Nguyễn Lâm Cúc-Truyện Ngắn

BÃO KHÔNG CHỈ ĐẾN TỪ TRỜI

Hôm nay tôi được mượn đi theo để tính tiền cho một cuộc tiếp khách.

Khi mới khởi hành, đoàn chúng tôi có 5 người. Thế nhưng lúc bia rót vào ly thì mâm nhậu đã lên đến 11 người, điện thoại vẫn chưa ngừng réo anh Năm, anh Ba. Rồi các anh Năm, chú Tám, anh Hai, anh Tư đã uể oải đến, bệ vệ ngồi xuống mâm nhậu khiến cho nhiều người thóm róm và hãnh diện, nhiều người thầm ganh ghét trong lòng.

Tiệc tan, tôi là người ra về sau cùng.

Đây là lần thứ mấy tôi có mặt những bữa nhậu lênh láng như thế này cũng không nhớ nổi. Nhưng chắc chắn, đây chưa phải là lần sau cùng. Tôi vừa nghĩ như thế, vừa kiểm bia trong các thùng mở toang hóac để chầu chực bốn chung quanh. Trời ạ, bia lon hiệu Heineken vừa bung nắp vung vãi khắp mặt bàn và cả ở dưới gầm bàn. Tất cả mọi chiếc ly đều còn đầy bia, có ly bia tràn cả ra ngoài. Đĩa thịt kỳ đà xào sả ớt vơi gần hết. Thố baba hầm thuốc bắc còn một nửa. Chén gà ác ninh táo khô, cam thảo cũng mới vơi lưng lửng, những chiếc đầu gà đen thui, nằm nghẹo cổ buồn thiu. Còn nồi lẩu hải sản thì gần như chẳng ai đụng đến. Thật là một sự thừa mứa phí phạm!

Chủ quán đem ra tờ hóa đơn trên 5 triệu bạc. Nghĩa là bữa nhậu hơn một tấn lúa. Tết Kỷ Sửu vừa rồi, tôi nhớ lúa có hai ngàn tám mà nhà cậu Chín phải đi năn nỉ người ta mới mua dùm cho để có tiền ăn tết. Một lon bia giá trên hai mươi ngàn đồng, nghĩa là ba ký gạo trắng thơm phức, nghĩa là gần chục ký lúa. Những ký gạo trắng ấy, những hạt lúa mà cậu Chín lăn bùn quanh năm mới có được, chủ quán đang đổ ào ào vào thùng nước bẩn.

Tôi nhớ đến bọn trẻ lang thang lượm rác tôi vẫn gặp mỗi ngày trên đường, bọn chúng thường nhịn đói bữa trưa là xin nước uống qua cơn ở bất kỳ giếng nước thơm thảo nào.

Ra về, trời đã khuya, đường vắng tanh. Tôi vừa chạy vừa nhớ về một cuộc nhậu khác. Dạo nọ, một vị trưởng phòng đã nổi hứng sau cữ nhậu trưa, xách xe con của cơ quan chở dăm bảy người vượt trên 200 km đường đèo, đến Hồ Tuyền Lâm- Đà Lạt, nhậu tiếp. Những chiếc ca nô ngược hồ Tuyền Lâm cập bến vào đâu đó trong rừng thông đại ngàn của Đà Lạt. Dưới bóng thông ẩn những mái tranh kiểu cọ đầy vẻ mời mọc và có đủ các món ăn chơi chiêu đãi quí thượng đế lặn lội đến nơi này.

Nhóm mà tôi nhắc đến đã chọn một gian quán ấm cúng, thuê trọn gói. Họ gọi một con heo rừng, loại heo sữa cắt tiết pha rượu mật gấu, và nấu cháo. Một người đi theo giám sát việc làm heo. Nhưng đến khi cậu phục vụ còm nhom, có nước da vàng bủng, bưng nồi cháo bốc khói dọn ra bàn, nhiều cặp mắt soi mói nhìn vào nồi, họ lật nghiêng, lật ngửa con heo nằm cong bên trong rồi phán: Mất mẹ nó miếng đùi rồi! Gã đàn ông mặc áo sọc ca rô đen đỏ, vục nguyên bàn tay vào nồi cháo lôi con heo ra, gật gù bảo đúng đúng, mất mẹ nó miếng thịt chỗ này này. Chủ quán được gọi đến. Anh phục vụ run như thằn lằn đứt đuôi, cúi mặt đứng lặng thinh một bên và nhận không biết bao nhiêu lời sỉ vả.

Cuối cùng, nồi cháo không thể ăn hết, bởi họ còn phải xơi cái đầu heo luộc, bộ lòng xào củ riềng...

Khi tất cả mọi người xuống canô trở về, họ đã gặp cậu phục vụ kia với túi xách quần áo trên tay, ngồi khép nép ở cuối đuôi thuyền. Cậu ta đã mất việc.

Hóa đơn buổi ăn chơi đó cho dăm người là hai tám triệu đồng (chưa kể một người bị hất ra lề đường).

Hai hôm trước, tôi lại có dịp tham dự cuộc họp tại đơn vị nọ, họ đang bàn việc quyên góp cứu trợ đồng bào bão lũ miền Trung. Vị trưởng phòng cất giọng hết sức thống thiết để nói về nỗi khổ của bà con vùng thiên tai gió quật, nước càn. Một người đàn ông mặc quần áo bảo vệ đứng lên đề nghị mỗi người góp một trăm ngàn, còn ai có hảo tâm góp nhiều hơn thì không nên hạn chế mức đóng góp. Tiếng nói của người bảo vệ va phải một sự im lặng lạnh như nước đá.

Vị trưởng phòng cất tiếng đầy vẻ thông cảm, thấu hiểu: Năm nay do khủng hoảng kinh tế, các đơn vị đều báo đỏ kinh phí, đơn vị chúng ta cũng khó khăn không kém. Chúng ta lại đã có hàng trăm cuộc đóng góp quanh năm, vì vậy để chia sẻ với đồng bào bão lũ miền Trung lần này chúng ta đành gửi đến họ tấm lòng và món quà tượng trưng, tôi đề nghị toàn đơn vị ủng hộ mỗi người mười ngàn đồng...?!

Tiếng vỗ tay lẹt đẹt vang lên. Mười ngàn đồng được trừ từ tiền lương tháng đến.

Mọi người rời khỏi phòng họp, riêng bộ phận tài vụ ở lại để hợp thức hóa thanh toán những cuộc nhậu lênh láng từ năm trước kéo sang năm nay và còn dài dài về sau.

Bên ngoài mưa bắt đầu nặng hạt. Mưa hoài, chán!

Có người nói, bão trên quê hương tôi không chỉ đến từ trời!

CÓ PHẢI LÀ TÌNH YÊU?

Cách đây nhiều năm, có một thiếu nữ tuổi chừng đôi mươi, xinh đẹp, nói năng nhỏ nhẹ đã đến vùng này làm nghề bán vé số. Cô gái đẩy một chiếc xe lăn, trên đó có một chàng trai bị liệt hai chân. Trái với cô em gái, chàng trai đen đúa, nét mặt quàu quạu. Và trên gương mặt của chàng trai gần như không có một chút biểu cảm gì là mình đang vui hay buồn.

Một buổi tối, tôi gặp người con gái bán vé số này trong một quán bánh xèo. Cô ta vào mua bánh, nhưng vì bánh đã hết nên quay ra đi ngay. Tôi nói, tội nghiệp quá, không biết hai anh em nhà ấy ở đâu nữa? Bà bán bánh cười lớn nói, họ không phải là anh em, họ là vợ chồng. Nghe đâu họ từ Sài gòn về đây, giờ đang được Nhà thờ cho ở nhờ đằng sau cái nhà kho để xe tang.

Ối trời! Chị nói thiệt không đó? Hai đứa nó là vợ chồng thật à? Vậy thì phục thiệt đó...Tôi không dám nói với bà bán bánh xèo rằng tôi cảm phục cô gái, rằng cô ấy đã có một tình yêu không bờ bến mới dám lấy người con trai tật nguyền. Mà xem ra anh ta chẳng hề vui vẻ gì. Bà bán bánh xèo vừa đổ bánh vừa bực bội nói ra rả, không biết mắt mũi để đâu mà ưng chi ưng lạ. Con bé đó xinh đẹp như hoa hậu chứ phải cùi hủi gì mà tự nhiên rước cục nợ vô trong người, rồi sẽ phải đeo đẳng cả đời chứ ít đâu. Không biết mai kia chửa đẻ sẽ ra làm sao nữa?!

Thấy bà bánh xèo tỏ vẻ không hài lòng, tôi không dám nói gì thêm. Nhưng từ đó trong lòng vẫn không nguôi cảm phục cô gái nhỏ. Tôi sung sướng nghĩ rằng cô đã cho tôi thấy được tình yêu thực sự trong cuộc đời. Tình yêu có thể khiến cho con người trở nên phi thường, dũng cảm và cao thượng.

Đôi trẻ ấy mất hút trong cuộc đời bao la. Việc họ đến hay đi cũng không hề làm cái thị trấn của tôi xao động dù chỉ một giây.

Vài năm sau họ lại xuất hiện trên đường làng. Cô gái thon thả, xinh đẹp ngày xưa nay đã trở thành một thiếu phụ trẻ. Cô đội một chiếc nón lá đã rách, quần áo xộc xệch, tay vẫn đẩy chiếc xe lăn. Trên xe, gã đàn ông ngồi bất động, nét mặt vẫn quàu quạu y hệt như ai đó vừa làm cho gã phiền lòng. Bên cạnh chiếc xe đẩy, một cháu gái bị che lấp dưới vành mũ rộng, chạy lỏn cỏn. Lâu lâu, người mẹ trẻ ngừng đẩy xe để mời khách mua vé số, và cúi xuống hỏi han gì đó với đứa trẻ.

Đó là hạnh phúc ư?

Họ lại rời khỏi thị trấn.

Rồi họ lại quay trở lại. Lần này, người thiếu phụ mang bụng đã lại sắp đến ngày sanh. Cô mệt mỏi đẩy chiếc xe lăn. Đứa trẻ vẫn chạy lủn củn theo chân mẹ. Người nó đầy bụi đường và mùi nắng khét. Gã đàn ông vẫn y như cũ. Tôi gặp họ nhìêu lần nhưng chưa bao giờ thấy người đàn ông vui vẻ, hay thấy gã nói một lời ân cần nào với hai mẹ con. Sao vậy nhỉ?

Đến lần gặp thứ ba này, tôi thực sự muốn cất lên lời chửi rủa sa sả như bà bán bánh xèo đã làm. Và cái gọi là tình yêu mà tôi tôn thờ, thực sự đã làm tôi nghẹt thở, khi nghĩ đến tất cả mọi cực nhọc mà người con gái xinh đẹp ngày xưa đang phải gánh chịu, phải đương đầu mỗi ngày trong cuộc sống cam go.

Cô gái ơi, cô có hạnh phúc không? Ít nhất là về mặt tinh thần?

Có phải đây là số phận của cô không?

KÝ ỨC THÁNG TƯ

Đức Linh là vùng giải phóng sớm, từ cuối năm 1974, nhưng Sư Đoàn 18 của Ngụy từ Long Khánh chi viện qua ngả Quốc lộ 120, đến cây số 125 Định Quán, rồi vượt sông La Ngà sang, đóng quân trong những rừng cao su bạt ngàn, lại đánh tái chiếm. Nhưng đến ngày 23/3/1975, thì quân Ngụy tháo chạy hoàn toàn. Trong thời gian từ cuối năm 1974 đến 23/3/1975, cao điểm Núi Dinh là một trong những điểm nóng hai bên quyết dành cho bằng được. Không biết bao nhiêu bom đạn rải thảm trên ngọn núi độc lập này, ban ngày đất bụi từ đỉnh núi tung đỏ trời kèm theo những tiếng nổ ùng oàng không ngớt. Ban đêm, ngọn núi cháy đỏ rực vì bom Napan. Từ thị trấn, cách núi chỉ 5 km, nhìn lên, núi cháy như một bó đuốc chĩa thẳng lên nền trời, để soi sáng một điều gì đó.

Ấy là thời gian tôi chứng kiến chiến tranh. Ban đêm, cả nhà ngủ trong hầm, ban ngày người người nháo nhác. Sau vì nhà tôi quá gần Chi khu quân sự của ngụy, chỉ cách khoảng 300 mét, tính theo đường chim bay, cha mẹ tôi quyết định đem cả nhà ra đồng trống.

Trên cánh đồng lúa ven sông La Ngà, giáp ranh với Định Quán, mọc lên hàng trăm căn chòi tạm bợ được cất bằng vải, bằng nong, nia, bằng lau lách. Sau đó, không biết người lớn bàn bạc nhau như thế nào, mà mọi người kéo trở ngược vào thôn rồi leo lên những chiếc xe tải. Hàng đoàn cả trăm chiếc xe tải, chở hàng ngàn người rời bỏ nhà cửa ra đi. Khi xe chạy theo con đường vòng qua Chi khu, tôi nhìn thấy khói bốc lên nghi ngút, đây đó trắng xóa giấy tờ như ai rải truyền đơn, và vắng hoe không một bóng người. Quân Ngụy đã rút chạy hòan toàn.

Đó là những ngày cuối tháng 3/1974.

Những chiếc xe tải chở chúng tôi phải dừng lại ở Trà Tân, cách nhà tôi chừng 10 km. Phía trước, trên con đường độc đạo, đang có giao tranh ở Gia Rây, cách nơi chúng tôi dừng lại cũng khoảng 10 km. Mọi người rời xe tải, nằm vật vạ dưới những bóng cây, hoặc kiếm một cái gì đó che tạm. Trẻ con khóc mếu máo vì sợ, vì đói và vì cả khát nữa. Tháng ba, đang mùa khô. Nước mang theo của từng gia đình đã cạn. Tôi chạy theo những người kiếm nước ở những suối nước trong rừng sâu. Nhưng chỉ kiếm được một ít nước đục ngầu.

Ngày hôm sau, tiếng súng giao tranh phía trước vẫn đì đùng. Nhiều người quay trở lại nơi đã ra đi. Nhiều người bàn bạc tìm con đường xuyên rừng để ra quốc lộ 1. Cha mẹ tôi đi theo những người quả quyết xuyên rừng. Họ hăm hở bắt đầu cuộc hành trình mà tôi luôn luôn tự hỏi, không biết họ chạy đi đâu?

Đầu tiên là vất bỏ những thứ nặng mặc dù đó là gia tài của họ, về sau, cả xe Honda cũng vất bỏ vì hết xăng không để đẩy trong đường rừng, cuối cùng, cả gạo cũng chỉ mang theo đủ vài ngày ăn. Đoàn người lếch thếch vất vả đi theo những con đường ngoằn ngoèo trong rừng mà hình như chẳng ai biết con đường sẽ dẫn họ đến đâu. Khổ nhất là không có nước. Nhiều người chặt dây rừng để uống. Cha mẹ tôi không biết chặt dây rừng, tôi thương Đen khát khô nẻ cả môi miệng mà chẳng biết làm sao, tôi tìm những bông hoa nở dọc đường hái đưa cho Đen hút nhụy cho đỡ khát. Có một hố bom đọng nước đỏ ngầu ven đường mòn, nhiều người lao xuống múc uống, tôi cũng nhào xuống tranh, tôi múc đầy chiếc bình hai lít mang theo người, đem lên cho Đen tu ừng ực thứ nước đầy bùn đỏ và nòng nọc con. Đêm đó, Đen và tôi cùng đau bụng quằn quại. Khổ nhất là Đen đi ngoài cả khi đang ngủ, nó bị đòn, còn tôi thì lò mò tìm cái để lau, để thay và để an ủi Đen.

3 ngày sau, chúng tôi tìm thấy bìa rừng, tìm thấy nhà và thấy nước, nơi chúng tôi tìm thấy chính là Gia Rây, chỗ chiến sự mấy hôm trước. Nhiều nơi khói chiến tranh vẫn còn bốc lên đầy đe dọa.

Theo đường tỉnh lộ 133 đoàn người rồng rằn bồng bế, cõng nhau lội bộ vượt qua Gia Rây, qua ngã ba Ông Đồn. Tại ngã ba Ông Đồn, nơi ngày nay là UBND huyện Xuân Lộc, tôi nhìn thấy xác người, chân tay của họ vương vãi trên bờ dây thép gai của chi khu quân sự. Trên đường, tôi thấy một đoàn quân Giải phóng vượt quốc lộ 1, họ băng từ bên này sang bên kia, tất cả đều mặc đồ đen, mang dép cao su có quai hậu, quấn khăn rằn trên cổ. Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy quân giải phóng trên suốt hành trình tháo chạy vô vọng của những người sợ chiến tranh.

Mọi người dừng lại một đêm ở Suối Cát, cách ngã ba Ông Đồn chừng 2km. Hôm sau, họ lại băng rừng ra Căn cứ 2. Lần này, họ đã thành công. Ở Căn Cứ 2 họ tìm được xe đi nhờ về Bình Tuy.

Tại Bình Tuy, có một nơi gọi là Trại Tỵ nạn dành cho những người chạy nạn, hàng trăm căn nhà cất tạm bằng lá buông được cất trên một khu đất trống. Mỗi gia đình được cấp một căn nhà lá buông và 50 kg gạo. Tôi thầm mong gia đình tôi ở mãi nơi ấy luôn, vì tôi không biết họ chạy đi đâu, để làm gì. Không ai quan tâm đến tôi, và chẳng ai buồn trả lời những câu tôi hỏi.

Tôi lang thang ra đường quốc lộ, trên đường xe quân sự đủ loại, chở đầy lính và súng ống đạn dược, có cả những quả đạn dài thong, nhọn hoắt, đuôi xòe hoa. Xe chạy ngược, chạy xuôi. Lính ngụy cũng rất nhiều, chạy xuôi, chạy ngược. Có cả những hàng lính đi bộ nữa, họ đi hối hả, vội vàng nhưng có vẻ như không biết đi đâu. Vì nhìn họ vẻ hốt hoảng, nét mặt thất thần, đi từng tốp, từng nhóm, không có hàng ngũ gì cả. Sau này tôi biết, đó là những lính ngụy vừa rời bỏ mặt trận, rời bỏ nhiệm vụ, tháo chạy.

Ba mẹ tôi lại theo đoàn người rời căn nhà lá buông mà tôi rất thích, vì nó cho tôi sự yên tâm, vì Đen có thể thoải mái nằm ngủ giữa căn nhà rộng tuềnh toàng, mà ít bị ăn đòn. Theo cha mẹ, tôi và mọi người ra cửa biển, bước lên những chiếc ghe đánh cá. Cửa biển sóng chồm từng cơn trắng xóa hung dữ, chiếc thuyền tròng trành như lá tre trên mặt nước. Con người quá nhỏ bé, mong manh trước bao la biển trời, nhưng đồng thời, con người cũng là loài có sức mạnh hủy diệt ngang bằng với sức mạnh của tạo hóa. Tôi bò lên trên mũi thuyền để nằm. Chiếc thuyền chạy ven bờ biển, mảnh trăng non buồn bã trên nền trời. Tôi khấn tên Phật Quan Thế Âm cho đỡ sợ, rồi nằm nhìn bầu trời và lâu lâu sờ mũi Đen thử Đen còn thở không.

Thuyền cập bãi biển Vũng Tàu. Đó là Bãi Trước. Tôi nằm sóng xoài trên bờ say đứ đừ sang cả hôm sau. Tôi nằm như con mèo ướt dưới hàng ngàn bàn chân hối hả đi đi, lại lại mà không hề biết phải đi đâu.Gia đình tôi lang thang, loanh quanh ở nhiều nơi tại Vũng Tàu. Có hôm, cả nhà qua đêm trên một nhà vệ sinh lộ thiên mà không biết, sáng hôm sau, dưới lưng, bầy dòi từ những lỗ đi đại tiện bò lúc nhúc.

Thành phố vắng hoe, thi thoảng có tiếng súng đâu đó. Trời ạ, không phải súng giao tranh mà là súng phá cửa những kho hàng, cửa hiệu để cướp của. Trong đoàn người của chúng tôi cũng có nhiều người tham gia những vụ cướp của ấy.

Chúng tôi lay lắt, từ bến tàu đến sân chùa, từ trong nội thị tìm về những nẻo thôn. Ngày này qua ngày khác, chúng tôi cứ lang thang như vậy mà không biết để làm gì. Có nhiều ngày, tôi chạy ra bến tàu, thấy những chiếc tàu to lớn chất đầy người chuẩn bị nhổ neo. Trên bến, nhung nhúc người chen chúc xô đẩy để giành những chỗ chật hẹp lên chiếc cầu tàu. Một vị linh mục đứng nhìn cảnh ấy và lần tràng hạt cầu kinh. Có lần, tôi nhìn thấy một chiếc tàu màu đỏ, to lớn, vừa rời cảng biển chưa kịp khuất tầm mắt thì đã chìm nghỉm. Tiếng khóc, tiếng la cầu cứu rền một góc trời.

Tuyệt nhiên, không hề nghe tiếng súng giao tranh như dự đoán của nhiều người.

Sau đó, gia đình tôi lại lang thang tìm qua Long Hải. Ở Long Hải một thời gian nữa, lại lang thang tìm đường về Biên Hòa, Long Thành, Đồng Nai, và cuối cùng chúng tôi trở lại nhà sau 4 tháng chạy trước hòn tên mũi đạn. Cho đến bây giờ, tất cả những người trong đoàn người chạy rồng rắn ngày nọ, không ai giải thích được là họ chạy đi đâu, làm gì vào những ngày tháng đó. Họ không giải thích, hay không thể giải thích nhỉ?

Chuyến đi ấy, vô tình tôi đã đưa tôi đến cùng những giây phút lịch sử của đất nước qua nhiều vùng miền. Bây giờ, lịch sử chứng minh, quân Ngụy sau khi thất bại nặng nề ở Tây Nguyên và bị Mỹ bỏ rơi đã khủng hoảng tinh thần. Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh phi nghĩa của chúng đã bị nhân dân cả nước, bạn bè trên thế giới lên án cực lực, buộc chúng vào tình thế chỉ có thể đầu hàng, buông súng chứ không có chọn lựa nào khác.

Tôi cũng đã chứng kiến, họ buông súng thật. Cái sự buông súng kịp thời, đúng lúc đó là may mắn lớn của dân tộc Việt Nam. Vì sau khi Tây Nguyên thất trận, từ Quảng Trị đổ vào, chỉ có Xuân Lộc -Đồng Nai là nơi xảy ra giao chiến, còn lại quân Giải phóng đã tiếp quản nhiều thành phố, quân khu để ngỏ. Không có giao chiến trên nhiều tỉnh thành, điều này đồng nghĩa là không có thiệt hại xương máu của hàng trăm ngàn người ở cả hai bên. Và cả những người dân lành vô tội, ngu ngơ như đoàn người chạy trước mũi súng. Nếu chiến sự diễn ra nơi nơi, biết đâu, một viên đạn đã cướp mất tôi từ ngày nọ, khi còn là một cô bé mũi dãi lòng thòng trong đoàn người đi như vịt?

