Erich Segal-Love Story

Erich Segal

Chuyện tình

Biên dịch: Nguyễn Thành Nhân

GIỚI THIỆU

Chuyện tình là một tác phẩm lay động lòng người trong thập niên 1970, bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm cũng đã làm rơi nước mắt hàng trăm triệu khán giả trên thế giới. Và những người Việt Nam từ độ tuổi bốn mươi trở xuống, nếu chưa từng đọc qua tác phẩm hay xem qua bộ phim cùng tên, hẵn cũng ít ra một đôi lần cảm thấy tim mình bồi hồi xao động khi nghe nhạc khúc Love Story qua tiếng độc tấu dương cầm ngọt ngào và day dứt.

Erich Segal, tác giả quyển truyện, là giáo sư bộ môn văn chương của Đại học đườngYale. Ông từng là một nghiên cứu sinh ở Harvard nên đã thấu hiểu, cảm nhận sâu sắc được suy tư tình cảm của một lớp thanh niên trí thức Mỹ lúc bấy giờ; hơn thế, ông hoàn toàn hoà mình vào đó, cùng rung động với họ, và kể lại câu chuyện bằng giọng nói chân thành sâu thẳm của một người trong cuộc. Phong cách độc đáo của Segal thể hiện ở chỗ làm cho người đọc cảm nhận được rất nhiều điều chỉ qua một chi tiết nhỏ nhoi. Vì vậy, để giúp một số bạn đọc đã có trình độ Anh văn cấp độ cao trung tự mình cảm nhận được phong cách tuyệt diệu của Segal, chúng tôi xin giới thiệu ở đây toàn văn nguyên bản Love Story kèm theo phần dịch. Các bạn đọc khác vẫn có thể thưởng thức trọn vẹn tác phẩm qua phần dịch thuật. Văn phong hơi phóng túng, ngỗ ngáo nhưng chân thành, cảm động của Segal đã được người dịch cố gắng thể hiện lại, thông qua cách nói, cách viết thuần túy Việt Nam, nhưng có lẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong được các bạn thông cảm bỏ qua.

Chuyện tình yêu muôn đời vẫn là thứ chuyện gây nên nhiều cảm xúc mãnh liệt nhất cho mọi con người. Và tình yêu không bao giờ cũ. Mời bạn hãy bắt đầu đi vào câu chuyện, chia sẻ cùng các nhân vật những hương vị ngọt ngào và cay đắng của tình yêu.

Người dịch

Chương 1

Bạn có thể nói gì về một cô gái hai mươi lăm tuổi đã chết rồi ?

Rằng nàng đẹp. Và thông minh. Rằng nàng yêu nhạc Mozart và Bach. Và Ban nhạc Beatles. Và tôi nữa. Có một lần, nàng đã xoay xở tìm cách xếp tôi vào danh sách những thứ mà nàng yêu thích ấy. Và khi tôi hỏi nàng dựa theo trật tự nào, nàng mỉm cười đáp : Theo thứ tự ABC. Lúc đó tôi cũng mỉm cười. Nhưng giờ đây, tôi tự hỏi không biết nàng đã sắp xếp tôi theo tên, trong trường hợp này tôi sẽ đứng sau Mozart - hay là theo họ, trong trường hợp này tôi sẽ đứng giữa Bach và Beatles. Dù có theo cách nào thì tôi cũng không đứng ở vị trí đầu tiên, và việc này làm tôi khó chịu quá chừng. Từ bé đến lúc trưởng thành, tôi vẫn luôn luôn tự hào rằng mình là số một. Bạn biết không, vì truyền thống gia tộc đó mà.

Vào mùa thu năm cuối, tôi có thói quen tới học ở thư viện trường Radcliffe. Không chỉ để ngắm các cô nàng mũm mĩm, dù tôi phải công nhận là mình cũng khoái chuyện này. Chỗ này yên tĩnh, không có người quen, và khi cần đọc quyển sách nào thì có ngay. Hôm trước ngày thi môn sử, tôi tới đó để đọc một cuốn sách được xếp đầu tiên trong lịch học, cuốn này ở Harvard thật khó tìm. Tôi lững thững đi tới bàn đăng ký mượn cuốn sách - một trong những nấm mộ sẽ chôn lấp tôi ngày hôm sau. Hai cô gái đang làm việc ở đó. Một cô có típ người cao của một tay chơi tennis, cô kia là một chú chuột nhỏ nhắn đeo kính cận. Tôi chọn cô nàng bốn mắt.

“Cô có quyển Sự suy vong của thời Trung cổ không?”

Nàng liếc xéo tôi rồi hỏi :

“ Ông có thư viện của mình chứ ?”

“Thôi nào, trường Harvard cho phép sử dụng thư viện này mà.”

“Tôi không nói về qui định thưa công tử, tôi nói về lẽ phải. Trường con trai các ông có 5 triệu cuốn sách. Chúng tôi chỉ có vài ngàn cuốn lèo tèo.”

Chúa ơi, đúng là một mẫu người tự phụ! Mẫu người tin là vì tỷ lệ sĩ số giữa Radcliffe và Harvard là 1-5, nên các nàng phải thông minh lên gấp năm lần. Tôi thường nghiền nát thành cám loại này, nhưng bây giờ tôi thực sự cần cuốn sách .

“Thôi mà, tôi cần cuốn sách đó.”

“Hãy nhìn lại cái vẻ ngạo mạn của ông kìa công tử.”

“Vì sao cô cứ khăng khăng coi tôi là loại công tử bột chứ ?”

“ Ông có vẻ ngu ngốc và giàu có“ Nàng đáp và tháo cặp kính ra.

“ Cô lầm rồi,” Tôi phản đối, “Thực sự là tôi nghèo và thông minh.”

“ Ồ không đâu, thưa công tử, chính tôi mới nghèo và thông minh.”

Nàng đăm đăm nhìn tôi. Mắt nàng màu nâu. Thôi được, có lẽ là dáng dấp tôi trông sang trọng, nhưng tôi không thể để một con nhỏ, dù là một con nhỏ có đôi mắt nâu đẹp não nùng, cho tôi là một tên ngu ngốc.

“ Cái chết tiệt gì giúp cô thông minh thế?” Tôi hỏi.

“ Tôi không đi uống cà phê với anh đâu.” Nàng đáp.

“ Ủa, tôi đâu có mời cô.”

“ Ấy” Nàng nói “Anh ngốc ở chỗ đó đó.”

Để tôi giải thích lý do tôi đã mời nàng uống cà phê. Chính nhờ sự nhún nhường sáng suốt và đúng lúc – vờ vĩnh như đột nhiên tôi có ý định mời nàng thực sự - mà tôi đã mượn được quyển sách. Vì nàng chỉ có thể ra về khi đóng cửa thư viện, tôi có thừa thì giờ để nghiền ngẫm một vài đoạn về sự thay đổi của hoàng gia, từ phụ thuộc các giáo hoàng sang phụ thuộc giới luật gia, ở cuối thế kỷ XI. Tôi đạt A trừ trong kỳ thi, trùng với số điểm mà tôi đã chấm cho đôi chân của Jenny khi nàng bước ra khỏi cái bàn giấy ấy lần đầu tiên. Tôi không thể chấm cho trang phục của nàng một điểm số danh dự : nó khá là bụi so với thị hiếu của tôi. Tôi đặc biệt khó chịu với cái xắc tay kiểu Da đỏ của nàng. May mà tôi đã không nói ra điều này, vì sau đó tôi phát hiện ra cái túi đó do chính nàng vẽ kiểu và may lấy.

Chúng tôi tới quán ăn Midget, một quán chuyên về bánh sandwich không chỉ dành riêng cho những người tí hon, mặc dù nó có cái tên như vậy. Tôi gọi hai ly cà phê và một bánh sô-cô-la kem (cho nàng).

“ Tôi là Jennifer Cavilleri”, Nàng nói, “Người Mỹ gốc Ý”, và làm như là tôi không biết, nàng nói thêm, “Và là một sinh viên khoa nhạc.”

“ Tôi là Oliver” , tôi nói.

“ Tên hay họ ?” Nàng hỏi.

“ Tên,” Tôi đáp, và thú nhận rằng họ tên đầy đủ của tôi là Oliver Barrett. (Thực ra, đó chỉ là phần lớn họ tên tôi )

“ Ồ” Nàng thốt, “ nghe như tên một nhà thơ ?”

“ Vâng, nhưng không có họ hàng gì.”

Trong một thoáng im lặng kế đó, tôi thầm tạ ơn trời nàng đã không thốt ra câu hỏi đụng chạm tôi thường nghe : “Barrett, hình như trùng tên với hội trường Barrett?” Bởi vì việc có quan hệ với người đã xây dựng nên quảng trường Barrett - một công trình to nhất và cũng xấu xí nhất trong khuôn viên Harvard, một tượng đài khổng lồ tượng trưng cho tài sản của gia đình tôi và sự kiêu căng hợm hĩnh lố bịch của chủ nghĩa Harvard - đối với tôi là một thứ vòng kim cô khó chịu.

Sau đó, nàng khá lặng lẽ. Phải chăng là chúng tôi đã cạn đề tài trò chuyện quá nhanh ? Hay là tôi đã làm nàng thất vọng vì không có họ hàng với nhà thơ? Vì cái gì? Nàng chỉ đơn giản ngồi đó, cười mỉm nhìn tôi. Để giết thì giờ, tôi xem qua quyển vở của nàng. Chữ viết của nàng thật kỳ khôi, những con chữ nét mong manh, chẳng có đến một chữ viết hoa. (Nàng nghĩ nàng là ai chứ?). Và nàng đã học xong vài khoá gì đó : Comp.Lit.105, Music 150, Music 201-

“ Music 201 ? Có phải là một môn chính khoá không ?”

Nàng gật đầu, không khỏi có chút vẻ tự hào, “Kỹ thuật hoà âm thời Phục hưng.”

“ Hoà âm là gì ?”

“ Không có liên quan gì đến giới tính đâu thưa công tử .”

Tại sao tôi phải chịu đựng kiểu xưng hô này chứ ? Nàng có đọc tờ Crimson chưa ? Nàng đã biết tôi là ai ?

“ Nè, cô biết tôi là ai, phải không ?”

“ Vâng” Nàng đáp, với một vẻ khinh khỉnh, “Anh là cái gã chủ nhân của hội trường Barrett chứ gì.”

Nàng không biết tôi là ai.

“ Tôi có là chủ gì đâu, chính ra ông nội vĩ đại của tôi mới là người hiến nó cho trường.”

“ Ấy thế, nên chắc chắn là đứa cháu tầm thường của ông ấy phải được nhận vào trường !”

Đã đến mức giới hạn sự chịu đựng của tôi.

“ Jenny, nếu cô cho tôi là một kẻ không ra gì, sao cô lại tìm mọi cách làm tôi phải mời cô uống cà phê ?”

“ Tôi thích thân hình anh” Nàng đáp.

Một phần của việc trở thành người thắng trận là khả năng làm một kẻ thua cuộc xứng đáng. Điều này không có gì mâu thuẫn. Điểm đặc biệt của sinh viên Harvard là biến bất kỳ một thất bại nào thành chiến thắng.

Chúc may mắn, Barrett, cậu đã trèo lên lưng cọp rồi đó.”

“ Thật tình, tớ mừng là cậu đã vào cuộc. Tớ muốn nói là cậu cần phải thắng.”

Dĩ nhiên là một chiến thắng ở phút 89 thì thích hơn. Nghĩa là, nếu bạn có cơ may, thì tốt nhất là ghi bàn vào phút cuối cùng. Khi tôi đưa Jenny trở lại khu lưu xá, tôi không nghi ngờ chút nào về thắng lợi cuối cùng của tôi đối với cô ả Radcliffe hợm mình này.

“ Nghe này, cô ả Radcliffe hợm hĩnh, tối thứ Sáu có trận đấu Hockey với Darmouth.

“ Thế à ?”

“ Tôi muốn cô tới đó.”

Nàng trả lời với thái độ hững hờ thông thường của bọn con gái trường Radcliffe đối với thể thao :

“ Vì cái quái gì mà tôi phải tới xem một trận đấu hockey dỡ ẹt chứ ?”

Tôi đáp, cũng làm ra vẻ hững hờ :

“ Vì tôi sẽ chơi.”

Một thoáng giây im lặng.Tôi cho là tôi đã nghe thấy tiếng tuyết rơi.

“ Cho bên nào ?” Nàng hỏi.

Chương 2

Oliver Barrett IV SV năm 4th

Ipswich,Mass. Phillips Exeter

Tuổi : 20 Cao : 5’11’’, nặng 185 lbs

Khoa : Nghiên cứu xã hội

Khóa : 61,62,63

Gia nhập đội All Ivy First team 62,63

Mục tiêu nghề nghiệp : Luật

Giờ thì Jenny đã đọc tiểu sử của tôi trong tờ chương trình. Tôi chắc như ăn bắp rằng Vic Claman, ông bầu của tôi, đã trông thấy nàng lấy một tờ.

“Lạy chúa, Barrett, đây là cuộc hẹn đầu tiên của cậu sao?”

“Im đi Vic, kẻo không còn cái răng ăn cháo bây giờ.”

Khi đang khởi động trên sân băng, tôi chả vẫy chào nàng, mà cũng chả thèm nhìn về phía nàng. Tuy vậy, tôi nghĩ rằng nàng

đã cho là tôi đang liếc nhìn nàng. Ý tôi là không biết nàng có tháo đôi kính ra trong khi chào cờ chăng?

Vào giữa hiệp hai, chúng tôi đang hoà với Darmouth 0-0. Tôi và Davey Johnston sắp sửa xuyên thủng lưới họ. Bọn áo xanh nhận thức được chuyện này, bắt đầu chơi cứng hơn. Có lẽ họ phải bị gẩy một hoặc hai chiếc xương sườn trước khi chúng tôi đột phá được. Các cổ động viên gào thét đòi đổ máu. Trong môn hockey, điều này có nghĩa là có máu đổ, hoặc, có bàn thắng. Vốn là người có lương tâm nghề nghiệp, tôi chưa bao giờ từ chối hai thứ này.

Al Redding, Trung vệ của Darmouth, lao qua lằn vạch xanh phần sân khách. Tôi xô người vào hắn, cướp bóng và trượt đi. Cổ động viên reo ầm lên. Tôi nhìn thấy Davey Johnston ở bên trái, nhưng cho rằng mình có thể giữ bóng được cho tới đích. Thủ môn đối phương là một gã khá cứng cựa, tôi đã ngán từ khi gã chơi ở đội Deerfield. Trước khi tôi vượt qua một cú truy cản, hai tay hậu vệ đã nhào tới, tôi phải lượn vòng quanh lưới để giữ bóng. Ba người phía chúng tôi đang quay ngược trở về. Đó là chiến thuật để đánh văng bất kỳ một màu áo đối phương nào. Đâu đó bên cạnh ván trượt của chúng tôi là quả bóng, nhưng đúng lúc chúng tôi tập trung để tấn công quyết liệt, một trọng tài thổi còi.

“ Anh. Hai phút trong lồng phạt !”

Tôi ngước lên. Ông ta đang chỉ tôi. Tôi? Tôi đã làm gì đáng để bị phạt ?

“ Ồ, ông trọng tài, tôi có làm gì đâu ?”

Ông ta có vẻ không muốn bàn cãi lôi thôi. Ông gọi trọng tài bàn : -Số 7 -Hai phút. Và đưa tay ra hiệu. Tôi phàn nàn tí chút, nhưng đó là một tay nghiêm khắc. Khán giả luôn mong chờ một vụ khiếu nại, dù vi phạm có hiển nhiên đến đâu. Tay trọng tài ngoắc tôi ra. Nản lòng, tôi trượt về phía lồng phạt. Tôi trèo vào trong, vừa lắng nghe tiếng đôi giày cọ vào lớp ván gỗ, tôi vừa nghe hệ thống loa sủa lên : “Phạt Barrett đội Harvard 2 phút trong lồng”.

Đám đông gào lên phản đối. Nhiều fan của Harvard nghi ngờ thị lực và năng lực của trọng tài. Tôi ngồi xuống, cố lấy lại hơi thở, không nhìn lên, ngay cả ra phía sân băng, nơi đội Dartmouth đang áp đảo chúng tôi.

“ Sao anh ngồi đây khi các bạn anh đang thi đấu ?”

Giọng của Jenny. Tôi phớt lờ nàng, và quay sang hối thúc đồng đội.

“ Tiến lên, Harvard, lấy bóng đi !”

“ Anh đã phạm lỗi gì thế ?”

Tôi quay lại, trả lời nàng. Dù sao, chính tôi đã hẹn nàng tới đây.

“ Tôi đã quá cố gắng thôi.”

Rồi tôi quay lại theo dõi các đồng đội đang cố ghìm lại các nỗ lực ghi bàn của Darmouth.

“Chuyện đó có mất mặt lắm không ?”

“Xin cô đấy Jenny, tôi đang tập trung.”

“Vào cái gì ?”

“Vào việc tôi sẽ “làm thịt” cái tay Al Redding đó ra sao!”

Tôi nhìn về sân băng để động viên tinh thần các bạn.

“ Anh hẳn phải là một kẻ hay chơi xấu lắm nhỉ ?”

Đôi mắt tôi gắn chặt vào cầu môn đội mình, nơi lúc này đang ngập tràn bọn Xanh. Tôi không thể chờ thêm nữa. Jenny vẫn bướng bỉnh.

“ Thế anh có “ làm thịt” tôi không ?”

Tôi đáp, không quay lại, “ Tôi sẽ làm ngay lập tức nếu cô không im mồm đi.”

“ Tôi đi đây. Chào anh.”

Khi tôi quay lại, nàng đã biến mất. Tôi đứng lên để có thể trông xa hơn thì nghe thông báo 2 phút phạt đã kết thúc. Tôi nhấc chiếc rào chắn, quay vào sân băng.

Khán giả reo mừng tôi trở lại. Dù nàng trốn ở đâu, nàng cũng phải nghe thấy tiếng reo hò nồng nhiệt vì sự có mặt của tôi. Thế nên nào ai cần quan tâm đến việc nàng ở nơi đâu.

Vậy nàng ở nơi đâu ?

Al Redding táng một cú chết người, thủ môn chúng tôi chuyền ngược bóng ra cho Gene Kennaway, Ken chuyền sang khu vực của tôi. Khi đang trượt theo bóng, tôi nghĩ tôi phải liếc lên khán đài trong một thoáng tìm kiếm Jenny. Tôi liếc lên. Và thấy nàng. Nàng ở đó.

Điều kế tiếp tôi nhận thức được là tôi đang té ngữa ra.

Hai tay Xanh lao vào tôi, và tôi thì ngồi bệt ra đó, Chúa ơi, lúng túng một cách không thể tin được. Barrett vứt đi ! Tôi nghe tiếng các cổ động viên trung thành của Harvard rên rĩ khi tôi ngoặt lại. Tôi nghe tiếng hò reo của các cổ động viên Darmouth khát máu.

“ Dập chúng nữa đi! Dập chúng nữa đi!”

Jenny sẽ nghĩ gì ?

Darmouth lại đưa bóng xuống khu vực cầu môn chúng tôi, thủ môn đội nhà lại phá bóng. Kennaway đẩy bóng lên cho Johnston, hắn để nhẹ xuống cho tôi ( lúc ấy tôi đã đứng dậy ). Đám khán giả đã nổi điên. Lần này phải có bàn thắng. Tôi chận bóng và lướt nhanh qua đường vạch xanh của Darmouth. Hai hậu vệ Darmouth lao thẳng vào tôi.

“ Tới luôn, Barrett, tới luôn ! Hạ chúng đi !”

Tôi nghe tiếng la thất thanh của Jenny trong đám khán giả đã trở nên bạo động hết mức. Tôi làm động tác giả qua một hậu vệ, đâm sầm vào tay kia mạnh đến nổi khiến hắn nín thở, và, thay vì dứt điểm luôn, tôi chuyền ra cho Davey Johnston lúc đó đã lên trám cánh phải. Davey táng bóng vào lưới. Harvard ghi bàn !

Trong một thoáng, chúng tôi ôm nhau, hôn nhau. Tôi, Davey Johnston, và các tay khác. Ôm nhau, hôn nhau, vỗ lưng nhau và nhảy tưng bừng mừng rỡ. Khán giả reo hò. Và tay Darmouth tôi xô ngả vẫn còn ngồi bệt trên sân. Cổ động viên quăng các tờ chương trình xuống sân. Tay hậu vệ đối phương đến gảy lưng mất vì đống giấy tờ đó ! ( Chỉ cường điệu vậy thôi : hắn lồm cồm đứng lên khi đã thở lại được ) Chúng tôi thắng 7-0.

Nếu tôi là một người đa cảm, và quan tâm tới Harvard đến mức treo một bức ảnh lên tường, thì đó không phải là ảnh của tòa nhà Winthrop hay nhà thờ Mem, mà là Dillon. Tòa nhà Dillon Field. Nếu tôi có một gia đình tinh thần ở Harvard, thì đó chính là tòa nhà này. Nate Pusey có thể hủy bỏ bằng tốt nghiệp của tôi vì câu nói đó, nhưng Thư viện Widener đối với tôi còn thua xa Dillon. Mỗi chiều trong suốt thời sinh viên, tôi đã đi bộ vào nơi đó, chào hỏi bạn bè một cách thoải mái, trút bỏ mọi lớp vỏ văn minh hình thức và trở thành một con người thực sự. Thật tuyệt vời khi mang vào đôi ống bọc chân và đôi giày trượt, mặc vào chiếc áo cũ số 7, rồi hướng về Watson Rink.

Chuyến trở về Dillon khá hơn. Tôi lột bộ đồ nhớp nháp mồ hôi ra, trần trụi đi tới bàn để lấy khăn lau.

“ Hôm nay thế nào, Ollie ?”

“ Khá, Richie. Khá, Jimmy.”

Rồi vào phòng tắm nghe hóng ai đó đã làm gì với ai khác bao nhiêu lần trong đêm thứ Bảy vừa rồi. “ Tụi mình kiếm được những cô ả này ở Mount Ida, thử xem ?.... Và tôi được đặc cách hưởng quyền mặc niệm ở một chỗ riêng tư, tự chúc phúc lành cho cái đầu gối bị thương. Tôi cần phải ngâm nước nóng. Khi ngồi nhìn những vòng sóng nhỏ gợn quanh đầu gối, tôi liệt kê những vết thương và sẹo (dù gì tôi cũng khoái chúng), rồi nghĩ ngợi bâng quơ .

Tối nay, tôi nghĩ về một cú ghi bàn, một cú chuyền mở cơ hội, và tự phong mình lên vị trí quan trọng thứ ba trong đội All Ivy.

“ Ngâm nước nóng hả Ollie ?”

Đó là Jackie Felt, huấn luyện viên, kẻ luôn tự cho mình là người hướng đạo tinh thần của chúng tôi.

“ Trông thế nào Felt ?”

Hắn cười phá ra một cách ngu ngốc.

“ Cậu biết tại sao đầu gối cậu như vậy không Ollie, biết không ?”

Tôi đã tới mọi bác sĩ trị liệu chấn thương ở phía Đông, nhưng Felt làm như hắn là kẻ biết rõ hơn ai hết.

“ Cậu ăn không đúng cách.”

Tôi thật sự không thú vị tí nào.

“ Cậu ăn không đủ muối.”

Có lẽ nếu tôi ừ à qua chuyện hắn sẽ biến đi.

“ Ô kê, Jack, tớ sẽ ăn nhiều muối hơn.”

Lạy chúa, hắn đã vừa lòng hả dạ. Hắn đi ra, gương mặt ngốc nghếch đầy vẻ hể hả.

Dù sao thì tôi đã được ở một mình. Tôi khoan khoái chuồi toàn thân đau nhức xuống bồn nước, nhắm mắt lại và ngồi im, nước ấm dâng tới cổ.

Chúa ơi! Jenny ắt còn đang chờ ở ngoài. Tôi hy vọng thế. Vẫn còn! Chúa ơi! Tôi đong đưa trong cái chỗ ấm cúng này đã bao lâu rồi, trong khi đó nàng ở ngoài kia chịu cái lạnh vùng Cambridge ? Tôi lập một kỷ lục mới về thời gian mặc quần áo. Thậm chí người tôi vẫn chưa khô hẳn khi tôi mở cánh cửa chính của Dillon.

Gió lạnh quất vào tôi. Lạy Chúa ! Trời lạnh như băng. Và tối đen. Vẫn còn một nhóm cổ động viên. Đa số là những tay cựu vận động viên trung thành, những gã về mặt tinh thần không bao giờ tháo bỏ ống bọc chân. Những gã như Già Jordan Jencks, không hề vắng mặt ở bất cứ trận đấu nào, sân nhà hay sân khách. Bằng cách nào không biết ? Tôi phải nói rõ Jencks là một ông chủ nhà băng lớn. Tại sao những người như họ lại đam mê vậy nhỉ ?

“ Cậu rót banh tuyệt lắm, Oliver.”

“ Vâng, ông Jencks. Ông biết chúng đã chơi ra sao đấy.”

Tôi nhìn quanh tìm kiếm Jenny. Hay nàng đã bỏ đi, một mình cuốc bộ về Radcliffe?

“ Jenny ?”

Tôi rời khỏi đám cổ động viên vài bước, tìm kiếm một cách tuyệt vọng. Đột nhiên, nàng ló ra từ một bụi cây, gương mặt khuất dưới một chiếc khăn choàng, chỉ còn thấy đôi mắt long lanh.

“ Chào anh, ở ngoài này trời lạnh cóng.”

Gặp nàng, tôi mừng quá.

“ Jenny !”

Tự nhiên, một cách bản năng, tôi hôn nhẹ lên trán nàng.

“ Tôi chưa cho phép anh mà ?”

“ Cái gì ?”

“ Tôi có bảo là anh có thể hôn tôi không ?”

“ Xin lỗi, tôi không tự chủ.”

“ Còn tôi thì có.”

Giờ thì chỉ còn lại hai chúng tôi. Đêm đã khuya, tối đen và lạnh lẽo. Tôi lại hôn nàng. Nhưng không lên trán, cũng không dịu nhẹ. Một thoáng lâu tuyệt diệu. Khi rời môi nhau, nàng vẫn còn giữ chặt tay áo của tôi.

“ Em không thích đâu” Nàng nói.

“ Cái gì ?”

“ Thật sự là em thích.”

Khi chúng tôi cuốc bộ trở về ( tôi có xe, nhưng nàng muốn đi bộ ), Jenny vẫn bám vào tay áo của tôi. Không phải là cánh tay, mà là ống tay áo của tôi. Đừng bảo tôi giải thích. Ở bậc thềm Hội trường Briggs, tôi không hôn chia tay nàng.

