cục thân cây. Có lúc hai ngọn vít chụm vào nhau rồi bật trở ra. Chim chóc đang ngủ ban đêm bị đánh thức bay toán loạn. Voi, gấu, hổ, lợn lòi ở khu rừng bên cạnh vểnh tai nghe và nhăn mũi hít ngửi, động rồ chạy đi tìm đồng loại khác giống. Cả một vùng non ngàn rộn rã bước chân thú và tiếng kêu van vỉ gọi bạn tình, ầm ĩ như động rừng…

Sáng ra, Ánh thức dậy, ngái ngủ và mệt bã. Các khớp xương lục cục, mỏi rã rời. Ngọc Bình nhợt nhạt, mất hồn, thất sắc. Dị hương không còn, chỉ có mùi cỏ cây ải mục ngai ngái xông lên. Ánh ngạc nhiên thấy dây võng đứt mà vẫn đưa chao trên mặt đất. Té ra, nối hai đầu võng với thân cây là hai con trăn. Trăn đực, trăn cái đều ngóc đầu nhìn Ánh thân thiện, hiền từ và nhẩn nha vặn mình đưa võng nhè nhẹ. Ngọc Bình quặt hai chân hai tay về phía sau ôm quấn lấy võng. Đùi, bụng, ngực ưỡn lên. Ánh phát kinh nghĩ đến chuyện ma quỷ. Trong lòng đầy hồ nghi mình vừa ngủ với giao long cái. Ánh lại chạm chạm tay vào đùi mỹ nhân xem thực hư. Hai đùi nàng trắng lốp, ướt rượt sương đêm, lạnh giá và trơn nhẫy như da con thuồng luồng. Đến đỉnh điểm hồ nghi, hoảng sợ, Ánh liền nhảy xuống đất, tháo thân lên thuyền giục quan quân giong buồm về Phú Xuân.

***

Trơ trọi một mình nằm trên long sàng. Ánh kinh hoàng ngỡ mình vừa trải qua cơn mê, bèn gọi Lê Văn Duyệt lại hỏi. Duyệt xác nhận câu chuyện ma quỷ ấy là có thật và khuyên Nguyễn Vương hãy vì đại sự quốc gia mà quên nàng Ngọc Bình. Ánh cũng thấy chút bẽ bàng của bậc quân vương, gật đầu chấp thuận.

Nguyễn Văn Thành chuẩn bị chiến thuyền, binh bộ trong cả tuần trăng cho cuộc tiến quân ra Bắc thì cũng ngần ấy ngày Ánh sống trong ủ ê, héo rũ. Có hôm bỏ bữa quên ăn. Người gầy đi mấy phần. Ánh không thể quên được nàng Ngọc Bình. Lúc nào cũng cảm thấy mùi hương lạ thoang thoảng xa gần. Không chịu nổi nỗi nhớ dày vò, Ánh lại kêu quân lính giong thuyền ngược sông Hương. Ánh leo lên Ngọc Trản Sơn. Núi vắng teo. Điện thờ thánh mẫu Thiên Yana quạnh hiu, không hương khói. Ánh nhìn quanh chỉ thấy những lọn tóc đen dài như con rồng quấn trên cành cây. Ánh cảm thấy cô độc, trống rỗng vô cùng.

Về Phú Xuân, Ánh ốm liệt giường. Lúc nào cũng chìm trong mộng mị ân ái với nàng Ngọc Bình ở Ngọc Trản Sơn. Ánh ân hận, cứ nghĩ mình bỏ rơi nàng lại Ngọc Trản Sơn. Ngày phát lệnh tiến quân ra Bắc đến gần mà bệnh tình của Ánh không nguôi. Việc đại sự quốc gia có nguy cơ hỏng. Bọn Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành biết minh chủ ốm tương tư liền kêu nhau phủ phục tận long sàng thưa:

“Ngụy Toản vẫn còn. Giang sơn chưa về một mối. Chúa vương suốt ngày thương nhớ một con đàn bà đến ốm o, mòn mỏi thì thần dân biết trông cậy vào ai?”.

Ánh bảo:

“Người xưa nói: Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”.

Lê Văn Duyệt lại phủ phục:

“Thưa chúa vương! Công chúa Ngọc Bình xinh đẹp sắc nước hương trời thật, nhưng lại là hoàng hậu nhà Tây Sơn, vợ kẻ thù hận”.

Ánh cả giận, mắng:

“Ta đoạt lại thiên hạ từ giặc cỏ Tây Sơn, thì cành cây ngọn cỏ cũng thuộc về ta, huống chi là vợ Quang Toản. Vả lại, các ngươi là anh hùng thời loạn chỉ biết hùng hục đánh nhau chém giết, có biết yêu thương bao giờ mà hiểu được lòng ta. Các ngươi là hạng đàn ông võ biền chỉ nghĩ đến chuyện đực cái trần tục, đâu có biết cái thứ mùi hương kỳ lạ thanh tao tỏa ra từ ngọc thể của nàng”.

Nguyễn Văn Thành thì đỏ mặt. Đại giám quân Lê Văn Duyệt vốn là kẻ ái nam ái nữ ngượng ngùng, bẽ bàng quá. Hai đại thần không thể ngấm ngầm giấu mỹ nhân Ngọc Bình mãi, đành phải đưa nàng lại bên Ánh. Ánh cả mừng. Bao nhiêu bệnh tật trong mình bay biến hết. Ánh bảo:

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Tội các ngươi đáng chém. Ta được nàng là được thêm một “danh tướng”. Ta không muốn được danh tướng mới thì mất danh tướng cũ. Thôi, ta tha”.

Lưỡng lự một lát rồi Ánh túm ngực áo gầm lên:

“Sao các ngươi không hiểu lòng ta nhỉ?”

Bọn Thành, Duyệt ngơ ngác và bất lực, lui ra.

Suốt mấy tuần sau đó. Tiếng cười như binh khí chạm vào nhau đêm nào cũng văng vẳng trong không trung. Đất trời Phú Xuân sáng láng, tưng bừng. Cứ y như mùa xuân về sớm. Cây cối, cầm thú rạo rực mùa động tình.

*

Nhiều năm trôi qua.

Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Gia Long, lập Ngọc Bình làm Đức phi tam cung và yêu chiều vô cùng. Ánh sai làm bồn tắm bằng đá quý ngọc bích, thả những cánh hoa lan trắng cho đức phi tắm. Lại sai người lên tận rừng rú miền tây Quảng Nam tìm trầm hương về đặt trong cung của nàng.

Nhưng, thật trớ trêu, Ánh càng yêu quý đức phi Ngọc Bình bao nhiêu thì nàng lại càng thờ ơ, lạnh lùng bấy nhiêu. Ánh không hiểu nổi, trong lòng ủ dột vô cùng.

Bỗng dưng, Ánh nhớ đến chuyện xưa từ biệt nàng Tống Thị Lan với thoi vàng chặt đôi. Dạo ấy là mùa thu năm Quý Mão, Ánh bị quân Tây Sơn đuổi chạy dài. Đường cùng phải phiêu dạt ra Phú Quốc, đói khát hiểm nguy, tuyệt vọng tưởng tận số. Trước lúc sang Xiêm La, Ánh lấy thoi vàng ra chặt vát làm đôi, đưa cho Nguyên phi một nửa, rồi bảo:

“Nay ta phải đi Xiêm. Nàng ở lại cung phụng quốc mẫu. Ta bôn tẩu nơi chân trời góc bể chẳng biết ngày nào gặp lại. Đành lấy vàng này làm tin vậy”.

Nguyên phi phục xuống khóc dòng, vâng lời. Bao nhiêu năm nàng tần tảo hầu hạ mẹ chồng và thân hành may dệt trang phục giúp việc quân. Sau này, Ánh thu lại bờ cõi, có sum họp với đức nguyên phi nhưng dần phai nhạt, thưa vào ra cung nàng.

Bấy giờ, đang ủ ê với nàng Ngọc Bình, Ánh nghĩ: Mình lạt lẽo với Đức nguyên phi quá. Gắn bó với nhau lúc khốn cùng thì chẳng có mỹ nhân nào bằng nàng. Ánh bèn bảo thái giám đưa đến cung Nguyên phi.

“Nàng còn cầm giữ nửa thoi vàng xưa không?”.

Nguyên phi cung kính dâng:

“Thần thiếp dù nhịn đói, mặc rách, chứ quyết không bội tín”.

Ánh cầm nửa thoi vàng bị nhát kiếm chặt vát ngày xưa, cảm động lắm:

“Nàng còn giữ được vàng xưa là do ân trời đất giúp lúc khó khăn hoạn nạn. Ta không thể quên lãng. Phải để dành vàng này cho con cháu mai sau biết những ngày khốn khó đoạt lại vương tộc của ta và nàng”.

Nói dứt lời, Ánh lấy nửa thoi vàng mình đang giữ, ráp với nửa thoi vàng của Nguyên phi thì vừa chằn chặn. Rồi giao hết cho nàng cất giữ.

Đêm ấy, Ánh ở lại cung Nguyên phi. Cảm giác ái ân vội vàng, thấp thỏm lúc chạy nạn quân Tây Sơn đuổi lại ùa về. Ánh quên hẳn mình đang ở giữa kinh thành Phú Xuân lộng lẫy vàng son.

***

Sau này, Trần Huy Sán vẫn thói bất đắc chí với đời. Y không còn được Nguyễn Ánh tin dùng như trước nữa. Y có viết một chương trong Phú xuân thực lục (tác phẩm này về sau lẫn khuất bởi cất giấu trong dân quê xóm mạc) trích đoạn rằng:

Thật là trớ trêu ở đời! Nguyễn Huệ Quang Trung chồng Ngọc Hân công chúa; Nguyễn Phúc Ánh Gia Long lại là chồng công chúa Ngọc Bình; hai kẻ cừu địch không đội trời chung bỗng dưng lại trở thành anh em “cột chèo”. Ta đồ rằng: Gia Long lấy Ngọc Bình chẳng phải là yêu chiều cành vàng lá ngọc mà là núp dưới chiêu bài tâm lý chiến bẩn thỉu để đoạt lại đến tận cùng nhà Tây Sơn, kể cả cái dị thường hư ảo. Ánh làm chính trị thâm độc, nghiệt ngã và khôn ngoan hơn Nguyễn Huệ…

Một đoạn khác viết:

Những năm cuối đời, Ngọc Bình sống trong cô đơn và thất vọng. Mỗi lần ở bên Ánh, nàng không chịu đựng được mùi binh khí lạnh lẽo va chạm vào nhau. Ta đồ rằng: 25 năm bôn tẩu, ý chí phục tộc ngút trời cao, Ánh đã bước qua bao nhiêu xác người, xác ngựa; đi qua bao nhiêu mộc, khiên, câu liêm, giáo, mác, gươm, kiếm… nhuốm máu. Mùi tanh của máu người, mùi khét lẹt của binh khí va chạm tụ lại thành mùi chết chóc ngấm vào da thịt Ánh. Vì vậy cứ mỗi lần ân ái xong là dị hương bị hút kiệt. Không! Mùi máu tanh tưởi và mùi khét binh khí đã lấn át trùm lấp, bịt chặt các lỗ huyệt, lỗ chân lông, không cho dị hương của nàng tỏa ra.

Người xưa nói: “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Ta đồ rằng: Tỉ dụ Ngọc Hân không làm mai để công chúa Ngọc Bình lấy Quang Toản và Nguyễn Huệ Quang Trung có sống lại cưới Ngọc Bình công chúa thì khát vọng của nàng cũng chìm trong bi kịch tuyệt vọng y như đoạn đời nàng sống với Nguyễn Ánh Gia Long. Chứ không được hạnh phúc dù ngắn ngủi như chị nàng.

Nghe đồn Đức tam phi đọc được đoạn này thì gật đầu. Nước mắt chảy lã chã hai dòng đỏ như máu.

Một đoạn khác Sán viết:

“Ánh là Tà hương, là âm u, lạnh lẽo, thiên về sức mạnh độc đoán. Ngọc Bình là Dị hương, là mùi thơm vừa trần tục vừa thanh tao, dịu dàng mà quý phái, cuồng dại mà thanh bình…chỉ hợp với Sán này”.

Có kẻ bên cung Nguyên phi Tống Thị Lan ghen ghét Sán, trộm được Phú Xuân thực lục bèn dâng lên Nguyễn Ánh Gia Long. Ánh nghĩ: Té ra dị hương chưa bao giờ thuộc về mình mà lại thuộc về Sán. Có lẽ cái yếm thắm như một trò ma thuật. Y lại còn dám rủa ta là tà hương.

Ánh cho gọi Sán đến, mắng:

“Rút cuộc, ngươi cũng là loại phù thủy phán nhăng cuội. Bịa cả huyền thoại nàng là con giao long.”.

Sán bảo:

“Hạ thần chưa một lần xảo trá, luôn nghĩ và nói đúng sự thật”.

Ánh rút gươm khều lấy cái yếm thắm trong túi Sán, rồi mắng tiếp:

“Không những ngươi ám ta mà còn giở trò ma thuật để hút hồn đàn bà con gái đẹp”.

Sán im lặng trơ lì như đá.

“Lại còn cao ngạo nữa. Coi trời bằng vung. Tội ngươi thực đáng chém đầu”.

Sán vươn cổ cò ra như thách thức.

Một chớp sáng ngoằng như sét đánh giữa trời quang mây tạnh. Lần này, Ánh chém thật. Cái “chõ xôi” lăn lông lốc, rồi dừng lại, mắt Sán hấp háy, miệng nhếch mép cười cợt. Bỗng dưng, mùi dị hương ở đâu đó dào dạt xông lên, rồi mất hẳn. Về sau, có kẻ phán bừa rằng: dị hương ở yếm thắm đã tẩm hết vào người Sán. Khoảnh khắc đầu lìa khỏi cổ, chút dị hương còm ấy rút ra kết vón lại theo hồn vía Sán thăng thiên.

***

Đêm ấy, lòng dạ Nguyễn Ánh bồn chồn không yên.

Lúc mơ lúc tỉnh, Ánh thấy mình nghẹt thở. Cựa quậy không nổi bị đè chặt cứng. Ánh cố mở mắt, vùng vẫy ngồi dậy và chợt thấy một đống xương người trắng rợn đang chất ngất lên thân thể mình. Các đốt sống thì vãi lên bụng Ánh, xương lạnh ngắt như đồng. Lại thấy xương xẩu rời từng đốt ngón mà vẫn hình bàn tay đang bóp cặt hạ bộ. Cái đầu lâu thì úp vào mặt Ánh; lỗ mồm, lỗ mũi và hai lỗ mắt sâu hoắm, tối om. Xương cẳng chân dài chẹn ngang cổ họng Ánh tức thở. Mùi máu tươi tanh tưởi, lợm miệng muốn nôn ọe. Lạ kỳ! Nằm trong giữa đống xương mà Ánh lại nhìn thấy bên ngoài sương trắng bay lập lờ. Nhìn rõ cả gò xương trắng chất lên mình lúc ẩn lúc hiện. Mênh mông cảnh tiêu điều. Hoang lạnh. Hiu hắt. Quạ đen ở đâu đó bay về chi chít nhiều vô kể trên bầu trời đáp xuống như ném đạn đá. Những hình ảnh kinh dị đứt đoạn, nhảy cóc đến cảnh cái yếm thắm đỏ rực bay liệng chập chờn trên đống xương, chẳng hiểu là điềm lành hay dữ. Rồi lại đàn quạ kêu quà… quà và cãi nhau inh ỏi. Hai chân con quạ đen nào cũng quắp một gióng xương, hoặc cục xương thi nhau thả xuống. Đống xương đang đè lên Ánh cứ to dần, chất cao dần thành… núi xương trắng. Ánh khiếp đảm, gào lên những âm thành không rõ lời. Bỗng giật mình, tỉnh dậy hóa ra là giấc mơ. Mồ hôi mồ kê ướt đẫm áo hoàng bào. Mùi âm khí lạnh lẽo bay ngùn ngụt trong cung.

Trăng hạ tuần đã gác mái điện Cần Chánh, Ánh vẫn bủn rủn sợ. Ánh kêu thái giám đưa mình ra khỏi sập rồng ra bên ngoài.

Ánh đi như mộng du, đến cung Đức tam phi Ngọc Bình, mới thật sự tỉnh táo.

Ngọc Bình đang tắm trong đêm khuya khoắt. Nàng ngập mình trong bồn tắm xanh màu ngọc bích ngập nước thả đầy cánh hoa lan bé mỏng manh trắng muốt. Dị hương lãng đãng xa gần, quyến rũ vô cùng. Lòng Ánh nôn nao, không chịu nổi mùi gợi dục, cuống cuồng cởi quần áo. Ánh hấp tấp y như chàng trai mười sáu tuổi lần đầu nhìn thấy thân thể người đẹp trắng nuột nà, nhào vào bồn tắm, làm nước tràn ra quá nửa. Nguyễn Ánh và mỹ nhân quấn lấy nhau như đôi thanh long giao phối đêm mưa bão. Từng chập từng chập nước sóng sánh tràn ra ngoài. Chỉ một lúc dập dềnh, nước dạt ra ngoài bồn tắm gần hết. Bao nhiêu cánh lan trắng nát bấy dính vào bồn tắm, nổi nênh mặt nước thơm rập rờn bên da thịt mỹ nhân.

“Thưa Chúa thượng! Người cầm cái chi trong tay, cứ chạm vào da thịt thần thiếp nóng hổi?”.

Ánh đang ôm cổ mỹ nhân, vội bỏ tay ra, quơ quơ trước mặt nàng cái vật màu đỏ sũng nước lập lòe như đốm lửa.

“Cái yếm thắm của nàng. Ta chém đứt cổ cò thằng gàn rỡ ấy rồi”.

Trần Huy Sán đã chết!? Đức phi Ngọc Bình cảm thấy như tắc thở bởi mùi máu tanh tưởi và khét lạnh rợn ngợp của binh khí chạm vào nhau. Nàng rùng mình. Gân cơ co rút lại. Người thẳng đơ, cứng ngắc. Rồi thân thể ngọc ngà từ từ lạnh ngắt. Mỹ nhân đột tử ngay dưới bụng Nguyễn Ánh.

Lúc bọn thái giám vào, thấy Nguyễn Ánh đã khoác hờ tấm hoàng bào, ngồi bệt xuống sàn, thả một tay vào bồn tắm, nắm chặt cái yếm thắm đặt trên ngực Đức phi. Lưng Ánh còng xuống còm cõi như già thêm chục tuổi. Mặt ngơ ngác như người mất hồn vía. Hai mắt Đức phi tam cung nhắm hờ như ngủ. Tóc mây xõa lập lờ trong nước. Hai đùi dài khép sát. Thân thể đã mềm mại và trắng hồng trở lại. Thần sắc đã hồi. Những cánh lan mỏng manh tội nghiệp đã bị đè ép, chà đi xát lại nát bấy vương trên thân thể ngọc ngà của nàng.

Văng vẳng đâu đó như có câu ca vọng vào tam cung:

“Gái đâu có gái lạ lạ lùng

Con vua lại lấy hai chồng làm vua”.

Bỗng dưng, một trận gió lớn từ phía sông Hương thốc thác thổi đến. Gió bò trên mái ngói điện Cần Chánh, và theo dọc vòm cung tam phi. Gió lay cuốn trướng rủ, màn che phần phật. Nguyễn Ánh chợt tỉnh nhìn ra ngoài, trời đang rạng. Bàn tay Ánh lỏng dần. Cái yếm thắm vụt khỏi tay Ánh chấp chới lượn đi lượn lại rồi thăng thiên.

Ban mai, cả kinh thành bàng hoàng sửng sốt. Một đám mây trắng kỳ dị hình con giao long khổng lồ mặc cái yếm đỏ như lửa lập lòe trên bầu trời Phú Xuân.

ĐÊM MÙA HẠ TUYẾT RƠI

Tôi thường có thói quen mua sách cũ.

Sách cũ ở quầy có người mua và có cả người bán. Mua cân thì bán cân, bán quyển thì mua quyển. Ố vàng. Mối xông. Mọt đục. Giấy xấu in lem nhem từ thời bao cấp. Đứt chỉ, bong gáy. Trang nọ tuột khỏi trang kia như sồi ruột vãi gan… Sách mới đóng xén ra khỏi nhà in vừa cấp phát cho cơ quan chưa kịp đọc cho đến quyển bìa cứng, giấy mỏng dai láng bóng mới nguyên tặng nhau được vài tuần cũng góp mặt ở đây và lập tức biến thành sách cũ.

Tôi từng bắt gặp tiểu thuyết của nhà văn A, trường ca của nhà thơ H, tập truyện ngắn của nhà văn N, tập khảo luận văn chương của nhà phê bình Y,… lăn lóc, rập rạ trên vỉa hè. Chúng lẫn lộn với sách cũ quyển còn màu hồ, quyển mất bìa thiếu trang, rây mực lem nhem, như: Kỹ thuật nuôi lợn nái, Chữa bệnh đường tiết niệu, Tuổi dậy thì cần biết, Sinh con trai gái theo ý muốn, Điều trị ghẻ hắc lào,… Đương nhiên, các tuyệt phẩm văn chương kia đều có kèm theo là lời đề tặng nắn nót và chữ ký như rồng bay phượng múa của các tác giả lừng danh. “Yêu quý tặng Z đứa con tinh thần của mình để nhớ những ngày ở chiến trường”. Hoặc: “Kính tặng nhà văn T với lòng biết ơn vô bờ người thầy văn chương”. Hay: “Yêu thương tặng em N.N để nhớ mãi ngày bên nhau”…

Tất cả sách, tất cả lời kính trọng, thương yêu,… đều ra vỉa hè, đều thành sách cũ. Sách cũ - kho tàng tri thức, tâm hồn, nhân văn quý báu bị người đời hắt hủi, thờ ơ, ghẻ lạnh,… đang bị bán bằng cân.

Cuộc đời này rất lạ, rất trớ trêu, “cũ người mới ta” miết hóa ra chuyện thường nhật. Có thứ thiên hạ dửng dưng vứt ra đường thì mình lại quý giá chằm bặp y như báu vật của đời, trân trọng bỏ tiền mua và rước về nhà.

Tôi biết nàng qua sách báo. Nàng là một nhà văn trẻ đang lên. Trước lúc gặp tôi, nàng đã trải qua vài chục cuộc tình. Cuộc chóng vánh. Cuộc dài lâu. Cuộc na ná tình yêu, tình yêu thành tình dục. Cuộc đích thực, tình dục thành tình yêu. Tôi là đạo diễn điện ảnh cực kỳ đam mê sách. Nàng hỏi tôi bên sạp sách báo cũ: “Nếu bây giờ buộc phải đánh đổi, anh chọn em hay là sách?”. Tôi bảo: “Em là người viết văn. Sách là em, em cũng là sách”. Nàng bảo: “Anh khôn thật!”. Tôi bảo: “Không đúng à? Sách mà tặng sai chỗ thì cũng giống như tình yêu trao nhầm người”. Nàng trầm tư oán trách: “Có phải vì vậy mà anh chưa làm bộ phim nào tặng em? Em là người khó hiểu và chẳng đáng tin phải không?”.

Tôi lặng im. Quả thật, nàng vẫn là thế giới vợi vời, lạ xa. Tôi hiểu những quyển sách cũ của tôi hơn là hiểu biết nàng.

*

Tôi đưa nàng lên sân thượng building 170 tầng bên sông Hồng gió lộng.

Đêm tuyết rơi. Mùa hạ, ở Hà Nội lại có tuyết rơi? Thật kỳ lạ! Tất cả các bàn đều trống trơn khách. Sinh tố, nước cam nguyên chất lưng cốc, đều bỏ dở chưa uống hết và vô tình hứng các cánh tuyết rơi. Thậm chí vài phin café còn đang tí tách từng nhỏ giọt nâu sẫm. Tám giờ tối mà vắng tanh. Cứ như thiên hạ biết tôi và nàng lên đây đùa giỡn với tuyết rơi và những chòm sao nên lặng lẽ rút đi trước.

Tôi mặc cái áo thổ dân da đỏ miền Tây hoang dã nước Mỹ có in hình con dao quăng ở lưng, nàng tặng từ hôm về nước. Khi ấy, nàng bảo: “Nước Việt Nam chỉ duy nhất cái áo này và chỉ anh mặc mới xứng”. Nàng vận đầm dài màu đỏ điểm những giọt nắng tròn trắng, tay để trần nuột nà. Mềm mại các ngón búp măng móng hồng đan vào ngón tay tôi cứng cáp, quằn quại vân hoa như những đường kỉ hà. Mây bay. Gió thổi. Và ánh điện màu mờ ảo. Trên đầu, lung linh những vì tinh tú diễm lệ tựa hồ vô vàn hạt châu sa. Bầu trời biến thành giàn nho mênh mang rợn ngợp. Mỗi quả nho xanh tím hồng là một vì tinh tú. Mỗi chùm nho tím là một chòm sao sa. Đây chùm sao Bạch Dương. Kia chòm sao Hổ Cáp. Và kia nữa chòm sao Cự Giải, Thiên Bình,…

Gió thổi mạnh dán vải vào đường cong, gò cao tươi mởn. Gió tốc tác lật váy dài. Gió đùa giỡn, quấn quýt. Gió mơn man gò ngực trần, vai trần ngọc ngà chưa bao giờ lẫn vào bóng đêm của nàng. Gió thông thốc thổi gợi tình. Những cánh hoa tuyết rơi xiên xiên. Nàng nép vào ngực tôi. Tôi vòng tay cuồn cuộn cơ bắp ôm khít eo nàng mềm mại và mát rượi.

Một tâm hồn bé tí, rách nát chẳng làm nên tình yêu lớn mênh mông hoàn hảo. Đôi môi gợi cảm của tâm hồn lớn không chỉ nhuốm màu bản năng tình dục mà chứa đựng cả tình yêu.

Sau này tôi mới nhớ thư nàng viết:

Những gì anh có là những gì mà em đang tìm kiếm. Và trong tình yêu này, mọi thứ đúng như em đã hình dung về một tình yêu đích thực, thậm chí vượt quá cả những gì em hình dung.

Nàng bảo: Buổi tối hôm nay rất kỳ lạ, em có cảm giác êm đềm hơn, dịu ngọt hơn, điên cuồng hơn, và yêu anh nhiều hơn nữa. Thật đấy.

Nàng bảo: Hãy cho em ở bên cạnh anh lúc vui cũng như lúc buồn.

Chúng tôi hôn nhau bao nhiêu lần, bao nhiêu lâu? Chịu, không nhớ! Chỉ biết, khi tôi bất chợt rời khỏi cảm giác mơ hồ quyến rũ thì trời đã vào khuya. Hoa tuyết rơi đậu trắng đầu tóc, vai áo tôi và nàng. Thời gian trôi nhanh khủng khiếp. Bên nàng lúc nào tôi cũng thấy ngắn ngủi và thiếu thì giờ. Hai mắt lim dim, khép hờ, nàng như nũng nịu làm duyên. Tôi bảo:

“Em nè. Em nhìn sao trời nè. Thích không?”.

Hai môi nàng ướt hồng vẫn đợi một nụ hôn. Nàng không chờ nghe câu hỏi đó. Ôi trời thật đáng yêu.

“Em…”. Tôi lay vai nàng. Tôi kéo nàng về thực tại. Tôi giúp nàng thoát khỏi bến mê. “Em nhìn kìa. Những vì tinh tú tuyệt vời không?”.

Mắt nàng vẫn lim dim. Hơi thở khẽ đều đều trong đêm. Bầu trời không còn cao vời vợi mà sà thấp xuống như giàn nho. Chỉ cần hơi kiễng chân là với được các vì tinh tú lung linh sáng.

“Anh sẽ hái sao trời cho em”.

“…”

“Em chọn chùm sao nào?”.

“…”

“Cự Giải? Bạch Dương?”.

“…”

“Hay Thiên Bình trong đêm tuyết rơi này, hả em?”.

“Mùa hạ có tuyết rơi hả anh?”. Nàng mơ màng. “Em… em lại muốn đi thuyền đêm trên vịnh Bái Tử Long cơ…”.