BÍ ẨN CỦA ĐẤT

Tản văn

Không khí đầy mùi ẩm ướt và hầm hập oi nồng. Bầy chim sẻ bứt rứt nhảy loạn xạ trên cành xoài, tiếng hót lanh lảnh của chúng rớt xuống từ một vòm lá xanh thẫm. Những đám mây không đủ bình tĩnh vùn vụt bay cuống quít từ phía tây sang phía đông, nhưng rồi lại thấy từ sau rặng bạch đàn đám mây ùn ùn đùn lên đen như tẩm mực. Cơn mưa như bầy trẻ con bất chợt chạy ào ào trong sân và tung chân nhún nhảy cùng nắng vẫn vàng tươi trước hiên nhà. Mẹ tôi nói, mưa nắng, trời lại hầm như vầy e nấm mối mọc đây. Nấm gieo mạ.

Đi hái nấm!

Câu nói đó với rất nhiều người thật xa lạ. Với cũng rất nhiều người là kinh ngạc và ngay lập tức họ sẽ lắc đầu e dè kèm đôi mắt trợn ngược, miệng thốt lên coi chừng nấm độc, ăn có họa điên. Nhưng với tôi, đó là một ma lực không sao cưỡng lại nổi. Tôi vùng chạy đi, cho dù có đang làm gì, có bận mấy thì tôi cũng sẽ chạy đi. Tôi không thể không nhìn thấy những đóa hoa bí ẩn thơm nồng nàn nở ra từ đất. Đúng vậy, hoa nở ngay trên đất!

Đó là những ngày tháng 5. Hoa dại đầy trên lối đi. Bầy dế hát ri ri trong đám cỏ. Bình thường tôi sẽ ngắm không chán những bông cúc ngầy ngật thơm, đang được những chú bướm vàng ve vãn, hoặc tần ngần trước những giọt sương nặng trĩu bám đầy trên vạt bông cỏ sữa màu tím nhạt, bâng khuâng không nỡ cất bước trước những đám rau càng cua xanh nõn, rung rung khêu gợi dưới gốc cao su. Nhưng bây giờ tôi chỉ nhìn chăm chăm, nhìn khắp nơi và mong mỏi sao ánh mắt sẽ chạm đến một đám hoa màu trắng trên mặt đất. Tôi biết rõ cái sắc trắng lấp lóa, hình tròn tròn, chúng sáng lên như được phủ một lớp nhũ bằng bạc, dù cách xa hàng trăm mét tôi vẫn biết đó là nấm mối. Đó là hoa của đất, là món quà tặng đặc biệt nhất của thiên nhiên.

Có một người bạn trầm ngâm hồi tưởng rồi chậm rãi kể cho tôi nghe: vào một buổi tối trời mưa, anh nói với đứa con trai nhỏ rằng con có muốn coi ti vi không? Thằng bé nói, ti vi đâu mà coi hỡ ba, đi sang nhà bác Hai thì trời đang mưa?

-Không. Đi làm gì. Để ba mở tivi nhà mình cho con coi.

-Nhà mình đâu có ti vi mà mở ba?

-Có!

- Đừng nghe ba phỉnh đó con- Vợ anh đang nằm ôm con cười rung cả giường và bảo như vậy- Ba đùa đó.

- Không. Ba nói thiệt, coi thì ba mở nha?

- Coi. Con coi cải lương. Ba mở đi ba!- Thằng bé hét lên- Thật bất ngờ, chiếc tủ bật nắp ra và sau cánh cửa là màn hình một chiếc tivi to thiệt to được giấu kín từ bao giờ. Niềm vui như vỡ tung trên mặt hai mẹ con của một gia đình nghèo. Tôi cũng vui y chang như vậy khi nhìn thấy đám nấm, dù đã cất công đi tìm kiếm, nhưng khi nhìn thấy chúng, niềm vui sướng của tôi cũng òa vỡ đầy bất ngờ với thú vị khó kiềm chế.

Từ mặt đất đầy mùi lá mục và cỏ, một vạt nấm nhú lên, từng cây, từng cây mập mạp. Tôi thận trọng nhổ, cố tình sao cho cây nấm không bị đứt ngang, bên dưới gốc, tôi gặp tầng đất đặc trưng của tổ mối. Lạ lùng và đầy bí ẩn, nấm mối mọc lên từ tầng đất do con mối tạo ra, nhưng không phải tầng đất mối tạo ra nào cũng mọc thành nấm mối. Mùi thơm của cây nấm phảng phất mùi của con mối và hương thơm của tất cả mọi loại hoa, mọi loài vật gộp lại. Thơm điếc mũi. Ngay lập tức, những con vật bị mùi thơm quyến rũ, chúng tìm đến ăn nấm. Kiến cũng kéo đến từng bầy để dự bữa tiệc chiêu đãi. Cây nấm sẽ nở ra ban sáng, sẽ tàn ngay buổi chiều. Đôi lúc, cũng gặp được những cây nấm còn đầy sức sống trong buổi sáng hôm sau, nhưng trong tàn của chúng đã đầy những sinh vật bám lúc nhúc.

Ngày ba tôi con sống, ông mê ăn nấm mối, mê nhất là món nấm tẩm chút muối ớt, bó trong mảnh vỏ chuối đem nướng. Các món nướng bao giờ cũng thơm náo nức, ngon hơn hẳn. Nấm mối nướng chín tới, mùi thơm ngòn ngọt đã bay tận đầu ngõ. Bóc lớp vỏ chuối cháy xém, những cọng nấm tứa ra một lớp nước ươn uớt và óng vàng như được tẩm mật ong, thịt thơm như thịt gà, loại thịt được sinh ra từ sự kết tinh của đất với không khí và hương thơm tinh khiết mà thành.

Nhưng mẹ tôi chỉ thích nấu canh nấm với rau lang. Rau lang có vị chan chát, vị chát ấy được cái ngọt đậm đà của nấm trung hòa, chan cơm thì ăn không biết no. Còn tôi chỉ thích um nấm với chút xiu mắm, rắc hột tiêu rồi bẻ bánh tráng ngồi xúc. Với tôi không có món ngon nào có thể sánh bằng nấm mối. Nhưng tuyệt nhất là những sợi nấm khô. Nếu um xì dầu rồi phơi khô thì khô nai cũng khó sánh kịp.

Mỗi năm, ở miền Đông Nam bộ thường có hai lần nấm mối mọc ở những vùng đất nhiều bóng râm và lá mục. Lần đầu nấm mọc trong tháng 5, vào những ngày thời tiết nóng ẩm và có mưa. Thời gian này được gọi là "Nấm gieo mạ" (mọc vào thời điểm người nông dân gieo mạ). Lần mọc thứ hai diễn ra vào tháng 8, cũng vào những ngày nóng ẩm và có mưa. Thời gian này được gọi là " Nấm rạ thóc" (tức lúa đã gặt)

Tôi biết có rất nhiều người chưa hề được nếm món nấm mối, vì nấm mối cho đến bây giờ chưa thấy ai trồng. Nấm mối vẫn là một bí ẩn thú vị bậc nhất của thiên nhiên.

HÀ NỘI MÙA THU PHÍA CHÂN TRỜI

Tản văn

Hà nội đón tôi bằng những bông cúc vàng, khi mùa Thu vẫn còn dùng dằng đâu đó phía chân trời.

Màu vàng của hoa cúc mới thật lạ lùng, đó là màu nắng còn non, có thể màu nắng ấy chính là “nắng hàng cau” ở thôn Vỹ Dạ của Hàn Mặc Tử; cũng có thể đó là màu nắng xuyên qua tán thông già rồi nhẹ nhàng tung vào thành phố sương mù Đà Lạt. Thứ nắng óng ả như lụa, mong manh và suốt trong. Thiên nhiên đã cô đọng lại, gắn kết tài hoa màu nắng vàng ấy thành màu hoa cúc, thanh tao và kiêu hãnh?

4 giờ chiều, trời nóng hầm hập, tôi xuống phố đây cúc vàng ơi. Vẫy tay chào những bông hoa, tôi khóa cửa phòng bước ra phố phường Hà Nội. Phố Tràng Tiền, nơi mà ngày còn là học sinh, tôi từng đứng bên góc Hồ Gươm nhìn chăm chắm dòng người nối nhau vào mua kem, có lúc, tôi đã nhìn hau háu chiếc que kem màu tím thẫm ấy như bị thôi miên. Thật là một hạnh ngộ bất ngờ, chung vách với khách sạn Tràng Tiền là Hãng kem Tràng Tiền trong muôn vàn giấc mơ của tôi, vẫn dòng người xếp hàng mua kem như xưa, nhưng tôi không đứng ngó từ xa nữa, tôi sung sướng chen chân vào: Kem ốc Huế ba ngàn rưỡi, kem que hai ngàn. Tôi mua tất cả, mua hào hứng và ngắm nhìn những đôi thanh niên nam nữ vừa ăn kem vừa nhìn nhau nồng nàn. Một tốp những người lính trẻ đứng tụm vào nhau, vừa ăn vừa cười nói ồn ào. Họ cắn miếng kem ngập chân răng. Nhìn họ ăn mới ngon làm sao!

Có lẽ, chỉ có ở Hà Nội, và cũng chỉ riêng ở phố Tràng Tiền mới có nơi xếp hàng mua kem rồi đứng ăn hồn nhiên như thế này.

Đến Hà Nội nhiều lần, thậm chí ở đây nhiều năm, nhưng lần này tôi mới đến được Chùa Trấn Quốc. Ngôi chùa cũ lắm, nép mình khiêm nhường trên một rẻo đất nhỏ ven Hồ Tây. Bước chân qua khỏi cổng, không gian bỗng trầm lặng hẳn xuống, không khí thanh tịnh bao trùm, giây lát thấy lòng lắng lại, thanh thản. Đồng thời đâu đó trong hồn dấy lên niềm tự hào hòa quyện với xúc động. Hai chữ “Trấn Quốc” uy nghiêm, làm người vãng cảnh tưởng như mỗi hạt đất, mỗi mắt lá, và trong làn khói hương thoang thoảng thơm kia, hồn thiêng sông núi tụ hội, chất ngất.

Cũng là lần đầu tiên, trong buổi chiều ấy, tôi ngồi ven bờ Hồ trước Phủ thờ bà Liễu Hạnh. Đến Phủ thờ phải đi vòng qua đê sông Hồng, vào sâu trong một ngõ nhỏ, Phủ nằm nép mình dưới nhiều gốc cây si, trong đó có một gốc đại thụ cành lá sum suê xòa trên mặt hồ. Từ đó, nhìn qua bên kia Hà Nội lấp lánh những ánh đèn muôn màu. Cuộc sống nghĩ thật lạ, ranh giới tịnh yên và ồn ào, giữa trong lành và mù đục chỉ cách nhau lằn ranh không có hình hài. Tôi tin câu nói: “Thiên đường, Địa ngục đều có cả trong cõi trần”.

Tôi còn đi qua Làng Hoa bây giờ chỉ toàn là nhà cao tầng, qua phố Cổ, qua Hà Nội mới, qua nhiều lắm…nhưng không sao gặp được ngọn gió heo may về thì thầm trên những tầng lá, không thể chạm tay vào chút se lạnh đầu thu để nhìn má thiếu nữ ửng hồng, không thể phiêu diêu trước Hồ Gươm ngắm hạt mưa vỡ lăn tăn trên mặt nước, nhìn liễu rũ dịu dàng đong đưa, và gặp chính tôi trong thỏa thuê khao khát, đi lang thang, lang thang giữa Hà Nội với trời thu

Đêm đó, tôi và những đóa hoa cúc chia sẻ một không gian nhỏ bé trong phòng nghỉ Tràng Tiền. Tôi nhìn những đóa hoa lòng đầy ái ngại. Trưa nay, vì bối rối, cái bối rối y hệt như lần đầu tiên đến chỗ hò hẹn, mặt bừng đỏ và tay chân thừa thãi. Đúng vậy, tôi đã luống cuống đến mức cầm vòi nước nóng khoảng 45 độ tưới lên bình hoa, tưới đến lúc nước gần đầy bình mới giật mình... Nhưng hình như những bông cúc không hề hấn gì, chúng như mặt trời nhỏ, vẫn khỏe khoắn, tươi thắm và kiêu hãnh. Xin lỗi nhé cúc vàng. Tôi không cố ý. Tôi vẫn tin rằng Hà Nội sẽ tặng tôi một buổi chớm thu về, vì vậy, gặp Hà Nội lần này tôi hóa ngẩn ngơ. Tôi thiếp đi mang vào giấc ngủ cái nháy mắt của những bông hoa màu nắng và niềm hy vọng mong manh thu về.

Thế nhưng không như tôi mong đợi, hôm sau, ngọn gió vẫn ẩn mình đâu đó trên những đám mây trắng hờ hững, để mặc nắng quạt lửa vào mặt người. Bầu trời xanh ngăn ngắt, cao vời vợi, không khí hầm hập đặc sánh lại, hàng liễu rũ ven Hồ Gươm im lìm đứng ngắm chính bóng mình.

Mùa Thu vẫn đâu đó phía chân trời, mặc dù đã nghe dịch chuyển, bầy chim nhao nhác thiên di và cả bâng khuâng lay động tầng chiều. Một chút gì như thật gần, gần như hơi thở đâu đó trên bờ vai mà vẫn không sao chạm vào được thu về.

Mùa Thu ơi, thôi đừng hò hẹn, tôi là người không đến kịp bao giờ!

Rau tập tàng nấu canh cua

Tạp văn

Dung hỏi tôi suốt 10 ngày ra phía Bắc, cậu thích món ăn nào nhất. Canh rau tập tàng nấu riêu cua, ở Đông Hà ấy. Tôi trả lời ngay và trong đầu lại hiện lên bữa trưa nóng bỏng trên đất Đông Hà.

Khi ấy, chúng tôi ai nấy mồ hôi nhễ nhại và mệt nhoài vì đã sang ngày thứ hai ngồi xe, mỗi ngày vượt sáu trăm cây số. Tôi đã thấy oai oải, người ran ran nóng, vì vậy khi người phục vụ bưng bát canh rau xanh mứơt, bên trên miếng riêu cua vàng tươm, dày sánh như một miếng trứng tráng. Tôi vội vàng múc muỗng canh cho vào bát, trời, ngọt quá! Ưm. Ngon ơi là ngon! Trong vị ngọt có cái thanh từ những cộng rau dền, rau sam, rau tàu bay, rau muống, rau má, rau cải…có vị đậm đà từ chất đạm trong cua và từ cách nêm có chút ruốc, chút nước mắm của người Quảng Trị. Hơn thế nữa, bát canh ngọt đến vậy có lẽ vì còn có cả cái tình của những đứa trẻ tóc cháy như râu ngô, người khét mùi bùn ngái vì suốt ngày mò cua, bắt ốc; của người lam lũ nhặt nhạnh từng ngọn rau tập tàng. Chắc chắn đó là những mẹ nghèo, những đứa trẻ chưa đủ cơm để no… Tôi múc thêm muỗng nữa, muỗng nữa và hầu như bữa ăn đó, tôi chỉ ăn mỗi món canh tập tàng rồi đứng dậy.

Khi ra Hà Nội, người bạn Hà Nội hỏi “Em múôn ăn món gì?”, tôi nói chỉ thích những món rau, nếu tìm được tiệm ăn bình dân mà có canh riêu cua nấu rau tập tàng thì tuyệt quá. Nhưng cuối cùng nhà hàng đã mang ra bát canh rau cải nấu với hải sản gì đó, giờ tôi cũng không nhớ nổi là gì…Và tôi buồn, tôi âm thầm buồn vì nhớ Em. Vì món canh rau tập tàng nhắc nhiều đến Em, vì tôi muốn ăn canh rau tập tàng ở Hà Nội như là một cách để tôi tìm gặp lại Em.

Hơn 20 năm rồi, chính xác là 21 năm, kể từ cái ngày chúng ta chia tay nhau ở ga Hà Nội. Tôi đã trở lại Hà Nội vài lần, lần này tôi đi lang thang, tôi nhìn ngó mọi nẻo phố phường, như lang thang trong ký ức xa mờ, ngược về hai mươi năm cũ để mà thấy lại một cậu thanh niên cao kều, đen nhẻm, súôt nhiều năm ròng chỉ mặc duy nhất một bộ đồ bộ đội cụt lủn, còng lưng đạp xe qua những phố phường xa hoa.

Một ngày mùa hè, tôi đến ký túc xá nam, trước cửa phòng ở của Em. Em ngồi, lụi cụi giã cua, lọc nước, nấu canh đãi tôi. Em nhất định không cho tôi mó tay vào. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi thấy người ta nấu riêu, thấy giã cua, thấy cách nấu canh chua bằng mướp với cua và quả nhót. Em làm thành thạo, tỉ mẩn, em nói : “ Mẹ em mất khi em mới ra đời, ít sau ba em lấy vợ khác, em sống với chị, rồi chị cũng có chồng, cuối cùng còn một mình, em quen rồi.” Ngày đó, vì đói, vì nhiều lẽ khác nữa, món canh chua nấu bằng mướp với riêu cua của Em ngọt cho đến tận bây giờ.

Sau này, nghe nói Em đã sang lao động bên Đức. Em ơi, đất nước người đâu phải là thiên đường?!

Tôi nhớ em, nhớ và ân hận. Ngày ấy chúng ta có đến 4 người, tôi, Em, Bắc, và Hùng. Tôi thân Hùng nhiều hơn, đi đâu cũng gọi Bắc, Em lại không hợp với Bắc, hoặc Hùng, chẳng mấy khi chúng ta thật vui khi có cả 4 người. Thời gian vun vút trôi, rồi chia tay, tôi về Nam, mang theo tình em, mang theo cả niềm day dứt...

Hà Nội ơi, Hà Nội giữ trong lòng hình ảnh một Thọ Tuấn của tôi.

CHUYỆN VỀ LOÀI HOA BỒ CÔNG ANH

Tạp văn

Có một vùng của đất nước Mỹ, bát ngát dưới thung lũng, xanh rờn cả một triền đồi, hoặc từng thảm non mềm mại chạy dọc các đại lộ, hay bên lối nhỏ đi vào nhà, thậm chí ngay cả trước bậc thềm cũng mọc lên những cây hoa bồ công anh. Đến mùa, những bông bồ công anh nở trắng, trên chiếc cuống xanh ròn mảnh mai vươn thẳng là môt quả cầu trắng đính đầy những cọng tơ trời mịn màng, mỏng manh. Chúng chờ những ngọn gió đến mang chúng phiêu lãng trong bầu trời.

Mùa hoa bồ công anh cũng là mùa mà cư dân của vùng đất có loài cây này, từ cụ già đến em bé phải mang những chứng bệnh ho viêm họng, viêm mũi, viêm phế quản do những sợi tơ li ti từ những bông hoa bay trong gió gây ra. Loại cây xanh yếu ớt, những bông hoa nhỏ nhoi mang trên mình những cọng tơ mềm mại bỗng nhiên trở thành đối thủ thù địch của con người. Tiêu diệt chúng, tấn công chúng để bảo vệ chúng ta? Đương nhiên rồi! Ôi loài người tưởng như hiền lành, nhưng chính sự hủy diệt nằm trong tay họ nhiều hơn là trong tay của Thánh thần, hoặc Ma quỷ…Tất cả sẽ là tro bụi, nhưng từ tro bụi cũng có thể hồi sinh vì vậy phải làm cho chúng vĩnh viễn biến mất. Sẽ là thế, nếu con người muốn!

Nhưng, con người ở vùng đất Mỹ kia đã quyết định: Hoa bồ công anh đã có mặt nơi đây khi chưa từng có một con người nào, kể cả người Mỹ. Chúng là chủ nhân của vùng đất này! Một phần tất yếu, đương nhiên và là quà tặng của tạo hóa đã ban cho. Vùng đất này nếu không còn hoa bồ công anh thì sự sống của con người, trong góc hồn của họ sẽ trống hoác ra không có gì bù đắp nổi. Và con người quyết định: “Chung sống hòa bình với hoa bồ công anh”.

Những sợi tơ mịn màng đến mùa cứ bay, những quả cầu trắng bé xinh xinh cứ tự do nở bung trong nắng mai vàng rực. Con người sẽ đeo khẩu trang, khi muốn ở trên cánh đồng thưởng thức mùi hương ngai ngái và ngọt ngào từ cỏ tươi, đất ẩm; sẽ đứng bên trong cửa kính mà ngắm nhìn chúng. Cuộc sống thật thanh bình biết bao!

Một ngày, ta chợt đứng trước những bông hoa bồ công anh, bông hoa nhỏ nhoi kiêu hãnh tung mình trong gió. Phút giây ấy, ta nhận ra sự vĩnh cửu trường tồn và hư vô nằm bên nhau, nhận ra cái thiện và ác tiềm ẩn trong con người cũng chỉ cách nhau mong manh như tơ của loài hoa bồ công anh.

Theo gió bay đi

Truyện ngắn

Bà Tưởng cao lêu đêu, giọng nói khàn khàn.Tôi chưa bao giờ nghe bà cười thật lớn, nhưng kêu gào thảm thiết thì năm nào cũng có, tháng nào cũng có, đôi khi có cả ngày hai bận, toàn kêu khóc van lạy mấy ông con.

Bà Tưởng có nhiều con. Nhưng họ ở tận đâu ít ai biết, chung vườn, chung vách cùng bà có hai người. Gã tóc dài xõa ngang vai, tướng đi nhún nhẩy, thỉnh thoảng cầm đàn hát tứng tứng từng từng có vợ đi tù nhiều năm, bỏ lại một bầy con năm đứa. Từ thằng Cọt 5 tuổi đến Tí Lớn 13 tuổi có cùng một chiều cao, tong teo như nhau. Tay chân như dải dây đong đưa trên cái thân tóp rọp, đít túm lại và cái đầu tỏ ra quá khổ trên chiếc cổ như chân cò, bám dày đất đen.

Có lần, thằng Tí Nhỏ vì ngoái cổ nhìn chiếc bánh gói đang vào gọn trong miệng con bé Hồng, nhà bà Chín mà bước hẳn vào một bãi phân trâu. Bọn trẻ ré lên cười, thằng Tí Nhỏ vẫn chưa ra khỏi giấc mơ miếng bánh sẽ vào miệng nó, vị ngọt tứa theo hàm nhai, dòng nước bọt sực mùi thơm ngọt ngào trôi xuống cổ họng. Nó bất giác nuốt ực, và giật mình vì mùi phân xộc thẳng vào mặt…

Từ ngày con dâu không có nhà, bà Tưởng là nơi bầy cháu bấu víu kể cả khi chúng bị người cha say rượu bắt dậy quỳ xếp hàng giữa khuya. Thằng cu Hậu mắt nhắm, mắt mở hỏi cu Nhỏ: “Nhỏ, răng mà phải quỳ rứa Nhỏ?” “Im đi. Quỳ thì quỳ chớ răng! Ba bắt thì quỳ, không quỳ chết có!”. Bà Tưởng vật vả chạy đến, cái bóng lêu đêu, lắc lư trên nền đất y như bóng ma. Bà gào lên: “Răng rứa con ơi? Chớ bây tính giết cả bọn đi à? Nửa đêm, bây uống rượu về rồi bây hành ri, thì sống răng cho nổi. Chúa ơi! Bây lấy gậy bằng bắp tay mà nện thì còn chi thân xác bọn hắn? Ai nện bây rứa, bây chịu nổi một cây không? Răng rứa? Bây điên thì bây chết đi. Chết đi! Chúa ơi! Lạy Chúa với chớ, Chúa ngó cho với chớ! Con biết làm răng hắn chừ, Chúa ơi!!?”