“ Nghe này, Jen, anh sẽ không gọi điện cho em trong vài tháng.”

Nàng lặng im một lúc. Một lúc lâu.

Cuối cùng nàng hỏi : “Vì sao ?”

“ Vậy thì anh nói lại nghe, anh sẽ gọi cho em ngay khi anh về tới phòng.”

Tôi quay lưng, cất bước .

“ Cái gã đáng ghét này!” Tôi nghe nàng thì thào.

Tôi xoay người lại và gọi từ khoảng cách mười mét.

“ Jenny, em cứ bày trò đi, nhưng em không lừa được ai đâu!”

Tôi mong có thể trông thấy vẻ mặt của nàng, nhưng nguyên tắc chiến thuật không cho phép tôi nhìn trở lại.

Thằng bạn cùng phòng Ray Stratton đang chơi bài với hai tay cầu thủ bóng bầu dục khi tôi bước vào phòng.

“ Chào, bọn súc sinh.”

Chúng cất tiếng gầm gừ đáp lễ.

“ Tối nay thế nào, Ollie ?”

“ Một trái chuyền và một trái ghi bàn”, tôi đáp.

“ Cavilleri về rồi à ?”

“ Không dính dáng tới cậu.”

“ Đó là ai vậy ?”, một đưá hỏi.

“ Jenny Cavilleri”, Ray đáp, “Một con nhỏ vớ vẩn học nhạc.”

“ Tớ biết con nhỏ đó “, tay còn lại nói, “ Mông nó chắc nịch.”

Tôi làm ngơ các gã thô lỗ và ồn ào này, gỡ chiếc ống nói ra và mang nó về phòng mình.

“ Nó chơi piano trong băng nhạc Bach”, Straton nói.

“ Vậy còn với Barrett, nó chơi món gì?”

“ Chuyện này khó nói nghe !”

Bọn quái eng éc như heo, gầm gừ như thú dữ và cười sặc sụa.

Tôi lên tiếng trong khi đi ra : “Này quí vị, câm mõm đi.”

Tôi đóng cửa phòng lại trong một đợt sóng ồn ào tiếng nói cười của bọn chúng, cởi giày, lăn ra giường và gọi cho Jenny.

Chúng tôi nói thì thầm.

“ Này, Jen....”

“ Dạ ?”

“ Jen, em bảo sao nếu tôi nói với em là ...”

Tôi ngần ngừ. Nàng chờ đợi.

“ Anh nghĩ là... anh yêu em.”

Một giây yên lặng. Rồi giọng nàng trả lời, thật dịu dàng.

“ Em muốn nói là ... anh đúng là một tên chết tiệt !”

Nàng gác máy.

Tôi chẳng buồn mà cũng chẳng ngạc nhiên gì.

Chương III

Tôi bị thương trong trận đấu với đội Cornell. Thực ra đó là lỗi của tôi. Đúng vào thời điểm căng nhất, tôi đã sai lầm khi gọi trung vệ của họ là " Đồ Canuck bẩn thỉu". Tôi vô ý không nhớ rằng có bốn thành viên của đội họ là người Canada - Cả bốn đều xuất hiện ngay tại chỗ, sặc sụa tinh thần ái quốc, thân hình lực lưỡng và nghe câu chửi của tôi không sót chữ nào. Ngoài chuyện bị thương, tôi gánh thêm nỗi nhục bị phạt. Không bình thường chút nào : 5 phút vì đánh nhau. Bạn cứ nghe thử tiếng bọn fan của Cornell diễu cợt tôi khi loa thông báo vụ phạt. Không có nhiều ủng hộ viên Harvard đi suốt quãng đường chết tiệt tới Ithaca, New York, dù là danh hiệu Ivy vẫn còn nằm trên giày trượt. Năm phút ! Tôi trông thấy tay huấn luyện viên đang vò đầu bức tóc khi tôi trèo vào lồng phạt.

Jackie Felt trèo qua. Chỉ khi đó tôi mới nhận ra toàn bộ phía bên phải mặt tôi là một đống máu me. "Chúa ơi !" Hắn lặp đi lặp lại khi tra tấn tôi với một liều thuốc cầm máu. "Chúa ơi, Ollie."

Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn trống vắng về phía trước. Tôi xấu hổ không dám nhìn vào sân, nơi nỗi sợ hãi nhất của tôi đang trở thành hiện thực: Cornell ghi bàn. Bọn fan bên Đỏ la hét, cười rú lên. Tỷ số đang hòa. Cornell rất có khả năng thắng trận và tiêu đời danh hiệu Ivy. Chó thật. Tôi đã qua phân nửa thời gian phạt.

Phía ngoài sân, lực lượng fan nhỏ bé của Harvard buồn rầu và im lặng. Lúc này đám fan của cả hai bên đã bỏ quên tôi. Chỉ còn độc nhất một khán giả vẫn dán đôi mắt vào lồng phạt. Vâng, ông ta đã tới. "Nếu cuộc họp kết thúc sớm, ba sẽ tới Cornell". Ngồi lẫn trong đám ủng hộ viên Harvard là Oliver Barrett III.

Bên kia, ông già mặt lạnh quan sát với sự im lặng vô cảm khi những giọt máu cuối cùng rỉ xuống mặt đứa con trai đã được chận lại bằng một miếng băng. Bạn cho là ông ấy đang nghĩ gì, thầm chắc lưỡi hay đang lên lớp :

" Oliver, nếu con khoái đánh nhau, sao con không chơi đấm bốc?

"Exeter không có đội quyền anh ba ơi."

"Lẽ ra ta không nên đến đây làm gì "

"Ba có nghĩ là con đánh nhau vì lợi ích của ba không ?

"Thế à, ta không thể gọi đó là lợi ích được."

Nhưng dĩ nhiên, ai mà biết ông ấy nghĩ gì. Oliver Barrett III là một ngọn núi biết đi, và đôi khi biết nói. Một ông già lạnh lùng như đá.

Có lẽ ông già mặt lạnh đang tự ủy lạo mình như thường lệ : "Hãy nhìn ta đây, tối nay có rất ít khán giả từ Harvard đến đây, nhưng ta là một trong số họ. Ta, Oliver Barrett III, một đại doanh nhân điều hành những ngân hàng và các thứ, ta đã phí thì giờ đến đây để xem một trận hockey tệ hại. Thật là kỳ cục."(Đối với ai?)

Đám khán giả lại gào lên, lần này thật sự điên cuồng. Một cú ghi bàn khác của Cornell. Họ đang dẫn điểm. Và tôi thì còn phải chịu hai phút phạt nữa ! Davey Johnston trượt ra, mặt đỏ lên tức giận. Hắn lướt qua mà chẳng buồn liếc mắt nhìn tôi. Và, có phải tôi đã trông thấy đôi mắt đẫm lệ của hắn không? Nghĩa là, vâng, danh hiệu vẫn còn trên giày trượt, nhưng lạy Chúa, nước mắt! Vậy đó, Davey, đội trưởng, đã chuốc một thất bại chua cay khó tin được : 7 năm chưa hề thua cuộc ở trường trung học hay đại học. Điều này giống như một huyền thoại xấu. Và hắn lại là một sinh viên năm cuối. Đây là trận thi đấu khó chịu cuối cùng của chúng tôi. Trận đấu mà chúng tôi đã thua, 6-3.

Sau trận đấu, một cuộc chụp X quang xác định là không có chiếc xương nào của tôi bị gãy, và bác sĩ Richard Selzer khâu tới 12 mũi quanh má của tôi. Jackie Felt quanh quẩn ở ngoài phòng điều trị, kể lể với người săn sóc sức khỏe của Cornell rằng tôi đã ăn uống không hợp cách, rằng lẽ ra tôi đã tránh được nếu ăn đủ muối. Selzer phớt lờ Jack, nghiêm khắc báo cho tôi biết về chấn thương ở "phiá dưới hốc mắt" (đó là những thuật ngữ y học), và khuyên tôi tốt nhất là nên ngưng chơi một tuần. Tôi cám ơn ông ta. Ông rời phòng, với Jack lẽo đẽo theo sau đấu hót huyên thiên về vấn đề dinh dưỡng. Tôi mừng là được ở một mình.

Tôi tắm một cách chậm rãi, cố không làm ướt chỗ đau trên mặt. Thuốc giảm đau đã tan đi một ít, nhưng ở một phương diện nào đó tôi lại vui mừng vì cảm thấy đau. Tôi muốn nói là tôi đang hoang mang không hiểu có phải mình đã phạm sai lầm lớn hay không? Chúng tôi đã đánh mất thanh danh, phá vỡ truyền thống (mọi sinh viên năm cuối đều bất khả chiến bại) của trường, và của Davey nữa. Có lẽ không phải hoàn toàn là lỗi của tôi, nhưng lúc bấy giờ, tôi có cảm giác như vậy đó.

Trong phòng ngoài không còn ai. Chắc họ đã sang bên nhà ăn cả. Tôi cho là không còn ai muốn nhìn mặt tôi, nói chuyện với tôi. Với nỗi niềm chua xót, vị đắng ngắt khủng khiếp trong cổ họng, tôi nhặt đôi gậy trượt và bước ra ngoài. Không có mấy tay fan của Harvard còn ở lại trong cơn gió đêm lạnh lẽo vùng thượng New York.

"Gò má sao rồi, Barrett ?"

"Tốt rồi, cám ơn ông Jencks."

"Con cần một miếng bíp tết", giọng quen thuộc của một người. Đó là Oliver Barrett III. Ổng đúng là máy móc khi đề xuất ra thứ dùng để chữa mắt bầm.

"Cám ơn ba, đã có bác sĩ lo rồi." Tôi chỉ vào miếng gạc phủ lên mười hai mũi khâu của bác sĩ Selze.

"Ta muốn nói là cho bao tử của con ấy, con trai ạ."

Trong bữa ăn tối, chúng tôi lại tái diễn cuộc trò chuyện ngắn ngủI - một kiểu đối thoại mỗi người một phách- thường bắt đầu bằng câu: "Con khỏe chứ, con trai ?" và kết thúc bằng câu: "Ta giúp gì được cho con ?".

"Con khỏe chứ, con trai ?"

"Dạ tốt, thưa ba."

"Mặt con có đau không ?"

"Dạ không."

Tôi chợt nghe đau khủng khiếp.

"Ta muốn gọi Jack Wells khám cho con vào sáng Thứ hai."

"Không cần đâu ba."

"Ông ta là chuyên gia…."

"Bác sĩ của Cornell không phải là thú y sĩ đâu", tôi đáp, hy vọng dập tắt được sự hâm mộ thái quá của ông già đối với các chuyên gia, chuyên viên, và mọi mẫu người thuộc loại "top-people" khác.

"Tệ quá ", Oliver Barrett III nhận xét một cách vui vẻ mà lần đầu tiên tôi cảm thấy, " con bị thương một cách tệ hại."

"Dạ vâng", tôi đáp, ( Hình như tôi thầm khúc khích cười trong bụng).

Rồi tôi tự hỏi không biết trong câu nói nửa đùa nửa thật đó, ông có ám chỉ hành vi của tôi trên sân băng hay không.

"Chắc ba cho rằng hồi chiều này con đã hành động như thú vật ?"

Vẻ mặt ông biểu lộ một vẻ hài lòng khi tôi đặt câu hỏi. Nhưng ông chỉ đáp rất đơn giản:

"Thì chính con đề cập đến thú y sĩ chứ ai."

Đến nước này, tôi chỉ còn mỗi cách nghiên cứu bản thực đơn.

Vì vấn đề chính đã nêu ra, ông già mặt lạnh bắt đầu thuyết giảng một hồi, tôi cố không nói gì đến thắng hay bại. Ba tôi lưu ý tôi rằng chúng tôi đã đánh mất danh hiệu, nhưng nói cho cùng, điều đáng quan tâm trong thể thao không là chiến thắng mà là thi đấu ra sao. Ông đột ngột chấm dứt các nhận xét bằng một câu khẩu hiệu Olympic, và tôi cảm thấy tất cả chỉ là khúc dạo đầu để ông dẫn đến kết luận là chẳng có gì lớn lao lắm với sự xuống hạng của một đội tầm thường như Ivy. Nhưng tôi quyết không thỏa hiệp, nên chỉ đáp lời ông bằng một câu cụt ngủn : " Vâng, thưa ba" rồi im lặng.

Chúng tôi tiếp tục nói về đề tài thường lệ, xoay quanh mối quan tâm chính của ông già: các dự định của tôi.

"Oliver, cho ba biết trường luật đã gọi con chưa ?"

"Thực ra con chưa quyết định học luật mà ba."

"Ta chỉ muốn biết trường luật đã quyết định tuyển chọn con chưa."

Lại một câu dí dỏm nữa rồi. Dường như tôi mỉm cười vì trò chơi chữ trẻ trung của ba tôi.

"Chưa, con chưa có tin gì cả."

"Ta có thể ủng hộ giải Zimmermann một chiếc nhẫn…"

Tôi ngắt lời ông.

"Ồ, đừng làm vậy, ba. "

"Không phải để tác động đâu", O.B. III lên giọng, "mà là để yêu cầu."

"Ba ơi, con muốn nhận thư báo bình thường như bất cứ người nào khác. Xin ba."

"Ờ, dĩ nhiên. Tốt lắm", ông nói thêm, "Ngoài ra, không nghi ngờ gì là con tất nhiên phải được tuyển rồi."

Không hiểu sao, với tôi ông già luôn có cách nói vừa ngợi khen nhưng vẫn vừa coi thường.

"Chả có gì, nói cho cùng vì họ không có đội hockey thôi."

Tôi không hình dung được vì sao mình lại nhượng bộ. Có lẽ vì ông nhìn sự việc ở một góc độ trái với tôi.

"Con có những phẩm chất tốt ", ông nói, nhưng không giải thích thêm. (Tôi nghi là ông không thể.)

Bữa ăn cũng tệ y như cuộc trò chuyện, trừ việc đoán trước về sự tẻ nhạt của nó, tôi không tài nào đoán được ông già sẽ nói tới chuyện gì.

"Luôn luôn có đội quân Hòa bình", ông thốt, gần như vui vẻ.

"Dạ ?", tôi hỏi, không chắc đó là một câu hỏi hay lời phát biểu của ông.

"Ta nghĩ đội quân Hòa bình là một tổ chức khá, phải không?"

"Ồ, tất nhiên là nó khá hơn đội quân Chiến tranh."

Chúng tôi hòa. Tôi không hiểu ông muốn nói gì. Đề tài gì vậy? Chúng tôi đâu phải đang bàn về các chương trình của chính phủ hay thời sự? Không. Tôi tạm quên đi chủ đề của chúng tôi, luôn luôn là dự định của tôi.

"Ta không phản đối nếu con gia nhập đội quân Hòa bình, Oliver."

"Đây là sự thỏa thuận ở hai phía, ba", Tôi đáp, đối lại lòng rộng lượng của ông. Tôi chắc chắn ông không bao giờ nghe tôi nói gì cả, thế nên tôi chả ngạc nhiên chút nào khi ông không phản ứng gì với sự mai mỉa của tôi.

"Thế còn các bạn học của con thì sao, thái độ của chúng như thế nào ?"

"Dạ?"

"Chúng có cho rằng đội quân Hòa bình thích hợp với cuộc sống của chúng không?"

Tôi đoán ba tôi cần nghe câu trả lời sau như cá cần có nước: " Dạ có, ba."

Ngay cả bánh nhân táo cũng trở nên vô vị.

Khoảng 11h 30, tôi đưa ông ra xe.

"Ba giúp gì được cho con ?"

"Không có gì, ba. Chào ba."

Và ông lái xe đi.

Phải, có những chuyến bay giữa Boston và Ithaca, New York, nhưng ba tôi luôn chọn xe hơi. Không phải ông bỏ ra hàng giờ lái xe để làm bộ ta đây, đơn giản là vì ông thích lái. Lái thật nhanh. Và vào giờ đó ban đêm, trong một chiếc Aston Martin DBS người ta có thể chạy như điên. Tôi chắc là ba sẽ phá kỷ lục vận tốc chặng Boston – Ithaca lập ra năm ngoái, sau trận chúng tôi thắng Cornell và đạt danh hiệu. Tôi biết, tôi đã để ý thấy ông liếc qua chiếc đồng hồ đeo tay.

Tôi quay về ký túc gọi điện thoại cho Jenny.

Đó là khoảnh khắc dễ chịu nhất trong suốt buổi tối. Tôi kể cho nàng nghe về trận đánh lộn, và phải nói là nàng rất khoái. Các bạn trong băng nhạc của nàng rất hiếm khi cho hay nhận những cú đấm.

"Ít nhất anh cũng " làm thịt" cái gã đã đánh anh chứ?", nàng hỏi.

"Vâng. Làm thịt thật sự. Anh giã nó như giã bột."

"Ước gì em nhìn thấy cảnh đó. Có lẽ anh sẽ đập ai đó trong trận đấu ở Yale hả ?"

"Vâng."

Tôi mỉm cười. Nàng biết cách yêu mến những điều đơn giản của cuộc đời này làm sao !

Chương IV

"Jenny đang gọi điện thoại dưới chỗ cầu thang."

Cô gái trực tổng đài báo cho tôi biết điều này, dù tôi chưa hề giới thiệu mình là ai, hoặc nói mục đích tới Briggs Hall của mình vào buổi sáng Thứ hai đó. Tôi nhanh chóng kết luận ngay mình đã đạt được điểm số cao. Hiển nhiên cô bé ‘Cliffie chào đón tôi đã đọc tờ Crimson và biết tôi. OK, chuyện này đã từng xảy ra nhiều lần rồi. Quan trọng nhất là Jenny đã báo cho cô bé này biết cuộc hẹn giữa chúng tôi.

"Cám ơn", tôi nói, " Tôi chờ ở đây."

"Bọn Cornell thật tồi. Tờ Crimson viết có tới bốn tên tấn công anh."

"Ờ, và tôi bị phạt. Năm phút."

"Vâng."

Sự khác biệt giữa một người bạn và một kẻ hâm mộ - là với người thứ hai câu chuyện kết thúc rất mau.

"Jenny gọi xong chưa nhỉ ?"

Cô ta kiểm tra lại bảng điện rồi đáp :

"Chưa."

Jenny nói chuyện với ai? Kẻ nào làm nàng phải gác lại những giây phút hẹn hò quý giá của chúng tôi? Một tay chơi nhạc nào chăng? Tôi biết khá rõ gã Martin Davidson, sinh viên bên Adams House, trưởng ban nhạc Bach Society, hắn tự cho mình là một ứng cử viên sáng giá đối với Jenny. Không phải hắn. Tôi không tin gã đó làm được trò trống gì. Dù sao tôi cũng phải chấm dứt sự kỳ đà cản mũi này.

"Phòng điện thoại đặt ở đâu vậy ?"

"Sau góc đằng kia" Cô gái chỉ cho tôi.

Tôi đi xuống. Từ xa, tôi đã trông thấy Jenny. Nàng để ngỏ cửa phòng điện thoại. Tôi chậm bước, làm ra vẻ thản nhiên, hy vọng nàng sẽ bắt gặp tôi, sẽ trông thấy miếng băng, những vết thương, sẽ quẳng điện thoại xuống và lao vào vòng tay tôi. Khi đã tới gần nàng, tôi thoáng nghe đoạn đối thoại cuối cùng : " Dạ, dĩ nhiên. Hoàn toàn như vậy. Oh, me too, Phil, I love you too, Phil."

Tôi đứng chôn chân. Nàng trò chuyện với ai? Không phải là Davidson, trong họ tên hắn không có chữ nào là Phil cả. Từ lâu lắm, tôi đã kiểm tra về hắn trong bản danh sách lớp: Martin Eugene Davidson, số 70 Riverside Drive, New York. Trung học âm nhạc và mỹ thuật. Bức ảnh cho thấy đó là một tên thông minh, đa cảm, nhẹ hơn tôi cỡ hai mươi ký. Nhưng tôi cần gì để ý đến Davidson? Rõ ràng, cả tôi và hắn đều bị Jenny Cavilleri cho ra rìa, vì một gã mà lúc này đây nàng đang gửi tới một cái hôn gió qua điện thoại!

Tôi chỉ mới xa Jenny có 48 tiếng đồng hồ, thế mà một gã Phil nào đó đã bò vào giường với nàng rồi (chắc chắn là như vậy!).

"Yeah, Phil, I love you too, Phil. Bye. "

Khi gác máy, nàng trông thấy tôi, và chẳng chút đỏ mặt ngượng ngùng, nàng mỉm cười gửi cho tôi một nụ hôn gió. Sao nàng lại có thể giả dối hai mặt như thế được nhỉ?

Nàng hôn nhẹ lên bên má không bị thương của tôi.

"Chà, trông anh thật tệ."

"Anh bị thương, Jen."

"Các gã kia trông có tệ hơn?"

"Có. Nhiều. Lúc nào anh cũng làm cho các gã khác trông tệ hơn. "

Tôi nói, cố gắng giữ bình tĩnh, kềm nén ước muốn được đấm gục bất kỳ gã nào đã bò vào giường với Jenny khi tôi xa mặt, và rõ ràng là cũng đã cách lòng, với nàng. Nàng níu tay áo tôi, cả hai đi ra cửa.

"Chào, Jenny" Cô gái trực tổng đài gọi.

"Chào, Sara Jane" Jenny đáp.

Khi chúng tôi đã ra ngoài, sắp bước vào chiếc MG, tôi hít thật sâu, ém đầy lồng ngực không khí ban đêm, và đặt câu hỏi, cố làm ra vẻ tình cờ.

"Nè, Jen…"

"Dạ ?"

"Ơ…. Phil là ai vậy ?

Nàng đáp, một cách rất vô tư, khi leo vào xe :

"Là ba em."

Tôi không thể tin được tai mình.

"Em gọi ba mình là Phil ?"

"Vì đó là tên ba mà. Vậy anh gọi ba anh ra sao?"

Một lần, Jenny đã kể tôi nghe về ba, một thợ nướng bánh mì gì đó ở Cranston, Rhode, người đã nuôi dạy nàng từ tấm bé. Mẹ nàng chết khi nàng còn nhỏ xíu trong một tai nạn xe hơi. Vì vậy mà nàng chả có bằng lái xe. Ba nàng, theo đánh giá của mọi người, là một tay "đàn ông chân chính" (lời nàng nói), lại dị đoan mê tín một cánh không ngờ, không bao giờ cho phép nàng lái xe. Suốt những năm cuối ở trung học, việc đi lại khi nàng học piano với một người ở Providence thật sự khó khăn. Nhưng nhờ vậy, nàng đã đọc hết các tác phẩm của Proust trên những chuyến xe buýt dài dằng dặc đó.

"Anh gọi ba anh như thế nào?", nàng lặp lại câu hỏi.

Tôi đang nghĩ ngợi đâu đâu, không nghe rõ lời nàng.

"Cái gì ?"

"Anh gọi ba anh bằng danh xưng nào?"

"Ông cụ Khốt."

"Khi có mặt ông ?"

"Anh chưa hề nhìn thấy mặt ông."

"Ông ấy đeo mặt nạ ?"

"Ở mặt nào đó, vâng, mặt nạ bằng đá. Hoàn toàn bằng đá."

"Sao nữa anh, chắc ông tự kiêu kinh khủng nhỉ. Anh là một gã to cao đấy."

Tôi nhìn nàng. Tôi đoán nàng chả hiểu gì cả.

"Ba anh cũng vậy, Jen."

"To hơn gã trung vệ đội All Ivy?"

Tôi thích cái kiểu nàng thán phục thể hình của tôi. Thật tệ là tôi phải tự xếp mình xuống thấp hơn khi kể về ba cho nàng nghe.

"Ông từng dự cuộc thi chèo xuồng đơn ở giải Olympic 1928."

"Ồ, ông thắng chứ ?"

"Không", tôi đáp, đoán rằng nếu nàng biết ba tôi đạt giải 6 vòng chung kết, nàng sẽ bảo ngay là sự kiện này đã tạo cho tôi ít nhiều thuận lợi.

Kế đó là một phút lặng im. Giờ đây, có lẽ Jenny đã hiểu được, là Oliver Barrett IV không chỉ có nghĩa là liên quan đến cái công trình bằng đá ở sân đại học Harvard. Nó còn ẩn chưá một mối đe dọa về thể chất. Tôi muốn nói, ở trong bạn, tức là ở trong tôi, mơ hồ hiện hữu một niềm đam mê đối với thể thao.

"Nhưng ông ấy đã làm gì để anh gọi là ông cụ Khốt?"

"Áp đặt anh" Tôi đáp.

"Xin lỗi ?"

"Áp đặt anh" Tôi lặp lại.

Nàng tròn mắt ngạc nhiên:

"Ý anh nói là…"

"Đừng đưa các vấn đề của gia đình em ra với anh, Jen. Anh cũng có quá đủ chuyện của mình rồi."

"Như cái gì, Oliver, ví dụ như ông buộc anh làm gì?"

"Những điều đúng đắn".

"Thế có gì sai ở "những điều đúng đắn"?" Nàng thắc mắc, có vẻ vui vui vì sự mâu thuẫn có vẻ hiển nhiên.

Tôi kể cho Jenny nghe tôi bị áp đặt theo truyền thống họ Barrett ra sao, điều mà lẽ ra nàng đã nhận ra khi trông thấy tôi co người lại mỗi khi nhắc đến con số đặt sau tên họ của tôi. Tôi ghét phải mang kèm theo bất cứ một con số x nào.

"Ồ vâng, em nhận thấy anh ghét thậm tệ mấy thứ như đạt điểm A, vào đội All Ivy ra sao." Nàng chế nhạo.

"Anh ghét bất cứ thứ gì ông ấy muốn!" Bật thốt ra những điều mình luôn cảm nhận (nhưng chưa hề nói với ai), tôi thấy buồn bực kinh khủng, nhưng hôm nay tôi phải làm cho Jenny hiểu ra mọi chuyện. " Ông ấy vô cùng lãnh đạm mỗi khi anh tới gần. Làm như cho anh gặp là ông đã ban phát một thứ gì ghê gớm lắm."

"Nhưng ông là một nhà doanh nghiệp. Không phải ông rất bận rộn với các nhà băng và những điều đại loại sao?"

"Jenny, em đứng về phía của ai ?"

"Đây là một cuộc chiến à?" Nàng hỏi.

"Đúng vậy."

"Như thế ngớ ngẩn lắm, Oliver."