Giọng nàng thì thầm, đắm say. Tôi thầm mỉm cười sung sướng.

“Là anh hỏi: Em muốn hái vì sao nào?”.

“Không!... Em muốn nhìn sao sa xuống biển Bái Tử Long”. Nàng vẫn nhắm nghiền mắt, thì thầm giọng chỉ đủ xao xuyến. “Anh nè! Anh còn nhớ…”.

“Nhớ?”

“Đêm ấy… cái đêm chúng mình trên thuyền thúng câu cá mực trôi lênh đênh giữa vô vàn vì sao rắc xuống biển mặn…”.

Biển nào? Tôi bắt đầu nghi ngờ.

“Cái đêm chúng mình tắm trăng vàng ngời ngợi…”.

Ôi trời! Tôi có đang mơ hay không đây? Không hề có một đêm cùng nàng như thế.

Nàng vẫn cứ gục đầu vào ngực cổ tôi thì thầm kể. Trước mắt tôi là màn hình tua lại những hình ảnh lộng lẫy: Trăng biển. Sao băng. Gió mặn mòi. Con thuyền thúng câu mực. Tôi và nàng ôm nhau. Cặp vú căng mẩy nóng hổi xốn xang vầng ngực trần vâm váp của tôi. Trăng bạc tưới trên da thịt chúng tôi. Trần tục giữa biển khơi. Những vết răng rớm máu trên ngực nàng. Nàng rất hạnh phúc. Nàng bảo tôi là hiệp sỹ trên thảo nguyên…

Hỡi trời cao đất giầy! Tôi thực sự hoang mang. Mắt nổ hoa cà hoa cải. Tôi không hề có một đêm như thế. Và hiệp sỹ? Hiệp sỹ trên thảo nguyên là cái thằng mả mẹ nào? Tôi muốn cầm kiếm ra đấu trường cùng hắn. Tôi muốn quát vào tai nàng với biên độ 5000 đề xi ben cho nàng rách toác màng nhĩ. Tôi muốn ôm nàng từ sân thượng tòa nhà cao 170 tầng nhảy xuống đất. Xuống đất, váy nàng sẽ tốc lên. Hai chân dài dạng ra thẳng thớm, đẹp như chân người mẫu. Không! Chân nàng ngắn tũn khuỳnh ra hình chữ bát. Cái xi líp màu đỏ lộ rõ. Cặp đùi phơi trần. Vai ngực hở tận chân vú. Nàng sẽ hóa đá và biến thành tượng đài, tượng đài của lòng phản trắc…

Có rất nhiều người, hầu hết là đàn ông đến tượng đài tưởng niệm. Họ xót xa cái đẹp bị đày ải phơi nắng mưa và bụi bặm hơn là lòng thương cảm. Họ kính cẩn đặt bộ đồ underwear đỏ thay vì mang hương trầm hoặc hoa tươi. Tượng đá nàng vẫn trơ trơ vô cảm, mặc gió mưa, rêu mốc và mặt trăng, mặt trời lướt qua mỗi ngày. Tôi hình dung ra, mỗi buổi sớm mai, mấy chị nạ dòng lao công ở công viên lại nhặt nhạnh thu gom đồ lót chất đầy thùng mấy xe chở rác. Chẳng biết họ chở những đồ lót nhức mắt, loằng ngoằng ấy đi đâu. Còn tôi, tôi tách khỏi dòng người đông như kiến cỏ mệt mỏi trôi mải miết trên đường phố. Tôi lặng lẽ đứng bên nàng. Trầm tư. Nghĩ ngợi. Dứt khoát sẽ làm một phim về sự bạc tình,… Tượng đá rùng mình, đổ mồ hôi. Hai mắt đẫm lệ. Chẳng biết tượng đá ứa nước mắt, hay là sương đêm?...

Sau này tôi mới nhớ thư nàng viết:

Em càng hiểu rằng định mệnh đã mang anh đến cho em thì định mệnh cũng sẽ làm điều ngược lại nếu em không biết giữ gìn nó.

Nàng bảo: Em thực sự cần có anh. Không ai yêu em như cách mà anh yêu em cả.

Nàng bảo: Em yêu anh, với một tình yêu an lành, thanh thản, da diết và sự đam mê điên cuồng. Bên anh, em luôn cảm thấy yên bình. Anh không hiểu được đâu, cái cảm giác yên bình là sự em chưa bao giờ có được.

Mãi mãi ở bên anh.

Còn nghi ngờ gì nữa tình yêu của nàng!

Vậy mà, mặt nàng đang xịu xuống, nặng trịch. Mắt nàng long lanh nước.

Chuyện gì đã xảy ra trong buổi tối đẹp trời đầy trăng sao và tuyết rơi này? Tôi hoang mang:

“Anh xin em! Anh đã làm gì nên tội?”.

“Anh vừa kể, anh ôm em nhảy xuống đất và em biến thành tượng đá. Còn anh thì vẫn sống... Cái giọng anh rất nghiệt, chì chiết và độc…”.

“Ơ… Anh đã lảm nhảm chuyện gì nhỉ? Hay là mơ?!”.

“Anh tỉnh hơn sáo. Anh đã xúc phạm em khủng khiếp…”.

Mặt tôi nghệt ra, chắc chắn là như vậy. Không thể là mơ màng. Bởi tôi bẹo vào hông mình vẫn thấy đau. Tôi vẫn cảm nhận được dưới kia là sông Hồng quặn mình chảy xa xá, thở than. Trên kia bầu trời vẫn chi chít hằng hà sao lấp lánh, tôi chưa kịp hái tặng nàng. Và… không hề có tuyết rơi. Thế này thì chết tôi rồi! Tôi đã xúc phạm nàng? Tôi đã…

Nhưng, nàng cũng làm tôi tổn thương, tan nát cõi lòng. Tôi mơ tuyết rơi thì nàng mơ khỏa thân cùng thằng cha trời đánh nào đó ở vịnh Bái Tử Long. Nàng đã trao và dâng hiến. Cái thằng cha giấu mặt ấy có xứng với chân giá trị và tình yêu của nàng không?

“Em yêu, thế còn câu chuyện dưới thuyền thúng, em đã lấy ánh trăng làm áo quần?”.

“Chẳng có câu chuyện nào cả. Đó là kịch bản hư cấu và anh là đạo diễn tồi, anh tưởng tượng ra tuyết rơi. Vậy mà anh định ném em xuống đất, còn rủa em thành tượng đá…”.

“Còn em thì lẩm bẩm tên thằng cha căng chú kiết nào đó trong cơn mê. Mỗi lần gọi tên hắn là một nhát dao chọc ngực anh”.

“Lại có cả chuyện ấy nữa?” Nàng ngạc nhiên, ngước mắt nhìn tôi, nghi ngờ. “Thật không?”.

“Ừ. Rất thật. Anh không nói điêu”.

“Chả lẽ… Chả lẽ…”.

Nàng ngồi phịch xuống xích đu. Hai dây xích rung lên bần bật. Gió trời lại tốc tác lật váy lộ hai đùi non. Nàng nghệt mặt ra, như người có lỗi bị bắt quả tang.

*

Buổi tối hái sao trời bỏ dở dang. Tôi dìu nàng rời sân thượng tòa nhà cao hơn nửa cây số vào thang máy. Chúng tôi vẫn không thể xa nhau, tiếp tục hôn bẩy lần thì thang máy dừng lại ở tầng thứ 100.

Sau này tôi mới nhớ thư nàng viết:

Hay anh tự bỏ em đi cũng được. Em chưa bị ai bỏ rơi bao giờ và vẫn nói rằng, là con người thì nên trải qua mọi cảm giác. Thực sự em sợ, ám ảnh cảm giác bị người khác bỏ rơi, nhưng lại sẵn có tố chất hiếu kỳ muốn thử xem cảm giác đó như thế nào. Nếu định mệnh bắt em trải qua cảm giác ấy một lần thì em muốn anh là người duy nhất làm điều đó.

Nàng bảo: Em yêu anh ở sự tế nhị ấy. Ít người được tế nhị như anh.

Yêu anh đến vô cùng.

Chúng tôi đan ngón tay vào nhau.

Chúng tôi làm tình trong phòng trên nền nhạc guitar mướt rượt của Carlos Santana.

Ở tầng thứ 100 gió sông Hồng lại thổi, thứ gió nồng nàn mùi phù sa non và ngô sữa đang kỳ đọng hạt. Lá vàng Levitan bời bời óng ả trong bức tranh Mùa thu vàng treo trên tường. Mùa thu trong tranh tràn xuống căn phòng rộng làm chúng tôi bồi hồi chìm ngập vào không gian đất trời giao mùa thu đông chứ không phải mùa hạ. Chẳng có mùi lá cây ải mục, chỉ có hương đất mới xông lên và mùi lá vàng ứa nhựa hăng nồng nàn nuối tiếc dùng dằng chưa muốn lìa cành. Cái mùi rất giống mùi đàn ông hòa lẫn mùi mồ hôi, lẫn mùi trống mái.

Tôi không còn bắt gặp năm hình con bò cạp nhỏ xíu đen nhánh bí ẩn trên da thịt nàng nữa. Hai con âm thầm mai phục ở hai má đùi non. Một con kiêu hãnh phởn phơ như thể vừa hút no nê sữa non ở nhũ hoa; rồi đang nằm kềnh ra ở khe ngực một cách đầy thỏa mãn. Một con bền bỉ, mải miết bò trên bụng. Một con khiêm tốn nằm bẹp ở mông trái. Dữ dội. Cuồng nhiệt. Và dịu êm. Chúng kích thích sự tò mò, đào sâu bản năng, dẫn dụ ham muốn. Chúng bắt người tình phải chú ý, nghĩ ngợi. Chúng gợi đến sự kì bí của cái đẹp. Nhưng, bây giờ chúng bò đi đâu rồi? Nàng cười tinh nghịch, bảo: Ngốc ạ! Ảnh bò cạp dán chứ không phải hình xăm. Chúng chỉ tồn tại trên người em khoảng một tuần. Em sẽ dán hình trăn rắn, hoặc sư tử, hoặc bộ mặt râu ria trùm khủng bố Bin La Đen, nếu anh muốn. Ôi trời! Dại khờ biết bao, tôi lơ ngơ như bò đội nón. Nước trong lành mềm mại qua các lần nàng tắm đã dội cuốn trôi những con bò cạp đi rồi. Hóa ra, nàng hiển hiện trong cuộc đời tôi chính ở cái sự hấp dẫn luôn luôn lạ lẫm, mới mẻ, trẻ tươi và bí ẩn. Chưa biết chừng, một lúc nào đó, ảnh của tôi sẽ âm thầm ngự ở đùi non của nàng.

Ngày chưa yêu.

Lúc nào nhìn thấy nàng, tôi cũng có cảm giác đang đứng trước một con gà mái hoa mơ tươi tắn, rực sỡ. Lũ đàn ông tội lỗi như đàn gà trống vè vè, đạp chân, đập cánh, gáy ầm ĩ vây chung quanh nàng. Có gã như con gà trống cồ, từ xa cong đuôi dài, mỏ nhọn cứng mổ vân vê đảo đi đảo lại viên sỏi và kêu “thóc thật… thóc thật”, dụ dỗ con mái hoa mơ dẫn xác đến. Tôi không phải là con gà trống. Tôi như con sư tử bờm dài lặng lẽ, kiêu hãnh, có một chút ngạo nghễ thầm cười cợt khinh thường những con gà trống mào lông trộn màu loe loét, bắng nhắng.

Còn bây giờ, chúng tôi trôi vào miền cực lạc. Nuột nà. Căng mẩy. Và nóng hổi. Tôi kéo váy nàng lên. Tôi úp mặt, chằm bặp vào má đùi non mịn màng của nàng. Tôi cảm thấy các mao mạch li ti đang chuyển động cùng trái tim nàng run rẩy đập. Chẳng có kiêu hãnh và cũng không có mặc cảm, tự ti; chỉ có tình yêu đầy ắp căn phòng lá vàng rơi tao tác. Có cả da diết và rưng rưng. Dịu dàng rồi sâu lắng. Và chập chờn bến mê, tôi lại thấy hoa tuyết bay bay ngoài ô cửa kính.

***

Bỗng nhiên chợt nhớ ra điều gì đó, dừng yêu, nàng bước đến xoay ngược bức tranh Người đàn bà xa lạ úp vào tường. Vải bố, khung gỗ mộc trần sì và màu vẽ lem luốc ở mặt trái bức tranh lộ ra trơ khấc. Nàng bảo:

“Một Mùa thu vàng là quá đủ rồi. Em không chịu được ánh mắt nhìn bí ẩn của Người đàn bà xa lạ trong bức tranh này. Cứ như có một con đàn bà nào đó đang chen vào giữa chúng ta. Mất tự nhiên”.

Nhạy cảm và tinh tế. Yêu quá đi thôi. Tôi gục đầu vào ngực nàng như trẻ nhỏ tìm vú mẹ. Nàng âu yếm, suông những ngón tay búp măng vào mái tóc rối bù của tôi.

“Tiểu thuyết Đêm mùa hạ tuyết rơi ra rồi, anh ạ. Buổi chiều hôm qua chờ ở nhà in sốt ruột toát cả mồ hôi mới lấy được ba quyển biếu tác giả. Mừng vui và bồn chồn nhớ ngay đến anh, chỉ muốn gặp để tặng cuốn đầu tiên”.

Có niềm hạnh phúc nào hơn thế? Lúc buồn, người đầu tiên nàng muốn nhìn thấy đôi mắt hoang vắng cô độc… là tôi. Lúc vui, kẻ đầu tiên nàng muốn chia sớt cảm xúc hưng phấn cũng là tôi. Niềm nhớ nhung. Nỗi khổ sở, dày vò. Giọt nước mắt. Bộ underwear mới mua. Kết luận của bác sĩ về cái u lành như trái nho ở vú trái… Tất cả mọi điều mọi thứ trên đời nàng đều muốn tôi là người đầu tiên biết, người thứ nhất được chia sẻ, người duy nhất cảm nhận; hoặc chỉ đơn giản, tôi chứ không là ai khác ngắm nhìn…

Tôi hôn nàng thật sâu, rồi bảo:

“Anh thật hạnh phúc vì có em”.

Nàng lấy tập tiểu thuyết mới in ra khoe. Hương thơm da thịt nàng phảng phất át cả mùi mực mới in. Khi ở bên nàng thì sự nghiệp, chức vụ, tiền bạc chất thành núi và ngay cả Giải thưởng điện ảnh Oscar danh giá của Hoa Kỳ là niềm khát khao cháy bỏng treo trước mắt cũng chỉ là con số không tròn trĩnh vô hồn đối với tôi. Nàng là số một, là duy nhất, là bầu trời mặt đất của tôi.

Phải dùng lý trí để buộc mình tỉnh táo, tôi cảm nhận: Mùi mực in mới. Giấy mới. Tập tiểu thuyết này lẽ ra tôi đã được nhận từ ngay cái buổi chiều nàng bồn chồn, da diết nhớ ấy. Cũng chẳng sao, tập sách ở bên nàng càng lâu càng được ướp mùi hương da thịt nàng.

Tôi khen cái bìa đẹp, sang trọng. Con mắt người họa sĩ này đáng đặt bên ngòi bút người sáng tác. Nàng lưỡng lự, cái sự lưỡng lự trong sự nôn nao rối bời của người đang yêu.

“Nhưng mà, em… đề tặng anh thế nào được nhỉ?”.

Tôi bảo:

“Tùy cưng”.

Nàng nghĩ ngợi, đôi mắt lấp lánh sáng reo vui như loài người vừa tìm ra lửa:

“Em sẽ ký tặng anh bằng dấu son”.

“Dấu son?... Thôi, tùy em”.

Khác đời quá đi mất! Nàng thường sống và yêu dị biệt chẳng giống ai. Đắm say sống. Cuồng nhiệt yêu. Sống và yêu như lửa cháy ngùn ngụt thiêu đốt trụi cả cánh rừng nhiệt đới. Sống và yêu cần thiết như ánh sáng, thiếu nó thì tăm tối đần độn; như không khí, thiếu nó thì ngạt thở, đông cứng.

Tôi hình dung nàng đã chúm chím môi in một hình trái tim đỏ hồng lên trang đầu nơi các tác giả thường ký tặng. Son môi không bị in phẳng bẹt trên giấy trắng mịn mà bóng nổi hình khối trái tim hồng, có những đường xẻ mảnh gợi cảm thân thuộc gần gũi. Bao nhiêu dấu son như thế này đã từng in ở mắt, má, cổ, ngực, đùi tôi…? Không nhớ. Tôi tưởng tượng nàng đóng dấu son môi vào tập sách, và nàng cũng đóng luôn dấu son vào trái tim tôi đang run rẩy…

“Em sẽ viết cuốn bút ký chân dung văn nghệ sỹ, mà anh là nhân vật đầu tiên”.

Tôi vẫn không thôi ngắm nghía Đêm mùa hạ tuyết rơi của nàng. Lật từng trang, soi từng chữ cứ như là báu vật của mình. Tôi đã nghĩ đến việc chuyển thể Đêm mùa hạ tuyết rơi thành phim, nó sẽ là quả bom tấn ném vào nền điện ảnh nước nhà đang èo uột, đang như cái ao tù đọng, tẻ nhạt.

“Ơ kìa. Em nói anh không nghe à?”.

“Ờ… ờ… Anh nghe… anh nghe”.

“Này nhé, bút ký chân dung sẽ in 2 vạn cuốn khổ 14x20,5, dầy 200 trang, giá tiền mỗi cuốn 27 ngàn đồng. Nhuận bút 10% sẽ là 54 triệu đồng, anh ạ. 54 triệu sẽ mua được 100 bộ đồ lót giống như bộ underwear màu lửa anh tặng em…”.

Nàng không nhận ra tôi cau mày và nặng mặt. Tôi đang thẫn thờ trôi cùng sao trời đêm tuyết rơi mùa hạ với đôi môi hình trái tim thay câu đề tặng, thì nàng lại đồ lót, sách dầy mỏng, giá tiền đắt rẻ, với… nhuận bút. Văn chương và đồ lót. Giời ạ! Tình yêu trữ tình lãng mạn bị gói kín cầm tù trong cái quần lót màu lửa. Tôi hoang hoải. Chỉ muốn chui trốn vào giữa cuốn tiểu thuyết của nàng.

Một đêm bên nhau thật quý báu, hiếm hoi. Tôi không muốn thân xác và tình cảm biến thành cây nước đá tan chảy giữa trưa hè sa mạc Sahara châu Phi. Tôi gạt mọi bẽ bàng và tất cả những ý nghĩ tồi tệ về nàng. Tôi tìm lại cảm giác hồi hộp, nhớ những đoạn thư của nàng.

Nàng viết: Có thể chỉ nắm lấy bàn tay của anh cũng là đủ, nhưng có thể suốt cả cuộc đời này cũng là chưa đủ.

Nàng viết: Em nghĩ đến anh lúc đang đi trên đường, lúc năm giờ sáng chạy vòng quanh hồ Hoàn Kiếm, lúc lên cầu thang gỗ đã ngả màu thời gian trong ngôi biệt thự kiến trúc Pháp, lúc ăn trưa ăn tối, lúc viết cứ một lúc phải dừng lại, lúc nói chuyện với người khác nữa, luôn không tập trung được, không hiểu người ta nói gì. Và tất nhiên, trước khi đi ngủ, khi vừa tỉnh giấc buổi sáng hay giật mình thức giấc giữa đêm cũng… nhớ anh.

Còn nghi ngờ gì nữa, đích thực là tình yêu.

Có lẽ tôi phải viết kịch bản phim nhựa và tự làm đạo diễn cũng không đủ ngợi ca tình yêu của nàng. Sách khổ to khổ bé, 54 triệu đồng nhuận bút, bộ đồ lót màu lửa và chuyện cơm áo gạo tiền đời thường trần tục bay biến mất. Trước mắt tôi, chỉ còn là đôi tay trần nuột nà, gương mặt nàng khả ái với đôi môi hồng gợi dục. Trong đầu tôi, chỉ còn lại một nửa cuộc đời mình yêu dấu, tôi sẽ cắp đi theo khắp chân trời góc biển. Trong trái tim nhân hậu của tôi, chỉ một tình yêu xao xuyến da diết bù đắp, tựa đỡ, san sẻ và dâng hiến tận cùng. Tôi quấn vào nàng, nàng bện chặt vào tôi.

Chuông điện thoại reo. Nàng ngừng yêu vồ lấy máy.

“…”

“Em vừa tỉnh dậy”.

“Nàng đang lựa lời tránh cuộc tra vấn giữa đêm khuya khoắt”. Tôi thầm nghĩ. Lòng kiêu hãnh nổi lên khiến tôi kiên quyết không thèm nghe tiếng đàn ông èo ẽo thô lậu trong máy điện thoại vọng đến. Sao nàng lại có chơi được với gã đàn ông èo uột ái nam ái nữ thế nhỉ?

“…”

“Thế ạ? Vậy mà em không biết là vừa có động đất khủng khiếp”.

Hóa ra, chúng tôi làm tình mải miết, cuồng điên… không hề biết cửa kính rung cầm cập. Và dưới đường, người Hà Nội đang hoảng loạn túa ra từ các tòa nhà bê tông lạnh lùng, nháo nhác sợ hãi lo lắng vì quả đất vừa rùng mình hắt hơi sổ mũi ở đâu đó.

“…”

“Em bình an. Anh đừng lo”.

“…”

“Vâng! Tiểu thuyết ra chiều qua, in đẹp, anh ạ”.

“…”

“Ở hiệu sách cũng bán đấy”.

“…”

“Chỉ còn mỗi một quyển. Nhưng, là quyển đầu tiên đã định...”.

“…”

“Vâng”.

“…”

“Thì em bận rộn cho sách ra, còn tâm trạng nào mà nhớ cuộc hẹn hò của anh nữa…”.

“…”

“Chỗ đang ở rất đẹp, ấm áp. Sao anh lại từ bỏ, chuyển đi dễ dàng thế?”.

“…”

Tôi bắt gặp nỗi buồn nuối tiếc tê tái trên gương mặt nàng. Cái ánh mắt hốt hoảng ấy mách bảo tôi rằng: Nàng đã đến chốn ấy rất nhiều lần. Và sắp phải xa một nơi thật thân thuộc đầy kỷ niệm, mà nàng không hề muốn.

“Vâng… vâng ạ!”.

Nàng bỏ máy. Không nghĩ ngợi, bảo:

“Đồng chí ấy là người yêu cũ… muốn em tặng sách…”

Ôi trời! Có một cục nghẹn cồn lên giữa cuống họng tôi. Không! Nó là trái cấm nàng Eva tặng Adam - người đàn ông đầu tiên trên trái đất nuốt không trôi.

*

Tôi không biết lúc rời căn phòng ở tầng thứ 100 khoảng thời gian nào. Chỉ loáng thoáng nhớ trước lúc ra khỏi cửa, nàng bảo:

Đêm mùa hạ tuyết rơi của em, anh đọc hết rồi nhỉ”.

“Thì em bảo: anh là đạo diễn, đọc giúp em xem những đoạn thoại có ổn không mà”.

“Thôi, anh đọc quyển này, hay lắm”.

Nàng lôi quyển tạp văn Chuyện kể lúc 0 giờ mới mua đưa cho tôi. Nó là tập sách gom lại các câu chuyện bạn đọc chia sẻ với Đài Tiếng nói trong đêm không ngủ về đủ sự nhân tình thế thái. Nàng hớn hở kể: Trong này có câu chuyện rất hay, và cười ra nước mắt, anh ạ. Một anh chàng mua tặng cô người yêu mới bộ quần lót nhân ngày sinh nhật; mua cái váy rộng xòe tặng cô người yêu cũ đang mang bầu. Chẳng hiểu sao, chàng tặng nhầm quà người nọ cho người kia. Nàng người yêu mới nhìn cái váy màu nâu đen rộng như cái nơm đại, buồn rầu ngay trong đêm sinh nhật, bảo: “Em đã nói size đồ lót cho anh rồi. Cứ tưởng tượng nó rất đẹp. Chắc chắn sẽ vừa vặn, ôm khít thân thể em đến không thể tin được. Vậy mà…”. Chàng trai bối rối, chẳng biết xử lý tình huống đã chót xảy ra, đành viết thư chia sẻ với nhà đài. Nàng hỏi tôi: Anh yêu! Là anh, anh sẽ khuyên chàng trai lơ đãng và ngốc nghếch ấy thế nào?

Hình như lúc ấy tôi không trả lời. Hình như lúc ấy tôi thấy nàng cầm lại tiểu thuyết Đêm mùa hạ tuyết rơi bỏ vào túi xách. Hình như nàng hôn tôi nồng nàn. Hình như nàng rời căn phòng có bức tranh Mùa thu vàng ở tầng thứ 100 trước tôi. Hình như lúc đó tôi nghi ngờ trí nhớ của mình. Không thể như thế. Nàng đã tặng Đêm mùa hạ tuyết rơi cho tôi. Hình như tôi giật mình mở cặp, lật tung gối ga, chui xuống gầm giường tìm Đêm mùa hạ tuyết rơi. Hình như tôi lật lại bức họa Người đàn bà xa lạ, rồi ngẩn ngơ buồn lặng ngắm nhìn nàng đội mũ lông trên tường mà chẳng hiểu nổi cái nhìn bí ẩn ấy. Chả lẽ tôi mơ? Không thể như thế được. Vậy là tôi chưa gặp nàng? Chưa có chuyện hái sao trời? Chưa có tuyết rơi? Chưa làm tình bên Mùa thu vàng của Levitan? Và chưa có chuyện nàng tặng sách cho tôi? Vậy thì sao tôi ở bên Người đàn bà xa lạ?

Cục nghẹn gồ lên tắc giữa cổ họng tôi. Ôi tổ tiên Evaa ơi, sao người không nuốt trọn trái cấm ngày xưa ấy. Nuốt trôi vào dạ dày là tiêu hóa hết. Cục nghẹn là tình yêu. Vườn địa đàng đã biến thành vườn tình yêu cũng bởi sự nuốt dở dang. Tôi nhận ra cổ đẹp đàn bà đẹp hơn cổ đàn ông, cái đẹp phẳng phiu giản đơn, không u cục, chồi mấu. Chỉ có đàn ông mới có cái cục đau khổ và hạnh phúc này. Tôi đồ rằng: Con người bắt đầu biết yêu từ đàn ông, và tội lỗi cũng bắt đầu từ tình yêu. Tôi liên tưởng đến đám đàn ông giống tựa lũ gà trống mào lông diêm dúa sặc sỡ. Nhưng, nguyên nhân sâu xa mọi tội lỗi lại bắt đầu từ đàn bà.

***

Hơn một tuần sau.

Nỗi buồn xa vắng dâng đầy đã dịu đi. Cục nghẹn bớt chồi lên. Nhưng, kịch bản thiên tình sử tặng nàng vẫn chưa ra được cảnh đầu tiên. Tôi quay lại niềm say mê với sách cũ.

Hiệu sách cũ nhộn nhịp bán mua. Tôi chọn được tập 1 của bộ Đại từ điển bách khoa Larousse mối xông từ trang giấy lót xuyên qua ruột đến tận bìa bốn lỗ nhỏ như hạt đậu xanh mà giá chỉ bằng một bát phở. Mua được tập Thơ tình thế kỷ XX dày 400 trang có cả lời đề tặng và chữ ký loằng ngoằng của một người nào đó tặng cho ai đó, mà chỉ ngang một que kem Bờ Hồ…

Bất chợt, tôi bắt gặp tiểu thuyết Đêm mùa hạ tuyết rơi cùng vài quyển sách nữa của nàng trong đống sách cũ vừa đổ từ bao tải ra. Không thể tin được! Là dấu son môi của nàng!? Dấu son môi có những đường xẻ mảnh gợi cảm hình trái tim in ở trang đầu thay cho lời đề tặng và chữ ký. Tôi nhận ra dấu son quen thuộc, gần gũi đã từng in khắp nơi trên thân thể tôi. Tôi còn cảm nhận được cả mùi hương da thịt đàn bà quen thuộc vẫn còn vấn vương trong từng trang tiểu thuyết. Tôi dám chắc, nếu có kính hiển vi, sẽ nhận ra ngay vân hoa tay của mình đã từng in chi chít lên trang trang lót, trang trọng và trang bìa Đêm mùa hạ tuyết rơi.