Bà Tưởng thành kính ngước lên nhìn đâu đó đăm đắm vào màn trời sâu thăm thẳm rồi làm dấu thánh giá, cặp mắt thành khẩn của bà tứa giọt lệ khô cằn.

Ông con, sưng sưng cái mặt, bước khệng khạng ra cửa nhìn mẹ buông một câu xanh rờn: “Chết răng được bọn hắn. Có mà chết cơm.”

Bọn thằng Nhỏ, thằng Lớn, thằng Hậu, thằng Tiền lấm lét như rắn mồng năm. Bà Tưởng xua: “ Đi. Đi thôi. Mấy đứa sang bên mệ mà ngủ. Bây cứ nhét hết lên gường mệ, hắn có sang thì đã có mệ đây. Răng mà hắn lại thành ra rứa Chúa ơi, Đức Mẹ Thánh Thần ơi?”

Bọn trẻ đói cũng chạy sang bà, đau bụng cũng sang bà, chút bánh tết cũng ngóng từ tay năm ngón chỉ còn trơ xương của bà. Không đủ tiền, bà đi lang thang vườn nhà này, ao nhà nọ hái cụm rau sam, cọng rau dền, những quả mướt bắng nhắng õng ẹo tít trên đọt ổi bà cũng khều xuống, đem về...

Nhưng bà Tưởng đã phủi tay!

Chiếc lá đỏ quạch, te tua mệt mỏi đành lìa cành, không che chắn bão giông cho bầy chim đói liu riu lít chít nữa. Bà Tưởng cũng chẳng còn hơi đâu mà kêu, mà hờ lên ai oán cái nỗi đau khổ vì con. Bà bỏ đi bất thình lình, không dặn dò. Hình như ngọn gió đã thổi, và bà Tưởng cứ thế bay theo.

Xác bà Tưởng được đặt nằm lọt thỏm trên chiếc giường ọp ẹp giữa gian nhà trước đây vẫn chứa đựng những món đồ cũ kỹ, rệu rão như bà. Trên đầu giường người chết là bàn thờ Chúa, nét mặt của Người rất đau khổ.

-Ai chết mà không nghe thấy tiếng khóc rứa hè?

- Bà già! Già lắm rồi. Già rồi thì chết. Ai chả chết!- Người hỏi là người qua đường, người trả lời cũng là một người qua đường. Không có ai khóc thật. Con cháu bà lăng xăng chạy đầu này, đầu kia nào là đi mua hòm, đi may khăn áo, đi nhờ thầy mời Đức cha đến làm lễ rửa tội, rước linh hồn, đi nhờ người đào huyệt, đi chợ nấu ăn...

Một cái rạp mái che bằng những tấm nhựa nhanh chóng mọc lên trong sân. Bàn ghế kình kình đổ xuống. Trong bếp tiếng bát đũa khua loảng xoảng. Ngoài sân cũng không kém phần bận rộn, ai nấy chạy ra, chạy vào mặt mày căng thẳng, quan trọng. Thằng Tí Nhỏ lớ ngớ đứng nơi cửa bếp bị một bạt tai nẩy lửa của ai đó kèm theo tiếng quát: Ra ngoài mà chơi! Bên ngoài, mưa bay lây lất.

Khách bắt đầu đến thăm, mới đầu họ có vẻ lặng lẽ, về sau thì chuyện trò rì rầm, cuối cùng thì râm ran: Đánh nhau đêm qua ở quán Mụ Bảy...hi hi con mẹ vợ thằng Hải một tay tát vào mặt tình địch, một tay túm lấy đầu tóc quay mới ghê chứ. À mà cái thằng con nhà Hùng Râu nghiện xì ke nghe nói chuyển sang si-da giai đoan cuối. Khiếp, nhà ấy tiền như núi mới chơi lại. Bây giờ thì đành cung phụng cho ông con ăn chơi cho phỉ cuộc đời rồi chết. Một ngày vừa tiền nước dịch truyền, vừa thuốc hút hít, vừa món ngon vật lạ cho cậu qúi tử nghe đâu mất nửa chỉ đấy. Thế cũng sướng cái đời.

Khuya dần, người thăm đã thưa thớt. Trong rạp chỉ còn lại những người thân cận với gia chủ, họ đang túm tụm lại quây quần chung quanh hai cái bàn. Một bàn nhậu đã gần mềm, mồi là những con gà mới đi chợ về cắt tiết làm liền, nóng hổi. Rượu thì tha hồ, cả hai can đến mấy chục lít. Uống và dùng cho việc tẩm liệm cùng một thứ rượu.

Bàn thứ hai còn đông người, thực ra chỉ bốn người ngồi chung quanh im phăng phắc. Những bài tay xóc, xáo và chia bài thành thạo. Họ mải mê đến độ kéo quần đái ngay bên cạnh bàn cho tiện.

Bàn đánh bài có ông con thứ của bà Tưởng, bàn nhậu có ông con tóc bù xù, và uống vừa đấm đàn rên ư hử, người hết vẹo bên này, lại gật sang bên nọ. Hai ông, thay mặt gia đình tiếp khách và bạn hữu đến chia buồn. Nhưng giữa khuya bỗng vang lên tiếng khóc nho nhỏ, tấm tức, mất mát, tuyệt vọng. Tiếng khóc của bọn trẻ mất bà, chúng gục đầu, những cái dải người oặt mềm, quặn vẹo vào nhau đang bấu quanh giường bà, quanh thây người đã vàng bệnh, lạnh cứng. Những bàn tay nhỏ bé bấu víu vô vọng vào người chết.

Hôm nay, vì bận rộn chưa có ai nhớ cho chúng ăn.

BỮA TIỆC ĐÊM CUỐI NĂM

Truyện ngắn

Chị Năm ngừng tay tráng bánh, nhìn ra cửa bếp gọi, Anh à, nghỉ tay mà đi sang bên anh Tùng đi anh. Hồi nãy, em ngó sang thấy đông đen ở bển rồi đó. Mình sang chậm, cô bác chờ phiền lắm.

Bé Loan từ ngoài cửa bước vào nói, Má, họ trải bạt trong sân nhà bác Tùng rồi dọn đồ ăn ra. Có thằng cu Kiên nhà cậu Bảy sang nữa đó.

-Con có muốn đi ăn tiệc với ba hông ?- Anh Lực hỏi con gái- Loan lắc đầu- Ba đi đi. Con phụ má nấu cơm. Bé Loan vừa nói vừa đi khuất vào gian bếp. Bóng nó xiêu vẹo, ngả nghiêng trên bức vách dựng bằng lá buông đã chuyển màu.

Anh Lực ra giếng múc vài gầu nước xối qua loa lên người, rồi khóac áo sang bên xóm. Hôm nay, xóm anh cúng tất niên. Mấy hôm trước anh Tùng, chú Đài, anh Hiển sang nhà anh thăm, họ nói cuối năm xóm nào cũng có bữa tiệc đầu làng vừa là cúng để đưa tiễn các vị thần về trời, để xua đuổi mọi cái xui rủi cho cả xóm, rồi cũng là dịp để bà con chòm xóm ngồi lại trò chuyện với nhau, thể hiện tinh thần đoàn kết. Suốt cả năm, ai cũng lo làm ăn bận bịu, có mấy khi rảnh mà chén chú, chén anh cho thỏa tình chòm xóm…

Anh Lực vừa thập thò đầu ngõ, tiếng chú Đài oang oang:

- A! rứa là đủ rồi. Chú Lực sang nữa là đầy đủ. Xóm mình năm nay thế này là hạnh phúc nhất rồi, không thiếu một ai.

-Thiếu cô Tư- Ai đó trong vắt và sắc như dao nhọn cắt ngọt không gian đang chìm dần vào bóng đêm.

-Cô Tư ngồi kia kìa. Lại có tiếng nói, mọi người ngoảnh nhìn theo cánh tay chỉ của anh Hai Xuân, không những chỉ, anh còn ném về phía cô Tư một ánh nhìn ươn uớt khiến cô Tư cười xòe hết cỡ hàm răng vừa trồng lại bằng sứ Trung Quốc. Hôm nay, cô Tư ăn mặc thật mát mẻ, áo hai dây phơi ngực và bờ vai trắng nhưng nhức. Chẳng ai bảo ai, nhưng mọi cặp mắt đều đổ dồn về phía cô Tư, phụ nữ thì hậm hực, nóng nảy, đàn ông thì mắt cứ đưa qua, liếc lại liên tục. Có người còn tìm cách bẹo cánh tay, hay phát vào vai cô Tư một cái rồi cười rật rật.

Lúc này, bầu không khí tụ họp cuối năm của xóm đã được tinh thần ăn uống, cộng với sự hậm hực nung lên thành náo nhiệt. Anh Tùng sau khi kiểm tra ly mọi người đã được rót đầy rượu trắng, loại rượu nấu của nhà bà Thanh ngai ngái mùi khói, nồng nồng mùi khoai, chua chua mùi hèm, nhưng được cái nó sủi bọt tăm thẳng đứng khiến gã Trung bạt mạng từng cà rỡn nói rằng, bà chị bỏ mấy giọt thuốc trừ sâu hiệu đầu lâu vào nồi hèm, mới có cái bọt tăm đó phải không? Bà Thanh cười giòn tan, tay khuấy nồi cám heo bự như mái vại thùng muối mắm, miệng không ngớt rủa sả. Cha tổ mấy con heo, ăn cho lắm rồi không biết đằng đi ỉa, đứng chỗ nào thúi chỗ nấy. Trung lang bạt, phẩy tay nói, chịu bà chị luôn đó, rồi phủi đít đi thẳng ra ngõ. Đó là chuyện trước đây kia, còn bây giờ Trung lang bạt uống hăng hái nhất, hắn đang bẻ chiếc cổ gà nhai nhồm nhàm, mắt trờn trợn nhìn về phía anh Tùng. Anh Tùng, cầm ly rượu bước khệnh khạng, bước chân sàng qua, múa lại như con thú dữ lúc vờn mồi, đến cạnh cô Tư. Trông ông trưởng thôn lúc này có vẻ như là một người quản lý biết rành những việc cần làm cho từng nhà, từng hoàn cảnh. Biết rõ khi nào thì cần phải ăn, khi nào thì chỉ nên thành kính đứng thắp hương mà thôi, cho dù cái vật đặt lên bàn thờ anh ta đã chấm tay mút thử. Giọng nói to, rền rền của anh khiến cuộc tiệc tạm ngưng ồn ào.

- Thưa bà con, năm nay xóm chúng ta họp mặt cuối năm đông đủ như vầy là quá sức vui mừng. Quá ý nghĩa. Quá sức tuyệt vời. Khi nói câu quá sức tuyệt vời, anh Tùng nhìn sang cô Tư ánh mắt hai người chạm nhau trong khoảnh khắc và cùng lóe sáng. Bây giờ, tôi xin mời bà con cùng nâng ly. Cạn một trăm phần trăm. Riêng cô Tư cũng phải cạn một trăm phần trăm cho ngọt đó nghe. Nào. Hai, ba. Dô…ô ..ô!

Sau tiếng dô kéo rền đồng thanh, những chiếc ly không đặt xuống, lập tức rượu lại được rót đầy. Cô Tư cười ngặt nghẽo khi bàn tay anh Tùng lùa đằng sau vai áo, chạm xuống tận thắt lưng. Lại dô. Tiếng cười tiếng nói ran ran, đề tài chủ yếu là những cuộc nhậu, có mấy người uống, uống hết mấy rọ, mấy ve, trả được cho quán bao nhiêu thước, nợ khúc nào… được kể đi, kể lại say sưa như những chiến tích anh hùng, thời đánh đuổi quân Ngô. Càng về sau, bữa tiệc càng ầm ĩ vì có cả hát hò nữa. Tiếng cười cứ vọt ra từ những chiếc miệng há rộng, tràn trề ra đường, lan tận đến nhà của anh Lực, khiến mẹ bé Loan đang ngồi cắm cúi tráng bánh cũng mỉm miệng cười lây.

Anh Lực ngồi đến nửa cuộc rượu thì lẳng lặng rút lui. Về đến nhà thấy vợ vẫn còn xay bột.

-Chưa xong hả em? Hai me con đã ăn cơm chưa? – Bé Loan bước khập khiễng từ nhà sau vào trả lời.- Ăn rồi ba. Ba ơi, con đóng chuồng gà, con khóa lại luôn rồi, nhưng chút nữa ba ra coi thử có chắc chưa nghe ba.

-Em đi nghỉ đi. Loan cũng đi ngủ đi con, còn lại việc gì cứ để đó cho ba. – Anh Lực nói với vợ và con.

-Em mỏi lưng quá. Em đi ngủ trước đây. Còn ít gạo chưa xay, anh quay đại cho xong rồi cũng đi ngủ sớm nghe anh. Loan đi ngủ đi con. Chị Năm chống tay vào vành chiếc cối đá, uể oải đứng lên.

Nhà làm nghề tráng bánh tráng bỏ mối. Dù quần quật từ sáng đến gần nửa đêm, họ cũng chỉ mong kiếm tiền chợ. Riêng ngày tết, có thêm người đặt làm bánh, hai vợ chồng biết đây là thời gian có thể kiếm thêm chút đỉnh, cả nhà càng phải cố gắng. Lực nhẩm tính, tháng nay kiếm được hơn 3 triệu, đó là đã chi phí rồi. Trong chuồng còn bầy gà chờ bán chợ 30 tết, cộng với khoản dành dụm lâu nay, gia đình anh đã có được món tiền kha khá. Sau tết, anh có thể đưa bé Loan đi phẫu thuật để chữa trị cái chân khập khiễng. Bé Loan bị teo chân sau một đận sốt. Thấy con, vợ chồng thường thầm lặng sa nước mắt, họ nghĩ đến ngày Loan thành một cô gái mà đau lòng…

Gà đã cất tiếng gáy, anh Lực mới đi nằm, đang mơ màng thì anh nghe tiếng kêu quác quác, phát ra từ phía chuồng gà. Tiếng kêu vừa thoát ra đã bị chẹn thắt, nín bặt. Anh Lực lao ra cửa bếp, một bóng đen vụt qua. Lực đuổi theo và la thật to. Cướp! Bớ bà con bắt cướp! Cướp! Nó chạy đó. Cướp! Cướp. Bà con ơi có người đến cướp nhà tôi!..

Tiếng la, tiếng kêu cứu, tiếng chân người rượt đuổi nhau cuống quít, xô đẩy, hối thúc tạo nên một thứ âm thanh náo động giữa khuya. Anh Lực vừa chạy đuổi theo kẻ bắt gà, vừa gào lên kêu cứu. Anh nghĩ, chỉ cần có ai đó chặn giữ bước kẻ khốn nạn ấy lại cho anh trong vài phút, anh sẽ bắt được kẻ khốn nạn đó. Anh sẽ đấm vào mặt quân khốn ấy những quả đấm dồn sức cả đời anh, và sẽ rít qua kẽ răng, mày có biết con tao què một chân? Con gái tao cần được chữa trị cái chân khập khiểng để nó có thể trở thành một thiếu nữ bình thường trong mắt bọn con trai, khi nó mười tám tuổi? Mày có biết bầy gà là niềm hy vọng của gia đình tao?

Thế nhưng chỉ có một mình anh chạy trên đường, anh vẫn kiên trì hô hoán cầu cứu, mắt vừa dán chặt vào cái bóng đang một lúc một tăng khoảng cách, vừa liếc ngang ngửa để tìm một bóng người lao ra trợ giúp. Cửa mọi nhà vẫn đóng im ỉm. Cho dù bọn chó đua nhau sủa váng làng. Tên trộm rất khỏe, chân hắn sải dài, càng lúc càng mất hút. Anh Lực vẫn cứ chạy theo trong tuyệt vọng…

Khi anh rũ rượi trở về, hình như để an ủi anh, đèn của một vài nhà bật sáng. Tại nhà anh Tùng, còn sáng cả ngọn đèn ngoài sân, nơi tối qua cả xóm ngồi đấu lưng dốc cạn ly rựơu đoàn kết.

Có bóng người nhỏ xíu, xiêu vẹo đang lao về phía anh, Lực nhận ra đó là con gái tật nguyền của mình. Bé Loan cầm trên tay một cành củi su nhỏ bằng cổ tay của nó. Vừa chạy nó vừa kêu, có con nè ba ơi! Anh Lực giang rộng đôi tay ôm con vào lòng, cổ anh dâng lên một cái gì đó, nó không trào hẳn ra được ngoài miệng, nó cũng không chịu tụôt xuống dạ dày, nó to ra mãi, tắc ứ trong cuống họng, nó nóng bỏng và đắng.

HOÀNG HÔN ĐỎ

Truyện ngắn

Hài lòng vì đã làm xong sớm hơn 1 ngày, đáng lẽ mai mới về thì chiều nay Vận sẽ về sớm. Nhìn qua một lượt, đám rẫy mới phát ngổn ngang cây đổ, Vận nhủ thầm, bật gốc cây, dọn đốt cũng phải mất một tuần nữa, thôi cứ về đã, sau vào lại sẽ hay.

Con đường từ rẫy về nhà đi mất 2 giờ. Vận sải từng bước dài băng băng trên những hòn đá lô nhô dày đặc. Nắng chiều hắt lên ngọn cây từng vạt sáng lấp loá. Phía dòng sông La Ngà, mây trời toàn một màu đỏ. Tận cùng là bên dưới đường chân trời, một quầng đỏ như quả cà chua chín khổng lồ đang dần dần chìm khuất. Những tia nắng chiếu hắt lên đám mây như những ngọn đèn pha, phía trên sáng xoè ra đỏ ối, bên dưới đám mây lại âm u với hình thù quái dị. Một hoàng hôn đỏ lừ.

Vận đẩy cửa thật khẽ khàng, nếu Phương đang mải mê với chiếc nón lá chằm dở, Vận sẽ đập khẽ lên vai và hù một tiếng. Thế nào Phương cũng giật nẩy mình lên, hét toáng nhà. Sau đó quay lại, mặt đỏ bừng vì giận, miệng á ra định chửi thì nhận ra chồng, vậy là hai tay đấm túi bụi vào ngực Vận. Cứ cho đấm…Vận sẽ ôm riết vợ vào lòng, rồi bế nàng…Nhưng cái gì vậy nhỉ? Vận đờ người ra căng mắt nhìn, trên chiếc giường trong góc nhà, lẫn vào bóng chiều lờ mờ, giữa đống quần áo nhàu nát, hai thân người trắng toát đang ghì riết lấy nhau. Vận nghe tiếng rên khe khẽ đầy hứng thú của gã đàn ông. Vận thấy tấm thân của Phương nõn nà bên dưới tấm thân kia, nó đang oằn theo từng cơn sóng đầy nhục dục. Gã đàn ông ấy là ai ? Đầu óc Vận căng ra bừng bừng nóng, rồi thoắt lạnh toát, rồi lại bùng bừng bừng nộ khí. Rồi nó tối sầm lại trước khi bùng nổ. Nhất định đầu Vận sẽ nổ. Bây giờ khói đã bốc ra từ mắt, cả lửa cũng đã bắn ra, ngọn lửa tức giận điên loạn. Vận thét to, hay đúng hơn là Vận rú lên, tiếng rú man rợ của loài có móng vuốt đang lăn xả vào con mồi. Con dao phát rẫy sáng chóe trên tay Vận vươn dài ra, bổ phập xuống trên hai tấm thân đang chồng lên nhau.

Cùng một lúc nhiều tiếng hét kinh hoàng. Tiếng rú đau đớn đột ngột đứt quãng rồi lịm tắt là của gã đàn ông. Đó là thứ âm thanh ghê rợn phát ra từ nỗi khiếp sợ và bất lực, nỗi sợ đó chỉ kịp bóp vỡ trái tim, thoát ra vừa thành tiếng đã tắt trong cổ họng. Mắt gã trợn ngược lên. Ngang tấm thân của gã máu phụt ra lênh láng.Tiếng hét lanh lảnh của Phương. Đó tiếng rú hoảng loạn, nó không là tiếng người, nó cũng không hẳn là tiếng của con vật nào, mà nó như tiếng gào thét vọng về từ những âm u kinh dị. Ai trong đời một lần nghe tiếng thét này, chắc chắn tin rằng thế giới loài người không bao giờ còn bình yên. Vận buông con dao xuống nền nhà, chạy ra sân gào thật to: Tôi giết người! Thằng Vận giết người rồi ới bà con ơi!

*

**

Nhiều tháng sau khi việc ấy xảy ra, làng Yên Thượng vẫn chưa hoàn hồn. Chiều chiều, phụ nữ trẻ em dúm vào nhau trong sợ sệt, những tiếng nói chuyện thều thào như sợ điều tai ương nào đó sẽ bất thần ụp xuống ngay trên mái nhà của họ. Cụ Chín, người hay bông đùa, việc gì ông cũng cho là việc tầm phào trừ ăn, ngủ. Thế mà ông cũng đã thì thào.

-Chưa từng thấy! Sống gần hết đời, nghĩ đã biết hết…Thế mà, hãi hùng quá!

Những ngọn khói từ mái bếp các căn nhà vẫn êm đềm toả ra mà sao nó không còn có cái vẻ ấm áp. Vẫn những sợi khói mỏng, nhưng nó không vấn vít ôm ấp trên những mái nhà, những rặng cây. Nó như hơi thở dài u sầu thoát ra từ bộ ngực nặng trĩu ưu phiền tan dần vào không trung lạnh lẽo vô vọng như thể niềm mong đợi nào đó không bao giờ trở lại được nữa. Nhiều gia đình lục tục dọn đi. Gia đình chị Dân cũng đã gửi bầy trẻ về ngoại hôm qua rồi. Trong làng vắng lặng. Bà mẹ của Vận cũng đã thu xếp hành lý. Nhưng bà chưa thể nào rời khỏi cái làng oan nghiệt này. Sáu tháng qua, có ngày nào là ngày bà không khóc. Thằng Vận của bà. Thằng Vận chịu thương chịu khó, ăn cơm mỗi bữa mấy tô đầy, miệng cười hềnh hệch. Làm sao nó lại đi giết người??? Ôi! Sao cái số phận bà lại cay nghiệt đến như thế này! Bà gào lên, bà hờ lên não nề… Vận ới!.. Vận ơi!!! Sao con khổ thế con! Trời cao đất dày, sao ông làm cho chúng tôi khổ đến như thế này?