Có vẻ như Jenny phản đối tôi một cách chân thành. Bỗng dưng, tôi bắt đầu nghi hoặc rằng có một khoảng cách giữa chúng tôi. Ý tôi là ba năm rưỡi ở trường đại học làm chúng tôi có nhiều nhận thức chung mang tính truyền thống, nhưng khi chấp nhận ba tôi là một mẫu người cứng rắn lạnh lùng, nàng liên hệ đến papa yêu dấu của mình, một người mang giòng máu lai Ý- Địa Trung Hải, và không muốn bàn luận nhiều hơn.

Tôi cố đưa ra một dẫn chứng: cuộc đối thoại không ai nghe ai ngớ ngẩn sau trận đấu với Cornell. Câu chuyện này rất gây ấn tượng với nàng. Nhưng lại là một ấn tượng sai lệch hoàn toàn.

"Ông ấy đã đi cả một chặng đường xa đến Ithaca để xem một trận đấu hockey tồi tệ ?"

Tôi cố giải thích với nàng ba tôi lúc nào cũng chỉ hình thức mà thôi. Nhưng nàng vẫn còn bị ám ảnh với sự kiện ông đã đi cả quãng đường dài cho một trận đấu tầm thường như vậy.

"Thôi, hãy quên chuyện đó đi, Jen."

"Tạ ơn Chúa, anh vẫn còn là con của ba anh", nàng đáp, " Chứng tỏ là anh chưa hoàn hảo đâu."

"Được, em muốn nói là em hoàn hảo chứ gì ?"

"Không đâu, công tử ạ, nếu em được như vậy, chắc gì em kết bạn với anh?"

Lại trở về chuyện bồ bịch tình tang của hai đứa chúng tôi, như thường lệ.

Chương V

Tôi muốn nói đôi lời về quan hệ thể xác giữa chúng tôi.

Suốt một thời gian lâu đến lạ lùng, chả có gì xảy ra cả. Ý tôi là, không có gì ngoài những nụ hôn đã kể với bạn (tôi vẫn nhớ chúng mồn một đến từng chi tiết). Điều này không phải là cách hành xử quen thuộc của tôi. Cho đến lúc đó, tôi luôn luôn khá bốc đồng, không hề biết kiên nhẫn, và mau chóng đi đến hành động. Nếu bạn nói với bất cứ ai trong số hàng tá cô gái ở Tower court, Wellesey, rằng Oliver Barrett IV đã hẹn hò hàng ngày với một cô gái suốt ba tuần, mà chưa từng ngủ với cô ta, chắc chắn họ sẽ phá ra cười và thắc mắc về nữ tính của cô gái đó. Nhưng dĩ nhiên sự thật hoàn toàn khác hẳn.

Tôi không biết phải làm gì.

Đừng hiểu lầm hay chỉ hiểu theo nghĩa đen. Tôi biết mọi động tác hành vi cần thiết. Tôi chỉ không sao đối phó được với cảm giác của riêng tôi trong việc tiến hành các hành vi này. Jenny quá thông minh, tôi sợ nàng sẽ cười mũi vào cái mà từ trước đến giờ tôi vẫn xem đó là phong cách ngọt ngào lãng mạn (và không ai cưỡng lại được) của Oliver Barrett IV. Vâng, tôi sợ bị từ chối. Và tôi cũng sợ nàng chấp nhận nó vì một nguyên nhân sai lệch. Cái mà tôi đang cố tìm cách diễn đạt, có lẽ chính là vì tôi có một cảm giác khác hẳn đối với Jenny, tôi không biết phải làm sao, và thậm chí cũng không biết hỏi ai (Sau này, nàng bảo tôi: "Lẽ ra anh phải hỏi em" . Tôi chỉ biết tôi có cảm giác đó. Với nàng. Với toàn bộ con người của Jenny.

"Anh sẽ thi trượt mất thôi, Oliver."

Hôm ấy là một chiều Chủ nhật, chúng tôi đang ngồi đọc sách, trong phòng tôi.

"Oliver, anh sẽ trượt nếu anh cứ ngồi đó nhìn em học."

"Anh đâu có nhìn em học. Anh đang học đấy chứ."

"Thôi đi. Anh đang nhìn chân em."

"Chỉ thỉnh thoảng thôi mà. Sau mỗi một chương."

"Chà, cuốn sách đó có những chương đặc biệt ngắn đấy."

"Này, cô bé, em không quá đẹp đến vậy đâu."

"Em biết, nhưng nếu anh nghĩ vậy thì em đâu có cản anh được."

Tôi quẳng cuốn sách xuống, băng qua căn phòng tới chỗ nàng.

"Lạy Chúa, Jenny, làm sao anh đọc được John Stuart Mill khi trong từng giây phút một anh cứ thèm yêu em chết được."

Nàng nhăn mặt.

"Ồ, Oliver, làm ơn đi mà."

Tôi đứng tựa vào ghế Jenny. Nàng cúi xuống quyển sách.

"Jenny…"

Nàng nhẹ nhàng gấp sách lại, đặt xuống bàn, rồi vòng tay qua cổ tôi.

"Ồ, Oliver, hãy làm ơn."

Và chuyện đó diễn ra. Tất cả.

Lần quan hệ đầu tiên của hai đứa thật là tuyệt diệu. Tất cả thật chậm rãi, thật nhẹ nhàng, trân trọng. Tôi không còn nhận ra đó có phải thực sự là Jenny không- một Jenny mềm mại, với những vuốt ve rất dịu hiền trìu mến. Và cái làm tôi kinh ngạc nhất, là cả tôi cũng vậy. Tôi trân trọng, dịu dàng. Có phải thực sự đó là Oliver Barrett IV?

Như đã nói, tôi chưa hề trông thấy chiếc áo len của Jenny hở hơn một nút. Vậy nên tôi khá là ngạc nhiên khi thấy nàng đeo một chiếc thánh giá vàng nhỏ xíu. Sợi dây chuyền không bao giờ được tháo ra. Nghĩa là trong lúc chúng tôi yêu nhau, nàng vẫn đeo nó trên người. Vào một khoảnh khắc nghỉ ngơi trong buổi chiều đáng yêu đó, tôi sờ chiếc thánh giá, và hỏi nàng, không biết cha cố của nàng sẽ nói gì về việc chúng tôi ngủ với nhau. Nàng đáp, nàng không có cha cố nào hết.

"Vậy em không phải là một cô gái ngoan đạo hay sao?", tôi hỏi.

"Em là một cô gái, và em ngoan.", Nàng đáp, rồi nhìn tôi chờ xác nhận. Tôi mỉm cười. Và nàng mỉm cười lại với tôi :

"Vậy tức là có hai trong ba."

Rồi tôi hỏi nàng về chiếc thánh giá. Nàng giải thích đó là di vật của mẹ nàng, nàng đeo nó vì tình cảm chứ không phải vì tôn giáo. Cuộc đối đáp quay về với chuyện của hai đứa với nhau.

"Này, Oliver, em có nói là em yêu anh không nhỉ?"

"Chưa, Jen."

"Sao anh không hỏi em."

"Anh sợ, thật đó."

"Vậy giờ hãy hỏi em đi."

"Em có yêu anh không, Jenny ?"

Nàng nhìn tôi, nghịch ngợm :

"Anh nghĩ sao ?"

"Ờ, anh đoán là… có lẽ…"

Tôi hôn cổ nàng

"Oliver?"

"Hả?"

"Em không chỉ yêu anh…"

Ôi, Chúa ơi, cái gì đây?

"Em yêu anh thật nhiều, Oliver."

Chương VI

Tôi yêu mến Ray Straton.

Hắn có thể chẳng là thiên tài mà cũng chẳng là một cầu thủ giỏi (loại tấn công hơi chậm), nhưng lúc nào hắn cũng là một người bạn cùng phòng tốt bụng, chân thành. Và cái gã khốn khổ đó đã chịu bao cay đắng trong gần trọn năm học cuối của chúng tôi. Hắn đi đâu để học khi trông thấy chiếc cà vạt treo ở tay nắm cửa phòng (đó là ám hiệu truyền thống cho biết " bên trong có việc" ? Phải nhận rằng, hắn chẳng học hành nghiên cứu nhiều nhặn gì, nhưng dù sao, đôi khi hắn cũng buộc phải nghiên cứu học hành. Cứ cho rằng hắn học ở thư viện House, hoặc Lamont, hoặc thậm chí ở câu lạc bộ Pi Eta. Nhưng hắn ngủ ở đâu, trong những ddêm Thứ bảy, khi tôi và Jenny quyết định chống lại các lề luật thông thường để ngủ chung nhau? Hắn hẳn phải van xin các phòng bên một xó để chui vào, nếu như bọn đó không kẹt chuyện riêng. Trời, ít nhất thì chuyện cũng diễn ra suốt từ sau mùa thi đấu. Còn tôi thì cứ ức hiếp hắn như vậy đó.

Nhưng Ray được gì đáp trả? Ngày xưa, tôi chia sẻ với hắn từng chi tiết vụn trong những thắng lợi về tình ái của tôi. Giờ đây, hắn không những bị chối bỏ cái quyền không thể chuyển giao là ở chung phòng, mà thậm chí không bao giờ tôi công khai thừa nhận với hắn hai đứa tôi là tình nhân của nhau. Tôi chỉ báo cho hắn biết khi nào chúng tôi cần phòng, chỉ vậy. Straton có thể rút ra bất cứ kết luận nào tùy ý.

"Trời, ý tao là, Oliver, mày có tiến tới thật hay chăng?" Hắn mãi hỏi tôi câu đó.

"Raymond, nhân danh tình bạn, yêu cầu mày đừng hỏi."

"Nhưng, trời, bao nhiêu buổi chiều, bao nhiêu đêm Thứ sáu, Thứ bảy, trời, chắc mày phải tiến tới thôi."

"Vậy sao mày còn quấy rầy tao với câu hỏi đó nữa."

"Vì điều đó làm mất sức."

"Cái gì ?"

"Toàn bộ mọi chuyện. Ý tao là, chưa bao giờ như thế trước đây. Ý tao là, mày hoàn toàn bưng bít, không cho Ray lớn này biết một chút xíu gì. Ý tao là không bảo đảm. Mất sức. Trời, con nhỏ đó làm cách gì mà mọi chuyện khác hẳn đi vậy?"

"Nghe đây, Ray, đối với một tình yêu chín chắn…"

"Tình yêu ?"

"Đừng nói như thể đó là một từ nhơ bẩn."

"Ở tuổi của mày ? Tình yêu ? Trời, tao sợ lắm đấy, bạn già ơi."

"Sợ cho cái gì ? Cho lý trí của tao?"

"Cho bằng cử nhân của mày. Cho sự tự do của mày. Cho cuộc đời mày."

Ray khốn khổ. Hắn thực sự nghĩ như thế.

"Sợ mất đi một đứa bạn cùng phòng hả ?"

"Con khỉ, ở mặt nào đó, tao có thêm một thì đúng hơn. Con nhỏ đó chiếm quá nhiều thời gian ở đây."

Tôi đang thay đồ để đi dự một cuộc hòa nhạc, thế nên phải kết thúc ngắn gọn cuộc đối đáp này.

"Đừng lo, Raymond Tụi mình sẽ kiếm một căn hộ ở New York. Mỗi đêm là các em khác nhau. Tụi mình sẽ làm được mà."

"Đừng bảo tao không lo, Barrett. Con nhỏ đó lấy mất hồn mày rồi."

"Mọi thứ đều nằm trong vòng kiểm soát" Tôi đáp, "Thôi thoải mái đi" Tôi sửa lại chiếc cà vạt và bước ra cửa. Straton có vẻ chưa hài lòng.

"Này, Oliver."

"Hả?"

"Mày sẽ tiến tới, phải không?"

"Lạy Chúa, Straton!"

Tôi không mời Jenny tới buổi hòa nhạc. Tôi đến để xem nàng. Ban nhạc Bach Society trình diễn bản concerto số 5 của Brandenburg, ở Dunster House, Jenny đảm nhiệm tay solo đàn clavico. Tôi từng nghe nàng chơi nhiều lần, dĩ nhiên, nhưng chưa bao giờ trong cả ban nhạc hay trước đám đông. Trời, tôi rất tự hào. Tôi không nghe thấy một lỗi nào ở phần trình diễn của nàng cả.

"Anh không tin nổi em chơi tuyệt đến như vậy" Tôi bảo nàng sau cuộc hòa nhạc.

"Chứng tỏ anh cũng khá rành âm nhạc đó, chàng công tử."

"Anh biết vừa đủ."

Chúng tôi đang ở trong khuôn viên sân Dunster. Đó là một buổi tối tháng Tư, và người ta thấy mùa xuân cuối cùng đã quay trở về vùng Cambridge. Các bạn học của nàng đang đi lại gần đấy (có cả Martin Davidson đang lén lút gửi đến tôi cái nhìn căm ghét), vì vậy tôi không tiện lý luận dài dòng hơn với nàng về âm nhạc.

Chúng tôi băng qua đài tưởng niệm ra lối dọc bờ sông.

"Nè anh, hãy nghĩ kỹ đi, được không. Em chơi được thôi. Không tuyệt lắm. Thậm chí không như "All Ivy". Chỉ được thôi. OK ?"

"OK. Em chơi được. Ý anh là lúc nào em cũng nên giữ được mức đó."

"Ai nói là em không giữ được mức đó, lạy Chúa. Không phải là em sẽ theo học với Nadia Boulanger sao ?"

Nàng đang nói cái quái quỷ gì thế? Từ cách nàng đột ngột lặng im, tôi đoán là nàng lỡ lời nói ra một điều không định nói.

"Ai chứ ?"

"Nadia Boulanger. Một giáo sư nhạc nổi tiếng, ở Paris", nàng nói hai từ cuối rất nhanh.

"Ở Paris ?" Tôi lặp lại thật chậm rãi.

"Cô ấy nhận dạy vài sinh viên Mỹ. Em rất may đó. Em còn được một học bổng loại giỏi nữa."

"Jenifer. Em đi Paris thật sao ?"

"Em chưa từng tới Châu Âu. Em nôn nóng muốn đi lắm."

Tôi xiết mạnh bờ vai nàng. Có lẽ hơi thô lỗ một chút chăng, tôi cũng không biết nữa.

"Nào, em đã biết chuyện này lâu chưa ?"

Lần đầu tiên Jenny không nhìn thẳng vào mắt tôi.

"Oliver, đừng có ngốc như thế, đây là chuyện tất yếu phải đến."

"Tất yếu cái gì ?"

"Mình tốt nghiệp, rồi mình sẽ phải chia tay nhau. Anh sẽ vào học trường luật…."

"Khoan đã, em nói cái gì vậy?"

Giờ thì nàng nhìn vào mắt tôi. Và mặt nàng buồn rười rượi.

"Oliver. Anh là một cậu ấm con nhà tỷ phú. Còn em chỉ là một con số không trong xã hội."

Tôi vẫn còn ôm bờ vai nàng.

"Việc đó có liên quan quái quỷ gì đến chuyện chia tay. Chúng ta đang có nhau, chúng ta đang hạnh phúc."

"Đừng có ngốc nghếch nữa, Oliver", nàng lặp lại, "Harvard như cái túi của ông già Noel, anh có thể nhét bất cứ loại đồ chơi nào vào đó, nhưng khi lễ qua đi, người ta cũng vứt bỏ ra tất cả…" Nàng ngần ngừ, rồi tiếp, "và anh lại quay về nơi anh đã từ đó đến."

"Ý em nói là em sẽ trở về làm thợ nướng một thứ bánh trái gì đó ở Cranston, Rhode Island phải không ?"

Tôi đang nói những lời tuyệt vọng.

"Nướng bánh ngọt" Nàng chữa lời tôi, " và đừng có chế giễu ba của em."

"Vậy đừng rời xa anh, Jenny. Anh xin em."

"Thế còn học bổng của em ? Còn chuyến đi Paris, nơi mà cả cuộc đời khốn khổ của em chưa từng biết thì sao?"

"Thế còn đám cưới của chúng mình thì sao ? "

Chính tôi nói những lời trên, dù trong một thoáng giây, tôi vẫn chưa chắc là tôi đã thốt ra.

"Nào đã có ai nói gì về đám cưới đâu."

"Anh nói. Anh đang nói về nó, ngay bây giờ."

"Anh muốn cưới em ?"

"Phải."

Nàng cúi mặt, không cười, mà chỉ hỏi :

"Vì sao ?"

Tôi nhìn vào đôi mắt của nàng.

"Bởi vì…" Tôi nói.

"Ồ, đó là một lý do rất tốt." Nàng nói.

Nàng nắm cánh tay tôi (lần này thì không phải là tay áo), và chúng tôi đi theo dọc theo lối bờ sông. Thật sự, không cần phải nói thêm điều gì nữa.

Chương VII

Ipwish, Massachusetts, ở cách cầu sông Mytis chừng 40 phút lái xe, tùy vào thời tiết và tốc độ của bạn ra sao. Tôi đã có lần vượt quãng đường này trong 29 phút. Một tay chủ ngân hàng ở Boston rêu rao là hắn còn lái nhanh hơn, nhưng khi người ta nói về một thời gian dưới 30 phút để đi từ cầu Mytis tới gia thự họ Barrett, thì khi đó khó mà phân biệt giữa thực tế và óc tưởng tượng. Với tôi, thời gian 29 phút là giới hạn tuyệt đối. Người ta đâu thể làm ngơ các tín hiệu giao thông, phải không nào?

"Anh lái như một tên khùng ấy ", Jenny nói.

"Đây là Boston" Tôi đáp, "Mọi người đều lái như điên". Lúc đó, xe của tôi đang dừng lại vì đèn đỏ ở đường số 1.

"Anh sẽ giết tụi mình trước cả lúc ba me anh giết tụi mình" Jenny nói.

"Nghe này Jenny, ba má anh là những người rất dễ thương."

Đèn chuyển sang xanh. Trong 10 giây, chiếc MG lên tới tốc độ 60 dặm/giờ.

"Kể cả ông cụ Khốt ư ?"

"Ai ?"

"Oliver Barrett III."

"À, ông ấy là người dễ thương, em sẽ thích ổng mà."

"Làm sao anh biết được ?"

"Mọi người đều thích ổng."

"Vậy sao anh thì không ?"

"Vì mọi người thích ổng."

Dù sao, vì lẽ gì mà tôi mang nàng đến gặp ba má tôi? Tôi có thực sự cần lời chúc phúc của ông già mặt lạnh không? Một phần đó là vì ý muốn của nàng (Đó là điều phải làm, Oliver!), phần khác, vì O.B. III là người thanh toán món tiền học phí chết tiệt cho tôi.

Có cần phải là một buổi ăn tối ngày Chủ nhật không? Ý tôi nói, hình như tôi đã sai lầm, phải không? Chủ nhật, khi tất cả những tay tài xế cô hồn choán hết cả con đường số 1, và chen cả vào đường xe của tôi. Tôi quẹo ra đường Groton, một con đường tôi từng chạy hết tốc lực từ năm 13 tuổi.

"Ở đây chẳng có nhà, chỉ toàn cây", Jenny nói.

"Nhà cửa nằm sau rặng cây" Tôi đáp.

Khi xuống cuối đường Groton, bạn phải cẩn thận, nếu không bạn sẽ chạy lố qua ngã rẽ vào chỗ của bạn. Và thực tế là tôi đã chạy lố vào chiều hôm ấy. Khi thắng lại, tôi đã xuống quá 300 yard.

"Mình đang ở đâu?" Nàng hỏi.

"Chạy lố rồi." Tôi lẩm bẩm chửi thề.

Có cái gì mang tính biểu tượng chăng trong sự kiện tôi quay ngược lại 300 yard để vào lối nhà tôi? Dù sao, khi xe lăn bánh trên mảnh đất nhà Barrett, tôi chạy chậm lại. Ít nhất là nửa dặm từ ngã rẽ vào tới tòa nhà Dover House. Dọc đường, bạn đi qua những cao ốc, mà tôi chắc sẽ gây nhiều ấn tượng khi bạn mới tới lần đầu.

"Kinh thật." Jenny bảo.

"Gì vậy, Jen?"

"Dừng xe lại, không ddùa đâu, Oliver."

Tôi dừng xe. Nàng nói :

"Chà, em không ngờ lại như thế này."

"Như thế nào, Jen ?"

"Giàu sang thế này. Em cuộc là anh còn có cả nô lệ ở đây."

Tôi muốn nhích qua và nắm tay nàng, nhưng tay tôi ướt đẫm (một trạng thái bất thường), nên tôi chỉ khích lệ nàng bằng lời:

"Xin em đó, Jen. Mọi chuyện qua nhanh thôi."

"Vâng, nhưng không hiểu sao, em bỗng dưng ước gì tên của em là Abigail Adam hoặc Wendy Wasp."

Chúng tôi im lặng trong chặng đường còn lại, rồi tôi dừng xe, và hai đứa đi bộ tới cổng. Trong lúc chờ người ra mở cổng, Jenny không chống lại nổi cơn sợ hãi vào giây phút cuối.

"Ta chạy đi anh" Nàng nói.

"Ta sẽ ở lại và tranh đấu" Tôi đáp.

Có ai trong hai đứa tôi nói đùa chăng?

Florence, một đầy tớ trung thành và lâu năm của gia đình Barrett ra mở cổng.

"Ồ, cậu chủ Oliver" Bà mừng rỡ chào tôi.

Chúa ơi, tôi ghét bị gọi như thế làm sao! Tôi ghét cay ghét đắng sự cách biệt tuyệt đối giữa tôi và ông già mặt lạnh.

Ba má tôi, theo lời Florence, đang chờ ở thư viện. Jenny thối lui về sau mấy bước vì mấy bức tranh chân dung chúng tôi vừa đi lướt qua. Hầu hết đó là các tác phẩm của John Singer Sargent (có một bức vẽ O.B. II cao quý từng trưng bày ở bảo tàng Boston). Nhưng tôi chợt có một nhận thức mới mẻ, rằng không phải tất cả tiền nhân của tôi đều mang tên Barrett. Còn có các phụ nữ họ Barrett, đã kết hôn và đã sinh ra những người như Barrett Winthrop, Richard Barrett Sewall, và nhất là Abbott Lawrence Lyman, người đã táo bạo đi qua cuộc đời (và trường Harvard), trở thành một nhà hóa học nổi danh, mà chẳng có một chữ Barrett nào chen vào giữa tên ông ấy cả!

"Chúa ơi, có đến phân nửa gương mặt các nhân vật được đặt tên cho các cao ốc ở Harvard treo ở đây!"

"Toàn là điều vớ vẩn" Tôi bảo nàng.

"Em tự hỏi không biết liệu anh còn có họ hàng gì với Sewall Boat House chăng?" Nàng nói.

"Có. Anh sinh ra từ dòng họ đá và gỗ."

Ở cuối dãy tranh chân dung, ngay trước khúc quanh vào thư viện, có một chiếc hòm bằng thủy tinh. Bên trong là các kỷ niệm chương.

"Trông chúng đẹp quá. Em chưa bao giờ nhìn thấy những thứ thế này, hình như chúng làm toàn bằng vàng bạc hở?"

"Phải."

"Lạy Chúa. Của anh ?"

"Không. Của ông ấy."

Bằng chứng về các kỷ lục này cho thấy O.B. III không dự giải Olympic Amsterdam. Tuy nhiên, ông ấy đã dự nhiều giải quan trọng khác, và ddạt thứ hạng cao. Nhiều. Rất nhiều. Những đồ vật lau chùi sáng chói này đang làm Jenny kinh ngạc.

"Người ta không tặng những món quí như thế này trong giải bowling ở Cranston."

Và nàng quay sang tôi.

"Anh có kỷ niệm chương chứ, Oliver?"

"Có."

"Trong chiếc hòm này ?"

"Ở trên phòng anh, dưới gầm giường."

Nàng tặng cho tôi một cái nhìn rất đỗi tình tứ kiểu Jenny và thầm thì :

"Lát nữa mình sẽ lên đó và xem chúng, nhé ?"

Trước khi tôi kịp đáp, và làm theo đề nghị của nàng, chúng tôi bị cắt ngang.

"A, xin chào."

Ông già Khốt ! Đó là ông già Khốt.

"Ồ, chào ba. Đây là Jenny."

"Ờ, chào cô."

Ông bắt tay tôi trước lúc tôi nói hết lời giới thiệu. Tôi nhận ra ông không mặc bộ đồng phục nhà băng. O.B. III mặc một chiếc áo khoác ngắn thể thao bằng vải cashmere. Và sau vẻ mặt lạnh lùng, ẩn giấu một nụ cười.

"Ta vào đây, gặp bà Barrett."

Lại một lần nữa, hiếm hoi trong đời mình, Jenny co người lại. Gặp mặt Alison Forbes ‘Tipsy" Barrett. (Trong một khoảnh khắc, tôi tự hỏi, cái biệt danh thời nữ sinh ký túc của mẹ tôi có tác động gì tới bà không, nếu như bà không lớn lên trong một gia đình danh gia vọng tộc trong ngành bảo tàng). Bà chưa bao giờ tốt nghiệp đại học. Bà rời trường vào năm thứ hai, với lời chúc phúc tốt lành của ông bà ngoại tôi trong ngày hôn lễ với O.B. III.

"Alison vợ tôi, còn đây là Jenny."

Ông ấy đã tước khỏi tôi nhiệm vụ giới thiệu Jenny.

"Callivery" Tôi bổ sung, vì ông già không biết họ của nàng.

"Cavillery", Jenny nhẹ nhàng chữa lại, vì tôi đã nói sai – lần đầu và cũng là lần độc nhất trong cả đời tôi.

"Như trong Cavilleria Rusticana?" Má tôi hỏi, rõ là để chứng tỏ dù bà bỏ học, bà vẫn rất là có văn hóa.

"Dạ phải. Nhưng không có họ hàng gì hết ." Jenny đáp.

"Ồ" Má tôi nói.

"Ồ" Ba tôi nói.

Và tôi, trong lúc tự nhủ không biết ba má tôi có hiểu kịp sự dí dỏm ngấm ngầm của nàng chăng, cũng chỉ còn biết góp phần : "Ồ?".

Má tôi bắt tay Jenny, và sau cái nghi thức thông thường đó, tất cả ngồi vào ghế. Mọi người lặng lẽ. Tôi cố nghĩ xem cái gì sẽ xảy ra. Không nghi ngờ gì nữa, má tôi đang đo lường Jenny, xem xét trang phục (đêm nay thì không có vẻ bụi đời), cung cách, điệu bộ, giọng nói của nàng. Dưới sự quan sát đó, giọng nói vùng Nam Cranston thậm chí ở vào cung bậc nhã nhặn nhất. Có lẽ Jenny cũng đang đo lường má tôi. Phụ nữ luôn như thế, tôi biết. Chắc là để vén những bí mật về cái gã đàn ông họ sắp sửa cưới. Và có lẽ nàng cũng đang đo lường O.B. III. Nàng có nhận ra ông ấy cao hơn tôi chưa nhỉ? Nàng có thích chiếc áo khoác cashmere của ông không?

