Lâm Thị Mỹ Dạ-Thơ

CHO ANH TỰA VÀO EM

Cuộc đời em đơn thân đến nỗi

Chưa bao giờ em tựa vào anh

Và vì thế em âm thầm sống

Tựa vào chính mình trĩu nặng, đớn đau

.

Bao lời tiếng lấm lem bùn đất

Bao đêm trắng tơ giăng chóng mặt

Em tựa vào em - đơn độc quen rồi

Em tựa vào em - gắng vững giữa đời

.

Trên đôi vai bình yên

Mà bão dông nghiêng ngửa !

Em chênh vênh dối mặt chính mình

Nào ai biết, đến anh cũng chẳng biết

Em quằn mình như rễ dưới đất im

.

Đời bất chợt thác ghềnh ào trút xuống

Vùi lấp anh - cơn bạo bệnh kinh hoàng

Bạn bè anh rộng nhiều như trời bể

Vực anh lên cho anh lại lòng tin

.

Bàn tay nâng em thành bảo mẫu

Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười

Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng

Giữa tháng ngày trĩu nặng

Em đứng thẳng người

Cho anh tựa vào em

Nhìn lá

Cứ ngờ là lá ngọt

Bởi lá tơ non mơn mởn quá chừng

Lá tươi thắm xua mùa đông rét buốt

Hỡi chiếc hôn em có như lá không?

Tôi đi giữa mùa non

Sững sờ trong bao dáng lá

Nhớ ai

Tôi gửi nụ hôn lên trời

Con người không có tình yêu

Như trái đất này không có lá

Là hơi thở đất đai không thể thiếu

Lá dịu dàng sâu thẳm của tôi ơi!

Nếu vẽ được chiếc hôn ở dưới ánh trời

Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá.

(1982)

Như chỉ hoa quỳnh có

Cái mầu trắng ấy thôi

Mầu trắng muốt thơ ngây

Chẳng lẫn vào đâu được

Đời của hoa thơm ngát

Con ong nào biết đâu

Hoa nở trong lặng lẽ

Âm thầm vào đêm sâu

E ấp mà kiêu hãnh

Hoa nghiêng trong trăng sao

Như đàn thiên nga nhỏ

Sắp bay lên trời cao

Chợt quên, tôi thiếp ngủ

Để trôi qua phút giây

Cái phút hoa quỳnh nở

Làm sao tìm lại đây

Cái phút hoa quỳnh nở

Nó thế nào hở trăng ?

Nó thế nào hở sao ?

Nó thế nào hở gió ?

Giây phút ấy đi qua

Và thời gian đến trước

Làm sao xin lại được

Xin lại một lần hoa

Từng cánh khép lại rồi

Hoa lả mềm giấc ngủ

Ôi phút hoa hiến dâng

Hồn tôi không kịp hái!

(1980)

Những lúc anh khen

Mặt em trẻ đẹp

Là lúc em buồn

Và em thấy ghét...

Một nỗi lo âu

Buốt trong ngực trẻ

Lời anh ngọt ngào

Lòng em đau xé

"Em tôi xinh đẹp"

Xin anh đừng khen

Tình yêu không ở

Trên gương mặt em

Năm tháng cuốn trôi

Một thời con gái

Trên gương mặt em

Nét buồn đọng lại

Em thôi xinh đẹp

Anh còn yêu ai ?

Tôi yêu chuyện cổ nước tôi

Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa

Thương người rồi mới thương ta

Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm

Ở hiền thì lại gặp hiền

Người ngay thì gặp người tiên độ trì

Mang theo chuyện cổ tôi đi

Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa

Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa

Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi

Đời cha ông với đời tôi

Như con sông với chân trời đã xa

Chỉ còn chuyện cổ thiết tha

Cho tôi nhận mặt ông cha của mình

Rất công bằng, rất thông minh

Vừa độ lượng lại đa tình, đa mang.

Thị thơm thì giấu người thơm

Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà

Đẽo cày theo ý người ta

Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì

Tôi nghe chuyện cổ thầm thì

Lời cha ông dạy cũng vì đời sau.