Bà mẹ ấy nếu tan chảy được theo những dòng nước mắt thì có lẽ còn đỡ đau khổ hơn.- Cô Ba Lương nói thế mỗi khi mang sang chén canh vào bữa cơm chiều.

Vận bị bắt!

Lúc tra tay vào còng, Vận cúi gằm mặt xuống đất. Vận bị kết án tử hình. Khi đứng gục đầu trước vành móng ngựa, Vận không nhìn ai, nếu ánh mắt Vận vướng vào đâu đó thì nó như cũng chẳng thấy gì, hay nhận ra điều gì. Ngay lúc này đây, Vận như đã đứt khỏi mọi ràng buộc liên quan đến các sự vật và con người chung quanh, hay đúng hơn là đã đứt khỏi cái gọi là sự sống. Cái nhìn của người đã chết chỉ ngời lên một chút, khi nó lướt qua chỗ ngồi của người mẹ già. Nhưng hôm nay, ánh mắt đó đã mấy lần tìm về phía bà cụ thường đến ngồi, ở những phiên toà trước. Chỗ đó, giờ chen chúc những người khác, họ nhìn vào Vận chằm chằm và xa lạ.

Người mẹ ấy đã khăn áo ra đi từ sáng sớm. Bà chạy trốn một kết cuộc mà không một người mẹ nào trên đời có thể có đủ cam đảm chứng kiến.

-Bị cáo được phép nói lời cuối cùng.- Tiếng của ngài chánh án vang rền.

-Thưa toà - Tiếng rì rầm của những người hiếu kỳ, của bên nguyên cáo im bặt- Tiếng Vận như vọng lên từ dưới đáy mồ, nó lạnh lẽo, nó làm người ta sởn gai ốc cùng người. -Thưa Toà. Thưa ngài Chánh án, tôi xin được dùng lời nói cuối cùng của mình để hỏi ngài chánh án một việc.

-Toà cho phép.

-Thưa ngài. Tôi xin hỏi ngài, giả sử ngài bắt gặp tôi đang ngủ với vợ ngài, ngài sẽ xử sự ra sao?

-Này cái anh kia- Ngài chánh án gầm lên.- Đây là phiên toà, ai cho phép anh ăn nói một cách bậy bạ như thế hả? – Một cái gì đó hết sức long trọng, hết sức nghiêm nghị bị phá vỡ. Nhiều tiếng cười, tiếng hí ồ lên.

-Thưa ngài, tôi được phép và đã được ngài đồng ý mà.- Vận tiếp tục nói. Ngài thấy chưa, ngài đã được chuẩn bị tâm lý, đang ở một nơi mà nhiệm vụ bắt buộc ngài phải điềm tĩnh. Vậy mà tôi chỉ mới ví dụ thôi, mới giả sử chứ đã có làm gì đâu mà ngài đã mất vẻ oai nghiêm của mình rồi. Tôi có tội. Tôi chịu hình phạt của pháp luật nhưng nỗi oan uổng cuộc đời tôi, ai đền bù cho tôi, thưa ngài? Ai sẽ đền cuộc đời tôi, hả. Ngài nói đi?

Ngài chánh án mặt mày hết tái rồi lại đỏ, ngài hực lên một tiếng tức giận ôm ngực đổ gục xuống bàn. Phiên toà nhốn nháo rồi kết thúc. Ngài chánh án được đi cấp cứu...

Vận bị đẩy lên một chiếc xe bít bùng. Đám đông lao xao bàn tán

- Ông chánh án liệu có sao không nhỉ?

- Thằng giết người ấy, nó điên rồi hơi đâu mà nghe nó.

- Nó chẳng hề điên. Tôi thấy khó mà trả lời thỏa đáng câu nó đã hỏi. Tôi e vì vậy mà ngài chánh án mới tức thở.

Chẳng biết như thế nào, chỉ biết rằng sau phiên tòa ấy ít lâu ngài chánh án từ chức. Người ta nói rằng ngài bị ám ảnh từ phiên toà xử Vận. Nhưng lại có người quả quyết Vận đã đánh gục ông ta.

Tôi, người viết chuyện này không hiểu gì cả nên kiên quyết tìm cho bằng được nguyên nhân. Ngày đó, ở miền quê ven biển của người đàn ông tên Lương (tên cũ của ngài chánh án) có một gia đình êm ấm. Đó là gia đình của Lương. Tuy Hạnh không hợp với anh lắm, cô nói nhiều mà anh hơi trầm lặng. Nhưng bù lại, cuộc sống của họ sung túc vì Hạnh buôn bán tài tình. Một cái giỏ xách, một ngày đi từ thị trấn đến thị xã, hay thành phố với vài ba thứ hàng, Hạnh có thể kiếm vài trăm ngàn. Hạnh hãnh diện vì mình kiếm ra tiền khi cả làng lao ra biển và biển thì vô chừng.

Một ngày kia, Lương bỏ làng biển đi biệt tăm, sau khi chứng kiến Hạnh sau một gốc cây dương trần truồng lăn lộn với gã chủ quán nhậu Hải Dương, bởi gã là lái xe thường xuyên trên những chặng đường Hạnh đi qua. Lương nghĩ rằng mình là người đàn ông cao thượng nhất, không đánh đập, không sỉ vả làm nhục ai, Lương cho rằng mình đã hành động xứng đáng với hành vi của người đàn ông thời đại. Ngày ấy, khi Lương chụp chiếc mũ lưỡi trai lên đầu, Hạnh kinh hoàng quì sụp xuống cửa, van lạy xin tha thứ. Lương đã vòng ra lối sau để đi, mà không phải đến gần Hạnh, Hạnh không ngớt cầu xin, đáp lại chỉ nhận được tia nhìn lạnh lùng. Không thể đòi hỏi gì hơn nữa ở Lương, đó đã là ranh giới tột cùng của sự chịu đựng.

Khi đang bỏ chạy như thế, Lương giật mình khi có ai đó xô vào chân mình.

- Ba, ba đi đâu ba?- Thằng Củn từ đâu không biết đã lao vào ôm chân Lương.

- Về nhà với mẹ ngay!- Tiếng quát làm thằng bé hoảng sợ, nó buông tay ra, nhìn Lương bằng đôi mắt mở to hết cỡ rồi bất thần quay đầu chạy bổ về nhà.- Đó cũng là lần cuối cùng Lương nhìn thấy thằng Củn.

Mãi sau này, Lương mới biết Hạnh vì xấu hổ mà đầu độc con rồi kết thúc đời mình bằng thuốc ngủ. Từ đó Lương mất hẳn vẻ hoạt bát, hằng ngày trầm tĩnh quá mức cần thiết. Lương không quay về làng. Cả những ý nghĩ về làng cũng bị Lương gột rửa ra khỏi trí óc. Vùng biển Thanh Hà không có trên đời. Đôi lúc, Lương tự nhủ cuộc đời mình bắt đầu chỉ từ sau tuổi ba mươi mà thôi.

Khi nào đó, nếu tâm trí như ngựa hoang chợt lang thang về miền cũ, Lương hét lên.

-“Đủ rồi, chấm hết!”

Thế nhưng cái thần trí bât trị, nó lại len lén trở về trong đêm khó ngủ, hình ảnh thằng Củn lởn vởn hiện về trong những giấc mơ đẫm mồ hôi.

Cái ngày, gã tử tù tên Vận, cái con người mà Lương nhân danh pháp luật xét xử, đã chĩa hẳn họng súng truy xét nhằm thẳng vào sâu thẳm lòng Lương nhả đạn. Hắn bắn tan tành tấm áo giáp bấy lâu Lương ẩn mình. Tại sao Lương không tha thứ cho Hạnh? Phải, nếu Lương tha thứ thì con trai nhỏ bé của Lương nay có thể đã là một thẩm phán tài ba, công minh, chứ đâu chết thảm như thế? Tiếng hỏi ngây thơ của Củn vang lên trong tâm tư Lương “Ba ơi! Ba đi đâu ba?”

*

**

Vết sẹo trên bụng của Phương chẳng xấu mấy, nhờ được may thẩm mỹ. Nhưng điều ấy không còn ý nghĩa gì khi Phương suốt ngày la hét, xé tung quần áo của mình và đòi đi tắm sông kẻo nhiều máu quá. Tội nghiệp, ngày ấy Phương vùng chạy ra khỏi giường với thân thể trần truồng đầy máu, Phương chui vào ngồi co ro, run lẩy bẩy giữa hàng rào dâm bụt. Khi chị Lựu và anh Bảy lôi Phương ra, đưa Phương đi cấp cứu, Phương thét lên “Em không giết người, em không giêt người!”. Phương hoảng loạn cho đến bây giờ.

Gia đình Phương, đưa Phương về một bệnh viện tâm thần nổi tiếng ở thành phố để chữa trị. Năm tháng trôi qua. Mọi người bám víu vào liều thuốc thời gian, nhưng Phương vẫn chưa tỉnh lại. Phương có thể còn hồi tỉnh không? Chẳng ai dám nói chắc.

Chăm sóc Phương hàng ngày là người mẹ đã nghỉ hưu sớm. Phương rất ngoan ngoãn, chỉ la hét và xé quần áo đến mệt thì ngủ trong nước mắt. Gần đây, việc ấy đã giảm nhiều. Một buổi sáng, mẹ Phương ngạc nhiên khi nghe Phương đòi mua vở. Mua vở làm gì hả con?- Dạ, để con chép bài học, chẳng phải con cần thi đại học hay sao?

Biết con đang lên cơn, nhưng mẹ Phương vẫn mua vở và bút chì. Một buổi chiều, Phương nói đi nhà vệ sinh mà mãi không trở về phòng, bà mẹ hớt hải đi tìm. Tìm khắp nơi chẳng thấy bóng dáng Phương đâu bà hốt hoảng định lên báo với phòng bảo vệ, lúc ngang qua ngả sau một vườn hoa nhỏ đầy những lùm hoa ổi khoe sắc sặc sỡ, và những bụi sứ trắng thơm dìu dặt, người mẹ thấy con mình đang ngồi bệt trên bãi cỏ cắm cúi ghi chép. Trên chiếc ghế đá kê dưới một gốc sứ to, có một ông già nói gì đó rất hăng hái.

- Hãy yêu thương con người bằng tình yêu từ tâm, phù hợp với điều luật 103…Lý trí lải nhải và thống trị. Đã quá đủ. Làm nô lệ không chỉ là với quỷ …Điều luật cần phải thêm vào đằng sau những cụm từ…

Mẹ Phương thấy một nét quen thuộc từ người đàn ông nọ. Đôi mắt tuy lạc thần, dáng vẻ lờ đờ, nhưng vẫn tóat ra một phong thái uy nghi từ giọng đọc, từ cái khoát tay. Thôi đúng rồi, ông chánh án!

Người mẹ im lặng đến gần con gái. Phương vẫn chăm chú viết, trên giấy trắng hiện ra những nét chữ loằng ngoằng và hình hài một đứa trẻ. Thấy mẹ, Phương ngước nhìn bà xoè ra nụ cười ngây ngô.

-Con học để thi đại học. Kia là thầy của con- Phương chỉ tay về phía người đàn ông đang giảng gì đó cho những bông hoa sứ và bảo với mẹ. Rồi bất ngờ, Phương chạy đến quì lạy trước người đàn ông đó, miệng không ngớt kêu lên, thầy ơi thầy.

Hai người điên, một người dạy, một người học bài học riêng của đời họ.

3/7/2006

THẰNG HOÀNG

Truyện ngắn

Lão Miễn đội chiếc mũ nỉ lên đầu rồi bước đến thắp 3 nén hương, chắp tay vái ba vái, cung kính cắm mấy nén hương lên chiếc lư đồng. Ánh mắt ông vuốt ve, tha thiết từ biệt mọi món đồ vật thiêng liêng trên cái bàn thờ mà suốt mấy chục năm qua, ngày nào lão Miễn cũng nhang khói. Lần thắp hương này có thể là lần sau cùng, lão Miễn nghĩ như vậy. Con chó Ki già nua nằm ở dưới gầm bàn mắt không hề rời những cử chỉ của lão. Khi lão Miễn bước ra cửa, con chó nhổm dậy theo sát chân. Lão Miễn quay lại nạt. Về! Con Ki lùi vài bước rồi ngước đôi mắt ướt, đầy nhử gèn nhìn ông.

-Đi thôi bác ơi! Tối rồi đó. Cháu còn quay về nữa. Về khuya quá, đường xa, chạy ớn lắm.- Tài xế cũng là chủ chiếc xe lam giục.

Lão Miễn bẻ một cành cây cầm trên tay rồi trả lời, ừ đi thôi chú. Ki. Mi có về không!

Lão nạt con chó to hơn, tay cầm cái roi dứ dứ. Con Ki khựng lại một chút rồi tiếp tục chạy theo chân. Lão Miễn quất vào con chó một roi nghe đánh vút. Con chó kêu ắng lên một tiếng thảm thiết rồi trở lui vô nhà, lấm lét nhìn lão một lúc rồi cụp đuôi lủi thủi chui vào xó bàn nằm nhìn ra. Con chó đã hiểu, lão không muốn cho nó theo.

Chiếc xe lam hực lên đành đạch tới mấy bận rồi mới rặn ra những tiếng nổ phạch phạch. Lão Miễn ngồi ghé vào một bên tay lái, ngoái nhìn phía sau để soát một lượt những món đồ lỉnh kỉnh. Chiếc giường cũ làm bằng gỗ bằng lăng do chính tay lão đóng lấy. Cái bàn gỗ mít đã theo lão từ cái thời lập Dinh điền. Chiếc xe đạp đã long hết sơn chỉ còn trơ cái khung sắt gỉ. Một mớ rổ, rá nồi xoong, bó chiếu, vạc gường bằng tre. Tòan là những thứ chẳng giá trị gì, nhưng nó thân thuộc với lão và nó cần cho một nơi ở mới, nhất là khi chỗ ở đó giữa một vùng đất vừa khai hoang.

-Ông không đưa tiền thì tui liều chết!- Tiếng nói hằn học, dứt khoát như từ dưới đất vọt lên. Lão Miễn quay lại thấy thằng Nhân, con trai lão đang đứng dạng hang trước đầu xe. Hai tay hắn xô vào chiếc xe đang nổ như rên. Bốn bánh xe chậm rãi quay vòng chạy lui vài tấc.

-Tiền chi? Tiền chi mà tao phải đưa cho mi hả? Tao mắc nợ mắc nần chi mi mà mi đòi há? Lão Miễn hung hăng trả lời, nhưng thực ra lão rõ ràng đã bị thằng con tóm gọn, khó bề cục cựa thoát thân.

- Một chỉ vàng tiền bán đất, ông chưa cho tui. Ông đưa rồi mới đi, không thì tui liều chết. Xe không chạy đi mô hết!

- Một chỉ vàng? Rứa mi nợ tao hai chỉ? Hai chỉ mi lên mượn về cho vợ làm vốn mua bán. Hai chỉ đó là tiền tao bán cái bưng hơn sào đất cho chú Phú, rồi đưa cho mi hết. Chừ bán đất nền nhà, thì tao cho mi nhà, cho luôn miếng vườn, cho cả cái rẫy. Hai chỉ tao cũng không đòi… Mi còn hành chi nữa cho tủi cái thân tao rứa?- Lão Miễn gào lên, giọng lão xơ cứng nghe vừa não nùng vừa quái dị. Thằng Nhân vẫn cương quyết.

- Tui không biết. Không đưa một chỉ, thì tui đây cũng liều!- Ý gã con trai là liều chết. Nhưng lần này hắn cũng có chút ngượng ngùng vì thấy cô Vân đang đứng nhìn. Cô Vân từ từ tiến lại

- Một chỉ của anh Nhân để rồi em đưa sang, giờ thì anh để cho ông già đi kẻo tối rồi, tội. Rứa đi ông hè. Mai mốt cháu mần xong giấy tờ, 5 chỉ còn nơi cháu, cháu đưa cho anh Nhân đây một chỉ.- Cô Vân người mua đất của cụ Miễn nảy giờ ra tiễn ông cụ, thấy cảnh ấy đã can thiệp.

- Đó. Mai hồi mi sang cô Vân mà lấy một chỉ.

- Ông đi bình an ông hí. Khi mô đến tết, ông nhớ về thăm chơi nghe ông!

Gã vênh gương mặt đắc thắng, bước lùi sang một bên. Chiếc xe lam bò chậm chạp lên con dốc nhỏ, rồi rướn sức chạy khuất dần trong trời chiều hiu hắt, để lại đằng sau một đám khói đen ngòm, không khí đầy mùi khét.

*

**

Lão Miễn về chỗ ở mới được vài năm thì mất Ai cũng tiếc cho lão, bởi vì những ngày tháng nơi vùng đất bám vào da thịt đỏ quạch này, lão có những tháng ngày nhàn nhã.

Xóm Mới nằm giữa vườn cây cao su vừa vào thời kỳ khai thác mủ. Hàng ngày, mọi người trong nhà đều đi cạo, đi trồng, đi rẫy. Trẻ em đến trường, đi nhà trẻ. Tất cả đều đi, chỉ còn mỗi lão Miễn ở nhà. Lão bưng chiếc ghế ra mái hiên ngồi hong nắng, sau đó chắp tay sau đít đi quanh vườn ngó cái này, cái kia. Thằng Hoàng về thấy lão đang kéo nước nó la oải oải.

- Nội để đó. Con về liền mà nội lo chi chuyện nước non. - Thằng Hoàng giành cái gàu khỏi tay lão. Lão mó tay vào cái ghế đã long mộng, sút tay, định sửa cho bầy trẻ có cái trèo lên, trèo xuống chơi. Thằng Hoàng cũng dành lấy, nó nói, nó muốn học nghề làm thợ mộc, ông cứ chỉ cho nó để nó mau rành. Cái thằng thiệt tốt, vậy mà nó từng bị điên.

Mấy năm trước, thằng Hoàng bị một trận sốt rừng dữ tợn, nằm bệnh viện Nhiệt Đới cả nửa năm trời. Khi hết sốt, thì thằng Hoàng suốt ngày nó chỉ tòan nói chuyện trúng số, trúng tiền tỉ rồi súôt ngày trèo lên mái nhà tìm tiền, vì nó nghi anh Hai Hạ, ba của nó đem giấu. Đi bệnh viện Biên Hòa nửa năm cũng cứ thế. Sau này, anh Hai Hạ đem nó về, gửi nó vô chùa Viên Nguyên. Chẳng biết có phải cơm gạo lứt, muối mè đen thành tiên dược, hay do tiếng đọc kinh đầy thành tâm của sư Cô Thiện Giác mà thằng Hoàng thôi trong đi tìm tiền trúng số nữa.

Nó về nhà, cũng là lúc lão Miễn lên ở với vợ chồng anh Hai Hạ. Chỉ đâu hơn hai năm thì lão Miễn mất. Nghe bác sĩ nói lão chẳng bệnh chi, chỉ tại tâm phế mãn. Chị Hai Hạ, má thằng Hoàng kể.

-Ông của cháu tỉnh lắm, tỉnh đến phút cuối cùng. Trứơc khi đi, ông còn “nhập thổ” rồi mới đi đó thím.-

Bà Lượng, thím dâu của chị Hai Hạ tò mò:

-Nhập thổ là sao?

-Ông cháu bỏ ăn ba ngày, nước khi đầu còn uống, sau chỉ thấm ướt môi chứ tuyệt nhiên không chịu nuốt. Khổ. Mà truyền dịch cũng không được. Bác sĩ nói tim, mạch ông nhà cháu sao đó, mà dịch truyền vô là chịu không nổi, có thể chết liền. Chân tay ông lạnh ngắt, cứng đơ, chỉ còn từ bụng trở lên là nóng. Nhưng ông vẫn tỉnh, có lúc ông đòi đỡ ngồi dậy. Cả nhà xúm vô đỡ, nhưng ông có ngồi được đâu thím. Người ông đơ đuồn đuỗn ra rồi! Cái lưng thẳng đờ có cong lại được mà ngồi. Rứa đó. Mà khi gần tắt nghỉm, ông lần lần ra mép gường, trằn trằn xoay người từng chút, từng chút. Xoay từ sáng đến gần trưa thì thõng hai bàn chân xuống đất. Khi chân ông cháu chạm đất là ông cũng vừa đi thôi đó! Lạ lắm. Họ nói, ông cháu nhập thổ chân chạm đất mới chịu đi về trời. Thiêng lắm!

- Rứa a! Tui ngày xưa cũng từng nghe bà tui kể, khi mẹ bà tui chết, là lúc bà tui hom hem hen suyễn, ông bác mới biểu bà tui đem bệnh gửi.

Gửi bệnh cho người chết đem đi theo à? Liệu có được không?- Chị Hai Hạ kinh ngạc hỏi tới.

- Được chớ! Bà tui đó, nghe theo lời bác, thắp hương van vái, đến khi tẩm liệm thì lạy khấn rồi mang bệnh bỏ theo vô trong hòm. Nhờ rứa, bà tui còn hen suyễn chi nữa mô. Nhiều cái linh lắm! Mình không biết được đâu! Thằng Hoàng khỏi điên rồi, nhưng chắc chi không tái đi, tái lại. Còn cái cẳng nó nữa tề, thấy nó cứ đi lệt, lệt bất tội. E đau lắm chớ chẳng chơi, rứa hắn mới như thằng xì ke, ả để rứa mà chịu được a? Khi liệm, nói hắn gửi bệnh cho ông Nội, ông Nội gánh đi cho.

-Dạ!- Chị Hai Hạ mặt giãn ra, hớn hở. Chị nhón chân dòm một lượt trong đám người ngồi, đứng đông đúc trong sân mà chẳng thấy thằng Hoàng đâu.

- Thím, hay thím tìm thằng Hoàng rồi nói với nó dùm cho cháu với? Kệ. Biết mô gửi cho ông, ông thương mang bệnh tật đi dùm cho, hắn bớt khổ?

Bà Lượng gật đầu rồi xăng xái đi tìm thằng Hoàng. Nó đang quì đọc kinh giữa bàn thờ Phật. Bà Lượng lại gần kéo vai áo, vẫy vẫy tay kêu nó ra ngoài, ghé tai thì thầm:

- Con nghe bà, chặp nữa khi liệm ông, con van vái ông, rồi đem bệnh của con, gửi ông cầm đi theo ông luôn cho- Thằng Hoàng mần thinh.

- Thằng Hoàng đâu. Thằng Hoàng đâu? Tiếng bác Sáu oang oang

- Hắn có nói chi với ông thì đến nói, kẻo đến giờ đóng quan lại rồi nì. Oa. Cái thằng đâu mất rồi? Kêu hắn coi bây!