“Sách mới đẹp… Thật hoài phí”.

Tôi buột miệng nói trong vô thức. Chị chủ sạp sách cũ mặt hớn hở, mua được của rẻ, bảo:

“Người ta dọn chuyển nhà, vừa thải một bao tải. Cái anh kia kìa”.

Tôi nhìn theo tay người chủ sạp sách cũ. Chỉ thấy cái lưng áo thổ dân da đỏ in hình con dao quăng của thằng cha đang dắt xe máy xuống lòng đường. Chả lẽ nước Nam này còn chiếc áo thứ hai?

Bất giác tôi thở dài ngao ngán. Buồn hoang hoải. Đau thắt lòng. Và bẽ bàng…

“Đồ điên! Đồ tâm thần. Muốn chết à”.

Tôi giật mình. Ô tô vừa phanh cháy mặt đường, khói đen đang mù mịt. Quyển tiểu thuyết tuột khỏi tay tôi rơi xuống đường nhựa. Suýt chết. Xe máy và tôi đang trước mũi ô tô tải trọng 24 tấn, chỉ cách 10 cm.

Sau tiếng quát là những lời rủa của người đi đường.

Mơ! Hay là tôi đang mơ nhỉ? Tôi đang sống trong một không gian ảo với những câu chuyện ảo?

Gió tốc tác lật từng trang Đêm mùa hạ tuyết rơi.

Hoa mắt. Chập chờn. Tôi vẫn kịp nhận ra cái dấu son môi in ở trang đầu tiểu thuyết đỏ chót.

MÙA TRÂU ĂN SƯƠNG

1.

Hăm ba tháng Chạp.

Bỗng nhiên trời hửng. Gió hơi se se lạnh. Nắng mới rọi trên mái nhà phố cũ. Những ngày mùa đông ảm đạm, bầu trời xám xịt, lạnh lẽo dường như tạm lánh, biến mất. Bọn sinh viên đã lác đác rời ký túc xá, nhà trọ về quê. Quất cảnh, hoa tươi từ ngoại ô theo xe thồ, gồng gánh vào phố cũ. Lá dong, đào rừng Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn La,... cũng theo người xuống núi về Thủ đô. Không khí sắm Tết đã tràn ngập đường phố. Người ta đang vội vã, hối hả trở về quê sum họp, sau một năm đi xa nhọc nhằn, vất vả. Còn tôi vẫn phải đi mổ trâu.

Tôi bảo, cho tôi về quê thôi đừng bắt tôi cắm mặt ở cái lò mổ này nữa. Tết nhất đến nơi rồi, nhà quê bao nhiêu việc. Áo mới cho con chưa mua. Ao cá chưa tát. Thịt lợn chưa biết đụng với nhà ai. Lá dong, gạo nếp, dưa hành,... chẳng biết vợ lo đến đâu. Nóng ruột lắm.

Nàng bảo, đang là mùa trâu ăn sương. Về thế nào được.

Nàng bảo, kéo giúp cái khóa móc xanh tuya sau lưng lên giúp nàng.

Nàng bảo, chuyện vặt, điện thoại về nhà bảo con vợ ra chợ là có hết.

Nàng bảo, trưa ba mươi Tết ăn tất niên xong, về cũng kịp chán. Một trăm cây số đáng là bao, nàng cho xe ô tô chở về đến tận nhà.

Thợ mổ trâu còn gọi là đồ tể. Đồ tể chẳng dính dáng chi với cái luận văn cao học tôi sắp bảo vệ. Mổ trâu là nghề cực nhọc, sát sinh man rợ. Làm thạc sĩ văn chương là cái cần câu cơm ốm đói mà lãng mạn. Dao búa, máu me ghê răng và có tiền, so với thanh sạch trữ tình, là hai phạm trù đạo đức đối lập, phủ định nhau. Miếng cơm manh áo và sĩ diện, chọn một hay hai?

Mùa đông năm trước, tôi liều đưa chân nhắm mắt, chọn bừa cả thạc sĩ văn chương và mổ trâu.

2.

Tôi nhớ như in cái ngày đầu học việc.

Nửa đêm về sáng. Đường phố không bóng người, tôi lọ mọ đến lò mổ. Tiếng mài dao quẹt… quẹt miết xuống đá ráp nghe rợn gáy. Trâu thức giấc đánh sừng cộc… cộc. Vài cái ngáp ngủ uể oải, khê nồng.

Chị chủ lò mổ bảo:

“Người ta bảo giáo viên tay trắng trói gà không chặt, chỉ quen cầm nổi viên phấn”.

“Ngày xưa, tôi đã đánh trâu đực cày vỡ đất lật cỏ ba sào một ngày. Tôi đánh trâu cày được thì cũng mổ trâu được”.

Chị chủ cười, cái cách cười của kẻ lõi đời và thương hại thằng đàn ông vụng dại.

“Xuất phát vào đời thầy cũng ngang tôi. Thầy đi cày, tôi là con ở làm thuê. Thời gian nó làm cho người ta khôn lên. Thầy giáo ngây thơ bỏ bà. Cày trâu là làm đất màu mỡ, cho mầm xanh chồi non nẩy nở khai sinh phát triển. Mổ trâu là diệt sinh, khai tử. Chả lẽ thầy giáo đứng cả về phe phát triển lẫn phe hủy diệt?”.

Sinh với chả diệt, chết với chả sống! Tôi bất ngờ quá. Hóa ra, đi cày với mổ trâu có liên quan đến nhau thật. Triết lý trụ sinh văng ra từ mồm chị chủ ít học, lại còn lớn tiếng dạy đời.

“Tôi sẽ cố gắng. Còn khi làm không được, tự tôi sẽ ra đi chứ không để bà chủ đuổi việc”.

“Gọi tôi là Mộng Hoa. Gọi là chị, là bà. Tủi lắm”.

Tủi lắm! Sao người đàn bà sắt đá này lại có phút mềm lòng, tủi thân?

Kỳ lạ! Ăn nói chao chát. Đưa đẩy, ngoa ngoắt. Chị chủ thuộc loại đàn bà rách trời rơi xuống, có cái tên mỹ miều chẳng hợp với nghề băm chặt. Mộng Hoa lấy làm bút danh văn chương hơn là tên người đàn bà đồ tể.

Bất chợt, tiếng xe lăn ken két trong đêm đến mỗi lúc một gần. Nghe rợn tóc gáy. Chị chủ cũng nháo nhác nhìn quanh. Tôi quay lại, bắt gặp một ông già tóc bạc trắng. Đôi chân liệt, buông thõng, tong teo. Hai bắp tay to chắc như đô vật. Mặt choắt như mặt chuột. Mắt lóe sáng như mắt mèo. Câm lặng. Chập chờn như bóng ma.

“Sao lại để ông ra đây lúc đêm hôm thế này?”.

Chị chủ rít gằn giọng. Một anh đồ tể dạ ran, chạy đi làm phận sự. Ông già và anh đồ tể mất hút vào màn đêm. Tôi hoang mang quá. Chẳng hiểu ra làm sao, cứ như vừa mê man vào giấc mơ quái dị.

Chị trở lại câu chuyện, bình thản, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra.

Chị chủ vẫn bình thản, coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Giọng nhiệt tình, chèo kéo:

“Tôi có bài thơ mới làm, đọc cho thầy giáo nghe nhá”.

Lại còn thế nữa! Tôi đến lò mổ là để làm thuê kiếm tiền chứ đâu phải nghe đọc thơ. Sự đời cứ tréo ngoe. Thôi thì cố chịu đựng.

“Con trâu có một hàm răng

Ăn cỏ đất bằng, uống nước bờ ao

Hồi sống mày đã thương tao

Bây giờ mày chết, cầm dao xẻ mày

Thịt mày tao nấu linh đình

Da mày bịt trống tùng dinh sân đình

Sừng mày tao tiện con cờ

Cán dao, cán mác, lược dày, lược thưa…”

Một bài thơ về trâu dậy mùi ẩm thực và tiện ích thực dụng. Nhưng, nó là vè chứ đâu phải thơ. Nhầm to, nhầm to rồi! Sao chị chủ lại nhận thơ mình sáng tác? Tôi buột miệng bảo:

“Nói chị chủ đừng giận. Đây là ca dao. Nó trong giáo trình Văn học dân gian thầy giáo dạy tôi từ năm thứ nhất đại học”.

“Ủa, thế là tôi nhận vơ à? Mà tôi chép trong đầu ra đấy chứ. Chả lẽ…”.

Tôi nhận ra cái hồn nhiên bản năng đáng yêu của chị. Có lẽ chị đọc ở đâu đó rồi thuộc, nó cứ ám ảnh trong đầu trở thành máu thịt. Có dịp cảm xúc thăng hoa, nó tuôn ra như đê vỡ, chị cứ nghĩ mình sáng tác.

“Chết thật! Không có thầy giáo thì tôi thành con đạo văn”.

Giá như người khác thì ngượng, xấu hổ, nhưng chị lại hồn nhiên như chẳng có chuyện gì phải bận lòng. Chị bảo, bây giờ đang là mùa trâu ăn sương. Trâu càng ăn nhiều sương, thịt càng chắc, thơm. Tôi chẳng lạ gì. Ở quê tôi, đêm trước giết trâu bao giờ người ta cũng đóng cọc buộc ra ngoài bãi cỏ. Đêm trâu hít thở sinh khí đất trời, tinh tú. Khoan khoái ngẩng đầu há miệng đưa dài lưỡi đón những giọt sương bay, hoặc cúi đầu nhấm nháp các giọt sương đậu long lanh trên lá cỏ. Con trâu thanh sạch, thu nhận tinh khí vũ trụ, lắng đọng trong da thịt huyết... Thịt ngon quý hiếm là mùa trâu ăn sương.

Chị bảo, chị có bài thơ Mùa trâu ăn sương, tôi đọc thầy giáo nghe nhé:

...Mùa trâu ăn sương

Hai mươi ba tháng Chạp gió lùa se lạnh

Trai thanh gái tú bỏ phố về quê

Lệ làng mổ trâu làm cỗ chia phần

Cái ách vai trôi dạt đến nhà nào?

Tế Thánh thần,

đầu trâu đầm đìa máu

Sừng cánh ná

chống trời, ngang ngạnh.

Thao láo mở mắt trâu

gương cầu đựng cặp vú nạ dòng, con gái

soi mặt đàn ông, con trai

và in hình non sông đất nước.

Đọc xong, niềm hãnh diện sung sướng ngời ngời trên gương mặt chưa kịp son phấn, chị bảo:

“Câu lạc bộ thơ Hoa Sữa, ai cũng khen bài này. Còn thầy giáo?”.

“Thơ lạ. Hình ảnh lấp lánh, lại mới mẻ nữa”.

“Thảo nào cậu em tôi biểu, thầy giáo bình thơ hay lắm; lúc nào rỗi xướng họa với tôi nhá”.

Thơ như là thứ hương quế, là rượu trưng cất thanh khiết, cao sang. Không phải ai cũng chạm đến cõi thơ bí ẩn kỳ vĩ được. Người ta yêu thơ mà làm thơ. Chẳng làm được việc gì mới đi làm thơ. Tiến thân bằng thơ. Mua danh bằng thơ. Sợ mang tiếng trưởng giả cũng làm thơ... Đủ cả. Lúc rỗi rãi hoặc cảm hứng bất chợt tôi cũng sáng tác.

“Tôi có làm thơ, in ở Tạp chí Văn nghệ tỉnh nhà. Nhưng, xướng họa thì chưa”.

Bà chủ có vẻ nể thằng đầy tớ làm thuê. Tôi nhận ra ánh mắt chị đằm thắm hơn. Thế mới biết sức mạnh của thơ phú đến nhường nào.

Đàn bà rất lạ! Phàm khi được chia sẻ, đồng cảm, người ta dốc bầu tâm sự, lòng rộng mở, buôn chuyện quên cả việc chính. Chị chủ Mộng Hoa khoe: ông nhà thơ tóc dài búi tó, chân đi guốc mộc đưa chị vào cõi thơ. Chị cảm phục, chị coi ông là người thầy thơ đầu tiên. Ông cho chị biết cái chân giá trị: bà chủ lò mổ trâu Mộng Hoa giàu có thật, nhưng không bằng cái móng tay nữ thi sĩ Mộng Hoa. Bà chủ lò mổ trâu chỉ mấy anh đồ tể, cùng lắm là ông phòng thuế biết; nữ thi sĩ thì cả nước biết, thơ truyền đời... Rồi chị phàn nàn, chì chiết cái bọn ghen ăn tức ở biểu chị háo danh, làm thơ con cóc. Thơ con cóc mà lại được mấy anh nhà thơ ở Hội văn nghệ thành phố khen?

Tội nghiệp chị. Xưa nay, mấy ông thi sĩ vẫn thường khen vống lên. Khen đã chết ai đâu. Khen thơ mình, khen thơ bạn bè. Người đẹp làm thơ càng được khen. Nghe các ông nhà thơ thì thân tàn ma dại.

3.

Tôi theo người đàn bà vào lò mổ.

Điện sáng trắng. Chị chủ khoảng bốn mươi tuổi, rất gợi cảm và môi mỏng như thằng lớp phó bạn tôi. Đúng là chị sao em vậy, cùng nòi giống. Cấm cãi.

Bốn con trâu đã ăn sương, vừa hạ thủ một con. Đầu trâu cắt rời ra, mõm chổng lên trời, hai mắt mở thao láo đầy uất ức. Đám đồ tể đang phanh da róc thịt. Chậu tiết luộc nóng hổi bốc khói nghi ngút. Món lót dạ bồi dưỡng lúc đêm hôm khuya khoắt quá hấp dẫn. Đổ tể vừa làm vừa dừng tay dao quay ra bốc một cục tiết luộc bỏ vào miệng.

Mấy anh đồ tể dừng tay dao, chờ hạ thủ con tiếp. Mặt anh nào cũng lạnh, lì và u ám. Một anh cầm dao bầu mũi nhọn hoắt. Một anh dắt con trâu sừng cánh ná ra. Một anh bưng chậu hứng tiết. Một anh cầm cái búa quả nhót đưa cho chị. Bỗng dưng, tôi dúm người, sởn gai ốc. Không khí như đặc sánh lại.

Con trâu dái sừng cánh ná rất dữ, đã từng húc chết người. Vía nó rất mạnh, mạnh đến nỗi vía trâu át vía người. Cứ cầm búa lại gần là nó trợn ngược mắt trắng dã nhìn giận dữ, khiến các đồ tể lỏng tay không hành sự nổi. Họ cúi đầu lép vế, phải cậy nhờ đến vía và sức mạnh của chị chủ.

Người ta bảo, đàn bà là giống cái yếu đuối, không bao giờ dám cầm dao cắt tiết nổi một con gà. Đàn bà nhìn con chuột mới đẻ đỏ hỏn liền run rẩy, nhìn cắt tiết chó là người nhũn ra, ngất xỉu. Nhưng, một khi đã biết cầm dao và cầm chắc chuôi dao thì chỉ có vung tay, đâm trúng tình địch là tình địch chết ngay, còn đâm chệch vào người tình sẽ không rút dao ra được. Chị chủ lò mổ trâu là loại đàn bà nào? Lúc nãy, chị là nữ thi sỹ đọc thơ du dương, trẩm bổng, có vẻ rất thơ mộng lãng mạn. Bây giờ, chị là bà chủ lò sát sinh. Tay trái kéo mũi con trâu ngang tầm thắt lưng. Tay phải cầm cái búa hình quả nhót. Con trâu dái mặt nổi gân, khô như mặt ngựa. Mắt đỏ. Chân cứng đanh. Rất ngoan ngoãn, thậm chí nó ngu đần trước chị. Khổ thân, con trâu dái không lường nổi cái chết được báo trước bởi bàn tay người đàn bà đẹp.

“Các anh phải biết rằng: Con trâu ít khi giữ đầu một tư thế, thường ngẩng lên cúi xuống – Chị chủ Mộng Hoa vẫn bình thản cắt nghĩa - Người giỏi ra đòn là khi trâu cúi xuống, bất ngờ đập búa dứt khoát, đập chắc, nhanh trúng huyệt gáy…”.

Độp. Tôi chỉ kịp nghe một tiếng đập lạnh, khô khốc thì con trâu dái đã ngã qụy, miệng kêu ồ… ồ rồi lịm hẳn, mắt trợn ngược, trắng dã. Tôi bàng hoàng, cứ như bị đánh mạnh một cú vào gáy. Mấy gã đồ tể suýt xoa khen nịnh lấy lòng bà chủ. Một gã cao hứng, gân cổ gào lên ư ử một câu vọng cổ: “Trời ơi! Thế là xong một đời lam lũ, một kiếp trâu lấm láp kéo… cày”. Cả bọn cười nói xôn xao. Không khí đêm khuya loãng dần. Tội nghiệp! Kiếm được miếng rất nhọc nhằn.

Chị chỉ ngón tay chỏ vào gáy trâu, giảng giải cho tôi nhận biết vị trí và hình ảnh mơ hồ của yếu huyệt. Rất khó hình dung. Đã từng có người yếu bóng vía hoặc vụng, đập búa không trúng huyệt. Trâu bị đau quá, hung dữ lồng lên húc tung cả người lẫn búa, có người bị sừng trâu vặc gẫy chân, có người bị đá thọt dái. Nghề này bạc lắm, không dành cho người bản lĩnh yếu, run rẩy, hồi hộp.

Đúng là nhất nghệ tinh, mỗi người một nghề. Người đàn bà này thoáng qua là biết huyệt gáy trâu; cũng như tôi giảng văn mùi mẫn quyến rũ bao nhiêu đứa con gái cấp ba trường huyện, nức nở khóc cùng anh Pha, chị Dậu, hoặc run rẩy với thơ tình Xuân Diệu, Xuân Quỳnh; xao xuyến với các bài thơ áo trắng rung cảm đầu đời của tôi.

Công việc còn lại không xa lạ gì với đám đồ tể. Tôi mới đến chưa quen máu. Làm việc vặt: múc nước, làm lòng, quét lông, rửa phản.

Đám đồ tể rất thạo việc. Lại một anh phụ bưng chậu bố chuẩn bị hứng. Một anh kéo sừng cho cổ trâu căng ngẳng ra. Một anh đồ tể đưa lưỡi dao bầu ngang cổ trâu. Máu đỏ xối ộc ộc...

Mặt mũi tối tăm, tôi toát hết mồ hôi hột.

4.

Trời rạng sáng.

Tôi vội vã đạp xe về lớp học. Chưa vào học đã buồn ngủ gà gật. Tôi gục đầu xuống bàn. Cái bàn học thời nào cũng thế, lớp vỡ lòng hay lớp sau đại học cũng chỉ là nơi học trò mài cùi chỏ và đỡ cái mặt ngủ gật úp xuống. Lò mổ chập chờn hiện ra: Những con trâu mắt thao láo mở nhìn xương đồng loại chất thành đống. Mấy gã đồ tể vô học, thô tục. Bộ mặt lạnh của nàng Mộng Hoa…

“Ông thạc sĩ tương lai, ở lò mổ ổn chứ?”.

Thằng bạn lớp phó vỗ vai tôi, hỏi. Giật mình nhỏm dậy, tôi ngơ ngác. Thằng này cười nhăn nhở, ghé sát miệng thì thào, hơi kẹo cao su phả vào lỗ tai tôi:

“Chị Mộng Hoa gọi điện bảo tao: Cậu có anh bạn thật thà lắm, lại biết làm thơ nữa, trông ngồ ngộ mà đáng yêu ra phết. Bỏ mẹ, chị ấy mà yêu mày thì chết tao”.

“Hừ...ừm. Để tao chợp mắt”.

Tôi lại gục đầu xuống tránh cái nhìn bạn bè xói vào đôi mắt tôi đỏ đọc ngái ngủ vì thức khuya. Hình ảnh thằng bạn lớp phó chuyên lo tài chính, tổ chức liên hoan, du lịch, đối ngoại lại đuổi theo vào đầu. Thằng này đô con, đẹp giai, sát gái. Chỉ phải cái khốn nạn là môi mỏng và học dốt. Nhập học được hai tháng, thằng này dẫn tôi về quán Cầy Tơ của vợ nó bên Hồ Tây, đãi một trận thịt chó mắm tôm nhớ đời. Cô vợ béo ị, được cái nước da trắng kéo lại và nhiều tiền, hiếu khách. Hai thằng ngồi phòng VIP, so đũa, gật gù cụng chén. Nầm, chả, lòng rồi,… và lá mơ, mắm tôm, riềng,… toàn gia vị gắt cứ trôi vèo vèo vào cái bụng đói khát của tôi.

Rượu ngà ngà, thằng bạn lớp phó thật thà dặn: “Tao đi học lấy cái bằng thạc sĩ để làm sang cho con vợ bán thịt chó mắm tôm thôi. Chứ danh giá chó gì”. Tôi bảo: “Đã là lao động thì nghề đếch nào chẳng vinh quang, cũng đổ mồ hôi sôi nước mắt. Con vợ tao ở nhà đi cấy, mò cua bắt ốc thì sao nào?” Thằng ấy thở dài: “Đành rằng thế, nhưng cái dân mình sĩ diện hão, cứ nghĩ bằng cấp mới là trí thức, mới là sang. Chẳng qua con vợ tao nó cú với thân phận bán thịt chó mắm tôm. Muốn làm sang với mấy con bạn cùng lớp 12, giờ đang dạy mầm non. Dạy mầm già hay mầm non thì vẫn cứ là giáo viên danh giá. Con vợ tao nằm mơ cũng chẳng bao giờ có được. Khổ thế! Đời cứ tréo nghoe, mày ạ…”.

Những hình ảnh chập chờn đứt đoạn qua nhanh. Tôi chìm vào giấc ngủ sâu rồi ngáy. Tiếng ngáy to, tiết tấu khoan nhặt, có nhịp điệp bổng trầm. Tiếng ngáy đạt đến nghệ thuật hò khoan, tựa như chiến sỹ thi đua ngành lâm nghiệp kéo gỗ. Cả lớp cười rộ mà tôi chẳng biết. Cái Lan có đôi má bánh đúc ngồi bên, khó xử quá. “Má bánh đúc” liền nhổ một sợi tóc mai, nhằm lỗ mũi tôi... ngoáy. Tôi giật mình, tỉnh ngủ. “Má bánh đúc” thì thào vào tai tôi vừa đủ nghe:

“Đêm qua, anh đi đâu khai mau?”.

“Học..., anh học suốt đêm... hỏi làm gì?”.

“Người anh toàn máu. Đi giết người à? Khiếp!”.

Bàn tay có những ngón búp măng xinh xinh, móng hồng giơ gương trang điểm ra trước mặt tôi. Cái vai áo, cái cổ,... dính máu khô. Tôi chợt nhớ ra là máu... trâu. Mấy gã đồ tề cắt tiết trâu, máu bắn phọt vào người lúc nào chẳng biết. Đỏ mặt. Miệng ngậm hột thị. Ấp úng:

“... Anh đi làm thêm ở... lò mổ..”.

Tình cảnh dở khóc dở cười của tôi, “má bánh đúc” hiểu nay, nàng ái ngại thật sự. Nàng tỏ ra thương hại và thông cảm, nhét vào tay tôi cái khăn mùi soa. Tôi phi tang thật nhanh các vết máu khô đã đông cứng đanh. Mùi máu trâu tanh tanh, hương thơm nước hoa con gái phảng phất, mùi hồ khăn mùi soa mới, hình như cả mùi nước đái trâu khai mù nữa... quện lẫn. Mặc cảm. Ngượng ngùng. Ê chề. Chỉ muốn biến thành con kiến chui xuống lỗ nẻ. Nhưng, lại có cảm giác mơ hồ, thinh thích sự âu yếm, dịu dàng, quan tâm khác giới.

Có ai hiểu nỗi lòng của tôi không?

5.

Chị chủ lò mổ có đứa con gái gần hai mươi tuổi đang du học ở Mỹ. Mấy anh đồ tể buôn chuyện bảo: Mười lăm tuổi chị trôi dạt vào cái lò mổ này. Lúc đầu cũng chỉ là con ở làm nhân công sai vặt, quét dọn, tuồn lòng, gánh nước, rửa phản,... Sau, càng lớn càng mẩy, phổng phao, tươi tắn. Rồi thành vợ ông chủ. Đôi uyên ương ấy cách nhau hơn hai mươi tuổi.

Câu chuyện chỉ đến đó, cạy răng họ cũng không kể nữa, cũng có thể họ chẳng biết gì hơn.

Chị chủ có sở thích đi vũ trường, và dự các cuộc sinh hoạt câu lạc bộ thơ phường. Chị bảo tôi:

“Tối nay đưa tôi đi có việc, được không?”.

Ngày trước, tôi học Sư phạm Vinh; giờ mới ra Hà Nội; phố phường Thủ đô lạ hoắc. Tôi lơ ngơ lắm. Xe cộ, người ngợm chi chít như đàn kiến trôi trên đường. Mải miết. Hối hả. Nhìn phát sợ. Chẳng biết người ta đi đâu lắm thế!? Tôi bảo:

“Đêm hôm, đi xe máy tôi sợ lắm”.

“Ai biểu thầy giáo nhà thơ cầm tay lái Honda mà sợ. Đi ô tô của tôi”.

Đi thì đi. Tôi không quá ngạc nhiên. Chị chủ lò mổ có ôtô riêng, có tài xế riêng chẳng có gì lạ.

Con xe Camry 3.5 màu đen bóng loáng, hàng hiệu từ Hoa Kỳ, hơn tỷ đồng, sang quá. Người đàn bà và tôi cùng ngồi ghế đằng sau. Nước hoa madam phun quá tay thơm ngát mũi. Lúc này, tôi thực sự cận kề bà chủ Mộng Hoa. Phồn thực quá. Thân hình phốp pháp, ngực vú vồng to ninh ních dưới làn áo thun màu mỡ gà. Váy đỏ ngắn nửa đùi. Giầy cao gót màu trắng. Cổ tay đeo đồng hồ vàng Omega lấp lánh. Bàn tay dầy, ngón to và ngắn như quả chuối mắn. Đúng là trời chẳng cho không ai cái gì. Bàn tay chị thô ráp, dường như nó được sinh ra chỉ để cầm búa đập huyệt gáy trâu và lách dao bầu lột da xẻ thịt. Và lấp lánh chiếc nhẫn mặt đá hồng ngọc ở ngón áp út. Một vẻ xấu - đẹp lẫn lộn, cái cao sang đi cùng cái kệch cỡm.

Tài xế lạng xe lách người. Chúng tôi nghiêng sang phải, dạt sang trái, khi phanh gấp người dúi lên phía trước. Chị chủ sợ, cứ ôm níu lấy vai tôi. Tim chị đập thình thịch. Tim tôi đập liên hồi. Xe bon bon, bằng lặng, chị chủ vẫn nắm tay tôi, vô tình đặt lên đùi. Đùi chị nóng hôi hổi.

Chật vật mãi, cuối cùng chúng cũng đến nơi cần đến. Người đàn bà xuống xe. Ngực hơi ưỡn về phía trước theo thế “vú tấn công mông phòng thủ”. Chị khoác tay tôi như cặp tình nhân bước vào sảnh vũ trường.

Chốn này không dành cho bọn choai choai híp hốp giật đùng đùng. Toàn nạ dòng và đám đàn ông hói trán nghỉ hưu đến tập nhảy.

Công thành danh toại, nhiều tiền, nhưng cuộc sống tẻ nhạt quá: tập nhảy.

Nuối tiếc một thời hoài phí tuổi xuân ở chiến trường: tập nhảy.

Mất đứt quãng đời nhọc nhằn mưu sinh lo miếng sống miếng chín chưa kịp ăn chơi, nay “trả thù” đời thua thiệt: tập nhảy.