Đậm đà cái tích trầu cau

Miếng trầu đỏ thắm nặng sâu tình người

Sẽ đi qua cuộc đời tôi

Bấy nhiêu thời nữa chuyển dời xa xôi

Nhưng bao chuyện cổ trên đời

Vẫn luôn mới mẻ rạng ngời lương tâm.

(1979)

Biển trời soi mắt nhau

Cho sao về với sóng

Biển có trời thêm rộng

Trời xanh cho biển xanh

Mặt trời lên đến đâu

Cũng lên từ phía biển

Nơi ánh sáng bắt đầu

Tỏa triệu vòng yêu mến

Biển ơi! Biển thẳm sâu

Dạt dào mà không nói

Biển ơi cho ta hỏi

Biển mặn từ bao giờ

Nhặt chi con ốc vàng

Sóng xô vào tận bãi

Những cái gì dễ dãi

Có bao giờ bền lâu

Biển chìm trong đêm thâu

Ðể chân trời lại rạng

Khát khao điều mới lạ

Ta đẩy thuyền ra khơi

Dù bão giông vất vả

Không quản gì biển ơi!

Con chim mang giấc mơ bay đi

Chú bé ngủ dưới trời sao sáng

Thanh thản

Đêm qua em mơ gì ?

Tôi mơ thành chim

Con chim trong mơ giọng hót nơi nào

Con chim trong mơ như nàng tiên cá

Câm lặng

Giọng hót rực rỡ

Suốt đời cất giữ

Riêng tặng cho người...

Bay qua, bay qua nghìn đêm

Bay qua, bay qua ngàn sao

Những chiếc lá phát sáng mầu huyền thoại

Những bông hoa mang hình bàn tay, ngón tay

Ru ru ru ru

Ru êm

Chú bé là ai

Chú bé là tôi

Con chim là ai

Con chim là tôi

Giấc mơ là ai

Giấc mơ là tôi

Đêm qua

Tôi mơ thành tôi

Tôi mơ thành chim

Tôi mơ thành giấc mơ.

Như lúa hỏi đất

Anh có tốt không ?

Như cây hỏi gió

Anh có tốt không ?

Như mấy hỏi trời

Anh có tốt không ?

Trời anh mênh mông

Mây em bay lượn

Gió anh bao la

Cây em ve vuốt

Đất anh thẳm sâu

Lúa em cúi đầu

Nhưng sao vẫn hỏi

Day dứt trong lòng

Anh có tốt không ?

Lần đầu khi mới làm quen

Anh khen cái nhìn em đẹp

Trời mưa òa cơn nắng đến

Anh khen đôi má em hồng

Gặp người tàn tật em khóc

Anh khen em nhạy cảm thông

Thấy em sợ sét né giông

Anh khen sao mà hiền thế

Thấy em nâng niu con trẻ

Anh khen em thật dịu dàng

Khi hôn lên câu thơ hay

Ấp trang sách vào mái ngực

Em nghe tim mình thổn thức

Thương người làm thơ đã mất

Trái tim giờ ở nơi đâu

Khi đọc một cuộc đời buồn

Lòng em xót xa ấm ức

Anh khen em cảm xúc

Và bao điều nữa...Anh khen

Em sợ lời khen của anh

Như sợ đêm về trời tối

Nhiều khi ngồi buồn một mình

Trách anh sao mà nông nỗi

Hãy chỉ cho em cái kém

Ðể em nên người tốt lành

Hãy chỉ nơi anh cái xấu

Ðể em chăm chút đời anh

Anh ơi anh có biết không

Vì anh em buồn biết mấy

Tình yêu khắt khe thế đấy

Anh ơi anh đừng khen em.

Tiểu sử

Lâm Thị Mỹ Dạ, sinh ngày 18-9-1949, tại quê gốc: huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Nơi ở hiện nay: thành phố Huế. Tốt nghiệp đại học. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam.

Lâm Thị Mỹ Dạ, là cán bộ Ty văn hóa Quảng Bình, sau đó làm phóng viên, biên tập tạp chí Sông Hương, ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên - Huế, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V.