- Con đây. Thằng Hoàng đã đứng cạnh quan tài từ bao giờ, trên mặt nó hai hàng nước mắt đang tuôn, có giọt bò hẳn vào trong miệng.- Con không gửi chi cho ông con hết. Con hận. Con không gánh được cho ông con một chút gì đó cái gánh nặng làm người. Cái gánh của con, thì con tự gánh, sao con lại bắt ông con gánh thêm cái phần oan nghiệt của con nữa chứ? Chẳng phải gánh cuộc đời của ông đã quá cực nhọc đó sao?!- Hu hu hu…u- Thằng Hoàng khóc rống lên tồ tồ như suối chảy.

Một người đàn ông bận trang phục trắng xóa từ đầu đến chân, lủi nhanh ra khỏi giường tẩm liệm. Đó chính là gã đàn ông tên Nhân, chú thằng Hoàng. Ra đến bên ngoài, gã bỗng dưng ngồi bệt xuống nền đất vật mình khóc òa thiệt to. Tiếng khóc lần đầu vỡ ra được từ lồng ngực khô khốc của hắn. Cũng là lần đâu tiên hắn gọi Lão Miễn: Cha ơi! Cha ơi cha! Tiếng gọi tan loãng vào sự ồn ào trong cái giờ động quan. Có ai đó nạt át đi. Gã nhìn lên, mắt gã đụng phải thằng Hoàng, gã chợt nghĩ nhiều người biết, gã cũng biết, chỉ thằng Hoàng không biết, nó là đứa trẻ nhặt được từ trạm xá, khi vừa lọt lòng. Người ta quấn nó trong một tấm mền rách đem về cho chị Hai Hạ làm con nuôi.

KẺ MẠNH

Truyện ngắn

Hắn thấy Hắn là một kẻ mạnh.

Kẻ mạnh là kẻ có tiền, có quyền. Hắn dư thừa cả hai thứ ấy! Nhà ư, Hắn có nhà hàng khách sạn Thiên Thai, tiêu chuẩn bốn sao ở thành phố. Cái nhà ấy, đang nở cho hắn những mùa hoa tiền tài sung mãn nhất. “Nhà vườn” ở quê ư? Hắn thích gọi “nhà vườn” nghe cho nó bình dân. Ở một mặt nào đó, cách nói bình dân đang được nhìn nhận là nói khiêm tốn, hay nói khác đi, đó là cách nói nhã nhặn của người có văn hóa. Vả lại, cách nói này nói còn là cơ hội để ngỏ, để không ít kẻ cần Hắn làm lá chắn, cần Hắn chỉ một lối đi, sẽ bật kêu thảng thốt: Ôi chao! Mấy cái biệt thự ở khu ngoại ô Sài Gòn, cứ phải gọi “nhà vườn” của ông anh bằng cụ. Nhìn chúng cứ vuông vức như chuồng cu, vài ba kiểu dáng na ná như nhau, vài cụm cây xanh bé tẹo trong vườn. Xì. Có cho không ông anh mấy ngôi nhà ấy, ông anh cũng chẳng buồn nhìn, nhể?

Đó là chưa tính, Hắn có hàng tá đất thổ cư, nằm toàn những nơi mỗi mét vuông là cả một gia tài của người buôn thúng, bán mẹt ao ước.

Quyền thì bây giờ Hắn không còn quyền nữa. Nhưng công lao gầy dựng vây cánh của Hắn mấy chục năm thành quả vẫn còn trùng trùng, điệp điệp. Những anh Hai, anh Ba của huyện này, tỉnh kia gặp Hắn vẫn cứ phải giữ gìn ý tứ. Hắn muốn cất nhắc ai vào ghế nào là chuyện “không thành vấn đề”. Hắn thú vị câu nói của một tay chơi chứng khóan giàu sụ, tay này còn trẻ, học nhiều thứ của Tây, biết không ít kiểu sống của ta, nên giọng cứ tưng tửng, hiểu theo kiểu gì cũng khoái: Tiền mua được tất! Vấn đề là giá bao nhiêu mà thôi. Hắn ngẫm nghĩ và thấy cái tay ấy lõi đời! Hắn đã bỏ ra nhiều đêm nằm vắt óc ra tìm thứ không thể mua, tuyệt nhiên thấy rằng cái gì cũng có giá của nó cả. Hắn cũng đã làm chuyện mua bán nhiều, cũng có vài bận trầy vi tróc vảy tí chút, nhưng còn lại là “trúng”. Muốn mua bán dù là thứ vặt vãnh như chút danh tiếng, hay mua quan, bán tước đều phải là người am hiểu “nghệ thuật”. Phải có “nghệ thuật” thì mới làm nổi, nếu chỉ “liều” không thôi thì cũng vứt.

Nhưng đó là chuyện của trước đây, còn bây giờ Hắn đã thỏa mãn, Hắn không còn thấy hứng thú gì nữa sau khi đã quá thừa mứa. Vì không ham hố gì, Hắn bỗng thấy rằng hắn đang thuộc đẳng cấp vô giá. Nhất là khi ông trời ban cho Hắn báu vật vào thời điểm Hắn không còn hy vọng gì nữa về chuyện có một thằng con trai, thì bỗng dưng người vợ trẻ mang bầu và thằng Hậu chào đời trong hạnh phúc viên mãn của chính Hắn.

Thằng Hậu lên hai, trắng hồng, mũm mĩm. Thằng Hậu là thiên thần của Hắn. Hắn yêu con như điên. Hắn gầm gừ mỗi khi có ai đó đụng chạm vào đứa trẻ mà phật ý hắn. Tình yêu của hổ dữ càng khiến những người chung quanh sợ sệt khi chăm bẵm, săn sóc cho thằng Hậu. Ai nấy đều lo lắng tai họa có thể trút xuống đầu họ, do một sơ sẩy nào đó.

Hắn cũng rất yêu chó. Những con chó Nhật, lông trắng như bông Bạch Tuyết, khiến Hắn mê mẩn. Hắn tắm táp cho những con vật ấy. Hôn hít, nâng niu hệt như Hắn hôn hít, âu yếm thằng Hậu. Còn bầy cháu long nhong, suốt ngày dầm mình với những con trâu, trong dòng sông Hà đục ngầu ở quê. Mỗi khi chia quà, Hắn cố hết sức để không phải chạm vào tay, vào áo bọn chúng. Mặc dù Hắn biết, bàn tay trẻ thơ là bàn tay thánh thiện.

Hắn vừa mua một con chó Nhật chính hiệu. Con chó đẹp như vật cưng của thần tình yêu. Lông nó trắng. Sờ tay vào mịn mượt. Mắt con vật tròn xoe như viên bi, sáng long lanh. Thỉnh thoảng, Hắn để con chó cưng vui đùa cùng thằng Hậu. Hắn hài lòng thấy thằng bé cười khanh khách, khoái chí ôm ghì con chó trong đôi tay bé xíu, hồng hồng.

Một ngày nọ, bé Hậu sốt. Hắn lật đật đưa con vào bệnh viện Nhi đồng, bao trọn cả phòng dịch vụ sang trọng, mời những bác sĩ giỏi nhất. Hắn nói với người bác sĩ, tóc đã bạc trắng:

-Tôi có tiền, rất nhiều tiền!

Ông bác sĩ không nhìn Hắn, chăm chú nghe nhịp tim chú bé.

-Tiền cũng không thể giúp ích được gì trong trường hợp của cháu nhà, ông à.- Hắn gào lên.

-Tôi có quyền, ông muốn chức gì cũng được, ông hiểu không, bác sĩ?- Bác sĩ vỗ vỗ lên vai Hắn như vỗ về một đứa trẻ.

- Tôi thật tiếc! Quyền chức gì cũng chịu. Bệnh dại mà đã phát cơn thì y học hiện tại đành bó tay. May ra, chỉ có phép lạ mới cứu được…Mà phép lạ thì tôi chưa từng thấy, cũng không biết nơi đâu để chỉ cho ông.

Hắn đổ sụp xuống, toàn thân Hắn nhũn oặt ra, hệt như trong tấm thân ấy, mọi chiếc xương đều biến thành rệu nhão như bột tan trong nước. Hắn rên rỉ, trời ơi!

TRỜI ĐỨNG GIÓ!

Truyện ngắn

Thủy bước khoan thai ra khỏi quán ăn. Bữa trưa thật tuyệt. Dù món gà rang muối có hơi mặn một chút, nhưng ăn kèm với đậu hũ non chiên giòn khiến Thủy thấy ngon miệng. Thủy cắn miếng đậu, lớp vỏ vàng rộp, giòn tan quyện lẫn với sữa non vỡ ra ngậy thơm. Món canh chua nấu hải sản thập cẩm cũng là món Thủy ưng ý, nhưng vì đang ăn kiêng nên Thủy chỉ đưa đũa vào đĩa ngọn su su xào tỏi. Khi đứng dậy, bữa ăn hình như còn nguyên. Thủy thấy tiếc.

Vĩnh tỉnh rụi khi móc ba trăm ngàn trả tiền bữa ăn rồi khoác tay vợ.

- Nóng quá, mình đi uống cà phê, nghe nhạc đi anh.

- Ừ. Để anh kiếm quán nào có chỗ đậu xe, khung cảnh được được một tí mình ngồi.

Quán cà phê Thăng Long thật sang trọng. Tiếp viên nam sơmi trắng cài cavát lịch sự. Tiếp viên nữ, áo váy màu đen, chân dài uyển chuyển. Những cặp mắt kiên nhẫn chờ đợi, dù chỉ để lấy vài mảnh giấy làm khăn đã làm mềm lòng khách. Tiếng nhạc dịu nhẹ, phát loa từ những chiếc loa được giấu khéo léo đâu đó trên bức tường nhiều dây leo.

Một chú bé đánh giày lấp ló sau cành cây si bằng nhựa.

Ê. Đánh giày!- Vĩnh gọi thằng nhỏ

Dạ…

Thằng nhỏ mừng rỡ nhanh nhẹn tiến đến cởi giày cho khách. Bàn tay nó khéo léo, gượng nhẹ tuồn vào dưới chân chồng Thủy đôi dép nhựa mỏng. Thấy Thủy nhìn nó bằng ánh mắt khuyến khích, thằng nhỏ mời.

-Chị cũng đánh giày chị nhé.

-Ừ….

Vài phút sau hai đôi giày sáng bóng lên, màu tươi như mới. Vĩnh nhìn săm soi, sau cùng cũng tỏ vẻ hài lòng

- Mấy ngàn hả mày?

- Dạ…Sáu ngàn.

- Gì? Sao lại sáu ngàn…Thằng này đùa à? Chỉ hai ngàn thôi.

- Dạ…sáu ngàn. Giá mỗi đôi giày ba ngàn lâu rồi anh à. Ai đánh giày cũng lấy như thế cả.

- Mày định lừa tao à? Mày tưởng tao không biết giá chắc. Này. Bốn ngàn, cầm rồi biến đi ông nhỏ. Đừng có mà lừa tao.

-Anh à, trả cho thằng bé đi, đừng đùa nó nữa mà anh- Thủy can thiệp.

-Anh không đùa. Với mấy đứa ranh này, không thể đùa được. Nó từng ấy mà qua mặt lừa đảo được anh à? Này. Bốn ngàn, mày có cầm không hả?

Thằng bé đưa tay ra nhận tiền, nhưng nó cứ nhìn mặt Thủy chăm chăm, bất ngờ, nó quơ tay xách thùng đồ nghề chạy vụt đi như vừa phát hiện sau lưng Thủy, hay trên mặt Thủy một bóng ma.

Trong đầu Thủy chập chờn tái hiện cảnh một bà cụ dắt tay một đứa bé đến nhà gia đình chồng, vào cái ngày bố chồng cô mất. Bà lão khăng khăng nói rằng, thằng bé đó là con của cha chồng cô. Lúc ấy, Vĩnh mặt tái xanh, chỉ tay vào mặt bà cụ và quát. - Tống bọn chúng nó cho công an! Cho chúng nó đi tù rục xương, để tiệt cái nòi lừa đảo nhà nó đi.

Thủy nhìn theo thằng nhỏ đánh giày, trong tim Thủy như vừa có một bàn tay đầy móng vuốt trượt qua.

Hôm nay, trời đứng gió! Thủy nói vậy mà không nhìn vào đâu cả.

THƯỢNG ĐẾ BỊ STRESS

Truyện ngắn

Khi biết chắc vợ gã đã tắt thở, gã lấy cớ mấy ngày qua mệt mỏi vì chăm sóc vợ bệnh, cần được yên tĩnh nghỉ ngơi vài chục phút, rồi về phòng riêng đóng cửa, lôi bịch thuốc ngủ hàng trăm viên được chuẩn bị sẵn nuốt ừng ực.

Gã đuổi kịp vợ. Cả hai cùng một lượt đặt chân vào đại sảnh của Thượng Đế. Gã vừa bái lạy vừa kể lể kêu than. Thưa Ngài, con có ba điều oan ức, ngày hôm nay con quyết đem tội lỗi mà mụ đàn bà nanh nọc kia đã gây ra cho đời con để xin Thượng Đế phán xử.

- Ngươi hãy bình tĩnh. Nay ngươi và vợ ngươi đều đã ở chốn Thượng Giới, mọi việc sẽ được xét xử không một chút lươn lẹo gì. Ngươi thong thả trình bày cho rõ ràng, rồi ta sẽ liệu.

- Dạ thưa Ngài, đời con sống ở cõi phàm tục được chỉ hơn bốn mươi năm, vậy mà đã phải ba lần chết. Tất cả đều do con mụ yêu quỉ này mà ra. Hơ hơ hơ- Gã nức nở kêu gào- Lần đầu tiên con chết cả cuộc đời khi mụ ta tuyên bố rằng mụ ta không thể sống với con nữa. Nguyên nhân là vì không tìm thấy những điểm tương đồng giữa con với mụ. Con hỏi mụ, thì mụ khăng khăng nói, ai cũng phải làm ra tiền mới có quyền tiêu tiền. Con thì tính rộng rãi nên khăng khăng cãi, tiền thì ai cần cứ xài, xài hết thì…thôi, sao lại nhỏ nhen vì đồng tiền mất tình đoàn kết. Mụ lại nói, thế thì mụ phải được tham gia bàn bạc khi con định thành lập vài cái công ty, đào lật toàn khu vườn lên để tìm vàng… Con thì nói, lệnh của con là đủ, vì con là chủ của gia đình, cần gì mụ cứ xin con, con sẽ cho. Con chỉ nói thế mà mười lăm năm qua nó không nhìn mặt con. Ngài thử nghĩ coi, mười lăm năm nó không nhìn con thì con còn sống được hay sao. Vậy là con chết lần thứ hai. Nó không nhìn mặt con nhưng nó vẫn là vợ của con. Con vẫn thấy bóng của nó là được, thế nghĩa là nó vẫn thuộc về con. Vậy cho nên, khi nó bệnh mà chết đi con quyết vẫn không cho nó thoát, con đã tự bức tử mình để đi vào thế giới khác, tiếp tục khẳng định nó thuộc sở hữu của con. Nhưng hỡi ôi! Khi con không làm người trần mắt thịt, con mới tá hỏa rằng nó không chung tình cùng con, nó đã ăn nằm với dăm, ba người đàn ông khác. Thế này thì Thượng Đế ơi, con lại chết luôn ngay cả sau khi con đã chết. Xin Ngài hãy trừng trị con mụ kia cho hả tấm lòng căm giận của con. Con xin Ngài xót thương !- Gã cung cúc lạy như tế sao trông thật thê thảm.

- Được được. Ta đã nghe cả rồi. Bây giờ người đàn bà kia, ngươi có gì để nói không? –Thượng Đế ngao ngán cất lời. Người đàn bà đầu vẫn cúi gầm, không nhìn rõ mặt, cất tiếng.

- Lạy Thượng Đế, con có bốn điều buồn khổ, nay con đã ở trước mặt Thượng Đế xin ngài hãy để con được một lần thổ lộ.

- Ta cho phép ngươi được nói mọi nguồn cơn.

- Thưa Ngài, con sống như một con người cho đến cách đây mười lăm năm thì không còn như thế nữa, mà trở thành một đồ vật trong tay người chủ kia- Người đàn bà chỉ tay về phía người đàn ông và khóc rống lên- Huhuhu. Khi con biết rõ mình chỉ là một món đồ của ông ta, con đã tìm cách giải thoát con, cũng là cứu ông ta. Con nói, hãy buông tha cho tôi, và hãy đi tìm một nguồn sống khác cho ông. Nhưng gã ta cương quyết không chịu. Vì con chắc, gã ta biết sẽ không có ai dễ dàng bị gã bắt nạt, như gã đang nắm chặt trong tay một món đồ như con. Vậy thì con làm sao mà để một lần duy nhất được sống của con lại bị hủy hoại hoàn toàn trong tay gã? Nếu Thượng Đế là con, Thượng Đế sẽ ngồi im để thấy mình mục rữa từng phần, hay sẽ đi tìm những lẽ sống khác, mà niềm vui của con người có gì mãnh liệt hơn ngoài chuyện đàn ông và đàn bà? Thế nhưng con đã làm gì nào, con đã đi tìm nguồn sống của con, hơi thở của con bằng đôi chân của kẻ ăn trộm, của kẻ cướp, của một tên gian. Thế thì, có thể gọi là con đã từng sống hay không?

Và bây giờ, ngay cả khi con chết đi rồi, con vẫn chưa thoát khỏi sự truy đuổi của gã đàn ông mà hắn ràng buộc vào đời con chỉ bằng một danh nghĩa chồng vợ. Hơ hơ hơ. Con đã nói xong bốn điều…

-Ngươi đã nói xong rồi phải không?- Thượng Đế thét lên- Bay đâu? Bãi triều. Ta cần giải lao để uống thuốc giảm stress trước đã.

BA ĐIỀU ƯỚC

Truyện ngắn

Con đường vừa nghiệm thu xong thì đất, đá đã bung lên lởm chởm. Chỉ một đoạn ngắn trước nhà ông Huyện mà ngày nào cũng có người té oành ọach. Xe cấp cứu hụ còi nghe rờn rợn. Nhưng đau nhất là cái chết của ông Huyện, ông đi đám giỗ về, vì có hơi ngà ngà nên chạy nhanh hơn mọi ngày, lúc rẽ vào nhà, sơ ý không đưa tay xin đường. Người cùng chiều, sát ngay phía sau, hết chỗ tránh, tông thẳng vào xe ông. Ông Huyện ngã, đầu đập vào cạnh đá sát lề, tắt thở ngay trước ngõ nhà. Thế mới ác!

Đám ma ông Huyện người ta đến dự rần rần, từ làng đến xã, từ người quen đến kẻ hiếu kỳ, từ thân đến chỉ mới nghe tên, chưa biết mặt. Xe đưa tang cả đoàn, dài ngoằng: hon da, xe tải, xe khách, xe du lịch, xe máy cày, máy xới... Đầu kia đám ma đã tới nghĩa trang, đầu này mới vừa ra khỏi cổng nhà. Tiếng nói, tiếng cười át cả tiếng khóc của những người quấn khăn trắng, bận đồ tang. Có kẻ còn bật thốt lên, đám ma vui nhỉ, sau nói, biết mình hố, người ấy mặt đỏ bừng, lủi nhanh qua chỗ khác.

Hàng xóm của ông Huyện có một người tên là Làng. Lão Làng không thiếu gì tiền của, nhưng chút danh tiếng thì chưa bao giờ có được, Làng vẫn mơ một ngày kia mình được thiên hạ biết đến dù là khi đã chết. Lão Làng không đi dự đám ma, vì Lão đang bệnh, đầu nhức, mắt hoa. Nhưng cầm lòng không đậu, Lão ra hiên nhà đứng chờ đám ma ngang qua, Lão chờ từ khi tiếng chiêng la bung beng từ xa vọng đến. Rồi Lão ngó đăm đăm, ngó đến muốn nổ con mắt, ngó như trẻ con há hốc miệng ra coi hát. Khi đám ma qua một nửa, Làng đau khổ thốt lên:

-Trời ơi, đám ma to quá! Tôi ước gì, tôi được là người chết.

Đám đến ngã tư thị trấn. Bà Rớt, người đàn bà lang thang, sống bằng cách lượm vỏ chai, vỏ bia, bới rác, đang bới rác trong một thùng rác ven đường, sững sờ nhìn đám tang, tay vẫn giữ nguyên mớ rác đang cầm. Bà Rớt buồn rầu than:

-Người sung sướng đến vậy mà lại không sống để hưởng. Tôi ước gì, tôi là người chết thay.

Lúc làm lễ đưa quan tài xuống huyệt, Anh Hoan, con cả của ông Huyện, khóc lóc tế lạy, nước mắt đã khô trên gương mặt đỏ au, anh Hoan lầm rầm khấn vái:

-Cha ơi, con ước gì cha nói cho con biết, số vàng lót tay mà cha nhận rồi chôn giấu, khi cha cho qua vụ cai thầu bớt nhựa đường đem bán…

CÁ CHỐT VÀ VÙNG ĐẤT "HOÀNG TRIỀU CƯƠNG THỔ"

Tản văn

Từ xa, nhìn hàng cá sông chỉ có hai người ngồi bán, tôi thất vọng. Có ai bán gì đâu mà mua. Đầu nghĩ thế mà chân vẫn bước tới, mắt tôi bỗng sáng rực lên khi nhìn thấy một rổ cá chốt. Lại là cá chốt sông nữa chứ. Con cá to gần bằng ngón chân cái, bóng loáng, chiếc bụng tròn căng. Cá chốt trứng. Liếc quanh, không ai đến mua nữa, tôi yên chí thảnh thơi ngồi lựa cá. Thật ưng ý quá, những con cá chốt mập ú, tươi roi rói, tôi nghĩ đến nồi cháo bốc khói, thơm phưng phức mà hăm hở chọn lấy, chọn để.

-Cá ngon quá! Con nào con nấy bụng trứng ứ hự. Kỳ há. Tháng sáu rồi mà cá chưa đẻ, mọi năm, chỉ đến tháng ba âm lịch là cá đi đẻ hết rồi. - Tôi quay lại, thấy một chị đang đứng sau lưng chăm chăm nhìn tôi lựa cá. Tôi gật đầu với chị, và giật mình, đúng là đã giữa tháng sáu âm lịch, vậy mà trời vẫn chưa thật sự vào mùa mưa. Điện cúp liên miên vì các hồ chứa nước ở mực nước chết. Cá chốt, và một vài loài cá nữa chỉ đi lên đồng, lên suối đẻ trứng khi nước sông đầy phù sa cuồn cuộn do mưa nguồn đổ về. Nhưng bây giờ cũng có còn bao nhiêu cá nữa đâu mà đi đẻ? Cứ nhìn cái chợ này thì biết, cả chợ chỉ có hai người bán cá đồng. Thay đổi quá ! Cái tưởng như bất di, bất dịch là thời tiết hai mùa mưa, nắng cũng thay đổi.