Kẻ chết chồng, người chết vợ; quý bà, quý ông đi tìm bạn tri âm: tập nhảy.

Có người mong nâng cao sức khỏe và thu nạp thêm một nét văn hóa hiện đại cũng: tập nhảy.

Nhạc êm dịu. Điệu valse nhẹ nhàng. Vụng về và thành thạo. Uyển chuyển và lóng ngóng. Vô cảm và đắm say... Cái gì cũng lạ: Đèn màu lung linh. Rượu ngoại. Nước hoa phụ nữ. Mùi dầu gội đầu X.men. Vai trần. Đùi hở. Bắp chân trần. Tôi ngơ ngác. Ngượng.

Nàng giới thiệu tôi với các bạn tập nhảy. Nàng kéo tôi vào sàn khiêu vũ. Nàng sung sướng sát cánh kề vai với thằng đàn ông trẻ hơn chục tuổi. Đắm say. Ngất ngây. Dịu dàng. Bà chủ lò mổ với những ngón tay thô, ngắn hình quả chuối mắn như lột xác thành tiên.

Nàng hướng dẫn tôi. Chân bước chuyển. Tay ôm eo. Mặt hơi vênh... Ôi trời. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tôi nào đã gặp nông nỗi này. Mặt tôi thộn ra. Lóng ngóng. Giầy Adidat giẵm lên guốc cao gót của nàng.

Tôi bỏ ra ghế ngồi. Mặt nóng bừng bừng. Âm thầm nghĩ đến cô vợ ở nhà. Nàng thật thà như hạt lúa củ khoai. Nàng lam lũ. Nàng nhọc nhằn, lấm láp. Nàng đang rửa đít cho con? Nàng đang lặng lẽ ngồi trong bếp dạ đun cám lợn?

6.

Công việc ở lò mổ toàn lúc nửa đêm về sáng.

Lâu dần, tôi đã biết cắt tiết trâu thành thạo và máu không dây ra áo và người nữa. Đánh búa quả nhót vào huyệt gáy trâu cũng khá. Mất ngủ. Ban ngày đi học mệt quá, tôi toàn gà gật. Mỗi lần gà gật rồi kéo gỗ lại mất một cái tóc mai của cái Lan má bánh đúc. Cứ đà này không khéo tóc mai “má bánh đúc” sẽ trụi thùi lụi như người Mán sơn đầu. Bỏ việc thì tiếc tiền, không dám. Thạc sĩ và thợ mổ trâu, cái nào cũng quan trọng.

Có hôm tôi vẫn đến lò mổ, nhưng lại ở nhà trên và chẳng để làm gì, sẵn sàng làm một thằng sai vặt. “Thầy giáo lấy giúp tôi đôi giầy đỏ”. “Thầy giáo lấy giúp cái nịt vú trong tủ mang vào nhà tắm cho em với”. “Thầy giáo ngâm chân nước gừng nóng cùng không?”… Nhưng, việc chính là biên tập, chỉnh sửa thơ cho bà chủ. Đại khái, bài vè tôi nắn nót lại cho bớt vè hơn. Bài thơ kể lể, tôi ngắt vụn câu ra thành nhịp điệu nhanh chậm. Bài dở dang, tôi làm nốt đoạn thơ kết. Có bài hay đáo để, cứ như của ai đó làm hộ, chứ không phải đứa con tinh thần của chị.

Tôi luôn luôn bị ám ảnh có hình bóng nào đó thấp thoáng trong nhà đang âm thầm theo dõi. Cứ như mọi hành động của mình không qua mắt cái bóng mơ hồ ấy. Mọi suy nghĩ, tâm trạng của mình dường như bị bóc trần ra.

Chị chủ đang ở phòng tắm, tôi đi tìm sự bí ẩn với sự tò mò không kìm nén được. Tôi bắt gặp chiếc xe lăn có ghế nệm ở gầm cầu thang. Y như chiếc xe lăn ông già mắt mèo đã đi đêm nào. Tôi nhìn ngược lên giếng trời. Tay vịn cầu thang và những con tiện nâu bóng. Một gương mặt choắt đang cúi xuống nhìn vội thụt lại. Như vậy là đã rõ, rất có thể ông già đang ở tầng trên và hàng ngày ông chiếu đôi mắt mèo kiểm soát sự có mặt của những thằng đàn ông lạ.

Ngao ngán quá. Sao tôi lại rơi vào tình cảnh vụng trộm, trớ trêu này?

7.

Câu lạc bộ thơ Hoa Sữa tổ chức ra mắt tập thơ đầu tay của nữ thi sĩ Mộng Hoa. Con mắt đầy hãnh diện tự hào như muốn nói: Hội thảo thơ tôi đấy. Bao giờ thơ của thầy giáo được hâm mộ thế này? Tôi liên tiếp bị bất ngờ, ngạc nhiên. Mọi người đến khá đông, gần kín hội trường phường. Mộng Hoa rối rít xin lỗi đến muộn vì tắc đường. Mọi người đều thông cảm thể tất, bởi lẽ bây giờ đến đúng giờ, không tắc đường mới là sự lạ. Với lại, bà chủ lò mổ Mộng Hoa đã tài trợ tài chính cho Câu lạc bộ hoạt động đều đặn ba năm nay, công lớn lắm, ai nỡ trách.

Thằng lớp phó và Lan má bánh đúc đã ngồi ngay bàn đầu. Tập thơ Mùa trâu ăn sương chất cao ngang cằm “má bánh đúc”. Hai đứa nhìn thấy tôi cùng cười te tởn.

Ông nhà thơ tóc dài muối tiêu, búi tó củ hành điều hành hội thảo. Chân đi guốc mộc. Hai túi áo thổ cẩm lèn chặt các tập thơ nặng trĩu vạt. Thi nhân đi dọc theo khoảng trống giữa hội trường, đảo mắt như rang lạc liếc gái, chẳng nể gì các cụ ông cụ bà. Cứ người đẹp nào cổ hở, ngực to mông nẩy là ông dán mắt vào. Cứ như đi tìm cảm hứng nghề nghiệp. Cứ như không có gái thì thơ bay biến mất, buổi hội thảo bất thành.

Thơ là thứ cao sang thanh sạch sao lại gắn bó suốt đời với người đàn ông già dị mọ này?

Ông nhà thơ giới thiệu tập thơ Mùa trâu ăn sương. Hội trường phường có nhiều tiếng xì xào. Dân gian đã có bao nhiêu thành ngữ, ca dao hay về trâu rồi, nay lại thêm một thi phẩm độc đáo toàn viết về trâu.

Gân cổ. Nghiêng tai. Lim dim mắt. Tay chém gió. Như lên đồng. Càng nói, nhà thơ tóc búi tó càng hưng phấn, cảm xúc dào dạt. Giọng rất hách và quyền uy phát lộ. Thi sĩ đúng là vua không ngai, nàng thơ là hoàng hậu. Khối kẻ phát thèm. Và ghen tị.

Ông ta giới thiệu Lan má bánh đúc đọc minh họa một bài thơ của nữ thi sĩ Mộng Hoa. “Má bánh đúc” vốn yêu thơ đến độ mê tín. Nàng ngửa mặt lên trần nhà, mắt nhắm nghiền, miệng tròn chữ O, môi uốn chữ Z đọc thơ như lên đồng:

Mùa trâu ăn sương

Cánh đồng trơ cuống dạ

Đi từ đêm sang ban mai,

bước chân trâu đóng dấu hoa đất

móng guốc in hình sẹo đất.

Vũng sương chân trâu đọng vành trăng cuối tháng

Tôi vục mặt uống như húp vũng mồ hôi

Mồ hôi trâu lẫn mồ hôi người trộn mồ hôi đất

Giọt mồ hôi nào hơn giọt mồ hôi nao?

...

Lại bài thơ Mùa trâu ăn sương tôi đã nghe chị chủ đọc. Nhọc nhằn quá. Ai đã thấy trâu đổ mồ hôi chưa nhỉ?

Nhà thơ đi guốc mộc bảo:

“Giọng em rất truyền cảm. Nóng bỏng. Đam mê.”.

Ông ta đi vài bước, nói tiếp.

“Anh nào vớ được cô gái này yêu, sướng một đời”.

Cái ông này vô duyên. Đang thơ thẩn lại ngoằng một cái sang tình ái. Tôi đưa nhìn thằng bạn lớp phó, cảnh báo. Thằng này cười tủm. Cái cười rất gian manh, báo hiệu một cái gì đấy nhập nhằng.

Ra mắt thơ Mộng Hoa, mà nhà thơ đi guốc mộc lại mang thơ mình ra tặng. Loáng cái, hai túi thổ cẩm lèn chặt thơ hết sạch. Cái vạt áo lại nhẹ tênh.

Nhà thơ dừng lại bên “má bánh đúc” hơi lâu. Cái con bé này vô ý, cổ áo mở phanh ra từ lúc nào chẳng biết; hay nhà thơ nhìn sắc quá, tia bật cúc áo nó ra để lộ cả khe vú?

“Lúc nãy, em đọc thơ diễn cảm lắm. Đọc diễn cảm đắm say thì cũng có thể làm được thơ hay. Sao em không làm thơ nhỉ?”.

“Má bánh đúc” đỏ bừng mặt.

Thằng lớp phó bạn tôi cau mày.

Nữ thi sỹ Mộng Hoa vẫn cắm cúi nhiệt tình ký tặng tập thơ đầu tay.

8.

Càng gần Tết, mùa trâu ăn sương càng nhộn nhịp. Trâu mạn Sơn La, Yên Bái về càng nhiều. Ô tô chở trâu về ban đêm, lùa vào chuồng đóng gióng. Con nào sắp thịt, đồ tể buộc ra ngoài trời cho ăn sương.

Nửa đêm về sáng, các hàng thợ xẻ đi xe đạp, xe máy, gồng gánh đổ về lò mổ lấy thịt, lòng trâu kìn kìn. Những cái đầu trâu máu me tiếp tục bị quẳng sàn, mõm chổng lên trời, mắt thao láo mở uất ức. Cánh đồ tể đánh búa vào huyệt trâu, lột da, xẻ thịt nhiều cũng mệt. Gã nào mặt cũng u ám, xơ xác tóc.

Tôi cũng bị cuốn vào công việc lò mổ đến mộng mị.

Rồi tôi bị trâu húc.

Con trâu điên bất chợt. Vừa tháo dóng dắt ra khỏi chuồng nó đã hục hặc, đánh sừng lung tung. Anh đồ tể nào cũng run tay cầm búa không vững. Tôi bảo: “Để tôi”. Cái số không may, lúc đó tôi có uống chút rượu vào, không biết sợ là gì. Chỉ muốn vung búa lên chứng tỏ mình không phải thầy giáo tay trắng chỉ cầm nổi viên phấn. Búa quả nhót giáng xuống đầu trâu, rồi trượt xuống trán. Con trâu điên phản ứng tự vệ tức thì. Vặc đầu húc. Cái sừng đánh đúng vào bụng dưới và hạ bộ. Tôi ngã lăn bất tỉnh. Con trâu phóng vọt ra khỏi lò mổ, lao vun vút trong đêm tối. Nó chỉ dừng lại và đổ uỵch xuống thành đống thịt da khi húc phải bức tường rào đá có chân móng dầy gần một mét...

Tôi mơ màng thấy ông già thò cái đầu tóc bạc lòa xòa nhìn tôi. Ông vắt hai chân liệt lên cổ. Ông nắm thành cầu thang tụt xuống vèo vèo. Ông đắp cho tôi một tấm chăn mỏng. Ông nhìn tôi bằng con mắt buồn bã, thương hại. Và ông thở dài.

Tôi chợt tỉnh dậy.

Ông già vội vã chống tay lết đi ngay. Lết đi vì ông không muốn cho tôi nhận ra con người tàn tật sống trong bóng tối. Ông bám thành cầu thang nhoăn nhoắt leo lên tầng. Thoắt hiện. Thoắt ẩn.

Tôi nhận ra mình nằm trơ trên tấm phản làm lòng trâu. Anh em đồ tể khiêng đặt tôi nghỉ tạm ở phòng khách bà chủ, lúc nào chẳng biết. Tôi ngây ngấy sốt. Tấm chăn mỏng làm tôi đỡ rét run. Giếng trời một vuông sáng trắng. Vẫn cái đầu tóc bạc lòa xòa và đôi mắt mèo ẩn hiện, lấm lét nhìn trộm.

Đau quá! Bụng dưới căng tức. Tôi sờ xuống hạ bộ. Hai hòn dái sưng to như vốc tay. Nóng hổi. Nhức buốt.

Một anh đồ tể sao lá ngải nóng đắp cho tôi. Cái đau dịu dần. Tôi hất đầu lên nhìn cái người tàn tật đang câm lặng đang thập thò đầu phía trên giếng trời. Anh đồ tể nhóng mắt nhìn theo, bảo:

“Chồng bà chủ đấy. Ông ấy bị nặng hơn anh”.

“Sao thế?”

“Trâu đá vào dái; chưa đã nó còn bổ móng lên sống lưng. Liệt. Cấm khẩu. Cái nghề này bạc lắm”.

Khốn nạn. Ê chề quá!

Tôi không khóc mà nước mắt cứ trào ra.

9. Đoạn kết

Tôi lặng lẽ về quê.

Thằng bạn lớp phó và “má bánh đúc” đánh xe ô tô đuổi theo.

“Chị Mộng Hoa nhà tao đang vừa khóc vừa làm thơ về mày. Cũng là lỗi tại tao”.

Tôi lặng im. Thằng bạn tôi đâu có lỗi gì. Nó muốn tôi có tiền ăn học, giúp gia đình. Nó muốn chị nó khuây khỏa nỗi buồn thân phận.

“Thôi, cũng may. Mày về đi. Từ giờ đến Tết kiêng nhá, giao thừa xong hãy ngủ với vợ. Năm mới mày sẽ đẻ một trăm con trâu. À quên, đẻ một trăm con trai”.

Tôi vẫn lặng im, chỉ gật đầu.

“Má bánh đúc” cứ nhìn tôi cười nhặt nghẽo. Tôi ngượng ngùng quá.

Chiều ba mươi Tết.

Xe ô tô Camry 3.5 màu đen bóng dừng ở cổng làng, rồi quay bánh.

Tôi đi dọc bên đường làng. Bước chân lâng châng. Một nỗi niềm khó tả. Nhiều nhà đã gói bánh chưng. Khói xanh mơ màng bay trên mái bếp. Có bố con nhà nào đang hò nhau dựng cây nêu. Người làng đi xa vẫn đang lục tục trở về.

Nhà tôi đang đánh cá ao. Lưới thả xuống chọp chọp. Nơm úp xuồm xuồm. Cá tươi quẳng lên bờ giãy đành đạch. Bọn con cháu, em ún kéo nhau đến giúp, ngếch mặt lên chào tôi, cười tí tởn. Hai hàm răng đánh lập cập. Đầm dưới nước lạnh thế này thì cả lũ rét thâm dái.

Hai đứa con gái mong bố về, chạy ào đến mừng rỡ. Đứa ôm chân. Đứa xách túi. Chúng kéo bố về nhà khoe với mẹ. Vợ tôi đang ngồi trong chuồng trâu đốt lửa sưởi cho con nghé mới đẻ. Lại nghé với trâu! Lại mùa trâu ăn sương. Tôi giật mình. Sờ xuống hạ bộ. Chim cò thụt lại như quả ớt chỉ thiên.

Vợ tôi quay ra. Mừng quá! Đôi vai nhỏ nhắn rung lên. Nàng cười, như khóc. Hai má hồng rực vì lửa ấm. Con nghé đứng dậy chệnh choạng bước. Nó nghiêng đầu dúi cái mõm xinh xinh cọ vào háng tôi.

Người tôi cũng nóng bừng, rạo rực.

ĐỒI CON GÁI

Tôi ra đảo Man.

Hòn đảo nhỏ nhoi giữa trùng khơi vịnh Bái Tử Long. Rừng nguyên sinh nhiệt đới ẩm ướt, rậm rạp nhiều tầng, cây cổ thụ, cây tạp và dây leo nhằng nhịt. Khỉ mạnh bạo hơn người biết trêu đàn bà, lại biết vào chùa chắp tay khấn vái. Trăn khoanh như cuộn trão sưởi nắng trên mỏm đá, nhưng cũng biết căng mình ngang đường dọa người. Đêm trăng mờ thổn thức, nai rủ nhau ra khoảng trống làm tình. Mùa động dục các loại cá kéo nhau về đặc sệt vụng biển phía nam đảo gần cửa sông Man phối giống. Dân đảo thưa thớt, biệt lập đất liền, mang nhiều nếp sống sinh hoạt và tập quán văn hoá xưa cũ đầu thế kỷ XX. Thân phận người đi biển rất nhỏ bé mong manh so với đại dương mênh mông, biển hắt hơi thì lật thuyền người chết đuối, hàng năm xác người xấu số vẫn dạt vào đảo. Dân vạn chài lập miếu cô hồn, thổ địa, đền thờ thần linh,... ở nhiều nơi trên đảo. Mấy năm nay, luồng gió kinh tế thị trường thổi tràn ra đảo Man; vẫn chưa đủ mạnh để đảo hết hoang sơ, âm u, huyền hoặc, bí ẩn. Đó là những gì tôi biết được, trước khi ra đảo Man.

Bấy giờ, đêm đã khuya.

Trăng biển đỏ quạch. Trăng đỏ báo hiệu sự bất thường trên mặt nước; có thể giông bão ngoài khơi xa, hoặc biển động tôm cá về vụng lánh nạn. Gió lặng. Sóng ngừng vỗ. Không gian ngưng đọng, bức bối rất khó chịu.

Bỗng dưng, tôi bị đánh thức bởi tiếng nước đổ oang oãng. Như thể bản năng xúi giục, hoặc là ảo ảnh, tôi hình dung ra cảnh người con gái tắm đêm đang ngời ngợi dưới ánh trăng khuya. Tôi còn ngửi được mùi nước giếng cổ thơm mát quyện lẫn mùi hương da thịt con gái đầy dục cảm, quyến rũ. Bỗng chốc người tôi căng cứng, ngột ngạt... Cái đẹp đang bòn rút sinh lực thằng con trai là tôi.

Tôi vùng căng dậy. Rừng trâm cổ thụ, cây cành gầy guộc, lá lăn tăn xanh mướt. Khách sạn nhỏ mới xây vẫn im lìm, du khách chìm sâu vào giấc ngủ sau nửa ngày mệt mỏi ngồi tầu biển từ đất liền vượt vịnh Bái Tử Long ra đảo. Ánh đèn điện yếu ớt vàng vọt đổ quầng lên cát trắng. Chẳng thấy giếng cổ đâu, không có tòa thiên nhiên con gái khỏa trần trong mơ; nhưng lại nghe văng vẳng tiếng hát con gái từ xa vọng đến; và tiếng kéo hồ buồn bã trên đường xuyên đảo.

Tiếng kéo hồ nức nở và bóng người dật dờ như say rượu đổ xuống đường làm tôi nhận ra ông Trần. Ông Trần sống độc thân, vốn là chỗ quen biết cánh nhà văn nhà báo, từng tiếp “thượng vàng hạ cám” từ ông tiên chỉ làng văn làng báo đến cô sinh viên năm thứ nhất mặt non choẹt ra đảo thực tế. Ông có một kho văn hoá dân gian, có bài viết in tạp chí Văn nghệ tỉnh nhà. Biết các câu truyện huyền thoại, ma quỷ, thần linh trên đảo nên ông trở thành hướng dẫn viên du lịch tự do lúc nào chính ông không nhớ. Trước đây vốn là thợ săn cá không hiểu lý do nào, ông giải nghệ lên bờ. Ban ngày thì mò mẫn đến miếu cô thần, thổ địa, hang động, giếng cổ tìm kiếm cái gì đó. Ban đêm, dật dờ như ma đói đi lang thang ở rừng trâm, bãi cát thạch anh, đường xuyên đảo; miệng lẩm bẩm như phù thuỷ bắt quyết trừ tà, và tay kéo hồ. Ông Trần có bộ tóc dài quá vai, dị mọ, lất phất như tóc đàn ông bộ lạc da đỏ ở Mehico. Cơn cớ gì mà ông Trần thức đêm như con vạc? Chịu! Ông Trần kéo hồ vào loại hay. Tiếng hồ nức nở cất lên:

Ta nghĩ đến thói bạc tình

Ta ngẫm về nòi giăng hoa

đàn bà học nhau

rất lạ

Mây ơ hờ chiều đông

Gió ơ hờ tháng hạ

Phù dung sớm nở tối tàn

Nín lòng nhặt cuống hoa rơi

Cơn mưa bóng mây thoảng qua

Tim ta tật nguyền, chai cứng

Không có đàn bà thì ta khốn khổ,

có rồi còn khốn nạn hơn...

Ông Trần nhận ra tôi, đóng vĩ kéo lại. Ông mặc áo diềm bâu, thêu loằng nhoằng họa tiết dây lá thổ cẩm. Mặt hồ bưng da kỳ đà, chỗ tay cầm cần và vĩ kéo ngấm mồ hôi lên dấu thời gian, bóng mịn. Ông Trần bảo:

- Tiếng hồ của ta ma mị không? Chú chơi một bài nhá.

Tôi không thạo đàn hát lắm. Hồi đi viết chân dung bà Mầu - nghệ nhân xẩm chợ cuối cùng của tỉnh N, bà có dạy tôi điệu Phồn huê; tôi ghép lời, chơi cũng tàm tạm. Tôi cầm lấy hồ, so dây dạo:

Tôi lại nghĩ về cánh đồng liêu trai đàn bà.

ươm hoa cho người ta hái

Tôi nghĩ đến bàn chân con gái

đạp trên ruộng chiêm khô mùa hạ

ngâm vào vụng biển lạnh mùa đông

quấn quýt rong rêu, cuống dạ.

váng phèn vàng nhệch móng non

Bàn chân bước qua thời con gái

Xất xước,

thô ráp,

chai sần

Mùa thu liêu trai đàn bà

Đi ngang vết chân chim

Lửa lòng thôi reo đã tắt

thừa đống gốc tre khô, đống rơm đống rạ

không đốt nổi cái chăn nhàu mùa bão giông.

Ông Trần gật gù:

- Tiếng hồ của chú buồn, nhưng là cái buồn sang trọng; lại có ý thương hại đàn bà. Chú tốt lắm! Sau này, chuốc khổ vào thân. Tiếng hồ của ta nỉ non, oán thán, nức nở. Đàn bà nghe, động lòng hơn. Đêm nay, bao nhiêu đứa không ngủ. Có đứa nằm bên chồng cũng cồn cào ruột gan, dỏng tai nghe tiếng hồ của ta chỉ chực chạy ra, chứ lị.

Hoang tưởng. Tôi trề môi, trả cái hồ cho ông Trần. Hay gì cái thói chinh phục đàn bà. Tôi bảo:

- Cái đời làm tội cái thân. Cơn cớ nào mà ông dị mọ, lẩn thẩn vậy?

- Lẩn thẩn là thế nào. Ta sẽ cho bọn đàn ông đảo này điên đầu và đàn bà bỏ chồng theo ta hết.

Ông Trần cười khanh khách như ma vừa rời cửa mả:

- Chú không thấy gái đồng trinh ở miếu cô hồn thức dậy đang lang thang ở ngã ba đường, gốc trâm, bãi biển,... lắng nghe tiếng hồ của ta à?

Tôi nhìn xung quang, không bóng dáng ai. Chỉ thấy trăng đỏ đọc trên trời và tiếng chim giật mình thả tiếng kêu đơn lẻ vào thinh không. Ông Trần lắc mái tóc dài xõa như phù thuỷ làm phép hô nhập tràng, rồi dật dờ đi, bỏ tôi đứng một mình. Tiếng hồ lại nức nở rơi trên đường khuya vắng.

Những hình ảnh trong đầu cắt rời, đứt đoạn, lẫn lộn. Tôi quay về nhà nghỉ, băng rừng phi lao đứng ủ rũ như chết. Một con chim xanh ngủ gật, xập xòa cánh trên cành cây. Bất ngờ, tôi bắt gặp một người con gái khoác tấm lưới đánh cá đi tha thẩn trên bãi cát thạch anh trắng ngời. Ánh trăng đổ tràn vào những mắt lưới, các nút thắt đọng nước bắt sáng lung linh làm tôi liên tưởng đến người cá từ dưới biển đi lên ướt lướt thướt. Nàng: Ngực to, núng nẩy. Chân dài. Eo thắt. Mắt tròn to. Cằm hơi xẻ gợi dục. Bước chệnh choạng, dấu chân nàng in không đều trên cát chạy dằng dặc hút xa tầm mắt về phía cuối chân trời. Nàng hát, giọng trầm buồn. Hát rằng:

Đi qua cánh đồng liêu trai đàn bà

Vô tình tháng tháng năm trôi

chăm chỉ vạt tép vơ bèo

cần mẫn đào xới, cuốc cày...

Ai biết cơn khát chờ mưa?

Hững hờ lửa than

ủ trong chăn lạnh?

Giọng hát đầy trách mọc, giận hờn. Tôi bước ra đứng chặn trước mặt nàng. Đẹp quá trời! Lòng tôi rạo rực. Xốn xang. Thèm. Tôi nuốt nước bọt đánh ực. Trời sinh ra đàn bà để làm đàn ông phạm tội. Nàng cười với tôi, nụ cười hồn hậu, gần gũi. Nàng bảo: “Anh kéo hồ điệu Phồn huê mủi lòng quá. Khốn khổ cái thân đàn bà con gái chúng em thế đấy. Anh có nghe em vừa hát tiếp đoạn anh chơi dở không?”. Tôi gật đầu. “Em đi tìm anh mãi, bây giờ mới thấy”. Tình yêu sét đánh rồi. Nhìn cái mặt yêu quá. Tôi vươn người vồ lấy nàng, giống tư thế con báo đực đuổi theo con báo cái đúng tầm với. Hất tấm lưới rớt xuống bãi cát thạch anh tinh khôi, tôi và nàng quấn vào nhau như đôi rắn hổ mang mùa động dục. Nàng cắn ngập răng vào vai tôi. Đau nhói. Mặc kệ, khoái cảm đang trào dâng cuộn cuộn. Từng lớp từng lớp sóng biển ào ạt xô bờ. Dập dềnh như trên bè nứa thả trôi trên vịnh Bái Tử Long. Tôi vục đầu vào ngực nàng. Thơm tho. Nóng ấm. Cùng lúc ấy, linh tính mách bảo tôi rằng: Có những thằng đàn ông khác đang gương mắt hau háu thèm khát nhìn. Rồi tay tôi chạm phải nhiều bàn tay chai sần, thô ráp. Hoá ra, tôi đang nằm đè trên lưng những thằng đàn ông. Trên người nàng chồng lớp lớp đàn ông. Da thịt đàn ông va chạm cọ xát vào thịt da đàn ông, dơ quá. Bẽ bàng quá. Khốn nạn! Yêu với chả đương. Trời tru đất diệt cả thế giới đàn bà đi. Tôi ngã người sang bên. Cát chạm vào vai dằm dặm; cát vô hồn đâu biết nỗi sượng sùng, đau đớn của tôi. Tôi nhìn quanh lần nữa, chỉ có tôi và nàng trơ trọi trên cát. Nàng xuôi tay, bất lực, nằm ngửa lặng im như bức tượng trắng ngời ngợi ngắm trăng. Trăng cũng dòm nàng. Trăng đổ xoãi ánh bạc lên da thịt nàng, gió cũng quấn quýt mơn man cặp vú trần của nàng. Tôi hả hê, nhìn thấy vài vết máu đỏ tươi ngấm vào cát thạch anh trắng... Đột nhiên, lại mấy thằng đàn ông nhập nhoà hiện ra trước mắt tôi. Thế này là thế nào? Ma chắc? Các gã đàn ông cũng đang thoả mãn niềm vui trần thế nhìn vết máu tươi ngấm xuống cát. Không thể tin được. Tôi đập chân vào thành giường đau điếng, tê dại. Thức dậy. Hoá ra, là giấc mơ. Mồ hôi vã như tắm.