Tác phẩm chính

Trái tim sinh nở (thơ, 1974); Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983); Danh ca của đất (truyện thiếu nhi, 1984); Nai con và dòng suối (truyện thiếu nhi, 1987); Phần thưởng muôn đời (truyện thiếu nhi, 1987); Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989);

Ðã được tặng: Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1973. Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam 1981 - 1983. Giải A của ủy ban toàn quốc Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, 1998 với tập thơ Ðề tặng một giấc mơ.

Tự Bạch

Tuổi thơ tôi có những nỗi trắc ẩn - và khi mới lên 10 tôi đã có bài thơ Dòng sông đen. Bài thơ rất buồn. Tôi đã nhìn dòng sông xuyên qua tâm hồn đau đớn, tối thẳm của tôi lúc đó. Nhưng sau 25 năm, khi con gái tôi bằng tuổi tôi ngày ấy - trở lại dòng sông quê hương, tôi đã nhận ra một điều - dòng sông không có đen mà nó rất trong xanh. Phải chăng tâm linh con người là cội nguồn - là thứ gương soi kỳ lạ đặc biệt phản chiếu mầu sắc ánh sáng thơ, ánh sáng đời sống. Và tấm gương soi đó không có thời gian, không có tuổi. Có thể khi ta đã già tâm hồn vẫn còn rất trẻ và ngược lại.

Thơ là cái mới mẻ trong cái bình thường. Nhìn thấy nó đã khó, mà diễn tả được nó càng khó vô cùng. Người ta chỉ đạt đến thơ như khi một quả trứng nóng bức tới mức tự nó phải tách vỏ nổ ra đời sống - một đời sống sinh động, có hình hài. Nếu vội vã bóc lớp vỏ đi khi chưa đến độ thì sẽ chẳng bao giờ đạt đến thơ mà chỉ có những ngôn từ chết. Vì vậy có được một bài thơ hay vô cùng khó.

Yếu tố để có thơ hay theo tôi là phải sống thật với chính mình.

Thơ như một vị thần linh bất chợt đến rồi đi nếu không nhanh nắm bắt khoảng khắc kỳ diệu đó thì sẽ mất.

Nhận định

Ðề tặng một giấc mơ

Thời hiện đại, theo luật tăng tốc của cuộc sống, thơ lại làm một cuộc hành trình đầy phiêu lưu, bất ngờ bằng cái nhìn dự cảm kỳ diệu. Cái tôi của từng nhà thơ không còn đóng khung trong một khuynh hướng số đông chính là do sự đa diện và vi diệu của cuộc sống xã hội và sự nhạy - cảm - thi - sĩ của từng chủ thể sáng tạo quy định.

ở Việt Nam những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 đã diễn ra cuộc kiếm tìm đầy ngoạn mục và thành công không phải bao giờ cũng vẫy chờ phía trước cho mọi nhà thơ.

Lâm Thị Mỹ Dạ - nhà thơ nữ hiếm hoi thời hiện đại, tự nguyện đi vào thế giới rộng rinh, huyền ảo ấy và vững tin mình không lạc khỏi chính mình. Tập thơ Ðề tặng một giấc mơ (1) của chị đã khẳng định một thi pháp riêng. Thi pháp ấy lấy chính bản thân mình làm đối tượng và dám vực dậy từ những giấc mơ tro vùi, những "Dư âm mặn như nước mắt", "Những chiếc lá phát sáng mầu huyền thoại" và nỗi buồn "Chết như từng giọt sương - Rơi không thành tiếng để mơ thành giấc mơ", để nhìn ra tha nhân và nhận lại những ngọt ngào, hy vọng sau khi đã soi thấy tận sâu thẳm tâm hồn mình "như bầu trời thấy mình qua dòng sông". ở đó, tác giả tự thanh lọc và rút ra quy luật "Sức mạnh phù du chỉ là thoáng chốc", bởi vì muôn đời "vầng trăng xanh biếc" và "trái tim dịu dàng - Dịu dàng đến tận cùng trong suốt" vẫn đang đồng hành cùng tình yêu và cõi nhớ.