Ngày xưa, vùng đất Đức Linh bạt ngàn rừng nguyên sinh, trên rừng ngoài những loài gỗ quí như cẩm lai, lim, gõ đỏ, sao, bình linh...thì còn có cả những vùng rừng toàn cây bằng lăng cao vút, thẳng tắp, sáng trắng. Đến mùa thu, cả rừng rực vàng lá đỏ, đẹp mê hồn. Đó là ngày xưa tôi từng thấy. Còn trước đó nữa, vùng đất này còn được gọi là "Đồng Nai Thượng", cũng có người gọi là "Hoàng Triều Cương Thổ". Đất của Vua. Nhưng tôi tin vào cách gọi sau hơn, vì phía bắc Đức Linh tiếp giáp tỉnh Lâm Đồng, nơi đây cũng là nơi những dãy núi Trường Sơn cuối cùng dừng chân, bên kia những ngọn núi là Tây Nguyên hùng vĩ.

Tôi tin điều đó còn vì một lẽ nữa, chủ nhân lâu đời của vùng đất này là người K'Ho, người Châu ro, người Mạ, họ là con đẻ của Tây Nguyên, và vùng đất Tây Nguyên một thời mệnh danh là "Hoàng Triều Cương Thổ".

Cái thời Vua Bảo Đại đóng dinh ở Đà Lạt đã từng qua lại vùng này săn bắn. Tại thị trấn Đức Tài, một trung tâm sầm uất của Đức Linh còn có ngọn đồi mang tên vua. Con đường đầu tiên trải nhựa ở đây chính là đường dẫn lên đồi, phía đông đường được trồng hàng cây vú sữa rợp bóng mát, đẹp tuyệt. Hàng cây ấy bị chặt phá qua từng thời kỳ, đến năm 2005, vẫn còn hai cây. Tôi và một người bạn đồng nghiệp từng đến quay phim, hai người đứng giang tay ôm không giáp được thân vú sữa. Tôi khoe chuyện với Kim Oanh, người bạn thân của tôi. Năm sau, tôi cùng Kim Oanh đến, hai cây vú sữa "lão thành" cũng đã thành những khúc củi, tro cũng tàn lạnh từ bao giờ rồi! Tiếc quá! Từ mặt gốc to như cái phản trên đất, những dòng nhựa vẫn cón tứa ra quện lấy mạt cưa rơi vãi, cái màu nhựa đỏ sánh cứ như đang đau. Ở một mép rìa, vươn lên một chồi non, khẳng khiu, mảnh dẻ rung rung trong gió. Nhánh cây y hệt một cánh tay yếu ớt đưa lên van xin và chống đỡ sự tàn phá đã vô phương cứu vãn.

Vào thời Vua Bảo Đại đến đây nghỉ ngơi và săn bắn, đồi Bảo Đại được bao bọc bởi một bình nguyên bao la dày đặc rừng nguyên sinh. Trong rừng, muông thú nhiều vô kể và rất dạn dĩ. Đã có nhiều người bẫy heo rừng ngay trong vườn nhà mình, bắn cọp giữa sân và chứng kiến voi đi hàng đàn qua làng. Năm 1972-1973, nhiều người dân ở khu vực chung quanh chùa Quảng Sơn, ngôi chùa lâu đời của vùng đất này quả quyết, họ đã thấy một con voi trắng, trên cổ mang sợi xích bằng vàng về trước cổng chùa vào ban đêm. Dư luận một thời xôn xao về con voi trắng này, đó là con voi do Vua Bảo Đại nuôi và đã thả về rừng trở lại, trước khi ông ra nước ngoài.

*

**

Trên rừng nhiều muông thú, dưới sông, suối, ao hồ, cá, lươn cũng không làm gì cho hết. Tôi từng theo mẹ đi tát cá. Mùa nước cạn, chọn những đoạn suối đứt dòng, đắp bờ rồi tát. Những người đi tát chỉ cần nhìn mặt nước xao động họ đoán được bên dưới cá nhiều hay ít, những loại cá gì. Họ dùng gàu dây để tát, động tác nhuần nhuyễn, ăn khớp với nhau, hai người đứng hai bên điều khiển sợi dây dài, chiếc gàu múc và đổ đều đặn như múa. Một người thao tác sai, chiếc gàu sẽ vung lên nhùng nhằng trên không trung rồi rơi bịch, hoặc sẽ kéo người kia chúi nhủi. Tôi học mãi mà chịu không làm được.

Khi vũng tát gần cạn, nhiệm vụ của tôi là đứng canh "những kẻ tẩu thoát", đó là những con cá lóc, chúng lủi trong bùn, men gần đến bờ và phóng thẳng sang bên kia bờ một cách ngoạn mục. Nhưng ấn tượng nhất là những đàn cá chốt, khi nước gần cạn, cá chốt nổi lên mặt nước từng bầy, lúc đó, chỉ cần dùng một cái rổ là vớt lên được. Đó cũng là cách bắt cá chốt an toàn nhất. Vì nếu bị cá chốt chích (gai cá chốt nhọn hoắt và cứng như dằm gỗ lim) thì đau nhức hai, ba ngày chưa hết. Anh Ba tôi thuở ấy 16 tuổi to khỏe như trâu mộng mà bị cá chốt chích, ôm tay khóc hu hu nghe giống còi xe lửa kéo lúc sắp vào ga.

Vớt cá chốt lên, (phải là loại cá to gần bằng ngón chân cái) rửa sạch, cho vài hạt muối xóc đều rồi mang hấp chín, sau đó bẻ lấy xương, lấy gai, bỏ ruột. Nồi cháo gạo nàng Út đã nhuyễn, cho cá chốt vào khuấy đều, nêm tiêu, hành, rau húng rồi múc ra chén. Thơm nức mũi. Nước cháo ngọt lừ thấm đầu lưỡi, lan xuống họng rồi đến cái dạ dày đang háo hức. Cái vị béo ngậy, ngọt thơm mà không ngán vì không có mỡ, vị ngọt lại không do bột nêm mà hoàn toàn do cá tạo nên. Nếu là cá chốt đang mang trứng thì vị trứng ngọt bùi, và thơm làm sao! Húp từ từ thôi, cháo đang nóng hôi hổi, khói bốc nghi ngút. Ui, nóng quá! Và ngon làm sao.

Cá chốt chỉ ở trên sông, trên suối, hoặc ao hồ có dòng chảy. Sau này, người ta dựng bửng ngang suối, nơi nước sông vào ra. Một dòng suối có đến dăm, bảy bửng bắt triệt để. Con lòng tong cũng không thoát, cá lóc vừa lọt lòng bằng mút đũa cũng chẳng tha. Cá chốt chung số phận. Vì thế, những nồi cháo cá chốt của tôi thưa dần, thưa dần và chỉ còn trong hoài niệm về một vùng đất đã thay đổi nhiều, mà tuổi chỉ xấp xỉ tuổi tôi.

Mới đây, một người bạn nói cùng tôi "không có gì vĩnh viễn ngoài lợi ích". Tất nhiên lợi ích là cái miệng nuốt chửng những gì có thể. Tôi biết anh nói đúng và thất vọng bởi những điều tôi hằng tin vỡ ra. Ngày xưa... trong ký ức của tôi, ngày xưa khổ nhưng đẹp. Khổ và đẹp vẫn thích hơn ít khổ và mọi thứ cứ trơ trơ ra, như linh hồn đã rời khỏi chỉ còn cái xác ngây ngây nhìn ta với hốc mắt khô khốc.

HOÀI NIỆM XA XĂM

Tuỳ bút

Vào những ngày giữa tháng chạp, ba tôi bắc chiếc thang lên cành mai ẻo lả. Cành mai oặt vẹo đi, nhưng cái thang đã được tựa khéo léo vào một đám cành đan xen. Ba tôi trèo từng bước như bước loài mèo. Nhẩn nha từng chút một, ông hái lá mai một cách kiên trì, thong thả như đang thưởng thức một thú chơi. Lùa tay vào cuống chiếc lá, tách khẽ ngay khớp. Chiếc lá rời cành nhẹ nhàng. Cách làm này tránh cho cành mai không bị trầy xước. Nếu lỡ có một vết xước, ba tôi xuýt xoa y hệt như vừa làm chúng đau, khiến tôi đứng nhìn ông làm mà phì cười. “Cây cỏ cũng có hồn, có tiếng nói đó con, chỉ là do ta không nghe được mà thôi”. Ba tôi nói vậy. Đám lá rời khỏi tay ông, bay lảo đảo trong gió, đậu nhẹ nhàng xuống mặt sân, trước khi tan biến vào đất, chiếc lá còn mượn gió quẫy lên từng đám lao xao. Chiều tối, cây mai chỉ còn lại những chiếc cành nho nhỏ trơ trụi, chĩa lên nền trời đang sẫm tối như than vãn.

Có lẽ, ba tôi hái lá mai đã làm những nụ mầm thức giấc. Vì sau khi hái lá vài ba hôm, những nụ cái với lớp vỏ cứng ngủ im lìm trên cành suốt bao ngày tháng, bỗng một sớm tinh mơ cựa mình, đầu nụ, hé lộ một chút nõn xanh. Rồi những nụ xanh ấy ùa ra từng bầy, đậu chi chít trên cành. Lúc này, cành mai đã đẹp lắm! Từng cụm hoa xanh tuyệt vời như bích ngọc, chúng nhón gót đứng nhún nhảy cạnh nhau một cách kiêu hãnh, điệu đàng. Một hôm, khi trong nhà bay tràn mùi hương trầm ngan ngát từ bát nhang cúng tất niên, thì đầu cành mai, tự bao giờ đã hé rưng rưng những cánh vàng với làn hương thật thoảng, thật nhẹ, e âp đâu đó trong đêm tĩnh lặng. Đó, thông điệp của mùa xuân mà hoa mai gửi con người và vạn vật.

Ở Đức Linh, hầu như nhà nào cũng có một vài cây mai. Có nhà có cả một vườn. Còn những hàng mai cạnh bờ rào, bờ dậu thì hơi đâu mà đếm. Ngày xưa, vùng này còn có cả những rừng mai như Láng Mai, Thác Mai. Mỗi mùa xuân về hoa nở vàng rợp cả một miền. Ngày ấy, người Đức Linh mấy ai trồng mai. Trên rừng nhiều như thế, muốn bao nhiêu cứ lên rừng mà chặt, việc gì phải trồng. Nhà tôi, năm nào cũng có một bình mai, lấy từ rừng. Ba tôi nhờ người ta lấy cái vỏ đạn đại bác, làm thành một cái bình thật đẹp, cứ đến tết lại sai tôi mang bình ra, lấy giấy nhám đánh bình bóng đến mức thấy gương mặt tôi trong đó méo xẹo. Có những năm, tết của nhà tôi chỉ duy nhất là cành mai vàng.

Vào khoảng 19, hay 20 tháng chạp, người ta rủ nhau ùn ùn lên rừng chặt mai. Hầu hết là đám thanh niên. Mai rừng, mai núi thường không đẹp vì cành mảnh, nụ bé. Mai mọc rải rác ở ven các dòng suối cành mới khỏe, nụ cái nhiều và to. Hai anh tôi đi mất một buổi, vác về từng ôm lớn rồi hì hục thui thui, đốt đốt. Có một năm, sau khi bưng ngọn đèn dầu ra mồi nhóm đống lửa thui mai ở sau hè xong, anh tôi bảo thằng Út bưng cây đèn vô bếp cất. Út vì nóng lòng ra ngồi hóng, nó chạy, chân vấp vào ngạch cửa bếp, ngọn đèn dầu văng tuốt vô mái tranh vách bếp. Ngọn lửa táp nhanh. Gió kéo về thổi rần rật. Trong nháy mắt, lưỡi lửa đã liếm trọn căn nhà. Khói bốc ngùn ngụt tận trời xanh. Anh em tôi sững sờ đến cứng cả người, cứ đứng há hốc miệng ra nhìn ngôi nhà rụi tan trong đám lửa tàn bạo như giặc cướp. Làng xóm chạy rần rần. Tiếng la, tiếng kêu cứu vang dậy từ đầu thôn đến cuối xóm.

Năm ấy, cả nhà ăn tết trong căn nhà tranh dựng vội, trống tuềnh toàng. Bên dưới mái tranh, mẹ tôi treo chục cây bánh tét tòng teng. Ánh mắt của tôi bị đóng đinh vào chỗ ấy. Không biết bằng cách nào, tôi cũng có chiếc áo mới loè loẹt hoa tím đỏ. Tôi khoác vào, chiếc áo thòng tận đầu gối. Cái sự dài khiến tôi an tâm, nó che được chiếc quần rách. Tôi vênh mặt mỗi khi bọn trẻ trong xóm nhìn tôi chòng chọc rồi cùng cười rú lên.

Năm sau, hai anh tôi đứng nhìn thanh niên trong xóm đi chặt mai với ánh mắt lấm lét. Ba tôi từ trong nhà bước ra, ấn vào tay hai anh cây rựa nhỏ rồi nói: “Đi sớm, mới có thời gian lựa cành đèm đẹp con à”. Anh tôi lao chiếc xe đạp ra khỏi nhà như người ta làm xiếc.

Năm nào cũng vậy, dù có buồn ngủ mấy tôi cũng ráng thức chờ nghe tiếng pháo giao thừa và ngắm những bông mai đầu tiên nở trong cái đêm nồng nàn hương khói, chờ những phút giây đầu tiên của năm mới sang với rất nhiều phấn khích. Nửa đêm, ba tôi bày một bàn hương đèn ra giữa sân. Chung quanh vắng lặng và thiêng liêng, tôi tưởng như trong màn đêm dày đặc chung quanh có những đấng bề trên của gia đình hiện diện. Ba tôi lầm bầm cầu khấn một cách vô cùng thành khẩn, ông xin cho chúng tôi được mạnh khỏe, ăn nên làm ra. Lúc này, trong nhà tôi đèn sáng choang. Tôi đến bên cành mai nhìn trên đầu những chiếc nụ xanh nhô nhú hẳn lên một đoạn màu vàng rồi một cánh mai vàng hoe, dịu dàng bước ra khỏi chiếc vỏ lụa xanh, mang theo làn hương mỏng, ngây ngất.

Bây giờ, đêm giao thừa tôi vẫn còn thức nhìn mai nở, vẫn say với niềm hạnh phúc được thấy sự kỳ diệu của một bông hoa trong giây phút trở mình, bung cánh. Đã qua bao mùa hoa mai tàn nở rồi? Đã có quá nhiều đổi thay. Những thay đổi ấy rõ ràng được là thêm ra về con số, về vật chất nhưng sao lòng cứ hao khuyết. Cứ mỗi khi nhìn bông mai vàng tươi tinh khôi tung cánh trên cành, lòng tôi lại nao nao xao xuyến cái gì như nhớ mong, như luyến tiếc lay động. Tôi tiếc cái gì? Tôi mất gì? Không thật rõ ràng nhưng hình như nhiều quá. Hao cạn quá! Những cánh vàng mỏng manh, như một tâm hồn bị ai đó giày vò rồi dát mỏng, bứt rời và ném tung xuống mặt đất. Vẫn biết là không thể khác mà bâng khuâng ngậm ngùi, khôn nguôi.

Cây mai của nhà tôi được ba tôi trồng từ cái ngày gia đình tôi đến ở vùng đất này. Nó là cành mai đầu tiên chặt từ rừng về chơi tết. Qua tết, ba tôi đem cành dâm xuống một bên giếng rồi chăm tưới, nó bén rễ. Sau này, ba tôi bứng ra trồng ở cuối góc sân bên phải phía trước nhà. Một ngày nọ, ba tôi họp cả nhà lại để phân chia tài sản. Tất cả chúng tôi không ai lấy gì. Nhà cửa, ruộng vườn đồng ý để cho cậu Út tất. “Cái nhà muốn ở thì ở, muốn cho con cháu thì cho, không ở thì để làm nơi thờ tự. Tuyệt đối không được bán. Thửa đất cạnh nhà cho tùy ý, khi túng thiếu có thể bán đi mà xoay sở làm ăn. Nhưng riêng những cây mai, ba muốn cho Cúc. Cúc nó thích hoa mai, ba cho nó, để nó tự do muốn đến chặt cành về chơi lúc nào thì tuỳ nó. Quyền của nó, không phải xin ai nữa. Tính khí của nó tao biết, chúng mày- Ba tôi chỉ vào vợ chồng Út- nói năng bỗ bã như thế nó tự ái, nó lại không đếm xỉa đâu.” Vài năm sau thì ba tôi mất. Ba tôi cho những cây mai, còn viết giấy cẩn thận bảo các anh và vợ chồng cậu Út cùng ký vào rồi giao cho tôi giữ. Tôi vẫn chưa một lần nào về chặt cành mai. Tôi không nỡ. Có năm, tôi bấm bụng đi mua cành mai giá bằng một tháng tiền ăn của cả nhà về chơi mấy ngày tết, nhưng kiên quyết giữ những cây mai của ba vẹn toàn.

Mai già, mai lão bỗng có giá. Người thành phố về lùng sục khắp nơi. Đào đào. Bới bới. Chuyên chuyên. Chở chở. Làng quê mất dần những cây mai đẹp dáng, đẹp hoa, mất cả những kỷ niệm thân thiết vì mấy ai cưỡng nổi khát vọng tiền tài. Những gốc mai vất vưởng bên bờ rào, những lão mai từng chứng kiến bao thăng trầm của gia chủ trở thành miếng mồi trong mắt thợ săn. Cây mai của tôi nằm trong số ấy. Tôi về thăm, ngôi nhà cũ nhìn tôi ngơ ngác. Chỗ hàng mai chỉ còn là một khoảng trống, mặt đất bị đào xới loang lổ, trên đó đã kịp mọc lên vài búi cỏ dại. Nghe đâu, cậu Út bán cụm mai già vài triệu từ lâu rồi.

Cho đến bây giờ, khi ngồi viết những dòng này tôi vẫn chưa hề hỏi cậu Út vì sao bán hàng cây mai. Tôi sợ lời phân bua và cái kết quả mà tôi được nghe. Thôi, cứ để hàng cây sống trong hoài niệm của tôi với những Láng Mai, Thác Mai và một thời thơ dại cháy trong cánh áo đỏ lùng nhùng xa xăm.

1/2007 và 1/2008

Chung cuộc

Truyện ngắn

Cái tin tai nạn giao thông khiến hai người chết theo ngọn gió bay đi khắp thị trấn. Bay đến cả những xóm nhà heo hút như xóm Cây Sung.

- Khiếp lắm! Tại chỗ máu loang bê bết. Bây giờ người ta xúc cát đổ lên lấp hết rồi. Một người chết ngay. Còn một người thì lên bệnh viện huyện ngáp ngáp rồi cũng chết. Cái người lên bệnh viện huyện mới chết là ông công an. Đại úy chớ không ít đâu. Từ ngoài Trung chuyển vô đâu mới mấy ngày thôi.

-Công an mà cũng chết tai nạn à?

-Chẳng lẽ công an thì tai nạn nó tha?

Những câu nói nóng hổi như vậy được bàn tán từ quán cà phê, cho đến chỗ ngồi trong bóng râm của những người đi cuốc. Nhưng tin đó đến xóm Cây Sung, một xóm chỉ có năm nóc nhà, nằm ven Bàu Sình thì lại do hai người đàn ông ăn bận đàng hoàng, dáng vẻ là cán bộ mang đến. Chiều đó, tiếng xe hon-da làm cho đàn bà và trẻ con trong xóm vắng tò mò, họ ló mặt ra cửa ngó theo hai chiếc xe. Mấy con chó được dịp a dua, sủa rân trời. Con Vàng của nhà chị Chu rửng mỡ nhảy cẫng lên, chạy theo xe sủa hăm hở. Hai chiếc xe chạy chầm chậm rồi quẹo vô ngõ nhà anh Hậu. Anh Hậu sống một mình, làm thợ đụng. Anh biết nhiều nghề, nhưng hiện nay thì đi làm thợ xây. Nhưng nghe nói tánh ngang tang. Thích thì sao cũng được. Mần thiệt siêng, thiệt khéo, tiền nong đưa đủ cũng vui mà đưa có hẹp một chút cũng cười. Nhưng nếu không thích, có trả gấp năm, gấp bảy lần chi cũng cứ ở nhà, ngồi gọt gốc tre mần tượng Phật, rồi đem lên chùa cúng chơi. Mà tượng tre của anh Hậu mần ngó sướng con mắt lắm. Chao. Tre gốc xù xì, rễ tua tủa. Cái thứ đó chỉ bỏ bếp cho cháy là sướng. Ông Chín Trủi nói vậy. Nhưng với một con dao, một cái đục, anh Hậu lui cui gọt gọt, đục đục từ nơi trước kia là cái mấu, cái chỗ lồi nham nhám, nay thành con mắt, con mắt ngời ngời. Ngó vô bắt rùng mình, cứ y như xoáy trong da thịt người ta, nhìn thấu tận tâm can. Đó là mắt một bức tượng hộ pháp, đầy râu, có người nói là tượng ông Quan Vân Trường, không biết có đúng không? Bây giờ, bức tượng tre ấy đặt trên bàn thờ Hậu viên chùa Quảng Hương. Một trong hai người khách hỏi.

- Có phải anh là thầy Hậu?

- Thầy bà chi tui, mấy anh. Tui là Hậu đây. Hai anh tìm tui có chuyện chi?

- À…Chúng tôi nghe anh có đi tụng kinh?

- À…thì ra hai anh …

- Đúng. Đúng rồi. Chắc anh cũng đã có nghe tai nạn ngoài đường lộ rồi phải không? Tụi tui là người nhà của anh công an bị tai nạn chết trưa nay. Nghe bà con họ chỉ, họ nói ở đây không có thầy. Gia đình muốn tụng cho người chết vài buổi kinh thì chỉ có nhờ anh. Mong anh làm phước giúp cho người không may…-

Anh Hậu cắt ngang.

- Nhưng nhà có thờ Phật không?- Hai người khách nhìn nhau ú ớ.

- Hình như… không…

- Không có thờ Phật, mà gia đình muốn tụng kinh thì phải lập bàn thờ. Hai anh lại đằng chùa Quảng Hương, hỏi mượn tượng Phật, hay lại nhà người quen nào có tượng Phật mà mượn, cũng được.

- Mượn tượng Phật chi anh?- Người mặc áo sơ mi xanh hỏi- Tượng phật A Di Dà thì chắc phải lại chùa mới có.

- Tượng A Di Dà, hay tượng Phật Quan Thế Âm đều được, cũng là Ngài, Phật Quan Thế Âm từ bi hỉ xả cả. Ngài biến hóa thành nhiều tướng mạo thôi. Hai anh về kiếm tượng lập bàn. Tui chạy kiếm vài anh em chuông mõ nữa rồi tới khai kinh. Chúng tôi sẽ đọc một kinh cầu siêu thoát cho vong linh người bị nạn.

- Dà. Xin thay mặt gia đình, xin cảm ơn anh trước.