Còn O.B. III, dĩ nhiên là ddang tập trung hỏa lực vào tôi, như thường lệ.

"Con khỏe chứ, con trai ?"

Đối với một nhà học giả khốn khổ nào đó, hẳn ông là một người đối thoại tồi khủng khiếp.

"Tốt, ba. Tốt."

Đúng lúc đó, má tôi hỏi thăm Jenny.

"Chuyến đi của cháu xuống đây tốt chứ?"

"Dạ, tuyệt, và nhanh nữa ạ."

"Oliver lái xe nhanh đấy" Ông già mặt lạnh xen vào.

"Không nhanh bằng ba đâu" Tôi đáp lại.

Ông ấy sẽ nói sao ?

"Ừ, ta cũng cho là thế."

Ba có dám cuộc không, ba?

Má tôi, người luôn đứng về phía ông, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, chuyển sang một đề tài phổ quát hơn – âm nhạc hay nghệ thuật gì đó, tôi cho là vậy. Tôi không để ý nghe kỹ. Sau đó, một tách trà được đưa đến tay tôi.

"Cám ơn" Tôi nói, "Con phải đi sớm."

"Hả?" Lời Jenny. Hình như họ đang nói về Picini gì đó, và lời phát biểu của tôi, có vẻ bất ngờ. Má tôi nhìn sang tôi ( một chuyện khá hiếm hoi).

"Nhưng con tới đây ăn cơm tối mà, đúng không?"

"Ơ, không được má à."

Cùng lúc đó, Jenny nói :

"Dĩ nhiên là được."

"Anh phải về" Tôi nghiêm trang bảo nàng.

Jenny nhìn tôi kiểu : " Anh đang nói tầm phào gì thế?". Và ông già lên tiếng.

"Con phải ở đây ăn cơm. Đó là mệnh lệnh."

Nụ cười giả tạo trên mặt ông không làm giảm chút nào vẻ ra lệnh. Và tôi không bao giờ chịu thua cái trò vớ vẩn đó, dù là của một tay vô địch Olympic đi nữa.

"Chúng con không thể, ba."

"Chúng ta phải ở lại, Oliver" Jenny nói.

"Tại sao?" Tôi hỏi.

"Vì em đói bụng" Nàng đáp.

Chúng tôi ngồi quanh bàn, ngoan ngoãn nghe lời cầu nguyện của Oliver III. Ông kính cẩn cúi đầu. Má tôi và Jenny làm theo y chang. Tôi khẽ nghiêng đầu.

"Cầu xin ban cho chúng con thức ăn và nhờ đó phục vụ người, cầu xin giúp cho chúng con không hề lo âu vì các nhu cầu, mong muốn khác. Chúng con nguyện cầu nhân danh cha và con và thánh thần. Amen."

Chúa ơi, tôi đang bị tra tấn. Bộ ông ấy không thể bỏ qua lòng mộ đạo chỉ một lần này hay sao? Jenny sẽ nghĩ gì? Trời, đúng là một cú quay ngược về thời Trung cổ.

"Amen" Lời của má tôi ( và của Jenny nữa, rất khẽ) .

"Phát bóng đi !" Tôi la lên, làm ra bộ vui hí hửng.

Hình như không có ai buồn cười cả. Ít nhất là vậy đối với Jenny. Nàng ngó lơ không nhìn tôi. O.B. III liếc nhanh tôi.

"Ta rất mong con thỉnh thoảng chơi bóng, Oliver."

Chúng tôi không hoàn toàn im lặng trong khi ăn, nhờ tài năng đặc biệt của má tôi với các câu chuyện vặt.

"Thế ba má cháu ở Cranston hả Jenny?"

"Gần như thế. Má cháu ở Fall River."

"Họ Barrett có các cối xay bột ở Fall River" O.B. III nói.

"Nơi họ bóc lột dân nghèo suốt nhiều thế hệ" O.B. IV nói thêm.

"Vào thế kỷ 19" O.B. III nói thêm.

Má tôi mỉm cười, rõ ràng là hài lòng với cú phản công của ông. Nhưng chưa đâu !

"Thế các kế hoạch tự động hóa cối xay thì sao?" Tôi phát bóng lại.

Một thoáng yên lặng. Tôi chờ đợi một lời trả đũa gay gắt.

"Uống cà phê nhé?" Alison Forbes Tipsy Barret nói.

Chúng tôi lui vào thư viện, chờ đợi vòng đấu cuối. Jenny và tôi phải lên lớp ngày mai, ông già có nhà băng và các thứ, và chắc chắn là Tipsy có một vài điều gì đó để làm.

"Cho đường chứ, Oliver ?" Má tôi hỏi.

"Oliver lúc nào cũng uống có đường, em ạ." Ông già nói.

"Cám ơn. Bữa nay thì không" Tôi nói, "Cà phê không thôi, má."

Ồ, mọi người chúng tôi đều đã cầm ly, và đang ngồi đó, ấm cúng, hoàn toàn không có gì để nói với nhau. Vì vậy, tôi đưa ra một đề tài.

"Jenny, nói cho anh biết - em nghĩ sao về đội quân Hòa bình?"

Nàng nghiêng người sang tôi, nhưng từ chối hợp tác.

"Ồ, anh chưa nói với chúng sao, O.B. ?" Má tôi hỏi.

"Chưa tới lúc, em yêu" O.B.III đáp, với một vẻ vui vui giả tạo và hẳn đang ngầm kêu lên " Hãy hỏi ta đi, hãy hỏi đi!" Thế nên tôi hỏi.

"Đó là gì vậy, ba ?"

"Không có gì quan trọng cả, con trai."

"Không hiểu sao anh lại nói vậy" Má tôi thốt, và bà quay sang tôi, thông báo với vẻ đầy quyền lực. (Tôi đã bảo bà đứng về phía ba tôi):

"Ba con sẽ là chủ tịch đội quân Hoà bình."

"Ồ."

"Ồ" Jenny cũng kêu lên, nhưng với giọng khác hẳn, đầy vẻ vui sướng.

Ba tôi vờ như hơi bối rối, còn má tôi thì hình như đang chờ tôi nghiêng đầu thán phục. Nói cho cùng, đó đâu phải là chức Thống đốc.

"Xin chúc mừng, ông Barrett" Jenny nói.

"Vâng, chúc mừng , ba."

Má tôi vẫn còn nôn nao nói về chuyện đó.

"Má nghĩ đó là một kinh nghiệm rất tốt về giáo dục" Bà nói.

"Ồ vâng, đúng vậy" Jenny đáp.

"Vâng" Tôi nói, không tin tưởng mấy, " Chà, má làm ơn đưa lọ đường cho con với."

Chương VIII

"Jenny, nói cho cùng, đó đâu phải là Thống đốc!"

Cuối cùng, nhờ trời, chúng tôi đang quay ngược về Cambridge.

"Im lặng đi Oliver, lẽ ra anh nên nhiệt tình hơn mới phải."

"Thì anh đã chúc mừng đó."

"Anh không độ lượng gì hết."

"Vì Chúa, em còn mong đợi gì ở anh nữa đây?"

"Ôi trời, tất cả mọi chuyện làm em muốn bệnh."

"Cả hai chúng ta đều muốn bệnh" Tôi bổ sung.

Sau đó, chúng tôi im lặng trong một đoạn đường dài, nhưng rồi tôi thấy có điều gì trục trặc.

"Tất cả mọi chuyện gì làm em muốn bệnh, Jen?" Tôi hỏi sau một lúc trầm ngâm.

"Cái cách đối xử kinh tởm của anh đối với ba anh."

"Vậy còn cách đối xử kinh tởm của ông đối với anh thì sao?"

Tôi đã chạm vào nơi nhạy cảm của nàng. Bởi vì Jenny bắt đầu có cảm giác bị tổn thương trong tình cảm với gia đình họ ddàng trai. Cái kiểu của một cô gái lai Ý- Địa Trung Hải. Và tôi đã thiếu tôn trọng biết bao.

"Anh gây khó dễ cho ông ấy, gây khó dễ cho ông ấy."

"Cả hai bên đều vậy, Jen. Em không nhận ra à?"

"Em thấy anh không từ làm bất cứ chuyện gì, miễn là chọc tức được ba anh."

"Không thể chọc tức được O.B.III đâu Jen."

Có một khoảnh khắc im lặng kỳ lạ trước khi nàng đáp lại:

"Có lẽ trừ phi anh cưới Jennifer Cavillery…"

Tôi cố giữ bình thản để tìm chỗ đậu xe trước một dãy quán ăn hải sản. Rồi tôi quay sang nàng, nổi điên lên.

"Em nghĩ vậy thật sao?"

"Em nghĩ một phần nào đó là như vậy". Nàng lặng lẽ đáp.

"Jenny, em không tin là anh yêu em thật sao?" Tôi hét lên.

"Có, nhưng ở một khía cạnh khùng điên nào đó, anh cũng yêu cả cái giai tầng xã hội thấp kém của em."

Tôi không nghĩ ra điều gì để nói ngoài chữ "không đâu". Tôi nói nó nhiều lần, với nhiều giọng khác nhau. Nghĩa là, tôi vô cùng phiền muộn, thậm chí tôi tự hỏi liệu có một chút xíu sự thật nào không trong câu nói tồi tệ của nàng.

Nhưng cả nàng cũng đâu có vui gì.

"Em không phán xét, Oliver. Em chỉ nghĩ vậy thôi. Em muốn nói là em biết rằng em không chỉ yêu anh, em yêu cả tên anh, yêu cả con số của anh."

Nàng ngoảnh mặt ra chỗ khác, và tôi nghĩ là nàng sắp khóc. Nhưng nàng không khóc, nàng nói tiếp :

"Nói cho cùng, đó là một phần của con người anh mà."

Tôi ngồi im một lúc, ngó ra một ngọn ddèn néon lượn theo dòng chữ " Trai & Hàu". Điều làm cho tôi yêu Jenny kinh khủng là khả năng nhìn vào nội tâm tôi, hiểu được những điều tôi không cần phải thốt ra. Nàng vẫn đang nhìn vào nội tâm tôi lúc này. Nhưng liệu tôi có thể đối diện nổi với sự thật là tôi không hoàn hảo? Trời, nàng đã đối diện với sự không hoàn hảo của tôi, và của riêng nàng. Trời, tôi cảm thấy mình thật đáng khinh.

Tôi không biết nói gì.

"Em có muốn ăn trai hoặc hàu gì đó không, Jen ?"

"Anh có muốn bị đấm vào mồm không, Ollie ?"

"Muốn" Tôi đáp.

Nàng co bàn tay lại thành một nắm đấm rồi gá nhẹ vào má tôi. Tôi hôn nó, và khi tôi nhích người qua để ôm nàng, nàng giơ thẳng tay đẩy tôi ra, và hét lên :

"Lái xe đi, công tử. Nắm lấy tay lái và phóng đi !"

Tôi làm. Tôi làm.

***

Lời chỉ trích của ba tôi liên quan đến cái mà ông gọi là tốc độ. Vội vàng. Hấp tấp.Tôi không nhớ chính xác từ ông dùng. Nhưng tôi biết bài thuyết giáo của ông trong buổi ăn trưa tại câu lạc bộ Harvard chủ yếu là về việc tôi tiến tới quá nhanh. Ông xoa dịu bằng lời nhắc nhở tôi dùng thức ăn. Tôi nhã nhặn lên tiếng, rằng tôi đã trưởng thành, rằng ông không nên chỉnh đốn, hoặc thậm chí là phê phán những cách hành xử của tôi. Ông lý luận rằng cho dù là những nhà lãnh tụ cỡ thế giới đôi khi cũng cần những lời phê bình xây dựng. Tôi cho là ông có ngụ ý tới vai trò của ông ở Washington trong nhiệm kỳ thứ nhất của Roosevelt. Nhưng tôi không định giúp cho ông hoài niệm về F.D.Roosevelt, hoặc vai trò của ông trong việc cải tổ ngân hàng Mỹ. Vì vậy tôi im lặng.

Chúng tôi, như đã nói, đang ăn trưa trong câu lạc bộ Harvard, ở Boston. (Tôi tiến hành quá nhanh, nếu bạn chấp nhận sự phỏng đoán của ba tôi). Có nghĩa là vây quanh chúng tôi là những bạn bè, thân chủ, người ái mộ…vv…của ông. Nghĩa là công việc này chán ngắt, nếu như đó là công việc. Nếu bạn thực sự lắng nghe, bạn sẽ nghe thấy những câu thì thầm to nhỏ, ví dụ như : " O.B. đi tới đó", hoặc " Đó là Barrett, nhà thể thao lớn".

Đang có một hiệp đấu khác trong cuộc đối thoại đầu Ngô mình Sở của chúng tôi. Chỉ có một điều là, lần này, chủ đề câu chuyện rất hiển nhiên.

"Ba, ba không nói một lời nào về Jenifer."

"Có gì để nói? Con đặt chúng ta trước một việc đã rồi, không phải vậy sao?"

"Nhưng ba nghĩ sao?"

"Ta cho là cô ấy đáng nể phục. Với một cô gái xuất thân như vậy mà len lên tới đại học Radcliffe…"

Bằng cái kiểu đánh trống lãng này, ông đã né tránh vấn đề.

"Hãy đi thẳng vào vấn đề đi ba."

"Vấn đề là cô gái ấy không có quan hệ gì trong việc này cả", ông nói, "vấn đề là ở bản thân con."

"Nghĩa là ?"

"Sự chống đối của con" Ông nói, "Con đang chống đối, con trai ạ."

"Ba, con không hiểu được vì sao cưới một sinh viên Radcliff xinh xắn thông minh lại là sự chống đối. Cô ấy đâu phải loại gái hip-py."

"Cô ấy không là nhiều thứ."

A, chúng tôi đã đi tới điểm nút. Một sự hiển nhiên khốn kiếp.

"Cái gì làm phiền ba nhất, vì cô ta theo đạo Thiên Chúa, hay vì cô ta nghèo?"

Ông đáp lời tôi bằng những tiếng thầm thì, người hơi ngã về phiá tôi.

"Cái gì đã hấp dẫn con nhất ?"

Tôi muốn đứng dậy, bỏ đi. Tôi bảo với ông điều đó.

"Ở lại đây, và nói như một gã đàn ông", ông bảo.

Để đối kháng lại cái gì ? Một cậu bé ? Một cô bé ? Một con chuột ? Dù sao, tôi ngồi lại.

Ông già tỏ vẻ hài lòng khi thấy tôi ngồi lại. Có thể nói, ông xem điều đó là một trong những thắng lợi của ông đối với tôi.

"Ta chỉ yêu cầu con chờ đợi một thời gian."

"Hãy làm rõ nghĩa chữ "thời gian" đi ba."

"Sau khi tốt nghiệp trường luật. Nếu đó là tình yêu thực sự, nó có thể chịu được sự thử thách của thời gian."

"Nó là thực sự. Nhưng vì cái quái gì con phải để cho thời gian thử thách."

Thế là rõ cả. Tôi nghĩ. Với ông, tôi đang vùng lên, chống lại ông. Chống lại sự phán quyết của ông. Chống lại sự thống trị và kiểm soát một cách áp đặt của ông lên cuộc đời tôi.

Ông bắt đầu một hiệp đấu mới :

"Oliver, con chưa trưởng thành."

"Chưa trưởng thành là sao ?" Tôi mất bình tĩnh, thật là khốn kiếp.

"Con chưa đủ 21 tuổi. Chưa là người thành niên theo pháp luật."

"Quẳng cái pháp luật chết tiệt ấy cho rồi!"

Có lẽ vài người bên cạnh nghe câu nói của tôi. Như để trừng phạt sự lớn tiếng đó, O.B. III rót tới tai tôi những tiếng thì thào cay đắng:

"Cưới nó đi, và ta không chúc phúc cho con trong ngày đó đâu."

"Ba, ba sẽ không biết gì về ngày đó."

Tôi đi, ra khỏi cuộc đời ông, và bắt đầu cuộc đời của riêng tôi.

Chương IX

Giờ còn lại vấn đề ở Cranston, Rhode Island, một thành phố phía Nam Boston. Sau thất bại thê thảm trong cuộc ra mắt Jennifer với ba má đàng trai, tôi không còn chút xíu tự tin nào để trông mong một điều tốt đẹp trong cuộc gặp gỡ với ba nàng. Tôi bị đè nặng dưới áp lực của một tình phụ tử kiểu Ý- Địa Trung Hải, thêm nữa, Jenny là cô con gái rượu độc nhất của ông, thêm nữa, nàng mồ côi mẹ, nghĩa là nàng vô cùng thân thiết gắn bó với cha. Nghĩa là tôi sắp đương đầu với tất cả những áp lực tình cảm mà các sách vở tâm lý giáo khoa đã mô tả.

Và thêm một điều, tôi hoàn toàn tay trắng.

Hãy cứ tưởng tượng một anh chàng người Ý đẹp trai Olivero Barretto nào đó sẽ đổ bộ xuống Cranston. Hắn tới gặp cụ Cavillery, đầu bếp chính một xưởng bánh ở đó, và nói với ông ta: " Cháu muốn lấy con gái rượu của bác là Jennifer". Lời đầu tiên ông già thốt lên sẽ là gì? (Ông chắc là không đặt vấn đề về tình yêu của gã Barretto, vì nếu có ai đó biết Jenny, hẳn phải yêu Jenny thôi, đó là chân lý). - Không, cụ Cavillery sẽ nói đại loại thế này : " Barretto, cậu sẽ chăm sóc nó ra sao?"

Và hãy hình dung phản ứng của cụ Cavillery nếu Barretto bảo rằng, trái lại, ít nhất là trong ba năm tới, con gái của ông sẽ phải chăm sóc cho chàng rể! Chả lẽ nào ông già lại không đuổi cổ gã ra khỏi nhà, hoặc thậm chí tống cho vài nắm đấm, nếu cái gã Barretto đó không to con bằng tôi!

Tôi dám cuộc mười ăn một là như thế.

Có thể cần giải thích vì sao tôi lại tuân thủ mọi biển hiệu về tốc độ tối đa vào một buổi chiều Chủ nhật trong tháng Năm ấy, khi hai chúng tôi đang xuôi về hướng Nam trên đường số 95. Tới một khúc đường, Jenny - đã trở nên thích thú với kiểu chạy tốc độ của tôi - phàn nàn rằng tôi chạy ở vận tốc 40 trong một cung đường cho phép tốc độ tối đa là 45 dặm/giờ. Tôi bảo nàng là chiếc xe cần được sửa lại, nàng chẳng tin chút nào.

"Nói lại anh nghe xem nào, Jen."

Kiên nhẫn chẳng bao giờ là một đức tính của Jenny, và nàng từ chối lặp lại lời đáp các câu hỏi ngốc nghếch để giúp tôi củng cố lòng tự tin.

"Nào, chỉ một lần nữa thôi, Jen."

"Em đã gọi cho ba. Em nói chuyện với ông. Ông bảo được. Bằng tiếng Anh, vì, như em từng nói với anh mà anh không tin, rằng ông chả biết một tí quái gì tiếng Ý ngoài vài câu chửi tục."

"Nhưng "được" là sao ?"

"Anh không định bảo là Khoa luật trường Harvard đã thu nhận một gã không thể định nghĩa ngay cả từ "được" chứ ?"

"Đây không phải là thuật ngữ pháp lý, Jenny."

Nàng nắm tay tôi. Ơn Chúa, tôi hiểu. Nhưng dù sao, tôi vẫn cần sự phân loại. Tôi cần phải biết tôi được đánh giá ra sao.

"‘ Được’, nghĩa là em sẽ tự gánh chịu mọi trách nhiệm."

Tim nàng chợt từ bi để lặp đi lặp lại lần thứ n các chi tiết trong cuộc trò chuyện với ba nàng. Ông ấy rất sung sướng. Vâng, sung sướng. Khi tiễn chân nàng lên học ở Radcliff, ông không bao giờ chờ đợi nàng sẽ quay về để lấy anh chàng nhà bên cạnh ( kẻ đã từng hỏi cưới nàng ngay trước lúc nàng đi học). Lúc đầu, ông ngờ vực khi biết người nàng dự định lấy chính là Oliver Barrett IV. Rồi ông cảnh cáo nàng không được vi phạm điều răn thứ mười một của Thánh kinh.

"Đó là điều răn gì ?" Tôi hỏi.

"Không được lừa dối ba anh. "

"Ồ."

"Chỉ có vậy thôi, Ollie. Thật đó."

"Ông ấy có biết anh nghèo ?"

"Biết."

"Ông ấy không quan tâm ?"

"Ít nhất anh và ba đã có một cái gì đó giống nhau."

"Nhưng chắc ông sẽ sung sướng hơn nếu anh rủng rỉnh một tí, phải không ?"

"Thế anh thì sao ?"

Tôi ngậm miệng suốt quãng đường còn lại.

Nhà Jenny nằm trên đường Hamilton Avenue, một dãy dài những căn nhà gỗ nhỏ, có đầy trẻ con trước cửa, và dăm cây cối khẳng khiu. Khi chạy dọc theo con đường để tìm chỗ đậu xe, tôi có cảm giác như đang ở một đất nước nào xa lạ. Đầu tiên là có thật nhiều người. Ngoài bọn nhóc đang chơi ddùa, còn có nhiều gia đình kéo nhau ra ngồi cả ngoài cổng, rõ ràng là không có việc gì tốt hơn để làm trong buổi chiều Chủ nhật ấy, ngoài việc nhìn ngó tôi tìm cách đậu chiếc MG.

Jenny nhảy ra trước. Nàng linh lợi một cách bất ngờ ở Cranston, chẳng khác nào một con cào cào nhỏ. Khi các nhà quan sát viên đầu cổng nhìn thấy nàng, họ đồng loạt reo hò. Hệt như chào một nhà lãnh tụ! Khi nghe tiếng reo chào mừng đón Jenny của họ, tôi hầu như mắc cỡ, không dám ló ra khỏi xe. Đâu phải chỉ trong thoáng chốc tôi đã có thể hóa thân thành chàng Olivero Barretto tưởng tượng.

"Ê, Jenny!" Tôi nghe giọng một người ddàn bà the thé hét gọi nàng một cách vui vẻ.

"Ê, bà Capodilupo" Tôi nghe Jenny đáp lại. Tôi đu ra khỏi xe. Hàng chục đôi mắt dán vào tôi.

"Nè, cậu nhỏ này là ai thế ?", bà Capodilupo la lên. Ở đây họ không biết tế nhị là gì sao nhỉ ?

"Anh ta chả là cái thá gì hết !" Jenny đáp. Điều này làm tôi thấy tự tin hơn.

"Có thể" Bà Capodilupo lại hét, "Nhưng cô gái đi với anh ta thì là chắc chắn là phải ngon lành há."

"Anh ấy biết" Jenny đáp.

Rồi nàng quay sang đáp lễ nhóm bà con lối xóm ở phía còn lại.

"Anh ấy biết" Nàng nói với mọi người thuộc nhóm này. Rồi nắm lấy tay tôi ( tôi là một kẻ lạ ở thiên đường), nàng lôi tôi lên thang gác ngôi nhà số 189 A đường Hamilton.

Đó là một khoảnh khắc đầy bối rối.

Tôi đứng sững người khi Jenny nói " Đây là ba em". Và Phil Cavillery, một tay bự xự (nặng cỡ 75 ký, cao cỡ 1,8m), một mẫu đàn ông Rhode Island trạc cuối tứ tuần, chìa tay ra cho tôi.

Chúng tôi bắt tay, và ông xiết rất mạnh tay tôi.

"Chào ông."

"Phil" Ông ấy chỉnh, "Ta là Phil."

"Dạ, ông Phil" Tôi lặp lại, tiếp tục bắt tay ông.

Vẫn còn là một phút giây đáng sợ. Bởi vì, lúc ấy, ngay sau khi Cavillery buông tay tôi, ông quay sang cô con gái và ddột ngột hét lớn :

"Jennifer !"

Trong một chớp mắt, không có gì xảy ra. Rồi họ ôm chặt nhau. Rất chặt. Xô tới đẩy lui. Tất cả những gì ông già Cavillery có thể thốt nên lời là (giờ thì rất nhẹ nhàng êm ái) lặp đi lặp lại tên con gái ; "Jennifer". Và tất cả những gì cô sinh viên danh dự trường Radcliffe đáp lại là : "Phil".

Tôi đã xác định được mẫu người của ông già.

Có một cái thuộc thời niên thiếu đã giúp ích cho tôi trong chiều hôm ấy. Tôi luôn luôn được giảng giải rằng không được nói chuyện khi mồm đang ngậm thức ăn. Vì cả hai cha con cứ hợp lực nhau nhồi thức ăn vào miệng tôi, tôi chả cần phải nói. Tôi đã ngốn một số lượng kỷ lục các thứ bánh ngọt Ý. Sau đó, khen ngợi tí chút những món tôi thích nhất (Tôi ăn ít nhất là hai cái mỗi loại, vì e rằng có thể làm mất lòng chủ nhà) trong niềm vui sướng của hai bố con.

"Cậu ấy được đấy" Phil Cavillery bảo con gái.

Có nghĩa là sao ?

Tôi không cần định nghĩa chữ "được". Đơn giản, tôi muốn chỉ biết cái gì trong các ứng xử của tôi đã làm tôi hưởng được sự đánh giá tốt đẹp đó.

Có phải tôi đã thích đúng một loại bánh nào đó? Tôi bắt tay có đủ chặt không ? Cái gì nhỉ?

"Con đã bảo ba là anh ấy được, Phil" Cô con gái nói.

"Ờ, được lắm" Ba nàng nói, "Ba vẫn phải tự mình xem xem thế nào. Giờ thì ba thấy rồi. Oliver ?"

Ông ta đang hướng về tôi.

"Dạ, thưa ông ?"

"Phil !"

"Dạ, thưa ông Phil ?"

"Cậu được đấy."

"Cám ơn ông. Cháu rất cảm kích. Thật thế. Và ông biết cháu nghĩ thế nào về con gái ông rồi đó. Và ông nữa, thưa ông."

"Oliver" Jenny ngắt lời tôi, "anh có ngưng lải nhải như một cậu ấm chết tiệt ngu ngốc được không, và…"

"Jenifer," Ông già ngắt lời, "Con nên tránh những câu xúc phạm. Cậu ấy là khách."

Vào buổi ăn tối ( các món bánh hóa ra chỉ đơn giản là món ăn chơi) Phil cố nói chuyện với tôi về một vấn đề nghiêm chỉnh- bạn biết đó là gì. Vì một vài lý do quái lạ nào đó, ông nghĩ ông có thể tác động đến việc hàn gắn quan hệ giữa O.B. III và O.B. IV.