Sáng sớm hôm sau, nhìn cánh nhà văn trẻ, thân xác đứa nào cũng hao mòn, dật dờ; nét mặt đăm đăm, nghiêm cẩn. Thảng hoặc lại nở nụ cười thầm, khoảnh khắc ấy gương mặt rạng lên, đầy mãn nguyện, thích thú và bí ẩn.

Giữa lúc lòng tôi hồ nghi không dứt thì ông Trần đến đón cả bọn đi ăn sáng. Gió sớm thổi mát rượi, lật vạt áo ông Trần lên. Tôi nhìn thấy chỗ tì bầu hồ phía trên xương cạng hơi lõm xuống, đã chai sần. Tôi hỏi:

- Đêm qua, gặp tôi xong, ông vác hồ về sớm không?

- Chú này mê ngủ rồi. Đêm qua, ta mải kéo hồ, hơi sức đâu mà gặp chú.

Tôi chẳng hiểu ra làm sao cả. Nhìn ông Trần rất bình thường, đi lại nhanh nhẹn, lợi khẩu; tôi nghi ngờ cả bản thân tôi. Ông nhìn suốt lượt đám nhà văn trẻ, bảo:

- Các chú đêm qua có mơ thấy gì không?

Điệu cười khẩy hơi đểu, cứ như ông ta đã biết hết mọi chuyện, đang đi guốc trong bụng chúng tôi. Tôi đành thú thật, kể lại từ đầu đến cuối giấc mơ đêm qua. Cả bọn đều ồ lên và đứa nào cũng nói mình có giấc mơ giống hệt tôi.

Ông Trần bảo như mắng:

- Ấy đấy, cuộc đời lại ra nông nỗi ấy đấy. Bất ngờ. Sinh động. Bí ẩn lắm. Thế mà, buồn thay. Đám nhà văn trẻ các chú viết nhạt hoét, toàn những điều sống sít. Làm thằng đàn ông phải có danh. Đã lao vào nghệ thuật là phải hơn thua; nếu viết văn phải hay hơn những thằng khác; nếu chơi đàn thì thằng khác phải thua mình. Để bọn đàn bà con gái đã một lần đọc văn, một lần nghe đàn là không dứt được, đánh đổi cả cuộc đời theo mình.

Tôi buồn cười, nhận ra điều triết lý điên điên đang dạy dỗ đám người hậu thế từ ông Trần.

- Vậy xin hỏi: Ông đi dọc đường xuyên đảo kéo hồ là để quyến rũ con đàn bà nào, để hơn thua thằng đàn ông nào?

Ông Trần thở dài hàm chứa sự bí ẩn không lời:

- Có đàn bà đã khốn nạn rồi; không có, còn chó má hơn...

Ông Trần đánh trống lảng, kể câu chuyện liên quan đến giấc mơ đêm qua:

-…Các chú không biết chứ cái vụng biển này là vụng Đàn Bà, đồi kia là đồi Con Gái, bãi cát đây là bãi cát Khỏa Trần. Cái tên Đàn Bà, Con Gái, Khỏa Trần có từ bao giờ chẳng rõ, khi ông nội ta chim bé hin hin như quả ớt chỉ thiên đã thấy dân đảo gọi thế rồi. - Ơ này, cười cái đếch gì. Ông Trần nhíu mày; chúng tôi lại im bặt, nghe. - Linh thiêng. Huyền hoặc lắm.

Đàn Bà nguyên là cô gái trẻ cùng gia đình thuyền chài nào đó bị bọn hải tặc hiếp chết rồi quẳng xuống biển. Một buổi chiều tối, thân xác cô gái trôi dạt vào mỏm phía bắc đảo. Chẳng biết cô gái chết bao lâu mà da thịt vẫn tươi hồng, núm vú thắm như son, hai đùi dài thẳng trắng mịn hơi rạng ra. Vồng ngực, vai và eo bụng có nhiều vết răng cắn, tím bầm máu. Dân đảo chưa kịp chôn, sáng hôm sau mối đã đùn lên xác cô thành ngôi mộ hình người con gái khổng lồ.

Ông Trần chợt dừng kể, nheo nheo mắt lươn:

- Các chú dóng theo tay ta chỉ nhá. Có phải cái hình quả đồi con kia giống hệt người con gái nằm ngửa không?

Chúng tôi căng mắt nhìn. Tất cả à lên. Giống thật. Một quả đồi con gái nằm ngửa đón nắng sương, sinh khí của trời đất trăng sao.

- Các chú nhìn ra đồi con gái thì cứ gọi là đồi Con Gái; chứ người từng trải như ta lại nhìn ra đồi Đàn Bà.

Đám bạn tôi lau nhau, hỏi vì sao ông tinh tường đến thế.

- Chuyện ấy lúc khác. Ông Trần gạt đi, say sưa kể tiếp. - Dân đảo lẫn lộn, người thì kêu đồi Đàn Bà, kẻ thì gọi đồi Con Gái. Đàn ông, con trai đi qua đồi ấy, y như rằng đêm ấy, nằm mơ ngủ với người con gái đẹp không quen biết. Những thằng giai kéo lưới, đánh cá ở cái vụng này; chẳng biết sóng biển có vỗ mơn man vào quần lót hay không mà nhảy cẫng lên cởi bằng sạch quần áo, thân trần úp thìa, bò lê bò càng chà sát trên cát. Bãi cát có tên Khỏa Trần là vì vậy. Các chú lại cười à? Không nói điêu đâu, dạo ta còn trẻ làm thợ săn cá Mõm Lợn, ít nhất cũng chín chín lần như thế. Cái tay trưởng thôn Bắc còn hứng đến mức cởi quần áo cả đêm nằm úp thìa trên quả đồi Đàn Bà đấy. Ma mị vô cùng! Đàn bà nó mê dụ lắm! Chết rồi vẫn làm cho đàn ông chúng ta khốn khổ khốn nạn. Nhưng mà, thằng nào chưa bị đàn bà nó lừa dối thì chưa ra giống đàn ông.

Lại có chuyện này mới lạ. Một tối bức bối, ngột ngạt, oi nồng. Rồi sinh ra giông bão mịt mùng, sấm sét ì ùng, nhằng nhịt vệt sáng, mưa trút ào ạt. Nửa đêm tạnh, côn trùng rỉ rả, trời đất mát mẻ, dân vạn chài ngủ mê mệt. Sáng sớm dậy, đàn ông cả thôn đều hí hửng khoe nhau giấc mộng mình ân ái với người con gái đẹp trên đồi Đàn Bà. Có điều tức cười, ngồ ngộ. Ân ái xong, nàng bảo: Chàng về thì về, để lại cho thiếp cái sinh thực khí. Thiếu nó thiếp phát cuồng chạy rông, ngượng lắm. (Lại cười rồi. Các chú nhớ cho cái chi tiết: Cô gái cầu xin đàn ông...). Ngày hôm ấy, vạn chài kéo lưới, cá tôm bộn khoang, con nào con nấy tươi rói nhảy đanh đách. Dân đảo thấy ngôi mộ linh ứng, bèn lập bát hương, làm cái miếu kèo gỗ lợp cỏ gianh, thờ. Hương, vàng mã thờ thì rõ rồi, còn thêm đồ sinh thực khí nam đẽo bằng gỗ lim nữa. Cái sinh thực khí nam rất hoang dã, man dợ dài những 25 cm, chu vi to ngang cái khoanh đòn xóc gánh củi, sơn đỏ choét. Nhìn kỹ thấy ngồ ngộ, vui mắt. Cái đồ đàn ông chúng mình cũng có giá thật...

Các chú mà ra đảo đúng dịp Hội chài thôn Bắc, xem dân đảo tụ tập ở đồi Đàn Bà nhộn nhịp lắm. Người ta rước sinh thực khí nam từ trong miếu ra. Ông trưởng Vạn chài cởi hết quần áo, mình trần tô hô, tay cầm sinh thực khí nam chạy đi chạy lại chỉ khắp bốn phương nam bắc tây đông, rồi chỉ thẳng vào miếu nhiều lần. Cuối cùng, ông ta cầm sinh thực khí nam chạy đến khe lõm quả đồi chỗ hai chân người con gái rạng háng, đâm nhịp nhàng nhiều lần xuống khe lõm có cỏ lá kim ken dày xanh mướt mát viền xung quanh, cứ như chày giã xuống cối gạo...

Khói nhang bốc lên mù mịt; hương thơm ngào ngạt; dân vạn chài cúi rạp lưng cầu xin Bà phù hộ cho họ đánh bắt nhiều tôm lắm cá, đào được nhiều sa sùng. Quả nhiên, chiều tối thuyền cập bến cá Bắc đảo đầy khoang hải sản. Và rất bí ẩn, khi hội chài tan, dân đảo về hết thì lũ khỉ trên rừng lũ lượt kéo nhau đến đồi Đàn Bà; chúng cũng bắt chước hành lễ, cúng rước sinh thực khí nam... như dân vạn chài.

Ăn sáng xong, ông Trần đưa chúng tôi thăm giếng Ngọc. Giếng bị cỏ cây trùm xung quanh. Rêu xanh phong trên đá ong thành giếng. Nước trong vắt, vài ba đám bèo nhởn nhơ cùng rong rêu. Ông Trần cúi xuống khoả nước vốc lên tay. Ông bảo: “Nước giếng thiêng đấy. Các chú uống vào sẽ thấy nhẹ nhõm thanh thản vô cùng; mọi ham hố đời thường bay biến mất”. Chúng tôi làm theo, vốc nước rửa mặt và uống ừng ực. Quả thật! Lòng dạ đang nóng bỏng, cồn cào, mồ hôi nhễ nhại bay biến sạch. Mát mẻ lạ lùng.

Giếng Ngọc vốn là nơi mạch nước ngầm phun lên ở giữa đảo. Từ xưa, nước giếng thơm mát, trong lẻo, nhìn thấy sỏi đá dưới đáy và con rùa vàng đang rụt cổ ngủ. Nước giếng chứa một chất gì đó rất huyền hoặc, con trai uống vào kích thích da thịt nóng bừng. Lòng rộn rạo, xốn xang thèm muốn đàn bà con gái không kìm nén dược. Có điều lạ! Nước giếng Ngọc chỉ linh thiêng khi trăng non đầu tháng gác ngọn tre. Con gái Đoài thôn kén chồng xứ lạ, lén múc nước giếng cho người mình thương uống. Nước giếng Ngọc ngấm vào mạch máu tế bào, hoá thành sinh khí con trai, hứng tình tuyệt đỉnh. Người con trai sẽ đưa bạn tình lên chót đỉnh mê mẩn sung sướng hạnh phúc, để rồi đặt dấu chấm hết thời thiếu nữ.

Sau này, có thầy địa lý bên Tàu sang. Ban ngày đôi mắt chim cắt của gã dòm khắp đảo. Tối về nhà dân ở trọ, ngồi thềm hè đón gió Nam mà mình mẩy gã cứ bải hoải. Té ra, cái nước Nam này còn nhiều long mạch, huyệt thiêng sinh nhân kiệt. Nhìn thấy cái ang nước cô gái con chủ nhà vừa đi múc về, gã thò hai bàn tay vào vốc nước uống ừng rực. Ngửa mặt lên, trăng non đầu tháng đang treo trên ngọn tre. Chó cắn inh ỏi. Cô gái nhà lành đang mở cổng đón khách. Khách là một thương lái mặt sáng, từng trải. Khách mới, khách cũ chưa kịp chào nhau thì gã đã thấy người rậm rựt, thèm muốn con gái vô cùng. Gã chếnh choáng như người say rượu, nhưng còn đủ tỉnh táo đi khỏi nhà chủ để không vồ cô gái trẻ đẹp. Và gã đã vồ mụ nạ dòng đào sá sùng về nhà muộn đang chổng mông rửa ráy ở giếng đào. Gã tụt quần, cởi chuồng nồng nỗng rồi tốc váy mụ nạ dòng lên. Không chịu, mụ chi hô ầm ĩ; giai làng chạy đến, nện cho một trận tơi bời và đuổi gã khỏi thôn. Thì ra, thầy địa lý uống phải nước giếng Ngọc cô gái múc định cho chàng trai thương lái uống để cầm chân chàng ở lại đảo. Bẽ bàng và hận thù cộng lại thành quyết tâm triệt hạ đất đảo linh thiêng. Gã mời mấy tay phù thuỷ trên tàu buôn Trung Hoa xuống, bí mật gồng sức lại yểm. Giấy bản viết những ký tự lằng ngoằng, đọc âm u, đốt và thả than xuống. Đêm chớp sáng lòe rạch trời. Sáng hôm sau, dân đảo đi quảy nước sớm thấy con cóc cụ gớm giếc, da mọc gai, sần sùi to như thúng cái nổi lên. Khiếp quá! Chẳng ai dám uống nước giếng Ngọc nữa. Từ đó, giếng mất thiêng, lâu ngày bỏ cỏ mọc rêu phong, tù đọng. Con gái làng đảo mất luôn bảo bối.

Nghe ông Trần kể, chúng tôi sợ quá, nôn oẹ, móc họng. Thằng bạn tôi bảo:

- Ông đểu quá. Thế mà còn xui chúng tôi uống nước giếng.

- Đấy là huyền thoại. Tin làm đếch gì.

Yên lòng, tôi bảo ông Trần:

- Thu phục người mình thương không bằng da thịt, tâm hồn, trí tuệ mình mà phải mượn đến nước giếng cổ. Con gái xứ đảo này rẻ giá quá.

Tưởng ông Trần phật ý, tự ái. Ai dè ông tỉnh bơ, thủng thẳng nói:

- Cái giống đàn bà nói chung là xí xớn, đều phải cầu viện trang sức, mỹ phẩm hoặc siêu nhiên.

Đêm hôm đó, tôi cứ thao thức hoài không ngủ. Tôi nghĩ đến ông Trần láu cá. Ông ta vừa uyên bác vừa dân dã, ranh mãnh. Cái đảo nhỏ hoang dã chơi vơi ngoài khơi này có lắm điều lạ kỳ, bí ẩn không thể cắt nghĩa nổi.

Gần sáng, tôi mơ màng. Giấc mơ đến khó nhọc. Tôi lại bắt gặp người con gái hôm trước khoác lưới đánh cá trên bãi cát; rất mến yêu, nhưng tuyệt nhiên không hề có cảm giác chung chạ nam nữ. Nàng hát:

Trăng tà

trăng chẳng tỏ

Chàng đi khơi theo cánh buồm đỏ thắm,

em vò gối cùng chăn

Trăng tà

trăng không tỏ

Chàng vui vầy với gió cùng mây

Đắm say mùa cá nam động dục

Nổi nênh em một đời con gái

Cặp vú trần đêm thao thức

Ơ hờ cát trắng cháy khô...

Nàng ngừng hát, cười e lệ:

- Em biết, anh thế nào cũng ra đây.

Tôi bảo:

- Nàng hát hay hơn tiếng hồ ai oán hàng đêm trên đường xuyên đảo.

- Tiếng hồ ấy như tiếng bò hen. Em không nghe được. Tiếng hồ thật ở dưới bến chết lâu rồi.

Chúng tôi lên con thuyền nhỏ đang chao lắc nhẹ bởi sóng vỗ. Chông chênh trên ván gác thuyền tôi bước như kẻ mộng du. Thuyền thả trôi. Chúng tôi nằm trên sàn mũi gác đầu lên bai chèo, ngửa mặt lên bầu trời bàng bạc ngắm trăng. Trăng xanh xao, lạnh. Trời không có mây bay. Và sao cũng biến mất. Nàng bảo:

- Cảm ơn anh! Đêm qua, em biết thế nào là hạnh phúc ái ân khác giới, để thành đàn bà. Đêm nay, chúng mình ngắm trăng biển và làm tình nhé.

Nàng ôm choàng lấy tôi, người lạnh ngắt. Tôi rùng mình; chẳng có hứng thú gì hết. Một thoáng ngại ngần, xấu hổ chợt đến; không có cảm giác bừng bừng ân ái như lần trước. Đêm qua, tôi rất thô bạo đối với nàng.

Bất chợt, nàng ngồi dậy, thở dài se sẽ và kéo tấm lưới cá khoác lên người. Tôi vẫn nhận ra các đường cong mỹ miều qua mắt lưới; nhưng tịnh như không có một chút hưng phấn.

Nàng bảo:

- Cái lão Trần ấy, nó hại anh rồi. Có phải sáng nay, nó cho anh uống nước giếng Ngọc không?

- Phải. Uống no nữa đằng khác.

- Vậy là đời giai của anh vô cảm rồi. Cái giếng cổ ấy bỏ hoang, chẳng ai dám dùng. Từ khi giếng bị yểm, đàn ông múc nước uống thì diệt dục.

Tôi rùng mình, hoảng sợ. Toát mồ hôi. Tay chợt sờ xuống khoảng giữa hai háng chỉ thấy nhẵn thín, không thấy cái vòi đi đái. Tôi khóc ông ổng như cha chết mẹ chết.

- Em thương anh thật lòng. Em cho anh sự thật này, anh viết có khi anh trở thành nhà văn lớn.

Tôi lại thấy lòng nhẹ bẫng, không âm u, lo sợ nữa.

- Có phải nàng bước ra từ cái miếu trên đồi Con Gái kia không?

- Không! Em làm sao mà linh thiêng được thờ phụng như thế. Em là vợ lão Trần sáng nay dẫn các anh đi uống nước giếng Ngọc ấy.

Tôi lại rùng mình. Bỏ mẹ, mình lại mơ rồi. Ai lại đi tình tự với vợ ông Trần.

- Em khổ lắm. Phận đàn bà khổ lắm. Em chết lâu rồi. Người chết trẻ cứ trẻ mãi. Người ta không cắt dây trần thế cho em nên cứ phải hiện về.

- Nhưng sao lại ra nông nỗi này?

Nàng sụt sịt, gục đầu vào vai tôi. Tôi vỗ về, an ủi nàng vài câu. Nàng trấn tĩnh, rồi kể:

-... Lão Trần hơn em ba mươi tuổi. Ngày trước lão Trần là tay săn cá số một ở đảo này. Ham lắm, cửa khơi, luồng lạch, mùa cá nổi, mùa cá động dục... gã biết tường tận. Em lấy chồng vì phục lão giỏi. Đàn ông tài giỏi trong mắt đàn bà con gái ít học quê mùa lúc nào cũng đẹp lung linh, rất đáng phục. Đánh cá cũng là một nghề phải không anh; mà lão đánh cá giỏi nữa, phục quá đi chứ. Đám cưới em, ba ngày ba đêm, lão rước dâu bằng thuyền đánh cá, cả vạn chài rước em đi vòng quanh đảo. Chả có đám nào danh giá hơn.

Vậy mà, em bất hạnh. Em ra nông nỗi này là do cá Mõm Lợn. Anh không tin à? Miệng cá giống mõm lợn nên vạn chài gọi là cá Mõm Lợn. Săn cá Mõm Lợn phiêu lưu hoang mang, sợ hãi nhưng kỳ thú lắm. Khoảng tháng ba hoặc tháng tám âm lịch là cá Mõm Lợn rúc đầu vào vụng nước cát pha bùn tìm thức ăn. Chúng cày rũi, ăn rong biển, ốc, điệp hải sâm trắng, ghẹ,... Dân Vạn chài tinh thông nghề chỉ cần ngửi mùi cá xông lên có thể đoán biết được cá mòi, cá đối hay cá Mõm Lợn mà đánh bắt. Cá Mõm Lợn đi đơn hoặc từng đàn năm sáu con; có con nặng tới năm tạ, sức quẫy quật khởi không lưới nào chịu nổi. Thuyền nhỏ, đi đúng tầm cá ngóc lên thở nó đội luôn mạn thuyền, lật úp như bỡn.

Lão Trần - chồng em săn cá Mõm Lợn bằng lao phóng. Đầu lao là mũi sắt nhọn khoảng ba mươi phân, có ngạnh ngược như ngạnh lưỡi câu. Phía trên mũi sắt là tông có khuy tròn buộc một đầu dây, dây dải ra dài khoảng 50 mét; cuối đầu dây buộc vào một ống luồng to dài khoảng 60 cm gọi là Lỗng. Đầu lao được gắn với cán lao dài khoảng 3 mét. Cá ăn ngầm dưới mạn thuyền lâu phải nhô lên khỏi mặt nước thở. Trai ngư cầm vuốt dọc cán lao đâm theo tư thế phóng thật mạnh vào lưng hoặc đầu cá. Cá dính mũi lao bao giờ cũng phóng vùn vụt ngược ra phía biển. Em cầm bai chèo thuyền cật lực nhắm cái phao Lỗng mà theo, không nhanh là mất dấu. Cá chạy hết tầm, cũng là lúc cá mệt lại lao vào bờ, không động đậy nữa là cá chết hoặc lả. Chồng em kêu vạn chài đến trục vớt cá lên thuyền. Công việc săn cá thường là như thế. Nhưng hôm ấy, chẳng biết dây rợ thế nào ấy, nó quấn thắt nút cổ chân em. Khi cá Mõm Lợn bị chồng em phóng lao, nó hăng máu phóng vùn vụt ra ngoài khơi, nó kéo luôn em xuống biển. Em trở thành cái phao Lỗng thứ hai lướt băng băng theo con cá khổng lồ. Lão Trần không chèo thuyền theo cá đâu, anh ạ. Khi hết tầm; con cá Mõm Lợn quay lại phóng vào bờ. Em và cái phao Lỗng lướt theo con cá lần nữa. Dân Vạn chài trục cá và vớt em lên; dây chão nghiến da thịt chân em đến tận xương.

Làm ma cho em xong, lão Trần bỏ thuyền lên bờ; chấm dứt những ngày lênh đênh trên biển với cá mú. Vạn chài không ai biết cái chết bí ẩn của em; đến em, em còn không biết nữa là. Người thì bảo tai nạn nghề nghiệp; kẻ lại nói cái lão Trần nuôi mưu chằng dây thắt nút cổ chân vợ.

- Nhưng ăn ở với nhau có điều gì không?

- À. Chuyện buồn nhiều hơn vui.

Rồi nàng kể câu chuyện tình buồn trên đảo nhỏ. Giọng nàng lúc ai oán, lúc lạnh tanh, và cứ thầm thì nhỏ dần cho đến khi có bóng người lướt qua mặt làm tôi chợt thức giấc. Tôi thấy mình nằm ngửa trơ trơ ở khách sạn. Chẳng có chiếc thuyền và người con gái khoác áo lưới đánh cá nào. Toàn mộng với mị, ghê chết; người tôi bải hoải bài hoài. Tôi hình dung lại phần sau câu chuyện, định bụng sáng đi hỏi ông Trần cho ra nhẽ. Theo nàng thì: Nàng lấy chồng không có đêm tân hôn. Lão Trần, càng cường tráng bao nhiêu thì “chim” lão càng sun vòi bấy nhiêu. Lão vật vã trên cơ thể căng mẩy, tròn trịa, eo ót của đứa con gái đảo mặn mòi mười bẩy tuổi. Lão phát điên, ngoặm, cắn, vầy vò nàng suốt năm canh. Nàng đau đớn, chịu cực hình, nước mắt cứ trào ra giàn dụa. Cực thân nàng lắm!

Hết đêm, nàng tơ tướp như một cây chuối non bị bão biển. Còn lão Trần thì mệt mỏi, hai mắt thâm quầng. Lão bảo: “Em ở nhà, giữ gìn, bảo trọng. Ta lo lắm”. Nàng ngước mắt nhìn chồng, lòng thương nổi lên: “Anh đi, em ở nhà chờ. Sao phải lo?”. “Người ta bảo: Đàn ông đi biển mà vợ ở nhà ngoại tình thì thế nào cũng xảy ra bất trắc ở ngoài khơi”. Nàng lặng im, vân vê gấu áo, chỉ chực khóc.

Từ đó, lão ít về nhà; không ra khơi thì nằm lì dưới thuyền; thảng hoặc lão mới ăn nằm với vợ. Mỗi đêm chồng vợ là một lần nàng như bị cực hình. Khiếp sợ chồng, nhưng nàng vẫn thương.

Con gái đang sức xuân tràn trề, năm này qua năm khác, nhiều đêm không ngủ, thèm đàn ông vô kể. Nàng sống khép mình, ít giao du vì rất sợ ánh mắt đàn ông bốc vác ở bến cá hau háu nhìn. Nàng sợ tiếng hồ réo rắt ở cái thuyền buôn nào đó vọng lên. Chồng đang đi biển, nàng phải giữ mình.

Cho đến một đêm, lòng nàng như có ổ than hồng. Nàng ra giếng Ngọc múc nước tưới từ đầu đến chân; vẫn không dập tắt được ngọn lửa lòng. Nàng lướt thướt đi qua rừng trâm cổ thụ để về nhà. Những bóng đen lẩn quất rồi lẫn vào các gốc cây mà nàng không hề biết. Đêm chưa vào sâu. Dưới bến, thuyền buôn vẫn lập loè ánh lửa. Trăng mờ sáng. Tiếng hồ khi khoan khi nhặt, lúc nỉ non lúc nức nở làm nàng mê mẩn, không rời bước. Lưng tựa gốc trâm cổ thụ, nàng lắng nghe tiếng hồ ngân và lời người đàn ông xa vắng nỉ non. Hát rằng:

Tôi là cánh đồng khô hạn

khao khát cơn mưa rào tháng hạ

Tôi đi tìm

Chỉ thấy mưa bóng mây

xa ngái cuối chân trời

Có người con gái thức đêm

mòn gối

Thèm đàn ông...

Cái đẹp không bao giờ song hành cùng cái ác. Tai họa bủa vây lúc nàng mê mẩn rung nhịp đập con tim cùng tiếng hồ rạo rực. Những bóng đen cởi trần áo vắt vai chồm đến. Nắm lá trâm vò nát nhét vào miệng nàng không kêu được. Nước trâm đắng nhặng. Trước lúc phó mặc đời, nàng con kịp nhớ đến hình ảnh người chồng đêm tân hôn, nàng ứa nước mắt. Từng con đực thay nhau quần đảo vầy vò nàng. Nỗi khiếp sợ qua nhanh, cảm giác sướng thú dần dần lan tỏa.

Có con chim rừng giật mình thức giấc, bay vụt lên. Lá trâm rung xào xạc. Nàng ngước nhìn. Một khuôn mặt đàn ông âm u không rõ. Người đó lấy áo chua lòm mồ hôi lót xuống lưng nàng. Lá trâm khô hết lạo xạo dưới lưng, êm ái và mát. Mùi đàn ông hoi nồng xộc vào mũi nàng. Đấy là những gì nàng nhớ nhất trong đám đàn ông lạ dấu mặt. Và cánh đồng con gái hạn khô nứt nẻ được tưới nhuần có cả tiếng hồ từ dưới bến vọng lên. Nàng nghe rất rõ khúc hồ dồn dập rạo rực. Nàng trôi phiêu du cùng tiếng hồ và nhịp nhịp ái ân.

Gần sáng, nàng biến thành cây chuối đổ bão. Trong ánh sáng lờ mờ của trăng tàn lọt qua kẽ tán cây, nàng đau xót nhìn tấm thân trần căng mẩy của mình đầy thương tích, nhan nhản vết cào, véo, vết răng to nhỏ. Những bóng đen đến chóng bao nhiêu thì biến nhanh bấy nhiêu. Rừng trâm vắng lặng đến rợn người.

Sau trận bão đời, nàng lê bước về nhà. Lão Trần vẫn đang mê mải cá mú ở xó biển nào đấy. Sáng bạch, nàng vội thay quần áo để ném vào xó nhà, tẩy trần.Nhưng lạ chưa kìa, áo quần nàng vẫn ướt át dán vào người. Da thịt vẫn mẩy căng, tròn trịa không một chút xất xíu. Hai đùi vẫn trắng mịn màng như vừa niêm cất trong nhà lành ra. Không thể thế được. Nàng đã sống thực cảm giác cưỡng ép ân ái khác giới. Nó là đời sống trần tục chứ không phải là mơ. Hay là mình mộng du? Nàng không lý giải nổi chuyện gì đã xảy ra với mình.

