Nguyễn Quang Lập- Bạn Văn

Bạn văn 1.

Mấy năm nay không gặp anh Quốc nữa. Nhiều lần nghe thằng Nguyên nói anh Quốc ra, ngồi chỗ này chỗ kia nhưng tự nhiên không muốn gặp nữa. Có đứa bảo mày sợ công an theo dõi luôn mày à? Đâu đến nỗi thế. Chỉ bởi ngồi với anh bây giờ oải lắm, đối với anh bây giờ chỉ có chuyện thế sự là trọng đại, tất cả là vớ vẩn. Chưa được hai phút, chưa hớp xong nửa chén rượu anh đã bày chuyện trọng đại ra nói rồi, oải lắm.

Mình vẫn nhớ anh lắm.Nhớ mùa hạ 1987, mình và thằng Thuận Hữu tìm kế cho anh thoát thân khỏi một mụ nạ dòng đeo anh như đĩa đói. Mất một tuần vất vả mới cho anh thoát được. Anh cảm động nói sau này dù chết tao cũng không quên chúng mày. Khổ, bây giờ cả mình và thằng Thuận Hữu, anh không còn thương nữa.

Nhớ chiều mùa đông 1988 đến nhà, anh ngồi bệt giữa nhà, bên mâm rượu đã tàn, cầm chai rượu khóc. Mình hỏi sao thế. Anh nói tao nhớ Quí, Lập ơi tao nhớ Quí. Nghĩ mà thương anh, con 2 tháng tuổi, bỏ con vào chiến trường, vợ chết luôn ở chiến trường. Hoà bình long đong lận đận, được cô vợ mới xinh tươi, có học, nhưng tin bạn gửi bạn mất vợ.Cái mặt lúc nào cũng đỏ kè thế kia, khổ là phải.

Có lẽ thời điểm anh khổ nhất, cay đắng nhất là khi anh quyết định vào Đà Lạt. Đó là năm 1988. Một hôm anh Quốc nói: tỉnh Lâm Đồng mời tao lên làm chủ tịch hội. Mày lên làm phó cho tao, tao nói tỉnh cấp cho mày cái biệt thự, nhỏ thôi, nhưng đủ cho mày sống thoả thuê. Hồi đó khổ, hai vợ chồng đang sống trong căn hộ 12 mét vuông, nghe nói thế thì mừng lắm. Mình về bàn với vợ, vợ không đồng ý. May.

Cái nơi rước anh lên cũng là nơi đày anh đến địa ngục. Có lẽ bụng dạ họ cũng không muốn thế, toàn bạn chíên trường cả mà. Nhưng trên bảo vô lẽ dưới không nghe, bạn bè bằng giời cũng không bằng cái ghế của người ta. Đến giờ anh Quốc vẫn không hiểu tại làm sao người ta có thể đạp lên tình huynh đệ, nghĩa bằng hữu nhẹ nhàng như không, như người ta tụt quần đi ỉa vậy.

Nói cho anh nghe nhiều rồi anh vẫn không chịu hiểu, anh còn mắng: tụi mày bây giờ hèn lắm. Anh bây giờ kinh tế không phải lo, vợ con lo cho đủ cả, anh chỉ còn lo đất nước. Một cái bị nhỏ, một chai rượu, anh đi lang thang gặp gỡ bạn bè để tiêu sầu và để giải phóng lượng uất ức lúc nào cũng ứ đầy trong anh. Rồi anh đọc thơ, những bài thơ chẳng thấy thơ đâu, chỉ thấy những vấn đề trọng đại, oải lắm.

Mình tắt lửa lòng lâu rồi. Những chuyện anh quan tâm, bây giờ đối với mình là chuyện của người ta. Bạn bè anh chắc cũng thế. Anh thì vẫn cứ sôi sùng sục.

Hiếm có ai yêu chế độ này như anh, ôi anh Quốc ôi!

Bạn văn 2.

Có hơn chục năm không gặp anh Vĩ, có hôm ghé qua Huế, theo bù khú với bạn bè cũng quên anh luôn. Cho đến khi thằng Vân nói nó không xin được Trường nghệ thuật Huế cho con Lan Hà nghỉ học đi đóng phim, mình mới nhớ đến anh. Vụ này không có Tô Nhuận Vĩ không xong, mình gọi điện nhờ anh, may anh đi Mỹ mới về đang ở Hà Nội.

Anh em lâu ngày gặp nhau không khỏi có chút ngậm ngùi. Ở Huế nhiều người yêu quí mình, nhưng đụng sự thì chỉ có anh Vĩ mới có thể giúp được mình, luôn luôn như thế.

Anh Vĩ giải quyết êm ro, thằng Vân mừng hú.

Tính anh vậy, gặp anh là gặp vấn đề, không nghe anh nói chuyện văn chương, toàn vấn đề. Gặp vấn đề gì là anh nói say sưa, ở đâu cũng nói, gặp ai cũng nói. Nói và làm, làm hùng hục, vừa làm vừa khoe. Có việc thất bại, có việc thành công, việc thành công thì giả vờ khiêm tốn- Thôi ông ơi nhắc làm gì, tôi có công gì lắm đâu. Việc thất bại thì lờ đi, coi như chưa có chuyện đó bao giờ. Nhưng được như vậy là quí hoá lắm rồi.

Dựng nên tờ Sông Hương là anh Điềm, làm tờ Sông Hương nên nổi là anh Vĩ. Mỗi lần đi qua số 5 Đinh Tiên Hoàng thấy phục anh quá, không biết anh uốn lưỡi kiểu gì mà ông Vũ Thắng chịu cho tạp chí Sông Hương cái nhà to đùng, giá trị bây giờ cỡ vài ngàn cây.

Chính anh khởi sự in thơ tiền chiến, mời Trần Dần, Văn Cao, Phùng Quán... vô Huế năm 1987. Trong khi sĩ phu Bắc Hà, nhiều kẻ gặp mấy người này còn đánh bài lờ, vẫn sợ bị vạ lây. Chính anh cho mở màn những cuộc hội thảo văn chương đổi mới cả trên tạp chí lẫn trong hội trường, nổi tiếng khắp ba miền. Du lịch Huế bây giờ đỡ nhà quê hơn cũng nhờ có anh đóng góp. Tượng cụ Phan Bội Châu mười mấy năm trời lăn lóc giữa mưa gió, làm ổ cho chó gà tội lắm, nay được đưa về khu vườn cụ xưa cũng nhờ có anh chạy đôn chạy đáo hết lên tỉnh uỷ lại về sở văn hoá.

Tất nhiên nhờ dàn đồng ca kẻ sĩ Huế mà anh Điềm, anh Tường, anh Xuân, anh Sơn, anh Huấn đứng đầu, nhưng công anh không thể coi là nhỏ. Nói thế để kể chuyện xấu anh Vĩ cho trơn mồm... (hi hi…). Thực ra cuộc sống anh Vĩ chỉ gói gọn trong hai chuyện: vấn đề và gái.

Một hôm anh Điềm, anh Tường, anh Vĩ ngồi với nhau, hỏi nhau về công tác nộp thuế cho vợ. Anh Tường nói tôi chỉ đăng được báo văn nghệ ( 1 tuần/ số). Anh Điềm nói tôi cố lắm chỉ đăng được báo Dân ( Báo Bình trị Thiên-3 ngày/ 1số). Anh Vĩ nói các ông kém thế. Tôi đăng báo Nhân dân (ngày/ 1 số), ngoài ra đi làm phụ trương khắp nơi. Vợ con rồi ba ông này mới thân thiện, chứ xưa ở rừng ba ông này theo chị L. mà kình địch nhau, nói xấu nhau te tua. Cho đến khi anh Bổng từ Bắc vào nẫng tay trên. Ba ông tức lắm, lại đoàn kết nói xấu anh Bổng. Anh Tường nói tụi mình văn hoá đầy mình bị con L. cho chỏng vó cả. Cha Bổng có chi? Có một con trâu mà con L. đổ liền à. Nhục chi lạ.

Nói thế chứ chuyện tình ái anh Vĩ thường thắng lợi rực rỡ. Anh đã bám ai là dai như đĩa, không biết mệt mỏi là gì. Cái khoản nức nở của anh thì hết chê, đặc biệt anh viết thư nức nở sến, sến chảy nước, dài tràng giang đại hải. Ngày anh yêu cô T., mỗi ngày một bức thư 20 trang. Có bài điểm sách 2 trang anh Điềm nhắc mãi không viết, còn thư cho đàn bà ngày nào anh cũng tương đủ 20 trang. Mình hay đọc trộm thư anh, thừa nhận cực sến.

Với đàn bà, kinh nghiệm cho hay càng sến càng ăn. Về khoản sến, Chu Lai còn gọi anh Vĩ bằng ông nội. Anh cứ nói đi nói lại mỗi công thức trời Huế trong mắt em, ôi... Núi Ngự trong mắt em, ôi... Sông Hương trong mắt em, ôi... Thế mà gái chết như rạ. Tài.

Anh có bài lết bằng đầu gối rất kì khu. Một hôm mình thấy anh lết từ đầu hành lang đến cuối hanh lang, hai đầu gối nhoay nhoáy, mắt ngước lên đầy thành kính như ngước lên tượng thánh, nói những lời rên rỉ với cô kế toán cơ quan anh mà anh là thủ trưởng.

Anh lết 10 cô nhất định có cô động lòng.

Hết lết, anh lại ra đời hừng hực các vấn đề về tự do ngôn luận, về nhân quyền, về đổi mới, về du lịch, về quy hoạch đô thị, về môi trường. Xong anh lại chui vào bóng tối và lết, không hề mệt mỏi. Năm 1985, Bình trị Thiên bão nặng, cả thành phố chống bão, vất vả cả tuần. Anh nói chị Cúc: anh là thủ trưởng, phải chỉ huy anh em chống bão, không về nhà được, rồi chui vào phòng cô T. nằm im cả tuần. Anh em tìm anh khắp nơi không thấy, nghĩ anh bị lũ cuốn trôi, có người đã khóc. Anh Phan Tứ đem vòng hoa từ Đà Nẵng ra viếng vừa lúc anh chui từ phòng cô T. ra.

Mọi người tức lắm. Anh không nói gì. Lập tức lao vào các vấn đề hậu quả bão lụt. Trong 2 ngày anh tổ chức xong tờ báo về cơn bão số 8, với rất nhiều phóng sự nóng bỏng, nổi tiếng khắp nước. Được tỉnh uỷ khen, thưởng cho 8 triệu. Mọi người quên luôn chuyện anh bỏ bão lụt đi mò gái. Tài.

Yêu nhiều thì hoạn nạn nhiều. Hết cô này chửi anh dối trá, lại cô kia chửi anh dối trá. Khổ, không dối trá làm sao yêu được nhiều cô. Anh long đong lật đật đi hết cô này cô kia năn nỉ, nức nở, thề bồi.Rời các cô anh lại say sưa với các vấn đề về tự do ngôn luận, về nhân quyền, về đổi mới, về du lịch, về quy hoạch đô thị, về môi trường. Ai không biết cứ tưởng anh đã dành trọn đời cho các vấn đề anh nêu. Có biết đâu vấn đề đau đầu nhất của anh là đi giải quyết hậu quả các mối tình nửa nắng.

Cô T. muốn có con với anh. Anh viết thư cho cô: anh hình dung con chúng mình sẽ..ôi!, con chúng mình sẽ...ôi! Đến khi cô T. có chửa, anh lết cả chục lần xin cô bỏ cái thai đi.

Cô T. bỏ cái thai và coi anh là kẻ thù. Anh đập đầu khóc lóc rồi gạt nước mắt đi vào hội thảo, đọc một bài tham luận về đổi mới văn chương, ai cũng xót xa về thực trạng văn học nước nhà, tất nhiên trừ cô T.

Năm 1989 chia tỉnh, mình ra Quảng Trị. Chẳng ngờ cái bàn làm việc của mình lại là cái bàn làm việc của anh Vĩ trước đây. Mình lôi trong học bàn ra, đầy thư cô T. gửi cho anh. Lá thư cuối cùng là một mảnh giấy gói một nhúm lông cô T. đã cạo hết của cô gửi anh trước khi bỏ Huế đi Sài Gòn, kèm theo dòng chữ: Đời tôi, tôi chỉ căm thù hai kẻ: Đế quốc Mỹ và Tô Nhuận Vĩ! Mình điện gọi cho anh, anh nói: Ây ây đừng vứt, kỉ niệm đấy, kỉ niệm đấy! Ngày sau anh ra liền. Mình đưa nhúm lông cho anh. Anh cầm, không nhắc gì đến cô T., sôi nổi nói các vấn đề tồn tại của chia tỉnh và nhập tỉnh, sai lầm xét về phương diện kinh tế, sai lầm xét về phương diện văn hoá...

Anh nói say sưa như không hề nhớ trên tay anh đang cầm nhúm lông!

Bạn văn 3.

Hôm qua anh gọi điện nói: tao mới ra, có chai rượu ngon lắm, đến đi. Biết anh vừa về hưu, buồn, mình đến liền. Anh vẫn vui vẻ như xưa tuy đã đeo hai hàm răng giả.

Xưa anh với mình thân nhau cực kì. Cứ mỗi lần anh đến chơi nhà là cầm chắc được anh cho ăn phở, uống bia. Một bát phở hai chai bia, thế thôi, ngày xưa đói kém thế là quí hoá lắm rồi. Nhưng trước khi anh cho ăn phở, uống bia phải ngồi nghe anh đọc tiểu thuyết.

Sách anh in ra rất ít người đọc, có đọc cũng rất ít người nhớ. Mình cũng không đọc không nhớ. Nhưng nghe anh đọc thì sướng lịm sườn, cứ nghĩ Market phải gọi anh này bằng ông nội. Anh nhấn nhá chữ nghĩa rất giỏi, thỉnh thoảng lại dừng lại thít thít ở những chỗ hay, cứ thế anh đọc đến nửa đêm thì dừng lại, hỏi đói không rồi dắt mình ra quán phở. Bữa nào ra quán cũng một bát phở hai chai bia không hơn. Thế là quí hoá lắm rồi. Người khác thì đừng hòng. Anh ra NXB công an lấy tiền nhuận bút, ở đấy rất nhiều bạn quen, anh chọn đúng giờ tàu sắp chạy, lấy xong tìên, vội vã bắt tay nồng hậu nói tôi ra tàu đã nghe, kẻo tàu sắp chạy, tiếc quá không ngồi với nhau được một chút. Nói rồi anh vọt ra cửa nhanh như tên bắn, y như trốn thoát khỏi lũ cướp giật.

Thằng Bình làm phó cho anh, nghe mình kể được anh cho ăn phở uống bia, nó còn không tin. Nó nói anh đem khách đi ăn sáng còn đem phiếu về thanh toán nữa là. Nó nói anh làm giám đốc sở, liếm sạch bách, không cho tao được miếng chi. Nó nói người ta tát ao, chỉ bắt lấy cá to còn cá nhỏ để lại cho con nít bắt hôi, đằng này anh vét hết, một con cá mài mại, một con tép riu anh cũng không chừa. Bây giờ thằng Bình lên giám đốc sở, thằng Anh làm phó. Nó cũng nói về thằng Bình y chang như thằng Bình nói về anh.

Trước đó anh làm phó cho anh Đ. thì anh cũng nói về anh Đ. y chang như thế. Anh Đ. làm giám đốc sở, nói: anh em nhớ cho ai đủ 60 tuổi đều phải về hưu hết, kể cả thiên tài. Năm đó anh 59 tuổi, 7 năm sau vẫn nghe anh nói anh mới 59 tuổi thôi, than thở không biết bao giờ đủ 60 để về hưu, mệt lắm rồi.

Mình hỏi anh khi nào anh Đ. về hưu? Anh nói mi hỏi tao khi mô hắn chết thì tao biết, chớ về hưu thì tao chịu. Anh làm phó mãi, phát điên, nói với anh Đ.: đời tui có hai cái khổ, một là bọ tui hơn chín chục tuổi vẫn chưa chịu chết, nằm một chỗ ăn ỉa cả chục năm rồi mà không chịu chết cho, hai là anh làm giám đốc mãi mà vẫn không chịu về hưu. Anh Đ. nói à ha, tao tưởng tụi bay cần tao chớ, nói rứa thì tao về, ẻ vô, quẹt quẹt. Anh Đ. về thật, về ngay tức thì.

Anh viết một bài Nhân cách kẻ sĩ đăng trên báo tỉnh, ca ngợi anh Đ. không còn một lời nào. Sau đó anh lập tức sửa lại hồ sơ tụt xuống 5 tuổi. Anh nói với mình, ông Đ. sửa tụt cả chục tuổi, tao mới có năm. Sau đó anh họp toàn sở, nói: đồng chí Đ. kính mến đã nói “Ai đủ 60 tuổi đều phải về hưu hết, kể cả thiên tài”, tôi không cần nhắc lại nữa. Phàm là lời của tiền nhân cứ thế mà làm.

Năm ngoái anh 71 tuổi vẫn làm giám đốc sở, mình gặp thằng Bình hỏi: Mày đã viết bài Nhân cách kẻ sĩ ca ngợi anh ấy chưa. Nó cười phì nói sắp sắp. Nhân cách và tài năng thì chẳng biết anh và anh Đ. ai hơn ai nhưng anh thua anh Đ. cái khoản ghẻ ruồi.

Không hiểu trời hành hay sao, anh bị bệnh ghẻ ruồi kinh niên, bị từ hồi 40 tuổi đến nay vẫn không lành. Mùa đông không có vấn đề gì, da dẻ trơn tru. Cứ đến mùa hè là ghẻ mọc, chẳng mọc đâu cứ nhè háng anh mà mọc. Anh gãi ghẻ bất kì đâu, ngứa là gãi. Có lần mình thấy anh đứng nói với bí thư tỉnh uỷ, miệng nói tay thò vào quần gãi quẹt quẹt. Bữa đó anh đang giảng cho bí thư tỉnh uỷ về văn hoá phi vật chất là cái gì.

Một hôm họp sở, anh với anh Đ. ngồi bàn trên, bàn phủ kín vải hoa. Anh Đ. đang nói với anh em, anh ngồi bên, ngứa ghẻ quá, bắt chim ra khỏi quần, hai tay xát lấy xát để. Anh Đ. ngoảnh lại, thấy, nhăn mặt nói nhỏ: Mi mần chi rứa mi. Anh ngẩng lên tỉnh bơ nói chỉ đạo của giám đốc sở là rất sâu sát, đề nghị anh em ghi nhớ.

Anh nói với mình: ghẻ cũng đau khổ nhưng không đau khổ bằng con cái dốt nát ngu si. Anh có hai đứa con. Cô con gái tên H. học hết lớp 12 thì bỏ. Mình hỏi sao không cho con H. thi đại học? Anh cười hậc nói tao khen cô thầy tài, đến giờ nó vẫn chưa thuộc hết hằng đẳng thức đáng nhớ mà lấy bằng tốt nghiệp ngon ơ. Còn cậu con trai tên V. đi học kéo đàn violon 7 năm về, anh than với mình nó học kiểu răng mà 7 năm trời vẫn kéo đàn y như tao gãi ghẻ.

Năm ngoái mình về tỉnh chơi, thấy cô H. ngồi bàn có biển đề: chánh văn phòng. Mình nói với anh thế mà anh bảo nó dốt. Anh cười nhạt nói dốt chớ răng. Tao cho nó vào văn phòng sở làm văn thư, đánh máy không biết đánh, vô sổ không biết vô, chữ cờ vờ ( CV-công văn) cũng không biết, tức máu tao cho nó làm chánh văn phòng.

Mình cười nói chuyện nhà nước anh cứ ba lơn. Anh nói ba lơn rằng, không biết làm chi cả thì làm sếp chớ răng, ở mô không rứa.

Mình hỏi thằng V. làm gì. Anh nói làm phó đoàn ca múa nhạc của tỉnh. Mình trợn mắt nói cái anh này liều ghê. Anh nói liều chi, hát không biết hát, đàn không biết đàn thì làm lãnh đạo đoàn chớ răng.

Mình cười rũ. Anh kể: tao nói với thằng Hùng trưởng đoàn: mày bồi dưỡng, giúp đỡ thằng V. cho cứng cáp để nó lên trưởng đoàn rồi anh đưa mày lên phó sở. Được 6 tháng thằng Hùng đã chạy lên nói anh ơi thằng V. nó cứng cáp lắm rồi. Anh cười hậc một tiếng, nói: Đ. mạ, con tao tao biết chớ, cứng cáp cái mả cha nó!

Bạn văn 4

Chiều nay nghe anh Diện nói có ông Hải Bằng, cao thủ trong giới Võ Lâm truyền kì, ra thăm Hà Nội, tự nhiên nhớ anh Hải Bằng nhà thơ.

Anh Hải Bằng làm thơ từ thời kháng Pháp, nổi tiếng như cồn ba tỉnh Bình Trị Thiên. Anh hay ra Ba Đồn chơi, lần nào anh ra 1 vạn dân Thị Trấn ai cũng biết.

Mình nhớ như in hồi lớp 1, một hôm anh đến nhà mình, ba mình lật đật chạy ra ngõ khom người đưa hai tay ra bắt, miệng lập cập nói mời anh mờì anh, dù ba mình lớn hơn anh chục tuổi, quyền chức cũng gấp 10 anh, hồi kháng Pháp còn là xếp trực tiếp của anh.

Mình đứng ôm cột nhà nhìn anh, hồi đó còn bé thấy nhà thơ cũng giống nhà hoạn heo, không xúc động gì, chỉ đứng ôm cột nhà trương mắt nhìn.

Anh cúi xuống bóp chim mình một cái, nheo mắt cười chào, hỏi ba mình con anh có đứa mô biết mần thơ không. Ba mình nói dạ không, con tôi toàn giỏi tự nhiên, không đứa nào mê văn chương. Anh lại bóp chim mình cái nữa, nói tiếc hè, thằng ni trôốc ( đầu) to ri mà không mần được thơ, tiếc hè.

Anh uống rượu đọc thơ. Mạ và hai chị mình chạy vào chạy ra tiếp rượu, đồ mồi, thầm thầm thì thì, mặt mặt nghiêm trọng. Ba mình thì khúm núm nghe anh đọc thơ, nhìn anh ngưỡng mộ, thỉnh thoảng lại kêu lên hay! Sâu sắc!

Sau này thành nhà văn gọi là nổi tiếng, mình chưa đến nhà ai mà người ta ngưỡng mộ đến như thế.

Từ đó mình bắt đầu để ý thơ Hải Bằng. Hễ có bài nào anh đăng là chụp đọc ngay, rồi chép thành một cuốn sổ. Bây giờ đọc lại, thấy tàm tạm, chẳng bài nào hay, nhưng hồi đó bài nào của anh mình cũng ngây ngất như đọc thánh ca.

Chẳng ngờ 10 năm sau mình cùng được giải 3 (không có giải nhất) thơ Quảng Bình với anh, còn đứng trên cả ông. Hồi đó không xếp theo abc, cùng giải thơ, ai hay hơn thì xếp trên.

Một thằng cu con học lớp 10 lại cùng giải với một nhà thơ mình vô cùng ngưỡng mộ, thật còn hơn cả một giấc mơ, đừng nói còn xếp trên giải.

Khi trao giải thì mình đã đi học Bách Khoa, không vào Hội được. Tiếc quay quắt. Năm sau hợp nhất 3 tỉnh, mình vào Huế, đến Hội văn nghệ, đinh ninh cả Hội sẽ vây quanh vồ vập Nguyễn Quang Lập đó à, trẻ quá nhỉ, tài nhỉ, hoá ra lạnh như kem.

May có chị Dạ tiếp đón không thì chết đói ở Huế không biết chừng.

Tội nghiệp chị Dạ dắt mình đi, gặp ai cũng nói Nguyễn Quang Lập đây nì, ai cũng à, bắt tay rồi bỏ đi.

Hội đông người, mình chẳng biết ai ra ai, chỉ nhớ nhất Hải Bằng. Khi đó ông đang đứng nói chuyện với Bưủ Chỉ và Trịnh ông Sơn. Chị Dạ nói anh Hải Bằng, Nguyễn Quang Lập đây nì.

Anh ngoảnh lại, tưởng anh à, rồi bắt tay mình như anh Sơn anh Bửu Chỉ, hoá ra anh không thèm nhìn mình, hỏi chị Dạ mi đã đọc chùm thơ tau đăng báo Văn Nghệ chưa?

Chị Dạ nói đọc rồi, lại kéo tay mình ẩn về phía anh nói Nguyễn Quang Lập đây nì. Anh vẫn không thèm nhìn mình, mắt vẫn hướng về chị Dạ nói hay không.

Mình vừa tức vừa ngượng vừa tủi.

Chị Dạ lôi mình đi, miệng lẩm bẩm cái ông Hải Bằng ni tức cười, khi em được giải, ông khoe đi khoe lại thân với nhà em lắm.

Về sau mình mới biết Hải Bằng chỉ quan tâm đúng hai thứ đó là thơ anh và con Xíu, con gái đầu của anh.

Anh Sơn nói Lập vào đây nên biết, tất nhiên thơ Hải Bằng là số 1 rồi, còn ai là số 2, số 3, số 4 thì tụi mình tha hồ bầu.

Đúng vậy, ai chê thơ anh lập tức bị ăn chửi liền, dù người đó có là ông trời. Bạn chí cốt, nếm mật nằm gai một thời với anh như Phùng Quán cũng chưa bao giờ dám mở mồm chê một nửa câu thơ của anh.

Ai từng ở Huế, biết tí chút văn thơ, đều nhớ câu ca: thứ nhất là sợ đau răng/ thứ nhì sợ bác Hải Bằng đọc thơ. Một hôm anh Sơn phổ nhạc câu thơ này, theo điệu Lý năm canh, mình và Vinh Nguyễn cười lộn ruột.

Anh đọc thơ bất kì lúc nào, bất kì ai, không cần biết người đó có sẵn sàng nghe hay không. Đọc xong anh hỏi hay không, tất nhiên phảỉ nói hay, anh hỏi hay răng. Khi đó mà không nói được vài điều khen hay cho có lý, anh cũng chửi.

Anh có tài tạo hình bằng rể cây, chủ yếu là tạo hình các con thú. Nhà anh đầy những rể cây các con thú khác nhau. Đến chơi nhà, bao giờ anh cũng chỉ một hình rể cây vừa làm xong hỏi đẹp không, tất nhiên là nói đẹp. Nói xong thì lo thắt ruột sợ anh hỏi con chi, không nói được thì bỏ bà.

Các hình rể cây đều gắn lên đế gỗ. Cái đế nào cũng kí hai chữ Hải Bằng. Một hôm mình ngồi chơi với anh, bạn trai con Xíu đến chơi, nó nịnh anh, khen hình rể cây anh đẹp. Anh thích lắm, nói với mình, đó bạn con Xíu đó, bạn con Xíu đứa mô cũng giỏi. Thắng bé phởn, tưởng bở, cầm cái cái rể cây ngắm nghía, không biết là hình con gì, nó hỏi: Hải Bằng là con gì hả bác?

Anh hét lên con cái mả cha mi. Ngu rứa. Thằng bé sợ tái mặt, đứng đực, vẫn không hiểu vì sao anh chửi nó.

Làng văn Huế, Hải Bằng là bậc trưởng lão, tuổi nghề cũng như tuổi đời anh đều hơn hết thảy. Vì vậy anh có nói gì cũng chẳng ai dám ho he. Với lại biết bụng dạ anh chẳng có gì. Chửi đó thân thiện đó. Như con nít đang khóc thét dữ dội, gặp cái ưng ý là cười lìên, anh cũng vậy.

Buổi chiều vừa chửi anh Văn Lợi không còn một lời nào, tối mình dến nói anh chửi anh Văn Lợi chi tội, anh Lợi đánh giá thơ anh cực kì luôn.

Anh nói đánh giá răng. Mình nói phét anh ấy nói thơ Tố Hữu nhiều bài dở nhưng thơ Hải Bằng thì không có, tao đọc kĩ rồi, tìm mãi không thấy bài nào dở, tuyệt nhiên không.

Anh cười nói thằng Văn Lợi hay chơ. Sáng mai gặp Văn Lợi, anh nói cười như không, như chưa hề có vụ chửi ngày hôm trước.

Một đêm anh Sơn uống rượu, bày thơ Hải Bằng ra diễu, chỉ trêu vài câu thôi. Có ai đó nói lại với anh. Sáng sớm anh đã chặn cửa Hội chờ anh Sơn đến. Anh Sơn vừa đạp xe đến, anh cầm ghi đông xe chặn lại hỏi răng mi chê thơ tao.

Anh Sơn vội vàng nói anh đừng nghe chúng nó tào lao, vào đây em hát cái bài em vừa phổ nhạc thơ anh. Anh Sơn vừa hát vừa bịa, nghe cũng du dương phết, Hải Bằng cười nói bài ni hay, hay hơn Hạ Trắng nhiều hi!

Lần đầu mình đến chơi nhà anh, túi găm cái bút bi đỏ. Hồi đó bút bi thuốc loại qúi hiếm, bút bi đỏ càng hiếm. Anh rút cái bút bi đỏ ngắm nghía, khen đẹp rồi nói tao hí. Ạnh thản nhiên nhét cái bút vào túi anh, coi như mình rất phấn khởi được tặng anh cái bút.

Về sau mới biết anh nổi tiếng tau hí, gặp ai thấy cái gì hay là anh tau hí rồi lấy như không. Lấy rồi về vứt đấy, chẳng dùng nhưng thấy ai có cái gì hay hay là anh không chịu được, dứt khoát phải tau hí.

Một hôm, ở nhà anh Tường, mình và anh Quán chuẩn bị sang nhà Hải Bằng chơi. Anh Quán nói có cái chi hay thì bỏ ở nhà nghe, tụi mình sang nhà thằng tau hí đó.

Hải Bằng rụng răng sớm, 40 tuổi đã rụng răng, đến 50 đã phải đeo răng giả. Xưa rất thân Tôn Nữ Thu Thuỷ. Mọi người đồn là yêu, kể Tôn Nữ Thu Thuỷ đi chơi với Hải Bằng về, thấy cân cấn trong miệng, khạc ra, hoá ra là cái răng Hải Bằng.

Anh Tường bênh, nói sai rồi, tại Hải Bằng say đọc thơ văng cả răng, Tôn Nữ Thu Thuỷ nhặt được, nói tau hí. Hải Bằng tiếc lắm nhưng gái xin không lẽ không cho.

Anh Quán kể, Hải Bằng ra Hà Nội, anh tặng Phùng Quán cái bút Kim Tinh rất đẹp. Khi vào Huế, vào nhà thăm Hải Bằng, anh Phùng Quán cố tình găm cái bút Kim Tinh lên túi, mục đích để Hải Bằng cảm động khi thấy Phùng Quán đã gìn giữ nâng niu cái bút của mình .

Nhưng Hải Bằng quên mất đó là cây bút của anh, liền lấy cái bút ngay, nói với Phùng Quán tao hí.

Nhớ Nguyễn Khải

Đợt trước vào Sài Gòn còn gặp Nguyễn Khải, đợt này vào không còn thấy anh nữa. Tự nhiên thấy tiếc. Không nhớ mà tiếc. Đợt trước gặp anh được nửa giờ, tình cờ gặp ở vỉa hè, kéo vào ngồi quán cà phê nghèo ở hẻm, anh nói: Lập viết kịch hay, viết phim cũng hay, nhưng viết văn đi em. Mày bỏ văn lâu quá rồi. Đó là lần đầu tiên anh Khải gọi mình bằng em, bằng mày, trước nay toàn gọi ông xưng tôi dù anh hơn mình cả 20 chục tuổi. Đó cũng là lần đầu tiên mình tin anh Khải khuyên mình chân thành nhất.

Trước nay anh nói câu gì mình cũng khả nghi. Anh sống khéo nổi tiếng, chưa chê văn ai nửa câu. Hoặc khen hoặc không chứ chưa bao giờ chê. Gặp lần nào anh cũng khen, anh khen rất khéo, không lộ như Trần Đăng Khoa, nhưng mình vốn khả nghi anh từ lâu nên không bao giờ mình tin là anh khen thật. Khi nào cũng nghĩ: ông này có đọc mình đâu, chỉ khen thế thôi. Bởi vì ông nổi tiếng câu: Thằng nào thích khen thì khen cho nó chết. Vì thế dù anh khen có thật lòng cũng chẳng sung sướng gì.

Ở Hà Nội anh thân nhất là Nguyễn Khắc Trường, còn đám con nít tụi mình, anh chơi như sự chiếu cố mà thôi. Đấy là mình nghĩ thế, hoá ra không phải. Hồi đại hội IV nhà văn, mình còn hung hăng lắm. Mặc bộ đồ bò đầu gấu lên diễn đàn nói văng mạng, được vỗ tay càng nói hăng. Nói xong về chỗ thì run, không biết mình có nói hớ chỗ nào không. Nghỉ giải lao ra hành lang ngồi gần anh, hỏi: Em nói có được không anh? Anh nhìn mình chăm chăm nói: “Ông có cái miệng tươi kinh. Tôi mà đàn bà tôi đã có chửa với ông lâu rồi!”. Cả buổi sáng hôm đó mình cứ nghĩ vẩn vơ: không biết ông này nói thế là có ý gì, tại sao mình nói thế ông lại nói thế. Bốn năm sau gặp lại, hỏi hồi đó anh nói thế là có ý gì. Anh cười nói tôi nói thật mà ai cũng cho tôi nói lỡm, khổ thế. Khi ông lên diễn đàn tôi có nghe đâu, tôi đang tán phét với Đỗ Chu ở ngoài sảnh. Rồi ông thở dài: Đảng cho tôi nói lỡm đã đành, bạn bè cũng nghĩ vậy, chán mớ đời. Mình nghĩ bụng cũng tại anh quá thông minh, biết sợ, luôn cảnh giác, không tin ai thì ai cũng không tin anh thôi. Bụng nghĩ thế thôi chứ bố bảo cũng không dám nói.

Đợt đó anh khen mình, thằng Thiều, thằng Phong làm Văn nghệ trẻ giỏi, nói nhất định sẽ viết bài, mình cũng không tin. Bụng nghĩ: ông này nói thế thôi, dư hơi mà đi khen đám con nít ranh tụi mình. Hoá ra anh viết thật, khen nức nở, khen mình nhiều nhất, còn khen mình đẹp trai nữa he he. Cách đây gần hai tháng, mình viết đến 8h sáng thì vào buồng ngủ lại, chợt có điện của anh Trọng Huấn báo anh Khải mất rồi. Mình gọi điện lung tung báo cho mọi người. Đến một giờ chiều anh Huấn lại gọi điện nói anh Khải chưa chết, người ta chưa cho anh Khải chết. Mình hỏi sao, anh Huấn nói nhà tang lễ đòi có thẻ 40 năm tuổi Đảng mới cho vào chết trong đó, nhưng anh Khải đã vứt nó đâu rồi, tìm không ra. Ngao ngán hết nỗi, đến chết cũng khó thế thì sống làm sao. Anh Khải ôi anh Khải!

Trước khi vào Sài Gòn mình có đọc bài “Đi tìm cái Tôi đã mất” của anh, viết hay quá, hay đến nổi cả da gà. Đây là bài đầu tiên và cũng là bài cuối cùng Nguyễn Khải nói thật. Nhưng ai sắp chết mới chịu nói thật như anh cả thì bọn cần lao biết sống làm sao, sống thế nào!? Anh Khải ôi là anh Khải ôi!

Bạn văn 5

Gần anh Tường mới biết anh quí trọng anh Sơn như thế nào. Gặp nhau thì vẫn gọi ông tôi, nhưng khi vắng anh Sơn, anh Tường đều nói Trịnh Công Sơn thế này, Trịnh Công Sơn thế kia, tuyệt không gọi tên cộc lốc, chứ đừng nói anh gọi bằng thằng.

Hầu hết những người anh Tường quen thân anh đều kể cho mình chuyện thâm cung bí sử của họ. Riêng anh Sơn thì không, tuyệt nhiên không. Phàm bất kì chuyện gì mà nếu kể ra ngươì nghe có thể hiểu anh Sơn sang hướng khác thì có cạy răng anh Tường cũng chẳng nói ra.

Mình nhiều khi cũng lân la hỏi anh Tường chuyện gái gẩm của anh Sơn nhưng anh không nói, chỉ kể những chuyện anh Xuân đã kể, hoặc báo chí đã đăng.

Mình hỏi nhỏ anh Tường liệu anh Sơn có làm ăn gì được không, anh nói thì cũng rứa thôi. Chẳng hỉểu thế nào trong cái thì cũng rứa thôi ấy.

Có lần anh Quán nói bài hát, hình như là bài Hát cho người nằm xuống, anh Sơn viết cho một tên phi công ông Thiệu.

Vốn bản tính ôn hoà, lại yêu quí anh Quán vô biên, anh Tường vẫn không kìm được, nổi khùng ngay, nói bạn người ta chết thì người ta thương, cần chi biết phi công cho ông nào.

Tôí đó hai anh cãi nhau một trận tơi bời, giận nhau mấy ngày mới chịu làm hoà.

Mình ngồi nghe chẳng biết mô tê gì, chỉ nghĩ thầm, nếu là cha anh Tường, chắc anh cũng bảo vệ đến thế thôi.

Anh Sơn rời Huế vào Sài Gòn cuối năm 1982 đầu 1983 chi đó, năm 1987 mới chính thức ra Huế.

Nói chính thức là nói anh Sơn chính thức trở lại công chúng Huế, chứ năm nào anh Sơn cũng ra, khi thì một hai ngày, khi thì cả tuần, lần nào anh cũng tấp vào nhà bạn bè chơi, không bao giờ đến với đám đông.

Buổi sáng trước khi anh Sơn ra, anh Tường có vẻ nôn nao lắm, đi vào đi ra, mặt mày rạng rỡ, cứ như bạn bè cả chục năm mới được gặp nhau.

Anh Tường biết lần ra Huế lần này là cực kì quan trọng đối với anh Sơn. Trước đó, dù người ta vẫn hát nhạc Trịnh, là nói nhạc Trịnh trước 1975, nhưng chỉ ở nhà, còn nơi công cộng thì hầu như không có. Nhạc Trịnh trước 1975 bị mặc nhiên liệt vào nhạc vàng, kể cả những bài phản chíến có lợi cho cách mạng.

Chẳng ai nói ra, cứ lặng lặng cấm vậy thôi. Nghe nói trong việc này có “công” của ông H., có lẽ cũng vì kị tài. Mỗi lần nhắc đến ông H., anh Sơn tỏ thái độ coi thường tức thì, hiếm thấy ai anh Sơn phản ứng mạnh như thế, kể cả những người anh không ưa.