"Để ta nói chuyện với ông ấy qua điện thoại, giữa hai người bố với nhau" Ông nài nỉ.

"Xin đừng, Phil, chỉ mất thì giờ của bác."

"Ta không thể ngồi yên để nhìn một người bố từ bỏ một đứa con. Không thể được."

"Vâng. Nhưng cả cháu cũng từ bỏ ông ấy nữa."

"Đừng bao giờ để ta nghe thấy những lời như thế" Ông nói, thật sự nổi nóng, "Tình thương của một người cha phải được đền đáp lại bằng thương yêu và tôn trọng. Nó rất hiếm hoi."

"Đặc biệt trong gia đình cháu." Tôi đáp.

Jenny đi lên đi xuống để phục vụ, nên nàng không tham gia vào câu chuyện.

"Hãy gọi cho ông ấy" Phil lặp lại, "ta sẽ lo liệu chuyện này."

"Không, Phil, cháu và ba cháu đã ngừng liên lạc."

"Hừ, nghe này, Oliver, ông ấy sẽ cởi mở. Hãy tin ta khi ta bảo cháu ông ấy sẽ cởi mở. Khi đã đến giờ vào nhà thờ…"

Vào đúng lúc đó, Jenny, đang bê một chồng đĩa trống, thì thào nói với ông :

"Phil…"

"Gì hả, Jen ?"

"Chuyện nhà thờ ấy…"

"Sao ?"

"Ơ, chả hay ho gì, Phil"

"Hả ?" Cavillery thốt lên. Rồi, nhảy ngay đến một kết luận sai lầm, ông quay sang tôi, có vẻ hối lỗi :

"Ta, ờ, không có ý nói cần phải là nhà thờ Thiên Chúa giáo đâu, Oliver. Ý ta là, chắc Jenifer đã nói với cháu rồi, chúng ta là tín đồ Thiên Chúa. Nhưng ta muốn nói là nhà thờ của cháu, Oliver. Chúa sẽ ban phúc lành cho sự kết hợp này ở bất cứ nhà thờ nào. Ta thề là như vậy."

Tôi nhìn sang Jenny. Nàng đã quên đề cập đến vấn đề quan trọng này với ông già qua điện thoại.

"Oliver," Nàng giải thích, " Có quá nhiều chuyện chết tiệt phải đánh đổ ông ấy ngay lúc đó."

"Hừm, đánh đổ ta, đánh đổ ta, bọn nhóc này, ta muốn đánh đổ mọi thứ trong cái đầu bé nhỏ của con thì có."

Tại sao chính vào lúc ấy, ánh mắt tôi nhìn lên bức tượng Đức Mẹ đồng trinh Mary đặt trên kệ của phòng ăn ?

"Về chuyện Chúa ban phúc ấy mà, Phil..." Jenny quay mặt đi nơi khác.

"Ừ, sao hả, Jen ?" Phil hỏi, lo âu.

"Ờ, chả hay ho gì chuyện đó, Phil" Nàng nói, nhìn tôi đăm đăm chờ sự ủng hộ, mà ddôi mắt tôi đang cố gửi đến cho nàng.

"Về Chúa? Về Chúa của bất cứ ai ?"

Jenny gật đầu.

"Cháu có thể giải thích không Phil" Tôi nói.

"Xin mời."

"Cả hai chúng cháu không ai tin cả, Phil. Và chúng cháu không thể đạo đức giả được."

Tôi nghĩ ông hiểu, vì chính tôi nói ra điều đó. Có lẽ, ông sẽ đánh Jenny. Nhưng giờ đây, ông trở thành một người ngoại quốc già nua. Ông không nhìn ai trong hai đứa chúng tôi.

"Thế cũng tốt." Ông nói sau một lúc rất lâu. Thế ta có thể biết ai sẽ đứng ra cử hành hôn lễ không?"

"Chúng cháu" Tôi đáp.

Ông nhìn con gái để xác minh. Nàng gật đầu. Lời phát biểu của tôi chính xác.

Sau một hồi lâu im lặng, ông lại nói :

"Thế cũng tốt."

Và ông hỏi tôi, vì như dự định của tôi là hành nghề luật, vậy một đám cưới như kiểu đó có – dùng từ thế nào nhỉ- hợp pháp không?

Jenny giải thích rằng một hôn lễ như thế sẽ có giáo sĩ của trường đứng ra làm chủ hôn. (Chà, giáo sĩ – Phil lẩm bẩm. Còn chúng tôi thì nhìn nhau.)

"Cô dâu có phát biểu chứ ?" Ông hỏi, như thể đây là cú ân huệ chót mà ông có thể bám víu được trong tất cả mọi chuyện liên quan.

"Phil," Jenny nói, "chả lẽ ba có thể tưởng tượng được ở một tình huống như vậy mà con gái ba có thể ngậm câm như hến hay sao?"

"Không, bé con" Ông đáp, hơi mỉm cười, "Ta cho là con phải phát biểu."

Khi chúng tôi quay về Cambridge, tôi hỏi Jenny nàng nghĩ sao về mọi chuyện vừa qua.

"Được." Nàng đáp.

Chương X

Ngài William F. Thompson, Trưởng phòng hành chánh Trường Luật, không tin được tai mình:

"Tôi không nghe lầm chứ, cậu Barrett ?"

"Dạ không, thưa ông Thompson."

Nói ra lần đầu tiên không phải dễ dàng, nhưng lặp lại cũng chả dễ hơn tí nào :

"Tôi cần có học bổng cho năm sau, thưa ông."

"Thật vậy ư ?"

"Đó là lý do tôi tới đây, thưa ông. Ông phụ trách vấn đề trợ giúp tài chính, phải không ông Thompson ?"

"Phải, nhưng chuyện này hơi kỳ. Ba cậu…"

"Ông ấy không còn liên quan gì nữa, thưa ông."

"Xin lỗi ?" Ngài Thompson tháo cặp kính ra và khởi sự chùi nó với chiếc cà vạt của ông ta.

"Ông ấy và tôi có sự bất đồng ý kiến."

Ngài Thompson mang lại kính, nhìn tôi với vẻ thản nhiên vô cảm mà muốn thể hiện nó, ít nhất bạn phải là một trưởng phòng.

"Thật không may, cậu Barrett. " Ông ta nói. Cho ai chứ? Tôi muốn hỏi. Lão này bắt đầu tìm cách tránh né rồi đây.

"Dạ vâng, thưa ông. Rất không may. Nhưng vì thế mà tôi tới đây nhờ ông, thưa ông. Tháng sau tôi sẽ cưới vợ. Cả hai chúng tôi sẽ làm việc suốt hè. Và Jenny, vợ tôi, sẽ xin một chỗ dạy tại một trường tư thục. Đó là vì cuộc sống, nhưng vẫn chưa đủ để đóng học phí. Học phí của ông khá cao, thưa ông Thompson."

"Ừ, ừ, phải," Ông ta đáp. Nhưng chỉ có thế. Lão này có hiểu tôi đang nói gì không? Dù sao thì ông ta nghĩ tôi tới đây để làm cái quái gì chứ ?

"Ông Thompson, tôi muốn có học bổng" Tôi lặp lại lần thứ ba, "Tôi hoàn toàn không có gì ở ngân hàng cả, và tôi đã được chấp nhận vào trường."

"À, phải." Ông ta nói, dùng một mánh khóe khác. " Hạn chót để xin trợ cấp đã qua từ lâu rồi."

Phải làm sao để vừa ý lão ta đây? Có lẽ phải là các chi tiết đẫm máu chăng ? Ông ta muốn loại scandal nào?

"Ông Thompson, khi tôi đề nghị, tôi không biết nó đã hết hạn, thưa ông."

"Hoàn toàn đúng là hết hạn, cậu Barrett, và tôi phải báo cho cậu biết rằng tôi không nghĩ là văn phòng này nên can dự vào một tranh chấp gia đình. Đó là một vấn đề khá rắc rối."

"Thôi được, ông Trưởng phòng." Tôi đứng lên, "Tôi hiểu ông muốn lái vấn đề tới đâu rồi, nhưng tôi sẽ không nịnh hót ba tôi để ông có cơ hội kiếm một toà hội trường Barrett cho trường luật đâu."

Khi quay gót, tôi nghe lão thì thào : "Thật không công bằng."

Tôi không đồng ý.

Chương XI

Jenny nhận bằng tốt nghiệp hôm Thứ tư. Mọi bà con quyến thuộc của nàng từ Cranston, Fall River – và thậm chí cả một bà cô từ Cleveland – cùng kéo tới Cambridge để dự lễ. Như đã xếp đặt trước, tôi không được giới thiệu là vị hôn phu của nàng, và Jenny không đeo nhẫn, để tránh làm mọi người bị sốc (quá sớm) vì sẽ không được dự lễ cưới của chúng tôi.

"Cô Clara, đây là bạn cháu, Oliver" Jenny nói, và luôn luôn không quên nhấn mạnh, "Anh ấy đã tốt nghiệp đại học."

Có nhiều lời xầm xì đàm tiếu, và cả phê phán công khai, nhưng không ai moi móc được thông tin gì cụ thể từ hai đứa chúng tôi, hay từ Phil, người mà tôi đoán chắc là vui mừng vì không phải thảo luận về tình yêu giữa những kẻ vô thần.

Thứ năm kế đó, tôi cũng nhận bằng của trường Harvard, trở thành người ngang vai phải lứa với Jenny. Ngoài ra, tôi là trưởng lớp, nên có nhiệm vụ dẫn đầu các sinh viên tốt nghiệp tới chỗ ngồi. Nghĩa là dẫn đầu cả những tay cừ khôi, trí tuệ. Tôi hầu như muốn nói với mấy tên đó, rằng vai trò của tôi là bằng cứ xác đáng chứng minh hùng hồn cho lý thuyết của tôi, đó là một giờ ở Dillon Field House đáng giá gấp hai ở thư viện Widener. Nhưng tôi cố kềm chế. Hãy để niềm vui trọn vẹn cho tất cả.

Tôi không rõ O.B. III có mặt hay không. Có tới hơn 3.000 người tụ tập ở sân trường Harvard từ sớm, và tất nhiên tôi không thể dùng ống dòm để điểm mặt từng người một. Mặt khác, tôi đã trao hai suất vé người nhà cho Phil và Jenny. Dĩ nhiên, với tư cách cựu sinh viên, ông già mặt lạnh có thể vào, và ngồi chung với lớp niên khoá ’26. Nhưng ông ấy chắc gì muốn làm chuyện đó? Tôi muốn nói, chả lẽ các ngân hàng phải đóng cửa sao?

Lễ cưới tiến hành vào ngày Chủ nhật, tại Giáo đường Phillips Brooks, một nhà thờ cũ kỹ nằm ở phía bắc khuôn viên Harvard. Chúng tôi không mời bà con thân hữu của Jenny, vì không muốn họ phiền lòng khi thấy chúng tôi chả thiết tha gì đến Cha, Con và Thánh thần của Thiên Chúa giáo. Timothy Blauvelt, cha xứ của trường, làm chủ hôn. Lẽ tự nhiên là Ray Stratton phải có mặt, tôi cũng mời thêm Jeremy Nahum, một gã bạn học cũ tốt bụng ở Exeter, gã kéo theo một cô bạn gái tên Amherst. Jenny mời một bạn gái ở Briggs Hall, và có lẽ vì tình cảm, cô bạn học cao kều cùng ngồi ở bàn đăng ký mượn sách. Và dĩ nhiên là có Phil.

Tôi giao Ray nhiệm vụ chăm sóc cho Phil. Nghĩa là, cố làm cho ông cảm thấy thoải mái. Gã Straton này đâu có được đức tính kiên nhẫn đó ! Cả hai bác cháu họ ngồi loay hoay, bứt rứt, người này lặng lẽ gửi tới người kia những phát biểu không lời : " Cứ coi như là dđám cưới của chính ta đi! (nếu như Phil nói) , và nó sẽ là (nếu như Stratton nói) "một pha trình diễn vô cùng kinh khủng!" Vì lát nữa, tôi và Jenny sẽ trao gửi cho nhau vài lời khuôn mẫu. Chúng tôi đã có dịp xem người ta làm thế nào vào đầu xuân ấy, trong đám cưới của Marya Randall, một cô bạn cùng nhóm nhạc của Jenny, với một sinh viên khoa thiết kế tên là Eric Levenson. Đó là một điều tuyệt diệu, và đã gợi cho chúng tôi nhiều ý tưởng.

"Hai bạn đã sẵn sàng chưa ?" Cha Blauvert hỏi.

"Dạ đã." Tôi đáp thay cho cả hai.

"Các bạn," Cha Blauvert nói với mọi người, "chúng ta hiện diện tại đây, để chứng kiến sự kết hợp hai cuộc đời trong hôn lễ. Hãy cùng lắng nghe những lời mà họ đã chọn để nói với nhau trong buổi lễ thiêng liêng này."

Cô dâu nói trước. Jenny đứng đối diện với tôi và đọc lại câu thơ nàng đã cất công tuyển chọn. Nó rất sống động, đặc biệt đối với tôi, vì đó là một bài sonnet của Elizabeth Barrett :

"Hồn ta kề cận bên nhau

Lặng im đối diện ta trao ân tình

Mãi khi lửa cháy tan tành…"

Qua khóe mắt, tôi trông thấy Phil Cavillery, xanh xao nhợt nhạt, mắt mở to ngạc nhiên và cảm động. Chúng tôi nghe Jenny đọc đoạn cuối khúc sonnet, ở một ý nghĩa nào đó, là một lời nguyện ước :

" Một nơi ta vẫn yêu thương

Ngày kia khi bóng tối buông quanh mình

Và chuông tử biệt ngân vang."

Rồi tới lượt tôi. Thật khó tìm được một đoạn thơ nào để tôi đọc mà không đỏ mặt. Tôi không thể nào đứng đó, trích ngâm những câu ron ren hoa gấm. Không thể được. Nhưng rồi một đoạn trong Bài ca của con đường của Walt Whitman, dù khá ngắn ngủi, đã thay tôi nói nên lời :

"…Ta trao em tay ta.

Ta trao em tình ta quí hơn tiền bạc.

Ta trao em chính bản thân ta, trước tôn giáo và luật pháp

Em có trao tặng ta bản thân em ? Em có cùng ta lãng du.

Mãi mãi bên nhau trọn đời trọn kiếp ?"

Tôi kết thúc, và trong phòng rộn lên tiếng vỗ tay vui vẻ. Rồi Ray Stratton đưa cho tôi chiếc nhẫn. Jenny và tôi – hai đứa – đọc lời thề ước - từ giờ trở đi, cả hai sẽ yêu thương gắn bó bên nhau, cho đến lúc cái chết chia lìa đôi lứa.

Và với thẩm quyền đã được Nhà Chung Massachusetts ban, Cha Timothy Blauvert tuyên bố chúng tôi là vợ chồng.

Hồi nhớ lại, "cái trò lễ lộc" của chúng tôi (như Stratton nói) rõ là chơi mà thật, thật mà chơi. Jenny và tôi không đãi sâm-panh, và vì khá ít người, chúng tôi có thể cùng ngồi ở một phòng nhỏ, chúng tôi tới uống bia ở quán của Cronin. Tôi nhớ, Jim Cronin đã xếp cả đám thành một vòng tròn để chúc mừng "vận động viên hockey vĩ đại nhất từ thời anh em nhà Cleary" .

"Tầm bậy", Phil cự lại, đấm tay xuống mặt bàn, "Nó bảnh hơn tất cả anh em nhà Cleary cộng lại". Ý của ông là, (tôi tin ông chưa hề trông thấy một trận đấu hockey ở Harvard), dù cho Bobby hoặc Billy Cleary trượt khá thế nào, chả ai trong hai người cưới được cô con gái rượu yêu quí của ông. Tất cả chúng tôi đều say khướt.

Tôi để cho Phil thanh toán tiền, một quyết định mà sau đó đã khơi gợi ở Jenny một lời chúc tụng hiếm hoi về tình trạng không tiền đóng học phí của tôi ("Anh sẽ thành người đấy, công tử" . Lúc tàn cuộc, khi chúng tôi đưa ông ra xe bus, cũng hơi lâm ly chút xíu. Nghĩa là, đẫm nước mắt. Của ông, của Jenny, và có lẽ cả của tôi nữa. Tôi không nhớ gì ngoài một điều là lúc ấy thật ướt át.

Dù sao, sau mọi câu cầu chúc, Phil cũng bước vào xe bus. Chúng tôi chờ và vẫy tay chào ông cho đến khi chiếc xe đã khuất khỏi tầm mắt. Và khi đó, tôi nhận ra một thực tế tuyệt vời.

"Jenny, chúng ta đã chính thức kết hôn rồi."

"Vâng, giờ thì em đã là một mụ nạ dòng."

Chương XII

Nếu có một cụm từ nào diễn tả được cuộc sống hàng ngày của chúng tôi trong suốt quãng thời gian ba năm đầu, cụm từ đó phải là: "khổ như ăn mày". Hàng giây hàng phút, chúng tôi căng đầu nhức óc để bằng cách chết tiệt nào đó thu vén đủ tiền để làm những gì cần thiết phải làm. Thường là chúng tôi bị vỡ kế hoạch. Và chả có gì là lãng mạn trong chuyện này. Bạn có nhớ khổ thơ nổi tiếng trong trường thi Omar Khayyam? Bạn biết không, thơ ca phải đặt dưới củi lửa, bánh mì, rượu vang các thứ. Thay vào thơ, là quyển Scotts on trusts, và để xem cái viễn tượng đẹp đẽ đó so với sự tồn tại thơ mộng của tôi sẽ ra sao. A ha, thiên đường đấy chứ? Không, chả ra cái quái chi. Tất cả những gì tôi nghĩ, là cuốn sách đó giá bao nhiêu, có thể mua nó theo kiểu second-hand không? Và chúng tôi lấy đâu ra tiền để thanh toán các thứ bánh mì, rượu vang. Và rồi chúng tôi cuối cùng phải chạy vạy thế nào để trả lại các khoản nợ nần.

Cuộc sống đã đổi thay. Ngay cả những quyết định đơn giản nhất cũng phải đặt dưới sự phán xét thận trọng của một ủy ban ngân sách trong đầu.

- Nè, Oliver, tối nay đi xem Becket nhé.

- Tới ba đô lận đó.

- Ý anh là sao ?

- Ý anh là tốn một đô rưỡi cho anh và một đô rưỡi cho em.

- Nghĩa là đi hay không ?

- Không cái này mà cũng chẳng cái kia. Chỉ đơn giản là tốn ba đô.

Tuần trăng mật của chúng tôi diễn ra trên một chiếc thuyền buồm, cùng với hai mươi mốt đứa trẻ con. Tôi lái một chiếc thuyền hiệu Rhodes dài 36 feet từ 7 giờ sáng cho tới khi nào kiếm đủ số lượng hành khách, và Jenny trở thành một nhà tư vấn cho trẻ em. Đó là một nơi thuộc Câu lạc bộ thuyền Pequod ở cảng Dennis (cách không xa Hyanis), một tòa kiến trúc bao gồm một khách sạn to, một bến thuyền và vài chục căn nhà cho thuê. Trước một trong những túp nhà gỗ tí hon, tôi đóng đinh treo lên một tấm biển đầy ấn tượng: "Đây là nơi Oliver và Jenny ngủ, khi họ không làm tình". Tôi cho là đã có một sự tưởng thưởng cho hai đứa chúng tôi sau một ngày tỏ ra tốt bụng với các khách hàng nhỏ tuổi, vì chúng tôi nhờ cậy vào món tiền boa của chúng rất nhiều, đó là dù sao chúng tôi cũng tốt với nhau. Tôi chỉ đơn giản nói "tốt" vì tôi không đủ ngôn từ để diễn tả sự đáng yêu của Jenny và tình thương tôi dành cho nàng. Xin lỗi, ý tôi muốn là dành cho bà Jennifer Barrett.

Trước lúc chuyển đến Mũi Cape, chúng tôi tìm được một căn hộ cho thuê giá rẻ ở Bắc Cambridge, dù về mặt hành chánh, địa chỉ lại thuộc thị trấn Someville. Căn hộ ở tình trạng, như lời Jenny, "hoàn toàn không thể sửa sang". Trước đây, nó được thiết kế cho hai hộ gia đình, nhưng nay được tách thành bốn căn, giá cả quá mức chấp nhận dù gọi là cho thuê giá rẻ. Nhưng các sinh viên vừa tốt nghiệp còn làm được cái quái gì hơn ? Đây là một thị trường của bọn con buôn.

"Chà, Oliver, sao anh nghĩ Phòng cứu hỏa không chịu tới đây?"

"Có lẽ họ sợ phải đi vào bên trong" Tôi đáp.

"Em cũng vậy."

"Giờ đâu còn là Tháng Sáu" Tôi nói.

(Cuộc đối thoại này xảy ra vào tháng 9)

"Khi ấy em chưa lập gia đình. Với tư cách một bà vợ mà nói, em thấy ở đây chả có chút xíu an toàn nào."

"Thế em định làm gì với nó ?"

"Bảo với chồng em. Anh ấy có trách nhiệm coi sóc nó."

"Chà, chồng em chính là anh chứ ai nhỉ!"

"Thật vậy sao ? Hãy chứng minh điều đó."

"Bằng cách nào ?" Tôi hỏi, và thầm nhủ : Ồ, không được, ngay trên đường phố?

"Bế em lên ngưỡng cửa." Nàng đáp.

Okay. Tôi ôm nàng trong vòng tay và bế bổng nàng trèo lên năm bậc thang tới cửa vào.

"Sao anh dừng lại?" Nàng hỏi.

"Đây không phải là ngưỡng cửa sao?"

"Không phải, không phải."

"Anh thấy tên chúng ta kế chuông gọi cửa."

"Đây không phải là ngưỡng cửa chính. Leo lên tiếp đi, chàng gà tồ ạ."

Có tới 24 bậc thang để lên đến ngưỡng cửa chính của vợ chồng tôi, và tôi phải dừng lại ở chặng giữa đường để thở hào hển một hồi.

"Sao em nặng thế nhỉ?" Tôi hỏi nàng.

"Anh có nghĩ là em có thai không ?" Nàng đáp.

Điều này chẳng làm cho tôi thấy dễ thở hơn chút nào hết.

"Vậy sao?" Cuối cùng tôi cũng nói.

"Ha, em làm anh sợ hở?"

"Khô.. ông."

"Đừng có chối, công tử."

"Vâng. Chờ đó một giây, anh bế tiếp đây."

Tôi bế nàng đi hết chặng còn lại.

Đó là một trong những khoảnh khắc quý báu tôi có thể nhớ lại, mà từ "khổ như ăn mày" không thích hợp chút nào.

Cái danh hão thuộc dòng họ Barrett của tôi giúp tôi mua chịu được ở một cửa hàng thực phẩm, nơi không hề bán chịu cho bất cứ sinh viên nào khác. Và ở một nơi tôi ít mong chờ nhất, lại tạo thêm một bất lợi cho chúng tôi: trường tư thục Shady Lane, nơi Jenny sẽ đến dạy.

"Dĩ nhiên là lương ở trường Shady Lane không bằng các trường công." Cô Anne Miller Whitman, hiệu trưởng bảo vợ tôi, và để tạo hiệu quả, bà nói thêm, " Nhưng người nhà Barrett, dù sao, cũng đâu có lưu tâm đến khía cạnh này." Jenny cố đánh tan ảo tưởng của cô ta, nhưng tất cả những gì nàng nhận được, ngoài khoản lương đề nghị trước 3.500 đô một năm, là hai phút cười hố hố. Cô Whitman cứ tưởng Jenny giễu cợt khi bảo rằng hai vợ chồng nhà Barrett vẫn phải trả tiền thuê nhà như mọi người.

Khi Jenny thuật lại mọi chuyện cho tôi nghe, tôi cố tưởng tượng lại điều mà cô Whitman đã làm với Jenny: "Hô hô hô – chỉ có 3.500 đô " Sau đó, Jenny hỏi tôi có thể bỏ học ở trường luật, giúp đỡ nàng có thì giờ lấy thêm các chứng chỉ cần thiết để xin vào làm ở một trường công. Tôi suy nghĩ về toàn bộ hoàn cảnh lúc bấy giờ trong khoảng hai giây, để có một kết luận chính xác và cô đọng.

"Con khỉ !"

"Khá hùng biện đấy!" Vợ tôi nói.

"Anh phải nói gì đây, Jenny , "hô hô hô "?"

"Không, chỉ cần tập thích spaghetti."

Và tôi đã tập. Tôi đã tập để thích spaghetti, và Jenny học mọi kiểu chế biến có thể nghĩ ra để làm cho món mì Ý trở thành một món gì đó khác. Với tiền chúng tôi kiếm được trong kỳ nghỉ hè, lương của nàng, khoản kiếm thêm từ những buổi làm đêm ở bưu điện trong dịp lễ Giáng sinh của tôi, chúng tôi sống cũng tạm ổn. Nghĩa là, có rất nhiều bộ phim chúng tôi không xem (và nhiều buổi hòa nhạc nàng không xem), nhưng chúng tôi đã hòa hợp với nhau.

Dĩ nhiên là mọi chuyện rồi cũng kết thúc. Cuộc sống của hai chúng tôi có nhiều thay đổi. Chúng tôi vẫn ở Cambridge, và về lý thuyết, Jenny có thể quay trở lại chơi cùng ban nhạc của nàng. Nhưng không có thì giờ. Nàng từ trường Shady Lane trở về, kiệt sức, còn phải nấu nướng cho buổi cơm chiều (ăn tiệm là chuyện ngoài tầm tay). Đồng thời, lũ bạn bè của tôi khá hiểu biết để chúng tôi được yên thân. Có nghĩa là bọn chúng không mời mọc chúng tôi, để tôi khỏi phải mời mọc lại, hẳn là bạn hiểu tôi muốn nói gì.

Ngay cả các trận đấu bóng chúng tôi cũng bỏ qua.

Vì là thành viên của Câu lạc bộ Varsity, tôi được ngồi trong lô đặc biệt, Nhưng giá vé là 6 đô, cho cả hai là 12 đô.

"Không đâu" Jenny lý sự, "chỉ 6 đô thôi. Anh có thể đi một mình. Em đâu có biết gì bóng đá, trừ lời hò hét của khán giả: "Dập chúng nữa đi", thứ mà anh thích, thứ mà em muốn anh tiến hành!"

"Phiên tòa chấm dứt." Tôi đáp, nhân danh một đức ông chồng và một vị gia trưởng, "Ngoài ra, anh sẽ có thêm thì giờ để học."