Khi anh Hậu và mươi người nữa mang áo thụng lam, tay nải đựng kinh, chuông mõ đến nơi thì trong nhà người bị nạn đèn điện đã sáng choang. Ngôi nhà nằm trên đường tỉnh lộ 15. Tuy có ra ngoài trung tâm thị trấn chừng dăm trăm mét, nhưng nhờ thế mà không gian trở nên khoáng đạt, yên tĩnh. Địa thế như vầy, khối người thèm khát. Đất rộng, ngôi nhà mới xây được bao bọc bởi những cây vú sữa xanh um. Trong sân, ba dãy bàn chật cứng người ngồi. Nghe nói người chết đã được liệm. Sao nhanh thế? Vì chết tai nạn sợ để lâu không tiện. Mà nghe đâu đi coi thầy, thầy nói liệm trước mặt trời lặn thì sau này con cháu phát tài, phát tướng. Còn mai, mốt gặp hai ngày đại kỵ. Nhưng liệm thì liệm mà nắp quan chưa đóng đâu. Bên trên mới chỉ đóng bằng một nắp nhựa trắng, trong suốt. Ai muốn nhìn mặt, vẫn còn nhìn được. Tiện lắm. Thế ư?

Anh Hậu không để ý gì đến những lời bàn tán, hỏi han chung quanh, vì lui tới những nhà có người chết hoài, sự tò mò đã không còn hứng thú. Bàn thờ Phật được bày biện trang nghiêm giữa gian chính. Trên bàn, bình hoa huệ trắng rất nhiều bông, đang thơm. Bên trái bàn thờ Phật, lùi vào trong chừng hai tấc là bàn vong. Trên bàn, đằng sau bát hương nghi ngút khói, tấm di ảnh thật tươi. Một bức ảnh màu. Anh Hậu cung kính thắp hương lên bàn Phật. Bày biện kinh sách ngay ngắn. Quyển kinh bìa da màu nâu đã sờn, những chữ màu đen in đậm thật to, thật rõ. Cỡ chữ dành cho những người không quen với giấy bút, sách vỡ. Sau đó, anh Hậu bước sang bàn vong, thắp mấy nén hương với ý định cầu cho vong linh còn quanh quẩn đâu đây thì cùng về, lắng nghe tiếng kinh, nương theo bóng từ bi mà nhẹ nhàng siêu thoát. Khi mắt anh Hậu chạm vào bức ảnh, người anh rúng động, mặt anh nhúm lại trong khoảnh khắc. Gương mặt trong bức ảnh quá quen thuộc.

*

**

Cách đây đã gần 20 năm, ngày đó, khi anh Hậu còn là học sinh lớp 11 trường huyện, thì Trung học cùng khối, nhưng khác lớp. Cả hai cùng ở làng Nhân Xá. Làng nằm bên bờ con sông Cụt. Từ làng ra bãi ven đê chỉ chạy có một hơi một. Cuối bãi, có một cây si. Chiều nào bọn trẻ trong làng cũng tập trung ra đây rồi nhảy ùm xuống làn nước trong xanh dưới kia mà vùng vẫy. Mùa mưa, đó cũng là nơi để mỗi khi Hậu chặn trâu từ đồng bên trở về nhắm đến. Có hôm mưa to quá, nước sông dềnh lên đục ngầu, cuồn cuộn. Hậu bám lưng trâu sang sông. Đến giữa dòng, con trâu hụp xuống nước, nó hất cái vật đeo bám trên lưng ra dòng chảy đang xiết. Hậu sải tay, nhắm cây si mà bươn vào.

Hậu học giỏi, lại khéo léo. Những cành tre, rễ cây biến thành con chụôt nhắt, thành cành hoa, thành những chiếc giỏ xinh xinh. Bạn gái trong lớp ai cũng thích. Trâm được Hậu tặng một cái giỏ đựng hoa. Giỏ được bện từ những cọng rơm vàng, óng chuốt, Hậu ngổi tỉ mẩn mấy buổi trưa liền để làm. Trâm mang về đặt trên bàn học, ngay bên cửa sổ. Trâm là con thầy giáo Hoan, ông thầy độc nhất dạy cấp 3 có nhà trong làng Nhân Xá. Cả làng ai cũng quí thầy, lại càng quí Trâm, vì Trâm thùy mị. Trâm cùng học lớp 11 với Trung, nhưng lại hay sang lớp Hậu để mượn vở chép bài, nhất là vở môn văn. Trâm khen chữ viết của Hậu vừa cứng cỏi, vừa đẹp.

Nhà Hậu ở sát bờ tre, phía ngoài sông. Mẹ Hậu có một đám đất trên bãi lang. Đó là nguồn sống quanh năm của hai mẹ con. Hậu chiều nào cũng đi dứt lang, bó thành bó rồi thồ xe đạp về gửi ngòai chợ. Sớm mai, mẹ Hậu ra bán rồi mới về đi làm đồng. Cuộc sống của hai mẹ con đạm bạc, cơm thường chan với canh ngọn lang, đọt muống, rau dền. Toàn những thứ không phải mua, nấu cùng mỡ heo.

Một ngày nọ, Trung qua nhà thầy Hoan chơi, thấy nhà vắng, Trung hỏi.

- Bạn Trâm đi đâu mà vắng vẻ ha thầy?

- Trâm sang nhà Hậu. Em nó nói đem cho mẹ Hậu ít khoai lang khô để nấu đường. Nhà thầy mới được người quen cho nửa bao, ăn cũng không hết.

Trung đi ngang cửa sổ, thấy chiếc giỏ hoa bằng rơm, chẳng biết nghĩ gì mà Trung lại bẻ một cành cây, rồi khều cho chiếc giỏ rớt xuống. Nhà Trung ở giữa làng, cách nhà thầy Hoan có 4 căn. Vậy mà Trung lại đạp xe ngược ra bãi. Ngang nhà Hậu, Trung thấy Trâm đang bó rau lang với mẹ Hậu. Nhìn mái đầu nghiêng nghiêng của Trâm đang cúi thật gần vai mẹ Hậu, Trung nóng bừng mặt.

Nhà Trung cũng có một đám đất trồng lang, bao trùm một góc bãi. Đám đất nhà Trung bên ngoài, đất trồng lang của mẹ Hậu bên trong. Hậu phải đi nhờ ngang qua những rãnh lang nhà Trung, để vào đất nhà mình. Hôm nay, Hậu cắt khá nhiều dây, cắt bù cho cả ngày mai, vì mai bắt đầu thi cuối học kỳ. Mai Hậu không đi cắt dây lang cho mẹ được. Mẹ Hậu vừa không biết đi xe đạp, vừa bị đau lưng, không gánh được. Hậu thương mẹ, nên gắng sức. Khi Hậu chất hết dây lang lên chiếc xe đạp thì trời tối mịt. Hậu choãi chân ra, bấm ngón chặt xuống nền đất trơn, ì ạch thồ xe về.

- Ê. Không được đi qua đất nhà tao.

- Giỡn ha Trung? Không đi qua đất nhà mày thì tao bay à?

- Không gĩơn. Mày bay hay đi bằng gì kệ mày. Miễn đừng qua đất nhà tao. Đi qua làm nát hết lang nhà tao thấy chưa.-Giọng Trung đầy hằn học và hăm dọa.

- Mày nói thiệt mà nghe được à ? Đất nhà tao bên trong, đất nhà mày bên ngoài, mày không cho tao đi qua, thì tao đi đường nào? Mà tao cũng đã vén hết lang lên mới đi chớ?

-Tao không biết. Hôm nay, mày đi đường nào thì đi, còn nếu mày đi ngang qua đất tao, tao nện mày mục xương.

-Thì ra mày kiếm chuyện. Muốn đánh nhau phải không. Đù má, tao đâu có sợ mày. Mày ngang ngược vậy cũng nên nện cho mày một trận cho mày bớt làm cha thiên hạ đi.- Nói xong, Hậu xô đổ xe lang rồi nhảy xổ vào Trung. Cả hai đấm, đá, cào, cấu khiến đám lang và đất nhão phía dưới bét ra bê bết. Trâm ở chơi nhà Hậu, mãi không thấy Hậu về mới chạy ra bãi, nhìn cảnh đó, Trâm sợ quá về làng kêu cứu.

Mẹ Hậu buồn bả suốt mấy ngày. Hậu chân đi khập khiễng, mặt mày sưng húp nhưng vẫn đi thi. Nghe đâu Trung phải đi nằm viện. Hậu thấy ân hận cho việc làm nông nổi của mình. Nhưng đã muộn. Hậu đâu biết, đời Hậu đã bị định đoạt từ hôm ấy. Đó chính là đáy vực mà Hậu rơi, không có nơi bám để dừng lại. Hai mươi ngày sau, Hậu bị bắt vì tội đánh người gây thương tích. Tuy học lớp 11, nhưng Hậu đã 19 tuổi. Trước tòa, Trung đưa ra giấy chứng thương, Trung bị Hậu đánh thương tích đến 21%. Những ngày nằm viện Trung ói ra máu do nội thương, nhiều bác sĩ chứng kiến cảnh ấy. Hậu ú ớ phân bua rồi lãnh án mười tám tháng tù giam và bồi thường gần 5 triệu đồng tiền thuốc. Mấy người trong làng đến dự phiên tòa về lắc đầu. Ông già An nói, mẹ con thằng Hậu mắc nạn rồi. Tiết canh vịt ăn vô cũng ói ra thành máu đó. Máu vịt, bà con à.

Hậu đi tù. Mẹ Hậu đau một trận rồi qua đời. Trước đó, bà bán đám đất trồng lang bồi thường cho nhà Trung. Ra tù, Hậu về thăm mộ mẹ. Ngồi cả buổi chiều trên bãi tha ma đầy cỏ may, ngó về phía làng mà lòng Hậu buồn u uất. Phía sau bờ tre, từng cuộn khói bay lên, Hậu cố đoán ngọn khói nào là của nhà thầy Hoan, rồi trìu mến nhìn ngọn khói nói lời chia tay. Hậu xin đi lơ xe tải, theo xe lang thang phiêu bạt khắp nơi, cuối cùng đến xóm Cây Sung khi tuổi đời đã xế bóng. Ai ngờ lại hội ngộ người xưa, ở một nơi xa làng quê hàng ngàn cây số và cách nhau sau 20 năm.

- Người thân trong gia đình ra hầu kinh, để khai kinh đó nghe- Tiếng chú Trọng vang lên khiến Hậu giật mình ra khỏi dòng suy tưởng. Hậu mặc chiếc áo lam thụng vào, hai tay lóng ngóng cài mấy chiếc nút một cách trầy trật khiến người đánh chuông phải chạy lại cài giúp. Hậu bước lênh đênh chỉ vài bước chân mà như đi trong sương mù để đến chính giữa bàn thờ Phật, qùy xuống. Một thiếu phụ trẻ mặc đồ tang trắng toát, được người nhà dìu ra, quỳ xuống phía sau lưng Hậu, nhưng không phải là Trâm. Hậu thầm cảm ơn số phận đã không đưa Trâm cùng đến trong hội ngộ này. Bong. Bong. Bong. Tiếng chuông vang lên lanh lảnh. Tiếng mõ đi theo lời kinh trầm trầm. Hậu bắt đầu khấn vái và niệm danh hiệu A Di Đà.

Bong. Bong. Bong. Bóng đêm đã buông xuống dày đặc ở bên ngoài.

TRÁI TIM NÔNG NỔI

Truyện ngắn

Vừa chải tém mái tóc trước cho thật ưng ý, Hương vừa nhớ lại chuyện Thủy nói tối qua, lúc hai đứa ngồi chụm đầu trong một quán càphê:

- Mày đẹp. Giỏi. Thông minh. Tóm lại, cái gì cũng được, chỉ mỗi tội “hậu đậu” tình duyên quá! Yêu chả ra gì, rồi lấy chồng cũng chẳng nên thân. Thế mày định “làm kiểu” mãi thế này à? Già rồi, chẳng còn mấy nữa mà làm eo. Mày phải thế nào đi chứ?

Hương phì cười. Thế nào là thế nào? Chẳng lẽ gào lên là ai yêu tôi với! Hay mang tấm bảng đề chữ: Tôi múôn lấy chồng, ai lấy tôi không, đi lên, đi xuống ngoài đường? Đúng là nói thì ai cũng giỏi. Sao Thủy biết Hương không sốt ruột? Nhưng suốt rụôt thì sao? Thì sao nào? Vừa nghĩ, Hương vừa đẩy cửa bước ra hành lang. Đà Lạt cũng không đến đổi quá lạnh, nắng thật nhẹ. Ơ, cái nắng ở đây hay thật, vàng tươi. Có lẽ cũng chẳng cần đội mũ đâu, nhưng cứ bỏ theo mũ trong túi cho chắc. Hương vừa nghĩ vừa nhìn chăm chắm người đàn ông cúi mình tựa lên lan can, ở cuối hành lang. Người đó nhìn xuống đường mê mải, dứơi chỗ anh ta đứng, cây hoàng lan buông những chùm hoa đong đưa. Xa xa, con đường cong cong, bờ rào ken dày những dây hoa tím. Anh ta nhìn gì nhỉ, con đường hay những dây hoa?

-Chào anh- Hương buột miệng, mặt đỏ bừng khi bất ngờ người ấy quay lại và bắt gặp ánh mắt soi mói của Hương, Hương ngượng ngùng khỏa lấp.

- Cảnh đẹp anh nhỉ…

- Chào cô, cô ở đoàn Sài gòn?

- Dạ. Anh ở đòan nào?

- Mình ở Đoàn Vũng Tàu. Đoàn Sài gòn mới lên phải không? Bọn mình đến đây chiều qua. Cô định xuống phố à.

- Dạ. Hình như chiều, 2 giờ hội thảo mới bắt đầu phải không anh?

- Đúng rồi. Thông báo dán trên tấm bảng ngay trước phòng họp. Còn sớm lắm, cô đi đi. À, nhà ăn đi lối bên hông phải, cô biết rồi chứ?

-Dạ… cảm ơn. Dạ có biết ạ… Hương nói trống không rồi cúi chào. Đi đã xa mà Hương vẫn thấy má nóng bừng, tự nhiên ngó người ta làm chi cho bị bắt gặp để xấu hổ vầy.

Cơn mưa bất ngờ ập xuống làm Hương về muộn. Hương đến phòng họp đã chật cứng, thập thò nơi cánh cửa khép hờ chưa biết len vào chỗ nào để có ghế ngồi thì có tiếng nói khẽ:

-Mình giữ cho bạn một chỗ ngồi rồi, bên này này…- Tiếng nói thật ấm, thì ra người quen ban sáng. Hương bước theo một cách hồ hởi. Lúc đã yên ổn, Hương len lén ngắm Minh, tên người đàn ông và thấy anh thật dễ nhìn, da trắng, người cao dong dỏng. Khó mà đoán tuổi của anh, có lúc, Hương thấy anh như chỉ mới trên 30, nhưng có lúc Hương thấy người này không thể trẻ như vậy, có thể đã 40, hoặc 45 cũng không chừng. Anh nói giọng Nam, nhưng có lúc lại pha lẫn vài âm tiếng Bắc. Anh cũng không quan tâm gì mấy đến những lời phát biểu, đến nội dung thảo luận, anh và Hương chát cùng nhau những chuyện hài hước bằng giấy rồi cùng bụm miệng cười.

Bữa cơm chiều, Hương liếc về phía bàn anh và lần nào Hương cũng gặp nụ cười thân thiện anh dành cho Hương. Buổi tối, anh đến phòng Hương chơi, họ nói với nhau thật nhiều, chuyện về những giấc mơ thời trẻ, chuyện ngày còn là sinh viên, thì ra anh là sinh viên Bách khoa, ngành điện, lạ thật, vậy mà lại đi làm xây dựng. Quê anh tuốt dưới Đồng Tháp Mừơi, vùng sông nước này Hương chưa hề có cơ hội đến, anh nói, mời Hương đến chỗ tôi chơi, trời ơi, đi ghe qua tràm Chim hay hết biết! Anh rót rượu chát vào hai chiếc ly, Hương và anh cụng với nhau để mừng Đà Lạt. Ừ thì mừng Đà Lạt. Hương nghe má mình nóng hừng hừng, nghe trái tim trong ngực đập rộn ràng, khi bắt gặp ánh mắt nung như lửa của anh. Anh với tay lấy chiếc ly cùng một lúc với Hương, hai bàn tay chạm vào, Hương rụt tay lại, tay anh chới với chút xíu rồi hụt hẫng quay về.

Đêm ấy Hương thao thức mãi, niềm vui òa vỡ tràn đầy trong mọi ngõ ngách tâm hồn, Hương tiếc, giá như lúc tối Hương cứ để anh cầm bàn tay Hương…Hương ngủ giấc ngủ chập chờn với hình bóng anh bao trùm.

Tối hôm sau, anh lại đến phòng Hương. Anh nói: “Mai được nghỉ, Hương có đi chơi Đà lạt cùng anh không?” “Dạ…đi bằng gì hả anh?” “Anh có người quen, anh đã mượn xe Honda rồi, nếu Hương đi thì anh sẽ làm tài xế cho Hương.” “Dạ…vậy thì đi chơi đi anh, đi đâu cũng được, vì Hương mới lên Đà lạt lần đầu, chỗ nào Hương cũng thích biết hết đó anh”.

- Nhưng…-anh ngập ngừng

- Nhưng sao ạ?

- Là vì…anh không muốn người khác để ý đến chúng mình…ý anh là, mình tránh những ánh mắt tò mò cho khỏi phiền Hương, cho nên mai Hương ra trước, xuống đầu ngã ba, chỗ đường cong cong xuống dốc, chờ anh nhen.

- Dạ,…Hương ngần ngại rồi trả lời nhẹ như gió thoảng- Vậy cũng được.- Nhưng Hương thoáng một chút buồn.

Hương chọn chiếc quần kaki màu nâu, chiếc áo len cũng có những sọc ngang màu nâu. Khi bước xuống cầu thang, Hương thấy anh đang nói chuyện với vài người nơi cửa ra vào, không nhìn anh, Hương nói to với tất cả.

- Đi phố chơi đi các anh ơi!

- Đi một mình sao người đẹp ơi, có cần người dẫn đường, hộ tống gì không?- Tiếng cười rộ lên, đuổi theo bước chân Hương. Hương bước nhanh qua khỏi tiếng ồn ào. Lòng dâng lên niềm vui như sóng biển. Những cơn sóng khỏe khóăn, khao khát lướt tung qua mọi ghềnh đá để òa vỡ trên bờ cát mềm. Hương cứ đi, cứ đi, đến khi Hương chợt nhớ là cần dừng lại nơi ngã ba thì Hương đã vượt qua một quãng rồi. Thay vì dừng lại, hay quay lại, Hương càng bước nhanh, trong đầu lóe lên ý nghĩ nếu chúng ta có duyên, anh sẽ tìm thấy em. Ý nghĩ ấy làm Hương thêm phấn chấn, Hương càng bước nhanh hơn. Hương muốn chơi trò chơi định mệnh. Nếu anh chính là người mà số mệnh đã dành cho cô, thì dù anh là ai, dù anh có trong hoàn cảnh nào, con đường của anh từ nay cũng là con đường của cô, và cho dù cô có tránh né cũng không thể không gặp anh.

Nắng lên cao, những rừng thông hai bên đường thẳng vút, thì ra con đường này lên Dinh 3, một trong những Dinh thự của vua Bảo Đại, thế cũng tốt, Hương cũng múôn đến thăm nơi này một lần cho biết.

Sau khi đi hết mọi gian phòng trong Dinh, Hương tìm một chỗ thoáng sạch ngoài vườn hoa ngồi nghỉ. Hoa Đà Lạt chỗ nào cũng đẹp, hoa đài các trong chậu, trong vườn kiêu sa, hoa dại cũng chẳng chịu kém mặn mà. Hương chọn một chỗ trên bậc đá cao, từ chỗ ngồi Hương thấy Đà Lạt dưới kia, những mái nhà đỏ chói thấp thoáng, nhấp nhô, những con đường úôn lượn, những dòng người li ti nối nhau ngoằn nghèo. Có lẽ, trong dòng kia, anh đang lao đi tìm Hương nháo nhác, anh không bao giờ nghĩ rằng Hương lại đi vào con đường ngược lại. Nhưng sao anh không gọi điện thoại cho Hương nhỉ. Hương mở túi, thôi chết rồi, sáng nay trong lúc xôn xao chuẩn bị, Hương bỏ quên điện thoại trên bàn ngủ mà không lấy đem theo rồi.

Hương thấy hối hận vì trò chơi trốn tìm của mình. Thủy “triết” hay nói “ Có những người mỗi giây của họ đều sống đến tận cùng của yêu ghét, vì vậy họ không ngừng lớn lên, nhưng lại có những người sanh ra rồi chờ chết, họ chẳng sống bao giờ, họ từ nhỏ chuyển sang già , hoặc héo đi mà không lớn lên được. Còn mày, tao thấy mày cứ lừng khừng, chẳng thế này cũng chẳng thế kia, chỉ thỉnh thoảng lại nông nổi”. Thủy ơi, tao nông nổi thật rồi, tiếc là không có mày ở đây để mày chửi tao, cho tao bớt “đần”... Ý nghĩ của Hương lại quay sang anh: Anh sẽ ra sao khi tìm Hương khắp mọi nẻo đường mà không thấy? Trời ơi, tuyệt vọng và tẽn tò biết mấy mỗi khi rà xe chậm lại, ngó thẳng vào một ai đó có dáng quen thuộc rồi lại biết là mình lầm. Và anh sẽ nghĩ gì khi gọi cho Hương mà chuông điện thoại reo mệt mỏi trong khi người cầm máy không nghe? Hương vội vàng trở về, bước chân hối hả mà đoạn đường như dài mãi ra, Hương cũng tuyệt vọng vì ngoắc mãi mà những chiếc xe Honda chạy ngang qua Hương đều không phải là xe ôm.

Cuối cùng Hương cũng về được đến Nhà khách. Muộn quá. Để tránh người gặp người quen, Hương đi vòng qua lối nhà ăn, cửa nhà ăn khép hờ, Hương bước thật nhẹ, trong nhà ăn vọng ra tiếng nói hổn hển và hào hứng của ai đó, hình như họ đang nhậu, tiếng nói đã nhừ nhừ:

- Anh Minh trúng mánh quá sá héng. Hèn gì tắt luôn máy di động, tôi gọi mãi mà toàn ngoài vùng phủ sóng không à, tôi tưởng anh đi chơi xa, ai dè…ấm quá. Không ngờ, Đà Lạt mà càphê sex…cũng quá dữ ha?

- Sex trăm phần trăm. Múôn sờ, mó kiểu gì đều được …- Hé hé hé - Tiếng cười khơ khớ tục tĩu rộ lên. Giọng của Minh càng cao hứng- Mấy em cũng tàm tạm. Tao với thằng Hảo “rửa mắt” múôn đui luôn. Cũng đáng chuyến ăn chơi Đà Lạt. Mà nè, không có người dẫn, đố mày tìm ra địa chỉ đó nghen. Tiền, cũng phải biết cách chơi, chứ không dễ đâu.