Năm đó đất nước bắt đầu đổi mới, ông H. đã ra làm to ở Hà Nội, anh em văn nghệ là bạn anh Sơn quyết định mời anh Sơn trở lại với khán giả Huế.

Đêm đó tại đại học sư phạm Huế, gần ngàn sinh viên kín đặc hội trường lớn đón anh Sơn.

Hiếm thấy khi nào anh Tường xúc động, hồi hộp đến thế, cái nốt ruồi to dưới cằm anh giật giật liên hồi.

Khi anh Sơn từ dướí hội trường đi lên sấn khấu, cả ngàn người vỗ tay rập rập, đập nhịp theo bước chân của anh, với một không khí ngây ngất lòng ngưỡng mộ.

Đời mình chưa thấy ai được công chúng ngưỡng mộ như anh Sơn đêm hôm ấy.

Anh Tường vỗ tay đập nhịp theo các em, ngây ngất theo các em. Niềm tự hào về người bạn mình rạng ngời trên gương mặt anh. Cái nốt ruồi luôn luôn giật giật.

Với nhiều người, tự hào về bạn bè bao giờ cũng chen một chút ghen tị, anh Tường thì không. Cái nút ruồi giật liên hồi chứng minh điều đó.

Anh Sơn lên sân khấu, tưởng anh hát nhiều, nói nhiều, nhưng không, anh chỉ nói đôi câu và hát bài Em là bông hồng nhỏ, rồi xuống.

Có lẽ anh Sơn vẫn còn nghi ngại, đất nước chỉ mới bắt đầu không khí đổi mới, bao nhiêu chuyện khó lường có thể xảy ra, nên chưa dám cởi hết lòng mình.

Biết vậy nhưng mình vẫn thấy sao a. Một không khí hụt hẩng bao trùm khi anh Sơn vui vẻ rời sân khấu.

Mắt anh Tường thoáng buồn, cái nốt ruồi đứng im phăng phắc.

Sau đó anh em kéo nhau về nhà Bửu Ý. Anh Tường vẫn đi bên anh Sơn, vẫn nói nói nói cười cười, nhưng để ý thấy anh có chút gì không thỏa mãn.

Có lẽ anh Tường nghĩ công chúng Huế xứng đáng được hưởng nhiều hơn những gì anh Sơn đã đưa đến cho họ, hoặc ngược lại, anh Sơn phải được công chúng Huế đón chào nồng nàn hơn thế nữa.

Mình nghĩ vẩn vơ thế thôi, chứ mọi người lúc này chẳng còn ai để ý đến chuyện đó nữa, họ quây quần bên mâm rượu nói chuyện tào lao, mi mi tau tau, chọc quê nhau vui vẻ.

Rượu vào lời ra, khi say say anh Tường nói đi nói lại với anh Sơn đáng lẽ ông phải hát bài này bài kia. Anh Tường có cái tật, khi ngà ngà hễ phát kiến ra điều gì là anh cứ đeo lấy nói miết, nói rất hay nhưng nhiều khi người nghe cũng nản.

Anh Sơn biết tính anh Tường, mặc kệ anh muốn nói gì thì nói, đùa vui tếu táo với mọi người. Anh Tường tức, tất nhiên rượu vào mới tức, nói to hơn, dai hơn.

Anh Sơn cầm đàn hát đi hát lại vấn đề là xì tin, vấn đề là xì tin, vấn đề đó ông ơi. Chẳng hiểu anh hát thế là có ý gì. Loanh quanh một hồi, thế nào anh Sơn anh Tường cãi nhau, lúc đầu còn nhỏ nhẹ, sau to dần, căng thẳng dần.

Anh Bửu Ý lúng túng không biết làm thế nào xoa dịu tình hình. đến cao trào, anh Tường cầm cái chén dằn cực mạnh xuống chiếu, nói dữ dằn . Anh Bửu Ý vội nói Tường nói rứa cũng có ý đúng.

Anh Sơn cầm cái chén dằn cực mạnh xuống đáp lại. Anh Bửu Ý lại vội vàng nói Sơn nói rứa cũng có ý đúng.

Hết Sơn nói rứa cũng có ý đúng đến Tường nói rứa cũng có ý đúng, anh Bửu Ý vô tình làm cuộc rượu tan.

Rượu còn nhiều, đồ mồi ê hề nhưng không ai muốn uống ăn chi nữa. Mọi người bó gối ngồi im.

Anh Tường bỏ mâm rượu đi ra, tưởng anh đi giải, hoá ra anh ra sân dựa gốc cây đứng khóc.

Mình chạy ra thấy mặt anh dầm dề nước mắt, anh nấc nấc, hệt chàng trai tuổi hai mươi vừa mất mối tình đầu.

Sáng mai tiễn anh Sơn đi, hai người vẫn mặn mà thắm thiết, nói nói cười cười, như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

Nhưng mình để ý thấy cái nốt ruồi của anh Tường đã đứng im phăng phắc.

Bạn văn 6

Hôm nay vào blog anh Tạo thấy nhắc đến Bài thơ của người yêu nước mình của Trần Vàng Sao rất trân trọng. Đúng, nếu chọn 10 bài thơ xuất sắc nhất dòng thơ chống Mỹ, thế nào cũng có bài đó và bài Thưa mẹ, trái tim... của Trần Quang Long. Không biết ông Thống làm ăn thế nào lại không đưa vào sách giáo khoa cho trẻ con nó học.

Nhưng đó là chuyện của cái ông đầu bù Đỗ Ngọc Thống, bữa nay nhớ anh Đính thì kể chuyện anh Đính thôi.

Mình về Huế mấy năm mới gặp anh Đính. Đọc bài thơ thấy tầm vóc quá, nghĩ người có cái đầu như vậy, theo cách mạng từ thủa chưa biết thắt lưng quần, thì chắc chắn đang làm to ở Hà Nội. Các kì hội họp, hội thảo, các đêm thơ phú tuyệt nhiên không thấy anh, cũng chẳng hỏi ai, cứ đinh ninh anh giống anh Trần Hoàn, đương nhiên ra Hà Nội lâu rồi.

Cái đêm hội thảo cuốn Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục, mấy ông mệ gộc và mấy ông đang cố gắng chứng minh mình là mệ gộc mặt mày đằng sát khí, làm ầm ầm.

Anh Bửu Chỉ cầm cái bìa do chính anh vẽ, xé hai chữ học phí đi, dơ lên cho mọi ngườì xem ba chữ Trả bằng máu. Anh cứ dơ ba chữ Trả bằng máu đi đi lại lại. Kinh.

Mình chỉ dám đứng ở cửa ra vào nhìn vào thôi, nghĩ bụng anh Phục có mặt ở đây chắc chắn bị voi giày.

Một người gầy gầy, đen đen, thâm thấp, ăn mặc như ông xe ôm đi từ trong hội trường ra, mặt mày sớn sác, miệng lẩm bẩm ua chầu chầu... mần chi dữ rứa hè. Hoá ra đó là Trần Vàng Sao.

Mình chạy ra gọi, nói em là Nguyễn Quang Lập. Anh lôi chiếc xe đạp ra, lật đật lên xe nói rồi rồi, mai mốt đến chơi nghe, tui về đã, sợ lắm. Anh vội đạp xe phóng ra khỏi cửa Hội, miệng vẫn không thôi lẩm bẩm ua chầu chầu chi dữ rứa hè.

Sau mới biết vừa hoà bình anh đã bị bắt, chẳng rõ vì chuyện gì. Hôm đến nhà, có anh Thái Ngọc San, mình hỏi anh sao người ta bắt anh, anh ngó trước ngõ sau, nói thôi thôi chuyện qua rồi, nhắc làm chi ôông.

Anh San nói thời đó lụât pháp bằng mồm thì bắt bớ cũng chỉ vì cái lỗ mồm thôi. Anh giật nảy nói với anh San mi nói nha, mi nói nha, chớ tao không nói nha.

Mình phì cười nói chi mà anh sợ rứa. Anh nói ua châù chầu, ôông không biết mô ôông

Từ đó anh không có cơ quan đòan thể, chỉ ru rú ở nhà, đơm tôm bắt cá sống qua ngày, thủ phận một ông nông dân chính hãng. Ai đến chơi nhà anh thì đến, anh chẳng dám đến nhà ai. Mình hỏi anh răng rứa. Anh nói nhà người ta sang như trời mình đến mần răng.

Nhà anh Điềm cách nhà anh có một đoạn, bạn học từ thủa con nít, lên rừng hoạt động cùng nhau, gặp nhau vẫn tau mi, nhưng nếu anh Điềm không dặn sang, không cho con sang gọi năm lần bảy lượt thì anh không bao giờ sang. Có bạn bè thì ngồi cùng mâm với anh Điềm, hễ có quan chức là anh tót xuống nhà dưới ngồi với đàn bà con nít liền.

Anh Điềm vẫn sang nhà anh luôn luôn, cho anh cái này cái nọ, làm to mấy khi về nhà, giờ trước giờ sau là sang nhà anh liền, vẫn tau mi như thời con nít.

Hôm mình về Huế, lâu ngày quên nhà anh, nhờ anh Điềm đưa sang. Vừa gặp anh Điềm, anh nói ngay răng mi cho ông Tường năm trăm mà cho tau có ba trăm thôi. Anh Điềm nói rồi để tau cho thêm mấy trăm. Anh nói tiền trong bóp mi đó. Anh Điềm rút bóp đưa cho anh: đây mi coi, thằng ni không tin mình bay. Anh kiểm tra bóp rồi cười, cái miệng móm chành bạnh không có thiệt, hay hè...bộ chính trị hay hè.

Nhưng đụng chuyện gì lại kéo anh em hỏi nhỏ ông Điềm nói răng không, ông Điềm nói răng không. Có lần hỏi mình, mình nói anh thân anh Điềm sao không hỏi anh ấy đi. Anh nói mâý hôm thấy mặt ông Điểm lầm lầm, tui không dám kêu thằng, kêu anh thì trẹo lưỡi, cực rứa chớ.

Những năm 1989, 1990 không khí đổi mới sôi sùng sục. Hội thảo liên tục, ai cũng nói năng hùng hổ. Mình tới rủ anh đi, anh nói ôông cứ đi đi, tui nhất trí hết nhất trí hết. Anh ở nhà, đi vào đi ra nơm nớp. Tối đến mới đạp xe tới nhà mình, đứng ngoài ngõ vẫy vẫy mình ra, hỏi nhỏ răng rồi răng rồi.

Tưởng anh vì tù tội đã mất hết nhuệ khí, đùng cái anh cho in bài thơ Người đàn ông 43 tuổi nói về mình. Hay lạnh người. Phải có một tầm vóc nào, một khí tiết nào mới có thể viết được một bài thơ như thế. Suốt 3 tháng trời đi đâu cũng nghe trí thức Huế bàn tán bài thơ của anh.

Khi đó mình mới hiểu ra Trần Vàng Sao là ngươì biết sợ chứ không phải người sợ

Mình nói với anh, chỉ một bài thơ mà hầu như ai cũng hiểu đến tận đáy nguyên nhân bi kịch chúng ta đang gánh chịu. Anh giãy nãy mi nói nha mi nói nha, tao không nói nha.

Mình nhăn răng cười.

Năm ngoái tình cờ lướt mạng, đọc cuốn hồi kí của anh. Khi đó mới ngã người ra, anh bị bắt vì lý do rất củ chuối, vì chính những người mà lâu nay mình vẫn tưởng là tử tế.

Cái chính là thông qua cuốn sách người ta hiểu ra thế nào là trí thức và phẩm chất người trí thức.

Mình gọi điện cho anh, anh nói ua chầu chầu chi lạ rứa hè... ai in ai in? Cuốn ni viết xong tui ném trên tra, đứa mô lấy mất. Mình nói người ta đưa lên mạng chứ không phải in. Anh nói mạng là cái chi, mạng là cái chi. Nói mãi anh mới hiểu.

Anh hỏi Lập ơi can chi không, can chi không. Mình nói anh đừng lo, thời buổi đổi mới rồi, không phải như xưa. Hơn nưã anh chỉ kể người thật việc thật, có nói xấu chế độ đâu mà lo. Anh nói rứa à... may chi nỏ.

Vừa đặt máy anh đã gọi điện lại hỏi Lập ơi can chi không, can chi không. Mình nói anh hay chưa, em nói mà anh không tin à? Anh nói rứa à... may chi nỏ.

Vừa đặt máy anh đã gọi lại nói Lập ơi can chi không, can chi không?

Người đàn ông 43 tuổi nói về mình

Trần Vàng Sao

1.tôi tuổi tỵ

năm nay bốn mươi ba tuổi

thường không có một đồng trong túi

buổi sáng buổi chiều

thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật

trong nhà ngoài sân với hai đứa con

cây cà cây ớt

con chó con mèo

cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê

cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô

thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn

hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết

một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa

miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ

cũng không có chi phiền

vấn một điếu thuốc hút

hai ba lần tắt đỏ

rồi nửa chừng rách giấy

bạn bè gặp nhau

cho uống một ly cà phê

một lần

qua hai lần phải tránh

không phải ai cũng nghĩ như mình

nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục

đưa tay cầm lấy

miệng nói không được

2.

tôi thấy tôi như người tù được thả rông

lang thang giữa đường giữa phố

nhìn hết mọi người

xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không

tôi đi lui

tôi đi tới

phố phường đông chật

tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ

chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng

tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc

lấy chân hất một hòn đá

cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường

rồi đi về

qua cầu dép sút một quai

tôi không muốn nhớ gì hết

3.

tôi ngồi trên hòn đá trước nhà

buổi chiều không có một con chim đậu trên cây

đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân

đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chưởi thề

những người đi bán về nói chuyện to

hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối

qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa

tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ

trong gió có mùi rơm cháy

tôi không biết làm gì hết

tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát

đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua

tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ

hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về

trời còn lâu mới tối

tôi đi gánh một đôi nước uống

4.

tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình

không định được ngày mai

có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai

cái kẹo gừng

có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ

lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt

mả cha cuộc đời quá vô hậu

cơm không có mà ăn

ngó lui ngó tới không biết thù ai

những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất

5.

lâu ngày tôi thấy quen đi

như quen thân thể của mình

tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi

buổi chiều không có cơm ăn

những con ruồi ăn nước mũi khô trên má

những đứa đau quan sát những con chuột

chết lòi ruột ở bến xe đò

những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em

con cái chưởi bới la hét trong bữa ăn

người điên ở trần đứng làm thinh

giữa trời mưa ngoài chợ

những ngày hết gạo hết tiền hết củi

muối sống không còn một hột của tôi

những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt

hai mắt tôi mở to

đầu tôi cúi thấp

miệng tôi há ra

những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm

dồn cứng chật cuống họng

nói thật lúc này tôi muốn được say rượu

họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng

6.

nhiều khi tôi quá chán

chân tay rã rời

đầu óc đau nhức

không muốn làm gì hết

mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết

để đất đá lá cây đầy nhà

tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ

dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác

nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố

bạn bè có đứa giàu đứa nghèo

đứa ngụy đứa cách mạng

đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết

đứa không có được một cái áo lành

đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm

trở về xách một cái bị lát

mặt cắt không có một hột máu

đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn

chờ khách ở bến xe

đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm

có đứa râu tóc dài che kín mặt

có đứa tàn không nhớ mình tên chi

có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam

ăn chợ ngủ đường

mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc

hết chuyện nói

hai đứa con đi chơi về cười nói

đứa nhỏ bắt tôi đánh trống

cho nó làm ông địa múa thiên cẩu

7.

cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre

tôi đánh

múa đi các con

này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu

và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền

múa đi các con

cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được

ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha

tôi vỗ tay hoan hô

và không biết mình có nhớ ra được

cái mặt ông địa không

Tháng chín 1984

BẠN VĂN 7

Lâu ngày không đến Nhà hát kịch Hà Nội, hôm nay đến chẳng gặp ai, chỉ gặp mỗi Tiến Hợi.

Nó hỏi có vở mới không ông, mình nói không. Nó nói từ ngày tôi đóng vai nhà thơ trong kịch Sám hối của ông, quay đi quay lại cả chục năm rồi. Bao nhiêu lần ông có vở mới tôi chẳng có vai.

Mình nói đùa ông kinh doanh vai Bác Hồ đủ no rồi, cần gì vai khác. Nó bảo hồi này có ma nào thuê tôi đóng đâu. Mớí sực nhớ sau bộ phim Hà Nội mùa Đông năm 1946 của Đặng Nhật Minh, đúng là không ai thuê Tiến Hợi đóng vai Bác Hồ nữa thật.

Chẳng phải nó không còn giống nữa, hay thủ vai kém, mà tự nhiên thế, cả kịch lẫn phim đều vắng bóng nhân vật Bác Hồ.

Ngày xưa thì nó nổi như cồn nhờ vai Bác Hồ. Nó trông ngoài giống y chàng Bác Hồ tại đại hội Tua, hoá trang thì Bác Hồ thời nào cũng giống. Nó còn học được giọng Bác, nhiều khi nghe y chang, khiến nhiều người xem rất cảm động.

Kịch, Phim bất kì đoàn nào có vai Bác không thể không mời Tiến Hợi. Rồi các kì lễ lạt, phong trào sân khấu hoá rầm rộ, hễ 30/4 hay 2/9 thì thế nào cũng có vai Bác Hồ xuất hiện trước đám đông, có khi nói đôi câu, có khi chỉ đứng trên ô tô đưa tay vẫy vẫy, chỉ thế thôi nhưng Tiến Hơi vớ được khẳm tiền.

Cả một mùa hè năm 1995, nó chạy xô từ Bắc vào Nam, thu tiền mệt nghỉ. Vào Nghệ an, chỉ đứng cho các cô gái múa vòng quanh chừng 5 phút cũng kiếm được bạc triệu. Để nguyên hoá trang bay vào Đà Nẵng, đứng trên ô tô vẫy vẫy, cười, rồi phát kẹo, cười, vẫy vẫy... nó kiếm gần chục triệu.

Vào Sài Gòn đứng trên khán đài đọc tuyên ngôn xong, bỏ túi cả chục triệu bay ra Hà Nội đến cung văn hóa nói với các em non sông Việt Nam có vẻ vang được hay không... hai triệu ngon ơ.

Thằng Tùng cứt nói Tiến Hợi có 10 ngày kiếm được cả 5 chục triệu. Buôn thuốc phịên cũng không trúng như thế

Thằng Hợi nói mọi người ơn Bác một, tao ơn Bác một trăm.

Trông ngoài thế thôi, tập luyện vất vả lắm. Thằng Hợi chăm nhưng hơi chậm, có cái bệnh mất tập trung, hay quên lời, nhiều khi thấy nó tập vất vả dễ sợ.

Mình nhớ hồi mình làm ở nhà hát, dựng vở gì đó của Phú Thăng, mình có chấp bút biên tập nhưng không nhớ tên vở, chỉ nhớ có vai Bác, mỗi lần làm thoại lời Bác đến khổ.

Thằng Hợi càng khổ hơn. Anh Tạo ( Hoàng Quân Tạo) nhiều lần tru lên đó là thằng Hợi nói chứ không phải Bác nói, ngu ơi! Nhiều lần điên lên anh Tạo quát Bác nói đéo gì nói thế hả!

Được cái thằng Hợi không tự ái, nó hết sức lắng nghe mọi người góp ý, sửa đi sửa lại cả trăm lần nó cũng sửa cho kì được.

Khổ nhất mỗi khi Bác xuất hiện, thế nào cũng có đám đông quần chúng. Đứng thế nào cho ra vị thế Bác, lại không được để Bác xa rời quần chúng.

Lắm khi thấy thằng Hợi lúng ta lúng túng như gà mắc tóc. Anh Tạo quát : Bác! Mày đứng thế đấy hả?

Mọi người cười rũ.

Quốc Toàn góp ý cho anh Tạo không đựơc gọi Bác Hồ, chỉ gọi Tiến Hợi thôi, tránh phạm huý. Anh Tạo nghe liền.

Nhưng thói quen gọi tên nhân vật, buột miệng vô thức rất buồn cười. Nhiều khi quên, anh Tạo còn kêu lên ôi chà chà xem cái thằng Bác diễn ngu chưa kìa.

Nói xong thì giật mình, sợ bằng chết. Đến khi say nghề quên hết, lại buột miệng kêu lên Bác Hồ ơi, mày diễn cái đéo gì đấy.

Chết cười.

Rồi cuối cùng mọi việc cũng êm thấm cả. Tiến Hợi lại nổi như cồn nhờ vai Bác.

Một đêm diễn xong, lãnh đạo thành phố lên tặng hoa bắt tay. Nó khom người kính cẩn bắt hai tay. Hoàng Dũng nói mày ngu thế. Nó bảo sao. Hoàng Dũng nói mày đang vào vai Bác, bắt tay kiểu đó, chẳng may có thằng nào chụp ảnh cái có chết không.

Đêm sau nó nghe lời Hoàng Dũng, lãnh đạo thành phố lên tặng hoa bắt tay, nó diễn vai Bác, bắt tay âu yếm lãnh đạo, lại còn vỗ vỗ vai thân thiện kiểu Bác cháu.

Anh Tạo mắng mày ngu thế. Nó bảo sao. Anh Tạo nói người ta là lãnh đạo, mày là cái đéo gì mà dám vỗ vai người ta? Nó bảo em đang vào vai Bác mà. Anh Tạo nói vào vào cái gì. Hết kịch là hết Bác nghe chưa!

Nó ra hậu đài thở dài nói Hoàng Dũng bảo một đằng, anh Tạo bảo một đằng, tao biết biết làm thế nào?Thằng Tùng cứt nói mày làm Bác mà đéo biết còn hỏi tụi tao.

Bạn văn 8

Mấy hôm nhờ thằng Khoa một việc, chẳng biết nó giúp được không mà không thấy điện thoại nhắn tin gì cả, đầu óc cứ lởn vởn thằng Khoa, chẳng làm ăn gì được cả. Thằng Đ. đang ở Đà Nẵng nhắn tin nói khéo không nó lại cuội đấy.

Chả phải, nó giống mình, chỉ tếu táo mấy chuyện ba lăng nhăng, đụng chuyện nghiêm túc thì không bao giờ.

Lại kể Chuyện không có trong sự thật in ở VNQĐ tháng 7-1996 ( hình như thế), anh Huân anh Đỉnh đang đau đầu, họp hành kiểm điểm lia xia, nó gặp mình nói: ông viết sai có một từ mà làm khổ ông, khổ cả chúng tôi. Mình hỏi từ nào, nó nói cái ông nhân vật trong truyện đéo phải chính khách.

Mình giật mình thấy nó nói đúng, nhưng truyện đã in ra rồi, biết làm sao. Họp hành ở đâu, nó cũng chê mỗi hai chữ chính khách ấy thôi, tuyệt không nói thêm gì cả.

Khác với cái ông NMLĐXZ gặp mình ở cổng VNQĐ thì vỗ vai nói không có gì đâu, Lập yên tâm, tụi mình biết cách làm cho mọi chuyện ổn thoả mà. Nhưng vào gặp anh Huân thì nói tôi vừa đuổi thằng Lập đi rồi. Từ nay cấm cửa mấy thằng khốn nạn ấy.

Ngày đầu mới gặp thằng Khoa, nó vỗ vai nói ông tài, đang sướng thì thấy nó vỗ vai cái ông bên cạnh nói ông tài. Sáng sau đến cổng hội nhà văn, gặp nó đứng với cái ông văn chương nhạt hoét, vỗ vai nói ông tài. Từ đó nó khen gì, mình cũng cười nhạt nhạt, gật gật đầu qua chuyện, kì thực bỏ ngoài tai hết.

Một hôm đi ăn cơm bụi với nó, nó lôi truyện ngắn mình ra bình, chuyện này hay chuyện kia dở cứ vanh vách, mình ngạc nhiên quá trời. Hoá ra nó có hai cách vỗ vai, một của anh K, một của nó.

Hiếm ai nổi tiếng như cồn bền bỉ 4,5 chục năm như nó. Mình gặp 10 người thì có 6 người không biết mình là thằng nào, 2 người nghe cái tên, xem cái mặt trên ti vi thì nhớ vậy thôi chứ chẳng biết viết cái gì, hai người còn lại thì may ra có 1 người biết mình viết văn, còn lại cứ Đời cát Đời cát nhắc hoài nhắc huỷ, mệt bã người. Nó thì 10 người nhớ cả 10, ít nhất cũng nhớ được một đôi câu thơ nó. Kinh.

Mình về quê khoe với tụi bạn là chơi thân với nó. Tụi bạn bỉu môi xì, bốc phét! Mày mà quen được Trần Đăng Khoa, lại còn chơi nữa, cứ làm như tụi tao ngu lắm.

Tưởng nó lơ ngơ, nói trước quên sau, hoá ra không phải. Hôm vợ thằng Phong dạy trường Trưng Vương nói 20/11 này anh làm sao mời được Trần Đăng Khoa về nói chuyện cho em với. Mình có hai thằng con học ở đó, cô giáo nhờ bố bảo cũng không dám chối.

Mình gọi điện cho nó, nó nói như không: ai chứ bố đã bảo thì tôi phải đi chứ. Mình nghi nghi, nó khét tiếng nói chuyện thơ, những ngày lễ lạt cả trăm nơi mời, nếu có nhận lời cũng phải khó khăn lắm, chứ nhận phát nhẹ tênh kiểu này dễ ăn cứt với nó lắm.

Sáng sau mình đến, thấy sân trường cả ngàn em đang ngồi, các cô thầy giáo ngồi đầy hai dãy ghế, mặt ai nấy vô cùng háo hức, nhưng không thấy nó đâu, gọi điện nó không nhấc máy, lo thắt ruột.

Nghĩ bụng mình phải liều chết chữa cháy rồi ném một mớ cặc dái vào mặt nó, cạch đến già không chơi với nó nữa. Hoá ra nó đến, cười cái xoẹt nói tắc đường, rồi đủng đỉnh đi vào, tương một phát hai giờ không nghỉ, chỉ uống đúng ngụm nước, cả ngàn em nhỏ sung sướng ngây ngất.

Mình thở phào nhẹ nhõm nói cảm ơn ông quá, nói thật tôi tưởng ông không đến, nó nói nhẹ tênh ông không biết tôi quí ông à.

Thằng Khoa nói chuyện thơ phải tôn nó lên bậc thiên tài. Xuân Diệu cũng nổi tiếng nói chuyện thơ nhưng mình nghĩ Xuân Diệu viết lách thôi, nói chuyện thì chán ốm, buổi nào cũng giống buổi nào, quanh đi quẩn lại chỉ một bài, tóm lại ông đi khoe ông chứ chẳng phải đi nói chuyện.

Thằng Khoa khác, nó biết trộn nhuần nhuyễn chuyện ba lơn với chuyện nghiêm túc, chuyện thơ với chuyện đời, thỉnh thoảng nhả ra mấy nhận xét rất quái.

Một hôm thằng Bùi Chí Vinh nói chiều nay tao với thằng Khoa nói chuyện ở trường Công Đoàn, mày đến xem tao đấu với nó. Mình không đi, chiều gặp thằng Vinh hỏi nó đấu thế nào, nó cười khì nói thua... đú má.

Nói chuyện với giáo viên, học sinh đã sẵn lòng ngưỡng mộ rồi, không tính làm gì. Nói chuyện với mấy ông công chức nửa mùa, chuyện gì cũng ta đây biết cả, đến nghe mày nói thế nào thôi. Thế mà chỉ sau 10 phút thằng Khoa làm mấy vị này nghiêng ngả cả, tài!

Một hôm nghe nó hẹn đi nghe nói chuyện với hội ngườì mù, bụng nghĩ thằng này chắc điên nhưng cũng dò theo nó xem thế nào. Vào hội trường thấy lặng ngắt, có thấy gì đâu mà chào với vỗ tay. Thế mà sau hai tiếng nó dừng, các vị người mù vây lấy nó, kẻ cầm tay, người sờ lưng vô cùng cảm động. Mình phục lăn nó luôn.

Vào Thanh Hoá, buổi sáng nói chuyện với tỉnh uỷ, lúc đầu mấy ông ngồi cho phải phép, vừa nghe vừa nói chuyện riêng, sau 10 phút bỗng im phăng phắc, có ông còn lấy sổ ra ghi chép. Mình ngồi sau mấy ông, họ rỉ tai nhau nói ông Khoa này tầm cỡ uỷ viên trung ương, he he.

Buổi chiều nói chuyện với với trại thương binh, cả mấy trăm người, công thần có, bất mãn có, lớp 1 có, đại học có, có cả một phần ba thương binh tâm thần, không cẩn thận, nói hớ một câu là vỡ mặt liền. Thế mà không, nó cứ nói tưng tửng nhưng ai nấy càng nghe càng say. Một nữ thương binh bỗng đứng vụt lên kêu to cảm ơn đồng chí nhà thơ Trần Đăng Khoa! Rồi bưng mặt khóc hu hu. Tài đến thế là cùng.

Chị L. xưa văn công tỉnh rất xinh đẹp, nghe Khoa nói chuyện, rỉ tai hỏi mình ông Khoa có vợ chưa. Mình nói chưa, chị bảo tôi cũng vừa bỏ chồng, ông làm mối tôi đi. Mình nói hồi sáng bà còn kêu ông Khoa bẩn nổi tiếng mà, khéo không phải lấy đũa gắp chim ông ấy đấy. Chị nói kệ, gắp thì gắp, tôi cũng phải kiếm miếng thiên tài đã.

Bạn văn 9

Đang ngồi tào lao với Jimy Nguyễn thì Quốc Trọng gọi điện hỏi ông viết thằng Tiến ngâm dái ở entry nào tôi không thấy, lập tức nghĩ bụng viết về ông này cũng vui.

Chẳng nhớ quen Quốc Trọng hồi nào nữa, cũng đến vài chục năm. Hồi anh vào vai Xuân tóc đỏ oách lắm. Gặp ở rạp Tháng 8, anh đi sát qua người mình mà không dám chào. Hết phim, các em xinh đẹp xúm đen xúm đỏ xin chữ kí, bụng nghĩ nhà văn nước Nam mấy ai như mấy nghệ sĩ điện ảnh không, may lắm có Trần Đăng Khoa với Nguyễn Nhật Ánh.

Hôm đi dự Liên hoan phim ở Nam Định, có mấy em chạy theo mình nói chú chú cho cháu xin chữ kí, sướng, kí xọet xoẹt mấy phát. Chúng xem chữ kí rồi tần ngần hỏi: chú ơi chú tên gì? Mình nói tên, chúng tròn xoe mắt nhìn mình như nhìn thằng vô lại. Hoá ra chúng nó tưởng mình đóng cái ông què trong cái phim gì đó chúng vừa mới xem, ngoảy đít kéo nhau đi, không thèm chào.

Trong số các đạo diễn, Quốc Trọng là tay chăm đọc sách và ham chơi với đám nhà văn. Nói trắng ra ở nước ta các đạo diễn chăm đọc sách như Quốc Trọng đếm không hết 10 đầu ngón tay.

Một số đạo diễn nói năng có vẻ hoành tráng lắm, kì thực văn hoá không được một nhúm, ngoài mặt tỏ ra khiêm cung với các nhà văn nhưng trong bụng bao giờ cũng nghĩ bọn này biết đéo gì phim. Quốc Trọng khác, anh kính trọng thật sự, dù không phải anh không biết viết.

Rượu say, cãi nhau vung tí mẹt, ai nói cũng không thèm nghe, hễ ông nhà văn lên tiếng là im liền, cũng cãi nhưng cái sự cãi không còn vung tý mẹt nữa. Anh nói tôi càng đọc các ông các thấy mình ngu, tiên sư bố các ông giỏi thật.

Mình gặp rất nhiều người hễ nhắc đến văn Việt là ra cái vẻ ta đây nhăn mũi phẩy tay y như vừa nghe ai đánh rắm, hỏi đã đọc chưa thì bảo tôi đéo đọc đấy làm gì tôi nào, nhưng hỏi văn tây có cuốn gì hay thì mặt cũng đực như ngỗng ỉa.

Mới gặp mình cũng nghĩ Quốc Trọng chắc cũng giống đám này thôi, hoá ra không, anh sành văn Việt còn hơn nhiều nhà văn suốt ngày nhận định văn Việt thế này văn Việt thế kia.

Quốc Trọng nói tôi sợ văn như sợ vợ, yêu phim như yêu con, địt mẹ sao mà tôi ưu điểm thế.

Anh đóng nhiều vai nhưng thiên hạ nhớ nhất vai Xuân tóc đỏ. Hễ cùng anh vào quán, thế nào cũng thấy vài cái nhìn ngưỡng mộ, thế nào cũng nghe mấy tiếng xì xào Xuân tóc đỏ đó kìa, thế nào cũng có người cầm ly bia đến, hai tay cầm cốc khom người nói cho em cụng anh cái, em ngưỡng mộ anh từ lâu rồi.

Quốc Trọng vỗ vai mình nói đây là nhà văn Nguyễn Quang Lập, thế nào người kia cũng nhún vai lịch sự chào mình chiếu lệ, rồi lại quay sang anh nói em không ngờ đời em lại được cụng ly bia với Xuân tóc đỏ, may cực.

Có hôm uống bia ở Hải Xồm, anh đi giải, được vài bước thì gặp mấy em nạ dòng đứng chặn, cười he he he nói cho tụi em bắt tay Xuân tóc đỏ cái. Mót đái lắm nhưng anh cũng đứng lại nói vài ba câu đu đưa mấy bà Phó đoan này, nhỡ khi có cơ hội có thể làm bàn- Cực lòng mót đái vì bia/cực anh anh chịu ngu chi lìa mấy em.

Xong rồi đi, được vài bước lại gặp mấy bà Phó Đoan khác kéo tay anh nói ui có phải Xuân tóc đỏ không. Tính nói không, vọt mau vào toilet nhưng lại tiếc của giời, lại đứng lại nói cười nhạt nhạt đu đưa mấy câu rồì xin lỗi nhá mình đang vội.

Mấy bà không chịu cứ níu lại xin cái chữ kí, xin số điện thoại, rồi hôn đánh chụt vừa chạy vừa cười he he he, mông đít đánh tanh tách.. cứ thế đến khi anh lao vào toilet, chưa kịp móc chim ra đã ướt sũng hai ống quần.

Quốc Trọng đi ra xoè hai ông quần nói tấn bi hài của anh chàng đội lốt Xuân tóc đỏ, he he he.

Quốc Trọng đạo diễn nhiều phim ti vi, giải vàng giải bạc có cả nhưng tuồng như chẳng ai biết anh là đạo diễn, thậm chí cái tên Quốc Trọng cũng không nhớ, hễ gặp anh là Xuân tóc đỏ Xuân tóc đỏ, lắm khi anh phát điên.

Một hôm vừa lên bục nhận cái giải vàng, hình như là phim Mùa lá rụng trong vườn, ra khỏi cửa có mấy em xúm đến xin chữ kí. Thấy cái tên Quốc Trọng mấy em nhắn mũi vừa đi vừa nói ui xời, tưởng là Xuân tóc đỏ. Quốc Trọng lắc đầu cười, nói: có đâu như đất nước tôi, yêu thằng tóc đỏ hơn người tóc đen

Anh uống rượu say, ngã dập mặt, người ta đưa vào bệnh viện, ném cho một xó không ai săn sóc. Vợ anh chạy đến kêu trời ơi, sao những lúc này không ai nhớ chồng tôi là Xuân tóc đỏ.

Gặp mình khi nào cũng ngồi bàn làm phim nhựa say sưa. Tôi sẽ làm thế này, tôi sẽ làm như thế kia. Anh nói với mình ông viết tôi cái kịch bản đi, chết tôi cũng làm. Thằng Tiến xoa đầu anh nói tuổi nhỏ làm việc nhỏ con ơi. Anh tức, cãi, uống say, tối về trúng gió bị méo mồm. Thằng Tiến nói đấy thấy chưa, cứ cãi nhau với tôi là mặt ông giống cái l. trâu ngay.

Mồm đang méo thì nói thôi từ nay trởn không uống nữa, hết méo lại nhảy đi uống ngay, gặp mình lại nói làm phim nhựa, tôi sẽ làm thế này tôi sẽ làm thế kia. Thằng Tiến lại xoa đầu nói con ơi con, con có nhớ lời Bác khuyên không đấy. Anh lại tức, lại cãi, lại say, nói địt mẹ tôi không làm phim nhựa tôi bằng con chó nhà ông. Tối về trúng gió anh lại méo mồm.

Mình đến thăm nói không phải trúng gió đâu, tai biến nhẹ đấy, thôi từ nay ông đừng uống nữa. Anh nói đéo phải, hễ tôi nhắc đến phim nhựa là trời lại vả tôi méo mồm, tức thế không biết.

Bạn văn 10

Hôm nay nhận được cái messages yêu cầu accept của thằng Phạm Ngọc Tiến, nó bảo mày xếp cho tao ngồi trên đầu thằng Nguyên nhé! Mình cười phì, nó cứ tưởng mình có thể sắp xếp được friends list, nhắn lại: ngu ơi, yahoo 360 không sắp được thứ tự friends list đâu. Nó nhắn: ok chấp nhận ngu lâu. Bỗng nhiên muốn viết về nó.

Thằng này có cái mạng không nổi tiếng, văn chương phim ảnh giải nọ giải kia thế mà ít ai nhắc đến nó. Văn có Họ đã trở thành đàn ông, Tàn đen đốm đỏ, Đợi mặt trời... Phim có Chuyện làng Nhô, Đường đời...thế mà lớp trẻ ít ai chịu nhớ tên nó.

Mình giới thiệu nó với tụi học trò, toàn cử nhân, thạc sĩ văn khoa cả, thế mà nghe tên Phạm Ngọc Tiến cứ ngơ ngơ như bò đội nón. Một đứa đập tay kêu a cái chú đầu trọc phải không? Chán mớ đời.

Chẳng bù cho mình, cái mạng nổi tiếng, động cái gì là thiên hạ bàn tán ầm ầm. Ra Hà Nội mua cái Charly cho vợ cũng nổi tiếng, bị một thằng mất dạy đập cho sưng mặt cũng nổi tiếng. Nhiều khi đến nhục.

Thằng Tiến nói tao còn nhục hơn mày. Mình bảo sao, nó bảo viết văn làm phim không ai biết, đến khi bị tiểu đường phát là cả nước ai ai cũng nhắc, đàn bà con gái biến sạch, nhục thế không biết.

Triển lãm tranh thằng Lê Thiết Cương, nó ôm vai Phú Quang giới thiệu với mấy em chân dài, nói ông này là chủ tịch Hội đái đường Việt Nam, tôi là phó chủ tịch. Phú Quang ngượng, nói ông này nói gì thế. Nó nói tôi nhờ đái ra đường mà nổi tiếng, ông phải cho tôi PR chứ.