Cảm giác sợ hãi và thích thúc trộn lẫn cứ đeo đẳng nàng suốt cả tuần. Như người ăn dở lúc nào cũng thòm thèm. Nàng cố quên, cố chạy trốn cái đêm rừng trâm nhập nhoạng ấy thì mùi đàn ông hoi nồng, cái áo lót dưới lưng chua lòm mồ hôi và tiếng hồ dạo dực lại cồn cào trở về. Nó làm nàng mê mẩn, bứt dứt không yên. Đêm đêm, nàng lại đến giếng Ngọc tắm, lướt thướt đi qua rừng trâm để lắng nghe tiếng hồ; nàng tựa lưng vào cây trâm cổ thụ và mong đợi mơ hồ cái điều gì đó xảy ra. Chẳng có gã đàn ông nào nữa, chỉ tiếng hồ vẫn từng đêm nức nở vẳng lại.

Ngoài khơi xa có bão.

Chiều tà. Ráng mỡ gà quầng ở chân trời rồi rực lên đỏ ối. Nàng thấp thỏm âu lo và cầu mong chồng bình yên. Một tuần, hai tuần chẳng thấy lão Trần về. Một tháng, nàng không còn kiên nhẫn đứng ở bãi cát ngóng ra ngoài khơi xa nữa thì lão về thật. Sóng đập vỡ thuyền, lão ôm được mảnh ván lênh đênh trên biển cho đến khi người ta cứu sống. Tả tơi. Rũ rượi. Gầy nhom như khỉ. Mặt quắt như ngón tay chéo. Chỉ có hai mắt là ra giống người. Nàng đổ cháo phục thuốc cho chồng, thêm một tuần nữa lão lại người.

Chồng nàng bảo:

- Đừng hòng qua mắt ta. Những ngày ta đi biển, em đã làm gì sai trái?

Nàng nhận ngay:

- Đêm, em ra giếng Ngọc tắm, đi qua rừng trâm về nhà. Tiếng hồ từ dưới bến vọng lên da diết lắm. Em cứ đứng dựa lưng vào cây trâm nghe.

- Có trai trên gái dưới không, dù là trong ý nghĩ?

- Em... khô... ông... chắc.

Nàng khóc và thuật lại cho chồng tất cả những gì đã xảy ra. Lão Trần khóc hu hu, vác phảng nhằm gốc trâm mà chặt, lóc ra từng mảng gỗ trắng vàng. Rừng trâm mênh mông, lão chặt sao cho hết.

Hôm sau, lão Trần bảo:

- Từ nay, em không ở nhà nữa. Đi biển với ta.

Nàng nhẫn nhịn, lẳng lặng theo chồng. Biển, muôn đời vẫn kỳ bí đối với con người. Chồng đánh cá, vợ chèo thuyền; đến bữa thì nấu cơm, chồng chan vợ húp; ấm áp bình yên.

Ở biển sự lãng mạn bao giờ cũng dạt dào hơn đất đảo. Đêm biển huyền hoặc, lung linh bởi trăng dát bạc và muôn triệu vì sao li ti rắc xuống nước. Gió mát phóng khoáng. Con người cởi mở, gần gũi với nhau hơn. Nhu cầu yêu và được yêu bộc lộ không giấu diếm, công khai dưới màn trời chiếu... sàn. Lão Trần và nàng - chồng trên vợ dưới tình tự ngay trên sàn thuyền mặc mùi cá mú, hơi biển mặn mòi xộc vào mũi. Phúc bảy mươi đời nhà lão Trần, chức năng đàn ông tự nhiên vận hành rất tốt. Đêm biển mới là đêm tân hôn. Nhưng, đúng lúc lão gần đến đỉnh hưng phấn nhất thì nàng bảo: “Anh lót cho em cái áo xuống dưới lưng”. Lão giật thột mình. Áo khỉ gì. Cần gì áo. Nàng nói như mê sảng: “Lót áo dưới lưng cho em đi. Thích lắm. Em nghe được cả tiếng hồ rạo rực từ dưới bến vọng đến”. Lão Trần suội người ngã vật sang bên. Thân xác mềm như bún. Hiểu ra rồi! Lão Trần ngóc đầu, gào to: “Cái thằng kéo hồ ấy là thằng chó nào? Nó hơn tôi điểm gì?”. Nàng giật mình tỉnh lại hết mơ màng, ôm lấy chồng van xin: “Người ta ở thuyền dưới bến. Em không biết”. Lão Trần gạt con vợ trẻ lăng loàn ra, đứng dậy đi đến mũi thuyền ngồi phịch xuống. Hai chân thả thõng đung đưa, lão quên là mình đang cởi chuồng nồng nỗng dưới ánh trăng bạc. Cay đắng quá! Dù là trong suy nghĩ, con đàn bà đã ân ái với ai, sẽ mang theo người ấy cùng xuống mồ.

Nàng khóc nức nở. Giận mình. Giận đời.

Lão Trần lầm lì không nói. Vợ chồng thức trắng đêm trên con thuyền nhỏ. Và hôm sau, ngày săn cá Mõm Lợn tôi vừa kể đoạn trên thành ngày định mệnh tăm tối... Nàng biến thành cái phao Lỗng bị con cá Mõm Lợn kéo đi vun vút ra khơi rồi lại vào bờ. Cái đẹp bị tàn phá giết chóc không thương tiếc...

Thưa bạn đọc!

Tôi chỉ cần chép nguyên những gì tai nghe mắt thấy ở đảo Man cũng đã thành thiên truyện ngắn. Nhưng, vẫn chưa yên tâm rời cái đảo xa, âm u, bí ẩn ấy. Tôi tìm đến nhà ông Trần.

Ông Trần đi vắng. Nhà tuyềnh toàng, cửa không đóng. Bất chợt, tôi bắt gặp cái áo cổ tròn vải diềm bâu và cái hồ bưng da kỳ đà treo trên vách. Tôi nhìn ra ngoài, đồi Con Gái nằm ngửa tênh hênh hứng sinh khí của biển đảo trăng sao trời đất.

Chuyến đi săn cuối cùng

1.

Anh cầm nỏ men bờ đầm Vạc ra sông Cái. Từ ngã ba sông xuống cửa biển thuyền xuôi khoảng hai giờ đồng hồ, còn ngược lên nương ngô nhà anh dưới chân đồi Con Rùa chỉ đun sôi siêu nước là đến. Đi tắt theo suối Yên Ca là về xóm Núi, vượt qua thung Dâu vào sâu nữa gặp bản của người Mường. Ngày trước, rừng còn nhiều thú, thỉnh thoảng ban đêm lợn rừng đi kiếm ăn lạc đường chạy qua cả quốc lộ Một. Từ ngày bạt núi mở rộng dốc Sây, công trường nổ mìn xay đá, thú rừng lánh sang mạn tây nam dãy Tam Điệp hết, riêng khỉ lông xám vẫn còn nhiều. Có lẽ khỉ tiến hoá thành người, khỉ gần người hoặc giống người nên khỉ không sợ người?

Núi rừng Tam Điệp dạo này không mưa. Đầm Vạc, sông Cái đang mùa nước cạn, mực nước thấp nhưng vẫn giữ được vẻ mênh mang vốn có từ ngàn xưa. Hai bên mép nước bờ sông, và mép nước các gò nổi trong đầm, bần chua mọc lưa thưa, bám rễ vào đất nâu sậm; thỉnh thoảng một đám cỏ ngạn mọc xen vào, xanh um.

Ngày anh còn bé, cha thường chèo thuyền thúng đưa anh đi săn vịt trời, mòng két ở đầm Vạc. Cứ vào độ tháng chín ta, cỏ ngạn bắt đầu lụi, hết đêm sang ngày sóng vỗ vào gốc cỏ ngạn, lúc nước rút củ ngạn chòi hẳn ra. Khi gió heo may tràn đến, vịt trời, mòng két di trú về đầm Vạc, sông Cái trốn đông, rúc đầu vào bờ, vào gò nổi trong đầm ăn củ ngạn. Mùa heo may cũng là mùa săn mòng két, vịt trời. Dân xóm Núi bắn vịt trời bằng súng săn hai nòng, thường nhằm vào đầu, bắn chết ngay mới hòng bắt được. Bắn gẫy cánh gẫy chân, nó bơi vào bãi lầy thụt ngụp hết mình chỉ để thò mỏ chìa hai lỗ mũi thở, trốn hàng giờ không chịu ngoi lên. Cha thường bắn vịt trời bằng nỏ săn, dủi do trúng cánh hay đùi, mũi tên vẫn mắc lại. Vịt trời mang luôn cả mũi tên bơi, lặn trốn bị vướng dong rêu, cành cây nên không bao giờ thoát cả. Bắn vịt trời phải bắn con cái. Con cái chết, con đực chẳng chịu bỏ đi, bao giờ cũng bay vòng trở lại, lảng vảng, lúc ngụp lặn, lúc bơi, quanh quẩn bên bạn tình. Bắn trúng con đực thì con cái bay mất tích luôn, không còn cơ hội săn tiếp.

Cái giống vịt trời rất lạ. Thời gian ấp trứng hầu như do vịt đực ấp, vịt con nở, vịt đực lại dẫn đi kiếm ăn để cho vịt cái dảnh dang, nhàn hạ tự kiếm mồi nuôi thân vỗ béo, thay lông rồi tiếp tục đẻ trứng. Cha anh bảo: “Cha nghiệm ra: Vịt đực là cái giống chung tình. Ví như: Con vịt cái không may chết thì vịt đực vẫn ấp trứng tận đến lúc nở, nuôi con đủ lông đủ cánh mới thôi. Chẳng may vịt đực chết thì vịt cái bỏ tổ trứng ấy ngay, đi tìm con vịt đực khác. Giống cái là cái loại bạc tình...” Anh nói: “Cha biểu gì con chẳng hiểu gì sất”. Cha anh thở dài: “Con còn nhỏ, đường đời chưa biết hết. Lớn lên nữa sẽ hiểu”...

Càng gần nương ngô, càng nhiều mùi hương lạ. Mùi hoi hoi, nồng nồng của giống cái đang mùa động dục lẫn mùi ngai ngái, ngon ngót của ngô non đọng sữa. Càng gần nương ngô, càng nhiều tiếng rào rạo, tiếng khẹc... khẹc của họ hàng hang hốc nhà khỉ. Anh chưa kịp giơ nỏ săn, hàng chục con khỉ đã rẽ cây chạy rào rào ôm bắp non chuồn lên rừng. Một con khỉ to lông mốc xám ra khỏi nương ngô cuối cùng. Anh đoán, nó cố tình thu hút sự chú ý của anh để kéo dài thời gian cho họ hàng nhà khỉ thoát thân. Anh xót của. Nương ngô xanh đang độ bắp đọng sữa, có bắp trổ sớm, râu bắt đầu heo héo cũng bị vặt toác bẹ, đạp gẫy rạp cây, bắp non bị gặm nham nhở rơi lỏng chỏng. Anh điên tiết, cầm nỏ săn rượt theo...

2.

Nỏ săn của cha để lại, hai chỗ tay cầm mồ hôi ra bắt màu nâu bóng từ ngày trước. Đã lâu không dùng đến nhưng cánh nỏ vẫn khoẻ và chắc. Cánh nỏ là gốc tre đực già chẻ đôi, vót nhẵn thuôn dần về hai đầu, dài nửa sải tay. Thân nỏ, cha làm bằng gỗ sến, còn lẫy nỏ là một mảnh sừng trâu. Mũi tên, cha cũng làm từ tre đực già, chọn đoạn thẳng, dóng dài; một đầu tên vót nhọn, một đầu gắn mảnh cật tre mỏng làm cánh lái.

Nhiều buổi hừng đông, chim chào mào đội mũ dải đen loách choách trên cây ổi trước nhà, cha gọi anh dậy tập bắn. Bài học đầu tiên: bắn những con gì, giống gì. Bài học thứ hai: lên dây nỏ. Lên dây nỏ phải thót bụng tì chuôi nỏ vào, gồng người từ từ căng bụng đẩy nỏ ra, đồng thời hai tay kéo dây mắc vào khấc hãm. Mũi tên đặt xuống rãnh nỏ ngay ngắn. Bài học thứ ba: gương súng, tỳ tay và ngắm vào điểm bắn. Cha làm mẫu. Phựt! Mũi tên lao đi. Con sẻ đậu ở cành dâu da rơi xuống đất...

Cha mẹ hầu như chưa bao giờ nặng tiếng với nhau. Duy nhất có một đêm, anh chợt thức giấc bởi tiếng gầm của cha: “Tôi sẽ chôn chặt trong lòng chuyện ấy. Nhưng tôi thề: trước khi chết tôi sẽ kể cho con trai tôi rõ...” Mẹ sụp xuống chân cha, van nài: “Đừng! Em xin mình! Mình đã tha thứ cho em ngay từ cái đêm đầu tiên em bước vào cái nhà này rồi mà. Sao mình còn nhắc lại?” “Nhưng mà tôi không làm sao quên được”. “Em xin mình. Mình đừng bắt con phải nghe...” Đêm đó mẹ ầm thầm, sụt sùi; còn cha ngồi lặng câm đến tận sáng. Khi đó anh còn bé lắm, anh chưa cắt nghĩa được chuyện gì đã xảy ra!

Tường nhà anh treo nhiều loại móng, vuốt, sừng, da thú... cha bắn từ hồi chưa cấm rừng. Mỗi lưu vật là một cuộc đời con thú; ngoài cha ra, chỉ có một người biết chúng đều là giống cái. Cha rất quý cái nỏ săn. Vậy mà đã có lần cha định bẻ cánh nỏ gãy làm hai.

3.

Đã nửa giờ đồng hồ, anh cầm nỏ săn đuổi theo con khỉ lông mốc xám. Rất lạ! Khi anh gương nỏ lên, ngắm; vừa bóp lẫy, con khỉ lông mốc đã rơi xuống; có thể nó rơi trước khi mũi tên lao ra một, hai giây gì đó và nằm bẹp dưới đất như chết. Anh khoác nỏ lên vai, đến nhặt chiến lợi phẩm thì bỗng nhiên nó nhoắt dậy, vụt tót lên cành cây cao. Cứ thế, nó như người nhử mồi, anh đuổi theo bắt bóng. Con khỉ đã thành tinh của rừng xanh thật rồi, nó nhanh nhẹn, tàng hình như ma. Mệt phờ râu cáo, anh nằm vật xuống gốc cây mã tiền bên bờ suối Yên Ca. Mồ hôi túa ra, hai gối mỏi và bàn chân sất xước rớm máu bởi gai cào. Khỉ thật! Đúng là khỉ thật! Nó cứ nhoàng nhoàng, ẩn hiện trước mắt. Và bây giờ, nó đang ngồi trên cành cây cao kia, dạng roác háng gãi sồn sột.

Hoá ra là con khỉ đực. Nó trêu ngươi anh? Nó đùa giỡn anh? Không! Anh nhầm. Chẳng lẽ con khỉ đực tinh ranh đã biết nhử anh đuổi theo để con khỉ cái lông đen và con nó tẩu thoát. Khá khen cho nghĩa phu thê, cho tình phụ tử, và lòng chung thuỷ của giống đực. Con khỉ cái có biết trời đất đã ban cho nó người chồng vĩ đại bậc nhất núi rừng Tam Điệp không?

Nghỉ đã! Anh toài người xuống vốc nước lên mặt. Nước suối ở chân núi Lò Vôi trong lành tinh khiết làm anh tỉnh táo hẳn ra và anh lại nằm ngửa trên cỏ xanh ngắm nhìn những tia nắng đang chiếu xiên qua kẽ hở vòm lá. Con khỉ lông mốc xám vẫn ngồi trên cành cây cao kia, nó không còn gãi háng nữa, nhìn anh. Anh nhìn lại. Con khỉ lông mốc xám, đít đỏ hon hỏn, trán nhăn nheo và hói, nó như một lão già gương mặt mang đầy dấu vết đày ải khắc nghiệt của thời gian.

4.

Lúc sắp chết, cha anh như ngọn đèn dầu lạc lụi dần, lụi dần. Cha gọi anh đến bên giường. Mặt cha hốc hác, hai mắt trũng sâu kéo lông mày xuống khỏi trán, mái tóc muối tiêu và má tóp lại..., chẳng tìm đâu sức sống trên gương mặt của cha. Ai cũng phải già cỗi, bệnh tật rồi chết, nhưng thời gian, mưa nắng và sóng gió cuộc đời tàn phá gương mặt cha đến thế này thì anh không tưởng tượng nổi. Hai giọt nước đục rịn ra hai khoé mắt, cha thều thào: “Cha đã định không nói. Cha sẽ mang theo xuống mồ. Nhưng con còn trẻ, con ngu ngơ mà cuộc đời đầy trắc ẩn, không lường hết được... Đến lúc chết, cha vẫn thương cái thân cha, thương con, thương những thằng đàn ông, con ạ. Con có nghe cha nói không? Có à. Con ơi. Con có biết cha đi săn cứ nhằm bắn giống cái không?”. “Đừng! Em xin mình...” Mẹ ở đâu đó lao vào, mẹ gục đầu vào lòng cha và cha không nói được nữa. “Đừng! Em xin mình! Đừng bắt con phải nghe...” Vẫn cái điệp khúc năm xưa mẹ van vỉ cha. “Mình đã thương em, mình đã im lặng cả cuộc đời. Em xin mình thương cho chót.” Cha vẫn câm lặng. Không gian trong cái nhà kín cửa che gió cũng dồn nén đặc quánh lại. Anh bàng hoàng quá. Anh lờ mờ hiểu ra cái điều cay đắng chịu đựng bao năm nay của cha. Bỗng mẹ ngồi dậy thở dài và mẹ quấn mái tóc sổ tung, xoã sượi lại: “Thôi! Tôi không xin mình nữa. Cả đời tôi, tôi lam lũ vì cái nhà này, tôi cúc cung chịu tội từ cái đêm đầu tiên tôi làm vợ mình, nhưng mình vẫn để bụng dai dẳng quá. Tôi cắn rơm cắn cỏ xin mình. Mình chẳng thương, tôi đành chịu.” Mẹ anh giơ tay áo quệt nước mắt và bước ra ngoài. “ Bu! - Anh nhìn thẳng vào mắt mẹ - Cha đang cần bu lúc này”. Anh nói và giữ tay mẹ lại. Bước chân mẹ ngần ngừ, do dự, mắt ầng ậng nước. May sao lúc đó cha anh bảo: “Mình ngồi lại. Tôi xử với mình tệ quá... Tệ quá!”.

Mẹ anh khóc và mắt anh cũng rơm rớm nước.

Cha anh mấp máy cặp môi khô: “Mình nằm xuống với tôi một lát đi”. Anh đỡ cha lui vào phía sát tường cho mẹ nằm bên cha. Cha nhấc tay phẩy như bảo anh đi ra ngoài. Mẹ nức nở, tức tưởi vì sự kìm nén được giải toả, mẹ khóc như chưa bao giờ được khóc. Cha bảo:“Mình! Mình đừng khóc nữa.” Mẹ vẫn khóc to. Cha vuốt vuốt mái tóc có nhiều sợi bạc của mẹ, một cử chỉ của người đang yêu, mới yêu: “Tôi thương mình! Mình có nghe tôi nói không? Bây giờ tôi mới yêu mình. Tôi yêu mình thực lòng mà”. Cha anh nói rành rẽ, tỉnh táo quá. Như ngọn đèn dầu cố cháy bùng lên trước khi lụi tắt, cha đang dồn hết tinh lực còn lại để nói những lời yêu thương với mẹ, lời nói yêu thương muộn mằn của người sắp chết.

Mẹ mừng rỡ, hỏi:“Mình tha tội cho em thật chứ?”. Cha gật đầu, bảo: “Mình đưa cho tôi cái nỏ săn.” Mẹ lo lắng kêu: “ớ các con ơi! Thầy chúng mày làm sao thế này.” “Không làm sao đâu. Mình chiều tôi đi, mình đưa cái nỏ săn cho tôi mà”. Cha anh van nài.

Anh từ ngoài thềm bước vào, đến bên tường lấy nỏ săn thay mẹ đưa cho cha. Cha cầm ngược nỏ săn: “Tôi bẻ gãy nỏ... mì...ình nhá”. Mẹ nấc lên: “Mại ơi! Thày mày sắp đi rồi!” Chưa bao giờ anh bình tĩnh như thế, anh nhìn kỹ thân hình cha. Cha co chân phải. Cha ngấc đầu, tì cánh nỏ vào đầu gối. Cha cố mắm môi, gồng sức bẻ. Cha kiệt sức, nằm vật xuống chõng tre. “Tôi không đủ sức rồi... mình ạ!”

Dường như bầu trời đã sụp xuống chân anh, bỗng chốc lại kéo vút lên xanh thẳm tầng từng không. Anh ra ngoài đầu thềm hè ngồi. Hoàng hôn đỏ ối nhuộm hồng một góc dãy núi Tam Điệp. Cha đã không bẻ nổi cái nỏ, cái nỏ săn cùng bao đau đớn, buồn vui đi theo suốt cuộc đời cha. Chưa bao giờ anh mong các chị và em gái về quây quần tụ họp như lúc đó.

5.

Loạt soạt. Lạo xạo. Rồi lại loạt soạt. Tiếng rẽ lá và bước chân trên cành khô làm anh giật thót mình. Tiếng động đánh thức cơn mộng mị đang chìm trong ký ức đưa anh trở lại với rừng. Lại một con thú nữa. Mùi hoi hoi của giống khỉ phảng phất. Có thể là một con cái đang mùa động dục. Anh gương nỏ và đặt ngón trỏ vào lẫy. Nhưng anh giật mình, anh chớp chớp rồi mở to mắt. Anh hoảng hồn và anh trấn tĩnh. Không thể tin được: một bờ vai đàn bà.

- Sim! Cô Sim. - Anh buột miệng gọi to.

- Ơ kìa. Anh Mại.

Sim chui khỏi lùm cây và bước ra chỗ trống. Dây quai sọt níu trễ một bên vai, mồ hôi nhễ nhại trên trán. Thì ra là Sim đi lấy lá thuốc cho chồng. Chồng Sim tên là Lùng ốm từ nhiều năm nay, gần đây thỉnh thoảng lại co giật. Lúc túng bấn, ốm đau quá, Lùng chịu không được quát mắng cả Sim. Có người độc miệng bảo Sim mang bệnh tật đến cho Lùng, nên thằng chồng ốm đau quặt quẹo từ ngày lấy vợ. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi:

- Cô Sim sống hạnh phúc chứ! Lùng có khoẻ không?

Dường như Sim không để ý. Cô thật thà nói:

- Nhờ trời, anh Lùng lúc nào cũng yêu thương. Nhà em vẫn khoẻ.

Anh biết Sim nói dối. Say rượu, Lùng vừa thượng cẳng chân hạ cẳng tay làm vợ thâm tím mặt mày vừa mắng chửi, nhiếc móc vợ. Sim được cái nhẫn nhục, chịu đựng. Biết vậy mà anh vẫn không buông tha:

- Vẫn khoẻ sao Sim phải đi lấy thuốc? Hay tìm sâm quý bồi bổ cho chồng!

- Em đi lấy củ bình vôi. Cái giống bình vôi mọc trên núi đá vôi này hiếm quá.

- Trên núi Lò Vôi ấy, ngày trước tôi và Lùng hay leo núi bắt sáo, thấy đầy.

Sim búi lại búi tóc đang sắp sổ tung. Cổ gáy lộ ra trắng quá. Sim vẫn đẹp. Cuộc sống vất vả ở vùng bán sơn địa này không làm dáng vẻ cô hao gầy. Gái một con trông mòn con mắt, Sim vẫn đẹp, đằm thắm và quyến rũ. Đôi vú đang lúc cương sữa, nhô cao, sữa rịn ra thấm ướt hai đám áo tròn như lòng bàn tay trước ngực. Sim vẫn khoác cái sọt đứng tựa vào gốc cây sồi già, gương mặt buồn quá. Một thoáng ân hận vì vừa lỡ lời móc máy, anh dịu giọng bảo:

- Thôi cô Sim về đi, kẻo người ta nhìn thấy.

- Anh vẫn cố ý tránh mặt em. Anh sợ mang tiếng à?

- Là tôi nói Sim về đi chẳng chồng em mong, con em chắc đang đói sữa đấy. Trẻ con đói sữa là nó quấy.

- Cái số em nó khổ thế. Giá ngày trước anh Mại đừng ra phố.

- Tại Sim không chờ tôi.

Sim nghẹn ngào, nước mắt ứa ra...

6.

Đêm tân hôn.

Lùng và Sim sùng sục trong buồng. Cái buồng ở xóm Núi nhà quê bao giờ cũng thiêu thiếu sáng. Lùng và Sim nhào vào nhau sung sướng, đam mê, hạnh phúc... Đến khi tỉnh ra, Lùng lột vội tờ giấy bản trải giữa chõng tre đã bị chà sát, dày vò nhàu nhĩ nhưng vẫn một màu trắng ngà. Một đám ươn ướt bằng lòng bàn tay không màu sắc loang ở giữa tờ giấy.

- Thế này là thế nào?- Lùng gào lên.

Sim sợ hãi, ôm chăn nem nép ở góc giường.

- Khốn nạn! Thế này là thế nào?

- Em không bi... ết!

- Hay là cô với... thằng Mại?

- Khô...ông!

Sim cũng gào lên rồi gục mặt vào gối cưới tức tưởi, nấc... Lùng đau đớn bước ra ngoài thềm hè ngồi. Đêm về sáng, núi rừng Tam Điệp tối đen mông lung, hoang dã càng làm cho Lùng đau đớn hơn.

Một lần, hai lần rồi nhiều lần Sim quỳ sưng đầu gối thề sống thề chết chưa một lần ăn nằm với thằng đàn ông nào... Lùng vẫn im lìm, lạnh tanh. Càng im lặng nỗi đau càng dồn nén chồng chất, Lùng thành kẻ vũ phu... Sim không thanh minh được, không san sẻ được cùng ai. Cái trinh trắng, quý giá của người con gái phải tự người đàn ông biết; giá như cái bánh bột lọc thì bóc ra cho chồng xem trước rồi mới cho chồng ăn...

Chuyện ấy qua lâu rồi, Sim ngậm đắng nuốt cay và gồng mình gánh chịu, đến khi không chịu được, Sim tìm đến anh, kể lể...

7.

Nếu ở hoàn cảnh như Lùng, anh sẽ xử sự với Sim như thế nào? Im lặng, chịu đựng? Hay phá tan cái gia đình vừa gây dựng nên? Anh không lấy mất sự trong trắng của Sim nên chẳng có tội với Lùng. Anh yêu Sim, ngồi bên nhau chỉ dám cầm tay, hôm nào nồng nàn quá không kìm nén được cũng chỉ vục mặt vào ngực Sim để hít no nê mùi da thịt con gái thôi. Anh đi học xa xóm Núi ra phố và muốn Sim cùng ra phố. Mẹ Sim già lão, một mẹ một con, bà không chịu cảnh chia xa. Sim nghe lời mẹ, phụ tình anh lấy chồng làng. Cũng may anh chưa làm gì nên tội. Anh không làm hại đời Sim nên mỗi khi biết Lùng đánh Sim, hành hạ Sim, anh cũng không quá khổ sở và ân hận mà chỉ thương.

- Không sống được với nhau thì bỏ.

- Còn còn con cái, còn nhiều cái ràng buộc lắm, anh Mại ạ.

Sim im lặng. Cả hai người im lặng. Bao tình cảm vui buồn, thù hận, yêu thương, bỗng ùa về lẫn lộn.

- Anh Mại có biết, nhà trai ở Hà Nội về nhà chú Hào ăn hỏi cái Thêm không?

- Em gái tôi còn nói: họ để ô tô ngoài đường cái, thuê xe ngựa về xóm Núi cơ.

- Thế nên anh Mại mới vác súng đi săn để tránh mặt?

Sim đã nói trúng ý nghĩ của anh, nhưng anh vẫn gồng lên:

- Nương ngô nhà tôi khỉ phá quá. Cô đừng nói làm tôi khổ thêm nữa. Tôi bạc tóc cũng vì người ta bạc tình.