- Ủa, sao nghe anh hẹn em Hương, em Hường gì đó dạo phố mà. Phí không?

- Ra đường tìm em không thấy, tao với thằng Hảo vù đến quán sex luôn. Trời, không đi tiếc sao mậy.- Chính là tiếng của anh. Hương chạy như ma đuổi, bỏ lại sau lưng những tràng cười rú lên từ câu chuyện trong nhà ăn. Đến phòng, Hương run run cầm điện thoại dò tìm, không có một cuộc gọi nhỡ nào của anh gọi vào máy của Hương trong sáng nay.

Khuya đó, Hương rời Đà Lạt từ chuyến xe 2 giờ sáng. Bỏ lại trái tim thêm một lần nông nổi với sương mù và giá lạnh Đà Lạt.

NGUYÊN VÀ TÔI

Tối qua chàng trai trẻ trở về nhà, ngôi nhà nhỏ bé của tôi choàng tỉnh. Tiếng cười ngân lên giòn giã từ căn bếp cho đến ngoài ngõ. Sơn há hốc miệng khi nghe Nguyên kể, Nguyên thi học kỳ 8 môn, đã có kết quả một số môn và toàn điểm 8, khả năng Nguyên sẽ được học bổng năm học thứ 3 này. Nhựt cũng khoe, mới hôm qua, Nhựt có một điểm 9,5. Điểm thi học kỳ, môn Anh. Chỉ có Sơn là không có gì để khoe, chăm chăm nhìn Nguyên và cười như ông Địa.

Khuya rồi, 3 anh em vẫn chụm đầu vào máy tính chơi Games, một trò đánh nhau. Sơn liên tục thắng. Sơn cười hô hố, Nguyên kẽm quá! Nguyên trình độ nào mà dám chống cự thằng em? Nhựt trèo hẳn lên cổ Nguyên ngồi, trông Nhựt y hệt như đang ghì cương phi ngựa một con chiến mã, kỵ binh Nhựt nét mặt mới kiêu hãnh làm sao! Tôi ngồi cạnh góp những tiếng cười cổ vũ Sơn và hùa trêu ghẹo Nguyên, lòng tràn ngập yêu thương các con. Tôi yêu mỗi con một tình yêu riêng, tròn đầy như nhau, với Nguyên, tôi thật sự coi Nguyên là bạn nhỏ, một người bạn thân yêu và đáng tin cậy của tôi.

Khi Nguyên vào lớp 1, có một ngày Nguyên nói cùng tôi: Trước trường con người ta bán bánh tép, ngon lắm Má à, chỉ hai trăm một cái thôi. Hàng ngày, tôi nấu cơm sáng cho Nguyên ăn, chở Nguyên đến trường rồi tôi đi làm luôn. Chỗ làm xa nhà 10 km, tôi đi xe đạp nên tối mới về. Nguyên tan học, về nhà Nội chơi, chiều tôi ghé lại đón Nguyên. Hôm đó, tôi đưa Nguyên năm trăm và dặn “ Con ăn hai trăm, thối đem về cho má ba trăm nha”. Nguyên đưa ngón tay bé bỏng của mình lên trước mặt: “Con hứa mà!”. Khi đến chỗ làm rồi tôi mới hối hận, sao tôi lại bắt Nguyên hứa phải đem về lại ba trăm? Nguyên sẽ khổ sở biết mấy với ba trăm trong túi mà hông được mua bi, mua kẹo, vì có bao giờ tôi cho tiền Nguyên đâu. Sao tôi bắt Nguyên phải đấu tranh khổ sở thế, chỉ vì đừng dùng ba trăm của tôi? Hết giờ làm việc, tôi phóng xe về, đạp bay qua mọi con dốc cao không chút mệt mỏi. Ghé nhà Nội, mọi người nói Nguyên đi bộ về rồi. Tôi chạy về nhà, Nguyên đang ngồi ở bậc thềm, chiếc cặp sách còn đeo trên lưng. Thấy tôi, Nguyên móc từ túi ra ba trăm, miệng cười hớn hở, đắc thắng “Ba trăm của má nè” . Tôi ôm Nguyên vào lòng, nước mắt chảy tràn vì ân hận và thương Nguyên. Nguyên đâu biết, Nguyên vừa dạy tôi một bài học, đó là đừng nên thử thách con trẻ bằng những việc không đáng. Và với việc làm đó, Nguyên cao lớn hơn sự ích kỷ và vô tâm của tôi.

Những buổi tối khi Nguyên còn học cấp một, không tối nào chúng tôi không chơi trốn tìm. Nguyên rất nhanh nhẹn, nhưng Nguyên chỉ bắt được Sơn, và các bạn. Còn má thì quá tinh ranh. Má nấp ngay sau lưng Nguyên, nếu Nguyên nói phải đứng cách xa ba bước, má đứng cách hẳn năm bước và đi nhẹ như mèo. Nguyên chỉ vừa dứt tiếng năm, mười, má lao đến vỗ tay vào vách tường “kiếm tùng”. Hi hi hi… má luôn thắng Nguyên vì nhờ “ăn gian”

Chưa hết đâu, nếu chơi ve ve. Trò chơi này rất đơn giản chỉ ngửa bàn tay, những người chơi ngồi xung quanh dùng một ngón nhấp nhấp vào bàn tay ngửa ấy, ai bị bàn tay đó bắt được thì phải ngửa tay làm tiếp. Chỉ thế thôi mà hò hét inh ỏi. Má hét to nhất, má chỉ toàn rình bắt tay Nguyên, còn Nguyên nhỏ bé hông hề bắt được tay má. Hí hí.

Những trò chơi đó, tôi đã chơi thật hào hứng, có những lúc chân tôi lính quýnh chạy vấp cả vào mấy cục gạch chỉ vì Nguyên hét lên “ Xí được Má chỗ bụi ớt”. Tôi đã sống như trẻ thơ trong những trò chơi cùng Nguyên, và chính Nguyên trả lại cho tôi những điều mà ngày thơ ấu vì một lẽ nào đó tôi đã bị tước mất.

Nhưng nhớ nhất là những đêm lang thang. Nguyên đi cạnh tôi. Đó là những khi bão đời cuốn tôi ném vào vũng lầy bất hạnh. Không phải một bận mà triền miên! Tôi thấy tôi gục ngã và Nguyên đã nâng tôi đứng dậy. Má đừng buồn mà sanh bệnh đó, lại thêm khổ. Mọi chuyện rồi sẽ qua, có con bên cạnh Má nè! Nguyên đã cố nâng mình lên. Nguyên cố gắng rất nhiều để tỏa chiếc bóng bé xiu của Nguyên che chở cho tôi. Tôi tựa vào tình yêu thương muôn trùng của Nguyên bé nhỏ để vượt qua, để chống chọi với cuộc đời muôn mặt, hết sức đỏng đảnh.

Có những lúc hai mẹ con trò chuyện cùng nhau. Tôi nói với Nguyên: Má không biết có Thiên đường hay Địa ngục gì không, vì những điều đó chỉ nghe nói thôi, mà nói thì cũng người này nói với người kia chứ chưa ai dám nói vỗ ngực kêu lên tôi mới từ Thiên đường hay Địa ngục trở về và ở đó là… Vì vậy, má không tin mấy vào chuyện sau khi đã chết. Má tin vào cuộc sống hiện hữu chúng ta đang có. Nguyên à, có cuộc sống hiện hữu là một may mắn. Được làm Người là một may mắn! Nguyên hãy cố gắng để có một cuộc sống hạnh phúc. Nguyên hãy trở thành một người hạnh phúc, nha Nguyên! Hạnh phúc cần nhiều thứ : Cần yêu thương, cần cơm ngon, áo đẹp, cần nhà ở, xe đi. Những để đó hạnh phúc đúng nghĩa Nguyên cố gắng làm Người, trước khi làm những việc khác, ví dụ như kiếm tiền chẳng hạn.

Không biết Nguyên của tôi có hiểu được những điều tôi nói không? Và tôi cũng không biết điều tôi tin có đúng không? Và những việc gì thì gọi là việc của con Người? Một ngày nọ, có một người bạn đã rất thành đạt, người bạn này nói với tôi rằng, một người hạnh phúc và được coi là thành đạt hiện nay phải có 4 điều kiện. Có bằng cấp, học vị, có tiền và có ít nhất là 3 ngôi nhà, có xe hơi. Có vợ, hai con ngoan và có một bồ nhí còn trẻ. Người đó còn nói, chị sai rồi, đáng lẽ chị phải dạy Nguyên trở thành kẻ mạnh, kẻ mạnh không bị người khác ức hiếp và chỉ có thành kẻ mạnh mới bảo vệ được mình, mới có thể đạt được hạnh phúc. Tôi đâm ra hoang mang, nhưng để thay đổi một nhận thức thì không chỉ bằng một câu nói.

Dẫu sao thì Nguyên của tôi cũng đang trưởng thành.

Ngày Nguyên thi đại học, tôi ngồi trước cổng trường đợi Nguyên, Nguyên thi bên trong, Tôi hồi hộp từng giây bên ngoài. Cuối giờ thi toán, Nguyên bước ra mặt buồn hiu, quả nhiên môn thi đó, Nguyên chỉ đạt 5 điểm. May mắn sao hai môn thi còn lại Nguyên làm bài tốt hơn và Nguyên đã vào Khoa Kinh tế xây dựng, trường Đại học giao thông vận tải ngay năm thi đầu tiên. Đến nay, Nguyên đã học năm thứ ba, Nguyên đang vươn đến điều kiện hạnh phúc đầu tiên chăng?

Một ngày nọ, Nguyên ngập ngừng thổ lộ cùng tôi “Má ơi, con đã yêu một cô gái!” Tôi lắng nghe Nguyên kể, Nguyên hồi hộp vì thấy tôi im lặng. Khi Nguyên đã nói hết tôi nhìn Nguyên thấy rằng, con của tôi vẫn chỉ là một đứa trẻ, đứa trẻ đang hồi hộp âu lo vì đang yêu. Tôi an ủi Nguyên, tôi nói rằng : Nguyên ơi, má vẫn không biết, rằng trên đời này có tình yêu tuyệt đối và bền vững hay không. Nhưng đó là hy vọng là niềm tin của mọi con người. Con người tin rằng họ sẽ yêu thương và nhận được một tình yêu vĩnh cửu, chung thủy. Nguyên của má cứ yêu thương chân thành đi và sẽ tự cảm nhận được những điều kỳ diệu do tình yêu mang đến, kể cả đau khổ.

Vậy đó, bên cạnh tôi có Nguyên, một người bạn đang là một thanh niên tuổi hai mươi. Nguyên bạn của tôi, có gương mặt đẹp nhân hậu, đôi mắt với ánh nhìn điềm tĩnh và hiền lành. Ánh mắt đó hướng tới cuộc đời với niềm tin cuộc sống đầy những tốt đẹp.

Tôi muốn nói cảm ơn cuộc sống đã tặng Nguyên bé bỏng cho tôi.

TÌNH NGƯỜI

Truyện ngắn

Bấm xong hai xấp tài liệu phục vụ cho cuộc hội thảo chất lượng hàng hóa ngày mai, chị Liêu rời máy đến bên cửa sổ. Trời không nắng, hàng bằng lăng sát tường rào như các chú tân binh đứng nghiêm, một cây hình như là tiểu đội trưởng, nhỉnh cao hơn mọi cây khác và đong đưa sớm mấy chùm hoa như là lon cấp bậc trên vai áo. Chị Liêu cười thầm vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của mình.

Mới hơn 3 giờ chiều à? Sớm quá, nhưng hôm nay sao công ty vắng lặng thế này? Chú Nông cũng đi đâu mất, hèn gì chẳng nghe tiếng dép ồn ào và tiếng hát ồ ồ của chú mỗi khi vào phòng bên. Họ đi đâu thế nhỉ? Chị Liêu vừa tự hỏi vừa khép cánh cửa bước xuống lầu đưa hai xấp tài liệu cho Bảy “ Tài liệu gốc, em đi photo bốn mươi bản ha” “ Xong, đưa lại cho chị hay sao?” “ Ừ, sớm mai đưa lại cho chị”

Sang phòng văn thư, chị Liêu thò đầu vào cửa nói to “Mai ơi, cô sang bên văn phòng Tổng công ty gặp anh Hậu chút nhá” Mai cười, đầu gật gật. Chị Liêu bước nhanh nhẹn ra cánh cổng màu xanh, chị tính đi thật nhanh rồi trở về vào mạng Internet. Điện thoại trong túi rung lên. A lô, mẹ nghe rồi cưng. Sao, đau bụng hả con? Con sang nhà bà, nhờ bà cạo gió, mẹ về liền. Sao cưng? Con đã sang mà bà đi vắng ha? Ừ ừ…ráng chịu đựng chút xíu. Vào giường mà nằm nghỉ. Mẹ về ngay.

Chị Liêu hối hả quay lại phòng văn thư, đầu chị cứ bám ý nghĩ, không khéo con mình vướng tiêu chảy cấp thì nguy. May quá, có chị Nguyệt, Phó phòng Tổ chức kiêm Trưởng phòng Hành chính quản trị đang ở đấy.

-Chị Nguyệt à, cháu Hà của tôi vừa gọi điện nói cháu đau bụng lắm! Nhà không có ai. Tôi về trước vài giờ chị nhé.

- Thì chị về.

Nguyệt lí nhí trong miệng một cách lạnh nhạt. Chị Liêu không để ý đến thái độ của Nguyệt, chị lao về phòng để tắt máy vi tính, đóng cửa sổ, lấy chìa khóa xe và túi xách. Chị cầm tay lên nắm đấm và vặn, cánh cửa cứng ngắc vì đã bị khóa. Thôi chết rồi! Chùm chìa khóa tòng teng trên cửa tủ. Lúc nãy, chị Liêu vô ý bấm khóa cửa khi bước ra. Một ý nghĩ lóe lên, chị Liêu mừng rỡ hấp tấp chạy xuống lầu.

- Chị Nguyệt cho tôi mượn chìa khóa phòng tôi, hồi nãy đi ra, lỡ tay tôi bấm khóa cửa mà chìa thì cắm trên cửa tủ.- Chị Liêu khổ sở trình bày.

- Tôi làm gì có chìa khóa phòng chị?- Nguyệt nói mà không hề nhìn.

- Hôm nọ, lúc bé Thảo nghỉ việc đã bàn giao lại chiếc chìa khóa phòng cô cho ai vậy Mai? – Chị Liêu hỏi

- Dạ, con đưa chìa khóa của chị Thảo cho cô Nguyệt rồi. Thảo nói và đưa mắt nhìn chị Liêu ý bảo “Ở cô Nguyệt đó cô”

- Lâu rồi, để đâu tui quên rồi. – Nguyệt cương quyết.

- Chị Nguyệt ráng kiếm lại giùm tôi thử xem? – Chị Liêu kiên nhẫn

- Phòng bên đang mở cửa đó, chị qua đó trèo tường mà sang, hoặc chị phá cửa mà vô thôi. - Ném câu nói lạnh lùng vào mặt chị Liêu và Thảo xong, Nguyệt ra khỏi phòng vẫn không hề nhìn ai. Tú- Người mẹ trẻ vừa mới có đứa con đầu lòng hơn một tuổi, bước vào nhìn chị Liêu lắc đầu nói:

- Cô đã hiểu chưa? Cô lo lên trèo tường đi, còn trông mong gì? Không thì cô lấy nắm tay mà phá cửa. Ác. Người sao mà nói nghe ác đến lạnh.

Chị Liêu hiểu chứ, chị biết Nguyệt luôn làm tình làm tội mọi người. Huống hồ, Nguyệt đã ghim chị món nợ. Hôm nọ, Nguyệt mời vợ chồng trưởng công an khu phố, vợ chồng anh Sa, cán bộ viện Kiểm sát để cám ơn những người này đã giúp thằng Nam, con Nguyệt thoát tội trộm cắp. Nguyệt gọi chị Liêu đi cùng, vì có chị Liêu, hóa đơn bữa cơm ấy sẽ do công ty thanh toán, xem như tiếp khách. Chị Liêu đã từ chối. Đó là một sai lầm .

Chị Liêu chạy lên phòng, qua cửa kính, chị nhìn độ cao từ trên nóc tường xuống mặt đất khoảng gần 4 mét. Nếu nhảy từ đó xuống có khi gãy chân. Chị Liêu chạy xuống cầu thang lao đi tìm người bảo vệ. Cánh cổng phòng bảo vệ khóa im ỉm. Từng phút chậm chạp cháy bỏng trong lòng chị Liêu, chị lại cuống quýt quay về. Chuông điện thoại reo lên khi chị đến cửa công ty. Alô, cưng hả? Con đau lắm hả? Mẹ về ngay. Chị Liêu quay ngoắt ra cửa bước thoăn thoắt.

- Cô Liêu!- Tú gọi

- Có!

- Cô đi đâu đó?

- Cô về Tú à, Hà nhà cô đang đau lắm!

- Cô về bằng gì?

- Cô ra đường gọi bất cứ xe gì có thể đi để về.

- Cô có mang tiền theo không, túi xách cô đâu?

Chị Liêu đưa tay lên vai, rồi thọc tay vào túi quần, không có đồng nào, không có giỏ xách.

- Cô vào đi, cháu sẽ trèo tường.

- Được không Tú?- Chị Liêu nhìn Tú với ánh mắt biết ơn và ái ngại.

- Cứ để cháu trèo thử.

Chị Liêu nhanh nhẹn cùng Tú lên phòng. Tú nhìn bức vách, lòng chờn chợn, nhưng không thể không giúp cô Liêu. Cả hai vào phòng bên, may mắn là ở góc phòng, sát vách ngăn đang có một tủ đứng. Bên trên vách ngăn có một kẽ hở giữa hai phòng. Đứng trên một chiếc ghế, Tú trườn lên đầu tủ một cách vất vả. Khi ở trên đầu tủ, Tú loay hoay mãi rồi cũng bám được lên đầu bức tường. Tú đu người lên, bước chân loạng choạng trượt dài trên vách, chiếc áo vướng vào chỗ nào đó tọac một mảng bên hông. Chị Liêu á lên một tiếng kinh hãi khi thấy tay Tú với hụt. May quá! Tú đã ngồi trên đầu bức vách. Ngừng một chút, cho tim bớt đập hoảng loạn, rồi Tú thận trọng bám hai tay trên đầu vách, thả dài người xuống phía bên kia và nhảy. Bịch. Tú té ngồi trên nền nhà. May mắn. Tú chỉ đau chút xíu thôi. Tú loạng choạng đứng lên mở cửa, mặt hân hoan. Chị Liêu nước mắt lưng tròng. Chị biết, chị đã nợ người mẹ trẻ.

- Chị Liêu đưa hai xấp tài liệu đi in xong nhớ ký tên nha. – Nguyệt từ đâu đó xuất hiện trước cửa, giọng tỉnh khô.

- Vâng. - Chị Liêu bước qua Nguyệt mà đi như vừa bước qua một bụi cỏ khô.

ĐUA!!!

Truyện ngắn

Nhờ sự lì lợm, hung tợn của đứa cháu trai có vóc dáng cao lớn mà cô giáo Châu lấy lại được chỗ ngồi, đã dặn từ trước, trên chuyến xe khách chật ních. Xe chạy, cô Châu nhắm mắt lại, mặc xung quanh ồn ào, chen lấn.

Xe chật đến ôi cả người! Ngay lối lên xuống đã chứa đến 17 thượng đế. Tiếng kêu oai oái, mùi người nồng nặc, thượng đế ngộp thở, vậy mà chủ xe vẫn chưa thôi đón khách. Cứ mỗi lúc xe ngừng, ai nấy đều thở dài ngao ngán. Nhưng lần này xe đã ngừng mười lăm phút, hai mươi phút, rồi 30 phút mà vẫn chưa thấy ai lên xe. Chỉ thấy lơ xe hùng hục xách đồ nghề xuống lục đục đâu đó. Một thằng bé thì thầm vào tai mẹ nó:

- Mấy chú ấy không có sửa xe, mấy chú nằm dưới gầm xe ngủ, mẹ à.

- Công an đang làm phía trên kia kìa. Họ giả đò như xe đang bị hư, để lừa công an. Xe dư khách hàng đống, công an túm được có mà giam xe cả tháng. Ông già, râu tóc bạc phơ, đang ngồi ghé vào ghế trước, nói vậy

Cô giáo Châu im lặng, nét mặt mệt mỏi. Cô ngả đầu tựa vào chiếc ghế, mắt vẫn nhắm.

-Lên xe. Nhanh, nhanh, nhanh! Tụi nó đi rồi. Không biết mấy cha đi rồi có quay trở lại không? Chủ xe bỗng giục hối hả.

-Mẹ…đua luôn! Nó quay lại thì đua, đéo sợ! – Tài xế tuyên bố

Chiếc xe chạy như bị cướp đuổi, chủ xe vén màn cửa sau để quan sát.

- Nó quay lại! Đạp hết ga đi.- Chủ xe la toáng lên. Người trên xe chúi nhủi vào lưng nhau, khi chiếc xe vọt chồm, tăng tốc. Đứa trẻ trên tay của người phụ nữ, ngồi ghế xúp, khóc thét lên vì có người ngã ngồi vào đầu nó.Tim ai cũng thót lại vì sợ, nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Những chiếc xe ngược chiều chạy dạt xa, những đôi mắt hai bên đường trợn tròn kinh ngạc. Cuộc rượt đuổi hứa hẹn những tai nạn thảm khốc! Cả chạy và đuổi đều quyết liệt.

Hú vía !

Chiếc xe cảnh sát với ngọn đèn nhấp nháy đã qua mặt. Xe khách hết đường cựa quậy. Lái xe, mặt tái mét lập cập xuống xe.

- Nè, đưa cho nó năm thước. Mẹ...biết nó muốn ăn mà trốn không thoát. Năm thước mà không biết các bố có tha cho không, coi như hôm nay toi công!- Chủ xe dúi vào tay tài xế xấp giấy tờ cùng tờ giấy bạc năm trăm ngàn đồng, lầm bầm chửi rủa.

Cô giáo Châu thò đầu ra ngoài xe nôn thốc, nôn tháo. Nhìn cô, mọi người đều ái ngại. Khi cô Châu ngước lên đôi mắt đờ đẫn lên, đôi mắt ấy vô tình hướng về người công an, tia mắt chụp lấy gương mặt thân quen rồi cuống cuồng tìm đôi bàn tay và ánh sáng trong đôi mắt tắt phụt, khi thấy bàn tay người công an, đang thản nhiên nhét tờ bạc vào túi. Trời ơi! Thằng Xuân, con trai cô, niềm tự hào, thiên thần của cô... Hai hàng lệ tủi hổ của người mẹ tràn xuống đôi gò má đã nhàu như tờ giấy kiếng bị vò. Có ai đó hỏi:

- Bà ơi, bà có sao không ạ? Cô Châu lắc đầu, van nài:

- Làm ơn chạy đi, bác tài ơi!