Hồi còn trẻ nó say sưa tối ngày, sà vào mâm ruợu nào không say không bỏ cuộc. Nhiều khi nghĩ mãi không ra, không biết thằng này viết lách khi nào mà sách vở, phim trú ra ầm ầm.

Có hôm 8 giờ tối mình gọi về nhà nó, gặp vợ nó, nói cho anh gặp Tiến cái. Vợ nó nói dỗi, nói nhà em sao về sớm thế anh. Mình kể cho nó nghe, nó cười hẻ hề , nói dỗi hờn là trách nhiệm và nghĩa vụ của đàn bà, mày lo cái gì.

Nói thế chứ yêu vợ con đến chết. Mình nhớ hôm đầu tiên nó đưa đến nhà nó, đến cổng nó bảo mày đứng đợi tao ở đây, tao ra chợ kiếm đồ mồi, cấm không được vào nhà nghe chưa. Mình hỏi sao, nói nói mày vào chẳng may vợ tao yêu mày phát, có phải chết tao không. Mình cười, nói nàỳ, tao kể cho vợ mày nghe chưa. Nó chắp tay vái, nói Lão Phật gia tao đó, mày nói tối nay nó vặt hết lông tao.

Buổi tối ra phố mua sữa cho con Ngọc, mua xong thì gặp bạn, uống đến say tít, vùng đứng dậy nói chết chết tao phải về cho con Ngọc uống sữa. Loạng choạng phi xe ra, ngã, tài liệu, tiền bạc rơi tứ tung không nhặt, nó cứ loạng quạng mò mẫm, nói hộp sữa con tao đâu, hộp sữa con tao đâu.

Được giải A giải thưởng Hội nhà văn cuốn Họ đã trở thành đàn ông, hồi đó được 3 triệu, mừng lắm, ôm tiền khư khư, cười khè khè, nói bố mày phải đem về cho vợ đổi cái xe, chúng mày đừng có gạ bố mày uống nghe chưa.

Nói thế nhưng vẫn kéo nhau vào quán, uống say, cái tính hễ say đem tiền ra phát chẩn, chạy hết nhà này sang nhà khác, gặp con nít cứ dúi tiền ào ào, nói bác được giải thưởng bác cho, giải Hội nhà văn to lắm, lo gì, lấy đi lấy đi. Sáng mai tỉnh dậy sờ túi chẳng còn đồng nào, mặt đực như ngỗng ỉa, nói thôi bỏ mẹ rồi, vợ mình hết đường đổi xe.

Nó đóng cửa cày một tháng, quyết làm cho được cái phim Chuyện làng Nhô, lấy tiền đổi xe cho vợ. Ai gọi nhậu thì mắng bố mày đang ân hận đây, đừng có rủ rê, yên cho bố mày tạ tội Lão phật gia.

Từ ngày bị tiểu đường nó hết uống, nhà nó thằng em chết vì tiểu đường, nó sợ là phải. Nó ngồi với bạn cứ ngơ ngơ, nói cười nhạt nhạt, tội tội làm sao a.

Trước đây ngày nào cũng gặp nó, bây giờ cả quí không thấy mặt, phần thì tiểu đường kiêng khem không nhậu nhẹt gì, phần thì mua cái xe ô tô, bận rộn đưa đón vợ con suốt ngày. Ngồi chưa nóng chỗ đã đứng dậy, nói chết chết tao đi đón vợ đây, chết chết tao đi đón con bé đây.

Thằng Việt Hà nói ngu, đã làm văn nô bây giờ còn làm gia nô, có khổ không? Nó cười, nói đúng đúng từ ngày cưới vợ, viết văn đời tao từ ngu trở lên. Ngu nhất là lỡ yêu chúng mày.

Anh Đỉnh nói thằng Tiến nói thế thôi, không có bạn nó chết bất đắc kì tử. Nó nghe nói thế lại quăng cặp ngồi thừ.

Đôi khi điên lên, cầm li bia hùng hổ nói uống phát chết thì thôi, gặp bạn bè không uống còn ra cái đéo gì. Bảo Ninh lườm, nói thôi đi ông ơi, ông chết không ai nuôi vợ con ông đâu. Nó lại đặt cái li xuống, nói ừ nhỉ. Rồi mặt đực ra, cười cái xoẹt, mắt ươn ướt nước.

Mọi người uống bia, nó uống nước suối, nói cười như không, nhưng nhìn kĩ thì biết cái vẻ đắng cay của người lâm nạn. Mọi người an ủi, nó xua tay cườì hề hề, nói nhờ tiểu đường mà tao được vợ con phong cho người cha ưu tú, người chồng nhân dân. Nghe cái giọng nó như sắp khóc.

Mọi người nhìn nó bùi ngùi, nó trợn mắt quát nhìn cái gì, tao đang ngồi nhớ thời huy hoàng say của tao.

Thời huy hoàng say của nó thì nhiều chuyện lắm. Nhớ nhất hôm buổi sáng nhận giải A Hội nhà văn Hà Nội cuốn Tàn đen đốm đỏ, buổi chiều nhận giải A Nhà xuất bản Kim Đồng cuốn Đợi mặt trời, uống say nhừ tử, loạng quạng đi về, dúi tiền cho vợ rồi vào nhà tắm. Tắm xong, quên mặc áo quần, cứ thế trần truồng đi ra.

Gặp lúc hai cô bạn vợ đến chơi đang ngồi phòng khách, vợ nó đang làm gì dưới bếp. Hai cô nhìn thấy nó thế thì mặt đỏ tía tai nhưng không dám nói. Nó cứ như không rót nước pha trà mời, hai cô nói thôi thôi anh vào nhà đi, mặc tụi em. Nó nói không được, vợ vắng thì chồng phải tiếp chứ, cứ thế nói nói cười cười đi đi lại lại.

Vợ nó ra, hét lên trời ơi quần áo anh đâu. Nó nhìn xuống sững người, nói sao thế này nhỉ? Xưa nay ngoài em ra, có đứa nào dám cởi quần anh.

Bạn văn 11

Cũng chẳng nhớ quen thân anh Đỉnh từ lúc nào, hình như từ năm 1987, khi mình lên trại viết Suối Hoa. Một hôm thấy anh xách con Thảo lên trại, nói chúng mày cho tao ở với. Anh chẳng nói thêm gì nhưng thằng Tín (Nguyễn Trọng Tín) nói anh Đỉnh có chuyện buồn. Mình hỏi sao, nó nói má... cạy được răng ông này khó lắm.

Anh Kim Lân nói chúng mày động viên thằng Đỉnh chút, tội. Mình hỏi sao, Kim Lân nói nó sắp bỏ vợ rồi.

Anh Kim Lân thì thân anh Đỉnh lắm, còn quá anh em ruột, khi nào anh Kim Lân buồn, gọi điện nói Đỉnh ơi tao buồn là anh Đỉnh lại lóc cóc chạy đến liền. Cái vụ li hôn của anh Đỉnh, anh Kim Lân tất tả ngược xuôi ra sức cứu vãn nhưng không thành, nói tao nói trung ương nghe mà vợ chồng thằng Đỉnh không nghe.

Về sau thì biết anh Đỉnh thân quen có đến cả mấy tiểu đoàn, thượng vàng hạ cám đủ hết. Hỏng cái xe có mấy thằng đàn em lo, làm cái nhà có chục đàn em xung phong giúp không công, vào quán rượu nào cũng thấy mấy ông mặt mày hầm hố gọi đại ca đại ca. Anh nói thằng này sửa đồng hồ, thăng này bán bia ôm, thằng này võ sư, thằng naỳ Sơn đông mãi võ giang hồ khách... nghe ù tai.

Anh Công Khế mỗi lần ra Hà Nội, nhậu đâu thì nhậu, sao rồi cũng có một lần ngồi nhậu với anh Đỉnh trước khi lật đật bay vô Sài Gòn. Anh Vũ Trọng Kim vừa ra Hà Nội nhậm chức bí thư thứ nhất TW Đoàn ngày trước, ngày sau đã nói ông Đỉnh đâu rồi, kiếm ông nhậu chơi đi.Một hôm còn thấy anh Đỉnh ngồi với một ông to lắm, ôm vai hót cổ, nói ông ông tôi tôi, say lên còn vọc chim ông ấy, cười khe khé, mình thấy mà thất kinh.

Ấy là người khác giới, còn văn nghệ sĩ thì vô thiên lủng, mình gặp ai cũng thấy anh Đỉnh đã thân quen ngươì này lâu lắm rồi, kể cả những người xa lắc xa lơ, bên Tàu bên Mỹ, mình chưa kịp nghe danh anh đã quen thân rồi. Hay!

Anh Đỉnh quen thân ai cũng rất tự nhiên, tuồng như không cần một cố gắng nào. Chỉ gặp nhau vài lần rồi người kia tự khắc có nhu cầu kết thân, cứ chơi bời thân thiết vui vẻ thôi chẳng để làm gì. Anh chẳng lợi dụng ai mà ai cũng chẳng lợi dụng anh.

Ngườì nho nhỏ xâu xấu, quyền hành không có, tiền bạc không, tài cán cũng không sáng chói để người ta nể phục, thế mà hễ anh gặp ai là người đó muốn quen thân. Lạ!

Không kể anh quen thân cả chục buôn dân Gia Rai, mỗi lần anh về thăm, dân coi anh như già làng trưởng bản, quí trọng vô cùng. Anh đã từng uống máu ăn thề với dân, uống hết bát to máu trâu, lấy cái dùi nung đỏ đặt ngực, thịt cháy xèo xèo, mắt nảy đom đóm, miệng vẫn cười tươi. Bây giờ vẫn còn nguyên một cái sẹo to đùng ở ức ngực.Chơi tận tình đến thế chỉ có anh là một. Tài!

Cứ lẩm nhẩm tính cả cuộc đời, mỗi ngươì thân phải dành chí ít là chục ngày cho họ thì anh Đỉnh phải sống được chừng 200 tuổi mới có đủ thời gian để giao du, đừng nói là viết lách.

Thế mà anh ra sách ầm ầm, toàn tiểu thuyết không, sợ thế. Mới xong bộ ba tiểu thuyết Ngựợc chiều cái chết, Tiễn biệt những ngày buồn, Ngõ lỗ thủng, quay đi quay lại đã thấy anh ra Lạc rừng, ẵm cái giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội nhà văn, tiền tiêu chưa hết đã thấy ra Sống khó hơn là chết rồi. Kinh!

Bảo Ninh nói cha Đỉnh sống khó hơn chết thật, hầu bạn đã bạc mắt, lại còn hết lo con bà này đến lo con bà kia, rồi viết sách viết siếc, thủ trưởng thủ triếc... thôi thôi chết quách đi sướng hơn.

Anh Đỉnh cười khì khì, nói tôi đâu phải như ông, sách một cuốn, vợ một bà thế mà lo quắn đít. Tôi nộp thuế cho vợ đầy đủ nhất Hội Nhà văn nhé, có thua thì thua Đoàn Tử Huyến thôi chứ quyết không thua ai.

Đã đến kì tóc bạc da mồi, nghe nói nộp thuế cho vợ thằng nào cũng ớn, anh Đỉnh gần sáu chục tuổi đầu vợ bắt nộp thêm thuế giá trị gia tăng anh cũng không ngán. Phục!

Anh có tính sợ con, hằm hè đâu thì hằm hè, về nhà con lườm cái là thè lưỡi rụt cổ, không dám ho he. Thằng Cún 7 tuổi mải xem ti vi, anh muốn nhắc nó học mà đi vô đi ra năm lần bảy lượt, thỉnh thoảng liếc nó cái, nói khẽ Cún ơi, rụt rè như nhân viên gọi thủ trưởng khi ông đang mắc bận. Thằng Cún quay lại nhăn mặt, nói con xem xong hoạt hình này đã. Anh rụt cổ thè lưỡi nói ừ thôi thôi thôi, bố nhất trí liền.

Một hôm anh gọi điện ầm lên nói đến ngay đến ngay không tao chết giờ, tao sắp tự tử đây này. Mấy thằng ba chân bốn cẳng chạy đến, hỏi sao, anh khóc nói con Thảo nó giận tao hu hu con Thảo nó giận tao. Tưởng nó giận gì hoá ra nó dỗi tí, sang nhà dì nó ngủ lại, thế mà cuống cà kê, làm như trời sắp sập đến nơi.

Anh nói thạo tiếng Gia Rai, còn soạn cả bài hát tiếng Gia Rai làm huyện ca, khi nào anh hát cái bài huyện ca ấy thì cầm chắc là anh say. Nhưng ngoại ngữ thì dốt cực, không phải dốt mà không biết tí gì. Mình cũng dốt ngoại ngữ nhưng anh Đỉnh còn tệ hơn.

Thỉnh thoảng ngồi với mấy ông tây, nghe bạn bè nói lia xia, anh cứ ngôì ngơ ngơ như bò đội nói, nghe người ta cười thì rối rít hỏi nó nói cái gì mày? Nó cười cái gì mày?

Cái số anh này thế mà may, đi Nga học trường Goorki 6 tháng, trong tay có cuốn hội thoại Việt Nga. Muốn nói câu gì thì chỉ vào câu Việt rồi đưa cho người Nga, người Nga lại chỉ vào câu Nga đưa lại cho anh để anh nhìn sang câu Việt. Thế mà thông suốt cả. Còn tán được em Nga chân dài miên man, ngực to bằng cái rổ, đã đời.

. Đi Mỹ, thằng Sơn ( Nguyễn Thanh Sơn) soạn cho cả một cuốn sổ nhỏ hội thoại Việt Mỹ. Tại sân bay bà Dạ ( Lâm Mỹ Dạ) lạc mất đâu tìm không ra. Anh cuống lên, đến gặp một thằng Mỹ, muốn xin nó vào tổng đài sân bay a lô hỏi bà Dạ đang ở đâu. Nhưng cuốn hội thoại của thằng Sơn không có trường hợp này, anh nói bừa: For me a lô... For me a lô... thế mà thằng Mỹ cũng hiểu, hi hi.

Nhưng sự đời không thể may mãi được. Một hôm anh về nhà thằng Nguyên ( Phạm Xuân Nguyên) nằm vật ra sàn nhà cười khà khà, nói tao biết tiếng Nga rồi, thằng Nguyên hỏi biết sao, anh vênh mặt lên nói ban sôi a- pi zờ đa- đe vuk sờ ka là chào em xinh đẹp.

Thằng Nguyên nói ai dạy anh thế, anh vênh mặt lên nói tao biết chứ ai dạy. Thằng Nguyên nói ngu ơi, người Nga không ai nói thế nhưng đó là cô gái bướm to. Anh tái mặt nói thôi chết cha rồi, tao vừa nói với bà nhà văn Nga, hèn gì mặt bà đỏ rực...tao lại tưởng được tao khen đẹp bà ấy sướng, ngu thế không biết.

Bạn văn 12

Chiều nay đi ăn cưới thằng Bùi Trung Hải, đang ba hoa với một em người mẫu thì có người đập vai, nói ông Khốt ta bít ơi, không còn sợi tóc đen nào nữa đây này, ba hoa gì lắm thế hả, ngẩng lên hoá ra chị MYZ.

Chị MYZ, gọi thế vì chị không muốn nêu tên, ra Hà Nội từ lâu mà mình không biết. Chị đã bỏ nghề sân khấu, mở cái shop Thời trang, buôn bán rất được nhưng thỉnh thoảng nhớ nghề lại một mình ngồi khóc .

Chị đã hơn 40 tuổi vẫn xinh đẹp, đi đến chỗ nào rực rỡ chỗ đó, đám trai già như mình, ông nào ông nấy gãy lưỡi vì chị.

Công nhận chị đẹp bền, chẳng cần trang điểm gì lắm cũng ăn đứt mấy em 7x 8 x, nhiều anh trai tơ loạng quạng còn nhầm chị là gái đôi mươi, bám theo chị à ơi suốt buổi.

Có đêm chị đang vội, vẫy mãi không taxi nào dừng, có thằng con nít đi xe máy qua, nói em ơi đi đâu anh chở đi, chị nói anh chở em về chỗ nọ chỗ kia, thằng này mừng lắm chở chị đi ngay.

Dọc đường thằng cu con giở giọng à ơi, nói sao em xinh thế mà anh không biết nhỉ, chị nói dạ tại em đẻ trước anh quá lâu.

Thằng này vẫn không tin, nói em mấy tuổi mà dám nói đẻ trước anh, chị nói dạ em bốn tư, chắc bằng tuổi mẹ anh. Thằng này ối một tiếng, phanh kít cái, gục mặt hồi lâu mới ngẩng lên, nói thôi được, cháu vẫn chở cô đi. Dọc đường câm miệng hến, chị thích chí cười rích rích.

Chị tốt tính, thường hay giúp đỡ mọi người, nhưng tính thẳng, gặp chuyện trái tai là độp lại liền, anh em trong đoàn gọi là mẹ Đốp.

Ngoài này cũng gọi chị Dương Thu Hương là mẹ Đốp, tính chị cũng y chang tính chị Dương Thu Hương

Hôm đoàn kịch tổng kết năm, mấy anh lớn tuổi trêu chị, chị tức nói tôi ỉa vào mặt các ông. Một ông nói đây đây tôi nằm ngửa cho bà tụt quần ỉa để tôi xem cái của bà he he!

Chị xông tới đòi tụt quần, nói nằm xuống nằm xuống đi! Mấy ông này bỏ chạy té re.

Cái chuyện này cũng y chang chuyện chị Dương Thu Hương đối đáp với mấy ông nhà văn cùng lứa. Sao mà giống nhau thế không biết.

Một đạo diễn Hà Nội vào làm vở, thấy chị thì thích lắm, làm bộ quan trọng, gọi chị ra riêng, nói anh muốn giao vai này cho em, em thích không, chị nói em thích lắm. Ông này nói tối nay đi ăn tối với anh nhé, chị cười nói ăn tối xong rồi sao nữa anh, ông này cười cười, nói em còn hỏi anh câu đó.

Chị nói thôi, để em tụt quần cho anh chơi ngay giờ, ăn uống làm gì mất thời gian. Nói xong thì tụt quần liền. Ông đạo diễn vội vàng quay mặt, bỏ đi liền, từ đó không dám ho he gì nữa.

Hôm đi dự Hội diễn sân khấu ở Đà Nẵng, chị nhận được tin nhắn của một vị giám khảo: Em nen co them mot huy chuơng vang nua đe đuoc nghe si uu tu. Anh o phong 216, chieu nay len voi anh nhe! Lập tức chị gọi máy, nói này, thằng già kia, bướm tao ngàn vàng khôn chuộc, một cái huy chương vàng dởm của mày mà đòi đổi á, ngu thế!

Trên sàn diễn nhiều chuyện cười ra nước mắt. Mặt chị trẻ đẹp, giọng lại trong vắt, chị thường vẫn phải đóng cặp yêu đương với đám thanh niên, ngày thường vẫn gọi cô xưng cháu, gọi mẹ xưng con.

Phải cưa sừng làm nghé, em em anh anh với đám con nít ranh, nhiều khi ngượng lắm nhưng chẳng biết làm thế nào, trong đoàn không có ai trẻ đẹp diễn tốt như chị.

Tập kịch, đóng cặp với một thằng trẻ, đạo diễn bảo phải hôn thật, thằng cu con thật thà, cứ đè cổ chị hôn. Chị đẩy nó ra, đá đít nó, nói hôn là hôn vậy thôi, chứ mày định dúi lưỡi vào mồm tao hả!

Hôm chị diễn kịch Nga Những con hươu xanh, đóng cặp với một thằng chưa đầy 30 tuổi. Thằng này nhậu nhẹt tối ngày, miệng hôi rình, cứ thở hắt vào mặt chị, đã thế lại có xen nhảy đôi với nó, mặt sát mặt môi kề môi, hôi quá, nhiều khi chị muốn oẹ.

Thằng này cứ mặc kệ, cứ ghé sát mặt chị, nói hết chiến tranh rồi, anh sẽ về với em. Chị lườm yêu nó phát, mặt cúi cúi ra cái vẻ xí hổ, kì thực để tránh cái miệng hôi rình của nó, nũng nịu nói ứ ừ... anh không mua nổi vé tàu đâu.

Nó lại cúi mặt xuống sát mặt chị, nói anh không đi bằng tàu, anh đi trên những con hươu xanh. Chị áp má mình lên vai nó, thái độ rất nũng nịu, nói khẽ mày đừng thở vào mặt tao thằng ngu, rồi nói to giọng ngây ngất những con hươu xanh, làm gì có những con hươu xanh, đấy là em nghĩ ra đấy chứ.

May hồi đó micro treo cao chứ không đeo ve áo như bây giờ, chẳng ai nghe thấy.

Thằng này vẫn cứ mặt sát mặt môi kề môi, nói em nghĩ ra là nó có, anh sẽ đi trên những con hươu xanh, băng qua những cơn bão tuyết, mịt mù như khói...

Chị nấc lên cảm động, nói ôi Anđrây, em yêu anh... rồi áp mặt vào tai nó, nói mẹ mày vào đánh răng ngay, không lớp sau tao đéo diễn với mày nữa. Rồi chị lại nấc lên Anđrây ơi, em không thể sống xa anh...

Khán giả vỗ tay rào rào

He he!

Bạn văn 13

Mình quen Hữu Thỉnh năm 1980, hồi đó anh về học trường viết văn Nguyễn Du khoá I, ở khu tập thể Vân Hồ. Đọc thơ anh trước đó, bài nào cũng thích, đặc biệt bài Chuyến đò đêm giáp ranh, đọc lần thứ 2 là thuộc liền.

Năm 1978-1980 có hai trường ca mình thích mê man, cho đến bây giờ vẫn thích, đó là trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường đến thành phố của Hữu Thỉnh. Mình học Bách Khoa năm cuối, đọc xong hai trường ca này thì mặc nhiên coi hai ông này là trời, suốt ngày mơ làm sao mình có được dăm câu thơ hay như thơ họ.

Hồi đó hầu như chiều nào mình, thằng Phong ( Nguyễn Thành Phong), thằng Hạnh ( Hà Đức Hạnh) cũng mò sang khu trại viết Vân Hồ, ngồi hóng chuyện Nguyễn Trọng Tạo, Chu Lai, Thái Bá Lợi , Xuân Đức v.v. rồi về bóc phét với tụi bạn Bách Khoa ông Tạo nói với tao thế này, ông Chu Lai nói với tao thế kia... Tụi nó nghe thế thì phục lắm, đã! He he...

Qua lại nhiều lần nhưng sợ không dám vào phòng Hữu Thỉnh, cứ liệng qua liệng lại trước cửa. Một hôm anh nhóng cổ ra gọi Lập à, vào đây vào đây em, tiếng gọi thân thương trìu mến như anh trai gọi em, mình cảm động quá.

Sau thấy anh gọi thằng Phong, thằng Hạnh cũng thân thương trìu mến như thế, rồi anh cũng gọi mấy thằng sinh viên trường Tổng hợp ti toe làm thơ viết văn như tụi mình cũng trìu mến thân thương không kém gì, thì hơi bị thất vọng.

Hơi thất vọng tí thôi chứ mình vẫn đắm đuối Hữu Thỉnh. Có đứa nói Hữu Thỉnh giả lắm, đãi bôi có mùi, tiếp đón thì ân cần lắm, xong rồi quên béng chẳng nhớ thằng nào ra thằng nào. Mình nghĩ cái lũ con nít ranh như mình được anh ấy gọi như thế, tiếp đón như thế là tốt quá rồi. Người ta tha đuổi cổ ra khỏi phòng là may, còn đòi hỏi này nọ.

Mình nhớ có lần nhác thấy bóng mình, thằng Phong, thằng Hạnh đi tới, ba bốn anh nhà văn vội vã đóng cưả phòng liền, sợ mấy ông trẻ dở hơi chập mạch này như sợ hủi. Sau này mình cũng lâm vào tình trạng như các anh ấy mớí biết thông cảm, chứ khi đó tức lắm, thấy nhục nhã vô cùng.

Hữu Thỉnh nói đọc thơ đi em, rồi hai tay đặt đầu gối, mắt nhìn đắm đuối, đầy khích lệ. Mình sướng, tương một phát 5 bài, toàn bài dài ngoẵng, đôi chỗ sướng còn rú lên ngâm nga nữa. Xong, anh nhìn như xoáy vào mắt mình, cúi thấp xuống, lại nhìn xoáy, đắm đuối vô cùng, rồi đập mạnh hai tay lên hai vai, nói như nghẹn được, được lắm em. Thật lúc đó chỉ muốn khóc oà.

Hôm sau, gặp thằng Phong, đang định khoe thì thằng Phong đã vênh mặt lên khoe, nói em đọc thơ cho Hữu Thỉnh nghe ( hồi xưa nó gọi mình bằng anh, bây giờ gọi bằng thằng rồi, hi hi), em đọc xong, Hữu Thỉnh lặng đi 10 giây rồi đập hai tay lên hai vai phát, nghẹn ngào nói được lắm, được lắm Phong ơi. He he .... đã!

Hôm sau nữa, gặp thằng Hạnh đứng tựa gốc cây nước mắt rân rấn, mình hỏi sao thế, nó ôm lấy mình, nói Lập ơi tao vừa đọc thơ cho Hữu Thỉnh, cảm động quá! Mình nói Hữu Thỉnh lặng đi mấy giây, đập hai tay lên hai vai nói được, được lắm... có phải không? Nó nấc lên đúng đúng, sao Lập biết.

Về sau thì nghe quá nhiều người kể những chuyện tương tự. Từ đó cứ lánh dần anh đi.

Hồi sinh viên đói rách, một hôm đang đứng lêu têu ở sân, anh Thỉnh gọi vào, nói nhìn cái mặt chú mày anh biết ít nhất một tuần không có tiền, đúng không? Rồi anh đập vào tay mình 10 đồng, nói cầm tiêu tạm, mai mốt anh có một khỏan nhận bút, cho thêm.

Mình nghĩ anh cho 10 đồng là quí hoá lắm rồi, chẳng mơ gì cái khoản cho thêm, chẳng ngờ tháng sau anh gọi thằng kia anh có nhuận bút rồi, lại dúi cho thêm hai chục đồng nữa. Mình ngạc nhiên vô cùng, nghĩ mình là cái gì đâu, sao anh đối với mình còn quá anh em ruột làm vậy.

Mình về làm báo Văn nghệ trẻ, gần gũi Hữu Thỉnh mới nhận ra nhiều điều không như mình đã nghĩ. Không phải Hữu Thỉnh sống không thật, chỉ có điều quá ít người để anh tin, không tin làm sao chân thật được, có thế thôi.

Hơn nữa Hữu Thỉnh diễn đạt tình cảm đối với ai cũng như ai, người cần chân thành cũng như kẻ chỉ nên đãi bôi, cũng một động tác ấy, ánh mắt ấy, nụ cười ấy... thành ra gây hiểu lầm vô thiên lủng. Kể cả người được anh tin cậy cũng nghi ngờ anh chứ đừng nói người ngoài.

Có lần mình tức Hữu Thỉnh, tâm sự với anh Điềm ( Nguyễn Khoa Điềm), nói anh Thỉnh thế này anh Thỉnh thế kia. Anh Điềm cười nói tui lúc đầu cũng tưởng rứa đo, thậm chí còn nghĩ ông này lắm mưu nhiều mẹo, hoá ra sau mới biết không phải, tại hành vi ứng xử lộn xộn, nóng giận bất thường, tui còn hiểu lầm huống chi người khác.

Anh Thỉnh cười đó giận đó. Hứa đó quên đó. Vừa nói rồi rồi nhớ rồi, giờ sau hỏi lại thì trợn mắt há mồm thế à thế à, quên quên. Tính vậy nên nhiều người ghét, gọi là lão sư hứa hão.

Một hôm mình thấy chị M và chị L đi ra khỏi phòng Hữu Thỉnh, mặt mày hậm hực, biết ngay cái mặt không được đăng thơ.Chị M nói làm sao cho cha Thỉnh khỏi hứa hão được nhỉ? Chị L. nói chỉ có cách đè cổ lão ra hiếp thì may ra...

Hữu Thỉnh quên thật chứ không phải giả đò quên. Lắm việc quá, nhiều mối quan hệ quá, tính lại nể nang, hứa tràn, hay quên là tất nhiên. Việc gì cũng nhắc sằng sặc hai ba lần anh mới nhớ.

Chỉ riêng việc hiếu là anh không bao giờ quên. Nghe tin ai chết, dù thân sơ thế nào anh cũng bỏ hết việc đi viếng. Có người khi sống đối với anh không ra gì, chơi xỏ anh trắng trợn, đến khi nằm xuống anh vẫn có mặt từ đầu chí cuối đám tang.

Dạo này ngồi đâu cũng nghe người ta kể Hữu Thỉnh đến viếng một ngươì bạn, vào đầu ngõ đã khóc oà, khiến người nhà cảm động khóc theo. Mấy ngày sau gặp con trai người bạn, anh bắt tay đắm đuối, hỏi bố khoẻ không cháu. Mình cho là bịa ra nói xấu Hữu Thỉnh thôi, chứ anh không có quên đến thế.

Vả, không phải khi nào anh cũng quên. Mình nhớ có một việc rất nhỏ, tiện thể mà nhờ anh thôi chứ chẳng hy vọng anh nhớ. Mình nhờ xong rồi cũng quên, một hôm nghe anh gọi điện, nói việc chú mày giao, anh hoàn thành nhiệm vụ rồi nha. Nói xong rồi cúp máy, không cần chờ một lời cảm ơn. Chả phải riêng mình, nhiều người anh đã làm như thế.

Làm báo với Hữu Thỉnh lắm khi muốn đập đầu vào tường mà chết lắc cha, khỏi phải cãi nhau. Buổi sáng nói hay hay, tốt quá tốt quá, tay vỗ miệng xuýt xoa, nói, giỏi giỏi, chú mày thông minh đấy chứ nhẩy, cứ thế mà làm, buổi chiều nói thôi dẹp dẹp. Thật điên cái đầu.

Mình nhớ có truyện ngắn tên gì quên rồi, đem trình lên, anh duyệt ngay, kí cái xoẹt. Biết tính anh, mình hỏi lại anh đã chắc chưa, anh nói sao không chắc, ơ cái thằng này. Đến nửa đêm anh gọi điện dựng dậy, nói sửa ngay tên nhân vật cho anh!

Mình nghĩ không ra, cái kết truyện là cụ Công nửa đêm ngồi trong cái lều vịt nghe tiếng cuốc kêu, nhớ vợ thương con mà khóc, có thế thôi, có gì mà phải sửa nhỉ. Anh nói sửa ngay, mình nói nhưng giờ này nó ra bản kẽm rồi, sửa làm sao. Anh gào to trong máy sửa, sửa, sửa! Rồi dập máy.

Mình và thằng Tâm chạy vào nhà in, nạo bản kẽm, điên tiết sửa luôn tên cụ Cáy, hai anh em vừa làm vừa lầm rầm chửi Hữu Thỉnh. Sáng mai gặp anh ở cổng toà soạn, anh cầm cổ áo day nhẹ, nói chú mày giận anh hả? Anh có chai rượu lên lấy uống, mình chả thèm lên, anh cầm xuống tận phòng đặt đấy, cũng mặc kệ.

Đến trưa anh chèo kéo gọi đi uống bia cho bằng được, nói chúng mày phải thương anh, mình thì thấy không việc gì, nhưng có thằng đểu nó tâu lên công là cuông đấy! Ui xời! Kị huý đến nước đó trời thua.

Mình đi phỏng vấn Tôn Thất Bách về, chìa cái ảnh anh Bách chụp chung với danh thủ Maradona, anh xuýt xoa khen hay hay, tốt quá tốt quá. Vừa cầm cái ảnh ra khỏi phòng, anh gọi giật lại, nói này này, Maradona là ai? Cười rũ, chắc anh lại nghi Maradona là thằng Tây phản động nào.

Bây giờ hình như Hữu Thỉnh đã hồi tâm, chứ khi làm báo, kể từ sau vụ Linh nghiệm tính tính anh thất thường, như có bệnh, ngộ chữ, nghi kị tùm lum. Lắm khi thấy anh cô độc, thật thương.

Thường ngày vẫn dễ tính, ai nói gì cũng xuê xoa. Họp giao ban, anh đang nói, Võ Thanh An đã đến muộn còn say, nói Thỉnh Thỉnh mày im đi để tao nói cái, anh cũng im, còn cười vui vẻ. Nhưng chỉ cần ai đó tỏ thái độ coi thường, văng khẽ một câu là anh lồng lên như sói. Cũng chỉ lồng lên trong phòng mình thôi nhưng lắm khi tưởng anh sắp chết uất vì một câu nói mà người khác có thể nhẹ nhàng bỏ ngoài tai như không.

Có hôm nghe thằng nào đó tâu với Hữu Thỉnh là mình nói Hữu Thỉnh không ra gì, anh mắng mình, nói đểu đểu, mày đểu lắm em ơi. Mình quặc lại, nói từ nay tôi ỉa vào làm đây nữa. Chiều anh tới nhà, ngồi bệt, mắt rưng rưng, nói anh sai rồi, anh xin lỗi.

Mình nói ui xời, chuyện đó đến con nít cũng chẳng tin thế mà anh lại tin. Anh nói anh sai anh sai mà, cái mặt anh lúc đó tội nghiệp vô cùng. Hữu Thỉnh như thế, nên dù ai có nói đến giời, mình vẫn yêu anh như thường.

Hữu Thỉnh không máu gái nhưng thích à ơi với đám chân dài, gặp cô nào thì cũng giả đò nhìn sững, nói sao em xinh thế, trẻ ra bao nhiêu. Nói xong rồi quên, chẳng để tâm, như là chưa hề gặp.

Gái gú không màng, thế mà anh lại rất sợ ai trông thấy mình đầu hói. Đang ngồi vui vẻ, có ai đó bật quạt trần, mặt anh xanh như đít nhái, hoảng hốt kêu to tắt tắt... tắt quạt.

Có lần mình vào phòng Hữu Thỉnh ( cái phòng ở Vân Hồ kia), anh đang thay quần, thấy mình, anh cuống quít nói ra ra, ra mau lên, cứ y như anh đang cởi truồng gặp ngay đàn bà con gái.

Mình kể với thằng Phong, nó nói có ba người không bao giờ đứng đái chung với bọn đàn ông, đó là Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa và Hữu Thỉnh, họ đều là những nhà thơ trứ danh cả. Thằng Phong kết luận: muốn trở thành nhà thơ trứ danh như Hữu Thỉnh thì anh ấy đái kiểu gì, mình cứ kiểu đó mà đái, ắt công thành danh toại.

Có em trong toà soạn cò cưa với anh suốt, lúc nào vào phòng anh, mồm thì nói bài này bài kia, xác thì cứ xấn xấn tới, nói anh ơi xem này xem này. Anh cũng đánh bài lờ, gật gật nói bài này hay, tốt quá tốt quá. Bướm nó đã vờn trước mũi mà chẳng dám làm gì, cứ gật gù, nói hay hay, tốt quá tốt quá.

Bạn Văn 14

Đem mấy đứa con đi dự Liên hoan sân khấu thể nghiệm toàn quốc, cho chúng nó làm quen dần với sân khấu nước nhà, xem vở Sang sông, kịch bản dở ẹc, chẳng thấy kịch đâu, các nhân vật chẳng hiểu ở đâu ra, cứ thay nhau triết lý, toàn những triết lý vừa nhàm vừa cũ rích, chán ốm.

May thằng Anh Tú khéo bày trò, dù chưa thoát hẳn cái bóng của thầy nó nhưng mà khá, có trò nó làm còn sáng sủa hơn thầy nó nhiều, thế là mừng. Ở Hà Nội, sau Xuân Huyền, Doãn Hoàng Giang, Lê Hùng chắc chắn đến Anh Tú, nó đã trên bốn chục rồi còn trẻ mỏ gì nữa.

Đặc biệt cái décor cu Tõm làm rất hay, thoáng và sang, chỉ mấy miếng cong và cái cột buồm mà tải được hết triết lý của vở diễn. Hay nhất là décor đã tích cực tham gia đa chiều vào vở diễn, tuồng như nó là một nhân vật không thể thiếu của vở diễn. Cái này có công Anh Tú nữa, nhưng người thiết kế sân khấu không đặt nền móng thì ông đạo diễn có ba đầu sáu tay cũng tắc tị.

Đang ngồi xem kịch bỗng nhớ đến Đoàn Anh Thắng. Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1985 tại Hà Nội, Đoàn Anh Thắng đã gây shock sân khấu cả nước bằng vở diễn Dòng sông ám ảnh. Đó là vở diễn sử dụng décor ước lệ, chỉ mấy tấm ván đặt cập kênh anh đã dựng nên một thứ sân khấu ước lệ cực kì hoành tráng. Mưa gió, giông bão, trên biển dưới bờ, trong nhà ngoài ngõ cũng chỉ trên mấy miếng ván cập kênh ấy, cuộc sống cứ cuồn cuộn trào ra từ mấy miếng ván cập kênh ấy, thật tuyệt vời.

Sau đêm diễn, giới sân khấu tụm năm tụm ba ngồi với nhau cho tới khuya, chỉ chai rượu gói lạc mà ngồi với nhau cho tới khuya. Người nói sân khấu khởi sắc rồi bà con ơi, người nói đ. mẹ thằng cu con thế mà tài. Năm đó anh Thắng ba tư tuổi mới ở Nga về, mặt bầu da trắng, thoạt nhìn giống thằng cu con búng ra sữa.

Thực ra sân khấu ước lệ bắt đầu manh nha từ 1980, khi đám đạo diễn Tây học mới trở về, họ ngấm ngầm làm một cuộc “lật đổ” sân khấu tả chân cũ kĩ nhàm chán, nhưng chưa có ai thành công cho đến khi vở Dòng sông ám ảnh ra đời.

Từ đó các đạo diễn đua nhau khai thác đủ cách sân khấu ước lệ, Xuân Đàm thì dây dợ, Doãn Hoàng Giang thì bục bệ, Xuân Huyền thì xếp chồng, Lê Hùng thì khép mở... quả là vui hơn tết.

Nói ra thì bảo ngoa ngôn chứ mình cho rằng cuộc cách mạng sân khấu 1985 chẳng khác gì cuộc cách mạng thơ mới năm 1932 cả, chỉ khác thơ mới khai thông một dòng thơ chảy mãi cho đến ngày nay, còn sân khấu mới đi được chừng dăm năm thì tịt ngỏm.

Dù gì thì đó cũng là một cuộc cách mạng đổi mới sân khấu nước nhà, giúp nó thoát ly thứ sân khấu nghiệp dư cũ kĩ già nua, dở ông dở thằng, dạ dạ thưa thưa, chán ốm.