Tuy vậy, tôi vẫn dành ra buổi chiều Thứ bảy, với chiếc radio sát bên tai, để nghe tiếng gầm hét của đám ủng hộ viên, đám người về mặt địa lý chỉ cách chỗ tôi chừng một dặm, nhưng giờ đã thuộc một thế giới khác hẳn thế giới của tôi.

Tôi đã dùng đặc quyền của mình tại Câu lạc bộ Varsity để kiếm vài chỗ ngồi trong trận ở Yale cho Robbie Wald, một anh bạn học luật. Khi Robbie rời nhà tôi, đầy lòng biết ơn, Jenny hỏi tôi có thể cho nàng biết ai được quyền ngồi ở lô của CLB Varsity, và một lần nữa tôi lặp lại với nàng rằng, đó là những người bất kể tuổi tác hay dáng vóc hay địa vị, đã vinh dự phục vụ cho trường Harvard trong thi đấu thể thao.

"Kể cả dưới nước?" Nàng hỏi.

"Vận động viên vẫn là vận động viên, dù là khô hay ướt."

"Trừ anh ra, Oliver" Nàng nói, "Anh đã bị đóng băng."

Tôi phớt lờ câu chuyện, cho rằng đó chỉ đơn giản là một câu đối đáp mang chút xúc động thoáng qua mà Jenny thường có, không muốn nghĩ nhiều hơn ám chỉ của nàng về truyền thống thể thao của Harvard. Ví dụ như một chi tiết nhỏ là dù cho sân vận động Chiến sỹ có sức chứa 45.000 người, mọi cựu vận động viên có thể ngồi ở lô đặc biệt. Tất cả. Già và trẻ. Ướt và khô - thậm chí bị đông cứng. Và có đơn giản là chỉ vì 6 đô mà tôi phải xa lánh sân vận động trong những chiều thứ Bảy?

Không; Nếu trong đầu nàng còn nghĩ điều gì khác nữa, tốt hơn tôi vẫn không nên đá động làm gì.

Chương XIII

Ông và Bà Oliver Barrett III

Hân hạnh được đón tiếp quý bạn

tại buổi tiệc mừng sinh nhật thứ sáu mươi

của Ông Barrett III.

Ngày Thứ bảy, 6 tháng 3

Lúc 7 giờ

Dover House, Ipswich, Massachusetts

Xin hồi âm.

"Thế nào?" Jenny hỏi.

"Em còn phải hỏi?" Tôi đáp. Tôi đang chìm trong đám sương trừu tượng của cuốn Nhà nước chống Percival, một tiền lệ pháp quan trọng của luật hình. Jenny phe phẩy tấm thiệp mời như để trêu tôi.

"Em nghĩ đã tới lúc rồi, Oliver" Nàng nói.

"Để làm gì ?"

"Anh biết rõ là làm gì," Nàng đáp, "Chả lẽ ông ấy phải bò lê tới đây sao ?"

Tôi tiếp tục công việc.

"Oliie, ông ấy đang muốn dàn hòa."

"Vớ vẩn, Jenny, địa chỉ trên phong bì do má anh ghi."

"Em nghĩ lúc nãy anh bảo anh không nhìn đến nó cơ mà." Nàng cao giọng kêu lên.

Okay. Tôi đã liếc nó lúc nãy. Có lẽ nó tự động lướt vào đầu tôi. Nói cho cùng, tôi đang nghiên cứu, và sắp sửa thi. Lẽ ra nàng đừng nên quấy rầy tôi.

"Oliie, nghĩ xem", nàng tiếp, giọng van nài khẩn khoản, "60 tuổi. Cuối cùng, đến lúc mà anh chịu sẵn lòng, thì chắc gì ông ấy còn sống để gặp anh."

Tôi bảo Jenny, với những lời lẽ đơn giản nhất, rằng sẽ không có cuộc trùng phùng nào cả, và nàng có chịu để cho tôi tiếp tục học hay không. Nàng lặng lẽ ngồi xuống, co người nép vào chân tôi. Dù nàng không lên tiếng nữa, tôi nhanh chóng nhận ra nàng đang nhìn tôi đăm đăm. Tôi ngẩng đầu lên.

"Một ngày nào đó, khi anh bị Oliver V chọc tức …" Nàng nói.

"Nó sẽ không được gọi là Oliver, chắc chắn như thế." Tôi quát lên. Nàng không hề cao giọng, dù trước nay, nàng vẫn làm thế khi tôi cao giọng :

"Nghe này, Oliie, dù mình đặt tên nó là Bozo gì đi nữa, thằng nhóc nhất định sẽ làm anh phật ý, vì anh là một vận động viên lớn của Harvard. Và trước khi nó học năm thứ nhất, anh hẳn phải vào Tòa thượng thẩm rồi!"

Tôi bảo nàng rằng con chúng tôi tuyệt đối không làm tôi phật ý. Nàng hỏi sao tôi có thể chắc chắn như thế. Tôi không thể đưa ra chứng cứ. Tôi muốn nói là, tôi chỉ đơn giản biết rằng con trai tôi sẽ không làm phật ý tôi, tôi không thể lý giải chính xác vì sao.

Jenny nhận xét :

"Ba anh cũng yêu anh, Oliver. Ông ấy yêu anh giống hệt như cách anh sẽ yêu Bozo. Nhưng họ Barrett chết tiệt nhà anh quá đỗi tự phụ và hiếu thắng. Cả đời ông ấy và anh cứ nghĩ là người này ghét người kia."

"Thế đối với em không phải vậy sao ?" Tôi cố pha trò.

"Vâng."

"Phiên tòa kết thúc!" Tôi nói, nhân danh một ông chồng và một vị gia trưởng. Ánh mắt tôi quay về quyển sách. Jenny đứng lên. Nhưng khi ấy nàng sực nhớ một điều :

"Còn vấn đề phúc đáp thì sao ?"

Tôi gợi ý rằng một sinh viên khoa nhạc Racliffe hẵn là có đủ khả năng viết một thư từ chối mà không cần tới một hướng dẫn chuyên môn nào.

"Nghe này, Oliver, có thể trong đời em có những khi nói dối hay trêu tức người khác. Nhưng em chưa bao giờ cố tình làm tổn thương bất cứ một ai. Em nghĩ là em không làm được."

Thật sự, vào lúc ấy, nàng đã làm tổn thương chính tôi, tôi nhã nhặn yêu cầu nàng giải quyết chuyện hồi âm bằng bất cứ cách nào nàng muốn, miễn sao nói được nội dung cơ bản của thông điệp, là chúng tôi sẽ không đến, trừ khi chạch đẻ ngọn đa. Rồi tôi lại quay về với quyển sách.

"Số điện thoại ?" Nàng dịu dàng hỏi tôi khi đến bên điện thoại.

"Em viết mấy chữ thôi không được sao?"

"Để em bớt căng thẳng chút đã. Điện thoại số mấy?"

Tôi bảo cho nàng biết, và ngay tức khắc trở lại việc nghiên cứu. Tôi không để ý nghe nàng. Nghĩa là tôi cố không nghe. Dù sao thì nàng đang ở cùng phòng.

"Ồ, chào ông." Tôi nghe nàng nói. Ông già Khốt đang nói với nàng ư ? Ông ấy không ở Washington sao? Một bài báo gần đây trên tờ New York Times viết như vậy mà. Đám báo chí chết tiệt thời buổi này đã xuống dốc quá rồi.

Bao lâu nữa nàng sẽ bảo là không?

Dù sao, Jenny đã mất khá nhiều thời gian hơn cần thiết để nói ra một từ đơn giản.

"Olliie ?"

Nàng che đầu ống nói lại.

"Oliie, có buộc phải từ chối không ?"

Tôi gật đầu, ra dấu đó là điều bắt buộc, tôi khoát tay, ra dấu nàng nên nhanh nhanh kết thúc cái chuyện khốn kiếp ấy đi.

"Tôi rất lấy làm tiếc," Nàng nói vào điện thoại, "Ý tôi là, chúng tôi rất tiếc, thưa ông…"

Chúng tôi! Nàng có cần phải lôi tôi vào vòng không? Sao nàng không đi thẳng vào vấn đề và gác máy?

"Oliver !"

Nàng lại che ống nói, và kêu to với tôi.

"Ông ấy bị thương, Oliver ! Anh có thể ngồi đấy mặc cho ba anh đổ máu sao ?"

Nếu nàng không quá xúc động như thế, tôi đã giải thích cho nàng nghe lần nữa, rằng đá không thể đổ máu, rằng nàng không nên đem mức độ tình cảm giữa cha con nàng với nhau ra để đo lường với chiều cao của đỉnh Rushmore. Nhưng nàng quá đỗi buồn rầu. Và điều này làm tôi cũng buồn lây.

"Oliver," Nàng nài nỉ, "Anh không thể nói dù chỉ một lời sao?"

Với ông ta ? – Chắc là nàng mất trí rồi.

"Ý em là, chỉ cần một tiếng hello, được chứ ?"

Nàng đưa điện thoại cho tôi, cố không bật khóc.

"Anh không bao giờ nói với ông ấy. Không bao giờ ." Tôi nói, tuyệt đối lạnh lùng.

Và bấy giờ nàng khóc. Không thành tiếng, nhưng nuớc mắt chảy dài trên má. Và nàng van nài.

"Hãy vì em, Oliver. Em chưa bao giờ yêu cầu anh điều gì cả. Hãy vui lòng."

Ba người chúng tôi. Ba người chúng tôi đứng đó (tôi tưởng như ba tôi cũng đang đứng đó) để chờ đợi một cái gì. Cái gì ? Cho tôi ?

Tôi không thể.

Jenny có hiểu nàng đã yêu cầu một điều bất khả thi? Lẽ ra tôi đã làm một điều gì hoàn toàn khác hẳn?

Khi tôi nhìn xuống sàn nhà, lắc đầu kiên quyết khước từ, và vô cùng khó chịu, Jenny nói với tôi bằng những tiếng thì thầm đầy phẫn nộ mà tôi chưa bao giờ nghe thấy :

"Anh là một gã không có trái tim" Nàng nói , rồi kết thúc cuộc điện ddàm với cha tôi:

"Ông Barrett. Oliver muốn ông biết theo cái kiểu riêng đặc biệt của anh ấy, rằng…"

Nàng ngưng lại để thở. Nàng đang nức nở, vì vậy đó không phải là chuyện dễ dàng. Tôi quá ngạc nhiên để có thể làm bất cứ chuyện gì ngoài việc chờ đợi câu kết thúc.

"Oliver rất yêu ông." Nàng kết thúc, và vội vàng gác máy.

Tôi hoàn toàn không định hướng được hành động của mình trong một giây kế tiếp. Tôi cầu cho mình tạm thời mất trí. Đúng hơn, tôi không cầu gì cả. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho những gì tôi đã làm.

Tôi giật chiếc thoại khỏi tay nàng, và khỏi ổ quay, ném nó vào một góc phòng.

"Khốn kiếp thật, Jenny. Sao cô không biến khỏi đời tôi cho rảnh mắt !"

Tôi đứng lặng người, hồng hộc thở như đột nhiên biến thành một con dã thú. Lạy Chúa. Chuyện chết tiệt gì đã xảy ra cho tôi vậy? Tôi quay lại phía Jenny.

Nhưng nàng đã đi rồi.

Nàng đã đi xa hẳn không biết từ lúc nào, vì tôi thậm chí không nghe tiếng bước chân của nàng trên các bậc thang. Chúa ơi, chắc là nàng đã bỏ chạy lúc tôi vồ lấy chiếc điện thoại. Chiếc áo khoác và khăn quàng cổ của nàng vẫn còn đây. Nỗi đau vì không biết phải làm gì càng gia tăng vì nỗi đau khi nhận thức ra những gì tôi đã làm.

Tôi tìm kiếm khắp nơi.

Trong thư viện trường Luật, tôi lách vào những hàng ghế đầy những sinh viên đang học miệt mài, mỏi mắt dò tìm. Đi qua đi lại, đi tới đi lui, ít nhất cả chục lần. Dù tôi không thốt một tiếng nào, tôi biết mắt mình đang quắc lên sòng sọc, nét mặt mình hung dữ như thú đói mồi. Tôi đang quậy tung lên cái nơi khốn kiếp này. Nhưng có hề gì chứ ?

Nhưng Jenny không ở đấy.

Rồi tôi đi qua Khu công cộng Harkness, nhà khách, quán café. Rồi chạy điên cuồng sang Hội trường Agassiz bên trường Radcliffe. Không nơi nào có. Giờ thì tôi chạy khắp mọi nơi, những bước chân cố nhanh lên, nhanh mãi, như nhịp đập trái tim tôi.

Hay ở Paine Hall ? (cái tên nghe sao mà ddau khổ!). Ở tầng dưới là phòng tập piano. Tôi biết mỗi khi Jenny buồn giận, nàng hay gõ phím như người ta giã gạo. Phải ở đó không? Nhưng nàng đã sợ chết khiếp vì tôi, sao có thể ngồi đàn?

Tôi đi như một gã điên khùng dọc hành lang, dọc các căn phòng tập, ở cả hai phía. Những khúc nhạc của Mozart, Batok, Bach, Brahms vẳng ra, trộn lẫn thành một âm thanh kỳ quái và kinh khủng.

Jenny hẳn phải tới đây!

Bản năng thúc đẩy tôi dừng lại trước một cánh cửa khi tôi nghe tiếng gõ đàn dồn dập một dạo khúc của Chopin. Tôi đứng yên một lúc. Tiếng đàn rất ầm ĩ, ngừng, rồi lặp lại, và nhiều lỗi. Trong một lần ngưng, tôi nghe tiếng một cô gái lầm bầm : "Con khỉ !". Chắc chắn là Jenny rồi. Tôi xô bật cánh cửa bước vào.

Một nữ sinh Racliffe ngồi bên chiếc ddàn ngẩng nhìn tôi. Một con nhỏ hippie xấu xí, vai to, đang bực mình vì sự xâm nhập của tôi.

"Có chuyện gì vậy, ông anh?" Cô ta hỏi.

"Tệ ơi là tệ." Tôi đáp, và đóng cửa lại.

Và tôi thử tới công viên. Quán Pamplona, Cổng vòm của Tommy, cả Hayes Bick. Đó là những nơi mấy tay nghệ sĩ hay lui tới. Chẳng có gì.

Jenny đã đi đâu ?

Lúc ấy, ga xe điện ngầm đã đóng cửa, nhưng nếu nàng đi thẳng qua ngõ công viên, nàng có thể đón tàu đi Boston. Tôi vọt tới trạm xe buýt.

Lúc tôi nhét mấy đồng xu vào máy điện thoại, đã gần một giờ khuya. Tôi đang ở trong một phòng điện thoại ở công viên Harvard.

"Hello, Phil ?"

"Hả, ai đó ?" Ông hỏi lại, giọng ngái ngủ.

"Con đây, Oliver đây."

"Oliver !" Giọng ông có vẻ lo sợ, "Jenny có bị gì không?" Ông hỏi nhanh. Nếu ông hỏi tôi, nghĩa là nàng không ở với ông.

"À , không, không đâu Phil."

"Tạ ơn Chúa ! Con khỏe không, Oliver?"

"Tốt, Phil. Rất tốt. Phil, Jenny có thường gọi cho ba không ?"

"Không đủ, khốn kiếp thật." Ông đáp, giọng nhẫn nhục lạ lùng.

"Ý ba là sao Phil ?"

"Lạy Chúa, nó phải gọi thường xuyên hơn mới phải. Ba đâu phải là người lạ."

Nếu bạn biết thế nào là vừa an ủi, vừa đau đớn cùng một lúc, thì tôi đang như vậy đó.

"Nó có ở đó không ?" Ông hỏi tôi.

"Dạ ?"

"Đưa máy cho nó. Ta sẽ trách mắng chính nó."

"Không được, Phil."

"Ồ, nó ngủ rồi hả. Nếu nó ngủ, thôi đừng quấy rầy nó vậy."

"Dạ." Tôi đáp.

"Nghe này, chàng trai."

"Dạ ?"

"Bộ Cranston xa xôi lắm hay sao mà con không ghé được vào một chiều chủ nhật nào đó, hả ? Hay ba phải lên chỗ các con, Oliver ?"

"Ồ, không, Phil, tụi con sẽ xuống chỗ ba."

"Chừng nào ?"

"Một Chủ nhật nào đó."

"Đừng có nói chữ "nào đó" với ba. Một đứa con ngoan không nói "ngày nào đó". Nó nói "này". Chủ nhật này nhé, Oliver?"

"Dạ vâng, thưa ba. Chủ nhật này."

"Bốn giờ nhé. Nhưng nhớ lái cẩn thận đấy. Được chứ?"

"Dạ được."

"Và lần sau gọi cho đúng giờ giấc đó, đồ chết tiệt!"

Ông gác máy.

Tôi đứng lặng, cô đơn lạc lõng, chìm trong bóng tối công viên, không biết phải đi đâu, phải làm gì kế tiếp. Một gã da màu đi tới gần, và hỏi tôi có cần gì không. Tôi đáp, lòng trống vắng: "Không, cám ơn ông."

Giờ đây, tôi không chạy nữa. Vội gì đâu khi quay trở về ngôi nhà trống rỗng? Đêm đã sâu lắm, và tôi lạnh cóng người (dù trời ấm áp, xin hãy tin tôi). Khi cách ngôi nhà khoảng vài chục thước, tôi cho là tôi trông thấy có ai đó đang ngồi trên đầu cầu thang. Chắc là mắt tôi đã đánh lừa tôi, vì cái hình dáng đó không hề động đậy.

Nhưng đó là Jenny.

Nàng ngồi đó, trên đầu cầu thang.

Tôi mệt đến không còn hoảng sợ, và thấy lòng nhẹ nhỏm hẳn đi đến không nói nên lời.

Thâm tâm tôi mong nàng có một thứ đồ vật gì đó để đập vào tôi.

"Jen ?"

"Ollie ?"

Cả hai đứa chúng tôi nói rất khẽ khàng. Không thể viết được thêm một cái gì cảm động.

"Em bỏ quên chìa khóa."

Tôi đứng dưới chân cầu thang, không dám hỏi nàng đã chờ ở đó bao lâu, chỉ biết mình đã mắc sai lầm kinh khủng với nàng.

"Jenny, anh xin lỗi…"

"Thôi anh !" Nàng cắt ngang lời xin lỗi của tôi, rồi lặng lẽ nói tiếp, " Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói mình hối tiếc."

Tôi trèo lên các bậc thang, tới chỗ nàng ngồi.

"Em muốn đi ngủ, Oliver."

"Okay."

Chúng tôi đi lên nhà. Khi cởi đồ, nàng nhìn tôi, khuyến khích :

"Em muốn cái em đã nói, Oliver. "

Và đó là tất cả.

Chương XIV

Lá thư tới vào tháng Bảy.

Nó được gửi tới cảng Dennis từ Cambridge, vì thế tôi đoán là thư đến chỉ trong vòng một hai ngày. Tôi vọt ra chỗ Jenny đang giám sát bọn học trò của nàng chơi đá bóng, và gọi nàng với giọng ngọt ngào nhất :

"Ta đi đi em."

"Hả ?"

"Ta đi đi." Tôi lặp lại, đầy vẻ quyền uy, nên nàng đi theo khi tôi bước về phiá bờ nước.

"Có tin gì hả Oliver ? Nói cho em nghe đi nào."

Tôi dẫn nàng đi tiếp vào chỗ đậu thuyền.

"Lên thuyền đi, Jenny." Tôi ra lệnh, chỉ về hướng chiếc thuyền với tay đang cầm lá thư, mà tới khi đó nàng vẫn chưa để ý tới.

"Oliver, em còn phải coi lũ trẻ." Nàng phản đối, ngay cả lúc ngoan ngoãn bước lên thuyền.

"Oliver, anh nói xem có chuyện gì vậy?"

Chúng tôi đã cách bờ vài trăm thước.

"Anh có chuyện này muốn nói với em."

"Anh không thể nói trên đất liền sao?" Nàng hét lớn.

"Không, chết tiệt vậy đó." Tôi cũng hét lớn ( Không có ai giận hờn chi cả, nhưng gió mạnh, nên chúng tôi phải hét lên mới nghe rõ lời nhau ).

"Anh muốn ở một mình với em. Hãy nhìn xem anh có cái gì này."

Tôi giơ phong thư ra cho nàng. Ngay tức khắc, nàng đọc ra địa chỉ nơi gửi.

"Ồ, trường luật Harvard. Anh bị đuổi học à ?"

"Đoán lại đi, em bé lạc quan" Tôi hét.

"Anh đứng nhất lớp." Nàng đoán.

"Không hoàn toàn như vậy. Thứ ba."

"Ồ, chỉ thứ ba thôi ?"

"Nghe này, thế nghĩa là anh vẫn được nêu tên trong Law Review."

Nàng vẫn ngồi im, vẻ thản nhiên.

"Lạy Chúa, Jenny" Tôi van vỉ. "Hãy nói gì đi."

"Không, nếu em chưa nhìn thấy con số 1 hoặc 2."

Tôi nhìn nàng, hy vọng nàng sẽ mỉm cười, một nụ cười nàng đang cố nén lại, tôi biết.

"Cười lên nào, Jenny" Tôi cầu khẩn.

"Em đi đây, chào nhé." Nàng nói, và ngay lập tức nhảy xuống nước. Tôi nhảy theo nàng, điều tôi biết kế đó là cả hai bám vào lườn chiếc thuyền và cười như điên dại.

"Nào, leo lên thuyền đi." Tôi nói, ranh mảnh nhìn nàng.

"Đừng vội huênh hoang, hạng ba vẫn chỉ là hạng ba thôi."

"Nghe đây, cô ả." Tôi nói.

"Gì vậy, chàng ngốc ?"

"Anh nợ ơn em rất nhiều." Tôi nói chân thành.

"Không đúng, chàng ngốc ạ, không đúng."

"Không đúng ?" Tôi hỏi lại, hơi ngạc nhiên.

"Anh nợ em mọi thứ." Nàng nói.

Đêm hôm đó, chúng tôi bỏ ra 23 đô cho một buổi tiệc tôm hùm tại một quán độc đáo ở Yarmouth. Jenny vẫn bảo lưu phán quyết của nàng cho tới lúc nào nàng biết được ai là người, như lời nàng, đã "đánh bại" tôi.

Nói nghe hơi ngớ ngẩn, tôi yêu nàng đến nỗi khi vừa về tới Cambridge, tôi vội tìm xem hai tay đứng đầu là ai. Tôi thấy khuây khỏa khi phát hiện ra người đạt hạng nhất là Erwin Blasband, Khoá ’64 trường City College, một kiểu sinh viên mọt sách, đeo kính cận, không thể thao chút nào và nhất là không phải mẫu thần tượng của Jenny. Kẻ đạt hạng nhì là Bella Landau, Khoá ’64 trường Bryn Mawr, một cô gái. Điều này thật là tuyệt, nhất là Bella Landau trông khô như ngói (như phần đông các quý cô học luật), và tôi có thể kể cho Jenny nghe một cách chi tiết về những gì xảy ra trong buổi tối ở Gannett House, tòa lầu của tờ Law Review. Lạy Chúa, đó là những đêm về muộn. Tôi đâu có hay về vào lúc hai hoặc ba giờ sáng. Sáu đêm, để biên tập tờ Law Review, tôi là tác giả của một bài báo (Hỗ trợ pháp lý cho dân nghèo thành thị – Một đề tài nghiên cứu tại quận Roxbury- thực hiện bởi Oliver Barrett IV, 3/1966, trang 861-908 ).

"Một bài viết khá. Thực sự rất khá."

Đó là tất cả những gì Joel Fleishman, tổng biên tập, lặp đi lặp lại. Thực tình, tôi mong chờ một lời đánh giá cụ thể hơn ở người sẽ là thư ký cho Thẩm phán Doughlas vào năm sau, nhưng đó là những gì anh ta nói khi đang xem lại bản thảo hoàn chỉnh của tôi. Chúa ơi, Jenny đã bảo tôi, nó "sắc sảo, thông minh, và thực hay ". Chả lẽ Fleishman không theo kịp ?

"Fleisman nói đó là một bài khá, Jenny."

"Lạy Chúa, em chờ đến giờ này để nghe chỉ bao nhiêu đó thôi ư ? Ông ấy có phê bình về mặt khảo cứu, hay về văn phong gì khác không ?"

"Không, Jen, anh ta chỉ nói nó khá."

"Vậy anh làm gì mà về muộn thế ?"

Tôi nháy mắt với nàng.

"Anh có vài chuyện phải làm với Bella Landau."

"Ồ." Nàng nói. Tôi không xác định được giọng nàng biểu thị điều gì.

"Em có ghen không ?"

"Không, em có đôi chân đẹp hơn."

"Nhưng em có viết được một bài báo không ?"

"Cô ta có làm được món lasana không"?

"Vâng," Tôi nói, " Thực sự, hồi nãy ở Gannett House trông cô ta lôi cuốn lắm. Mọi người đều bảo chân cô ta cũng đẹp không kém của em đâu."

Jenny gật đầu : " Em sẽ đánh cuộc."

"Thế em bảo sao nào ?"

"Bella Landau có trả tiền thuê nhà cho anh không?"

"Chết tiệt, chả lẽ anh không thể thôi thuê khi anh đã khấm khá ?"

"Bởi vì, anh ạ," Vợ yêu của tôi đáp, "Anh chưa bao giờ khấm khá cả.

Chương XV

Chúng tôi hoàn thành khoá học theo thứ tự đó.

Nghĩa là, tôi, Erwin và Bella là ba sinh viên đỗ đầu của Khoa luật. Thời vẻ vang thắng lợi đã đến. Nào phỏng vấn. Nào Thư đề nghị. Nào những lời nài nỉ. Hàng đống hàng khối việc làm đang chào mời hứa hẹn. Như thể ở bất cứ phía nào tôi nhìn tới cũng đều có ai đó đang vẫy lá cờ với hàng chữ: " Barrett, hãy làm việc cho chúng tôi !"

Nhưng tôi chỉ hướng về những lá cờ xanh. Không phải là tôi ngu ngốc, nhưng tôi loại trừ các chỗ làm nhiều danh vọng, ví dụ như thư ký tòa án, hay một công sở, như Sở Tư pháp. Tôi ưu tiên cho một công việc kiếm nhiều tiền, để sớm tẩy sạch cái cụm từ "khổ như ăn mày" khỏi vốn từ vựng chết tiệt của chúng tôi.