- ...

8.

Mãn tang cha, mẹ giục anh lấy vợ. Mẹ đôn đáo ở làng trên xóm dưới tìm cho anh một cô gái chân quê. Một cô thợ cắt cỏ chưa đi khỏi làng bao giờ thì càng tốt. Anh cười bảo: “Sao cứ phải là quê mùa. Thời con gái, bu đã từng đi buôn vải cơ mà”. Dường như, anh đã chạm vào nỗi buồn của mẹ. “Vậy nên bu mới khổ cả đời. Đàn ông đàn ang các anh chỉ nghĩ đến cái thân mình mà chẳng thương thân người ta.” “Thế là bu trách thày con.” “Là bu nói thế. Thôi cứ để bu lo cho kẻo lại khổ truyền kiếp.” Nhưng mẹ vẫn không tìm được vợ cho anh.

Cho đến một buổi sáng đầu mùa hạ, sau chuyến xe ngựa từ làng ra, anh gặp “Chíp hôi” bên ngã ba đường chờ xe lên thành phố. Hôm ấy, nắng sớm, cỏ bên đường còn ngậm sương long lanh, vịt trời nháo nhác kiếm ăn trên đầm Vạc. Người làng Sơn Hạ đang quẩy quang gánh vào thung Dâu cắt cỏ tranh về lợp nhà. “Chíp hôi” cắp cặp, chân đi dép lê, tóc túm đuôi gà cháy nắng đỏ hoe, đôi mắt to đen, ngơ ngác. “Chíp hôi”gầy nhẳng, kẽ móng tay đen đúa đọng bùn đồng cỏ rửa chưa hết. “Chíp hôi” có một cái gì đó chất phác đến ngây thộn lại trắng trong, thuần khiết bên ông bố quê mùa, xách tay nải gạo thật thà như đếm. Cha “Chíp hôi” hồ hởi:

- May quá! Tôi nghe nói anh làm ăn ở ngoài đó, nhưng mà ngại không dám đến cậy nhờ. Cũng là người làng ta cả, hay là anh cho em nó theo ra Hà Nội với. Chứ ngoài đó lạ nước lạ cái, tôi đi cũng chả biết xoay sở thế nào.

Thì ra chú Hào đưa “Chíp hôi” ra Hà Nội tìm chỗ luyện thi vào đại học. Chuyện đó đối với anh chẳng khó khăn gì, được giúp người làng ở nơi xa xôi nhiều khi còn được tiếng, anh bảo:

- Chú Hào và em gái cứ yên tâm. Cháu cũng tiện đường mà. Em gái không ngại thì gần chỗ cháu làm cũng có một lò luyện thi.

Chú Hào mừng rỡ:

- Thật nhá! Thật nhá! Anh cho cái Thêm đi theo nhá. ối giời ơi! Quý hoá quá!

Người nhà quê thật thà, tin người nhưng nghèo, thường khi được giúp đỡ thì hàm ơn và mừng lắm, nhiều khi cái sự mừng lại thái quá. Anh khẽ liếc thấy đôi má “Chíp hôi” đỏ bừng lên, e thẹn. Cùng làng Sơn Hạ, nhà anh ở sát chân núi, bên đầm Vạc; chú Hào ở bên kia đồng Cỏ lối đi chợ Bút, xuống mạn biển. Lớn lên anh đi suốt, thỉnh thoảng mới về nhà, nên tầm tuổi như “Chíp hôi” anh không biết.

Căn hộ mười hai mét vuông tít tận tầng năm thuê đã nhiều năm, anh nhường cho “Chíp hôi” ở học ôn. Tiếng cười, tiếng nói, bàn tay của người con gái mới lớn làm căn hộ vốn quá đỗi cũ kỹ, tẻ nhạt, buồn thảm, bừa bộn trở nên mới mẻ, ấm cúng, vui và gọn gàng. Hai bữa trưa, tối anh leo cầu thang, đi chợ nấu cơm chờ “Chíp hôi” đi học về cùng ăn. Đêm, anh về phòng làm việc ở cơ quan ngủ. Cái điệp khúc ấy lặp đi lặp lại đúng một năm trời.

“Chíp hôi” vào đại học, cả nhà cô mừng quá. Chú Hào đến chơi, hàn huyên một lúc rồi chân tình nói với mẹ anh: “Con gái đi ra khỏi nhà lúc nào tôi lo lúc ấy. Các cụ ngày xưa bảo: Trâu ta ăn cỏ đồng ta, thằng Mại nhà bác mà ưng ý thì tôi giao phắt cái Thêm cho nó luôn.” Mẹ anh rầu rầu bảo: “Được thế thì quý hoá quá. Thằng Mại nhà này đường vợ con lận đận, quá lứa rồi. Liệu cô Thêm nhà chú có thương không.” Chú Hào gạt phắt:“Không thương mà được với tôi à. Ăn quả nhớ người trồng cây. Con Thêm nhà tôi được ăn trắng mặc trơn, nhởn nhơ ăn học sung sướng như thế là do anh Mại giúp. Cứ như ngày xưa thì bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy.” Mẹ anh nói chuyện mà cứ thở dài hăn hắt...

9.

Trời đã nửa chiều. Rừng Tam Điệp âm âm u u hoang dã. Con khỉ lông mốc xám đã biến mất từ lúc nào rồi. Anh quơ nỏ săn đứng dậy đi dọc bờ suối Yên Ca ra đầm Vạc. Cá đầu xanh nhiều vô kể từ trong khe Nước bơi ra kiếm hạt mã tiền ăn. Con đực to hơn trông có vẻ thô kệch nhẫn nại cắn hạt mã tiền mớm vào miệng con cái. Con cái nhỏ nhắn, xinh xẻo, mình bạc, vây bạc và hai môi đỏ hồng uốn éo, mơn trớn, làm duyên; mỗi lần được mớm lại ngoe ngẩy đuôi lao vút ra xa rồi vòng về bên con đực đang vục đầu xuống bùn kiếm hạt mã tiền mới. ở quê anh, cá đầu xanh, nhất là cá đầu xanh cái chỉ để ngắm chơi thôi, không ăn được, độc lắm.

Đi một hồi dọc bờ suối Yên Ca, cá đầu xanh hết, nhưng cua núi sẵn lắm. Đang mùa cua lột, nhiều con bấy dậy, mềm yếu bò nhẩn nha, giữ mình. Cua lột đều bấy dậy như nhau. Cua núi không lột, mo rất cứng, sống trong kẽ đá, thò hai mắt lồ trố và gương càng ra bắt mồi. Con cái mình to nhưng bễu. Con đực mình nhỏ nhưng chắc, và khoẻ, hai càng rắn đanh. Giống cua đực rất dữ, càng to đã kẹp chân con khác nghiến thì đứt đôi luôn. Cua đực được tiếng là chung tình. Dù nước trong hay đục, dù nắng hay mưa, cua đực cũng đứng canh chừng bảo vệ cho cua cái làm cuộc lột xác, rồi đi kiếm mồi nuôi bạn tình. Khốn nạn nhất là khi cua đực lột vào lúc mồi khan hiếm thì cua cái rủ cua đực khác đến gương càng xé xác cua đực lột ra cùng ăn... Ngày nhỏ, anh theo cha đi rừng. Bắt cua núi, cha thường chừa cua lột ra không bắt. Thỉnh thoảng cha nhòm vào giỏ, thấy cua đực lẫn vào, cha lại nhặt bỏ ra...

10.

Bạn bè anh, người khen “Chíp hôi” thật thà, hồn nhiên. Họ còn bảo anh tốt số, ăn về đường hậu lộc. Người nói: “Ôi dào ơi! Thiếu gì loại người ăn cháo đái bát. Đủ lông đủ cánh là nó vù. Không khéo cốc mò cò xơi. Anh chàng Mại chả dại gái một lần nữa cho mà xem.” Thôi thì đủ lời ra tiếng vào, bàn luận mối tình quá chênh lệch tuổi tác của anh và “Chíp hôi”. Thây kệ đời, thiếu gì người hiểu hoàn cảnh mình thương mình thật lòng nhưng cũng đầy ra loại đố kỵ chả muốn người khác hơn. Giá như “Chíp hôi” tuổi nhiều thêm chút nữa, giá như “Chíp hôi” sắc đẹp chỉ mức trung bình, thậm chí xâu xấu một tẹo, có khi người ta thương mình mà vun quén chứ ai nỡ đàm tiếu, phá ngang. Thoát khỏi đồng Cỏ, đầm Vạc, không phải ăn ngô, ăn sắn lát, rau dong, “Chíp hôi” lớn ngồng. Nước da trắng hồng, mặt rạng rỡ, tươi tắn, má hơi bầu; mỗi khi nói, lúm đồng tiền lõm xuống nhấp nhánh, đôi mắt to đen mơ màng làm bọn con trai cùng lớp ngẩn ngơ. “Chíp hôi” ra ở ký túc xá, nhưng chẳng tối thứ bẩy, chủ nhật nào vắng thiếu cô trong căn nhà anh thuê. Dáng người ấy, đôi mắt ấy, tình cảm ấy,“Chíp hôi” thổi sinh khí làm sống lại tâm hồn cằn cỗi vì đau đớn của anh. Anh lâng lâng sống trong niềm sung sướng, đam mê mới...

11.

Rừng mở toang ra trước mặt một khoảng trống đầy nắng. Anh nhìn thấy mây bay và vòm trời cao xanh. Khỉ cái và con nó đang ngồi trên hòn đá mồ côi sưởi nắng. Nó đang điềm nhiên tận hưởng niềm yên ổn do vị hôn phu mang lại khi đánh lạc hướng đi săn của anh. Anh vạch lá rón rén đến gần, nó vẫn không hay biết gì. Anh gương nỏ săn nhằm vào lưng khỉ cái và ngón tay trỏ từ từ... xiết lẫy. Có cái gì đó nhoáng qua điểm ngắm. Nhưng mũi tên đã lao vút đi rồi. Một tiếng kêu đau đớn ré lên. Không phải tiếng kêu của giống cái. Thì ra con khỉ đực vừa nhảy xuống, hứng trọn mũi tên, chịu thay khỉ cái. Có thể là cú nhảy tình cờ của khỉ đực lông mốc xám, cũng có thể là lòng hy sinh cao thượng của giống đực?

Không còn bóng dáng khỉ cái, nó đã bỏ bạn tình trong lúc hiểm nguy nhất để thoát thân. “Đồ bạc tình!” Anh chửi mắng và nỗi tức giận tràn dâng trong lòng. Con khỉ đực bị mũi xuyên vào bả vai, máu ra, đọng thành một vũng nhỏ trên mặt đá. Đau quá, nó rên khe khẽ và đưa đôi mắt đờ dại như van lơn, như cầu xin anh đừng đuổi theo giết bạn tình và đứa con nhỏ bé, dại khờ của nó. Một bắp ngô rơi ra lăn vào vũng máu. Nó biết lấy dây rừng buộc vòng quanh bụng và đi bẻ ngô non dắt vào. Sự cúc cung tận tụy của giống đực vừa cao cả vừa ngu xuẩn. Xót sa quá! Tàn nhẫn quá! Anh hối hận. Anh thấy mình u tối và có tội. “Người tốt như mày sẽ còn khổ, còn đau đớn nhiều vì sự dối lừa.”. Anh lẩm bẩm . “Ta sẽ phóng sinh mày, ta tìm cho mày một nơi yên ấm , mày hãy tránh xa cái giống cái bạc tình kia.”

Anh đi tìm lá thuốc dấu để dịt vết thương cho nó. Lòng vòng một lúc anh mới tìm được lá cây Ngọc Hoàn, dân xóm Núi gọi là Tu lình. Lá thuốc dấu này đắp vào vết thương là cầm máu ngay, không bị sưng, chỉ ít ngày sau liền miệng. Lúc đó, anh mới nhớ đã bỏ quên cái nỏ săn, không mang theo bên mình. Anh quay lại chỗ hòn đá mồ côi ở khoảng rừng trống. Một cảnh tượng đập vào mắt anh: Con khỉ cái đang cào cào chân trước vào vũng máu có bắp ngô non nằm lăn lóc. Nó tru lên những tiếng thổn thức. Không thấy con khỉ đực đâu, chả lẽ nó đã lết đi chỗ khác.

Con khỉ cái cau mày và cầm nỏ săn lên ngoạm mồm vào dây nhai nhai. Bộ răng hô chuyên gặm thức ăn nuôi thân, nuôi con chịu bất lực bởi dây nỏ làm bằng ruột mèo trắng được sao tẩm, vê săn kỹ rồi cất lên gác bếp hong khô, rất dẻo và dai. Nó phát khùng, ném nỏ săn xuống đất. Cùng lúc đó có tiếng khẹc... khẹc. Khỉ cái liền bỏ hòn đá mồ côi chạy về phía tiếng kêu ở gốc cây sồi. Anh cũng đến lấy cái nỏ săn tội nghiệp của mình.

Anh kinh ngạc không tin ở mắt mình: Khỉ cái nhe răng cắn chặt rút mũi tên ra và nhai lá thuốc đắp vào bả vai khỉ đực. Có tiếng rên khe khẽ như là đau đớn thật, như là nũng nịu hờn dỗi. Khỉ cái vin cành cây loà xoà ở bên bứt lá chụm lại như hình cái phễu; một tay cầm phễu lá, một tay nặn vú đang cương sữa. Sữa chảy vào phễu lá, rồi chảy xuống mồm khỉ đực. Một lát, con khỉ con ở đâu đó chạy đến, nó trố mắt nhìn nỗi đau của người cha và sán đến mẹ rúc đầu vào ngoạm núm vú. Khỉ mẹ gạt con ra. Khỉ con bú không đúng lúc, nó làm rối bận mẹ. Có thể nó rất đói, không được bú sữa mẹ vì phải chạy trốn cuộc săn đuổi của anh. Khỉ con lại rúc đầu vào bú, khỉ mẹ lại gạt ra. Mỗi lần gạt con không cho bú, khỉ mẹ lại nhăn trán, cau mày kêu khẹc... khẹc... như thể dằn lòng một cách đau đớn lắm... Cứ như vậy, đến lúc khỉ mẹ không chịu được, cáu tiết gạt mạnh làm khỉ con lăn lóc mấy vòng.

Gớm thật! Lúc này, sự sống còn của chồng và tình phu thê cần thiết hơn tình mẫu tử? Anh thoáng nghĩ nhanh và cầm nỏ săn nhăm nhăm bước đến. Thấy động, khỉ cái hốt hoảng. Anh đứng lù lù trước mặt nó và chĩa cái nỏ săn đã căng dây. Con khỉ cái chẳng mảy may sợ sệt, đứng hẳn lên che chắn cho khỉ đực bị thương và tay phải quơ vội khỉ con quặt về phía sau. Mắt anh và mắt khỉ cái đều rực lửa, ánh mắt phóng ra chạm vào nhau. Anh chĩa thẳng nỏ săn và ngón trỏ đặt vào lẫy nỏ. Kỳ lạ thay, khỉ cái không chạy, mở to mắt hết cỡ, ưỡn ngực che chở cho chồng con...

Tự nhiên trời đất chao đảo trên đầu, dưới chân anh. Anh cảm thấy mọi sự bon chen toan tính, bạc tình, mưu lợi của con người đều vô nghĩa hết. Bỗng dưng anh học được một bài học vô giá ở núi rừng Tam Điệp. Anh ngao ngán định vứt nỏ săn bỏ lại với rừng, nhưng nghĩ ngợi một lát, anh lại thôi.

12.

Năm học cuối cùng qua mau, anh và các bạn xúm vào lo cho “Chíp hôi” đi làm ở Hà Nội rồi vội vã đi công tác xa. Ba tháng sau, anh về không còn nhận ra người mình yêu thương nữa. “Chíp hôi”của anh đi giầy khủng bố, mặc áo te tua hở ngực lộ cả chân vú. “Chíp hôi” đánh son môi màu nâu Hàn Quốc, tóc nhuộm hoe hoe vàng... “Chíp hôi” ngồi trên xe máy Bones 125 sau lưng một chàng trai cùng cơ quan ăn mặc rất ngầu. Anh đau xót nhìn cái xe Cúp bãi dác, tiếc tiền không dám gửi ở tầng một, mỗi lần cất phải cài số vừa rồ ga vừa đẩy lên tầng năm. Sau này anh mới biết chàng trai ấy con một ông vụ trưởng.

Một vài lần gặp gỡ nữa, dăm ba câu hờ hững, vu vơ, nhạt phèo, “Chíp hôi” càng ngày càng xa anh rồi xa hẳn. Chú Hào biết, chú lồng lên Hà Nội và cha con cãi nhau. Chú Hào có lý của chú,“Chíp hôi” có lý của “Chíp hôi”. Vua thua đứa liều, có phải thời cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy đâu. Chú Hào đến gặp anh, mặt chú nhăn nhó, khổ sở, ngượng ngùng, nói lời xin lỗi. Chú bảo: Thôi con rể chẳng được thì chú nhận anh làm con trai. Anh biết chú Hào thật lòng, không đãi bôi, nhưng con rể chẳng xong, làm con trai phỏng có ích gì, thân phận này làm chưa nổi đổi lại làm thân phận khác chắc gì đã hay, ê chề lắm. Anh đau đớn nuốt nỗi buồn vào lòng.

13.

Hoàng hôn đã buông trên dãy núi Tam Điệp. Nỏ săn khoác một bên vai, tay nải có củ bình vôi lấy ở núi Lò Vôi khoác một bên vai, anh uể oải bước. Về đến đầu xóm Núi, mẹ anh đã chờ ở gốc cây dẻ, bảo:

- Người ta dòm thấy anh với con Sim ở suối Yên Ca, người ta về kể cho chồng nó nghe. Chuyện đã qua rồi, còn hẹn hò nhau ở rừng làm chi. Bu lùa dê đi qua nhà Lùng, thấy con Sim khóc lóc quá. Nhà Lùng tính hay ghen, ốm đau quặt quẹo thế mà phũ, chắc lại đánh vợ. Anh làm sao thì làm...

Tự nhiên máu trào lên mặt anh:

- Lại còn thế nữa. Tiên sư cái thằng Lùng. Bu cứ để con liệu.

- Anh đừng có liều đấy.

- Bu không phải lo.

Anh cầm luôn nỏ săn chạy lối tắt đến nhà Lùng.

Tiếng trẻ con cười, nói bi bô. Tiếng người ốm thở ậm ạch. Anh nhìn qua khe cửa. Tất cả diễn ra không như mẹ anh nói. Không cãi cọ, đánh chửi nhau. Người ta bảo vợ chồng nhà này như phường chèo, vừa vỡ mâm vỡ bát xong lại anh anh, ả ả. Anh không thể tin ở mắt mình: Ngọn nến cháy chập chờn toả sáng, người Lùng nhỏ thó, quắt queo, không còn cái dáng vâm váp của gấu rừng ngày xưa nữa. Sim đang vạch áo ấn núm vú vào miệng Lùng. Tay phải đỡ đầu, tay trái Sim nặn sữa. Người ốm bú tóp tép rất khó nhọc. Và ở bên là thằng bé níu áo mẹ, cười trơ lợi.

Anh không còn biết nói thế nào nữa. Đặt củ bình vôi ở thềm hè, anh lặng lẽ bước ra. Hoàng hôn vẫn đang ửng hồng. Anh leo cầu khỉ qua suối Yên Ca về nhà. Mải leo, mải nghĩ, anh vô tình để rơi tuột cái nỏ săn xuống suối. Anh thẫn thờ đứng giữa cầu nhìn trời, nhìn đất, nhìn núi rừng Tam Điệp, nhìn dòng suối Yên Ca đục trong, trong đục... khi hoàng hôn đang lụi dần.

Ánh trăng xanh trong lò mổ

Nhạc giao hưởng là cái gì đó xa xỉ với đám nhà nghèo và lạ hoắc với người giàu. Thói trưởng giả, tiền bạc có thể đầy ự, nhưng thưởng thức nhạc giao hưởng y như phèng la gõ tai trâu. Cả năm, dàn nhạc chỉ đôi ba lần biểu diễn. Nghệ sĩ đói dài. Tóa hỏa mỗi người chạy một nơi kiếm ăn: Biểu diễn phòng trà. Gia sư. Kèm cặp bọn trẻ thi vào nhạc viện… Đủ cả. Vẫn không lại với tiền thuê nhà và nuôi sống mình trong nội thành.

Chờ đợi. Ngóng trông. Hi vọng một cái gì đó rất xa vời.

Tôi xách va li, vác theo cái đàn ghi ta ra ngoại ô thành phố ở trọ.

Hàng xóm nhà tôi là một lò mổ heo. Lò mổ chứa đựng bao nhiêu thứ cặn bã thì cũng có bấy nhiêu tinh thơm cao quý. Nó là một mớ hổ lốn thật giả, xấu tốt, thiện ác. Nhàn vi cư cầm đàn, tiếng ghi ta của tôi thả ra không trung làm đám thợ mổ suốt ngày làm bạn với máu tươi, lòng mề, phân, nước đái hôi mù dỏng tai nghe. Hân hoan quá! Ít ra thì trong lúc bụng tôi rỗng không, cũng làm tươi xanh những tâm hồn cỗi cằn, mệt mỏi bên kia hàng rào. Ai bảo tiếng đàn không dẫn dụ, chinh phục được những anh đồ tể ít học, lấm láp, cục cằn?

Nhưng, đến ngày thứ tư thì tiếng đàn của tôi bị tiếng heo ở lò mổ át đi. Các ngày sau, tiếng heo rống càng thê thảm, oan ức, tức tưởi và càng to hơn, nuốt chửng tiếng đàn ghi ta, mà không cắt nghĩa được. Hóa ra, ông chủ lò mổ ghét tiếng đàn ghi ta của “thằng nhạc sĩ”. Ghét vì thợ dỏng tai nghe, mất việc làm. Ghét vì thằng ranh con da trắng gân xanh nổi đầy tay cứ ra vẻ ta đây là nghệ sĩ thả tiếng đàn ra coi khinh cái nghề mổ heo nhếch nhác của mình. Ghét vì mình thì trằn lưng kiếm từng đồng tiền lấm láp, nó thì cứ nằm khểnh chơi đàn tưng tửng. Ghét, ông chủ bảo: “Cứ mỗi lần đàn ghi ta của thằng nhạc sĩ cất lên, thì chúng bay chọc tiết heo cho tao. Hết máu con này thì chọc tiếp con khác cho nó tru rống lên, chỉ khi nào tiếng ghi ta im bặt thì thôi”.

Một sự thật thách đấu của gã quái sát sinh cậy giàu. Tôi tự ái và cảm thấy tổn thương. Tôi thi gan. Đàn suốt ngày đêm. Và tiếng heo tru rống vẫn ai oán, kinh hoàng không dứt.

Cho đến một ngày ông chủ lò mổ heo rinh về một chiếc đàn piano Yahama mới cứng cựa thì cuộc tỉ thí giữa tiếng đàn ghi ta và tiếng lợn rống mới đến hồi kết. Người ngồi chơi đàn dương cầm ấy là một cô nữ sinh viên khoa văn hóa quần chúng. Nàng bắt đầu một kì nghỉ hè và sống hoàn toàn bên chồng. Đám thợ mổ không xa lạ, xôn xao. Nhưng, tôi thì bất ngờ đến kinh ngạc.

Có điều gì thật trái khoáy trong gia đình ông chủ. Không cắt nghĩa nổi! Một người tinh tế, dịu dàng, lãng mạn mà lại lấy một kẻ gần như vô học, trưởng giả. Khớp vào nhau thử hỏi coi được không? Vậy mà, những điều phi lý tưởng chừng không có đất sống thì lại tồn tại ngang nhiên giữa trời quang mây tạnh ngay trong nhà ông chủ mổ heo.

Đêm đêm, bà chủ mặc áo dài màu hoàng yến ngồi trước cây đàn dương cầm dạo nhạc. Thấp thoáng qua dải đăng ten trắng muốt, tôi bắt gặp cái dáng ngồi hơi cúi, cong cong như vành trăng khuyết sa vào cửa sổ. Chỉ tội một nỗi là đàn mới mua cân chỉnh chưa chuẩn nên nhiều nốt bị phô. Cô chơi bản Sonata Moonlight giai điệu trở nên khàn đục, hơi chói tai, không diễn tả được khúc mơ tưởng. Ôi trời! Giá mà mình được sở hữu cái dương cầm ấy nhỉ? Điên tiết, tôi lôi ghi ta ra dạo luôn bản Xô nát Ánh trăng ấy. Mê mải đến mức, bà chủ lò mổ heo vạch hàng rào sang nhà tôi trọ, đứng ngẩn ngơ nhìn tôi đàn, và nghe đắm say. Chỉ khi gảy nốt cuối cùng và đi hợp âm chùm kết thúc thì tôi mới biết người đẹp đang đứng trước mặt.

Tôi trở thành thợ “lên dây đàn”, tôi thành gia sư cho bà chủ xinh đẹp. Tôi trở thành thân tình với gia đình ông chủ lò mổ heo từ đó. Tôi gọi nàng là Ánh Trăng Xanh.

* * *

Cứ năm giờ sáng là thợ lò mổ mài dao.

Cứ năm giờ sáng là bản nhạc Sonata Moonlight của Beethoven vang lên.

Cứ năm giờ sáng là ông chủ lò mổ heo thức dậy.

Thức dậy bởi ông chủ không ngủ được nữa. Đời sống được mấy nỗi mà cứ phải ngủ? Ngủ là biểu hiện của sự rã rời, mệt mỏi. Ngủ có cái gì đó như cầu an, yếm thế. Ông chủ lò mổ không yếm thế và cũng chẳng cầu an. Ông là một sinh thể hừng hực bản năng ham muốn luôn bị kìm hãm, o bế.

Ông chủ lò mổ có một hứng thú sát sinh và nghe nhạc cổ điển kỳ dị. Tiếng đàn dương cầm dạo bản xô nát Ánh trăng vang lên là đàn heo vón lại rống eng éc. Tiếng kêu khiếp đảm báo hiệu một sự chết chóc ghê rợn và tang thương. Nhưng bản nhạc Sonata Moonlight cứ tuôn chảy dào dạt trên những phím đàn trắng đen. Giai điệu êm nhẹ, dịu dàng như một dải khăn voan bạc vắt hờ hững trên non xanh đại ngàn. Lấp ló ánh trăng non vàng lúc mờ lúc tỏ trải rộng bao la xao xuyến trên thảo nguyên xanh rợn. Ánh sáng huyền ảo mơ màng dát vàng bạc xuống dòng sông dịu hiền uốn khúc. Ánh trăng tràn ra biển cả mênh mông và nô đùa trên sóng nước lăn tăn... Giai điệu dịu êm dẫn dắt người nghe đặt chân đến một thế giới mơ mộng huyền hoặc và trữ tình. Nó chỉ là khúc dạo đầu khi ông chủ chưa bước vào chuồng heo.

Không thể tưởng tượng được, nàng nữ sinh chân dài đã chuyển giai điệu Ánh trăng mê mị sang khúc mơ tưởng một nụ cười trong sáng mà buồn bã, cô đơn thê thảm thì đúng lúc ông chủ uống cạn bát rượu đế như một nghi lễ nghề nghiệp. Ông đi ủng đen cao gần đầu gối. Áo xắn quá khủyu, chìa cánh tay béo mũm mĩm. Các ngón ngắn tủn cầm chày gỗ lim dài một mét sẵn tư thế hạ thủ. Chả mấy chốc rượu ngấm, ông gồng thân, co rút cơ thể ục ịch… rắn đanh lại; cứ y như bao nhiêu mỡ bị vắt chảy đi hết. Người ông thành một khối chắc nịch đằng đằng sát khí. Ông chủ bước đến đằng đông, đàn heo sầm sập chạy tới phía đằng tây. Ông quay bước chân về phía nam, đàn heo cuống quýt dạt trôi phía bắc. Bỗng chốc, ám khí ngùn ngụt bốc lên dày đặc trại nuôi heo.