Ðề tặng một giấc mơ - Bài thơ đầu tập lấy làm tên cho tập thơ là lối vào thế giới những hình ảnh và tâm trạng kỳ thú. Mở đầu bài thơ, qua hình tượng:

Con chim mang giấc mơ bay đi

Chú bé ngủ dưới trời sao sáng

là một thế giới đầy hương hoa, thanh thản đến thanh bạch, chỉ có trời xanh cao rộng và mặt đất đầy cỏ dịu êm đang che chở cho giấc mơ ngọt ngào. Chú bé mơ thành chim, rồi chú chim lại mang giấc mơ bay đi với bao khát khao trên đôi cánh mộng: Con chim trong mơ như nàng tiên cá. Ðó là khát vọng bình yên, hạnh phúc. Giấc mơ tiếp tục thăng hoa; có những hạt ngọc tỏa sáng từ trái tim biến thành giọng hót rực rỡ để suốt đời - cất giữ - tặng riêng - cho Người. Chú bé trôi trong cảm giác kỳ diệu, bồng bềnh của cõi vô thức, mộng du:

Bay qua, bay qua nghìn đêm

Bay qua, bay qua ngàn sao

Những chiếc lá phát sáng mầu huyền thoại

Những bông hoa mang hình bàn tay, ngón tay

Ru ru ru ru

Ru êm.

Ðến đây, bài thơ gây một biến ảo bất ngờ. Hóa ra, chú bé không phải là chủ thể phát ra giấc mơ mà chính là sản phẩm của giấc mơ do một chủ thể khác phát ra. Các hình ảnh, sự kiện diễn biến đứt nối, chập chùng và thỏa mãn những ước mơ vô thức của con người. Nó có cội nguồn ở những gì từng trải, sống qua và dự cảm của người đang mơ. Cho nên bất ngờ ở chỗ:

Chú bé là ai

Chú bé là tôi

Con chim là ai

Con chim là tôi

Giấc mơ là ai

Giấc mơ là tôi.

Ðó là sự gặp gỡ của khát vọng người mà trong thế giới của tiềm thức, vô thức, nó mới được khôi phục một cách êm ái, dịu dàng, bừng ngộ. Khổ cuối bài thơ lạ và toát lên tính triết lý, làm người đọc sững sờ, bất giác hiểu ra sự kỳ diệu bội phần của cõi mộng một cách vô tư và trong sáng:

Ðêm qua

Tôi mơ thành tôi

Tôi mơ thành chim

Tôi mơ thành giấc mơ

Ðây là một trong những bài thơ hay, cấu trúc theo khuynh hướng hiện đại của Lâm Thị Mỹ Dạ. Từ thế giới của giấc mơ ấy, tác giả nhìn ra cuộc đời và thiên nhiên đầy đam mê và tiếc nuối. Trước hết, đó là sự tiếc nuối, ám ảnh về thời gian. Thời gian trôi chảy bỏ lại bên sau những sân ga cuộc đời và tuổi trẻ mộng mơ. Rồi cỏ sẽ xanh trên tuổi chúng ta - Dòng sông sương mù trôi mãi. Tác giả nhận ra rất rõ bằng cảm giác của chính mình: "Ðời người rồi qua mau", "Ðời người thoáng chốc tan vào gió", "Hạnh phúc mong manh hương ổi bay" và con người đang vươn lên để chiến thắng thời gian, để không bị mất hút trong sự tàn bạo của từng giọt thời gian:

Thời gian uống tôi

Trời ơi

Thời gian uống tôi

là nỗi sợ hãi có nguyên cớ, có khi do chính mình vô ý gây nên dù:

Năm tháng tươi xanh

Ðời đến lúc cỗi già

Ta mãi thơ ngây

Thơ ngây nào được nữa!

bởi vì:

Em đã thành người đàn bà khác

Bông hoa xanh nụ tầm xuân đã khác

Trách chi em, trách chi đời đen bạc

Khi chính mình lắm lúc tự vùi chôn.

Ðiều quan trọng là con người phải biết mộng mơ, cả những lúc ta không còn có mặt trên đời. Chỉ cách đó, con người mới không sợ cái tuổi già sinh học của mình. Bằng cách níu giữ thời gian, con người tự soi vào mình để hiểu những gì cần phải có trong cuộc chạy đua với thời gian.