Dù chỉ đứng thứ ba, tôi có những thuận lợi bất ngờ trong việc cạnh tranh một chỗ làm, vì trong số top ten tốt nghiệp luật, chỉ có mình tôi không phải là người Do Thái. Lạy Chúa, có đến một tá công ty rối rít mong một tay người Anglo Saxson chính gốc. Và hãy xem lại trường hợp của tôi : Law Review, All Ivy, Harvard, và còn nữa, bạn biết rồi đó. Hàng ddàn người đang tranh nhau để có tên và con số của tôi trong danh sách nhân viên của họ. Tôi thấy mình như một em bé được nưng niu chiều chuộng, và tôi yêu những giây phút ấy.

Có một thư mời đặc biệt đến từ một công ty ở Los Angeles. Người tuyển dụng, Mr ___ viết cho tôi : " Bé nhà Barrett, ở địa hạt chúng tôi, lúc nào cũng có cái đó ! Đêm hay ngày. Thậm chí, chúng tôi có thể yêu cầu mang nó đến văn phòng."

Không phải chúng tôi thích ở California, nhưng tôi muốn biết đích xác Mr ___. muốn trao đổi với tôi về vấn đề gì. Tôi và Jenny đã đến Los Angeles với nhiều hăm hở, nhưng ở đấy dường như họ không hăm hở lắm. (Cuối cùng, tôi gạt Mr___ ra sau lưng khi bảo ông ta tôi cóc cần quan tâm đến "cái đó" tí nào. Trông ông ta tiu nghỉu như gà bị cắt tiết.)

Thực sự, chúng tôi quyết định sẽ ở East coast. Chúng tôi vẫn còn nhiều lời mời hấp dẫn khác từ Boston, New York và Washington. Jenny cho là về thủ đô có thể tốt hơn cho tôi (Anh có thể vào Nhà trắng, Oliver), nhưng tôi nghiêng về phía New York. Và thế là, với lời chúc lành của nàng, cuối cùng tôi nhận lời với công ty của Jonas và Marsh, một công ty nhiều uy tín (Marsh là một cựu luật sư trưởng), và có một định hướng rất dân chủ (Anh có thể làm việc tốt và kiếm nhiều tiền ngay – Jenny nói). Họ cũng rất trọng vọng tôi. Ông già Jonas đã lên Boston, mời chúng tôi đi ăn tối ở Pier Four, và ngày hôm sau còn gửi hoa tặng Jenny nữa.

Trong khoảng một tuần, Jenny cứ ca hát véo von mấy chữ "Jonas, Marsh và Barrett". Tôi bảo nàng đừng vội hí hửng thế, nàng đáp lại là tôi cũng đang hí hửng đấy thôi, vì có lẽ trong đầu tôi cũng đang ca hát những giọng điệu tựa như nàng. Bạn thấy đâu cần tôi phải nói ra là nàng nói đúng, phải không ?

Cho tôi lưu ý bạn, rằng Jonas and Marsh trả cho Oliver Barrett IV khoản lương 11.800 USD, cao nhất so với các bạn tốt nghiệp cùng khóa của tôi.

Thế nhưng bạn biết, về mặt học thuật, tôi chỉ đứng thứ ba.

Chương XVI

ĐỔI ĐỊA CHỈ

Kề từ ngày 1/7/1967

Ông bà Oliver Barrett IV

Dời về số 263 Khu Đông Đường 63rd

New York, NY 10021

"Nghe có vẻ trưởng giả học làm sang quá." Jenny phàn nàn.

"Đúng thế, chúng ta là trưởng giả học làm sang mà." Tôi bảo.

Sự kiện chi phí hàng tháng cho chiếc xe mới của tôi xuýt xoát với tiền thuê toàn căn hộ ở Cambridge càng làm tăng cảm giác thắng lợi của tôi. Công ty Jonas & Marsh chỉ cách chỗ tôi 10 phút đi bộ (hay nói chính xác hơn là đi khệnh khạng), và các cửa hiệu sang trọng như Bonwitt's vv…cũng cách xa nhà tôi từng ấy. Tôi khăng khăng bảo vợ tôi mở tài khoản và bắt đầu tiêu xài ngay lập tức.

"Vì sao vậy, Oliver ?"

"Vì anh muốn được tôn trọng, Jenny."

Tôi gia nhập câu lạc bộ Harvard ở New York theo đề nghị của Raymon Straton, vừa mới quay trở về cuộc sống dân sự sau khi đã bắn vài phát súng vào những tay VC (Tao không chắc đó có phải là VC không nữa. Tao nghe tiếng động, và tao xả súng vào bụi rậm- Hắn kể) Ray và tôi cùng chơi squash it nhất ba lần mỗi tuần, và tôi tự nhủ sẽ dành ra ba năm để đạt chức vô địch câu lạc bộ. Không hiểu chỉ đơn giản vì tôi lại lê la trên lãnh địa Harvard, hay là vì lời đồn đại về những thành công tôi đạt được sau khi ra trường, lũ bạn bè tôi một lần nữa lại tề tựu về. (Tôi không hề khoe khoang về lương tháng đâu, thật đấy). Chúng tôi dọn tới vào giữa mùa hè (Tôi phải dự một khóa tập huấn để thi lấy chứng chỉ luật sư ở New York) và lá thư mời đầu tiên là rủ chúng tôi đi chơi cuối tuần.

"Thôi đi, Oliver. Em không muốn phí hai ngày với lũ bạn bè thô lỗ ấy đâu."

"Được rồi, nhưng anh phải nói sao với tụi nó đây Jen?"

"Bảo họ là em đang có mang."

"Thật hả ?"

"Không, nhưng nếu mình ở nhà thì có thể lắm chứ."

Chúng tôi đã chọn được một cái tên. Có nghĩa là, cuối cùng, tôi đã được sự đồng ý của Jenny.

"Nè, em không cười chứ ?" Tôi hỏi nàng khi thảo luận chuyện này lần đầu tiên. Lúc đó, nàng đang đứng trong bếp (một căn phòng với màu vàng chủ đạo, và thậm chí có cả một cái máy rửa chén).

"Cái gì ?" Nàng vừa hỏi, vừa tiếp tục xắt cà chua.

"Anh thích cái tên Bozo thật đó."

"Anh nói nghiêm chỉnh chứ ?"

"Vâng, thật mà."

"Anh tính đặt tên con là Bozo ?" Nàng lặp lại câu hỏi.

"Vâng, thật đấy, Jenny. Đó là một cái tên siêu hạng đấy."

"Bozo Barrett." Nàng lặp lại, thử đo lường tầm cỡ cái tên.

"Chà, nó sẽ là một thằng nhóc ngon lành đó." Tôi nói tiếp, tự củng cố niềm tin của mình với từng từ một. "Bozo Barrett, một cầu thủ tranh bóng cừ khôi của đội All Ivy trường Harvard."

"Vâng, nhưng mà, anh à," Nàng hỏi, "giả sử, chỉ giả sử thôi, thằng nhóc không thích hợp thì sao?"

"Không thể có chuyện đó đâu em, gien của tụi mình tốt lắm mà. Thật đó." Tôi nói, chân thành. Cái vụ Bozo này đã trở thành giấc mơ ban ngày thường trực của tôi những lúc tôi đi bộ một cách tự hào đến nơi làm việc.

Tôi nhắc lại vấn đề vào bữa ăn tối. Chúng tôi đã mua mấy món đồ sứ Đan Mạch thật tuyệt.

"Bozo sẽ là một tay bự xự và chơi thể thao ra trò đấy." Tôi bảo nàng. "Nếu mà nó có đôi bàn tay giống em, mình sẽ cho nó chơi vị trí hậu vệ."

Nàng chỉ mỉm một nụ cười nhiều ẩn ý, chắc chắn là đang tìm kiếm một lý lẽ gì đó để dập tắt viễn tượng tươi sáng của tôi. Nhưng vì không tìm ra một nhận xét thật sự thuyết phục, nên nàng chỉ cắt chiếc bánh và đưa cho tôi một miếng. Rồi tiếp tục nghe tôi vẽ vời.

"Hãy nghĩ mà xem, Jenny," Tôi nói tiếp, miệng còn đầy bánh, "Một thằng nhóc cân nặng một trăm lẻ tám ký lô!"

"Một trăm lẻ tám ký à? Gien chúng mình chả đủ để bảo đảm chuyện đó đâu anh."

"Mình sẽ bồi dưỡng nó, Jenny. Thức ăn giàu đạm, các thứ đồ bổ, cả một khẩu phần bổ sung nữa."

"Ờ, thế giả dụ nó không ăn thì sao anh?"

"Nó phải ăn. Mẹ kiếp!" Tôi đáp, hơi nản lòng vì thằng bé chẳng bao lâu nữa sẽ cùng ngồi chung bàn ăn với chúng tôi, có thể chả tích cực hợp tác trong kế hoạch của tôi, nhằm làm cho nó thành nhà vô địch thể thao, tí xíu nào- "Nó phải ăn, không thì anh đập vỡ mặt nó ra!"

Ngay lúc ấy, Jenny nhìn thẳng vào mắt tôi, mỉm cười:

"Thế nếu nó nặng một tạ mốt, anh vẫn đập chứ ?"

"Ồ!"- Tôi hơi xìu xuống, rồi lấy lại bình tĩnh ngay, "nhưng nó không thể nặng như vậy ngay lập tức!"

"Phải, phải." Nàng nói, vung vẩy chiếc muỗng về phía tôi, "Nhưng đến lúc ấy, công tử ạ, bắt đầu co chân chạy là vừa đấy !" Rồi nàng phá ra cười .

Thật khôi hài. Trong lúc nàng đang cười ngặt nghẽo, tôi đã nhìn thấy viễn cảnh một thằng nhóc nặng gần một tạ mốt mặc tả lót, vừa rượt theo tôi ở Công viên Central Park, vừa gầm lên : " Ông phải cư xử tốt với mẹ tôi nghe chưa, công tử!" Chúa ơi, hy vọng là Jenny sẽ ngăn Bozo lại, không thì chắc tôi tiêu tùng.

Chương XVII

Có một em bé không phải là chuyện dễ dàng.

Tôi muốn nói, có một nỗi đau đối với những kẻ mà năm đầu tiên trong đời sống gia đình cố làm sao để tránh cho người vợ mang thai (khi tôi khởi sự, tôi cũng mang bao phòng ngừa) rồi thay đổi hoàn toàn ý định của mình và bị ám ảnh bởi một lo âu ngược lại.

Vâng, điều này có khả năng trở thành một sự ám ảnh. Và nó có thể tước đoạt đi những khía cạnh đẹp đẽ nhất của niềm hạnh phúc lứa đôi, đó là sự tự nhiên và không gò bó. Nghĩa là, phải "lập chương trình" cho ý nghĩ của bạn ("lập chương trình" đúng là một từ không hay ho gì cả, vì nó gợi cho người ta liên tưởng đến một cỗ máy nào đó) – Cái sự vụ ấn định chương trình cho ý nghĩ về hành vi yêu đương theo những nguyên tắc, những thứ lịch, những kế hoạch (ví dụ như : "Sáng mai có lẽ tốt hơn đấy, Oliver") là cội nguồn của vô số điều bất tiện, đáng ghét và cuối cùng là sự kinh hoàng.

Bởi vì, khi bạn thấy rằng những kiến thức học lóm đâu đó và các cố gắng về thể chất thông thường không đạt được chút kết quả nào trong việc sinh con đẻ cái, đầu óc bạn sẽ chứa toàn những ý nghĩ ảm đạm buồn rầu.

"Tôi chắc là cậu hiểu, Oliver, rằng việc vô sinh và khả năng tình dục không có liên quan gì với nhau cả" – Lời của bác sĩ Mortimer Sheppard trong cuộc tư vấn đầu tiên, khi tôi và Jenny cuối cùng quyết định là cần phải có sự tư vấn của một chuyên gia.

"Anh ấy hiểu mà, bác sĩ " – Jenny đáp thay cho tôi, biết rằng ý niệm về việc vô sinh – về khả năng có thể bị vô sinh của tôi, đối với tôi chẳng khác gì bị hủy diệt, dù tôi chưa bao giờ nói với nàng tí gì về chuyện này. Phải chăng, qua giọng nói của nàng, Jenny thậm chí còn mong mỏi rằng nếu như khám phá ra một sự thiểu năng nào đó, thì đó là do ở bản thân nàng?

Nhưng vị bác sĩ đã đơn giản lật ngửa bài với chúng tôi, bảo cho chúng tôi biết điều xấu nhất, trước khi tiếp tục nói rằng vẫn còn một khả năng to lớn là cả hai đứa chúng tôi vẫn hoàn hảo, rằng có thể chẳng bao lâu chúng tôi sẽ trở thành những bố mẹ đầy ắp tự hào. Nhưng dĩ nhiên chúng tôi phải trải qua một loạt xét nghiệm, hoàn toàn về thể chất. Chỉ là một số công việc mà thôi. (Tôi không muốn lặp lại chi tiết không có gì thú vị về những cuộc xét nghiệm này)

Chúng tôi tiến hành việc xét nghiệm vào một ngày Thứ hai. Jenny trong ngày, còn tôi thì sau giờ làm việc (Tôi hoàn toàn mải mê với thế giới pháp lý của mình). Bác sĩ Sheppard gọi Jenny tái khám vào Thứ sáu, bảo rằng cô y tá của ông nghỉ việc, và ông muốn kiểm tra lại một vài thứ. Khi Jenny nói với tôi về cuộc tái khám, tôi bắt đầu ngờ rằng có lẽ ông đã phát hiện sự thiểu năng ở nàng. Tôi nghĩ nàng cũng ngờ như vậy. Việc cô y tá vắng chỉ là một cái cớ cũ rích.

Khi bác sĩ Sheppard gọi điện thoại tới công ty cho tôi, tôi gần như tin chắc. Ông bảo tôi nên ghé qua phòng khám bệnh của ông trên đường về. Khi tôi nghe thấy đó không phải là một cuộc đối thoại tay ba ("Tôi đã nói chuyện với bà Barrett vào hồi sớm nay"), sự ngờ vực của tôi đã được xác nhận. Jenny không thể sinh con. Dù sao, đừng tuyệt đối hóa điều này, Oliver ơi; hãy nhớ rằng bác sĩ đã nói về những thứ như giải phẫu gì đó. Nhưng tôi không còn tập trung tư tưởng được, và thật là điên nếu phải chờ cho đến năm giờ chiều. Tôi gọi lại cho ông và hỏi ông có thể tiếp tôi vào đầu giờ chiều được không. Ông ta bảo được.

"Do lỗi ở ai, ông có biết không ? " Tôi hỏi, không chút màu mè vòng vo.

"Thật tình, tôi không thể nói là "lỗi", Oliver" Ông ta đáp.

"Được rồi, vậy thì ông biết ai trong chúng tôi là người thiểu chức năng ?

"Vâng, là Jenny "

Ít nhiều, tôi cũng đã chuẩn bị tư tưởng, nhưng sự phán quyết của vị bác sĩ vẫn làm tôi choáng váng. Ông ta không nói gì thêm, nên tôi cho là ông ta muốn tôi nói ra một vài lời gì đó.

"Được thôi, chúng tôi sẽ xin con nuôi. Ý tôi là, vấn đề quan trọng là chúng tôi yêu nhau, phải không ? "

Và ông ta đã báo cho tôi biết.

"Oliver, Vấn đề nghiêm trọng hơn thế nhiều. Jenny đau nặng lắm."

"Xin ông nói rõ đau nặng là sao ạ ? "

"Cô ấy sắp chết "

"Không thể được" - Tôi đáp.

Và tôi chờ ông bảo với tôi, đó chỉ là một lời đùa cợt.

"Cô ấy sắp chết, Oliver. Tôi rất tiếc phải nói điều này với anh."

Tôi nhất quyết là ông ta đã phạm sai lầm – có thể là cái cô y tá điên rồ ấy lại khóa trái cửa phòng và đưa lộn cho ông ta hình chụp X quang hay thứ gì đại loại. Ông ta lặp lại với vẻ trắc ẩn, rằng việc xét nghiệm máu của Jenny đã tiến hành tới ba lần. Tuyệt đối không thể có sai lầm trong chẩn đoán. Dĩ nhiên ông ta có thể giới thiệu chúng tôi- tôi và Jenny- tới một bác sĩ chuyên khoa huyết học. Thật tình, ông ta muốn đề nghị…

Tôi khoát tay cắt ngang lời ông ta. Tôi muốn yên tĩnh trong giây lát. Cần yên tĩnh cho mọi thứ lắng dịu lại trong tôi. Và tôi chợt nảy ra một ý nghĩ.

"Ông đã nói gì với Jenny, bác sĩ ?"

"Rằng cả hai đều bình thường "

"Cô ấy tin chứ ?"

"Tôi cho là có. "

"Vậy chừng nào chúng ta có thể nói với cô ấy ? "

"Chuyện ấy bây giờ tùy ở anh."

Tùy ở tôi ! Lạy Chúa, tôi bây giờ hầu như không thể thở được.

Vị bác sĩ giải thích rằng liệu pháp cho những ca bệnh bạch cầu như Jenny chỉ đơn giản là xoa dịu – có thể làm giảm đau đớn, có thể kéo dài thêm một thời gian, nhưng vô phương cứu chữa. Vì vậy, bây giờ vấn đề là tùy ở nơi tôi. Họ có thể điều trị kín đáo một thời gian.

Nhưng lúc bấy giờ, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được, đó là tại sao mọi chuyện lại có thể tồi tệ vậy.

"Cô ấy chỉ mới hai mươi bốn tuổi !" Tôi bảo, đúng hơn là hét lên với vị bác sĩ. Ông ta gật đầu, tỏ vẻ vô cùng nhẫn nại và hiểu biết rất rõ tuổi của nàng, cũng như hiểu rõ điều này làm cho tôi đau đớn ra sao. Cuối cùng, tôi nhận ra mình không thể ngồi lì trong phòng khám của ông ta mãi. Tôi hỏi ông ta tôi phải làm gì. Nghĩa là, tôi nên làm gì đây. Ông ta bảo tôi cố cư xử càng bình thường và càng lâu thì càng tốt. Tôi cảm ơn ông và rời nơi ấy.

Bình thường! Bình thường!

Chương XVIII

Tôi bắt đầu nghĩ về Thượng đế.

Tôi muốn nói, ý niệm về một Đấng Tối cao tồn tại ở một nơi nào đó bắt đầu len lỏi luồn vào những ý nghĩ của tôi. Không phải là vì tôi muốn đập vào mặt của ông ta, đấm gục ông ta vì những điều ông ta đã làm đối với tôi – tức là đối với Jenny. Không, những ý nghĩ tôn giáo của tôi là một cái gì hoàn toàn trái ngược. Như những lúc tôi thức giấc vào một sớm mai, và Jenny còn đó. Vẫn còn ở đó. Tôi ăn năn, thậm chí vô cùng bối rối, nhưng tôi hy vọng có một Thượng đế để tôi có thể cảm ơn. Cảm ơn vì đã để cho tôi thức giấc và còn trông thấy Jenny.

Tôi cố gắng như điên để cư xử bình thường, do vậy tôi vẫn để nàng làm thức ăn sáng và những chuyện tương tự.

"Sáng nay anh có gặp Stratton ?" – Nàng hỏi, khi tôi đang ăn chén mì ống thứ hai.

"Ai ?"

"Raymond Stratton khóa 64" nàng đáp – " bạn thân nhất của anh, cái gã bạn cùng phòng của anh trước khi quen em ấy."

"Ờ. Tụi anh dự tính chơi squash. Nhưng anh nghĩ là anh đã hủy cuộc chơi."

"Tệ thật ."

"Sao hả, Jen ?"

"Đừng hủy bỏ những trò chơi như vậy, anh ạ. Em không muốn có một ông chồng ẻo lả đâu."

"Được rồi, nhưng chúng ta sẽ đi ăn tối dưới phố nghe" – Tôi bảo.

"Chi vậy ? "

"Em hỏi vậy là sao?" Tôi hét lớn, cố biểu lộ cơn giận như thường lệ. " Chẳng lẽ anh không thể mang cô vợ chết tiệt của anh đi ăn tối nếu anh thích thế sao ?"

"Cô ấy là ai, Barrett ? Cô ấy tên gì ? " Nàng hỏi.

"Cái gì ? "

"Nghe này," nàng giải thích. " Khi anh mang vợ đi ăn tối vào một ngày thường, hẳn là anh đang lẹo tẹo với một ả nào rồi!"

"Jennifer!" Tôi gầm lên, lần này thật sự tổn thương." Anh không muốn có kiểu nói chuyện như vậy ở bàn ăn sáng đâu nhé!"

"Vậy thì cắp mông về nhà ăn tối ở nhà nhé, được không?"

"Được."

Và tôi muốn bảo với Thượng đế, dù ông ấy là ai, và ở đâu đi nữa, rằng tôi vui mừng với hiện trạng thế này. Tôi không màng đau khổ, thưa ngài, tôi không quản gì đau đớn, miễn là Jenny đừng hay biết gì cả. Ngài có nghe thấy tôi không, Thượng đế ? Ngài có thể ấn định giá cả cho điều này.

"Oliver?"

"Vâng, ông Jonas ?"

Ông ta đã gọi tôi vào phòng của mình.

"Anh có quen với Beck không ? "

Dĩ nhiên là có. Robert L. Beck, phóng viên ảnh của tờ tạp chí Life, đã bị cảnh sát Chicago đá tơi bời khi đang cố chụp một cảnh bạo động. Jonas xem vụ này là một trong những phi vụ chủ chốt của công ty.

"Tôi biết cái gã cảnh sát đã đá anh ta, thưa ông" Tôi bảo Jonas với vẻ vô tư.

"Tôi muốn anh xử lý vụ này, Oliver."

"Một mình tôi ?"

"Anh có thể dẫn thêm một cộng sự trẻ hơn." Ông ta đáp.

Cộng sự trẻ hơn? Tôi là người trẻ nhất trong văn phòng. Nhưng tôi đã hiểu ngụ ý của ông ta: Oliver, dù cho tuổi tác của anh như thế nào, anh vẫn là một trong những ma cũ nhất ở đây. Một trong chúng ta, Oliver.

"Cám ơn ông."

"Bao lâu nữa anh có thể đi Chicago ? "

Tôi phải tự giải quyết mà không thể nói với một ai, phải tự mình mang hết gánh nặng. Vì vậy, tôi nói gì đó với ông già Jonas, tôi không nhớ đích xác, đại ý là tôi không thể rời New York vào lúc này. Và tôi mong ông ta hiểu cho. Nhưng tôi biết ông rất thất vọng vì phản ứng của tôi đối với một phi vụ hiển nhiên là vô cùng quan trọng. Ồ, lạy Chúa, khi ông biết lý do thật sự, ông Jonas, ông sẽ hiểu thôi!

Một nghịch lý : Oliver Barrett IV rời văn phòng sớm hơn, thế mà đi về nhà thật chậm rãi. Bạn có thể lý giải chuyện này?

Tôi đã mắc phải một thói quen là nhìn qua cửa sổ các cửa hàng trên đại lộ số 5, tới những thứ hàng hóa tuyệt diệu và cực kỳ ngớ ngẩn mà lẽ ra tôi đã mua cho Jenny nếu như tôi không phải cố làm ra vẻ bình thường.

Chắc chắn là tôi sợ phải về nhà. Bởi vì giờ đây, sau nhiều tuần kể từ khi tôi biết được sự thật, nàng bắt đầu sút cân. Chỉ chút xíu thôi, và có lẽ nàng chưa nhận ra. Nhưng tôi, người đã biết sự thật, nhận ra.

Tôi cũng đi tham quan lịch các chuyến bay : Brazil, các nước Caribbe, Hawaii.. Vào buổi chiều nay, hãng TWA đang hướng về Châu Âu cho mùa nghỉ lễ : London cho những thương gia, Paris cho những cặp tình nhân…

" Thế còn học bổng của em ? Còn chuyến đi Paris, nơi mà cả cuộc đời khốn khổ của em chưa từng biết thì sao ?"

"Thế còn đám cưới của chúng mình thì sao ?"

"Nào đã có ai nói gì về đám cưới đâu."

"Anh nói. Anh đang nói về nó, ngay bây giờ".

"Anh muốn cưới em ?"

"Phải."

"Vì sao ?"

Tôi có một tấm thẻ Câu lạc bộ Diners. Rẹt! Ký tên lên những đường chấm, và tôi trở thành chủ nhân của hai tấm vé (dĩ nhiên là hạng nhất ) tới Thành phố của những cặp tình nhân.

Trông nét mặt Jenny có vẻ xanh xao nhợt nhạt khi tôi về tới nhà, nhưng tôi hy vọng ý tưởng ngẫu hứng của tôi có thể mang lại chút màu sắc trên đôi má ấy.

"Đoán xem có cái gì, bà Barrett !"

"Anh bị đuổi việc" Cô vợ lạc quan của tôi đáp.

"Không. Mà là tin mừng" Tôi nói, và rút hai tấm vé ra.

"Bay lên và bay xa, đêm mai ta tới Paris."

"Khỉ quá, Oliver," nàng bảo. Nhưng thật lặng lẽ, không hề có chút sự chế giễu và hung hăng thường lệ của nàng. Nàng nói vậy lúc này, là một cách bày tỏ lòng thương mến.

"Nè, em sẽ định nghĩa từ "khỉ quá" thật cụ thể cho anh nghe chứ ?"

"Chà, Oliver," Nàng nói nhỏ, "đó không phải là cách của chúng ta."

"Cách nào ?"

"Em không muốn Paris. Em không cần Paris. Em chỉ cần anh.."

"Em đã có anh rồi, bé ạ!" Tôi ngắt lời nàng, cảm thấy lòng chùng xuống.

"Và em muốn có thời gian," nàng tiếp,"thứ mà anh không thể cho em được."

Giờ thì tôi nhìn vào đáy mắt nàng. Chúng buồn không thể tả. Nhưng buồn một cách nào đó tôi có thể hiểu. Chúng đang nói rằng nàng đang tiếc nuối. Tiếc nuối cho tôi.

Hai đứa đứng ôm chặt nhau, im lặng. Nếu có một trong hai bật khóc, xin để cả hai cùng khóc. Nhưng tốt hơn là đừng có ai phải khóc cả.

Và rồi Jenny giải thích nàng đã cảm thấy "vô cùng khó chịu" ra sao, đã quay lại tìm bác sĩ Sheppard, không phải để nhờ tư vấn, mà là để đối diện : Hãy nói cho tôi biết tôi bị làm sao đi. Và ông ta đã nói.

Tôi cảm thấy có lỗi một cách lạ lùng vì không tự mình nói điều ấy cho nàng biết. Nàng cảm nhận được, và nhận xét một cách ngờ nghệch nhưng đầy dụng ý :

"Ông ấy là một gã Yalie, Ollie "

"Ai chứ, Jen ?"

"Tay chuyên gia huyết học. Một tay Yallie từ đầu tới chân, từ cao đẳng lên đại học y.