Ngày nay sân khấu đang bế tắc, nhớ đến thời kì 1985- 1990 mà thèm, trong bảy ngành nghệ thuật thì sấn khấu làm bá chủ, tối nào nhà hát cũng đỏ đèn, ngày hai ba suất diễn, ấy là nhờ cuộc cách mạng mà Đoàn Anh Thắng được xem như đột phá khẩu.

Không biết các vị viết sử sân khấu có nhắc gì đến Đoàn Anh Thắng không, hay là mải tán tụng dưới ánh sáng này nọ mà quên mất anh. Trong văn học nghệ thuật, làm được cái gì là cậy vào năng lực các cá nhân nghệ sĩ chứ chẳng cậy được vào ai đâu. Nguyễn Duy nói đúng, thôi đừng hót những lời chim chóc mãi.

Mình quen anh Thắng năm 1987, khi anh về Huế dựng vở Trên mảnh đất đời người, mình chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Annatoli Ivanop, đều là dân nhậu cả, mới gặp đã thân thiện ngay.

Anh uống rượu khoẻ và vui, mồm nói tay múa, say lên còn hát tuồng, giả giọng bác Tôn, bác Tô cực giống. Từ đó thân nhau, hễ anh làm vở ở đâu, gặp chỗ bí cần sửa kịch bản là anh gọi điện, nói ra mau ra mau, cấp cứu cấp cứu bớ cu Lập! Nhiều lần mình thức với anh trắng đêm sửa kịch bản để ngày mai kịp lên sàn, nhiều khi sửa vo trên sàn, chẳng còn kịp viết lách.

Anh làm vở hùng hục, cả đêm lẫn ngày, mỗi vở chỉ một, hai chục ngày là bàn giao, rồi lại vội vàng tót đi làm vở khác. Người tài thường đắt sô, tuồng như không có ngày nào anh không có vở đang dựng. Trong sáu năm hành nghề đạo diễn, anh làm sáu chục vở, thất kinh.

Mình nói bác làm vậy teo chim chứ còn đâu, anh nhăn răng nói teo thật rồi, gái nó dí vào mặt mà mình cứ trơ mắt ếch ra nhìn, chẳng biết làm gì.

Được cái anh khoẻ như vâm, làm quần quật thế mà chưa khi nào thấy anh mệt mỏi chán nản, hoặc giả có mệt, có chán nhưng anh giỏi giấu mọi người, khi nào anh cũng trong tình trạng hồ hởi phấn khởi, hát hát múa múa, nói nói cười cười, anh em diễn viên vì thế mà phấn khích, làm việc rất hăng.

Hễ anh nằm xuống là ngủ ngay, ngủ rất sâu, nhưng vùng dậy cái là tỉnh như sáo, ồn ào vui vẻ như giả đò ngủ vậy. Có lần dựng vở, giải lao mười phút, anh vừa nằm xuống ghế, trong chớp mắt anh đã ngáy ầm ầm, ai cũng trố mắt ngạc nhiên.

Lại vùng dậy, lại hò hét, hát hát múa múa, nói nói cười cười như không. Có hôm tập đến ba giờ sáng, anh em mệt bã người nói không ra hơi, anh còn đủ sức ngâm một bài thơ nhại thơ Tố Hữu: Mà nói vậy phần lương anh đó/ Rất chân thật chia ba phần nho nhỏ/ anh dành riêng trả nợ phần nhiều/ phần đưa em và phần để anh tiêu/ em dấm dẳn sao dược nhiều thế hả/ rồi hai đứa cãi nhau- hai bà hàng cá/ bỏ nhau đi cho đến sáng mai nay/ anh đón em về... tiền cũng trắng trong tay.

Người nói cha Thắng khoẻ hơn tru, người nói tru còn gọi cha Thắng bằng ông cố nội, chẳng ai biết anh bị bục dạ dày nhưng anh giấu.

Vợ mình nói anh Thắng làm kinh thế, sức nghỉn đâu nữa, không sợ chết non à? Anh cười khì, nói chết non thật chứ, dòng họ nhà anh không ai sống quá bốn mươi tuổi, anh ba tám tuổi rồi, còn hai năm nữa đầy bốn mươi, cố kiếm tiền làm cho vợ con cái nhà rồi chết cho an tâm.

Vợ mình nói anh Thắng toàn nói gở, anh ngửa cổ cười ha ha ha, rồi khoa chân múa tay trước mặt vợ mình, hát một điệu dân ca Bình Trị Thiên: Mạ mi nì là mạ mi nì, một đoạn từng ni, không dài không ngắn, không xoắn không cong, cớ răng mà mạ mi sợ. Anh lại ngửa cổ cười ha ha ha, lại khoa chân múa tay trước mặt mình hát bọ mi nì là bọ mi nì, một lỗ từng ni, không tròn không méo, không xiên không xẹo, cớ răng mà bọ mi sợ

Năm 1989, mình đang soạn nhà ra Quảng Trị, bỗng nhận được điện anh Ngô Thảo, nói Thắng nó chết rồi em ạ. Bỗng lặng người đi. Anh chết lúc bốn mốt tuổi khi đang dựng vở thứ 60, vở Sóng những ngày vĩnh biệt kịch bản của Nguyễn Thị Thu Huệ. Anh lại bị thủng dạ dày, nôn ra máu trong toilet, ngất xỉu không ai biết, đến khi biết thì đã quá muộn.

Không ra được Hà Nội viếng, vợ chồng mình làm mâm cơm cúng, bái vọng. Mình ngồi bệt ngửa cổ nhìn lên bàn thờ, không biết nói gì, cứ ngồi vậy cho tới khuya.

Bạn văn 15

Mình quen anh Tạo từ năm 1980, khi anh học Viết văn Nguyễn Du khóa I, anh vẫn thường vô chơi với nhóm thơ Vòm Cửa Xanh của trường Bách Khoa. Anh Tạo với anh Huy ( nhà thơ Quang Huy) đã gần gũi giúp đỡ nhóm thơ rất nhiều, anh em gắn bó từ đó.

Thời đó anh Tạo nổi như cồn, bài thơ Tản mạn thời tôi sống được cả nước bàn tán xôn xao, đó là bài thơ có cái nhìn mới mẻ và xót xa về đất nước. Nhắc đến văn chương thời kì đổi mới không thể không nhắc đến bài thơ này.

Năm 1987 văn chương nước nhà mới bảo nhau rục rịch đổi mới, thế mà từ năm 1981 anh Tạo đã dám viết những câu thơ bỏng rát, nhức buốt như vậy, quả là gan trời.

Hồi đó đám sinh viên bọn mình cứ thì thì thầm thầm ông Tạo sắp bị đuổi rồi, sắp bị bắt rồi, tóm lại không việc gì hết, dù anh bị làm khó dễ cả lối sống cả thơ ca.

Anh Tạo đa tài, kẹt đường này thì phát đường khác. Thơ đang kẹt thì phát nhạc, bài Làng quan họ quê tôi thời đó cả nước hát râm ran, nổi tiếng đến nỗi hễ nhắc đến Nguyễn Trọng Tạo thì lập tức có người hát được đôi câu bài hát ấy ngay.

Mình nhớ hình như cuối năm 1981, khu tập thể Vân Hồ đóng cửa kín mít kiểm điểm anh Tạo, phía ngoài thì loa phóng thanh véo von mấy bài hát liền của anh. Anh Thái Bá Lợi đánh hắng mấy tiếng, nói đề nghị các đồng chí đứng nghiêm nghe nhạc đồng chí Tạo, việc này có ý nghĩa và thiết thực hơn là cố tình cạo trọc đầu đồng chí ấy. Anh Thanh Thảo nói hồn thằng Tạo đang treo lơ lửng ngọn tre đó kìa, kiểm điểm cái giầy!

Anh Trung Trung Đỉnh nói cạo trọc thơ lão Tạo, có cạo trọc văn xuôi, cạo trọc phê bình, cạo trọc báo, cạo trọc nhạc, cạo trọc họa của lão được không được không.

Anh Nguyễn Hoa nói thơ đồng chí Tạo làm nhức đầu cấp trên, cơ mà nhạc đồng chí Tạo cấp trên nghe sướng lắm, kiểm điểm sao đây. Tóm lại anh Tạo bị đưa vào Quân khu bốn vài năm rồi đâu lại vào đấy.

Thơ nhạc hay đã đành, vẽ bìa cũng hay, phê bình cũng hay nốt. Văn xuôi anh Tạo ít người nhắc đến nhưng tập Mảnh hồn làng của anh chẳng kém gì tập Miền thơ ấu của Duy Khán cả.

Chẳng hiểu anh viết lách khi nào, ở đâu có cuộc chơi vui vui đều có mặt anh cả. Anh uống tới số, chơi tới bến, nay ở Hà Nội, mai đã thấy ở Cà Mau. Vừa chat với anh, nói tao đang ở Canada, sáng sau đã có người gọi điện từ Mỹ về nói đang uống rượu với Nguyễn Trọng Tạo đây.

Anh Nguyễn Thụy Kha nói thằng Tạo khốn khổ đường vợ con, bế tắc đường quan quyền vì nó say lắm quá, say văn, say nhạc, say đời, say họa. Người ta một say cũng đủ chết, nó đến bốn say, say nào cũng tới bến.

Anh tạo cười khì, nói chúng mày đảng viên 4 tốt, tao nghệ sĩ bốn say, được quá rồi còn mơ gì quan quyền, say lắm thứ quá vợ con nó ghét là phải.

Anh Kha nói sót mất một say, ấy là say rượu, phải gọi anh Tạo là ông năm say mới đúng. Chuyện say rượu của anh Tạo kể ngàn trang không hết, mình đã kể ở say 4, không nhắc lại nữa. Chỉ nhắc lại cái chuyện lười tắm của anh ấy mà thôi.

Bây giờ anh sạch sẽ tươm tất, chứ ngày xưa anh lười tắm nổi tiếng, mọi người vẫn đùa là Tạo bẩn.

Thực ra anh Tạo lười tắm không bằng cái móng tay anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) và anh Sơn ( Trịnh Công Sơn), nói chung mấy ông hay rượu đều lười tắm cả. Chỉ thấy anh Quán (Phùng Quán) là siêng, sáng nào cũng tắm táp cẩn thận rồi mới đi đâu thì đi. Anh Quán vẫn hay trêu anh Tạo, anh Sơn, anh Tường, nói ai cũng như mấy ông này thì khỏi lo sông Hương hết nước. Anh có câu trêu anh Tường: Nếu không tát cạn biển đông/ thì cha Hoàng Phủ đừng hòng tắm cho. Lại có câu trêu anh Sơn: bao giờ sông cạn đá mòn/ Công Sơn mới rửa hai hòn cho em.

Anh Quán thấy cái áo anh Tạo đã sẫm màu thời gian nói tắm đi cái mi. Anh nằm dài ra sàn nói để em nghĩ xem tắm có phải thuộc phàm trù văn hoá không đã.

Một hôm vừa sáng bảnh mắt anh Tạo đã đến nhà mình, nằm dài ra sàn kêu chán. Mình hỏi sao. Anh nói mình đi nhậu suốt ngày, nghĩ thương vợ, tối qua ở nhà, quyết định rửa bộ đồ nghề hầu vợ phát thì nó lại hành kinh. Rửa ráy thế có phí không.

Mình kể cho chị Kim Quí ( vợ đạo diễn Xuân Đàm) nghe. Chị dài môi nói ông Tạo mà rửa bộ đồ nghề trời sập. Tao mà yêu ông Tạo thì tao phải lấy đũa gắp chim ông chứ chẳng dám cầm.

Mình có viết chuyện này ở say 4, cô X. cười ngất. Hôm anh Tạo vào Vũng Tàu, nhắn tin cho cô X: “ Anh đang một mình ở bờ biển, buồn lắm, ra với anh đi.” Cô X. reply ngay lập tức: “ Dạ dạ…Em ra liền nè. Em có phải mang theo đũa không anh?”

He he.

Bạn văn 16

Có đến ba chục năm không gặp, sáng mồng 5 ra ngõ bỗng gặp anh. Anh vẫn vậy, mặt bóng mỡ luôn sẵn một nụ cười tươi, nụ cười cũng bóng mỡ trên mép môi dày.

Lúc nào anh cũng nhìn hắt lên, đang bắt tay rất chặt với mình, nói khỏe chứ khỏe chứ, mắt cứ hắt ngược lên trời, lấp lánh một điều gì vô cùng mãn nguyện.

Áo quần cũng vậy, lúc nào cũng nghiêm ngắn, từ thời đói rách lầm than cho đến bây giờ chưa khi nào thấy anh ăn mặc nhếch nhác. Cái áo trắng tinh, bọc ngoài cái áo khoác kiểu comple màu xám nhạt, quần thẳng li, giày Italy bóng lộn.

Người như thế không ai bảo đấy là người hèn. Năm 1984-1985 chi đó không nhớ nữa, xăng xe khan hiếm, Nhà nước cấm đi ô tô xe máy trong thành phố, trừ xe có công vụ lệnh. Anh mặc kệ, cứ phóng xe nghênh ngang chẳng biết e sợ gì.

Công an thổi còi cái roẹt, chặn anh lại, hỏi giấy tờ anh đâu? Anh ngồi trên xe, hai tay đút túi quần, hất hàm nói này chú mày, đang khi cả thành phố không ai dám đi xe máy, thấy người ta cưỡi xe máy thong dong thì phải biết người đó là ai chứ. Anh công an trẻ cười tẽn tò, nói dạ dạ xin lỗi chú, mời chú đi.

Được trời cho lại giống người sang thật sướng. Đi cả đoàn đến chỗ nào anh cũng được chủ nhà chạy ra khúm núm bắt tay đầu tiên. Vào cổng cơ quan xứ mình khó lắm, thế mà anh ra vào như không, bất kì cổng cấp bộ hay cổng cấp sở.

Thời bao cấp, có lẽ thời này thì cũng thế, vào các công sở chẳng sợ ai chỉ sợ mỗi ông gác cổng. Đưa giấy giới thiệu, ông đọc một câu hỏi một câu, rề rề rà rà, vặn vặn vẹo vẹo có khi mất cả tiếng mới miễn cưỡng cho vào. Thoát qua cổng bảo vệ thật nhẹ cả người.

Anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) biết phận mình không thuộc giống người sang, người ta hết nhầm ông bán bánh bao sang nhầm ông tầm quất, thành thử đến cơ quan nào anh cũng thủ sẵn giấy giới thiệu. Thế mà cũng không thoát.

Một hôm đến tỉnh ủy, trình tờ giấy thiệu ghi rành rành Hoàng Phủ - Ngọc Tường, bảo vệ nhướng mắt hỏi anh là Ngọc Tường à, anh Tường dạ dạ. Bảo vệ lại hỏi rứa anh Hoàng Phủ mô. Anh Tường giải thích thế nào bảo vệ cũng không chịu, nói anh chịu khó chờ ông Hoàng Phủ cho đủ hai người rồi vô luôn.

Anh Xuân Đức có mẹo vào cổng rất hay, mẹo này đến nay đã cũ nhưng thực hiện vẫn còn rất hiệu quả: Cứ đứng nép sát trạm gác, chờ khi khách đông đông thì chen vào, muốn đi vào thì gãi đầu bứt tai, nói báo cáo đồng chí cho tôi đi ra, lập tức ông bảo vệ trợn mắt, nói ra làm cái gì, vào ngay.

Đi ra thì dễ hơn, cứ cười nói nhơn nhơn nói anh gì ơi cho tôi đi vào, bảo vệ hỏi giấy tờ đâu thì nói không có, một giây sau thế nào cũng bị lôi ra khỏi cổng. Mình đã làm thử mấy lần rồi, lần nào cũng trót lọt, he he.

Lại kể chuyện anh. Anh đi với anh Tường vào tỉnh đội, đến trạm gác vỗ nhẹ vai cảnh vệ, nói chú vào chỗ thằng Khánh chút nha. Lính cảnh vệ thấy cái ông dáng ông to cấp trung ương, lại gọi tỉnh đội trưởng bằng thằng, bèn vội vàng ưỡn ngực rập chân, nói dạ dạ mời chú vô.

Anh đủng đỉnh đi vào. Anh Tường dắt xe đạp lóc cóc chạy theo anh, lập tức bị cảnh vệ giữ lại, nói chú có giấy giới thiệu không? Anh Tường hôm đó quên mang giấy giới thiệu, lúng ta lúng túng, nói tui đi theo ông tê, tui cũng gặp anh Khánh, tui là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cảnh vệ nói chú ơi, Ngọc Hoàng không có giấy giới thiệu cũng không vào được, đừng nói Ngọc Tường.

Nói trắng ra anh chỉ là nhà văn quèn. Nói nhà văn cũng hơi oan cho anh, từ khi học trường viết văn Nguyễn Du khóa một cho đến nay chẵn ba chục năm anh chỉ viết đúng một truyện ngắn dài gần hai gang, chấm hết.

Mọi người gọi anh là Ông đề cương, đi đâu, với ai anh cũng chỉ kể đề cương, toàn những đề cương hoành tráng. Cái thì anh bảo cái này chỉ cần viết 400 trăm trang thôi là Aitmatov phải xách dép cho tôi nhé, cái thì anh bảo cái này in ra một phát thì Markez phải gọi tôi bằng sư phụ, đừng có đùa… Ai không biết, nghe anh nói đều lác mắt.

Vợ anh là chị X. đẹp mê hồn, vì ngưỡng mộ anh mà lấy anh, nghe nói chỉ tốn chục cái đề cương là anh đánh đổ chị. Cái số thân cư thê của anh thật đã đời. Chị làm ăn giỏi giang, tiền của vào như nước, anh chỉ suốt ngày lêu têu đàn đúm với văn nghệ sĩ, không phải làm gì.

Lâu lâu anh lại mang một ông cực nổi tiếng về nhà lấy nê với vợ, nói thằng này thằng kia là bạn anh.Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi… ai cũng ít ra đến nhà anh một lần. Vào nhà anh được uống rượu ngon, mồi đồ quí hiếm. Chỉ cần chịu khó nghe anh kể đề cương rồi gật gù khen hay hay, giỏi giỏi, siêu siêu… để cho vợ anh mắt sáng long lanh tự hào về chồng là coi như hoàn thành nhiệm vụ với anh rồi, cứ thế tha hồ ăn nhậu.

Vợ anh người Huế, đảm lược nết na, thuộc tip mệ luôn đội chữ sĩ lên đầu, ai hỏi chồng làm gì thì mắt sáng long lanh, nói anh ấy là nhà văn. Nói xong thì lo thắt ruột sợ người ta hỏi anh ấy có sách gì. Nhiều khi chị cằn nhằn, nói bao nhiêu năm rồi anh không viết được cái gì, anh nói nhà cửa chật chội, viết cái gì.

Chị bán cả lô đất ba mẹ đi Mỹ để lại cho, xây một cái biệt thự ba tầng rộng rinh rang, nội thất toàn đồ sang trọng, đắt tiền. Anh đem bạn bè đến nhà khoe, nói nhà cửa, vườn tược, đồ đạc là của vợ tôi cả đấy, tôi chỉ đóng góp mỗi con cu thôi.

Chị để cả tầng ba cho anh làm khu sáng tác, trồng một khóm trúc, gắn cái đèn giống mặt trăng thấp thoáng sau khóm trúc, gắn giàn âm thanh đêm ngày phát ra tiếng sóng biển, treo hoa Phong Lan, treo lồng chim… đẹp mê tơi, giàu như Markez cũng phải thèm.

Anh vẫn không viết được, vẫn chỉ sản xuất được đề cương, chị hỏi sao không viết, giống y chang văn ông Adit Nexin anh kêu nhiều muỗi quá không cách sao viết được, cứ mỗi con cắn độp một phát là chết mất cả chương văn.

Chị thuê làm một cái màn tuynh trùm kín cả tầng ba rồi đẩy anh vào, nói anh viết đi cho em nhờ. Anh ngồi trong màn, ngó ngược ngước xuôi, nghĩ bụng đ. mạ cái màn rộng 120 mét vuông, có thể vào ghi nét thế giới. Rồi anh đi dọc màn đếm xem bao nhiêu bước, đi ngang màn đếm xem bao nhiêu bước. Rồi anh nghĩ bụng đ. mạ phải đem vợ lên làm phát khai trương cái màn vĩ đại này, phải làm giống Thu Bồn, xốc vợ ngang hông vừa đi vừa nhún vừa đọc thơ.

Cả chục năm sau cái màn đã úa vàng anh vẫn không viết được chữ nào. Vợ anh nói anh còn thiếu gì nữa sao không chịu viết? Anh nói mình sai lầm, văn chương là nơi thanh cao, vợ chồng mình lại đưa nhau lên đây làm bậy…

Vợ anh khóc nói anh ngụy biện. Anh ôm vợ vào lòng, nói thôi em ạ, văn chương là cái đéo gì đâu, anh có con cu xuất sắc cống hiến cho em trọn đời là tốt lắm rồi.

Mồng 5 tết kéo nhau vào quán, uống với nhau chén rượu, anh nói chú mày dại, bờ lóc bờ leo làm gì, lo làm văn chương đích thực đi, sắp xuống lỗ rồi đấy.

Mình hỏi bác sản xuất được tổng cộng mấy trăm cái đề cương rồi. Anh cười khì khì, nói tao đi sai đường, đáng lẽ phải bỏ văn làm quan từ lâu mới phải. Bạn tao làm quan, chúng nó chuyên sản xuất đề cương thôi nhé, thế mà thằng nào thằng nấy phất kinh hồn, đ. mạ tiếc quá!

Bạn Văn 17

Năm 1997 Thanh Vân chuẩn bị làm phim Đời Cát, vai nó chọn nhanh nhất, không chút băn khoăn là Hồng Ánh, nó vào vai Tâm vợ hai ông Cảnh. Mình nói Hồng Ánh có cái mặt gái quê Quảng Bình, hay lắm, Ánh đóng Hải Nguyệt, Cầu thang tối quá được, nhưng nó trẻ quá, có hai chục tuổi đầu cột quần chưa chặt, sao vào vai cô vợ có đứa con 13 tuổi? Vân sững lại chút rồi cười cái xoẹt, nói nhưng em tin nó đóng được.

Thanh Vân đã đúng, vai người đàn bà 35 tuổi lam lũ, đối diện với một hoàn cảnh phức tạp, buộc phải ứng xử cực kì tinh tế, vừa nhẫn nhục vừa quyết liệt… đã được Hồng Ánh xử lý ngon ơ, chỉ duy nhất cái đoạn gánh thì y chang người cả đời chưa biết gánh gồng.

Mình nói gái Trà Vinh mà gánh vậy à, Hồng Ánh cười, nói má em bán phở, em toàn bưng bê mâm bát, có gánh bao giờ. Mình nói thằng Vân không bảo em à, nó nói ui, anh Vân đến bưng bê còn chẳng biết nữa là. Mình cười he he, nói may giám khảo toàn nước ngoài, không ai biết gồng gánh thế nào, Ánh vỗ tay cười, nói ui ui may may ke ke .

Hôm được giải Châu Á- Thái Bình Dương, Ánh không có mặt ở Hà Nội, ngồi xem ti vi thấy giám khảo réo tên mình thì nhảy lên, điên cuồng một mình trong phòng, kêu má ơi, ba ơi, anh Vân ơi, làng xóm ơi… sao tui sướng vậy nè.

Cả trăm cú máy gọi chúc mừng Hồng Ánh, nói sao không ra Hà Nội sao không ra Hà Nội, nó không biết nói sao ngồi ôm ti vi khóc rưng rức. Khóc vì mừng được giải thì ít, vì tủi thân thì nhiều, được một đêm vui như hội ở Hà Nội thì lại không có mặt.

Nào ai biết Đời Cát được giải mà gọi nó ra, xưa nay mấy khi diễn viên phụ được tham gia Liên hoan phim, huống hồ là liên hoan phim quốc tế, khách mời sàng đi lọc lại cả chục lần.

Ban giám khảo bí mật đến phút cuối cùng, không ai biết mô tê chi hết, mình và Thanh Vân quen ông giám khảo người Nhật, ông chấm xong thì về, chỉ bắt tay chào, nói bye bye see again, tuyệt không hở ra một tí nào. Giải người ta thế, giải nước mình khi nào chấm cũng dặn nhau bí mật nhé bí mật nhé, tóm lại vừa chấm xong cả nước biết cả.

Thành thử cả hội Đời Cát được xếp ngồi gác hai, Thanh Vân nghe tên Hồng Ánh ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh vẫn không kịp, may có chị Hồng Ngát nhanh trí lên sân khấu nhận giùm, truyền hình trực tiếp không ai chờ lâu được.

Mình nhìn Mai Hoa tủm tỉm cười, nói em xuống gác đi, nhỡ có giải lại chạy không kịp. Mai Hoa cười cái hậc, nói Trương Mạn Ngọc sang rồi, đến cái giải rút em cũng chẳng có. Hóa ra Trương Mạn Ngọc bay sang để trao giải, Mai Hoa ẵm cái giải vàng ngon lành, Đời Cát tóm lại được 5 cái đề cử, trúng ba giải, thật vui hơn tết.

Mai Hoa cầm mobile chạy ù ra sảnh gọi Hồng Ánh, nói em ơi phim mình được giải rồi, chị cũng được giải, rồi đứng khóc tu tu. Hồng Ánh nói ui ui Đời cát vinh quang quá chị ơi, chị em mình may quá trời luôn, rồi cũng khóc nghẹn. Hai chị em kẻ Bắc người Nam hai cái mobile khóc rưng rức. Ai biết làm phim Đời Cát cay cực thế nào mới cảm được những giọt nước mắt của họ.

Từ đó Mai Hoa, Hồng Ánh thân nhau như chị em ruột, hội làm phim Đời Cát tự nhiên coi nhau như người nhà, Ánh quí mình còn quá anh trai, chuyện gì cũng thủ thỉ, ở Sài Gòn lâu lâu lại gọi điện ra anh ơi, anh nè vô cùng ấm áp.

Lần nào mình vào Sài Gòn đi đâu cũng một bên Mai Hoa một bên Hồng Ánh, nhiều người nhìn mình lác mắt, nói cha nội này chắc cỡ triệu phú đô la mới quặp được một lúc hai sao sáng trưng vậy chơ.

Sài Gòn chuộng sao, cỡ như Thành Lộc vào nhà hàng nào, ở đó coi như một vinh hạnh. Hà Nội khác, ông trời có vào thì cũng thế thôi, có khi còn bị mắt nguýt môi bỉu, chán òm.

Một hôm mình đến nhà hàng, hai người đẹp xốc nách hai bên, phía sau Thanh Vân, Thanh Sơn hộ tống, lại thêm Thành Lộc lật đật từ trong nhà hàng chạy ra, mừng rỡ bắt hai tay, nói dạ dạ mời anh dzô… cả nhà hàng nhớn nhác nhìn mình, thầm thầm thì thì, nói ai đó ai đó. Ai đi qua chỗ mình cũng rón rén, mắt liếc cổ rụt, y chang nhà hàng đang đón một đại gia tầm cỡ thế giới, he he.

Hễ mình vào Sài Gòn là Ánh giành lấy quyền săn sóc, ngồi uống đâu cũng nhắn tin anh uống ít thôi nghen, sáng bảnh mắt đã gọi điện tối qua anh ngủ ngon không. Rồi thì nhắc uống thuốc. Gần thì pha nước lấy thuốc ép uống, nói uống đi uống đi, không uống chết với em, xa thì nhắn tin gọi điện, tám giờ rồi anh ơi uống thuốc này đi, mười giờ rồi anh ơi uống thuốc kia đi, mạ mình còn không chu đáo với con cái được như thế. Ánh còn giành lấy việc giặt áo quần, mình nói thôi thôi, để đó khách sạn người ta giặt, nó bảo em thích giặt dũ cho anh chớ bộ.

Bây giờ nghe tin Ánh cưới chồng, bạn bè ai cũng mừng, chứ cách đây một hai năm tình hình vẫn còn u ám lắm. Mình nói với thằng Vân con bé sinh ra để làm vợ, đến giờ vẫn không lấy được chồng là sao nhỉ. Vân cười buồn gật gật, nói chắc trời hành nó, cứ xong một phim là nó hy sinh một người yêu, khổ thế chứ. Quả đúng thế thật.

Phim Đời cát, Ánh yêu một anh chàng đạo diễn đẹp trai hiền hậu. Yêu đương hay ho thế, đụng đến chuyện gia đình nó cuống lên, thấy mình chưa hề sẵn sàng, thế là tan.

Sau đó toàn là oan oan tình. Khi thì chàng làm báo, nồng nàn được nửa năm thì chàng lặn mất tiêu không hề sủi tăm. Khi thì chàng công tử Bạc Liêu, quay xong phim Ánh tí tởn ôm một mớ quà đến thăm bồ thì thấy ông bồ đang ôm eo cô khác.

Mỗi lần tan cuộc tình, Ánh gầy như que củi, ai cũng thương. Năm 2003 nó ra Hà Nội, mình nói sao đẹp ra vậy nè, trẻ ra nữa. Nó mừng húm, nói thiệt hông thiệt hông anh. Rồi cười hi hi, nói anh ơi tâm trạng khi yêu, tức thài lài gặp cứt chó đó nghen, ke ke ke. Con gái có bồ thấy khác liền, mắt long lanh ríu ra ríu rít.

Mình nói lần này chắc không? Nó cười hi hi hi, nói chắc rồi, em túm gáy nó được rồi, đố chạy đằng trời.

Phim Thung lũng hoang vắng ra lâu rồi, ông bồ thứ ba chưa được xem, nhân có liên hoan phim lần thứ 13, mình nói đem bồ ra Vinh cho anh xem mặt nghe chưa, Ánh cười toe toét, nói dạ dạ có chơ, để em xách cổ nó ra.

Ánh phấn khởi lắm, nói xong liên hoan phim là tụi em cưới nhau, anh coi ảnh có được không. Mình nói thằng này đẹp trai cực nhưng đẹp kiểu Kim Trọng, Ánh bảo đẹp kiểu Kim Trọng là sao, mình nói Kim Trọng chưa yêu đã đòi lột vỏ con người ta, gặp biến thì lặn mất tiêu, mười lăm năm không chịu sủi tăm. Ánh sợ hãi túm tay mình hỏi đi hỏi lại thiệt hông anh thiệt hông anh.

Nói chơi vậy hóa ra thật. Anh chàng xem Thung lũng hoang vắng hăm hở lắm, đến cái đoạn make love trong suối thì chịu không thấu, đá cái ghế phát đứng vụt dậy, nói à ha, đóng phim là đóng vậy đa cưng, rồi bỏ ra khỏi rạp, nhảy tàu về Sài Gòn một giờ như gió.

Liên hoan năm đó Ánh lại được giải vàng nhưng có biết giải déo là gì đâu, nó đóng cửa phòng khách sạn khóc suốt, mắt sưng húp. Dỗ mãi Ánh mới chịu ra ngồi với anh em. Nó quệt nước mắt cười nhạt, nói biết lấy chồng khó vầy, em tiêm hoocmon biến thành đàn ông cha cho khỏe xác.

Bạn Văn 18

1. Năm 1986 mình có việc về Vinh, ghé qua Hội văn nghệ Nghệ Tĩnh tìm Đức Ban, Phạm Việt Thư rủ nhậu chơi. Vào Hội chẳng biết ai với ai, thấy mấy ông cu cũ, lọ mọ, đi vào đi ra lờ vờ… y chang Hội nông dân tập thể huyện.

Văn thơ khét tiếng khắp nước nhưng ông nào ông nấy áo đại cán quàng khăn len, mũ nan lụp xụp, dép lê loẹt quẹt, đi đứng khóm róm…rất giống anh chủ nhiệm của Hoàng Trung Thông.

Thế nên khi thấy một cô bé mặc cái áo tím hoa cà ngồi sau cái bàn cạnh cửa sổ, da trắng ngần, mắt bồ câu, môi hồng tươi đang lúi húi đọc đọc ghi ghi gì đấy thì mình mắt trợn mồm há… không thể tin nổi.

Mình kéo Phạm Việt Thư, nói này, em nào vậy mày. Thư nheo mắt cười cười, nói Tuyết Nga đấy, ngon không, duyệt không. Mình nói ngon ngon duyệt duyệt, rồi hỏi nó làm gì. Thư cười khục khục, nói đẹp thế không làm thơ thì làm cái gì. Mình nói không kiếm đại gia làm chồng lại đi làm thơ, ngu thế không biết.

Thư lại ôm bụng cười, nói ngu ơi ngôi sao sáng của xứ Nghệ đấy. Khi đó mới biết Tuyết Nga năm thứ hai đại học đã có thơ in Văn nghệ quân đội, Xuân Hoài, Trần Hữu Thung khen đứt lưỡi, phục nó tốt nghiệp cái là đem về Hội ngay.

Mình nhảy đại vào tán, mồm miệng như tép nhảy, nói chào em, anh đọc thơ em đã lâu mà giờ mới thấy mặt, đúng là thơ sao người vậy, mê hồn. Tuyết Nga cười to, tiếng cười trong vắt, cái nhìn sáng lấp lánh cho biết ông anh bóc phét sao kém thế.

Mấy hôm liền mình cứ lượn lờ văn phòng Hội, thỉnh thoảng lại nói thế nào, anh xong bài một được chưa. Nó cười he he he, lườm cái nói em đấm chết giờ.

Nó tung tăng đi lấy nước, nói nói cười cười rất tự nhiên như đã quen thân nhau từ lâu, không chút khách khí. Mình nghĩ bụng tình hình xấu, thà nó cứ ra vẻ ta đây, mặt hất lên trời, ngoảy đít đi thì lại dễ tán, đằng này nó cứ một anh hai anh vô cùng thân thiện lại chẳng biết tán làm sao, đành lên mặt đạo đức XHCN đóng vai ông anh, chơi với nhau thân thiết cho đến tận ngày nay.

Lâu lâu mình ghé qua Vinh, tấp vào nhà nó một hai buổi, uống rượu tán phét pha trò vui vẻ tự nhiên như ở nhà em gái. Mê nhất là tiếng cười của nó, lúc nào cũng vang lên trong vắt, vô tư lự, cười và thế a thế a…đáng yêu vô cùng.

Mình nói xứ Nghệ có hai đặc sản quí hiếm gọi là kẹo Cu Đơ thơ Minh Huệ, nó cười hi hi hi, nói thế a thế a. Mình nói Minh Huệ đang làm Đêm nay bác không ngủ 2, Đêm nay bác không ngủ 3… có khả năng làm đến Đêm nay Bác không ngủ 30, nó lại cười he he he, nói thế a thế, đâu có anh phịa.

Mình nói Minh Huệ làm đến Đêm nay Bác không ngủ 3 thì dừng, may, nếu không bắt Bác thức trắng cả tháng thì chết cha. Nó cười ngặt, đấm mình, nói điêu điêu, thế a thế a. Nghe nó cười cứ muốn ngồi tán phét mãi.

Hồi nó mới về Vinh, họa sĩ Trần Khánh nói mày về đây làm gì em, nó hỏi sao, Trần Khánh nói mày là giống công, ở đây toàn gà công nghiệp, mày sống làm sao? Thạch Quì nói nếu mày không muốn làm gà công nghiệp thì phải làm cú vọ mới tồn tại được em ơi. Nghe nói thế nó sợ toát mồ hôi.

Vào cái thời người ta lấy lập trường làm căn bản, tài năng là cái đinh, chuyện gì cũng có thể qui thành trọng tội, đại danh như Thạch Quì cũng lên bờ xuống ruộng không biết mấy lần, nó sống được cũng chỉ vì nó chẳng bận tâm đến mấy chuyện mà ai nấy đều cho là vô cùng quan trọng.

Mấy chuyện chính trường nó mù tịt, chẳng biết ông nào bộ trưởng ông nào thủ tướng, ông nào bí thư ông nào chủ tịch, ông nào có trong sổ đen, ông nào lý lịch xấu, nó cứ mắt tròn mắt dẹt thế a thế a ngơ ngơ như bò đội nón. Lúc đầu người ta tưởng nó giả đò, sau biết chắc nó lơ ngơ thật, chẳng ai thèm chấp nữa. Cái tên Tuyết Ngơ có từ hồi đó- Nghệ An có mười nhà thơ/ Thạch Quì là một Tuyết Ngơ là mười.

Trong Hội mỗi mình nó con gái, từ cái cúc đứt đến việc tổ chức một bữa nhậu, ai gọi Nga ơi anh nhờ cái, nó dạ dạ rồi vui vẻ đi ngay. Đi chợ nấu nướng mua rượu soạn mâm một tay nó cả. Các ông anh cứ thế xếp bằng ngồi nhậu, nói đủ chuyện trên trời dưới biển có khi đến trắng đêm.

Lâu ngày nơi nó ở thành cái câu lạc bộ mini, những người tài danh nhất xứ Nghệ đều tụ về đấy cả. Các ông anh có chuyện bực bội không biết nói với ai lại tìm về nhà nó. Bất luận giờ nào, hễ gõ cửa là nó mở cửa, mặt mày tươi tắn, nói ui anh…Rồi ngồi bó gối nghe các ông anh kẻ đọc thơ người cằn nhằn, kẻ thắc mắc người dèm pha, rồi thét lác chửi bới mắng mỏ đủ cả… nó vẫn kiên gan tiếp chuyện các ông anh, cứ thế a thế a không hề tỏ ra mệt mỏi hay chán nản.

Điều lạ là nó con gái xinh đẹp lại ở độc thân, mấy ông văn nghệ sĩ là đám cáo già trong chuyện trai gái mà bao nhiêu năm nó không hề bị tai tiếng gì, dù rất nhỏ.Tuyệt không một bà vợ nào ghen tuông, hết thảy đều yêu mến nó, hết thảy chứ không phải đa số. Bà nào cũng vậy, nửa đêm tỉnh giấc thấy chồng chưa về, gọi điện hỏi chồng đang ở đâu, nếu nghe chồng nói đang ở nhà Tuyết Nga là yên tâm trùm chăn ngủ. Cũng là một sự hiếm hoi.

Mình nói em cứ đánh đu với mấy ông Khôt ta bit đến khi nào mới lấy được chồng. Lấy đi em ạ, chồng hay lắm, không lấy sớm rồi sau này lại tiếc. Nó cười hi hi hi, đấm lưng mình nói thế a thế a, hay gì hay gì.

Tại đại hội văn nghệ Bình Trị Thiên 1988, từ trái sang phải: Vĩnh Nguyên, Ngô Minh, Hải Kỳ, Tuyết Nga, Nguyễn Quang Lập, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo

Rồi nó lấy chồng, hôm cưới thấy nó khoác tay chồng đi cà nhắc vào hôn trường, nhiều người mừng cho nó mà trào nước mắt. Nó mất mẹ từ hồi nhỏ, chân lại có tật, lúc nào cũng thấy nó mặt mày tươi rói, kì thực nó vất vả vô cùng.