Gặp mình, tìm mình, tự vấn, tự thú, tự thoại về mình là tiếng nói khẩn thiết trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - với cách đó, nhà thơ mới hiểu hết con người và chính mình. Ðó là ý thức tận cùng của cái tôi tự biểu hiện, cái tôi tự soi tỏ:

Một mình lắng, một mình nghe

Ơ kìa cái cõi - đi - về gang tay!

Một mình cho hết đêm nay

Ta ngồi với bóng ôm đầy nhân gian.

Cả trong hạnh phúc, sẻ chia, hình như trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ bao giờ cũng có sự gián cách nhưng không phải để trách hờn mà là cách để tự triết lý về nỗi cô đơn và sự kiêu hãnh bình yên như trăng non và lá xanh:

Em chẳng là cây mận của ai

Em là cây mận của em

Bám rễ vào đất đai thẳm sâu là nỗi buồn

Và trời xanh là lòng kiêu hãnh.

Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giàu ý tứ. Tứ thơ bao giờ cũng là bất ngờ. Hình như không tạo được tứ lạ thì bài thơ vẫn còn trong dự tưởng. Tất cả các bài trong tập đều có tứ, đặc biệt là những bài: Làm gì có biển, Mưa, Người mù cầm đèn, Một mình, Tôi thấy mình... Trong bài Với biển, tứ thơ rất lạ. Tác giả một mình chạm ly với biển rồi tự nghĩ đó là hành động lãng mạn ngông cuồng, rồi dựng lên chân dung biển để đối thoại, và cuối cùng chấp nhận sự cô độc cao sang trước biển đời giông bão. Hướng ngoại là thi pháp thơ một thời để nói những vấn đề hệ trọng của dân tộc, thời đại. Ðó là điều cần thiết và cao cả, qua đó, thơ thực sự tồn tại có ích giữa cộng đồng. Giờ đây, thơ có nhu cầu quay lại chính mình để từ mình nhìn ra nhân thế. Trong con người, hiện lên những vui buồn, ân nghĩa nhưng phải là những con người có một cuộc đời âm vang và quan trọng hơn là sự chân thật đến tận cùng với chính họ. Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm cuộc hành trình này trong thơ đầy trăn trở và bên sau những câu thơ là dự cảm lớn về khát vọng vĩnh hằng. Nỗi buồn, nỗi đam luyến và sự cô đơn trong thơ chị là có thật, đồng thời là một lựa chọn nghệ thuật, là quan niệm mỹ học. Tặng nỗi buồn riêng, Nhiều khi, Làm gì có biển... là những triết lý về sự cô đơn và nỗi buồn biếc trong như ngọc và nước mắt. ở đó, cái chết là một biểu trưng:

Em chết trong nỗi buồn

Chết như từng giọt sương

Rơi không thành tiếng

Bởi vì từ sự im lìm trong xứ sở của nỗi buồn, người thơ phát hiện ra sự lạnh lùng đến hoang mạc:

Trong xứ sở anh

Em bị lạc

Xứ sở hiếm hoi niềm vui

Khô khắt đến nao lòng

nhưng rồi vẫn chưa hiểu vì sao? Trái tim trắng trong, trẻ dại và nụ cười thật tươi với lời thề dâng hiến giờ ở nơi nào?

Ðến như anh người bạn cùng đường

Vẫn bước ngoài đời em

Em lạc cả trong anh

Lạc không tìm ra lối

Rồi người thơ tự vấn:

Em không còn là em

Ai đánh mất em?

Hay chính em đánh mất?

Dù sao đó vẫn là câu hỏi đã được trả lời, bởi vì nỗi buồn đã đi hết hành trình đau khổ của nó để được gặp lại trong sự hoài nghi cô độc:

Em chết trong nỗi buồn

Chết lặng thầm âm ỉ đớn đau

Trời cho em nụ cười thật tươi

ai biết sau nụ cười

Giọt nước mắt về đâu?