Và khi tiếng đàn vang lên dồn dập, nhanh mạnh hơn như chuyển sang một chân trời mới lạ thoát ra khỏi nỗi u buồn và cô độc, đau khổ gông cùm ở khúc cuối Sonata Moonlight thì chày lim chắc nịch vung lên. Độp. Một nhát chày ngang gáy. Một con heo quay lơ. Độp… Độp. Hai con heo đổ ập. Giãy đành đạch. Một tiếng e…éc. Hai tiếng kêu e… éc kéo dài rồi… tắt hẳn. Từng con một, từng con một… hóa kiếp, bước sang một vòng luân hồi khác. Thợ lò mổ chỉ còn việc túm hai chân sau các con heo kéo sền sệt, quẳng lên bàn mổ là sàn xi măng lạnh trơ cứng rồi… chọc tiết. Heo vừa chết không còn giẫy rụa. Chọc tiết nhàn nhã, ung dung. Máu xối ồng ộc. Bốc khói. Nóng hổi. Công việc tiếp theo là cạo lông. Bây giờ không ai còn đun nước nóng, nhúng cả con heo vào chảo nước sôi ùng ục nữa. Dao bầu mài sắc lẹm, cứ thế cạo sồn sột. Da lợn trắng ởn, nhưng chân lông vẫn còn nguyên. Ăn thịt heo ăn luôn cả chân lông. Hết tiếng ồng ộc máu xối xả thì cũng là khi tiếng đàn dạo bản Sonata Moonlight ngưng bặt. Tôi cảm thấy thân thể rã rời, người bạc nhược. Chim cò thụt ráo lại. Nhìn qua ô cửa sổ, tôi nhận ra cái dáng người nàng hơi cong hình trăng khuyết đã gập xuống thành chữ L xoãi trên bàn phím piano. Lúc này, cái áo màu hoàng yến đã nhợt đi và biến thành màu lá xanh xao. Tôi nhận ra nàng như một ánh trăng xanh bị giam hãm, cầm tù trong lò mổ heo.

Ông chủ lò mổ heo quay trở lại nhà lúc trời vẫn chưa sáng. Ủng đen lột khỏi chân. Quần áo trút khỏi người. Sau nửa giờ cầm chày lim đập vào gáy lợn và chọc tiết, ông chủ nhào vào nhà. Vợ ông vận áo dài tân thời đang gục đầu xuống nắp hộp đàn dương cầm. Ông kéo “ánh trăng” lên giường. Ông giúp Ánh Trăng Xanh thoát khỏi cõi âm thanh tràn đầy mộng tưởng, lãng mạn và khổ đau, buồn bã, cô đơn. Nàng mở hàng cúc chéo, lật vạt áo trước ngực và khỏa thân. Nàng nằm đườn đưỡn sẵn, như một thói quen đợi chờ chồng chằm bặp, vần vò. Lúc này, đến tạo hóa nhìn thấy cơ thể của hai người đàn ông đàn bà cũng phải bật cười. Ông chủ lò mổ heo và nàng là hai cá thể đối nghịch nhau cả thân xác và tâm hồn. Ánh Trăng Xanh đẹp. Chân dài trắng nuột nà. Ngón tay búp măng xinh xắn. Cổ cao trắng ngần. Ngực vun đầy. Hai vú tròn mẩy, căng nhức. Nhũ hoa tươi màu phấn hồng. Gương mặt sáng hình trái xoan, sống mũi nàng hơi cao, thẳng và thanh tú. Còn chồng nàng: Chân ngắn. Tay ngắn. Lưng cũng ngắn. Hai bàn tay chỉ có chín ngón ngắn tủn, đù đẫn như những quả chuối mắn to nhỏ khác nhau. Thân người ông ục ịch béo tròn. Mắt trắng dã trợn ngược giống y mắt heo đực. Giọng nói bao giờ cũng kèm theo âm đệm hộc… hộc cũng như heo rống. Ánh Trăng Xanh là con cái tươi mởn, tràn đầy sức sống. Còn chồng nàng là con đực lốp, bễu, mềm, bị phong bế ham muốn. Một quả không còi cọc mà lốp thì gieo trên phù sa màu mỡ, phì nhiêu cũng không thể nảy mầm.

Tôi hình dung Ánh Trăng Xanh đang bị cắn xé, vầy vò. Những tiếng hô…ộc… hô…ộc…của ông chủ lò mổ heo từ trên giường vọng ra. Đám thợ mổ heo người ngợm nóng bừng bứt rứt không yên thân. Âm thanh kỳ dị kích động khơi dậy bản năng tính dục lũ đàn ông vai u thịt bắp, thô tục. Mắt thằng nào cũng lấp lóa ánh đèn trong không gian lò mổ nửa tối nửa sáng. Gã thợ râu ria xanh rậm cứng như rễ tre, bặm trợn, gan lì đang chọc tiết heo cũng xốn xang, nôn nao lòng dạ. Dỏng tai nghe thứ âm thanh khàn đục rạo rực đến mức dao chọc vào tim heo rồi mà gã quên không rút cán ra cho máu xối vào chậu. Một thằng nhà quê mới vô lò mổ không chịu nổi cơn kích động đàn ông, kêu rống lên như bò bị cắt tiết. Thằng ấy ôm hạ bộ chạy bịch bịch đến góc nhà bê nguyên cả thùng đá lạnh đang tan đổ ào lên cả quần áo để hạ hỏa, đến mức nước lạnh thì tóe ra còn đá cục rơi lỏng chỏng xuống sàn xi măng đầy lông heo và máu me. Con bé Ô sin đang lúi húi quét lông lợn, cũng bị một bàn tay rậm lông lá, trơn nhờn mỡ lợn bất chợt thọc vào ngực, bóp vú đau điếng. Tôi ở bên này hàng rào không chịu được, nhảy đại vào bể nước, chìm nghỉm, mãi mới ngóc lên được.

Rất may, đúng lúc chiếc xe máy đầu tiên rồ ga vào tận sân lấy thịt heo cắt đứt cơn động đực của đám thợ mổ. Xúc cảm tính dục xa gần, ngân nga thêm chút nữa, yếu dần rồi tắt hẳn. Cũng là khi ô tô tải hạng nhẹ, xích lô, cả xe đạp hối hả đến lấy thịt chuyển đi các nơi. Rồi lần lượt giáng oạch oạch từng con một lên cân tấn, tịnh từng mã sau đấy lại hò nhau quẳng lên ô tô. Lò mổ heo bỗng chốc như cái chợ nhỏ. Nhốn nháo. Nhộn nhạo. Và dường như lúc ấy, những tiếng tru hô…ộc… hộc trong nhà cũng tắt hẳn.

Một ngày bận rộn, mệt mỏi trôi qua. Buổi tối, nàng Ánh Trăng Xanh nằm chềnh ềnh trên giường ga nệm Hàn Quốc trắng phau phau cho con bé Ô sin mát xa như thường lệ. Hai bờ vai trần nuột nà. Cổ áo khoét rộng và sâu. Váy ngủ màu mỡ gà óng ả tụt ra. Tênh hênh. Hở hang. Vết cào xước ở đùi non, ở bụng thon, ở eo thắt. Vết răng cắn tìm bầm ở ngực, ở vú… Tấm thân ngọc ngà của nàng bị chà sát, vày vò. Tàn bạo. Không nỡ lòng nào và con Ô sin cũng chẳng dám đấm, véo, vỗ vào cơ thể tràn đầy sức sống hằn thương tích của nàng. Con giúp việc ấy sức dầu xoa bóp đông y lên da thịt người đẹp. Nhẹ nhàng. Mơn trớn. Một lúc da trắng mịn nhiều thương tích của nàng nóng bừng.

* * *

Mọi việc ở lò mổ heo xáo tung lên tất cả bắt đầu từ lúc thằng vai u thịt bắp mồ hôi dầu xuất hiện. Tôi ghét. Tôi ghen tị. Tôi gọi nó là thằng Vai U. Thằng Vai U cao một mét bảy tư. Vồng ngực xếp đầy thịt rắn chắc như ngực trần Hecquyn. Bắp đùi dế của cầu thủ bóng đá. Và đôi bàn tay rắn cứng quẳng liên tục những con lợn gần một tạ lên sàn xi măng không biết mệt. Vai U bế nàng Ánh Trăng Xanh nhẹ nhàng như thằng tôi cầm bó hoa lay dơn trong ngày sinh nhật. Thằng này vận động viên ném đĩa biên chế ở Trung tâm thể dục thể thao. Hơi đần độn, chỉ được cái khỏe mạnh, cường tráng. “Đầu óc ngu si tứ chi phát triển”, văn chương không đọc, phim truyện, sân khấu không xem, truyền hình không ngó. Ban ngày tập luyện, tối ngủ khò, đêm về sáng đến lò mổ heo làm thêm kiếm tiền ăn học.

Lúc thằng này mới bước vào sân lò mổ đã vênh vênh cái mặt, mũi khịt khịt. Một anh thợ mổ đang mài dao, ngước mặt, hỏi:

“Khiếp mùi phân heo a?”

“Không! Tôi thấy âm u, lạnh lẽo quá.”

Anh thợ lò mồ ngửa mặt cười sằng sặc, rồi bảo:

“Thằng cha này nói lạ. Lò mổ heo, lúc nào khí sát sinh cũng bốc lên ngùn ngụt”.

“Tôi không nói dóc đâu. Âm khí cuồn cuộn đấy. Tôi sẽ làm cho cái lò mổ này sôi lên sùng sục”.

Thằng Vai U ngạo mạn. Nó sẽ làm được gì trong cái lò mổ heo này? Cùng lắm là khiêng lợn, cạo lông, tuồn lòng. Vậy mà, nhãn tiền hiểm họa là khi thằng Vai U nhìn bà chủ đăm đắm. Ánh mắt đàn ông vâm váp hút hồn người đàn bà trẻ óng ả. Mặt bà chủ đờ đẫn, bối rối trước thằng Vai U bắp thịt cuồn cuộn. Thằng này liền giả tảng không biết những xáo động trong lòng nàng? Giá như ông chủ lò mổ về bắt gặp cảnh tượng này nhỉ? Thằng Vai U sẽ nghỉ làm ngay tức khắc. Lúc đó, tôi chỉ muốn lao đến nhảy vào giữa hai người, tách họ ra thật xa, chẳng hạn như thằng trai nhảy ra tận rừng rú mỏm địa đầu Lũng Cú, còn nàng sống tận chót Mũi Cà Mau.

Con Ô sin sang gọi tôi chỉnh dây đàn cho bà chủ. Con này ghê thật. Nó dám thuật lại những gì nó nhìn thấy trên da thịt người đẹp để đánh vào lòng trắc ẩn của tôi, đánh vào sự bất lực tuyệt vọng của tôi. Cứ như bảo rằng: “Đàn ông như anh hèn lắm. Nhìn thấy cái sự sỗ sàng mà cứ gương cộ mắt nhìn”. Cái mặt con bé giúp việc này câng câng, hờn dỗi:

“Lúc này, đang cần người giúp bà chủ thoát khỏi tình cảnh này. Anh không ra tay thì có người khác đấy.”

Tôi cười gượng, khuôn miệng méo mó và thảm hại:

“Ai làm nổi anh hùng cứu mỹ nhân giữa đám thợ mổ heo thô lậu này?”

“Em chỉ biết thằng Vai U nghe anh đàn xong, biểu: Cái trò tán gái rẻ tiền quá. Nhạc với nhẽo thì làm nên nông nỗi gì! Thằng ấy biểu anh: Chẳng hiếu đếch gì đàn bà!”

Tôi tím bầm mặt, nhưng vẫn cố gượng cười.

Tôi lò dò sang. Nàng bảo:

“Em cảm ơn anh, mỗi ngày tặng em một bông hoa”.

Những bông hoa ấy tôi nhờ con Ô sin mua giùm. Cứ mỗi ngày nó mang hộ tôi đến tặng nàng một bông hồng trắng. Nắng cũng như mưa, ngày nào nó cũng làm tròn phận sự và ông chủ hoàn toàn không biết, cứ ngỡ hoa nhà mình do vợ bảo con giúp việc mua.

“Anh sẽ tặng hoa em suốt đời”.

“Nhưng em cần cái khác cơ”.

Nói rồi nàng khóc. Nàng vạch áo chìa eo, ngực, kéo tụt quần hở mông, đùi. Những vết cào xước, vết răng cắn bầm tím vẫn còn in trên làn da trắng nõn. Tôi không lạ gì những vết bầm tím này. Tối hôm trước, ông chủ đi miền Tây ký hợp đồng thu mua heo, nàng xé rào sang với tôi. Đêm thanh vắng. Nàng khỏa thân. Và dâng hiến. Nuột nà. Căng mẩy. Trinh nguyên. Những vết bầm tím dù đã hơi mờ nhưng cũng làm nhói lòng tôi. Đúng lúc tôi rạo rực, cuồng mê nhất thì tiếng heo éc…éc… tru rống lên như bị chọc tiết. Mất hứng. Người bải hoải, rũ như tàu lá chuối non nhúng nước sôi. Chim nhẽo nhèo, nhũn như con đỉa. Nàng tức tưởi khóc. Những giọt nước mắt tủi phận, ai oán, tiếc nuối bởi khát vọng ái ân cháy bỏng không thành. Tôi đã mặc áo lại cho nàng. Tôi xót xa. Ái ngại. Tôi đụng phải vết bầm nơi cánh tay trần đang xỏ ống áo. Nàng rụt tay lại kêu đau. Tôi nhìn nàng ai oán:

“Tiên sư thằng chồng em bệnh hoạn”.

“Đừng anh. Tuy thế, nhưng ảnh hết lòng yêu em”.

“Nên em cứ định sống mãi trong địa ngục trần gian ấy?”

“Thì biết tính sao? Hay anh với em bỏ trốn khỏi nơi nầy đi”.

Bỏ trốn! Tôi thuỗn mặt ra. Tôi là nghệ sĩ biểu diễn dương cầm thất nghiệp. Nhạc giao hưởng không nuôi nổi tôi, huống chi nuôi thêm người nữa. Giàu thì sang. Nghèo thì hèn. Tôi đang nghèo. Chưa kiếm được cái cần câu cơm. Lò mổ heo với tiếng heo rống eng éc không cần nhạc giao hưởng. Tôi bảo:

“Anh là thân ốc chẳng lo nổi mình ốc sao mang cọc cho rêu…”

“Đừng nghĩ phải cưu mang em”, nàng âu sầu, thở dài, “Em không cần những bông hoa của anh nữa. Anh là đồ hèn”.

Nàng mắng tôi rồi quay ngoắt bước về nhà.

Tôi bế tắc. Tôi buồn bã. Tôi nhớ đến thằng Vai U cứ như bóng ma lẩn khuất trong lò mổ heo. Tôi vớ cây đàn ghi ta trên vách, bập bùng so dây. Tôi chơi lại bản Xô nát Ánh trăng trong tâm thế buồn mênh mang xa vắng.

Thằng Vai U đứng ở sân nói chõ qua ô cửa sổ:

“Tiếng đàn của anh mềm yếu, lả lướt quá. Ích tóp gì!”.

“Giàu có như ông chủ lò mổ heo thì ích tóp à?”

Thằng Vai U cười khẩy:

“Tiền không phải là tất cả, nhá! Cả anh, cả gã chủ lò mổ đều là những thằng đàn ông vô tích sự.”

Tôi phớt lờ, không trả lời, càng đánh đàn càng tức nghẹn cổ. Thằng Vai U nhún vai, bỏ vào lò mổ.

Tôi ngồi bệt ở nhà, chơi đàn liền ba ngày thì ông chủ lò mổ về. Mặt ông đỏ từng bừng, chắc là uống rượu quá chén. Nghe tôi đờn xót xa quá, ông bảo:

“Cái giống nhạc nhẽo chú em đờn, nghe nẫu ruột. Nó hợp với hoa và con gái đẹp. Nhưng mà chú cũng là người lưỡng lự, không quyết đoán. Người như chú em thì thiệt thòi suốt đời. Miếng ăn ngon đến miệng lại tuột đi. Chú em là thằng hèn. Tui còn hèn hơn”.

Tôi giật thót mình. Có phải ông chủ đã linh cảm thấy sự hiểm nguy đang rình rập và lo ngại bởi cái mặt nhơn nhơn của thằng Vai U xuất hiện? Có phải ông chủ đã biết những bông hoa mỗi sáng tôi tặng nàng Ánh Trăng Xanh? Có phải ông chủ biết người vợ trẻ đã xé rào sang với tôi? Nhìn tôi đăm đăm, cái nhìn như mách bảo đã nhòm thấy hết lục phủ ngũ tạng của tôi. Ông âu sầu, bảo:

“Buồn. Buồn. Tui cứ sáu câu vọng cổ tui mần, chứ không ẻo lả đờn như chú em”.

“Sao ông còn bắt vợ đàn bản nhạc ấy mỗi khi ông cầm chày sát sinh?”.

“Nó là nghi lễ, nó là nỗi bức xúc lòng tôi không được giải thoát mừ. Với lại, để tạo cho chú em một ấn tượng mạnh, thêm vốn sống mà viết. Chú em có thể viết được một bản giao hưởng thật hay về số phận con người.

Nói xong, ông chủ cao hứng hát luôn sáu câu vọng cổ và đổ liền một mạch, không ngắt hơi, nghe buồn não nề: Cái em cần thời anh hổng có. Cái anh có thời em hổng cần... Em ở bên anh đêm dài ngày ngắn như đôi đũa lệch vênh so so mãi chẳng… vừa. Tằng tằng… tăng tăng…tăng tẳng tăng… tằng.

Ông chủ bảo:

“Lò mổ heo nhà tui phải là một môi trường văn hóa nghệ thuật. Sẽ có cả cải lương, bài chòi, chèo, quan họ, nhưng cũng có nhạc cổ điển. Tiếng nhạc sẽ đầy ắp từ trang trại nuôi heo vào trong phòng ngủ của tui đến tận lò sát sinh. Vợ tui sẽ đắm chìm trong âm nhạc, nàng sẽ không bao giờ xa tui. Bây giờ tui học sẽ Lã Bất Vi và Mạnh Thường Quân đãi khách. Cứ hàn nho, sĩ tử, nghệ sĩ nào thất cơ lỡ vận thì đến đây tui nuôi tuốt. Chú em đồng ý thời dọn sang nhà tui đi. Chỉ mong họ và chú em sáng tác được những tác phẩm lớn cho đời.”.

Tự nhiên tôi thấy tôi hèn quá. Nhạc sĩ mà hèn thì sáng tác sao nổi? Rồi sẽ đến lúc sáng tác èo uột, nịnh hót, vô hồn và cân chỉnh âm đàn vốn là sở trường cũng không làm nổi. Người đàn bà đẹp, màu mỡ cũng y như là cây xanh tươi tốt. Cây xanh tươi tốt không được chăm sóc, tưới nhuần thì cây héo hon.

* * *

Ánh Trăng Xanh vẫn không chửa đẻ con cái. Tiếng đàn mơ tưởng vẫn ngân nga lúc nhập nhoạng tối trời. Những con heo vẫn hóa kiếp luân hồi. Và tiếng hộ…ộc… hộ…ộc của chồng nàng vẫn tru rống lên như heo sắp chết. Lò mổ cũ kỹ không có gì đổi thay trong sự ngưng đọng và mòn mỏi. Thằng Vai U xuất hiện làm đảo lộn cả cuộc sống lò mổ heo cũ kỹ cũng là điều dễ hiểu.

Thằng này không ngần ngại bảo:

“Cái nhà này kỳ dị. Sát sinh heo trong tiếng đàn dương cầm thì thật là quái đản”.

“Tất cả là bắt đầu từ em”.

Hai người mới gặp đã gọi nhau, xưng anh em ngọt xớt, dù bà chủ hơn thằng Vai U mấy tuổi. Thằng này đặt hai tay choàng eo nàng, bảo:

“Anh không thể hiểu nổi những con người ở đây. Lạ quá!”.

“Em biểu chồng em rằng: Ông Beethoven viết Sanata Moonlight tặng nàng nữ sinh mười bẩy tuổi Giulietta Guicciardi. Nàng ta yêu thầy dạy nhạc Beethoven nhưng lại bỏ đi lấy chồng vì nàng con quý tộc thượng lưu còn chàng dù thiên tài nổi tiếng nhưng con nhà bần hàn, lại bị điếc đặc. Chênh lệch địa vị sang hèn đã chia ly họ mỗi người một nơi. Beethoven viết Sonata Moonlight đã làm cho một nàng tiểu thư dớ dẩn có tên Giulietta Guicciardi bất tử thế đấy. Anh có gì để em bất tử từ cái lò mổ heo này không nào?

Nhắc đến lò mổ heo, chồng em mặc cảm đỏ mặt. Anh ấy chỉ thạo sát sinh, nhìn con nhiều nạc, con nhiều mỡ biết ngay, nhưng âm nhạc thì lơ mơ. Nghĩ một lát, chồng em bảo: Cái bản nhạc ấy nói lên điều gì? Em bảo: Mỗi người cảm nhận và hiểu một vẻ đẹp khác nhau. Em thì cho rằng đó là khúc mơ tưởng về một người tình lãng mạn, trong sáng với nỗi buồn bã, đau đớn, chia ly, cô đơn tận cùng cô đơn và vượt thoát. Chồng em biểu: Em và anh cũng lệch chênh nghề nghiệp, địa vị sang hèn đấy. Mỗi lần anh dậy sớm đập chết heo để chọc tiết thì em cũng thức dậy chơi bản nhạc ấy. Mỗi lần em chơi đàn, anh tặng một triệu đồng làm vốn riêng. Cái thằng nhạc sĩ chết đói dạy đàn cho em sẽ sáng tác về câu chuyện của chúng mình. Em vừa có tiền mà vừa bất tử nhé.”

Thằng Vai U nghe xong, bảo:

“Chồng em cũng là giống quái đản. Anh thì sống đời hơn. Để rồi xem tiếng đàn còn thánh thót trong nhà này nữa không?”

Bàn tay thằng Vai U ôm riết eo bà chủ. Người ngợm nàng đờ đẫn, như con cua yếu vía, cụp hết chân càng lại cho ếch nuốt gọn. Thằng Vai U ngông ngênh, không coi ai ra cái gì. Đến tiếng đàn huyền hoặc như thế mà nó còn khinh thường. Sức mạnh của nó là ở đâu? Có phải sức mạnh ở chỗ nó bặm trợn, thích là nhào dô, áp sát đè ngửa người ta ra không? Có dễ thật, nó đè ngửa bà chủ ra giường rồi mà. Tôi nhìn thấy bốn chân thòi ra khỏi cái chăn mỏng ngọ nguậy, mà không biết phải làm gì. Chỉ biết lôi đàn ghi ta ra đánh đến mức móng tay tóe máu và dứt đứt gần hết, chỉ còn dây… to và chùng nhất.

Thời gian này, ông chủ lò mổ lái con xe thể thao du lịch New Carens mới coóng đưa vợ đi vũ trường dầy hơn. Chả lẽ giữ vợ bằng đi vũ trường? Vũ trường là chốn vui vẻ trẻ trung đốt tiền của kẻ giàu, là chỗ xóa bỏ mặc cảm, và học làm sang của người nghèo. Ông chủ chân ngắn, người ngắn, bước đi lũn cũn. Bà chủ chân dài, người cao, bước đi uyển chuyển. Bà chủ như mệnh phụ phu nhân thượng lưu. Ông chủ không ra quý ông mà cũng chẳng giống chủ lò mổ heo. Ông ta là thứ hỗn tạp vừa bần tiện, gian manh vừa hào nhoáng giả tạo.

Nhạc nổi lên. Ông chủ giơ tay dắt... vợ. Bước nhịp nhàng. Bước dướn. Bước xoay. Người thấp tủn, khi giao lưu tình cảm, ông chủ phải ngước mặt lên tình tứ với vợ. Hết điệu khai mở, bạn nhảy tíu tít đến mời bà chủ ra sàn. Nhạc lại nổi lên, họ đi điệu Valse. Có thằng trai nhảy tay ôm eo, tay nâng tay bà chủ. Mặt tươi. Mắt liếc. Sóng tình dào dạt.

Ông chủ ghen. Đi vũ trường thật không ổn. Ông chủ gọi tài xế, kéo vợ về sớm hơn thường lệ.

Ông chủ uống rượu ngà ngà, bước sang nhà tôi:

“Hóa ra, thằng Vai U thịt bắp làm thợ lò mổ nhà mình cũng biết nhảy thầy giáo ạ. Nhảy với vợ tôi, ôm eo vợ tôi, mắt đưa tình với vợ tôi, âu yếm với vợ tôi lắm”.

Trong lòng tôi cũng nổi cơn một cơn ghen thoảng qua. Tôi định bảo: Thì tối nào ông chủ đi vắng, bà chủ chả lái xe đưa nó đi khỏi nhà đến khuya mới về. Thấy tôi im lặng, ông chủ lại bảo:

“Thầy giáo có nghĩ rằng: Vợ tôi sẽ chơi bản nhạc Sanata Moonlight đến khi nào tôi không còn mổ heo nữa không?”

Tôi định bảo: Ngày kết thúc sắp đến rồi, nhưng lại thôi.

* * *

Cho đến một sớm mai.

Thợ lò mổ bị dựng dậy bởi tiếng nổ ô tô, xe máy xình xịch, tiếng người ồn ào, cáu gắt bởi không lấy được thịt heo. Không lấy được thịt heo, họ mất khách. Đám người và xe nhốn nháo, quát tháo ầm ĩ, chửi đổng choang choác như đám mổ bò một lúc rồi giải tán. Trời đất! Chẳng hiểu sao chúng tôi lại có một đêm ngủ mê mị và bị bóng đè kì lạ. Không còn nghe tiếng đàn dương cầm vang lên, cũng không có tiếng chày lim đập vào gáy heo sát sinh lúc bốn giờ sáng. Tiếng ông chủ hô…ộc, …hô…ộc như heo tru rống lên càng không. Thằng Vai U mất tích. Và bà chủ cũng biệt tăm.

Chúng tôi thấy ông chủ lò mổ heo mặt mày tối tăm, héo hon, ngồi ủ rũ, lưng khọm xuống, gìa đi đến chục tuổi.

“Bỏ đi rồi”.

Tôi hỏi lại:

“Bỏ đi thật rồi sao?”

“Đi thật mà. Tui đã làm mọi cách để kéo nàng ở lại mà không giữ được. Kể cả việc mua cái đàn dương cầm và đàn mỗi buổi sáng tui sát sinh heo”.

Tôi bảo:

“Đừng tiếc nuối nữa. Cô ấy không giành cho mình. Đi là phải”.

“Ờ. Chú em… À quên, thầy giáo nói đúng. Đi là phải. Thầy giáo ơi! Có biết cô ấy ở đâu không? Tui muốn tặng cô ấy chiếc đờn dương cầm kia kìa.”

Tôi xót xa nhìn cái đàn dương cầm vô chủ. Âm thanh lãng mạn, đau khổ, bất hạnh, buồn vui… từ nay sẽ lịm tắt. Ghế ngồi và bàn phím đã vắng hơi nàng. Ông chủ nói như mê ngủ:

“Giá như bây giờ tui được nghe tiếng đờn nhỉ?”.

Xót lòng quá! Tôi lặng lẽ ngồi vào ghế, đúng cái chỗ nàng Ánh Trăng Xanh của tôi hay ngồi. Tôi lướt ngón tay trên hàng phím trắng. Bản nhạc Sonata Moonlight vang lên. Khúc mơ tưởng dào dạt tuôn chảy. Thật lạ kỳ! Không còn thấy tiếng heo rống. Chẳng có tiếng chày lim đập. Còn gương mặt ông chủ lò mổ heo thì hiện lên rạng rỡ. Vợ bỏ đi mà lại vui kìa. Trời đất ơi! Gương mặt ông không còn u ám, tối tăm nữa, mà sáng sủa, tươi tắn như cái lẽ thường tình phải thế.

Bất chợt, tôi nhòm thấy một ánh trăng xanh biếc trong lò mổ heo.