Nó lấy chồng, cả đám ông anh đạo đức XHCN buồn ngẩn ngơ cả tháng, uống rượu say, nói mạ, thằng Hùng cũng gà công nghiệp như tụi mình thôi lại vớ được con công, cha tổ cái thằng may thế. Mình cũng buồn, dẫu rằng buồn là vô lý nhưng cứ buồn, như mình vừa đánh mất cái gì, lạ thế.

Anh em chơi lâu ngay, gặp nhau toàn tán phét, ít khi nghe nói nó đang viết gì, in gì, mình cứ tưởng nó mang tiếng nhà thơ thôi, kì thực chỉ sắm vai người hâm mộ. Một ngày đẹp giời có thằng bạn Bách Khoa gọi điện cho mình, nói mày đọc tập Thơ viết trước tuổi mình của Tuyết Nga chưa, mình nói chưa, nó nói đọc đi đọc đi, hay điếc tai.

Cái ông này hâm mộ thơ Tuyết Nga không kém kĩ sư Tuấn xứ Nghệ , hễ có bài nào của Tuyết Nga vừa in báo là cắt dán, đóng thành tập, suốt ngày ngâm nga như đọc kinh thánh.

Anh Tuấn là kĩ sư tây học, người miền Nam lấy vợ Nghệ, mê thơ và bóng đá kinh hồn, đặc biệt bóng đá Brazin và thơ Tuyết Nga, suốt ngày lùng sục thơ nó. Vợ anh tình cờ quen em gái nó, bèn xin một tập thơ của nó cho chồng. Anh Tuấn quí hơn vàng, đọc đến thuộc lòng vẫn cứ đọc, hễ trước khi ngủ lại đọc dăm ba bài, ai đến chơi đều đem thơ nó ra khoe y chang ông anh trai khoe thơ em gái.

Không ngờ anh chết vì tai nạn, vợ anh đặt trong quan tài quả bóng và tập thơ Tuyết Nga. Nó nghe vợ anh Tuấn kể thì òa khóc, khóc xong thì sợ rúm ró, sợ anh Tuấn hâm mộ quá lại lôi nó xuống âm phủ thì bỏ mẹ.

Cũng cứ tưởng nó làm thơ hay hay vậy thôi, ai làm thơ viết văn mà không có một ít người hâm mộ, chẳng ngờ ít lâu sau tập thơ Ảo giác nó được giải Hội nhà văn, ít lâu nữa thì được nó tặng tập sách luận văn tiến sĩ của nó, ít lâu nữa thì nghe nói mua được đất xây được cái nhà, ngạc nhiên quá chừng.

Uống bia mừng nó được giải ở quán Xanh, mình cười cười nói đấy, em thấy tác dụng của việc có chồng chưa. Nhờ có chồng mới có cô con gái xinh đẹp, đi đái có người đứng canh ma, thơ in ầm ầm, được giải ầm ầm, lại còn xây nhà xây nhiếc, tiến sĩ tiến siếc, đảng viên đảng viếc… sướng chưa!

Nó cười rất tươi, tiếng cười vẫn vang lên trong vắt, nói thế a thế a… Rồi nó cúi xuống mắt ngân ngấn nước, lát sau ngẩng lên, nói chồng em mất đã bốn năm rồi anh ạ. Mình sững sờ.

Nhìn nó cà nhắc đi ra cổng, một tay khoác vai con gái, một tay xách làn rau, mình ngẩn ra không hiểu sao nó lại có tiếng cười trong vắt bền bỉ suốt cả cuộc đời.

Bạn văn 19

Lần đầu gặp Nguyễn Thanh Sơn tại một quán thịt chó nhà sàn, gặp cái là thiện cảm ngay. Không kiểu cách, không vồ vập, cái bắt tay và ánh nhìn của nó như là bạn cũ lâu ngày gặp nhau, bỏ qua mọi giao đãi lịch sự tầm phào, nó vào chuyện nhẹ nhàng như không.

Trước đó nghe thằng Nguyên ( Phạm Xuân Nguyên) giới thiệu, nói thằng này học báo ở Nga, học kinh tế ở Mỹ, khá lắm. Nghe thì biết thế chứ không mấy tin nó là thằng chơi được.

Mấy ông trẻ Tây học, là nói học thật chứ không phải lấy tiền bố mẹ đi du lịch như ối cô cậu trẻ bây giờ, mười ông thì chín ông tự đắc về sở học. Ngồi với đám văn già, thái độ kính cẩn nhún nhường lắm, kì thực chỉ coi họ bằng nửa con mắt.

Nói chuyện vẫn khôn ngoan không đả động đến văn Việt, chỉ nói văn Tây, ông này thế này ông kia thế kia, sách này mới ra sách kia nổi tiếng, thỉnh thoảng làm như tiếng Việt không tải nổi, đành thở ra mấy thuật ngữ Tây, hết surrealist đến symbolic nghe ù tai.

Mới gặp thì cũng thấy hay hay, được vài buổi thì ngả ngửa ra, tóm lại mấy ông trẻ cũng chỉ một mớ hỗ lốn tiếng Tây cùng với vài mươi nhận xét ngộ nghĩnh khéo sắp đặt, hoán đổi cho hợp ngữ cảnh mà thôi. Chán ốm.

Thằng Sơn cũng surrealist, symbolic nhưng nghe tự nhiên như không, nó nói nói nghe nghe không làm ai khó chịu. Ngồi nhậu đâu nó cũng trả tiền, cái cách rút tiền trả làm cho người ta yên tâm mình không nợ nó một bữa nhậu, cũng không cho người ta cảm giác nó đang hầu hạ mình.

Nó làm tất cả những điều đó tuồng như không cần một cố gắng nào, chỉ cần thế thôi biết ngay nó là thằng văn hóa chu toàn. Nhưng mình vẫn nghĩ chắc nó chẳng có tài cán gì đặc biệt, chẳng qua yêu văn, biết văn, thích đánh đu với mấy anh văn chơi bời cho vui thôi.

Đùng cái nó tặng cuốn phê bình văn học của tôi, đọc thấy shock, lần đầu thấy một cái nhìn khác, lịch lãm nhưng thẳng thắn, thậm chí trắng phớ, chỉ đối diện với văn bản, can đảm bước qua những hệ lụy ngoài đời để đi thẳng vào văn bản, mới nhận ra đây là nhà phê bình có cá tính hiếm hoi ở xứ mình.

Bất cứ bài viết nào của nó tung ra, người ngoài vỗ tay khen giỏi giỏi, kẻ trong nghiến răng chửi tiên sư thằng khốn nạn. Chửi thì chửi nhưng cãi lại thì không, cãi lại nó cũng khó lắm, tơ lơ mơ lại mất mặt với nó một lần nữa, không phải chuyện đùa.

Nhiều người nói thằng Sơn ghét thằng nọ thằng kia hay sao mà đánh người ta dữ thế. Chẳng phải. Nếu phê gọi là đánh chắc chắn nó chẳng dám đánh ai, những tác giả bị nó phê người thì nó quí, kẻ thì nó thân chứ chẳng xa lạ, ghét bỏ gì.

Nó chơi thân với Đỗ Hoàng Diệu đến mức mấy ông bạn văn mê Diệu phải phát ghen, đùng cái, nó tằng một phát cái truyện Bóng đè khá nặng đô, Đỗ Hoàng Diệu cũng tằng một phát lại nó nặng đô không kém.

Cứ tưởng hai đứa trọn đời mãn kiếp không nhìn mặt nhau nữa. Chẳng dè ngồi nhậu nhà Lê Thiết Cương, chúng nó vẫn anh anh em em ngọt lịm, chia tay chia chân vẫn thân thiết như thường. Mới hay chúng nó phân biệt khá rạch ròi văn đàn và trường đời. Phục chúng nó quá, nước Nam mình ai cũng được như chúng nó thật hay biết bao nhiêu.

Nó phê phim Mê thảo thời vang bóng, thằng Vân ( Nguyễn Thanh Vân) ngồi nhậu với nó, nói làm phim vất vả cực khổ vô cùng, ông chê kiểu này còn ai dám làm phim nữa. Nó cười buồn, nói em biết chứ, em xem anh làm phim Người đàn bà mộng du vất vả đến phát sợ. Nhưng khi phê bình một tác phẩm, em phải bỏ hết mọi chuyện ra ngoài, chỉ biết có tác phẩm thôi, thế mới công bằng.

Hôm xem xong Áo lụa Hà Đông, nó gửi cho mình xem bài nó viết, mình đọc xong hơi hoảng, nói bài hay, đúng lắm nhưng mày coi chừng, hãng phim BHD của anh Ngô Thảo chung vốn với Phước Sang đấy. Nó cười, nói em biết rồi, kệ, việc đáng nói thì em nói.

Bài in ra, mình tưởng Ngô Thảo sẽ cầm dao phay đến nhà nó, chẳng dè mọi chuyện êm ro. Anh em vẫn ngồi với nhau, chỉ tránh nhắc đến Áo lụa Hà Đông thôi, còn thì vẫn anh anh em em, mặn lắm.

Có lẽ Ngô Thảo là nhà phê bình, anh thừa biết phê bình nước Nam sở dĩ mất tăm tích vì viết cái gì cũng ngó trước ngước sau, hết sợ ông nọ bà kia đến lo bạn bè cánh hẩu, tự mình tước hết chữ của mình, chỉ còn trơ khấc một đám văn nhàm, nhạt hoét. Vì vậy dù của đau con xót, anh đã không phản đối, nếu không muốn nói đã lẳng lặng ủng hộ nó.

Đọc xong bài nó phê phim Huyền thoại bất tử, phê không trật một chút nào, mình gọi điện cho Hồng Ánh, nói thế nào, đã sắm áo giáp cho chồng chưa? Hồng Ánh cười hi hi, nói ui anh ơi, ông này trời sợ.

Đám cưới Sơn- Ánh vừa xong, tiếng cười Ánh trong vắt làm mình cũng vui lây. Cách đây sáu tháng chẳng ai dám chắc hai đứa cưới nhau, khi nào cũng trong tình trạng sắp cưới, nhưng lần nào thằng Sơn ra Hà Nội cũng chẳng thấy nó nói gì, không nói ra nhưng ai cũng thấy lo lo.

Xong đám cưới, thấy Huy Đức ngồi trầm ngâm một mình. Nó là ông mối vụ Thanh Sơn, Hồng Ánh, mọi người vẫn nói đùa đó là việc tốt duy nhất trong đời của Huy Đức. Mình đi tới vỗ vai Huy Đức, nói tâm trạng ông mối thế nào? Huy Đức cười, nói nhẹ cả người chứ còn thế nào nữa, hai năm qua tôi như trứng treo đầu đẳng..

Anh em thân thiết thì lo Sơn không cưới Ánh, người ngoài thì phản đối việc Ánh lấy Sơn, cả chục cô nhà báo gọi điện cho mình nheo nhéo, nói anh ơi anh ơi ông Sơn thế này, ông Sơn thế kia, nghe như tâm trạng khi yêu, hi hi.

Có cô độc mồm còn nói ông Sơn yêu không sót ngành nghề nào, có lẽ chỉ sót mỗi nữ bóng chuyền bóng rổ là ông ấy chưa mó tới. Nói vậy thôi, mình tin Sơn yêu Ánh còn hơn cả Ánh yêu Sơn.

Chẳng phải riêng mình, mấy đứa ở công ty T&A nói từ ngày có chị Ánh, anh Sơn hiền lành hẳn đi, ít quát nạt anh em hơn. Mỗi lần nghe tin chị Ánh sắp ra, mặt anh ấy hân hoan như con nít sắp nhận phần thưởng.

Hôm Ánh đi Dubai dự liên hoan phim, Ánh bận suốt ngày không gọi điện về, Sơn ở nhà quay cuồng, đôi khi lồng lên như sói. Nó thức trắng đêm phục chờ tin tức công bố giải. Vừa 5 giờ sáng nó đã gọi điện cho mình, nói anh ơi Ánh trúng giải rồi, nghe cái giọng biết cu cậu sướng củ tỉ. Nếu không yêu Ánh thì làm gì có chuyện đó.

Buổi chiều ngày valentine ở Mũi Né vừa rồi, lần đầu tiên mình thấy Thanh Sơn đẹp trai lạ thường, nó đứng trước biển mặt rạng ngời ngây ngất như chàng trai trẻ lần đầu tiên cưới vợ.

Có lẽ lần đầu tiên nó biết thế nào là hạnh phúc.

Bạn văn 20

Tối nay lọ mọ thế nào lại vào được blog Hoàng Cát, dưới cái avatar có ghi “Nhà thơ Hoàng Cát, gần cây táo ông Lành” chợt phì cười, thế là bỏ hết việc viết về anh.

Quen anh đã chẵn ba chục năm, nói thân thì không mà sơ cũng chẳng phải, có lẽ quí nhau thì đúng hơn. Lần đầu gặp anh năm 79, kéo anh vào quán nước chè, anh nói chè cháo chi hè, để tau mời mi chén rượu trắng. Anh nói nói cười cười, ôm vai hót cổ như anh em thân thiết lâu ngày, dù mình chỉ là thằng sinh viên, anh thì đã nổi tiếng khắp nước.

Anh nói tụi bay đẹp trai nhưng răng đẹp trai bằng tau được hè, ầy, hồi trẻ tau đẹp rụng rời, ầy, con gái xách dép chạy theo tau cả đoàn, chỉ nội yêu chúng nó không thôi cũng đủ nhọc, ầy, nhọc lắm nhọc lắm. Rồi anh kể tau mần như ri, tau mần như kia. Biết anh bốc phét nhưng buồn cười, cứ há mồm há miệng nghe anh kể.

Hơn năm sau mới phát hiện ra anh đi chân giả, cái chân gỗ dấu trong ống quần, anh đi lại nhẹ nhàng như còn nguyên xi hai chân thật. Có lẽ Hoàng Cát là người duy nhất đi chân gỗ như chân thật trong rất nhiều người đi chân gỗ mà mình gặp. Khen thì anh cười hè hè, nói ầy, gái còn lầm, tụi bay là cái chi.

Anh đi lính từ năm 65, đánh nhau ở chiến trường Bình Trị Thiên, năm 69 bị thương cụt chân, năm 71 xuất ngũ về Hà Nội viết báo làm thơ ầm ầm, tiền bạc tên tuổi đang lên phơi phới thì mắc nạn Cây táo ông Lành, tụt xuống đáy bể khổ từ đó, suốt hai chục năm không cách gì có thể ngóc đầu lên được.

Mình đã đọc đi đọc lại cái chuyện thiếu nhi đó, nghĩ mãi không ra tại sao người ta chụp cho anh đủ thứ chống. Có người bảo Hoàng Cát nói xấu Tố Hữu, bị Tố Hữu dần cho tan xương nát thịt chứ sao. Hồi đó truyền tụng câu đối như một lời nhắn nhe tới Tố Hữu: “ Hoàng Cát không viết điều hung/ ông Lành chớ làm việc dữ”.

Sau này mình gặp Tố Hữu, hỏi thì Tố Hữu nói bậy, Hoàng Cát nó khen tôi chứ đâu có nói xấu tôi. Mình không tin, hỏi Hoàng Cát, anh nói ầy, Tố Hữu không mần chi tau mô, mình nói rứa thì ai, anh nói oa chà một ông to lắm. Dần dà mới biết có một ông to gấp mười Tố Hữu đã xuất chưởng, may anh là thương binh không thì đi đời nhà ma từ tám hoánh.

Cái số Hoàng Cát thật không may, vào chiến trường yêu một em xinh đẹp, chưa kịp cầm tay nắm chân đã bị thương, chuyển hết viện này sang viện khác, thất lạc nhau kẻ Nam người Bắc, cuộc tình chưa kịp nở đã tàn. Tưởng què cụt không ai lấy, về Hà Nội cưới được vợ mừng hết lớn, đám cưới lại trúng ngay đêm Mỹ thả bom phố Khâm Thiên năm 72. Vợ vừa có chửa lại lâm nạn, lại mất việc làm, lại bị treo bút, hai chục năm trời đói rách lầm than.

Bị treo bút cũng chỉ là cách nói, chẳng có cái lệnh nào từ trên xuống, cũng chẳng ai ra quyết định kỉ luật gì. Thời đó hễ ai đó có tiếng ồn ra là thành phần bất hảo, lập tức báo chí xuất bản cứ thế lẳng lặng đưa ngay người đó vào sổ đen, tuyệt giao thẳng cánh.

Cũng vì không có quyết định kỉ luật để biết thời hạn kỉ luật là mấy năm, thành ra cái án cứ treo lửng lơ hết năm này sang năm khác. Nếu đất nước không đổi mới năm 89 thì không biết cái án treo bút các anh Phùng Quán, Trần Dần, Hoàng Cầm… còn kéo dài đến bao giờ, Hoàng Cát cũng thế.

Đừng nói tại cấp trên, tại anh em mình cả thôi, cũng chỉ vì sợ bóng sợ vía mà làm khổ nhau, bây giờ có ai trách thì đổ hô cho tại cấp trên dọa này dọa nọ.Cấp trên nào có thì giờ đi dọa tào lao chi khươn kiểu đó, ôi giời là buồn.

Người ta nói phúc bất trùng lai họa vô đơn chí quả nhiên đúng, người ta thương binh bị phần mềm cũng được trợ cấp này nọ, anh cụt hẳn một chân chẳng ai cấp cho một xu. Mười bảy mười tám nghề đã trải, toàn những nghề lặt vặt nhưng chẳng nghề nào được xuôi chèo mát mái. Buôn lợn bị lừa, dán tem thuốc bị phạt, nhổ lông bì lợn bị mất… đến mở cái quán chè chén cũng luôn luôn gặp rắc rối, không bị đuổi chỗ thì bị mất tiền, bị quịt nợ, bị gây sự đủ điều. Nghe mà phát sợ.

Cũng giống anh Hoàng Bình Trọng ở Quảng Bình, hình như khổ đến kiệt cùng Hoàng Cát còn chẳng biết khổ là gì nữa. Chưa bao giờ thấy anh kêu khổ, toàn thấy anh kêu khổ giùm bạn bè, nói thằng ni, thằng tê khổ lắm bay ơi, đưa mô có giúp hắn với bay nờ.

Thơ vẫn viết, rượu vẫn uống, uống say thì hú hét hát hò, ba hoa bốc phét chuyện gái gẩm mua vui, nói con này lá tre con kia lá mít hay lắm hay lắm, tau mần như ri tau mần như tê đã cái mớ đời bay ơi. Đang ba hoa chích chòe, hễ ai nhắc đến vợ con thì mặt đờ ra giống như vừa nghe danh thánh thượng, đủ biết anh yêu vợ con đến nhường nào.

Cũng đúng thôi, nhờ có vợ con anh mới sống đến tận bây giờ, làm thơ viết văn đến bây giờ, sáu bảy tập thơ in được cũng nhờ vào tay vợ con cả. Có lẽ nói anh ngưỡng mộ vợ con thì đúng hơn. Con gái anh làm phát thanh viên tiếng Anh, đến chương trình của con, trên ti vi con đứng nói, dưới nền nhà bố ngồi ngước mặt nhìn con, hơm hớp từng tiếng một.

Con giỏi tiếng Anh, bố cũng bò ra phục hồi tiếng Pháp, món ngoại ngữ bỏ mấy chục năm tưởng quên sạch bỗng nhiên khôi phục được. Giờ uống đâu hễ say là anh toàn xì xồ tiếng Pháp, đôi khi thấy anh như người cuồng, xồ ra nửa Việt nửa Pháp, nói tụi bay ơi… on dit souvent que… argent ne fait pas le bonheur… nhưng moa chỉ thích tiền thôi.

Có một người nữa khi đang vui hễ ai nhắc đến là mặt Hoàng Cát cũng đờ ra, đó là Xuân Diệu. Ai cũng biết Hoàng Cát và Xuân Diệu là anh em kết nghĩa nhưng quan hệ của họ đã vượt quá tình anh em, đạt đến cái gọi là tình yêu, có lẽ điều này thì nhiều người không biết.

Năm 1958 Hoàng Cát mới 17 tuổi, trâu bị lạc, anh tất tả đi tìm thì gặp Xuân Diệu đang ngồi nghỉ dưới tán cây giữa cánh đồng làng anh. Xuân Diệu đi thực tế về Nghệ An, tay cầm cặp bánh chưng, anh cho Hoàng Cát một cái bánh, lần đầu tiên Hoàng Cát biết bánh chưng ngon đến chừng nào.

Từ đó anh em thân nhau, rồi yêu nhau, chính xác chỉ có Xuân Diệu yêu Hoàng Cát, còn Hoàng Cát suốt cả đời mình chỉ biết thương Xuân Diệu, thương đến vô cùng. Thương quá hóa chiều, Hoàng Cát chỉ chiều yêu Xuân Diệu mà thôi.

Hôm vừa rồi nhậu ở nhà thằng Đạo ( Trần Quang Đạo), Hoàng Cát say, đang hú hét ồn ào bỗng nghe ai đó nhắc đến Xuân Diệu, anh chợt ngưng lại rưng rưng, nói tau thương Xuân Diệu lắm bay nờ, bay đừng nói nữa mà tau khóc.

Và anh khóc thật, nước mắt chan chứa, vừa khóc vừa đọc bài thơ Xuân Diệu viết tặng anh 45 năm về trước, ngày anh lên đường nhập ngũ. Anh nói ầy, tau không yêu Xuân Diệu theo kiểu trai gái yêu nhau, ầy, nhưng mà tau thương, thương lắm bay nờ

Mình hỏi rứa Xuân Diệu có yêu anh không, Hoàng Cát nói yêu chơ, Xuân Diệu yêu tau thiệt mà, yêu lắm mi nờ.

XUÂN DIỆU

EM ĐI

Em đi, một tấm lòng son mãi

Như ánh đèn chong, như ngôi sao;

Em đi, một tấm lòng lưu lại

Anh nhớ thương em, lệ muốn trào.

Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga

Chưa chi ta đã phải chia xa

Nụ cười em nở, tay em vẫy

Ôi mặt em thương như đoá hoa.

Em hỡi! đường kia vướng những gì

Mà anh mang nặng bước em đi?

Em ơi! anh thấy như anh đứng

Ôm mãi chân em chẳng chịu lìa!

Nhưng bóng em đi đã khuất rồi

Đứt là khúc ruột của anh thôi

Tình ta như mối dây muôn dặm

Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời!

Em hẹn, sau đây sẽ trở về

Sống cùng anh lại những say mê

Áo chăn em gửi cho anh giữ

Xin giữ cùng em cả hẹn thề.

Một tấm lòng em sâu biết bao!

Anh thương em mãi, biết làm sao?

Em đi xa cách, em ơi Cát

Em chớ buồn nghe, anh nhớ, yêu!

7-1965

Sáng tác của Hoàng Cát

1- Tháng Giêng dai dẳng – thơ-NXB Văn hoá 1991; 2- Ngôi sao biếc- thơ- NXB Văn học 1994; 3-Mùa thu, tình yêu, cuộc đời – thơ- NXB Hội Nhà văn 1998; 4- Thì hãy sống- thơ- NXB Thanh niên 2002; 5 - Cảm ơn vỉa hè- thơ NXB Hội Nhà văn 2004; 6- Thanh Thản- thơ- NXB Hội Nhà văn 2006; 7- TUYÊN TẬP THƠ HOÀNG CÁT, NXB Hội Nhà văn 2009 ;và tập truyện "Chuyên tình của Xin", NXB Thanh niên 2005; và hàng ngàn bài báo đủ các đề tài, các vấn đề........

Bạn văn 21

Mấy hôm lễ tết, mình theo cuốn Kí ức vụn vừa ra lò bận búa xua, sinh nhật mình đúng 30/4 cũng không kịp tổ chức một cái tiệc nho nhỏ mời bạn bè giống như mọi năm. Anh Huyến ( Đoàn tử Huyến), giám đốc Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, người đứng ra xuất bản cuốn Kí ức vụn , vỗ vai mình cười hề hề, nói công nhận tuổi con khỉ khổ thật, thôi dẹp, đi Cao Bằng chơi với tao. Tự nhiên muốn viết về ông này.

Quen anh Huyến từ năm 89, 90 chi đó. Mình làm tạp chí Cửa Việt, thỉnh thoảng vẫn nhận bài dịch của anh, không có cái nào anh dịch mà mình không thích. Dịch văn học Nga ra tiếng Việt có cả trăm người nhưng cũng chỉ trụ lại có 4 ông, đó là Phạm Mạnh Hùng, Cao Xuân Hạo, Bằng Việt và Đoàn Tử Huyến.

Cái cuốn Nghệ nhân và Margarita của Mikhail Bungacov cực dày, cực khó dịch thế mà anh dịch ngon trớt, nói thật nếu không đọc cuốn này thì ít ai xếp anh lên chiếu trên trong hằng hà sa số dịch giả nước Nam .

Mình ăn cắp cuốn này của Phú Quang. Năm 89, Phú Quang ra Quảng Trị dàn dựng chương trình ca múa nhạc cho Đoàn văn công Quảng Trị, mình đến thăm, thấy cuốn Nghệ nhân và Margarita đặt dưới gối, nghĩ bụng Phú Quang đặt sách đây để lấy nê với gái thôi, đọc điếc gì cha này, lạ gì mấy ông nhạc sĩ. Tranh thủ lão vào toilet, mình lấy sách nhét bụng liền.

Về đọc vài trang là bị hút liền, chơi trắng đêm sạch cuốn sách, lại đọc lần nữa, xong rồi nằm ngẩn ngơ nghĩ đến văn mình mà xấu hổ quá đi mất. Có lễ đây là cuốn sách tôn Bungakov lên nhà văn bậc thầy trong thế giới văn chương, cũng là cuốn sách đưa Đoàn Tử Huyến vào hàng số dách các dịch giả nước ta.

Hôm sau ra chơi với Phú Quang, thấy lão nhăn nhó gãi đầu bứt tai, nói tôi vừa mất cuốn Nghệ nhân và Margarita rồi, không biết thằng nào lấy, điên thế. Lão nhìn mình lườm lườm, mặt đầy khả nghi. Mình nói ồi, sách đó ra cái gì mà bác tiếc. Phú Quang trợn mắt ngạc nhiên, nói ông không thích cuốn đó thật a, tôi đọc ba lần rồi, đang đọc lại lần thứ tư.

Mình cũng giả đò ngạc nhiên, nói bác tiếc cuốn đó thật a. Phú Quang nhìn mình như nhìn thằng vô lại, cười nhạt vẻ coi thường, nói thế mà tôi nghi ông ăn cắp Nghệ nhân và Margarita , đang phục thầm ông là thằng biết ăn cắp. He he.

Đám dốt ngoại ngữ như mình hầu hết trông cậy vào các dịch giả, văn chương thế giới hay dở thế nào cũng trông vào họ cả. Chính họ đã đóng dấu ấn phong cách văn chương của các nhà văn nước ngoài vào tâm trí bạn đọc, làm cho bạn đọc yêu quí, trọng thị hay xem thường văn của ai đó cũng nhờ vào mấy ông dịch giả này, chẳng thèm nói ngoa.

Ai đã đọc Marquez do Nguyễn Trung Đức dịch, Kundera do Phạm Xuân Nguyên dịch, Bungacov do Đoàn Tử Huyến dịch rồi đọc các ông ấy do người khác dịch thì thấy thế nào a, nó không hay, có cảm tưởng không phải văn của mấy ông ấy. Nghĩ cũng hay hay. Có lẽ dịch giả vẫn được người ta tôn là nhà văn cũng vì thế.

Vài năm sau ra Hà Nội chơi, đang đứng lơ ngơ trước cửa Nhà xuất bản Văn học- hồi này nó đang ở đường Trần Hưng Đạo, thì thấy Đoàn Tử Huyến ốm nhom, hai đầu gối củ lạc kẹp lên tận mang tai, anh đang ngồi bán sách, ngạc nhiên quá trời. Cái giá sách đóng bằng cái dát giường cũ, đựng vài mươi cuốn sách, anh ngồi dẩu mỏ nhìn khách bộ hành qua lại, tóc tai râu ria bù xù trông thảm lắm.

Tưởng anh lãnh án tù tội gì mới ra, không ngờ anh vừa qua cơn thập tử nhất sinh, hai năm trời nằm viện. Anh bị khối u lớn, bác sĩ sờ thì thấy, chụp phim lại không thấy, chẳng ai dám mổ. Chạy vào bệnh viện Sài Gòn nằm cả năm trời cũng không ái dám mổ, cái bệnh gì thật lạ, như bị ma ám.

Anh em văn nghệ lo lắng kháo nhau, nói thằng Huyến bị Bungacov ám rồi, ở Nga hễ ai giây với Bungacov, hoặc văn Bungacov đều không chết cũng bị thương, nhất là với cuốn Nghệ nhân và Margarita thì lại càng nguy nữa.

Không phải chuyện đùa vui, chính Bungacov cũng đã nói vậy trong thư ông gửi chính phủ Liên Xô ngày 28 tháng 3 năm 1930, thật đấy. Làm phim từ tác phẩm của ông thì cảnh quay hỏng, đạo cụ cháy, diễn viên ngã chấn thương, thậm chí chết.

Phim Nghệ nhân và Margarita của đạo diễn Yuri Kara rất đắt tiền (15 triệu đô, năm 1995) quay xong không hiểu vì lí do gì đến giờ vẫn chưa được chiếu. Người nào may lắm, gọi là nhẹ thôi cũng bị chuyện tiên nong làm cho khuynh gia bại sản. Bao nhiêu giai thoại nghe mà thất kinh.

May thay trời còn to hơn Bungacov, cảm cảnh Đoàn Tử Huyến chỉ vì mê đắm văn học Nga mà thân bại danh liệt nên trời tha. Một nhóm bác sĩ Sài Gòn liều mổ cho anh, hóa ra khối u nằm sau bàng quang, chụp phim mới không thấy.

Thoát chết trở về, rơi vào tình trạng cùng kiệt kinh tế, bao nhiêu tiền bạc đổ hết cho hai năm nằm viện, lại còn một cục nợ to đùng. Lương biên tập năm đồng ba cọc, lắm khi cầm cốc bia hơi bạn mời anh chỉ mơ làm sao có tiền để mỗi ngày có vài cốc uống chơi. Mơ cũng chỉ là mơ thôi, cơm rau còn khó kiếm, nói chi bia bọt.

Đời vốn vậy, cùng tất biến, một ngày đẹp giời Đoàn Tử Huyến bỗng nghĩ mình ở Nhà xuất bản bao nhiêu năm sao không biết làm sách như mấy ông đầu nậu nhỉ. Thế là nhảy vào cuộc tang bồng, một năm sau thành đại ca đầu nậu, được chú em ruột hỗ trợ, góp vốn chung sức, kinh tế lên vùn vụt, tiền tỉ bỏ túi ngon ơ. Ngồi trước một mớ tiền, lắm khi Đoàn Tử Huyến véo đùi thật mạnh kiểm tra xem đây là mơ hay thực.

Thực ra Đoàn Tử Huyến kinh doanh chả giỏi, chẳng qua trời thương trời cho chứ làm xuất bản gì mà toàn in thứ mình thích, chả cần biết thiên hạ thích gì, vớ phải quyển sách mình thích là chết cũng in cho bằng được, lắm bữa sách tồn kho cả đống.

Lại còn thành lập Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, tiền bạc ném vào cho các hoạt động văn hóa không thu lợi nhiều không kể xiết. Sách in ra chỉ ngồi chờ bạn đến để cho, nghĩ mãi không ra, ông này kinh doanh kiểu thế sao mà giàu được nhỉ, tài thật.

Đã thế còn ham chơi, bất kì đang dở việc gì nghe bạn hú là vọt liền, không chỉ vài ba cây, vài mươi cây cũng vọt, chơi vừa về bạn hú lại vọt tiếp. Tóc bạc quá gáy, mặt mày giống bác thiền sư, ai không biết tưởng ông này hiền lành nhu mì, chắc chẳng biết ăn chơi. Nhầm to, anh thuộc loại chơi hăng máu không kém gì tụi trẻ.

Hơn sáu chục tuổi hễ gặp gái đẹp là mắt sáng hình viên đạn ngay tắp lự, vẫn huyênh hoang tuyên bố gái trên 23 tuổi không duyệt, Văn Sáng nói cha Huyến ghê lắm đấy, 120 phút không kể thời gian chép đề. Thất kinh. Lại nhớ đến ông Hoàng Ngọc Hiến, ông ấy chép đề cả 120 phút, chẳng chịu làm bài, cứ hí húi chép đề miết không biết chán, kể cũng tài.

Đoàn Tử Huyến đang cao đàm khoát luận Đông Tây kim cổ, thoảng có bóng hồng là mặt ngẩn tò tè, nhớn nhác rỉ tai em nào em nào, duyệt được không duyệt được không. Mình nói bác được mấy hơi mà ba hoa lắm thế, anh cười khì khì, nói đời tao chỉ có một mơ ước, mơ ước tốt bậc, là ngày nào cũng duyệt được một em xinh đẹp mà vợ con không biết.

Chắc anh chỉ nói phét vậy thôi, thấy cái lưng Mã Siêu của anh gập trên máy tính mười sáu tiếng một ngày, chẳng ai nghĩ Đoàn Tử Huyến sống để mà chơi.

NGÔ MINH LÀ RỨA ĐÓ

Lâu lắm mới vào trang web Hội nhà văn để xem hai ông Văn Chinh, Hà Đình Cẩn làm ăn thế nào thì thấy dân tình phản ứng ầm ầm vụ Ngô Mình in lại bài đã in trên báo Tiền Phong nhân ngày 30 tháng 4. Người đòi đuổi, kẻ đòi đánh, có người còn đòi giết nữa. Thất kinh.

Có ông trong làng văn lên giọng ta đây kẻ cả, nói Ngô Minh là ai, Ngô Minh là thằng nào mà láo toét vậy ta? Nghe mà lộn ruột.

Lại nhận được email của Ngô Minh gửi thư xin lỗi báo Tiền phong và bạn đọc, tự nhiên buồn, ngồi thừ. Thì sai lè ra rồi nhưng bảo Ngô Minh cố tình làm thế thì oan cho Ngô Minh quá. Nếu muốn dùng lại bài cũ thì thiếu khối gì báo để in, nhiều báo nhuận bút còn to hơn báo Tiền phong, ngu gì lại in báo Tiền Phong, tờ báo đã in bài này năm ngoái.

Ở đây chỉ là sự quên, một sự quên tai hại, kể cả hai phía, Ngô Minh và BBT. Làm báo bận rộn, một trăm mối, nhiều khi rối tinh rối mù cả lên... rất khó tránh được sự nhầm lẫn, nhất là đến kì lễ tết, việc công việc tư đổ lên đầu mỗi người làm báo, nhiều khi như ốc lộn hồn, nhiều cái đến con bò cũng không thể sai mình vẫn sai như thường.

Mình ngày xưa làm ở báo Văn Nghệ, một cái minh họa đã minh họa cho truyện ngắn số trước, đến số này lại lấy minh họa cho một truyện ngắn mới khác.. Cái lỗi này còn thậm tệ hơn cả lỗi in nhầm bài cũ, lỗi văn hóa quá nặng. Nếu qui kết thì qui kết bao nhiêu cũng không đủ. Rất may là không ai biết, nếu không cũng nếm đòn y chang Ngô Minh.

Mình gọi điện cho Ngô Minh, nói răng rồi răng rồi, Ngô Minh cười sật sật, nói thì xin lỗi chớ biết răng. Nghe cái điệu cười thấy có vị đắng. Rõ là đắng thật, viết báo từ năm 13 tuổi, thủa còn học lớp 6 trường làng, đã làm thơ viết báo đến nay gần nửa thế kỉ chứ không ít lại mắc lại cái lỗi sơ đẳng nhất của nghề báo, đắng lắm.

Giá gần nhau thế nào cũng kéo nhau ra quán chia nhau chút buồn cho đỡ tủi. Xưa mình ở Huế, có ba người hễ gặp nhau không thể không uống, đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo và Ngô Minh. Đã uống thì uống đến say mới chịu về, ít khi nhấp vài ba chén lấy lệ rồi chia tay.

Ngô Minh say thì cười sật sật chạy đi đóng các cửa sổ nhà người ta, ai bảo thế nào cũng không nghe. Trời nóng, người ta mở ra cho thoáng, anh lại đi đóng lại. Anh Tạo nói ông F.rơt vừa gọi điện báo cho tao: thằng Ngô Minh luôn sợ công an bắt. Ngô Minh cười sật sật, nói mô có, tui sợ vợ con tóm cổ lôi về nhà, hết uống.

Có hôm uống rượu ở Bến Ngự, cả hội say sưa, Ngô Minh đã lên cơn chạy đi đóng cửa sổ, cô bán rượu tên Chi nhìn anh cười cười, nói anh Ngô Minh uống rượu nhà em nhiều mà không tặng em bài thơ.

Ngô Minh cười sật sật, nói rứa a rứa a, rồi đọc một lèo bài lục bát:

Cô CHI ơi bán rượu CHI

Rượu CHI CHI cũng uống vì nhau thôi

Cớ CHI cô tủm tỉm cười

Anh mần CHI được như người giàu sang

Say CHI đôi chén mơ nàng

Nhớ cô CHI đó, nhớ hàng rượu CHI

Mọi người vỗ tay rần rần, khen hay hay. Ngô Minh ngửa cổ cười sật sật rồi ngã đánh rầm, mê man trong rượu.

Anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) rối rít xuýt xoa, nói ua chầu chầu thằng ni tài gớm bay, say đến rứa mà sắp chữ mấy cái chữ CHI tài hết cỡ. Tài thơ Ngô Minh thì khỏi nói, anh có chục tập thơ tập nào cũng gây được chú ý, không giải trung ương thì giải địa phương. Vĩnh Nguyên nói thấy thằng Ngô Minh đi lãnh giải mà chóng cả mặt.

Say tít mù, thơ phú miên man nhưng ít khi thấy Ngô Minh quên chuyện gì, dù là nhỏ. Ai nhờ vả cái gì chỉ nói một câu, không cần đến câu thứ hai, nói cả khi say ngất ngư anh vẫn nhớ, có khi người nhờ quên chứ anh thì không bao giờ. Chị Dạ ( Lâm Mỹ Dạ) ở gần nhà anh, bất kì việc gì cũng gọi anh nheo nhéo, nói nhớ nha nhớ nha, mai giúp việc ni, mai giúp việc kia. Lắm bữa anh sang nhà, làm xong việc rồi chị Dạ mới về nhà, chị trố mắt kêu ui rứa tui nói với ông khi mô hè.

Chị Dạ sợ đi xe máy, đi đâu cũng nhờ Ngô Minh chở đi. Anh giống ông tài xế riêng của chị Dạ, đưa đón rất đúng giờ, lại còn phải nhắc chị giờ này giờ kia đi chỗ này đi chỗ kia, công việc bận rộn vô cùng nhưng anh không bao giờ sai hẹn.