"Ồ!" Tôi đáp, biết rằng nàng đang cố xoa dịu hoàn cảnh nặng nề bi thảm này.

"Ít nhất là ông ta biết đọc biết viết, phải không ?"

"Điều này còn phải chờ xem," Bà Oliver Barrett, sinh viên Radcliffe khóa 64 mỉm cười, " nhưng em biết ông ta nói được. Và em muốn nói chuyện."

"Được rồi, vậy thì mình tới nhà tay bác sĩ Yalie."

"Vâng." Nàng đáp.

Chương XIX

Bây giờ, ít nhất tôi không còn phải sợ về nhà, không còn sợ "ứng xử bình thường" nữa. Chúng tôi lại chia sẻ mọi điều, ngay cả một nhận thức đáng buồn là những ngày có nhau chỉ còn đếm trên đầu ngón tay thôi.

Chúng tôi phải bàn bạc nhiều điều, những điều mà thông thường ít có những đôi vợ chồng hai mươi bốn tuổi đề cập tới.

"Em mong là anh khỏe mạnh, chàng cầu thủ hockey ạ."

"Anh sẽ mạnh khỏe, nhất định là vậy." Tôi đáp, tự hỏi không biết Jenny luôn luôn hiểu biết của tôi có hiểu rằng chàng cầu thủ hockey vĩ đại đang sợ hãi hay không.

"Em muốn nói là vì Phil," nàng tiếp, " Đối với ba sẽ thật khó khăn đấy. Còn anh, nói cho cùng, anh sẽ là một anh chàng góa vợ vui vẻ."

"Anh sẽ không thể vui vẻ đâu." Tôi ngắt lời nàng.

"Anh sẽ vui vẻ. Khỉ thật. Em muốn anh sẽ vui vẻ. Được chứ ?"

"Được."

"Tốt lắm."

Chuyện xảy ra vào khoảng một tháng sau đó, ngay sau bữa ăn tối. Nàng vẫn còn làm bếp. Nàng khăng khăng đòi làm. Cuối cùng, tôi thuyết phục được nàng cho phép tôi lau dọn (dù nàng làm cho tôi nổi nóng bằng cách bảo đó không phải là chuyện của đàn ông), và tôi lúc ấy đang cất chén dĩa, trong khi nàng chơi nhạc Chopin trên chiếc ddàn piano. Tôi nghe thấy nàng dừng lại ở giữa khúc dạo đầu, nên vội vã đi ngay vào phòng khách. Nàng vẫn còn ngồi ở đó.

"Em khỏe chứ, Jen ?" Tôi hỏi. Nàng đáp bằng một câu hỏi:

"Anh đủ giàu để trả tiền taxi không hở ?"

"Chắc chắn rồi." Tôi đáp. " Em muốn đi đâu ?"

"Chắc là. .. bệnh viện." Nàng đáp.

Tôi chợt cảm nhận trong chuỗi cử động vội vàng sau đó, rằng thế là đã đến lúc Jenny sắp bước ra khỏi căn nhà này và không bao giờ quay lại nữa.. Vì nàng vẫn ngồi im lặng lẽ trong khi tôi gom một số đồ đạc cho nàng, tôi thầm hỏi cái gì đang diễn ra trong đầu nàng lúc ấy. Về căn nhà chăng? Nàng có muốn nhìn để nhớ ?

Không có gì cả. Nàng chỉ ngồi lặng lẽ, không hề chú ý đến cái gì.

"Em muốn mang theo thứ đồ đặc biệt nào nữa không?"

"Ờ ờ." Nàng gật gật đầu, rồi nói, sau một thoáng suy nghĩ . " Anh!"

Xuống dưới thang lầu, đón được một chiếc taxi thật khó khăn, vì đó là giờ nhà hát đang diễn. Người gác cổng thổi còi và vẫy tay như một trọng tài. Jenny tựa vào tôi, và tôi ngầm ao ước không có xe, để nàng cứ tựa mãi như thế bên tôi. Nhưng cuối cùng, chúng tôi đón được một chiếc. Tài xế là một lão già vui tính. Khi nghe thấy tên bệnh viện Mount Sinai, lão nhấn hết ga.

"Đừng lo, các con, ta là một tay lão luyện trong nghề. Ta và chiếc xe này đã làm ăn với nhau nhiều năm qua."

Ở băng sau, Jenny cuộn người nép vào tôi. Tôi hôn lên tóc nàng.

"Là lần đầu tiên của cậu à? " Lão tài xế hỏi.

Tôi đoán là Jenny cảm thấy tôi sắp sửa tống cho lão già một cú, nên nàng thì thào bảo tôi:

"Hãy đàng hoàng, Oliver. Ông ấy đang cố đối xử tốt với chúng ta mà."

"Vâng thưa ông," Tôi nói với lão, "đây là lần đầu, vợ tôi không khoẻ lắm, thế nên chúng ta vượt một vài đèn đỏ được chứ?"

Lão ta đưa chúng tôi tới Mount Sinai một cách êm xuôi. Lão thật rất tốt, bước xuống xe mở cửa cho chúng tôi và nhiều thứ khác. Trước khi lăn bánh, lão chúc chúng tôi mọi điều may mắn tốt lành. Jenny đã cám ơn lão.

Nàng có vẻ lảo đảo đứng không vững. Tôi muốn bế nàng vào, nhưng nàng không chịu, "Ở cửa này thì không được đâu, công tử." Vì vậy, chúng tôi cùng đi vào, và chịu đựng mọi thứ đau khổ trong khi làm thủ tục nhập viện.

"Ông có sử dụng Vòng chắn xanh hoặc một phương pháp kế hoạch nào khác ?"

"Không"

(Ai mà rỗi hơi nghĩ tới mấy thứ linh tinh ấy. Chúng tôi khá bận rộn vì nhiều thứ quan trọng hơn.)

Dĩ nhiên, việc Jenny tới đây chẳng bất ngờ tí nào. Bác sĩ Bernard Ackerman, như nhận xét của Jenny – một người tốt, dù là một tay Yalie chính cống, đã dự đoán trước từ đầu việc này. Ông là người trực tiếp theo dõi điều trị cho nàng.

"Tế bào và tiểu cầu của cô ấy đang bị bạch cầu hủy hoại " Ông ta bảo. " Lúc này cái cô ấy cần nhất là hai thứ đó. Cô ấy lại không muốn điều trị bằng kháng trao đổi chất.

"Nghĩa là sao bác sĩ ?"

"Đó là một liệu pháp làm chậm lại quá trình tiêu hủy tế bào," ông ta giải thích, " nhưng nó có những tác dụng phụ không dễ chịu, cô ấy cũng đã biết điều này."

"Nghe đây, bác sĩ" Tôi biết tôi đang giảng giải với ông ta một cách không cần thiết – "Jenny là người quyết định. Hãy làm bất cứ cái gì cô ấy muốn. Chỉ cần người của ông làm hết khả năng để cô ấy không đau đớn.

"Ông có thể tin chắc điều này. " Ông ta đáp.

"Tôi không quan tâm đến giá cả đâu, bác sĩ." Tôi cho là tôi đang cao giọng.

"Việc này có thể kéo dài nhiều tuần hay nhiều tháng."

"Cứ ngã giá đi " Tôi nói. Ông ta rất nhẫn nại với tôi. Thật sự, tôi đang ức hiếp ông ta.

"Tôi chỉ nói một cách đơn giản là thực sự không có cách nào để biết lâu hay mau – cô ấy đang chết dần mòn." Ông ta giải thích.

"Bác sĩ, hãy nhớ là," tôi ra lệnh, "tôi muốn cô ấy được chữa trị bằng cách nào tốt nhất. Phòng riêng. Các hộ lý đặc biệt. Mọi thứ. Xin vui lòng. Tôi có đủ tiền."

Chương XX

Lái xe từ Đường 63 Khu Đông Manhattan tới Boston, Massachusetts trong vòng ba giờ hai mươi phút là một điều bất khả thi. Xin hãy tin tôi, tôi đã thử giới hạn tối thiểu trên đoạn đường này, và tôi khẳng định không có một chiếc xe nào, nội hay ngoại, kể cả những chiếc Graham Hill, có thể chạy nhanh hơn. Tôi đã lái chiếc MG qua cổng Mass Turn với tốc độ 150.

Tôi có một lưỡi dao cạo râu điện không dây, và bạn có thể tin là tôi đã cạo râu thật cẩn thận, thay áo sơ mi ngay trong xe, trước khi bước vào cái văn phòng khả kính nằm trên đường State Street. Thậm chí mới có 8 giờ sáng, đã có nhiều tay dân Boston bệ vệ chờ đợi để được gặp Oliver Barrett III. Cô thư ký của ông, vốn biết mặt tôi, vẫn không chớp mắt đến hai lần khi đọc tên mời tôi vào phòng khách bên trong.

Ba tôi không bảo : Dẫn anh ấy vào.

Thay vì vậy, cửa phòng ông mở, và ông tự bước ra. " Oliver." Ông nói.

Vốn đang bị ám ảnh về thể chất qua dáng vẻ bên ngoài, tôi nhận ra ông có vẻ hơi xanh xao, tóc ông xám đi, và thưa thớt hẳn, sau ba năm vừa qua.

"Vào đây con trai" Ông bảo. Tôi không định được giọng của ông. Tôi bước vào bên trong văn phòng, và ngồi lên chiếc ghế dành cho khách.

Chúng tôi nhìn nhau, rồi nhìn lướt qua những đồ vật trong phòng. Mắt tôi dừng lại ở những món đặt trên bàn làm việc của ông: chiếc kéo cất trong một bao da, đồ khui thư có chiếc tay nắm bằng da, một tấm ảnh mẹ tôi chụp cách đây nhiều năm. Ảnh của tôi trong ngày tốt nghiệp trường Exceter.

"Con ra sao, con trai ?"

"Khỏe, thưa ba." Tôi đáp.

"Còn Jennifer ? "

Thay vì nói dối, tôi lẫn tránh vấn đề – dù đó chính là vấn đề – để bật thốt ra lý do sự có mặt đột ngột của tôi.

"Ba, con cần mượn năm ngàn đô. Vì một lý do chính đáng."

Ông ấy nhìn tôi. Và hơi gật đầu, tôi cho là vậy.

"Thế à? " Ông nói.

"Thưa ba ?" Tôi hỏi.

"Ta có thể biết lý do không ?"

"Con không thể nói, ba à. Xin cứ cho mượn số tiền đó."

Tôi có cảm giác – nếu như một người có thể cảm nhận được cảm xúc của Oliver Barrett III – là ông ấy có ý định cho tôi mượn số tiền. Tôi cũng có cảm giác ông ấy không muốn an ủi tôi gì cả. Nhưng ông ấy muốn nói chuyện.

"Ở công ty Jonas và March người ta không trả lương cho con sao ?"

"Có, thưa ba."

Tôi chợt nôn nao muốn nói cho ông biết lương tôi là bao nhiêu, chỉ để cho ông hiểu đó là một thành quả của tôi, nhưng rồi tôi nghĩ, nếu như ông biết nơi tôi làm việc, hẳn ông cũng biết mức lương của tôi rồi.

"Và cô ấy có đi dạy chứ ?" Ông hỏi.

Ồ, ông ấy không hay biết gì hết.

"Đừng gọi cô ấy là 'cô ấy'."

"Jennifer có đi dạy chứ ?" Ông hỏi một cách nhã nhặn.

"Xin hãy bỏ cô ấy qua một bên đi ba. Đây là vấn đề cá nhân. Là một vấn đề cá nhân vô cùng quan trọng."

"Con đã gây rắc rối với một cô gái nào à? " Ông hỏi, nhưng trong giọng nói không có vẻ gì phản đối.

"Vâng. Đúng vậy. Xin hãy cho con mượn số tiền ấy."

Tôi không hề cho là ông tin lời tôi nói. Tôi cũng không nghĩ là ông thực sự muốn biết. Ông chỉ đơn giản hỏi tôi, như tôi đã nói, là để hai bên có thể trò chuyện mà thôi.

Ông kéo chiếc ngăn tủ, lấy ra một quyển sổ chi phiếu bìa da, cùng loại da với chiếc tay nắm khui bì thư và bao kéo. Ông chậm chạp mở nó ra. Không phải để dằn vặt tôi, mà là kéo dài thời gian. Tìm một điều gì đó để nói. Những điều không làm thương tổn.

Ông ghi xong tấm chi phiếu, xé nó khỏi sổ và trao nó cho tôi. Trong thoáng giây, có lẽ tôi chợt nhận ra tôi đã chạm phải tay ông. Vì vậy, ông có vẻ bối rối (tôi cho là vậy), ông rụt tay về, đặt tấm phiếu lên cạnh bàn, nhìn tôi và gật nhẹ đầu. Dường như ông muốn nói " Đấy, con trai." Nhưng thực sự, tất cả những gì ông làm là gật nhẹ đầu.

Tôi cũng không muốn bỏ đi. Chỉ vì tôi không thể tìm ra một điều gì ôn hòa để nói.. và chúng tôi không thể cứ ngồi đó mãi. Cả hai đều muốn nói, thế nhưng thậm chí không thể nhìn vào mắt của nhau.

Tôi hơi nghiêng người cầm lấy tấm chi phiếu. Phải, trên đó ghi năm ngàn đô, có chữ ký của Oliver Barrett III. Mực đã hoàn toàn khô. Tôi cẩn thận gấp nó lại, bỏ vào túi áo sơ mi trong khi đứng dậy và bước ra cửa. Lẽ ra tôi nên nói, ít nhất là một điều gì đó, vì cái tác dụng mà tôi biết rất là quan trọng. Các nhân vật quan trọng của Boston (và có lẽ ngay cả của Washington) đang lạnh cóng gót chân vì chờ đợi ở bên ngoài, thế nên nếu chúng ta còn muốn nói với nhau nhiều hơn nữa, con có thể đợi ở ngoài văn phòng, và ba, ba có thể hủy bỏ kế hoạch ăn bữa trưa…vv…

Tôi đứng đó, bên chiếc cửa mở hé, thu hết can đảm nhìn vào ông, và nói : "Cám ơn, ba."

Chương XXI

Việc thông báo cho Phil đè nặng xuống vai tôi. Còn ai khác làm chuyện này? Ông không tan vỡ ra từng mảnh như tôi lo ngại, mà bình tĩnh khóa cửa căn nhà ở Cranston và tới ở tại nhà tôi. Mỗi người chúng tôi có phương cách của mình để đối phó với nỗi niềm đau khổ. Cách của Phil là lau chùi nhà cửa. Rửa ráy, lau chùi, đánh bóng các thứ. Thực tình tôi không hiểu những ý nghĩ của Phil diễn biến ra sao, nhưng thôi, lạy Chúa, cứ để ông làm việc.

Ông có ấp ủ giấc mơ rằng Jenny sẽ trở về nhà ?

Có mà, phải không? Tội nghiệp cho người bố đáng thương. Đó là lý do vì sao ông cứ lau dọn mãi. Ông không thể chấp nhận sự thật. Tất nhiên là ông không thú nhận điều này với tôi, nhưng tôi biết, nó nằm trong tâm trí của ông. Bởi vì, nó cũng nằm trong tâm trí của tôi.

Khi nàng đã nhập viện, tôi gọi cho ông già Jonas, báo cho ông biết vì sao tôi không thể đi làm được. Tôi vờ như đang vội, để cúp máy, vì tôi biết ông ta đau buồn và muốn nói lên những điều ông không thể tỏ bày. Từ hôm đó trở đi, những ngày chỉ đơn giản được chia thành thành giờ đi thăm bệnh và giờ dành cho tất cả các thứ khác. Và dĩ nhiên, tất cả những thứ khác chỉ là một sự trống vắng hư vô. Ăn khi không hề nghe đói, nhìn Phil lau dọn nhà (cứ như thế mãi) và không tài nào ngủ được, dù với những toa thuốc ngủ Ackerman đã kê cho tôi.

Có một lần tôi nghe thấy Phil lẩm bẩm một mình: "Ta không thể chịu đựng lâu hơn nữa."

Ông ở phòng bên cạnh, đang chùi cái bồn rửa bát. Tôi không đáp lời ông. Nhưng tôi tự nhủ với mình, tôi có thể. Thưa Đấng nào đó trên kia, Đấng tối cao, kẻ bày cảnh trớ trêu, cứ tiếp tục đi, tôi có thể chịu đựng mãi mãi, vô hạn độ. Bởi vì Jenny là Jenny.

Tối hôm đó, nàng đuổi tôi ra khỏi phòng. Nàng muốn nói chuyện với ba nàng, như "giữa đàn ông với nhau."

"Cuộc đối thoại này chỉ giữa những người có dòng máu Ý thôi," nàng nói, mặt trắng bệch như chiếc gối dưới đầu nàng, " vì thế, cố một chút đi, Barrett."

"Được rồi." Tôi đáp.

"Nhưng đừng đi xa quá." Nàng nói, khi tôi ra tới cửa.

Tôi tới ngồi ở phòng chờ. Và rồi Phil xuất hiện.

"Nó bảo con đi vào," Ông thì thầm với một giọng khàn khàn, như bên trong người ông hoàn toàn rỗng không. "ta đi mua vài điếu thuốc."

"Đóng cửa lại đi," nàng ra lệnh khi tôi bước vào phòng. Tôi vâng lời, lặng lẽ khép cửa, và khi tôi quay lại bên giường ngồi xuống, tôi nhìn thấy đầy đủ hơn mọi thứ ở nàng. Nghĩa là, những thứ ống dẫn chạy vào cánh tay phải của nàng, mà nàng che dưới lớp vải. Tôi luôn muốn ngồi thật sát nàng nhìn vào gương mặt của nàng, vì dù có nhợt nhạt đến đâu, đôi mắt nàng vẫn còn sáng long lanh bên trên gương mặt ấy.

Vì vậy, tôi vội ngồi sát vào nàng.

"Không đau đớn lắm đâu, Oliver, nó giống như cảm giác rơi thật chậm từ vách núi xuống, anh có biết không ?

Có cái gì đó đang giày xé ruột gan tôi. Có cái gì đó vô hình đang bay vào làm nghẹn cổ tôi, làm tôi muốn khóc. Nhưng tôi chưa khóc. Tôi chưa từng khóc bao giờ. Tôi là một gã cứng rắn, phải không ? Tôi sẽ không khóc đâu mà.

Nhưng nếu tôi không khóc, thì tôi cũng không thể nào mở miệng. Tôi sẽ phải gật đầu thay cho lời đáp. Thế nên tôi gật đầu đáp phải.

"Khỉ thật," Nàng nói.

"Hở ?" Đó là một tiếng ậm ừ trong miệng hơn là lời nói.

"Anh không biết rơi xuống vực là thế nào, công tử ạ, cả đời anh chưa bao giờ rơi xuống vực."

"Có mà," Tôi đáp, có lại khả năng nói ra lời, " lúc anh gặp em."

"Ồ, " Nàng đáp, một nụ cười thoáng qua trên nét mặt, " Ôi, đó là một cú rơi êm ái' Ai nói anh nhỉ ? "

"Anh không biết. Chắc là của Shakespeare."

"Vâng, nhưng ai nói ? " nàng hỏi một cách ai oán. " Em không thể nhớ là vở kịch nào. Em đã vào học ở Radcliffe, lẽ ra em phải nhớ mọi thứ. Hồi đó, em biết tất cả các tác phẩm của Mozart."

"Quả là nhiều lắm." Tôi đáp.

"Anh có cuộc không? " Nàng nói, trán nhăn lại, và hỏi tiếp, "Bản hòa tấu Piano cung La thứ là số mấy nhỉ ? "

"Để anh sẽ tìm xem". Tôi đáp.

Tôi biết nó ở đâu. Trong nhà tôi, trên một ngăn kệ gần chiếc đàn dương cầm. Tôi sẽ tìm ra và nói cho Jenny ngay ngày mai.

"Em đã từng biết." Jenny nói. " Em đã từng biết. Đã từng."

"Này Jen, em có muốn nói về âm nhạc nữa không? "

"Chắc anh thích nói về đám tang hơn ? "

"Không." Tôi đáp, hối hận vì đã cắt lời nàng.

"Em đã nói với Phil. Anh có nghe chứ, Oliver ? "

Tôi đã quay mặt đi chỗ khác.

"Vâng, anh đang nghe em đây, Jenny."

"Em bảo ba là ông có thể nhờ Nhà thờ Thiên Chúa giúp đỡ, anh sẽ đồng ý thôi. Đồng ý chứ ? "

"Đồng ý."

"Được lắm." Nàng nói.

Và tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn một chút, bởi vì, nói cho cùng, bất cứ điều gì chúng tôi nói bây giờ cũng chả cải thiện được gì hơn.

Tôi đã sai lầm.

"Nghe này, Oliver.", nàng nói, có vẻ tức giận, dù giọng nói vẫn nhẹ nhàng. " Anh hãy thôi ngay vẻ bệnh hoạn đó đi."

"Anh ư ? "

"Cái vẻ phạm tội trên nét mặt anh đó, trông bệnh hoạn lắm. "

Thực tình mà nói, tôi đã cố thay đổi nét mặt, nhưng các cơ mặt tôi hầu như đông cứng lại rồi.

"Đó không phải là lỗi ở ai cả, chàng công tử ạ. Anh có thôi tự trách mình đi không!"

Tôi muốn nhìn mãi vào nàng, tôi không muốn rời mắt khỏi nàng, nhưng tôi vẫn phải hạ thấp ánh mắt xuống. Tôi xấu hổ vì ngay cả lúc này, Jenny vẫn đọc được những ý tưởng của tôi thật chính xác.

"Nghe này, đây là điều duy nhất em yêu cầu anh, Oliver. Ngoài ra, em biết anh sẽ đồng ý."

Vật gì đó lại khuấy động ruột gan tôi, vì vậy, tôi sợ phải nói, ngay cả chỉ một từ " đồng ý". Tôi chỉ nhìn Jenny lặng lẽ.

"Dẹp Paris đi." Nàng đột nhiên nói.

"Hả ? "

"Dẹp chuyện Paris và âm nhạc và tất cả mọi thứ mà anh cứ nghĩ rằng anh đã tước đoạt của em. Em không quan tâm đâu, Anh có tin không ? "

"Không ." Tôi đáp, vô cùng thành thật.

"Vậy thì xéo ra khỏi chỗ này đi, em không muốn anh ngồi ở cái giường khốn kiếp này nhìn em chết nữa."

Nàng muốn vậy. Tôi có thể nói dối về bất kỳ điều gì một khi Jenny thực sự mong muốn. Và tôi xin được ở lại bằng một lời nói dối.

"Anh tin em."

"Như thế tốt hơn ." Nàng nói. " Giờ thì hãy ban cho em một ân huệ được không anh ? "

Từ đâu đó trong lòng, một cơn lốc tàn phá chợt ùa về làm tôi muốn khóc nấc lên. Nhưng tôi chịu đựng. Tôi sẽ không rơi nước mắt. Tôi chỉ làm cho Jenny thấy rằng, với sự gật đầu xác nhận của tôi, tôi sẽ sung sướng làm bất cứ điều gì nàng muốn.

"Anh vui lòng ôm em thật chặt được không? " nàng nói.

Tôi đặt tay lên cánh tay nàng - Chúa ơi, nó quá gày gò - và siết nhẹ.

'" Không, Oliver, ôm em thực sự cơ. Nằm xuống bên em."

Tôi rất, rất cẩn thận, với những chiếc ống và các thứ, khi nằm xuống giường bên nàng và vòng tay ôm lấy nàng.

"Cám ơn, Oliver."

Đó là những lời cuối của nàng.

Chương XXII

Phil Cavillery đang đứng hút thuốc trong khu nhà tắm nắng lúc tôi bước đến.

"Phil? " Tôi gọi khẽ.

"Hả ?" Ông nhìn lên, và tôi nghĩ ông đã biết.

Rõ ràng là ông cần có một sự an ủi gì đó bằng thể chất. Tôi bước lại, choàng tay qua vai ông. Tôi sợ ông sẽ khóc òa lên. Còn tôi, tôi khá chắc là mình không khóc. Tôi không thể. Tôi muốn nói là tôi đã vượt qua tất cả những thứ này.

Ông đặt tay ông lên tay tôi.

"Ta ước gì .." Ông lẩm bẩm, " Ta ước gì ta đã không…" Ông ngưng lời, và tôi chờ đợi. Nói cho cùng, có gì phải vội ?

"Ta ước gì ta đã không hứa với con là Jenny sẽ khỏe mạnh."

Và, như để khẳng định thêm, ông vỗ nhẹ bàn tay tôi.

Nhưng tôi cần được cô độc mình tôi. Để thở. Để đi bách bộ, có lẽ là vậy.

Ở dưới cầu thang, hành lang bệnh viện hoàn toàn vắng lặng. Tất cả những gì tôi có thể nghe thấy là tiếng gót giầy của tôi gõ xuống nền nhà.

"Oliver."

Tôi dừng lại.

Đó là ba tôi. Trừ người đàn bà ngồi ở bàn tiếp tân, chỉ còn có hai chúng tôi ở nơi đây. Thật sự thì chúng tôi là hai trong số ít những người ở New York thức giấc vào giờ đó.

Tôi không thể đối diện với ông. Tôi đi thẳng tới cánh cửa xoay. Nhưng trong một thoáng, ông đã ở đó, đứng cạnh bên tôi.

"Oliver, lẽ ra con phải nói cho ta biết."

Trời rất lạnh, ở một khía cạnh nào đó lại là tốt cho tôi, vì tôi đang run lên, và mong muốn cảm nhận một điều gì đó. Ba tôi tiếp tục tiến tới gần, và tôi tiếp tục đứng lặng im, mặc cho cơn gió lạnh quất phũ phàng lên mặt.

"Ngay khi ta biết, ta phóng vào xe liền."

Tôi đã để quên chiếc áo khoác. Cơn giá lạnh bắt đầu làm tôi đau đớn. Tốt thôi. Tốt thôi.

"Oliver," Ba tôi nói gấp, " ta muốn giúp con."

"Jenny đã chết rồi. "

"Ta rất tiếc." Ông nói, bằng một giọng thì thào đến lạ lùng.

Không biết vì sao, tôi nhắc lại những lời mà cách đây lâu rồi, tôi đã học được từ người con gái xinh đẹp nay đã qua đời:

"Yêu nghĩa là không bao giờ phải nói mình hối tiếc. "

Và rồi tôi đã làm một chuyện chưa bao giờ tôi làm khi có mặt ông, nhất là trong vòng tay của ông. Tôi bật khóc.

Dịch xong năm 1998

(Dịch theo Ấn bản năm 1971 - Nhà xuất bản New American Library)