Nhưng rồi, nhà thơ vẫn không ngừng mơ mộng:

Ước gì

Anh là dòng sông

Cho em soi thấy mình như trời cao rộng

Ðể tận cùng anh em gặp chính mình.

Ðó là nỗi buồn của cánh đồng trái tim đã qua bao mùa bón chăm, gieo vãi, nhưng niềm vui không đi cùng năm tháng để rồi nhà thơ tự:

Giật mình

Hoang vắng

Bởi tôi đã gieo tôi cằn kiệt không ngờ.

Nhưng đâu đó bên sau những câu thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn vang lên nỗi khát vọng bởi cuộc đời bao giờ cũng bao dung và độ lượng:

Hãy ngước nhìn trời cao sẽ thấy

Xuân còn đầy run rẩy, nôn nao.

Sự quên lãng chính mình, xóa đi chính mình là một cách để biết mình hiện hữu, biết mình đang ngơ ngác trước mọi bắt đầu non tơ như lá, bỡ ngỡ như trời xanh mỗi sớm, có lúc nổ tung:

Như bất ngờ núi lửa

Ðột ngột sao băng

Rực rỡ chói lên mạnh mẽ

dù cuối cùng:

Rồi tất cả lại trở về im lặng

Nỗi im lặng của trăng non và lá xanh,

nhưng ở đó,

người thơ kịp nhận ra sự sống không bao giờ xưa cũ.

Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là tiếng nói đồng cảm đầy khẩn thiết của bao nhiêu số phận, trong đó, hướng về chung quanh trong sự khai thác cạn kiệt chính mình là cái nhìn nhân ái, là thi pháp tự suy đã qua chiêm nghiệm và thay đổi ngôn từ thi ca. Thơ chị kết hợp được chất thực cuộc sống và ngôn ngữ đa dạng, tạo ra những dồn ép, biến ảo, chồng chéo về hình ảnh, đối tượng như huyền thoại, cổ tích nhưng không hề có dấu vết của sự làm dáng. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ hồn nhiên, tuân thủ cảm xúc và từ trái - tim - thi - sĩ - nhạy - cảm mà thành. Tặng nỗi buồn riêng, Ðể tặng một giấc mơ, Giấc ngủ mặt trời... là những bài thơ như thế.

Với Ðề tặng một giấc mơ, Lâm Thị Mỹ Dạ đã làm giàu có và phong phú thêm giọng thơ đầy nữ tính và nhân bản vốn có của mình từ Trái tim sinh nở (1974) đến Bài thơ không năm tháng (1983) và Hái tuổi em đầy tay (1989), nhưng giờ đây tính triết lý, nghiệm sinh được tăng cường và sự khẩn thiết nhìn lại mình để thấy bước đi của thời gian và nỗi buồn không thể khác của con người và chính mình. Từ đó, hướng khát vọng thi ca vào những chân trời mơ mộng. Sức hấp dẫn và giá trị của thơ Lâm Thị Mỹ Dạ nằm trong đường biên của cái tôi và cái ta, giấc mơ và hiện thực, sự tự chôn vùi và sự tự nổ tung, giữa những gì đã qua và những gì sẽ đến; bên cạnh cái hư ảo mong manh ta bắt gặp cái biếc xanh, bỡ ngỡ. Và vì vậy, đó là tiếng nói của sự va chạm, sinh thành. Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ không xa rời thi pháp truyền thống nhưng luôn phá và thay để làm giàu có cái phần hiện đại cần thiết của thơ. Thơ chị tự nhiên cứ tưởng thốt ra là thành, không cần sửa chữa nhiều lắm nhưng đó là cái tự nhiên của một tâm hồn đã chín, của những tứ thơ câm lặng, lãng quên được đánh thức sau giấc ngủ mặt trời, lúc mà cái - tôi - nghệ sĩ được lên ngôi cùng với những giấc mơ phát sáng mầu huyền thoại.

Hồ Thế Hà

Huế, tháng 5-1999

(Báo Văn nghệ quân đội)

(1) Thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội. 1998 - Giải nhất của Giải thưởng ủy ban toàn quốc liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998.