Thế mới biết việc gửi lộn bài báo đã in quả thật không ngờ đối với Ngô Minh. Cuộc sống có những lỗ đen quái quỉ, ai vô phúc rơi rơi vào đó chỉ cần vài mươi giây thôi cũng đủ gây đại họa. Bạn bè anh ai biết chuyện cũng vô cùng ngạc nhiên, riêng chị Dạ cứ trợn mắt há mồm hỏi đi hỏi lại răng rứa hè răng rứa hè.

Ngô Minh học cùng lớp với chị Dạ thời phổ thông, cái lớp cũng lạ, ở đâu không biết chứ ở Quảng Bình tuyệt không có lớp thứ hai,.đến chục nhà thơ nhà báo nhà khoa học nổi tiếng: Ngô Minh, Lâm Mỹ Dạ, Đỗ Hoàng, Hải Kỳ, Lê Đình Ty, Trần Khởi, Phạm Hữu Xướng, Nguyễn Minh Hoàng, Lê Viết Ngư. Trải qua nửa thế kỷ họ vẫn bền bỉ yêu thương nhau cũng là chuyện xưa nay hiếm.

Ngô Minh vốn là cán bộ tổ chức Sở thương nghiệp, hơn chục năm làm việc anh giúp không biết bao nhiêu bạn bè cho con cái họ có việc làm, giúp vô tư không hề hút của ai một điếu thuốc. Con cháu nhà anh lắm khi anh chẳng để tâm, riêng bạn bè thì anh giúp đến tận cùng, đôi khi không được chính anh lại đau khổ hơn cả bạn .

.Ngành thương nghiệp hồi đó gọi là ngành béo bở, anh lại là cán bộ tổ chức rất có uy với giám đốc Sở, chỉ cần chịu khó nhặt nhạnh một chút anh đã giàu to. Nhưng không, cho đến bây giờ tài sản của anh vẫn chỉ là thơ, tất nhiên có một tài sản còn quí hơn cả thơ là bà vợ xinh đẹp thủy chung và hai thằng con thông minh giỏi giang. Thế cũng đủ cho anh cười sật sật suốt ngày, văn nghệ xứ mình ít ai được hạnh phúc trọn kiếp.

Viết đến đây bỗng thấy thèm uống rượu với Ngô Minh quá. Bây giờ già rồi không dám say sưa như ngày xưa nữa, chỉ cần chục năm đổ lại đây thôi kể chuyện Ngô Minh mà không kể chuyện say coi như chưa kể chuyện.

Hễ say là anh cười sật sật chạy lăng xăng đi đóng cửa sổ, hết màn đóng cửa lại đến màn vật nhau. Anh cứ cười sật sật lao vào mấy ông đàn ông đòi vật: Không biết Ngô Minh hứ, vật chắc cái coi- coi thường Ngô Minh hứ, vật chắc cái coi.- qua mặt Ngô Minh hứ, vật chắc cái coi. Cứ thế anh vật hết người này sang người khác.

Vất vả cả đêm mới tha anh về nhà được. Sáng mai anh đến nhà, cười sật sật nói tối qua say kinh, ân hận quá, đi làm vài ly cho đỡ ân hận.

Năm 1999 Ngô Minh say, ngã vỡ hộp sọ đem vào viện, bác sĩ cưa sọ như cưa cái gáo dừa, xử lý máu tụ rồi ghép lại ngon lành. Bốn giờ sau khi mổ, anh mở mắt tỉnh táo như không, nằm cười sật sật. Mọi người lo lắng tưởng não có vấn đề sau mổ, có khi anh điên rồi, hoá ra anh chưa giã rượu, vẫn còn say, nằm cười sật sật.

Anh ra Hà Nội thăm mình, mình hỏi anh bị tai nạn thế nào, anh cười sật sật, nói mình tra ( già ) rồi, xương sọ không dính được, nếu ngã một phát nữa là xương sọ bắn ra liền. Mình trợn mắt há mồm, nói sợ quá, anh đã khiếp uống chưa. Ngô Minh lại cười sật sật, khiếp rồi ân hận rồi. Nói xong thì kéo mình đi ra quán, nói đi làm vài ly cho đỡ ân hận.

Nhớ Trần Dần

Hồi bé chẳng biết gì về anh, chỉ nghe anh Thắng nhắc đi nhắc lại câu thơ phản động của Trần Dần: Chúng tôi đi không thấy phố thấy nhà/ chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Nghĩ mãi không hiểu vì sao lại phản động. Hỏi anh Thắng, anh nói ngu, mày không thấy câu mưa sa trên màu cờ đỏ là phản động à? Vẫn không hiểu, không thấy. Ai bảo treo cờ giữa trời, có nắng chiếu thì có mưa sa chứ, không lẽ khi nào nắng chiếu thì cách mạng, còn mưa sa thì phản động a? Giả sử mưa sa xuống cờ là phản động thì mưa phản động chứ bác Trần Dần phản động à? Anh Thắng cú cho một cái nói mày ngu lắm em ơi, nói trong nhà thì được, ra ngoài đường nói người ta bắt đấy.

Không ngờ ba chục năm sau lại gặp anh, gặp nhiều lần, lần nào cũng anh Phùng Quán đưa đến. Thấy anh ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên kia. Mình chào: anh, anh ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai rượu trắng đã vơi quá nửa đặt lên bàn, rót ra đầy chén: uống đi.

Lần sau đến lại thấy anh ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên kia. Mình chào: anh, anh ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai rượu trắng đã vơi quá nửa đặt lên bàn, rót ra đầy chén: uống đi.

Lần thứ 6, thứ 7 vẫn thấy anh ngồi dựa tường, mắt nhìn như thôi miên tường bên kia. Mình chào: anh, anh ừ rồi cúi xuống gẩm bàn, lấy cái chén cáu bẩn, chai rượu trắng đã vơi quá nửa đặt lên bàn, rót ra đầy chén: uống đi.

Nếu đến lần thứ 100 chắc vẫn y xì như vậy.

Anh Phùng Quán nói 3 chục năm thế rồi, giật mình nhìn lên bức tường in bóng anh, bốn xung quanh tường úa vàng, riêng có hình anh ngồi dựa tường trắng nhỡn. Bây giờ đất nước đổi mới, không biết thằng Vũ có nhớ giữ lại cái hình ấy không, hay mải làm sắp đặt, quên, để thợ quét vôi đi rồi, uống lắm.

Anh Quán chỉ mình nói với anh: Thằng này viết văn giỏi lắm anh. Anh hơi gật, thủng thẳng nói: văn chương bây giờ thêm được một cái dấu phẩy cho thiên hạ là tốt rồi.

Chẳng biết mình có thêm được dấu phẩy không, nhưng nghe anh nói mà sợ.

Anh viết văn nắn nót còn hơn người ta viết chữ bằng khen, nét sổ thì đậm, nét đá thì mảnh, trăm chữ như một. Một ngày ròng rã, cật lực mới viết được một trang giấy học trò. Đó là may không viết hỏng chữ nào, chỉ cần hỏng 1 chữ, anh chép lại cả trang, lại một ngày trời ròng rã, cật lực. Thất kinh.

Mình nói anh viết thế này thì đến bao giờ mới xong một cái truyện? Anh thủng thẳng nói: viết văn chứ có phải đi ăn cướp đâu. Làm cho nhanh làm gì.

Một lần đến chơi, anh vui vẻ khoe: tối qua thức trắng đêm mới sửa xong bài thơ. Bài này viết lâu rồi, bây giờ mới sửa xong. Mình cầm bài thơ đọc, há hốc mồm. Cái đầu đề bài thơ còn dài gấp đôi bài thơ.

VỢ CHỒNG

Xong.

Tức đầu đề là : vợ chồng, bài thơ là: xong.

Đó, thơ anh đó. Có mỗi chữ mà thức trắng đêm, làm đi làm lại mấy năm trời. Thất kinh.

Không mấy khi thấy anh cười, cười to càng không. Chỉ duy nhất một lần nhắc đến Người người lớp lớp, anh Quán nói thằng Lập phản động lắm anh. Anh nói sao, anh Quán nói: nó bảo pháo chèn Tô Vĩnh Diện chứ không phải Tô Vĩnh Diện chèn pháo. Anh nhìn mình hỏi sao? Mình nói khi kéo pháo lên dốc, đã đứt dây, pháo lao xuống ầm ầm, có thánh cũng không đuổi kịp để chèn pháo nữa là người. Chẳng qua đứt dây, anh Diện chạy không kịp thì bị chèn thôi.

Anh ngồi yên hồi lâu rồi hơ hơ, ngừng vài giây sau lại hơ hơ, vài giây sau nữa mới hơ hơ hơ thành một tràng, vỗ tay đánh bốp kêu to: hay! Giỏi! Thông minh!

Thơ Trần Dần mình đọc nhiều nhưng không thuộc, chỉ nhớ hoài tiếng cười hơ hơ hơ của anh, nhớ đến chết không quên

Nhớ Nguyễn Khải

Đợt trước vào Sài Gòn còn gặp Nguyễn Khải, đợt này vào không còn thấy anh nữa. Tự nhiên thấy tiếc. Không nhớ mà tiếc.

Đợt trước gặp anh được nửa giờ, tình cờ gặp ở vỉa hè, kéo vào ngồi quán cà phê nghèo ở hẻm, anh nói: Lập viết kịch hay, viết phim cũng hay, nhưng viết văn đi em. Mày bỏ văn lâu quá rồi.

Đó là lần đầu tiên anh Khải gọi mình bằng em, bằng mày, trước nay toàn gọi ông xưng tôi dù anh hơn mình cả 20 chục tuổi.

Đó cũng là lần đầu tiên mình tin anh Khải khuyên mình chân thành nhất. Trước nay anh nói câu gì mình cũng khả nghi. Anh sống khéo nổi tiếng, chưa chê văn ai nửa câu. Hoặc khen hoặc không chứ chưa bao giờ chê.

Gặp lần nào anh cũng khen, anh khen rất khéo, không lộ như Trần Đăng Khoa, nhưng mình vốn khả nghi anh từ lâu nên không bao giờ mình tin là anh khen thật. Khi nào cũng nghĩ: ông này có đọc mình đéo đâu, chỉ khen thế thôi. Bởi vì ông nổi tiếng câu: Thằng nào thích khen thì khen cho nó chết. Vì thế dù anh khen có thật lòng cũng chẳng sung sướng gì.

Ở Hà Nội anh thân nhất là Nguyễn Khắc Trường, còn đám con nít tụi mình, anh chơi như sự chiếu cố mà thôi. Đấy là mình nghĩ thế, hoá ra không phải.

Hồi đại hội IV nhà văn mình còn hung hăng lắm. Mặc bộ đồ bò đầu gấu lên diễn đàn nói văng mạng, được vỗ tay càng nói hăng. Nói xong về chỗ thì run, không biết mình có nói hớ chỗ nào không.

Nghỉ giải lao ra hành lang ngồi gần anh, hỏi: Em nói có được không anh? Anh nhìn mình chăm chăm nói: ông có cái miệng tươi kinh. Tôi mà đàn bà tôi đã có chửa với ông lâu rồi.

Cả buổi sáng hôm đó mình cứ nghĩ vẩn vơ: không biết ông này nói thế là có ý gì, tại sao mình nói thế ông lại nói thế. Bốn năm sau gặp lại, hỏi hồi đó anh nói thế là có ý gì. Anh cười nói tôi nói thật mà ai cũng cho tôi nói lỡm, khổ thế. Khi ông lên diễn đàn tôi có nghe đâu, tôi đang tán phét với Đỗ Chu ở ngoài sảnh. Rồi ông thở dài: Đảng cho tôi nói lỡm đã đành, bạn bè cũng nghĩ vậy, chán mớ đời.

Mình nghĩ bụng cũng tại anh quá thông minh, biết sợ, luôn cảnh giác, không tin ai thì ai cũng không tin anh thôi. Bụng nghĩ thế thôi chứ bố bảo cũng không dám nói.

Đợt đó anh khen mình, thằng Thiều, thằng Phong làm Văn nghệ trẻ giỏi, nói nhất định sẽ viết bài, mình cũng không tin. Bụng nghĩ: ông này nói thế thôi, dư hơi mà đi khen đám con nít ranh tụi mình.

Hoá ra anh viết thật, khen nức nở, khen mình nhiều nhất, còn khen mình đẹp trai nữa he he.

Cách đây gần hai tháng, mình viết đến 8h sáng thì vào buồng ngủ lại, chợt có điện của anh Trọng Huấn báo anh Khải mất rồi. Mình gọi điện lung tung báo cho mọi người.

Đến một giờ chiều anh Huấn lại gọi điện nói anh Khải chưa chết, người ta chưa cho anh Khải chết. Mình hỏi sao, anh Huấn nói nhà tang lễ đòi có thẻ 40 năm tuổi Đảng mới cho vào chết trong đó, nhưng anh Khải đã vứt nó đâu rồi, tìm không ra. Ngao ngán hết nỗi, đến chết cũng khó thế thì sống làm sao. Anh Khải ôi anh Khải!

Trước khi vào Sài Gòn mình có đọc bài cái tôi của anh, viết hay quá, hay đến nổi ca da gà. Đây là bài đầu tiên và cũng là bài cuối cùng Nguyễn Khải nói thật. Nhưng ai sắp chết mới chịu nói thật như anh cả thì bọn cần lao biết sống làm sao, sống thế nào!? Anh Khải ôi là anh Khải ôi!

23

Nhớ Tố Hữu

Thằng Thiều cũng gặp Tố Hữu loáng thoáng như mình thôi mà viết bài về ông hay quá, không biết nó có bốc phét không mà sâu sắc cảm động thế không biết. Mình cú, định viết bài đấu lại nó, nhưng lại nghĩ xưa ông sống thì không viết, giờ ông chết rồi có viết kiểu gì người ta cũng cho mình nói phét, nên thôi. Nhưng sáng nay tự nhiên muốn viết về ông quá, định bụng 5,6 giờ chiều mới viết blog, nhưng mót viết chịu không nổi. Thế là víêt luôn.

Mình có tính cục bộ, phàm ai là người Quảng Bình họăc yêu quí Quảng Bình mình đều quí mến cả. Thời chiến tranh Tố Hữu còn quá người Qúảng Bình, ăn dầm ở dề trong bom đạn với dân Đồng Hới, dân Bảo Ninh có khi cả năm trời.

Tiếng là ngựa xe chứ chỉ xe U oat thôi, xe volga đường chiến tranh làm sao đi được. Thứ xe U oat bây giờ có đem cho tụi trẻ chúng nó còn mắng cho. Còn yến tiệc thì nói cho sang, thực ra mấy miếng thịt lợn, bò kho kho xào xào, trẻ con nhà mình dỗ mãi chúng nó mới chịu ăn. Vì thế dù ai nói đông nói tây mình vẫn qúi Tố Hữu như thường.

Thời chiến tranh dượng mình ( Cổ Kim Thành) làm chủ tịch tỉnh, một hôm đến nhà dượng chơi thấy một người đang ngồi với dượng nói chuyện gì đó rất hăng. Cả nhà đi lại cứ nem nép.

Mình hỏi thằng Vượng ai đó. Nó bảo Tố Hữu. Mình lạnh người, đứng lặng ngắt. Quá vinh hạnh thấy được Tố Hữu bằng xương bằng thịt. Mình đứng nép trong buồng nhìn ra, ngắm ông say sưa cho đến khi ông đi rồi vẫn đứng lặng ngắt.

Mình về Ba Đồn khoe gặp Tố Hữu với tụi bạn, bóc phét nói Tố Hữu ôm mình, cho ngồi trên đùi dặn này nọ, tụi bạn ngưỡng mộ mình lắm. Thực ra có gặp cóc khô đâu, chỉ nhìn trộm ông thôi, hi hi.

Gần ba chục năm sau về làm báo Văn Nghệ mình mới thực sự gặp ông. Báo Văn nghệ có tục cứ đến 28, 29 tết là tổ chức ăn tết toàn cơ quan. Vị khách số 1 không bao giờ vắng là Tố Hữu, vì ông là sư tổ của báo.

Chương trình có 3 phần, năm nào cũng giống năm nào, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó nghe Tố Hữu nói chuyện, cuối cùng là chơi trò đố vui có thưởng.

Hồi đó Tố Hữu đã rời chính trường, nghe nói phụ trách ban chiến lược quốc gia gì đó nhưng thực ra là ngồi chơi xơi nước thôi.

Năm đầu tiên mình thấy lạ là hễ Tố Hữu ngồi mâm nào, mấy ông anh trong báo kính cẩn khúm núm nhưng mắt trước mắt sau chuồn đi cả. Hữu Thỉnh chỉ ngồi với ông có 5 phút rồi nhảy đi mâm nọ mâm kia chúc mừng anh em, kì thực là để tránh nói chuyện với ông.

Nhìn đi nhìn lại không thấy ai, ông đi đến mâm mình, khi đó cũng chỉ mình và vài người. Mấy người này kính cẩn “dạ anh” rồi cũng lẹ làng biến đi, chỉ còn mình trơ khấc.

Ông không hỏi mình tên gì mà hỏi mình quê đâu. Mình nói thưa chú cháu quê Quảng Bình. Mắt ông sáng lên và ông bắt đầu nói.

Ông nói nhỏ, đều đêu, hết đông sang tây, hết chuyện Quảng Bình sang chuyện thế sự. Ông nói chuyện thế sự hệt mấy ông hưu trí phường nói chuyện thế sự, đại khái ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia… ông chỉ ngón tay chỉ chỉ về phía Bắc, lăc đầu, rồi dừng lời.

Lúc đầu mình nghe rất hào hứng, dù gì cũng được Tố Hữu cho nói chuyện, nhưng sau ông nói dài quá, lặp nhiều quá, đâm nản. Quanh đi quẩn lại cũng ngày xưa thế này thế kia, bây giờ mấy ông trên kia…

Bảo Ninh thấy mình chịu trận, đứng nép ở cửa cười thích chí, dẩu mồm nói thầm: cho mày chết! Cho mày chết! Tức khí mình nhảy ra kéo Bảo Ninh vào, nói: dạ thưa chú đây cũng là nhà văn người Quảng Bình, con bác Hoàng Tuệ. Tố Hữu bắt tay: à, Hoàng Tuệ à!

Mình tót lẹ ra cửa đứng nép nhìn Bảo Ninh chịu trận, cười khoái trá. Bảo Ninh khúm núm nghe, à dạ vâng rồi tranh thủ ông không để ý, ngoảnh về phía mình chửi thầm: “ địt mẹ mày” rồi vội vàng ngoảnh lại à dạ vâng bất kể Tố Hữu đang nói gì, có khi ông chưa nói xong câu nó đã à dạ vâng rồi lại ngoảnh về phía mình chửi thầm địt mẹ mày! Nó càng chửi mình càng sướng he he.

Mãi sau, nó vừa à dạ vâng vừa chắp tay giấu dưới gầm bàn lạy mình như tế sao, xin mình cứu cho. Cuối cùng mình cũng đi vào nói thưa chú anh Hữu Thỉnh đang đợi chú rồi dìu ông vào phòng Hữu Thỉnh.

Hửu Thỉnh đang ngồi đọc cái gì đó, vò đầu bứt tai ( cái anh này lúc đéo nào cũng đọc được, rảnh phút nào là nhảy vào phòng đọc bài ngay), thấy Tố Hữu vào anh vụt đứng dậy reo to: A, anh! Tiếng reo mừng hồ hởi phấn khởi như thấy bố anh từ vạn kiếp trở về. Ôi thiên tài Hữu Thỉnh.

Năm sau vẫn vậy, đầu tiên là nhậu nhẹt, sau đó Tố Hữu nói chuỷện, cuối cùng là đố vui có thưởng. Món đố vui có thưởng anh em rất thích, ai cũng muốn mình kiếm được giải thưởng tranh Thành Chương về treo.

Nhưng Tố Hữu nói dài quá. Mặc dù Hữu Thỉnh đã nhắc khéo: Anh Tố Hữu đang rất rất bận, anh chỉ nói chuyện với anh em có 10 phút thôi. Nhưng Tố Hữu đâu có thèm chấp, ông chơi cả 100 phút không dừng.

Anh em nói chuyện ồn ào như vỡ chợ ông vẫn cứ nói. Trương Vĩnh Tuấn đi vào đi ra mặt nhăn như bị, đã gần 10 h rồi mà còn một tiết mục nữa.

Bỗng có ai đó tắt phụt micro, tưởng ông dừng hoá ra ông vẫn không thèm chấp, vẫn cứ nói. Cho đến khi ai đó cúp cầu dao điện, cả toà soạn tối om, ông mời dừng.

Hữu Thỉnh đưa ông xuống cầu thang, mình lúc cúc chạy theo sau. Hữu Thỉnh nói tiếc quá anh nói đang hay lại mất điện. Tố Hữu không nói gì, chắc ông cũng biết, vì cả khu Trần Quốc Toản điện đóm vẫn sáng trưng.

Thực lòng khi đó mình rất thương ông. Vẫn biết mình đến tuổi như ông thì còn lẩn gấp 10 ông nữa nhưng vẫn thương ông quá. Giá ông đừng làm quan, chỉ làm thơ thì hay biết bao nhiêu.

Bạn văn 24

Tối qua mất ngủ dậy muộn, mở mobile thấy cái tin nhắn: “ Ra sách mới à? Gửi cho anh một cuốn” Chẳng biết tin nhắn của ai, nhắn tin hỏi lại thì có reply liền: “ Anh Y. đây” À, nhớ rồi.

Cái anh này hay, mình chẳng bạn bè cánh hẩu gì, xưa anh làm sếp mình cũng chẳng lấy lộc của anh được chút nào, chỉ quen sơ vậy thôi, sao lại nhắn tin ra lệnh như bố mình thế nhỉ?

Anh là đạo diễn, cũng chẳng biết đạo diễn gì nữa, khi thấy anh làm sân khấu, khi thấy anh làm ti vi, có khi còn làm cả biên đạo múa, chỉ huy dàn nhạc. Anh học Nga về, học phê bình sân khấu 5 năm năm về viết đúng có một bài “Nét mới của một đoàn dân ca”, thứ bài báo mà mấy đứa nhà báo mới vào nghề vừa viết ngủ gật còn hay hơn.

Thế mà họp ở đâu có cơ hội phát biểu anh đều nhắc đến bài báo ấy cả, nhắc rất khéo, đại loại trong một bài báo của tôi có ý thế này, trong một bài báo của tôi có đặt vấn đề này, trong một bài báo của tôi đã đưa ra vấn đề này…. Ai không biết tưởng anh có nhiều bài báo lắm.

Cái cách anh đi lại, họp hành, nói năng được rèn giũa chu đáo không chê vào đâu được. Anh ngồi vào cuộc họp lặng lẽ khiêm nhường, tùy theo cử tọa hôm đó là ai để anh vắt chân chữ ngũ mắt lim dim hay ngồi nhô lên phía trước mắt mở to háo hức thành kính, lúc lúc lại ghi ghi chép chép.

Anh nói chậm rãi, từ tốn, hầu như không thừa thiếu một chữ nào, kể cả cách lấy giọng, ngắt hơi, thật phục quá đi mất. Không nói ý anh, mà thực thì chưa bao giờ tự anh có ý gì hay ho, anh nhắc lại ý của những người nói trước để lập thành cái ý của anh với cái kết bỏ lửng rất đẹp, lại càng phục nữa.

Ở lâu quen tính anh rồi, ngồi nghe anh nói buồn ngủ lắm. Bất luận vở kịch nào, khi phải nhận xét anh cũng chỉ mấy câu rất hoành tráng nhưng không có nội dung gì cả.

Đại loại cái này tình nhân văn cao nhưng chưa tới, vai nọ vai kia diễn có hồn nhưng chưa tới cái chất; cái này tiền đề triết học sâu nhưng chưa tới, vai nọ vai kia có chất nhưng tới cái hồn… rồi anh buông lửng với cái nhìn tươi sáng nửa như thầm phục nửa như tiếc rẻ.

Chả biết chưa tới là thế nào, tại sao chưa tới. Anh cứ chưa tới vậy thôi nhưng ít ai bắt bẻ. Vả, cũng chả biết bắt bẻ làm sao. Anh Ngọc Tranh vỗ vai vợ anh, nói này, nó ngủ với mày có tới không. Chị cười hi hi hi, nói chưa tới chưa tới. Từ đó anh em văn nghệ gọi anh là ông chưa tới.

Anh có cặp mắt đẹp mê hồn. Anh Ngọc Tranh nói mắt thằng cha nớ có ma, còn thằng Thịnh ( Nguyễn Thế Thịnh) thì nói mắt sát gái, tao có mắt của lão, tao giết hết gái Đà Nẵng. Mình nghĩ chả phải, mắt anh sát lãnh đạo.

Bất luận lãnh đạo là ai, quen hay không, anh cũng có cái nhìn ngưỡng mộ, lấp lánh niềm tin yêu và chịu ơn. Hôm mình ngồi uống cà phê với một ông bộ trưởng, anh đi đến bắt tay chào, không xun xoe, không nói những lời nịnh thối, chỉ cái siết tay ấm áp và cái nhìn sát lãnh đạo kia cũng đủ để ông Bộ trưởng mấy phút sau bỏ mình sang ngồi nói chuyện với anh, dù trước đó họ không hề quen nhau.

Đám tang mẹ Bí thư tỉnh ủy, tất nhiên mọi người đến viếng rất đông, mình cũng đến. Mình để ý thấy anh cúi mặt đi cuối đoàn, vẻ mặt trầm ngâm. Đến cái đoạn thắp hương anh chắp tay lên trán lầm bầm khấn rất lâu, đôi mắt ướt thành kính ngước lên quan tài. Rồi vẫn lẳng lặng đi cuối đoàn, anh bắt tay Bí thư tỉnh ủy, nước mắt lưng tròng khẽ nấc lên hai tiếng rất nhỏ anh ơi, tiếng kêu đau buốt thấu đến tận tim.

Ngọc Tranh đi cạnh mình, rỉ tai nói đ. mạ thằng diễn giỏi. Ai nấy viếng xong thì ra đứng góc vườn, tụm năm tụm ba nói cười như không. Anh khác, một mình ngồi yên góc vườn, mắt ngước phía tang lễ như là đang bái vọng, khuôn mặt sầu thảm vô biên. Ngọc Tranh nháy mình, nói mi tới coi, nó chọn chỗ ngồi gióng thẳng đến Bí thư đấy. Mình chạy tới, đúng y chang Ngọc Tranh đoán, chỉ có chỗ ấy thì Bi thư đứng cạnh quan tài mới nhìn ra thấy được. Phục lăn.

Đùng cái anh được điều về làm trưởng đoàn, ra ba bốn vở liên tục, vở nào cũng anh làm đạo diễn. Ai cũng biết anh học phê bình, biết gì đạo diễn mà đạo. Cái nước mình nó thế, đi xe máy mới cần bằng thôi còn thì làm gì cũng chẳng ai hỏi bằng đâu.

Anh làm đạo diễn thật khỏe re. Khai trương vở anh đứng nói rất cảm động, vở nào cũng một bài, đây là vở tâm huyết nhất của tôi, anh em hãy cùng tôi sống chết với vở. Làm cái nghề này cực khổ lắm anh em ạ, không có cái tâm sáng không làm được đâu.

Xong rồi anh giao cả đoàn tự dựng lấy với nhau, khi thì kêu họp hành bận quá, khi thì kêu đau đầu sổ mũi, kêu việc nhà rối tinh. Anh nói anh em cứ vỡ vạc đi, tôi về chuốt lại. Vở dựng xong rồi, đến đoạn chạy dây anh mới ngồi vào ghế đạo diễn chỉ trỏ đôi câu thế là xong. Vở nào cũng thế, trắm vở như một.

Trăm vở như một, đạo diễn- kịch bản- âm nhạc- thiết kế sân khấu phục trang- đạo cụ- đều anh với vợ con anh đứng tên. Dựng vở có trăm triệu, anh bỏ túi bảy, tám chục triệu ngon ơ.

Tất nhiên chẳng có vở nào có khách, chỉ đêm diễn báo cáo là ngựa xe như nước, người đến chật như nêm, xong đêm đó rồi thì vắng như chùa Bà Đanh. Ngọc Tranh trêu anh, nói đạo diễn là ông, kịch bản là ông, âm nhạc là ông, đạo cụ là ông , họa sĩ là ông , phục trang là ông…. thì khán giả cũng là ông thôi. Anh cười khì khì, nói khó lắm khó lắm.

Nhưng hội thảo sân khấu nào anh cũng nói nỗi đau sân khấu,. thực trạng sân khấu, bức bối sân khấu. Cái cách anh nói chậm rãi, da diết, với đôi mắt buồn thăm thẳm, ai không biết suýt khóc với anh.

Hôm hội thảo sân khấu không biết bàn chuyện gì đó quên rồi. Mọi người đang nói chế độ đãi ngộ cho nghệ sĩ. Anh dơ tay xin nói, đi lên bục rôi không thấy nói, cái đầu cứ cúi gầm, rất lâu sau mới ngẩng lên, mắt ướt sầu bi, nói tôi chỉ nói thế này để mọi người hiểu: chị em nghệ sĩ đoàn chúng tôi mỗi đêm diễn chỉ được sáu chục nghìn, trong khi gần như đã lột hết váy xống, phơi hết ra rồi vẫn chỉ có sáu chục nghìn thôi…Anh nghẹn lại rất lâu, rồi như cố hắt ra uất nghẹn, nói đau lắm các đồng chí ơi… đau lắm.

Dứt lời thì anh về chỗ ngồi thừ, mặt buồn thăm thẳm, trông anh tội nghiệp vô cùng. Chỉ những người trong đoàn mới biết vở nào anh cũng bắt diễn viên mang phục trang là áo quần, váy xống cũ của vợ con anh. Giá mỗi thứ gấp đôi gấp ba đồ mới.

Hôm tập vở gì đó, hình như nàng Xinva thì phải, tranh thủ anh đi ra ngoài, thằng Tình giăng cái váy cũ của vợ anh ra, nói cái váy này sếp phải đặt mua tận Sài Gòn đó nghe bà con. Cái váy gián cắn thủng khá nhiều lỗ nhỏ. Thằng Tình trùm cái váy lên mặt, vờ khóc nức nở, nói đau lắm các đồng chí ơi… đau lắm.

Bạn văn 25

Mình về quê, đang ngồi uống cà phê ở vỉa hè thì có cú phôn, nói anh mới về Ba Đồn à? Mình hỏi ai đó, có tiếng cười khẽ rồi nói em là Hoàng Hiếu Nhân đây, mới ở Nga về. Thật bất ngờ.

Lâu nay anh em nhà văn gặp nhau, thỉnh thoảng hỏi nhau không biết thằng Hoàng Hiếu Nhân bây giờ làm gì nhỉ. Người nói nó buôn bán bên Nga trúng lắm, thành soái từ lâu, giàu có cự vạn, có quan tâm gì đến văn nghệ văn gừng nữa đâu. Người nói đâu có, nó đi làm cửu vạn cho các soái chứ soái cái gì, đói rách lầm than đến nỗi không mua được cái vé máy bay về quê.

Toàn nghe nói thôi chứ chẳng ai biết. Lại nghe đồn nó làm đầu gấu, đâm chém nhau tùm lum bên Nga, nghe mà thất kinh. Không ngờ nó về nhà, quê nó ở Quảng Hòa, đi đò qua Ba Đồn tìm mình hai ba bận nhưng không gặp, nghe nó nói thật xúc động, ngồi yên không biết nói sao.

Bây giờ lớp trẻ hệ 8x, 9x hầu hết chẳng biết Hoàng Hiếu Nhân là ai, làm gì. Gõ google tìm Hoàng Hiếu Nhân toàn thấy ca sĩ Hoàng Hiếu, giám đốc Hoàng Nhân… tuyệt không có tên nó dù chỉ một lần. Thế mà cách đây gần nửa thế kỉ tên tuổi nó nổi như cồn, không hề kém cạnh tên tuổi Trần Đăng Khoa.

Những năm 1965-1970 sau khi thần đồng Trần Đăng Khoa xuất hiện, con gà tức nhau tiếng gáy, các địa phương đua nhau giới thiệu các thần đồng. Một loạt các nhà thơ tí hon ra đời, ngoài Trần Đăng Khoa còn có Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Nguyễn Hồng Kiên, Đoàn Mai Thanh… kẻ thần đồng người thần sắt vụn nhưng nhờ thế mà có một dòng văn học của thiếu nhi ra đời rất xôm trò.

Nổi lên và lưu vào trí nhớ nhiều thế hệ vẫn chỉ có Trần Đăng Khoa và Hoàng Hiếu Nhân. Khoa có hàng trăm bài, được các bác Xuân Diệu, Tố Hữu hậu thuẫn, cứ thế mà đi lên phơi phới. Nhân chỉ có vỏn vẹn 33 bài thơ, in thành tập Đi nữa chú ơi, chạy đi chạy lại động viên giúp đỡ cũng chỉ có mấy nhà thơ Hội văn nghệ Quảng Bình. Cơ khổ bác Xuân Hoàng mất ăn mất ngủ vì ông thần đồng Quảng Bình, cố vực lên cho bằng thần đồng Hải Dương nhưng vực mãi không được.

Nhân không để tâm sáng tác lắm, ép mãi cũng chỉ 33 bài thơ, nó học giỏi toán lý, thi một phát vào Bách Khoa Hà Nội. Mình gặp nó ở Bách Khoa, mời nó vào nhóm thơ Vòm Cửa Xanh của nhà trường, nó cười nhàn nhạt, không nói có chẳng nói không.

Thỉnh thoảng gặp nó khi ở nhà ăn khi ở phòng thí nghiệm, ôm vai hót cổ nói lâu nay có viết được cái gì không, nó vẫn cười nhàn nhạt, không nói có chẳng nói không. Mình nghĩ bụng thằng này coi như xong, vụt sáng chói vụt tắt ngúm, thật tiếc quá.

Từ đó cũng ít chơi bời với nó, mình tốt nghiệp đại học đi bộ đội, năm sau nó tốt nghiệp cũng đi bộ đội, anh em gặp nhau dọc đường xuống Hải Phòng, mình nói giờ vô lính rồi, điều kiện làm văn rất thuận lợi, mày cố mà làm lại thơ đi, không phí. Nó nhăn răng cười, nói làm chơ làm chơ, vô lính không làm thơ còn làm cái chi.

Nhưng đợi mãi chẳng thấy thơ nó đâu, cũng chẳng biết nó ở đâu, năm 1983 mới gặp nó ở Huế mừng lắm, anh em chui vào quán uống rượu nói nói cười cười hỉ hả. Mình khoe nó mấy bài thơ vừa làm, nó cười cười, nói anh giỏi thiệt, đói vàng mắt còn làm được thơ. Mình đưa cho nó tập thơ thiếu nhi có in chùm ba bài của nó, nó cầm, uể oải lật mấy trang xem qua, rồi vứt sang bên, rời quán cũng quên không cầm theo.

Mình nói mày bỏ thơ thật à, nó cười nhạt, nói làm để làm gì. Xong câu đó nó ngồi yên, rất lâu sau thở hắt ra, nói em cưới vợ rồi. Mình về Phú Lộc thăm nó, vợ chồng mới cưới ở một nơi còn tệ hơn cái chuồng heo nhà nghèo, đến cái giường đơn mậu dịch cũng không có. Mình cưới vợ còn có tấm phản chị Dạ ( Lâm Thị Mỹ Dạ) cho làm cái giường cưới, nó cực hơn nhiều, vợ chồng kê gỗ mục củi khô lên làm giường cưới, thảm ơi là thảm.

Hồi bé mình đọc văn cụ Nam Cao biết cụ nghèo khổ thương đứt ruột, giờ mới biết cụ còn sướng hơn nhiều một số nhà văn nhà thơ hiện thời, thằng Nhân là một ví dụ. Nói thật chị Dậu, anh Pha còn sướng hơn nó nhiều. Mình nhớ mãi hình ảnh nó mặc quần đùi ngồi xổm, hai đầu gối củ lạc kẹp tai, ngước mặt nhìn lên trời cao, đôi mắt tối mò vô vọng.

Một phần tư thế kỉ gặp lại nó, trông dáng dấp nó khá lên chút đỉnh nhưng đôi mắt chẳng sáng lên được bao nhiêu, vẫn cái cười nhàn nhạt, hỏi vợ con đâu nó gãi đầu thở hắt ra, nói họ bỏ em cả rồi.

Vợ nó bây giờ là hiệu trưởng cấp 3, nó về chỉ nói nhẹ một câu em gửi đơn ra tòa lâu rồi. Hai đưa con gái của nó ở Hà Nội, học giỏi thuộc loại siêu, cả hai cũng tìm cách lánh mặt nó.

Nó ngồi yên, mặt buồn thăm thẳm, nói vợ con em bỏ em cũng phải thôi. Mười năm em đi Nga không gửi về cho vợ con được một xu, đến cái thư cũng không buồn gửi. Mình nói răng rứa, răng đến cái thư cũng không gửi, nó cười như khóc, nói tại em khổ quá, xấu hổ quá…

Chắc vợ con nó nghĩ đi nước ngoài không giàu cũng khá, trong khi vợ con đói rách lầm than nó không thèm đoái hoài ai không hận, lại nghe đồn nó sống với cô vợ Nga giàu lắm, càng hận.Ai biết nó nhiều khi không kiếm được cái bánh mì đen, chỉ mượn có 5 rúp thôi cũng không ai dám cho nó mượn.

Nó nghiến răng làm cửu vạn cho đám đàn em, học trò, những đứa ngày xứa ngưỡng mộ, tôn sùng nó, gom góp được ít rồi đi buôn, kiếm được món tiền kha khá. Đang hoan hỉ chuẩn bị đem tiền đi gửi về cho vợ thì một bọn đầu gấu cả Việt cả Nga bịt mặt chui vào nhà đánh cho một trận tơi bời, lấy đi hết sạch, không để lại cho nó một xu.

Nó lại bắt đầu từ con số âm, số âm chứ không phải số không, vì số tiền mất đi bao gồm cả tiền vốn bạn bè cho mượn. Lại làm cửu vạn, lại đứng chợ buôn vặt, được chút ít lại thuê xe buôn chuyến, kiếm được kha khá, chuẩn bị gửi về cho vợ con thì lại bị bọn đầu gấu bịt mặt xông vào đánh cho đến ngất, vất ra bãi tuyết. May có cô gái Nga phát hiện, nếu không nó đã chết vùi trong tuyết từ tám hoánh.

Nó chìa cái đầu cho mình xem, có hơn bốn chục vết sẹo nhỏ chằng chịt, thất kinh, rùng mình ớn lạnh . Nó bảo thằng Khoa ( Trần Đăng Khoa) viết về em sai, đầu gấu đánh em chứ đâu phải em làm đầu gấu.

Bây giờ nó sống với cô gái Nga, được một đứa con trai nhỏ, ở yên thì không đến nỗi nào nhưng động đến việc chuyển nhà về quê thì bế tắc, tiền không có.

Anh em kéo nhau vào quán uống vài chai bia, mình nói bây giờ mày tiếp tục làm ăn hay bắt tay vào viết? Nó ngước lên nhìn mình cười buồn, nói viết cái gì? Mình nói viết tất cả những gì mày đã trải, tao nghĩ số phận mày cũng là số phận của thế hệ tụi mình. Mắt nó chợt sáng lên, nói ừ, đúng rồi, thế thì em viết.

Quá tam ba bận, chẳng biết lần này nó có chịu viết cho không.

Bạn văn 26

Mỗi lần về quê bao giờ mình cũng tót vào Đồng Hới chơi với anh em văn nghệ. Lần nào vào cũng gọi điện búa xua, gọi chục ông may ra có vài ông nhiệt tình, reo lên như được của, nói tới liền tới liền, còn lại toàn gặp giọng ờ ờ, nói mấy câu đãi bôi, viện lý do này nọ để không đến, hoặc có đến cũng chỉ viếng qua vài mươi phút, nói cười nhạt nhạt rồi kiếm cớ chuồn.

Chẳng phải vì người ta ghét bỏ gì mình, anh em sống với nhau vài chục năm có chuyện gì đâu mà ghét, chỉ vì ngại, kẻ ngại gặp ông nhà văn có vấn đề cấp trên nhắc nhở, người ngại vì gặp lúc trong túi không có tiền, cứ nhậu chùa mãi không đành…. Ôi trăm sự cũng do thói quê khốn khó mà ra cả.

Duy nhất anh Văn Lợi bất kì lúc nào ới cái là anh vọt tới liền, nói chuyện say sưa hồ hởi, khi nào mình còn ở Đồng Hới là anh còn tới chơi, chưa khi nào thấy anh viện lý do để trốn cả, kể cả khi anh đang là giám đốc sở.

Chẳng phải anh cùng dân Ba Đồn, là thủ trưởng cũ của mình, anh em gắn bó thân thiết nhiều năm, tại cái tính anh thế, yêu người và mến tài.

Hồi ở Huế, bất kì ai làm văn nghệ anh đều quí mến như nhau, miễn là người đó có chút tài từ Phương Xích Lô, Dương Thành Vũ đến Trần Hoàn ,Nguyễn Khoa Điềm… ai anh cũng trọng như ai.

Tức ai là anh độp một phát liền, bí thư tỉnh ủy anh cũng không ngán, hết tức là ôm vai hót cổ kéo nhau vô quán tào lao chi khươn như không có gì xảy ra. Nếu hỏi có người nào ít để bụng, không bao giờ thù vặt hay chơi xỏ thì đó là Văn Lợi.

Một hôm mình thấy Văn Lợi đỏ mặt tía tai trước mặt anh Trần Hoàn ngay sảnh vào Sở văn hóa, tay chỉ miệng nói với Trần Hoàn anh thế này anh thế kia. Anh em văn phòng sở đều thè lưỡi rụt cổ không dám ho he. Hồi này anh Trần Hoàn là trưởng ban tuyên giáo, chức ấy ở quê to cực, như át píc chứ không đùa, chẳng ai dám đôi co tay đôi.

Trần Hoàn muốn xuê xoa qua chuyện, cười cười vỗ vai anh, nói thôi thôi rồi bỏ đi, Văn Lợi không tha cứ xấn đến trước mặt nói anh như thế này anh như thế kia, ai nấy sợ xanh mặt lo thay cho anh Văn Lợi.

Tưởng anh thù muôn đời muôn kiếp không tan với Trần Hoàn, té ra hôm sau nghe anh Bửu Chỉ nói anh Trần Hoàn điều chi đó không phải, Văn Lợi lại xấn tới cãi, lại tay chỉ miệng nói Trần Hoàn không phải thế này Trần Hoàn không phải thế kia.

Bây giờ cả Bửu Chỉ lẫn Trần Hoàn đều là người thiên cổ, nhiều chuyện về các anh rất vui nhưng không dám kể, sợ kể ra người ta bảo mình bịa.

Lại nói chuyện Văn Lợi. Lần đầu gặp anh, thấy anh đeo kính 5 diop tưởng anh cận thị, sau mới biết anh bị hỏng thần kinh mắt, cận đến nỗi không thể nào cận hơn, anh đeo kính lấy vì thế thôi chứ chẳng tác dụng gì. Nhìn anh đi xe đạp mà sợ, giống như người đi xe đạp trên dây, mắt trố môi mắm, người hay xe cách chừng một mét anh mới thấy, vội vàng lạng xe một phát. Cứ lạng một phát bên này lại lạng một phát bên kia thế mà anh đi suốt ngày ngoài phố chưa bao giờ xảy ra chuyện gì.

Mình thấy trong nhà văn Việt có hai người mắt kém đi xe đạp đáng sợ nhất là Bằng Việt và Văn Lợi, trông các anh đi hồi hộp kinh, lúc nào cũng ở tình trạng suýt toi, quá hãi.

.Thấy Văn Lợi nằm đọc sách mà thương, sách dí sát mũi, ai không biết tưởng anh đang úp cuốn sách lên mặt ngủ, chứ không sao hình dung được khi mắt chỉ cách trang giấy không đầy 1cm thì đọc thế nào. Thế mà văn Lợi là người chăm đọc sách nhất. Hồi đó ở Huế ai muốn biết sách nào mới ra, sách nào hay sách nào dở cứ hỏi Văn Lợi, trúng bốc trăm phần trăm.

Đến cái đoạn viết thì trời sợ. Gần như anh úp sấp lên bàn, mắt rà rà sát trang viết, cầm mút ngọn cây bút bi, mắm môi mắm lợi viết, nước mắt sống chảy ướt mặt, cực ơi là cực.

Viết xong phải đi đến hiệu đánh máy đọc cho người ta đánh máy chứ không ai có thể đọc nổi chữ của anh. Chữ đã ngoằn nghoèo lại chồng lên nhau, đến vợ con trong nhà cũng mò mãi chẳng ra đừng nói người ngoài.

Họa sĩ Bính Văn thách cả phòng xuất bản, ai đọc được một trang chữ Văn Lợi thì anh thưởng một chiếc xe đạp Phượng hoàng, tất cả bó tay. Dương Toàn Thắng cười khịt khịt, nói ra đề văn thi vào đại học, chỉ cần ra cái đề này thì học trò rụng như sung: Hãy đọc chính xác ba dòng viết tay của nhà thơ Văn Lợi.

Đôi khi anh em trong phòng xuất bản buôn chuyện, chẳng có chuyện gì vui bằng chuyện Văn Lợi. Anh Bính Văn nói trưởng phòng Văn Lợi tội hè, mình hỏi răng, anh nói được cô vợ đẹp như tiên sa, trời lại không cho sáng mắt, toàn ngắm vợ bằng tay, có thiệt thòi không chớ.

Dương Toàn Thắng cười khịt khịt, nói mô có mô có, tui thấy rồi, cụ Lợi lột vỏ vợ ra nha, rồi cúi sấp dí mắt sát vợ ri nha, rồi cụ rà lên rà xuống ri nhà, rà từ gót chân lên đỉnh đầu cả giờ đồng hồ không biết chán nha. Mọi người cười rũ.

Mắt kém, viết lách khó nhọc thế mà anh viết như điên, sách ra ầm ầm, có đến chục đầu sách cả văn lẫn thơ chứ không ít. Chừng đó không ăn thua, anh còn tổ chức một Tạp chí văn hóa ra hàng tháng, một tờ báo Văn hóa đời sống ra hàng tuần, ngoài ra biên tập hàng trăm đầu sách từ thượng vàng đến hạ cám.

Văn Lợi rất hay bày việc ra cho anh em viết lách trong tỉnh có chỗ kiếm cơm. Xưa xuất bản ít, báo chí nghèo nàn, chen được một chỗ không phải chuyện đơn giản. Lương năm đồng ba cọc, nếu không có chỗ in bài kiếm thêm ít nhuận bút thì giới viết lách Bình Trị Thiên không biết sống ra sao.

Những năm tám mươi, nơi anh em văn nghệ Bình Trị Thiên in sách vở, báo chí nhiều nhất là phòng xuất bản Sở văn hóa. Một cái phòng bé tí hin mà làm đủ việc cả xuất bản lẫn báo chí, anh em văn nghệ vào ra tấp nập nhất vẫn là chỗ này, thu nhập được nhiều nhất vẫn là chỗ này, không có chỗ nào khác.

Văn Lợi còn tổ chức các tập san văn nghệ huyện, thị. Rồi xui các sở làm sách về ngành mình, hầu như sở nào cũng có một hai cuốn, anh em viết lách kiếm được ối tiền, sướng rêm. Có lần anh Hải Bằng kiếm được một mớ nhuận bút nhờ mấy mẹo xuất bản của Văn Lợi, sướng quá hát rống lên Lợi là cuộc sống… ơ … của tau.. mãi mãi ơ… Văn Lợi.

Văn Lợi là người của phong trào, quanh anh lúc nào cũng có đám đông vây quanh, vì anh luôn nghĩ ra việc, lại có cái tài thuyết phục cấp trên, đã biến những việc tưởng như không tưởng thành sự thật. Chơi với anh vừa vui vừa kiếm được tiền, ai mà không muốn.

Thời đó ở Huế truyền tụng câu đối không biết của ai: Sống cùng Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) thêm tường/ Chơi với Lợi càng lợi. Anh Hải Bằng có câu: Lợi cần sang, muốn lợi sang nên sang Văn Lợi. Hồi đó mình thấy cũng thường, mấy chục năm lăn lộn, va chạm đủ hạng người mới biết kiếm được một người như Văn Lợi không phải chuyện dễ.

Hè này mình về quê, lại mò vô Đồng Hới, ới một tiếng tất nhiên là Văn Lợi vọt đến đầu tiên. Anh đi xe máy chạy vèo vèo, lượn lách y chang thanh niên. Mình ngạc nhiên quá trời, nói mắt mũi anh rứa mà dám đi xe máy. Anh cười tươi, nói cậu không biết tớ sáng mắt rồi à. Mình nói tại sao sáng, anh nói chẳng biết nữa, tự nhiên sáng rứa thôi.

Anh nói cả đời làm công chức khi nào cũng đi như đi trong sương mù Đà Lạt, đến khi về hưu thì tự nhiên mắt sáng trưng, rứa có hay không. Mình nói bây giờ tha hồ ngắm vợ, đã nhé. Anh cười khì khì, nói trẻ mỏ thì không ngắm được, giờ hoang hóa hết rồi có chi nữa mà ngắm. Mình nói lâm trận cũng không ngắm a, anh nói không, nhắm mắt nhắm mũi mần bừa, ngắm chi mà ngắm.

Bạn văn 27

Mình quen thằng Nguyên ( Phạm Xuân Nguyên) năm 1986. Hồi đó mình chỉ có mươi lăm bài thơ, dăm bảy cái truyện ngắn, nó cũng thế, cũng dăm ba bài phê bình, mươi lăm bản dịch, giới thiệu sách, thế mà gặp nhau xưng danh như các đại gia, mình nói tôi là Nguyễn Quang Lập, nó nói tôi là Phạm Xuân Nguyên, oách kinh hi hi.

Kéo nhau vào quán, chỉ nửa tiếng sau là thân thiết, cảm thấy khó rời nhau được, chơi với nhau bền bỉ một phần tư thế kỉ, càng lâu càng thân thiết. Bây giờ kiểm điểm lại, thấy mình với nó ngược nhau trăm phần trăm về mọi chuyện, bất kì chuyện gì cũng cãi nhau như mổ bò, thế mà vẫn gắn bó như thường, nghĩ cũng lạ.

Nó làm gì mình cũng ngứa mắt, mình làm gì nó cũng khó chịu. Mình chê nó sến, nó mắng mình quê, động cái là cãi nhau, việc nhỏ bằng cái tăm cũng trương gân búng má cãi nhau ầm ầm. Có lần chỉ vì một câu ca dao mà cãi nhau đến 3 giờ sáng, ầm ĩ cả khu tập thể Viện văn.

Gã đầu bạc cãi nhau hay lắm, mình đang cãi A, cu cậu thấy bí liền nhảy phốc sang B bắt lý mình, y chang đám phê bình nước Nam xưa nay cãi nhau hi hi. Nhưng hễ cứ động đến cứ liệu, cái gì cần huy động đến trí nhớ thì mình thua nó là cái chắc.

Nó có trí nhớ phi phàm, bất kì cái gì hễ đọc qua là nó nhớ tất. Đầu nó như một thư viện, ngăn nào ngăn nấy rõ ràng sáng sủa, rất đáng phục. Mình với Nguyễn Việt Hà làm báo thường xuyên hỏi nó, đôi khi hỏi nó còn nhanh và chắc ăn hơn gõ google.

Có lẽ trời cho nó có trí nhớ phi phàm nên nó học ngoại ngữ rất nhanh. Nó đi bộ đội 3 năm xơi gọn hai món Nga, Pháp. Nó đọc báo Nga không khác người ta đọc báo Việt, ít khi thấy nó vấp phải dừng lại tra từ điển. Tiêng Pháp cũng thế, chỉ có tiếng Anh là cu cậu hơi có vẻ lúng túng chút thôi.

Không phải như người ta mài mòn đũng quần mới kiếm được một món ngoại ngữ, nó chẳng đến trường lớp, cũng chẳng mua giáo trình, chỉ một cuốn từ điển một cuốn sách Tây nó đánh lấn từng từ từng dòng từng trang, với một lòng kiên trì vô biên, nó dịch xong cuốn sách cũng là khi nó kết thúc môn ngoại ngữ đó với vạn từ bỏ túi như không.

Nhưng học thế thì chỉ đọc được thôi, nó gặp Tây cũng được xếp vào diện câm điếc, nghe Tây nói mặt cứ nghệch như ngỗng ỉa. Nhiều khi tức quá nó tính học nghe nói tiếng Tây, mình xoa đầu nó, nói thôi đi em ơi, em nói tiếng Việt còn chưa sõi, đòi nói tiếng Tây.

Nó được mời dự hội thảo văn học ở Pháp, người ta bắt đọc tham luận bằng tiếng Pháp. Nó viết tham luận xong rồi bắt đầu học đọc, đọc đi đọc lại có vẻ suôn sẻ lắm, mới cười he he he, nói này, mày nghe tao đọc nhá. Nó đọc xong, mình nói mày vừa đọc tiếng gì, nó nói tiếng Pháp. Mình cười khì khì, nói ua chầu chầu, nãy giờ tao tưởng mày đọc tiếng Cẩm Xuyên.

Thế mà trót lọt cả, bao nhiêu hội nghị hội thảo Tây mời nó đều tham giá xuôi chèo mát mái. Nó gặp ông Cao Hạnh Kiện, ông nói tiếng Tàu nó nhăn răng cười, nói tiếng Anh tiếng Pháp nó cũng nhăn răng cười, thế mà thân nhau được mới tài.

Khi Cao Hạnh Kiện biết nó dịch Kundera thì ông trợn tròn mắt lên, văn Kundera thuộc loại khó dịch thế mà nó xơi tái mấy cuốn rồi, chẳng ngờ cái ông câm điếc ngoại ngữ này dám dịch kundera. Từ đó Cao Hạnh Kiện quí nó lắm, mấy ngày hội thảo ở Pháp đi đâu hai anh em cũng cặp kè, ông còn ủy quyền cho nó quản lý sách ông dịch từ tiếng Tàu ra tiếng Việt.

Phạm Xuân Nguyên có tài đọc sách, nó đọc nhanh kinh hoàng, nói như Đoàn Tử Huyến là đọc từng mảng chứ không đọc từng câu, nó cầm cuốn sách lật trang roạt roạt lướt rất nhanh, y chang con nít đọc truyện tranh, nhoáng cái là xong cuốn sách mấy trăm trang.

Đọc đâu nhớ đấy, nhớ rất kỹ, rất chi tiết thế mới phục. Cùng một cuốn sách, mình nhằn mất cả tuần, nó chỉ xơi vài giờ là xong, thế mà động đến chi tiết nào mình đều lại phải hỏi nó.

Mỗi tuần nó ôm về một chồng sách, từ thượng vàng đến hạ cám xơi tái hết. Mình cứ nằm khểnh chờ nó đọc xong, hỏi nó cuốn nào đáng đọc thì thì mới tha về đọc, khỏe, hi hi. Chẳng phải riêng mình, có đến vài trăm người từ Nam ra Bắc, làm việc gì cần phải tra cứu sách vở đều hỏi nó.

Hỏi nó vừa nhanh vừa chính xác, nó lại cất công tìm kiếm cho, tóm lược tóm tắt những gì cần phải chú ý, sướng thế ai không muốn nhờ. Thành thử không khi nào không có người nhờ nó. Bao nhiêu người có bằng nọ bằng kia, công đóng góp của nó không nhỏ, chẳng những nó tìm kiếm tài liệu cho mà còn góp ý đề cương, sửa sang chương này chương nọ. Nó đóng vai trò phản biện bao giờ cũng tuyệt hảo.

Vì thế nó khách khứa lía chia, điện thoại réo suốt ngày. Phòng làm việc của nó hễ có chuông điện thoại, ai nấy cứ ngồi yên vì cầm chắc điện thoại của Phạm Xuân Nguyên chứ không còn ai khác. Hôm nào vắng điện thoại, mọi người cứ ngơ ngác hỏi nhau ơ hôm nay không có ai gọi cho thằng Nguyên cả nhỉ.

Nó chẳng bằng cấp gì, trọc lóc mỗi bằng cử nhân, mình nói cả Viện văn chỉ còn mày với bà Thiêm bán nước là chưa tiến sĩ thôi đấy, không biết xấu hổ à, nó nhăn răng cười. Mình với cái Yến vợ nó ép mãi rồi nó cũng cắp cặp đi học lấy bằng tiến sĩ, được vài ba bữa thì bỏ, hỏi sao lại bỏ nó cứ nhăn răng cười.

Mình nhớ có lần mình hỏi anh Trần Quốc Vượng, nói giả sử người ta bắt anh làm tiến sĩ anh có làm được không, anh lắc đầu nói không. Anh nói muốn tiến sĩ thì phải đi học, tôi mà đi học, ngồi nghe mấy thấy trẻ nói mấy câu đã nổi khùng rồi, học làm sao được. Thằng Nguyên chắc cũng tâm trạng y chang anh Vượng. Giúp người ta làm tiến sĩ thì dễ như trở bàn tay, tự mình làm lấy thì không được, khốn thế.

Từ ngày vợ nó bỏ, giá nó lên kinh khủng, gái gọi suốt ngày, đến nhà nó giờ nào cũng có vài ba em nói cười toe toét. Các em xinh đẹp làm thạc sĩ tiến sĩ nheo nhéo suốt ngày anh ơi, anh nè lấy cho em cuốn này, mượn cho em cuốn kia. Rồi các em nhà báo chân dài hết cô này đến cô khác í ới anh ơi viết cho em cái này, anh ơi viết cho em cái nọ.

Lắm khi nghe nó đu đưa với gái mà phát điên, sến không ra sến quê chẳng ra quê, sốt ruột. Tán gái cù lần kiểu đó mà cũng xô đổ người đẹp lừng danh, tài.

Mình nói mày tính đánh đu với đàn bướm bướm cho đến bao giờ, coi chừng hết đời chẳng thấy nghiên cứu gì, chỉ toàn nghiên cứu bươm bướm thì bỏ mẹ, nó chẳng nói gì chỉ nhăn răng cười. Bảo Ninh nói được thế đã phúc, bướm nó lượn vè vè nhử vậy thôi, còn lâu mới chụp được nó.

Cái tính cả nể, ai nhờ gì cũng làm, chưa bao giờ thấy nó nói không. Nhiều người thấy nó dễ tính việc gì cũng nhờ, kể cả mấy việc con nít phẩy cái là xong cũng nhờ, rất tệ. Không phải không biết người ta lợi dụng mình, nó cứ sấp mặt hầu người ta vì đơn giản nó không biết nói không. Mỗi lần mở mồm nói không mặt nó đỏ lựng, lạ thế.

Kể cả việc đi nhậu cũng không biết nói không, mỗi ngày nhận năm bảy cuộc, chạy sô hết chỗ này sang chỗ khác. Nó ngồi nhậu rất tức cười, mặt mày nhớn nhác, hết gọi chỗ này nói đến ngay đến ngay, lại gọi chỗ kia nói đến ngay đến ngay. Nhiều lần mình nổi điên gầm lên, nói đ. mẹ, mày không biết mở mồm nói không được hả thằng kia. Nó nhăn răng cười, nói không.

Bạn văn 28

Năm 1977 mình đang học Bách Khoa, một hôm đang ngồi nhai mì khô nghe nhạc Trịnh bỗng nghe tiếng ai hỏi ngoài cửa, nói anh gì ơi cho tôi hỏi Nguyễn Quang Lập… Mình giật mình ngó ra sướng rêm, xưa nay chưa ai gọi cả họ cả tên mình cả, mới có mấy bài thơ in đã nổi tiếng không sướng sao được.

Mình đi ra, thấy hai ông tóc xoăn ông thấp ông cao, ông trắng ông đen, nhác trông đã biết ngay sinh viên Bách Khoa. Thằng Phong bắt tay vẻ rất tự tin, dáng người lớn dù khi đó nó mới mười chín tuổi, nói chúng tôi dân văn nghệ của trường, nghe danh anh đã lâu… Ua chầu, nó nói câu sướng củ tỉ, mới vài bài thơ in ở Văn nghệ Quảng Bình mà đã “nghe danh anh đã lâu”, sướng cực.

Sau mới biết Nguyễn Thành Phong mới có một bài thơ in ở Hà Nội mới, còn Hà Đức Hạnh cũng chỉ có tên trong hộp thư báo Vĩnh Phú, tự chúng nó phóng lên cái danh để sung sướng với nhau chứ đã có ma nào biết, hi hi.

Từ đó thân nhau, cùng nhau lập nên nhóm thơ Vòm cửa xanh hoạt động rất xôm trò, đến nay hầu như tất cả đều viết văn làm thơ, anh nào cũng đã có một vài ba đầu sách, đã có 6 anh là Hội viên Hội nhà văn. Hơn ba chục năm rồi, mỗi khi về trường vẫn còn nhiều người nhắc đến. Bây giờ mỗi khi đi quá cổng vòm Bách Khoa đều chợt nhớ thời ấy, lòng cứ rưng rưng.

Mình với thằng Phong thằng Hạnh gắn bó với nhau hơn 30 nắm, vui buồn sướng khổ có nhau, nhiều khi cãi nhau như mổ bò nhưng chưa khi nào bỏ nhau, ngay cả trong ý nghĩ.

Thằng Phong bạch diện thư sinh, nói năng khéo léo, ai mới gặp cũng khả nghi, nhiều người không ưa. Nhiều người biết mình chơi thân với nó thì ngạc nhiên lắm, trợn mắt há mồm , nói ủa, ông mà cũng chơi với cái thằng nhạt hoét vậy ta.

Chả phải, thằng Phong biết nhạt với ai, mặn với ai, không như mình ai cũng mặn đều, lắm khi rất mệt.Vả, chơi với nhau thì tìm cái ưu của người ta để mà chơi chứ cứ săm soi vào mấy cái tật của người ta thì suốt đời không có bạn.

Mình vẫn hay trêu nó, nói tao chẳng thấy mày có cái tài gì, mỗi cái tài đánh tiết canh, nó nhăn răng cười không thèm chấp. Thừa nhận nó đánh tiết canh ngon cực, tiết vịt tiết ngan tiết lợn tiết dê…tiết con gì vào tay nó cũng ngon lành, đến tiết khỉ nó đánh vẫn ngon như thường.

Anh em ai kiếm được con gì đều ơ ới gọi nó, vẫn gọi nó là nhà tiết canh học. Mình cười cười, nói mày ba bốn nhà, chỉ có nhà tiết canh là đắc đạo, nó chẳng tự ái, hai lỗ mũi phập phồng sung sướng lắm.

Nói thế thôi nó cũng lắm tài. Nghĩ lại thấy mình làm được món gì nó xơi được món đó.Viết báo làm báo thì một chín một mười, chẳng mèo nào chịu mỉu nào, ngoại ngữ ú ớ như nhau, thơ thì nó ăn đứt mình. Mình vẫn chê thơ nó nhạt nhưng kì thực thơ mình còn nhạt hơn nó nhiều. Văn xuôi nó có cả mớ, cuốn tiểu thuyết Mùa hạ cuối cùng viết về công an Hà Nội những năm 46-49 không thể gọi là dở, hấp dẫn và có văn ra phết, cũng giải thưởng giải thiếc thế mà lặn mất tăm không dấu vết, tiếc thế.

Xưa mình tập hợp mấy anh em viết văn bày cách viết kịch bản phim, thực hành luôn 40 tập đầu phim Cảnh sát hình sự, có Phạm Ngọc Tiến, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thành Phong tham gia. Cứ chiều chiều khi hết giờ làm việc lại tụ họp ở báo Văn nghệ thảo luận đề cương phân tập, phân cảnh vui như tết.

Xong phim đó rồi ai cũng viết được kịch bản phim cả, đến nay đều thành sư trong làng biên kịch. Riêng Nguyễn Thành Phong lúc đầu mình hơi lo, sợ thằng này viết không ổn, hóa ra nó là thằng viết tốt nhất, một phát ăn ngay, riêng nó nó đã có 3, 4 bộ phim ti vi hay phết.

Tiện đây nói thêm, cái phim Canh bạc đạo diễn Lưu Trọng Ninh, biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát ầm ĩ một thời là dựa vào cái truyện ngắn Canh bạc gá vợ của nó. Gienéric không có tên nó, cũng chẳng thèm ghi dựa theo truyện ngắn nào, nó cũng mặc kệ, vui vẻ kéo vợ con đi xem phim. Mãi sau mới thấy Lưu Trọng Ninh và chị Ngát xin lỗi nó, chỉ xin lỗi suông thôi, tiền nong không có một cắc, nó cũng chẳng nói gì.

Làm phim viết sách cũng vậy, ai đưa bao nhiêu biết bấy nhiêu, tuyệt nhiên không thắc măc mè nheo. Nó không phải thằng dại, nhiêu khi khôn tổ bố, nhưng động đến chuyện gì có thể xảy ra tranh chấp nó đều nhã nhặn nhường người ta, thế mà vẫn lắm kẻ không ưa, nghĩ cũng lạ.

Nó cũng giống mình lắm tiếng thị phi, kẻ nói nó chuyên gia lật đổ, người nó cơ hội, nịnh hót thánh thần, lại còn buôn thuốc phiện, âm mưu giết người… đủ cả. Thế gian độc miệng kinh người, nhiều khi rùng mình trước miệng lưỡi mấy kẻ tâm địa tối mò. Kể ra thì dài dòng quá, nó cũng không muốn đôi co, chỉ nói một câu cho nhanh: thằng Phong mà như thế thì bạn bè đá đít nó từ lâu, chẳng ai chơi mặn với nó cho đến tận bây giờ.

Với bạn bè nó là thằng chung thủy, chơi với ai thì chỉ người ta bỏ nó chứ nó chẳng bỏ ai, từ trước tới giờ mình toàn hoạnh họe nó chưa khi nào nó hoạnh họe mình. Vẻ ngoài giống ông cò giả nhưng lo cho bạn đủ thứ, cứ lẳng lặng lo toan chẳng bao giờ nói ra. Sợ nhất là mấy ông giúp bạn được một chút rồi đi khoe suốt đời, mình được chút tiếng tăm ông lại càng khoe, mấy ông này mình đã lỡ nhờ rồi thì ân hận mãi.

Hôm qua đi khám bệnh, nhận được tin nhắn của nó: “Ông viết mấy chuyện ba lăng nhăng, cười cười tục tục cho vui thôi, đừng dính vô mấy chuyện tư tưởng tư teo… mệt lắm. Đang đấu tranh chống diễn biến hòa bình đấy”. Thằng này đã bảo thì phải nghe nó, nó như cái phong thử biểu rất nhạy cảm chuyện nắng mưa, chưa thấy khi nào nó phán sai.

Xưa mình với Nguyễn Quang Thiều và nó khởi sự làm Văn nghệ trẻ, ba anh em làm việc rất ăn ý, tờ Văn nghệ trẻ hồi đó rất xôm trò, Nguyễn Quang Thiều nhạy về văn hóa, mình nhạy về ăn khách, nó nhạy về chính trị, thành thử báo vẫn cung cúc lề phải thôi nhưng bày được lắm trò vui, bán rất chạy.

Thấy bài nào ngờ ngợ, bán tính bán nghi không biết in có việc gì không, cứ ném cho nó là chắc ăn nhất. Nó còn nhạy hơn anh Thỉnh ( Hữu Thỉnh). Anh Thỉnh thì nhạy quá, thành ra tẩu hỏa nhập ma sợ bóng sợ gió, làm báo với anh lắm khi rất mệt. Nó khác, chỉ khẽ ngửi phát đã biết ngay vấn đề nó đang ở chỗ nào, nguy hay không nguy.

Xưa mình viết truyện ngắn Chuyện không có trong sự thật, nó đọc xong nói truyện cực hay nhưng chẳng ai dám in đâu. Anh Đỉnh ( Trung Trung Đỉnh) nói tao in đấy, truyện này có cái gì mà không dám in. Nó cười, nói được rồi, cá cái chơi, nếu truyện này in ra mà không vấn đề gì thì em nộp anh 2 triệu, ngược lại anh phải chồng đủ 2 triệu không thiếu một xu, ok?

Anh Đỉnh vênh mặt, nói ok thì ok. Truyện được anh Huân ( Nguyễn Trí Huân khen, in ngay, anh Đỉnh càng đắc chí, xoa đầu nó cười cười, nói đó, thấy chưa cu, cu tưởng mỗi mình cu là lập trường vững vàng thôi à. Nó tủm tỉm cười nói cứ bình tĩnh, để rồi xem.

Truyện chưa kịp ra lò thì đã có chuyện, xôn xao trong thành ngoại cõi. Nghe nói ông nhà văn T. ôm cuốn Văn nghệ quân đội số 7-1996 chạy đến nhà riêng bác Lê Khả Phiêu mếu mếu máo máo, nói anh ơi anh ơi Văn nghệ quân đội nó đổi màu rồi.

Anh Huân anh Đỉnh lo bạc mặt, thằng Phong nhăn răng cười, nói đó, thấy chưa nhân bảo như thần bảo. Anh Đỉnh tức, trợn mắt phồng mang, nói anh em người ta bị đau thế, mày còn đứng đó mà cười à. Nó vẫn nhăn răng cười, nói nghe em nói đây, cứ yên tâm, sẽ không việc gì đâu. Nó phân tích a, b, c, d và khẳng định kết cục sẽ không ai việc gì, lúc đó chẳng ai tin, hễ nó mở mồm là gạt phăng đi, té ra kết cục giống y chang như nó nói. Tài!

Tài thế mà vẫn không thoát được hoạn nạn, đôi lần hụt chết chứ chẳng chơi, tỉnh trí như nó mà bị mấy đòn đau hơn hoạn. Gần nhất là truyện ngắn Đi của Nguyễn Bình Phương.

Hồi nó làm trưởng ban Văn nghệ trẻ, nó đọc truyện ngắn này đã cảm thấy không ổn, nhưng anh em trong ban ai cũng khen đứt lưỡi, có người còn nói mày thù thằng Nguyễn Bình Phương hay sao mà không in cho nó. Phần vì nể mấy ông nhân viên toàn là nhà văn lớn, phần vì Nguyễn Bình Phương sắp cưới vợ, chưa có món quà nào cho đáng giá, nó tắc lưỡi cho in.

Lập tức bị ngay, đi toi cái chức trưởng ban lại còn bị thu hồi thẻ nhà báo, cấm chỉ một năm hành nghề. Từ đó long đong lận đận chạy hết báo này sang báo khác, lắm khi thấy mặt nó bạc trắng mà thương.

Nó uống chén rượu trắng thở hắt ra, nói mình biết chơi với chữ thế nào cũng có ngày bị chữ nó cắn, nhưng không ngờ nó cắn sớm thế, đau thế. Mình nói hay là bỏ bố nó nghề báo đi, làm nghề khác. Nó mở to mắt nhìn mình cười cười, nói làm gì, đánh tiết canh cho các ông xơi nhé. Cái mặt cười của nó méo xệch.

ĐI

Truyện ngắn của Nguyễn Bình Phương

Những hàng cây lập lờ bồng bênh. Đôi ba căn nhà hư­ ảo, ma quái rải rác trong bóng tối ngai ngái. Trăng đứng giữa trời, tròn vạnh nh­ưng không toả rạng. Chỉ một ánh trăng duy nhất chiếu thẳng xuống đất làm thành con đ­ường vàng nhạt, mỏng, sắc, vẩn những hạt bụi li ti. Ngư­ời lính lầm lũi đi trên vệt sáng đó, chiếc ba lô sau l­ưng anh rộp lên như­ cái b­ướu khổng lồ, khẩu AK khoác chéo, nòng súng hờ hững nhô khỏi vai phải. Dáng ng­ười lính xương xư­ơng, đôi mày rậm đổ bóng xuống hốc mắt thành một quầng tối ảm đạm.

-Hai nhăm…ba mư­ơi…ba m­ươi bẩy.

Ngư­ời lính sải những bư­ớc dài, một b­ước chắc nịch xen một b­ước chênh vênh, cả ngư­ời anh in sững trong vệt sáng vàng nhạt.

-Năm sáu…sáu mốt…

-Mình!

Tiếng gọi yếu ớt thoảng bên tai. Ngư­ời lính dừng chân ngó quanh. Bốn bề vắng ngắt. Rìa đ­ường, trong bóng tối, vài ba gốc cây đổ chỏng chơ. Một tảng đá hình chữ nhật nằm ép sát mé trái, nó giống chiếc quan tài khổng lồ. Ngư­ời lính đánh mắt nhìn đôi b­ướm trắng, chúng bay theo anh từ lâu, bốn cái cánh chờn vờn thoắt ẩn thoắt hiện tựa bốn mảnh giấy vụn quấn quýt trong gió. Ngư­ời lính nhíu mày, mấy nếp nhăn cựa quậy xô đẩy trên cái trán ngắn choằn của anh. Kỷ niệm chầm chậm rẽ lớp sư­ơng mờ hiện về:

-Mình thích không?

-Thích!

-Tìm cho em cái cặp tóc, nó rơi đâu đây thôi. Mai mấy giờ mình đi?

-Họ bảo tập trung trên huyện lúc bẩy rư­ỡi. Chán thật. Cặp của mình đây này. ở nhà chu đáo với mẹ một tý. Năm nay mẹ yếu lắm rồi đấy.

-Vâng. Mình đừng quên em đấy nhé.

-Quên thế chó nào đư­ợc. Tôi sẽ về, nhất định sẽ về với mình. Tôi chỉ đi hai nghìn linh chín bư­ớc thôi.

-Không, hai nghìn linh tám cơ.

-Thì hai nghìn linh tám. Đúng hai nghìn linh tám, không hơn không kém, còn lại mặc kệ…

-Mình muốn nữa không?

-Có.

-Sao mình khoẻ thế!

Ng­ười lính mấp máy môi, anh sốc lại ba lô khiến chúng kêu leng keng. Không gian rì rào, cái rì rào thiêng liêng nơi sự sống không có mặt. Đôi b­ớm trắng bay ra từ gốc cây đổ, chúng l­ượn sát mép vệt sáng sau đó dấn lên rồi lại chìm vào bóng tối thăm thẳm.

-Ba trăm tám mốt, ba trăm tám hai…Bốn trăm… bốn trăm linh t­ư…

Ng­ười lính nhẩm đếm, anh cảm giác ai đó đang đi sau nhặt những con số của mình. Lại một tiếng thở dài. Ngày x­ưa cả thị trấn mắc bệnh thở dài, vừa hát vừa thở dài, vừa hôn nhau vừa thở dài…Mẹ ngồi bên bậu cửa nhìn đăm đăm ra đư­ờng, trên ban thờ, bố trẻ măng nhìn mẹ…Sau đó tất cả biến mất, chỉ còn lại tiếng thở não nề bất tận.

-Hai nghìn linh một…hai nghìn linh bốn, hai nghìn linh năm…

Ng­ười lính nhắm mắt khi nhận ra không khí ngả lạnh.

-Hai nghìn linh sáu…

Ngư­ời lính rùng mình, anh mở choàng mắt và thấy mình đứng d­ưới chiếc cổng hình bán nguyệt. Chiếc cổng bằng đá xám liền khối, uy nghiêm, chắc nịch, hai cánh của nó trong suốt gợn mấy vết mờ. Hơi nư­ớc phả ra nghi ngút. Ngư­ời lính hít hơi dài.

-Hai nghìn linh bẩy.

Anh mạnh dạn dấn bư­ớc đi xuyên qua cánh cửa sang bên kia. Nòng súng có một lực cản nhẹ. Trư­ớc mặt ngư­ời lính là khoảng mênh mông màu nâu nhạt. Tít xa, cuối tầm mắt, loé lên vài ba tia sáng lấp lánh chỉ nhỏ bằng hạt cát. Ngư­ời lính bần thần ngoái cổ, con đ­ường anh vừa đi qua đã biến mất, ở đó chỉ còn một vệt mờ đang lịm tắt để lộ ra miệng vực đen ngòm.

-Mình!

Tiếng gọi bị cản bởi lớp cửa nhỏ dần nhỏ dần cùng đôi b­ướm. Bốn cái cánh lảo đảo rơi theo chiều nghiêng. Ngư­ời lính thở hắt, đầu anh loãng ra sau đó trở nên nhẹ nhõm tinh khôi.

Ng­ười lính bư­ớc và đếm lại từ đầu:

-Một, hai, ba, bốn…

Những b­ước chân bây giờ y hệt lúc đầu, nó nhẹ nhàng, châng lâng.

-Mư­ời tám… hai mốt…

Ng­ười lính không biết khi v­ượt qua vòm cổng, anh đã b­ước sang bên kia mặt trăng, ở đấy vĩnh viễn chỉ có hai nghìn linh bẩy bư­ớc.

Bạn văn 29

Huy Đức

Mình từ Sài Gòn về, vào mạng thấy bác Hữu Thọ nói, hơi buồn. Đến bấy giờ bác vẫn còn lo dân phân tâm về những phản biện. Nếu những phản biện chính đáng ích nước lợi dân thì có lý gì sợ dân phân tâm, còn những phản biện kiểu không ăn thì đạp cho đổ thì chính dân sẽ bóp miệng lũ này, khỏi lo đi.

Tất nhiên làm việc gì cũng bị dân lý hội đến, bàn vô bàn ra thì cũng nhức đầu mệt người thật. Nhưng như cụ Khổng nói Thiện hạ hữu đạo, tắc thứ nhân bất nghị.- Thiên hạ có đạo chính đáng thì dân bất tất phải nghị luận lung tung. Viết đến đây chợt nhớ đến Huy Đức, lập tức bỏ ngay entry nói lại với bác Hữu Thọ, viết Bạn văn 29 cái chơi, dù bây giờ Huy Đức hiển nhiên là nhà báo.

Chẳng nhớ quen Huy Đức từ lúc nào, hình như hơn hai chục năm rồi, thời nó viết truyện ngắn Dòng sông cụt thì phải. Truyện đó nó ký tên Trương Huy San, in ở Văn Nghệ Quân đội, ai đọc cũng thích. Nó viết về cái thời duy ý chí làm thủy nông ở Nghệ Tĩnh, nghe lời Trương Kiện đào bới lung tung, giọng văn tưng tửng không hề xốc xỉa nhưng mà đau, đau lắm.

Đám văn trẻ tụi mình sướng lắm, văn chương giả cầy vô thiên lủng, chỉ cần xòe tay khua nhẹ cái được cả nắm, kiếm được ông văn miệng có gang có thép thời nào cũng khó, thời này càng khó hơn.

Khi đó nó vừa rời quân ngũ, mình cũng thế. Nghe tin nó ra Hà Nội, thằng Nguyên ( Phạm Xuân Nguyên) dắt mình đi gặp nó. Mới gặp hơi thất vọng, nó bắt tay mình, nói chào anh, cái bắt tay nhẹ không, lời chào cũng nhẹ không, chỉ có cái miệng cười tươi. Mà cũng chẳng biết nó có cười hay không nữa, có khi nó chỉ xòe bộ răng vẩu ra thôi, hi hi

Khác với mấy ông văn trẻ, hễ gặp nhau là ôm vai hót cổ, kéo nhau vào quán liền, Huy Đức ít khi vồ vập ai. Bạn bè lâu ngày gặp nhau cũng chỉ cái bắt tay nhẹ y chang Võ thủ tướng bắt tay, nói mới vô à, rồi lặng lẽ kéo ghế ngồi, lâu lâu nói đôi ba câu không mặn cũng chả nhạt, chỉ đôi mắt lộ sáng với cái nhìn ấm áp chí thiết khiến người ta yên tâm nó vẫn quí mình.

Huy Đức ngoài bộ giàn rất nam tính, chẳng có nét gì khả dĩ là đẹp trai, mắt mũi cũng chả đẹp nhưng ánh mắt nhìn ai như hút hồn người ta, ấm áp và tin cậy, tin yêu và say đắm, gái chết như rạ cũng vì ánh mắt này đây, hi hi.

Nó giống thằng Nguyên, từ ngày vợ bỏ đắt sô kinh khủng, ngồi đâu cũng thấy nó lúi húi reply tin nhắn đám chân dài, nhưng cũng chỉ thấy các em vè vè lượn quanh, không thấy em nào dám cắn câu, hoặc cắn hờ phát rồi bỏ chạy cả.

Mình có giới thiệu Huy Đức cho một cô, cô này nghe mình tán dương Huy Đức thì háo hức lắm, bố trí năm lần bảy lượt mới gặp được, gặp xong cô này nhắn tin, nói ui ui chú ơi, xấu xấu. Ít lâu sau mình nhắn tin, nói Huy Đức thế nào, hay không. Cô ta reply tức thì, nói hay hay, chú ơi hay cực ke ke ke.

Chẳng hiểu thế nào mối tình sét đánh hay thế cuối cùng cũng hỏng, tiếc thế, âu cũng là số trời. Cũng như nó đang làm văn hay ho thế trời lại bắt nhảy sang làm báo, chuyên chuyện pháp đình, bài nào bài nấy hay điếc tai, người khen kẻ chê cũng điếc tai luôn.

Trông cái dáng lờ vờ, ngồi đâu cũng nhường phần sắc sảo cho người khác, ít ai mới gặp đã ấn tượng, chỉ khi nói chuyện cà chớn, trêu chọc nhau mới ló chút thông minh, còn thì như gà rù, nói chuyện như người đời sơ nói, ấy thế mà bất kì bài báo nào cũng đạt đến cái tầm khái quát cao, sức nghĩ sâu rộng, nếu không đủ độ để thán phục thì cũng không thể coi thường.

Hôm ngồi uống bia với thằng Tín ( Nguyễn Trọng Tín), Tín cũng làm Sài Gòn tiếp thị với Huy Đức, nhân nói chuyện Huy Đức thôi việc, nó uống cạn cả cốc to bia đen, khà một tiếng rõ to, vuốt mặt hai ba cái, nói tui nghĩ chán ra rồi, nước Nam mình có mấy thằng làm báo được như Huy Đức, hổng có, hổng có ai… đú má.

Có thể vì bức xúc mà thằng Tín nói quá đi, mình nghĩ thế. Mình chạm cốc với thằng Tín, nói có trí lự để viết những bài báo như Huy Đức cũng không ít người, cũng không ít người có thể viết hay hơn, nhưng có cái tâm sáng trưng như thằng Huy Đức để nói thẳng, nói to những điều tâm huyết như nó thì quả là hiếm. Người ta hay tán cái dũng của nó nhưng tôi nghĩ không phải, nó có chống đối ai đâu mà nói đến cái dũng.

Nghe nói đến cái dũng, thằng Tín cười sặc, phun cả bia ra bàn, nói đúng đúng, ông nói làm tôi nhớ đến câu thơ của Yevtushenko – Sống cái đời gì kì cục quá thôi/ dám lương thiện với mình cũng đủ thành dũng cảm.

Mấy hôm ở Sài Gòn, ngồi đâu cũng nghe chuyên Huy Đức thôi việc, nhiều người bức xúc đôi khi nói quá lên. Mình nghĩ chuyện đó cũng bình thường, đối với người coi báo không chỉ là nghề kiếm cơm mà là cái nghiệp như Huy Đức, một khi buộc phải chọn Sài Gòn tiếp thị hay blog Osin thì hiển nhiên nó phải chọn blog Osin.

Huy Đức sống với bạn chân tình, chí thiết, chẳng có khi nào nó để bạn thất thiệt vì mình, nên khi buộc phải chọn Tâm Chánh và Sài Gòn tiếp thị, tất nhiên nó phải chọn Tâm Chánh. Đêm trước khi ra Hà Nội, mình có ngồi với Tâm Chánh và Huy Đức, chúng nó vẫn nói chuyện bình thản như chưa có gì xảy ra, vẫn ấm áp và thân thiện, có phần còn thân thiết và quí trọng nhau hơn, mới hay dại dại khôn khôn, mất mất được được thật khó lường, mấy ai đo đếm phân minh.

Mình hỏi Tâm Chánh, nói ông thử nói một câu vì sao Huy Đức thôi việc. Tâm Chánh ngồi ngẩn rồi cười, nói anh hỏi khó, một câu thì khó nói lắm. Mình nói thế thì ba câu vây, Tâm Chánh nói ba câu càng khó nói hơn. Tâm Chánh nhăn răng cười, Huy Đức cũng nhăn răng cười.

Thế là xong, mình có thể kê cao gối mà ngủ. Ở đời sợ nhất là mất cái tình chứ vì cái lý gì đó mà mất thì cái mất ấy cũng nhẹ tựa lông hồng, cần gì phải lo nghĩ. Nói thế để bà con thôi bàn tán chuyện này đi, vả, được được mất mất, dại dại khôn khôn mỗi người tự biết lấy, người ngoài bàn tán đôi khi đâm rách việc.

Cũng vì mạng méo ầm ĩ, BBC phỏng vấn phỏng veo, bà con nó ở quê lật đật kéo nhau chạy vào Sài Gòn, góp lại cho nó 2 triệu, ôm lấy nó cuống quít, nói ôi con ơi, răng rứa con ơi. Nó nói con thôi việc này kiếm việc khác, có gì đâu. Bà con lườm nó, nói có gì đâu, mày đừng có chủ quan. Nó cũng chỉ biết nhăn răng cười.

Buổi sáng quán cà phê phố Hàn Thuyên, mình với nó đang tán chuyện ba lăng nhăng giải sầu, một em chân dài chạy đến vừa nguýt vừa cười, nói chết chưa chết chưa, đáng kiếp đáng kiếp, còn chủ quan nữa không. Nó tủm tỉm nhìn cô nàng, nói em cũng bảo anh chủ quan à. Cô bé dẩu môi nguýt nó, nói chủ quan.

Nó cười, vui vẻ khoác vai cô bé, nói điều tôi sợ mất nhất là tình yêu mọi người dành cho tôi, như cô bé này chẳng hạn. Cô bé véo Huy Đức cái rõ đau, nói yêu anh bao giờ hả hả.

Nó lại nhăn răng cười.

Ông quan trọng

Ngày lễ mồng 2 tháng 9 mình ra phố lo mấy việc lặt vặt, vừa về chưa kịp cởi áo đã nghe anh gọi điện thoại, nói mày ra khách sạn Mường Thanh uống với anh ly bia, chưa kịp chối anh đã cúp máy, coi như mình phải ra ngồi với anh là chuyện đương nhiên. Đang tính xem nếu anh gọi lại thì bịa chuyện chối khéo như thế nào thì anh lại gọi, nói mau lên em, lại cúp máy tắp lự.

Thực ra mình với anh chỉ là đồng hương, chỉ quen nhau sơ sơ, rất ít khi gặp nhau. Gọi là bạn văn cũng chả phải, anh viết văn trước mình khá lâu, chỉ viết chừng dăm truyện ngắn rồi bỏ đi làm báo, toàn ghi chép với bút ký dài ngoằng, ca ngợi hết lượt bộ này ngành kia từ Nam ra Bắc. Anh giàu có lên bắt đầu từ đó.

Bút ký của anh ghê lắm, thời cả nước còn đi xe đạp anh đã viết tôi ngồi trên máy bay Boing nhìn xuống thế này, tôi ngồi xe Volga cùng bộ trưởng thế kia, rồi tôi đàm đạo chuyện làm ăn kinh tế hết ông ủy viên này sang ông ủy viên khác, thất kinh. Cái kết bao giờ anh cũng để nhân vật chính đứng với anh, rồi “anh nhìn xa xăm và đôi mắt ánh lên một khát vọng chảy bỏng”, lại thất kinh nữa he he.

Mọi người cứ nói bút kí ghi chép của anh nghe rất hay nhưng không có nội dung gì cả, nếu không có ai quan trọng thì anh cười khì khì, nháy mắt cái chậc lưỡi cái, nói báo béo thì thế thôi, tao viết cho mấy thằng ngu sướng chứ viết cho chúng mày sướng à.

Gặp người quan trọng, nghe nói thế thì anh nhăn mặt vẻ coi thường, hắng giọng cái lắc đầu cái rồi chỉ tay vào đầu, nói các ông không hiểu gì hết, nội dung nó ở trong cái này này. Chẳng ai biết trong cái này này của anh có cái gì nhưng nghe anh nói thế thì cũng nể, nghĩ bụng chắc anh đang làm cái ý tại ngôn ngoại, ghê.

Hồi xưa làm báo cực khổ lắm, đạp xe đạp lọc cọc xuống cơ sở, hễ được mời gói thuốc lá Sông Cầu mắt đã sáng trưng. Nếu được mời bữa cơm có chai rượu trắng, đĩa lòng lợn thì gọi là phúc lớn. Đứa nào được cơ sở dúi cho cái phông bì nhỏ, sướng củ tỉ, chỉ mong mau ra chỗ vắng mở xem được bao nhiêu. Thường chỉ được năm bảy chục một trăm thôi, thế cũng đã mừng hết lớn rồi.

Thấy anh đi làm báo mà thèm, ở tòa soạn chỉ là phóng viên hạng bét, vào vào ra ra vật vờ không ai hỏi, những hễ về cơ sở anh bỗng nhiên thoát xác, rũ bùn đứng dậy sáng lòa hi hi. Xe cơ sở đón tận nhà, nếu ở xa thì máy bay tàu hỏa hạng sang. Có lần anh yêu cầu được ngồi máy bay trực thăng lượn một vòng quanh thành phố, lập tức được đáp ứng, thật phục quá đi mất.

Anh có cái mã ngoài cực đẹp, cao to đẹp trai, cái nhìn ấm áp thân thiện, thái độ ung dung tự tại, nói năng khoan thai, ngắt nghỉ đúng chỗ, người như thế ít ai nghĩ là nhà báo quèn.

Anh đi xe nào đến đâu người ta cũng chạy ra bắt tay đầu tiên, anh cứ tỉnh bơ không hề đính chính, vỗ vỗ vai chủ giới thiệu khách, nói ông này là, ông này là… còn tôi chỉ điếu đóm cho mấy ông này thôi. Anh nói thực như đùa, khách chủ vui vẻ còn anh được thêm phần trọng vọng. Chẳng ai dám hỏi ông điếu đóm thật hay đùa, thấy cái dáng quan trên của anh trăm người kính trọng cả trăm.

Anh vào nhà ông to dễ dàng như vào chỗ không người, rất đáng nể. Anh mượn xe ông to này đến nhà ông to khác. Đến cổng xuống xe bật mobile vờ gọi tên chủ nhà oang oang, nói tôi đến đây rồi, thôi thôi tôi không vào nhà đâu, anh em mình ra ngoài ngồi cho mát, à thế à, thôi được tôi vào vậy. Xong, cúp máy, hất hàm với cảnh vệ phát y chang ông chủ ra lệnh gia nhân.

Cảnh vệ thấy anh đi xe ông to, lại nói năng suồng sã với xếp, anh chưa cần hỏi tới đã vội vã kéo barie lên rồi. Vợ chủ nhà thấy anh vào thì ngạc nhiên lắm, chẳng biết anh là ai cứ lừng lững đi vào cũng đã nể, chưa kịp lên tiếng anh đã bắt tay bắt chân vồn vã, nói chị à, dạo này chị trẻ ra bao nhiêu. Nhưng nước da hơi xanh, anh có nói dạo này chị ăn ngủ không được tốt. Chết chết chết thế là không được. Thôi được, để em gọi mấy thằng sứ Pháp, sứ Mỹ bắt chúng nó phải tìm thuốc cho chị, không để chị thế này được, chết chết chết. Bà chủ thì lắm khách, chẳng nhớ hết mặt, ai cũng ngờ ngợ như đã gặp, nghe anh nói năng thân mật liên vui vẻ kéo anh vô nhà. Tài.

Dạo này anh bỏ viết báo, chỉ lấy cái tên tòa soạn cho nó có cái tước bạ để mà giao du, ai cũng biết anh không chức tước gì, ở tòa soạn một cái chức trưởng phòng cũng không ai dám giao, nhưng ra ngoài người ta vẫn nể trọng anh như thường.

Với mấy xếp ngoài, anh đóng vai kẻ sĩ bất cần hư danh, nói ông này ông kia mời tôi về làm việc này việc nọ nhưng tôi dại gì, ách giữa đàng lại mang vào cổ, ngu à. Nếu thấy người ta có vẻ không tin, anh liền bật mobile gọi, nói anh à, em đang ngồi với thằng nọ thằng kia đây, anh nói chuyện với nó chút nhé. Ôi, anh đang họp à, tí em gọi lại. Thấy thế ai cũng tin sái cổ.

Cứ tưởng anh làm mấy trò đó để chơi vui, uốn ba tấc lưỡi để đùa cợt thôi chứ chẳng để làm gì, không ngờ anh giàu có là nhờ thế. Anh có ba vợ gần chục đứa con, nhà nào cũng đầy đủ sung sướng, thật tài quá. Lắm khi muốn hỏi anh làm cách nào mà giàu thế nhưng không dám hỏi.

Mình đi ra khách sạn Mường Thanh thấy một bàn lớn toàn ông to, hãi quá tính chuồn, anh kéo lại, vố vỗ vai xoa xoa đầu vô cùng âu yếm, nói thằng em tôi đây, rồi anh kể tôi bảo nó viết cái này, tôi bày nó viết cái kia, cứ như không, mình ngượng chứ anh chẳng ngượng.

Tan cuộc mình nhìn anh cười cười, nói anh cứ lông bông lêu bêu thế mà giàu có cự vạn nhỉ. Anh cười khì khì, nói từ ngày phát hiện ra giá trị nước bọt, tao bỏ chữ buôn nước bọt, trúng cực kì, chưa thời nào buôn nước bọt trúng như thời này, dại gì không buôn, khe khe khe.

Bí mật 30 năm

Tặng anh Tống Văn Công

Phùng Quán làm bài thơ Lời mẹ dặn khi mình mới một tuổi ( 1957

), mặc dù bị cấm đoán lung tung nhưng đến năm 7 tuổi mình đã biết, còn được đọc cả bài thơ, đơn giản vì ba mình rất thích bài này. Cạnh nhà mình có bác Thông công an, hình như hồi đó bác làm trưởng hay phó ty công an tỉnh Quảng Bình, cũng rất thích bài này.

Khi nào hai cụ ngồi với nhau cũng đều nhắc đến Phùng Quán, Trần Dần. Có người thì hai cụ nói tiếng Pháp, vắng người thì các cụ cứ nói oang oang không kiêng dè gì, mặc kệ mình đứng ôm cột nhà hóng chuyện. Ba mình nói anh đem bài này giáo dục chiến sĩ công an là tốt lắm, bác Thông gật gù, nói đúng đúng. Bác Thông nói anh đem bài này vào sách giáo khoa dạy con nít cũng rất tốt, ba mình gật gù, nói đúng đúng.

Ba mình nhìn bác Thông cười cười, nói nếu trên bảo bắt Phùng Quán, anh có bắt không. Bác Thông cười cái hậc, nói tôi chấp hành nhưng trước khi chấp hành tôi sẽ phản đối. Rồi bác thở dài, nói tôi chỉ làm được có thế thôi, khó lắm khó lắm.

Đó là vài câu tiếng Việt mình nghe được, nhớ đến giờ. Còn thì hai cụ toàn nói tiếng Pháp, mình chẳng hiểu gì, chỉ lâu lâu lại nghe Phùng Quán Phùng Quản. Cái tính tò mò bẩm sinh, mình lục cho được bài thơ Lời mẹ dặn.

Còn bé chẳng thấy hay gì, chỉ thấy đúng.Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao doạ giết/ Cũng không nói ghét thành yêu giống y chang ba mạ, cô thầy vẫn dạy, có gì đâu nhỉ ?

Sau này chơi thân với Phùng Quán, mình có kể cho anh nghe chuyện ấy, anh xuýt xoa tấm tắc khen bác Thông, nói công an mà như thế thì quá tuyệt vời. Khi đó anh mới kể bí mật mà anh đeo duổi chẵn ba chục năm vì bài thơ này.

Nghĩ cũng hay hay, bài thơ như một chân lý hiển nhiên ấy lại làm cho thời đó xôn xao, đi đâu cũng thì thào thì thầm, như vừa phát hiện gì ghê gớm lắm. Tất nhiên bài thơ bị qui chụp là biểu tượng hai mặt, là mưu đồ đen tối của lực lượng thù địch. Từ Bích Hoàng tương một bài “Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số kẻ cầm đầu trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm” in trên Văn nghệ Quân dội số 5 ( 5/1958). Nghe thất kinh.

Anh Quán nói thực ra mình viết Chống tham ô lãng phí với Lờì mẹ dặn như những góp ý với Đảng thôi, vì mình nghĩ mình là chiến sĩ, mình không dám nói thật cho Đảng biết thì ai nói. Cho nên mới có câu này Trung ương Đảng ơi! /Lũ chuột mặt người chưa hết/ Đảng cần lập những đội quân trừ diệt/ Có tôi/ Đi trong hàng ngũ tiên phong! là mình nghĩ thế thật, khi đó Đảng hô một phát là mình vác súng xung phòng ngay, mưu đồ gì đâu.

Mình cười khì khì, nói mấy ông cũng dở hơi, nếu có mưu đồ ai lại dại đi nói với Đảng, làm thế hoá ra lộ thiên cơ à. Anh Quán cười cái hậc, nói thủa bé đến giờ mình cũng chẳng thấy lực lượng thù địch nào đi góp ý cho Đảng cả. Nó không chửi Đảng thì thôi, ngu gì lại đi góp ý.

Chuyện tưởng đến đó là xong, ai dè một tối ở chòi Ngắm sóng, anh rút tiền đưa mình, nói Lập đi mua cho anh chai rượu, anh kể chuyện này hay lắm. Chỉ chai rượu trắng với nhúm lạc rang, hai anh em ngồi gần sáng đêm. Anh Quán kể hồi đó phê phán chỉ trích đánh đấm anh rất nhiều, nhưng đánh đau nhất, độc nhất là bài thơ Lời mẹ dặn- thật hay không dài 112 câu của Trúc Chi, hình như in báo Nhân dân.

Mình hỏi Trúc Chi là ai, anh nói từ từ cái đã, rồi anh ngâm nga cả bài thơ, không quên một câu nào, chứng tỏ anh đã đọc đi đọc lại bài thơ này vài trăm lần là ít trong suốt mấy chục năm qua. Hồi này hễ ai bị phê ở báo Nhân dân, dù chỉ nhắc khẽ bóng gió một câu thôi, cũng cầm chắc là đời tàn. Thế mà cả bài thơ 112 câu dài dằng dặc, chụp mũ anh không thiếu một thứ gì.

Nào là Nó ghét chỗ thầy hiền bạn tốt/Nó yêu nơi gái điếm cao bồi/ Ghét những người đáng yêu của thiên hạ/Yêu những người đáng ghét của muôn người,/ Quen học thói gà đồng mèo mả/ Hoá ra thân chó mái chim mồi…

Nào là Theo lẽ thường: thì sét đánh không ngã/ Chắc trên đầu có cột thu lôi/ Nếm đường mật lưỡi không biết ngọt/ Chắc ăn tham vị giác hỏng rồi/ Nghề bút giấy đã làm không trọn/ Dùng dao khắc đá cũng xoàng thôi !…

Mình nói qui kết tàn bạo thế, anh không bị tù tội là may, cậu Tố Hữu có ba đầu sáu tay cũng đừng hòng giúp cháu. Anh Quán gật gù, nói đúng rồi, cho nên mình có trách Tố Hữu đâu. Đột nhiên anh nhìn thẳng vào mặt mình, nói hơn ba chục năm qua mình chỉ làm một việc là tìm cho ra Trúc Chi là ai.

Anh Quán trầm ngâm hồi lâu, uống hết chén rượu, nói sở dĩ mình quyết tìm cho ra Trúc Chi là ai, vì đời mình tan nát cũng chính ông này chứ không ai khác.Tìm để biết ông ta là ai, rứa thôi, ngoài ra không có ý chi hết. Khi đó nhiều người cho mình dại, tìm chẳng để làm gì, nhỡ người ta biết mình đang đi tìm, có khi mình lại thiệt thân.

Hồi đó cả nước chỉ có mỗi anh Trúc Chi làm thơ ở Hải Phòng, anh là cán bộ tập kêt, thỉnh thoảng lên Hà Nội vẫn gặp Phùng Quán chuyện trò rất vui vẻ. Phùng Quán đã đi tàu về Hải Phòng hỏi cho ra nhẽ. Trúc Chi cười buồn, nói anh nghĩ tôi là hạng người nào lại đi làm mấy trò khốn nạn đó.

Phùng Quán bế tắc, đôi khi nghi người nọ người kia nhưng tóm lại là không phải. Năm 1989, tình cờ có người bạn gửi cho anh tập thơ Một đôi vần của Trúc Chi do nxb Văn hoá dân tộc Việt Bắc ấn hành, trong đó in nguyên bài thơ Lời mẹ dặn- thật hay không, lời nói đầu cho biết Trúc Chi đó là Hoàng Văn Hoan.

Bí mật ba mươi năm đã giải toả, Hoàng Văn Hoan khi đó đã cư trú chinh trị tại Trung quốc. Anh Quán cười cái hậc, nói mình muốn gặp Hoàng Văn Hoan quá nhưng không sao gặp được. Mình nói anh gặp làm cái gì, anh nói để nói một câu, một câu thôi. Mình hỏi câu gì. Anh Quán uống một hơi cán chén, vuốt râu ngâm nga, nói anh Hoan ơi… ai quen học thói gà đồng mèo mả/ ai hoá ra thân chó mái chim mồi…

Bạn văn 31

Ở phim Đời cát, Nhuệ Giang có công phát hiện ra Mai Hoa. Giang có năng khiếu thiên bẩm về casting, nó chỉ đâu trúng đó, nhiều phim của Đặng Nhật Minh và Thanh Vân thành công có một phần đóng góp quan trọng của Nhuệ Giang trong việc chọn đúng diễn viên cho đạo diễn.

Một lần tình cờ Nhuệ Giang vào xem kịch ở 5B Võ Văn Tần, thấy Mai Hoa diễn vai bà mẹ, một vai phụ chạy vô chạy ra được vài lần, nói dăm ba câu, chỉ cần thế thôi Nhuệ Giang bám lấy Mai Hoa ngay lập tức. Giang đem ảnh ra cho mình và Thanh Vân xem, nhìn ảnh đã thích đến khi gặp được người thì sướng rêm.

Thanh Vân vui vẻ khoác vai Mai Hoa nhìn mình cười cười, nói đã trúng mạ cát trắng chưa anh Lập, mình nói trúng rồi trúng rồi. Khi đó Mai Hoa mắt sáng long lanh, nói đã chắc chọn em chưa để em cười phát cho đã. Thanh Vân cười cười không nói gì, mình biết ý Thanh Vân, nói chắc rồi đó, không chọn em thì chọn ai. Mai Hoa tay múa lăm vông, nói ke ke ke năm ni sao mà em may quá trời luôn.

Trước đó Mai Hoa chẳng ai chú ý, kịch cũng như phim đóng toàn vai phụ, lại toàn vai bà già không mấy ấn tượng, nhận đựơc một vai chính phim nhựa, lại một vai như vai bà Thoa đối với Mai Hoa còn hơn cả một giấc mơ.

Vào phim nó lăn xả không kể chết, mấy tháng quay phim ở Quảng Bình dưới cái nắng đổ lửa nó vắt kiệt sức đến nỗi người khô quắt da đen thui. Đơn Dương nói em đóng phim để chết à, sao mà dữ vậy ta. Nó nhăn răng cười, nói thành công đựơc phim này em chết cũng đã.

Mai Hoa thành công thật, khi xem bản nháp đầu tiên mình đã rất thích, phục nhất là cái dáng chạy lón thón của nó trên cát y chang đàn bà quê cát. Đến khi phim hoàn thành, chính nó lồng tiếng vai nó thì xem mê đi, rất khó bắt được một lỗi nào đáng kể.

Mình trả lời phỏng vấn ti vi khẳng định vai nó đóng, tuyệt không chê một chỗ nào. Nó gọi điện ra hốt hoảng rối rít, nói anh ơi anh ơi, anh nói vậy chết em, trong này người ta nói ông Lập phong thánh cho Mai Hoa sớm quá, mình cười hì hì, nói ai nói kệ họ, có sao anh nói vậy.

Nói thật Liên hoan phim Châu Á- Thái Bình Dương lần thứ 15 mình không tin lắm Đời Cát nhưng lại tin vô cùng Mai Hoa sẽ được giải vàng , nó cũng khấp khởi mừng thầm. Đến khi Trương Mạn Ngọc bay sang thì nó ngồi thừ, nói thôi rồi, đến cái giải rút em cũng hổng có đâu.

Nhưng giải vàng vẫn vào tay nó, khi tên nó được xướng lên, cả hội Đời cát ôm nhau nhảy cà tẩng hò hét vang trời, nó đứng chết giấc chừng nửa phút rồi bừng tỉnh, luống cuống lập cập lên sân khấu. Nó nhận cái cúp từ tay Lương Triều Vĩ, lại đứng chết giấc. Có lẽ suốt đời nó không có hạnh phúc nào to lớn hơn hạnh phúc đêm hôm ấy.

Mai Hoa số khổ, đàn bà thân trắng mặt đen không lận đận cũng truân chuyên. Trông nó khi nào cũng tất bật, kể cả khi ăn chơi nhảy múa cũng hớt hãi như sợ mất một cái gì. Mình nói em số khổ, cố kiếm lấy thằng nào giỏi làm ăn mà nhờ câỵ, nó cười nhăn nhó, nói em biết rồi, nhưng thằng nào vậy ta.

Hôm mình vô Saì Gòn, nó nói để em kêu ba thằng đến đây cho anh xem mặt. Mình trợn mắt nói nhiều vậy a, nó cười hi hì, nói một thằng mê em, một thằng em mê, một thằng bố mẹ nó mê em.

Mình nói chuyện vợ chồng là duyên phận, xem mặt bắt hình dong nhiều khi sai bét đấy. Nó ngồi thừ, thở vô thở ra, nói đàn bà cực thấy mồ, động đến chuyện chồng con là hồi hộp kinh hồn. Mình nói hay lấy quách thằng H. đi cho rồi, nó thở hắt ra không nói gì.

Thằng H. thương Mai Hoa thật lòng, thằng này làm chồng ai thì nó hầu người đó tới số, tính tìn cũng mềm mỏng, đông bè bạn, lắm người thương. Hôm đám cưới Thanh Sơn- Hồng Ánh mình và thằng H. ngồi nhậu suốt đêm, nhắc đến Mai Hoa thằng H. ngồi ngẩn ngơ, mắt rưng rưng. Nó nói Mai Hoa không thương em cũng phải thôi, hồi đó em trên răng dưới ca- tút, lại rượu chè be bét, ai người ta thương nổi.

Suốt đêm uống rượu, cứ lâu lâu thằng H. lại gọi điện sang Úc nói em sao rồi, khi nào về. Sau mới biết cứ hễ say là nó lại gọi điện cho Mai Hoa, cũng chỉ hỏi em sao rồi khi nào về. Mình nói mày gọi gì lắm, tiền điện đâu cho thấu. Thằng H. cười như mếu, nói Mai Hoa mót chồng không bằng mót phim, em không bỏ Mai Hoa, Mai Hoa không bỏ phim, sao rồi Mai Hoa cũng về nước.

Từ ngày Mai Hoa phải tấp sang trời Úc, lấy một ông Việt Kiều, chuyện Mai Hoa liệu có về nước để đóng phim không thành đề tài của những người quan tâm đến nó.

Nhuệ Giang hỏi Thanh Vân, Thanh Vân hỏi mình, mình hỏi Hồng Ánh, Hồng Ánh hỏi Nhuệ Giang, cứ chạy đèn cù vậy, chẳng ai biết chẳng ai dám chắc. Mình gọi điện hỏi Mai Hoa, nói chồng em ra sao, nó cười hì hì, nói dzậy thôi dzậy thôi. Thoảng trong tiếng cười có vị đắng.

Nhớ Nguyễn Minh Châu

Mình quen anh Châu ( Nguyễn Minh Châu) đã lâu lắm rồi, hình như từ thủa mới ti toe viết văn đã biết anh. Nói thật đọc văn anh cứ hình dung anh hoành tráng lắm, nếu không oách thì cũng linh lợi hoạt bát, sắc sảo có thừa, té ra không.

Khoảng năm 1980 gì đó mình đến Hội nhà văn chơi với mấy ông nhà văn quen. Hồi này Hội nhà văn còn ở 65 Nguyễn Du. Mình ra nhà tiểu đúng lúc mọi người tan họp, chen nhau đi vào. Mình thấy một ông nhà văn đội mũ bê rê đen, mặc áo đại cán màu cháo lòng, dáng lọ mọ khóm róm, biết ngay là ông nhà văn xứ Nghệ, đoán mãi không ra nhà văn nào.

Anh đứng thập thò ở cửa nhà vệ sinh, rụt rè như đứng trước cửa quan, có người vừa ra, anh định vào, người khác nhanh chân hơn tót vào, anh lại đứng vậy, cái mặt vừa lo sắp vãi ra quần vừa ngượng khi tính phải chen ngang người khác. Có người tre trẻ nhác thấy anh, nói Châu vào đi, gớm, đi đái mà cũng rụt rè. Anh nhoẻn miệng cười, cái mặt đỏ kè xấu hổ, y chang ông con rể chuẩn bị ôm vợ bỗng gặp ông bố vợ.

Phải nói mình quá ngạc nhiên, không ngờ người viết Dấu chân người lính, Cửa sông, Miền cháy lại là anh. Mình chào, bắt tay anh, anh nhìn mình cái nhìn dè chừng, nói xin lỗi ông viết gì nhỉ. Nói xong anh cười ngượng ngập như nói năng thất thố với cấp trên. Khi đó mình chỉ là thằng con nít, dăm ba bài thơ làm vốn, có gì mà anh làm như mình nhà văn lớn, gọi mình bằng ông bằng vai phải lứa, lại ngượng ngập khi chưa đọc cái gì của mình.

Mình nghĩ anh diễn vai khiêm tốn vậy thôi, người viết văn cao sâu đâu phải tay vừa, trong làng văn ai ai cũng kiềng nể, nếu chọn 5 nhà văn viết truyện ngắn hay nhất chắc chắn có tên anh, riêng mình thì mình xếp anh số 2 sau Nam Cao, sau mới biết tính anh vậy, ngồi đâu cũng rụt rè cả thẹn như gái mới về nhà chồng.

Ngồi đâu anh cũng chỉ lắng nghe, ít khi tranh luận đôi co, có ai nói gì thì mắt trố miệng há, nói a thế a, rồi gật gù, rồi im lặng lắng nghe bất luận người ta nói hay dở thế nào. Có người nói gì đó hay, hơi độc chiêu một chút, kìm không nổi anh cười phá lên rồi ngay lập tức ngậm ngay tiếng cười. Thật tinh ý mới thấy thái độ của anh qua ánh mắt khi vụt sáng khi tối sầm khi lờ đờ như kẻ mất ngủ, nếu thoáng qua dễ thấy anh nhạt, khó chơi nữa.

Xưa mình ở quê, lâu lâu ra Hà Nội, gặp anh lần nào cũng vậy, cái bắt tay nhẹ không, nói ông mới ra à, rồi im, tuồng như anh chẳng có gì mà nói nữa. Mình có mời anh vô quán thì anh vô, anh chẳng bao giờ mời. Quen tính anh rồi, mình nói anh hay nhỉ, khi nào cũng sợ mình nói chẳng ai nghe, mình có mời vào quán cũng chẳng ai vào. Anh cười khì khì, nói cáí tính mình nó khỉ thế, sợ từ con giun con dế sợ đi, đã thế lại còn đi viết văn, bố khỉ.

Mấy anh văn trẻ đi cơ sở nói chuyện văn thơ rất thích kéo Nguyễn Minh Châu đi, có tên anh trong đoàn mới oách. Chèo kéo năm lần bảy lượt anh mới đi cho một lần. Trước khi đi bao giờ cũng ra giá trước, nói các ông nói nhé, tôi không nói đâu nhé. Xe dừng, mọi người chạy ra đón, mặt mày nhớn nhác nhìn quanh, nói Nguyễn Minh Châu đâu Nguyên Minh Châu đâu , mắt cứ tìm kiếm nơi mấy ông hoành tráng, có khi đứng trước mặt anh rồi vẫn cứ nhớn nhác nói Nguyễn Minh Châu đâu Nguyễn Minh Châu đâu.

Vào cuộc người ta nói đông nói tây, anh cứ ngồi khóm róm, nơm nớp sợ người ta gọi đến tên mình, y chang cậu học trò không thuộc bài.

Anh nói ông ạ, trên đời này tôi hãi nhất là người ta bắt tôi đi nói chuyện. Có lần tôi về Nghệ An, người ta nói mãi mình cứ chối thì người ta cho mình kiêu, nhận lời rồi thì lo mất ăn mất ngủ, không biết nói cái gì, cái đầu khi đó như cục vôi sống, không nghĩ ra được cái gì, khỉ thế.

Nghe nói Nguyễn Minh Châu nói chuyện người ta kéo đến đông lắm, mình hãi quá, nhìn đâu cũng thấy mắt là mắt, giống như người ta sắp ăn thịt mình, hãi chết. Mình nói năng ngậm rờ, người ta chán, nói chuyện riêng ồn ào như vỡ chợ. Mình ngồi nhăn răng cười. Mấy ông tổ chức lo hoảng, sợ mình buồn, buồn cái gì, người ta không nghe mình là phúc chứ buồn cái gì. Anh cười khì khì, nói bố khỉ.

Mình kể cho anh nghe có ông ở Đà Nẵng đóng vai Nguyễn Minh Châu đi nói chuyện nhiều nơi, bất kì tác phẩm nào của Nguyễn Minh Châu ông này đều thuộc nằm lòng, ông nói rất hay, ra giá với nơi nói chuyện cũng rất tài, mỗi lần nói chuyện chí ít một tạ gạo dăm bảy cân đường. Nói chuyện cả năm trời người ta mới phát hiện ra Nguyễn Minh Châu giả. Anh Châu cười khì khì, xuýt xoa nói chà chà, cái thằng tài, mình không bằng cái móng tay của nó.

Thành ra khi anh viết bài Ai điếu, đọc sướng rêm, gặp anh mình ôm chầm lấy liển, nói trời ơi không ngờ Nguyễn Minh Châu nói năng dũng mãnh thế này. Anh mặt mày nghiêm trọng, kéo mình vào một góc, nói trong kia có ai nói gì mình không. Mình nói không ai làm gì anh đâu, thời buổi đổi mới rồi anh ơi.

Anh cười, thở hắt ra, nói không viết thì không nhịn được, mà viết rồi lại cảm thấy mình có lỗi, dù sao mình ăn nằm với người ta quá nửa đời. Hiếm nhà văn nào đựơc như anh, phẩm tiết trước sau như một nhưng cái lòng thương người thương chế độ thật mênh mông.

Xưa nay ai anh cũng thương, kể cả những người ghét anh, chỉ chực anh hở ra câu gì là nhảy lên cục lên ban tâu liền, anh cũng chả thù hằn, ghét bỏ gì. Tính anh vốn cả nể, sợ mất lòng. Con kiến cắn anh cũng chỉ phủi đi chứ không giết, nghĩ mà thương.

Nguyễn Minh Châu nhút nhát nhưng nghịch ngầm, năm 1984 anh vào Huế, một hôm gặp mình anh nói tôi vừa phát hiện ra quán cháo gân bò hay lắm. Mình nói ngon hả anh, anh cườì khì khì, nói không ngon lắm nhưng mà hay.

Mình đi theo anh, chị bán cháo gánh béo trắng mượt mà, ngực lớn trắng hồng phồng căng, quần lụa mỏng đứt một đường thẳng khít đũng quần. Chị làm như không hay biết gì, cứ múc múc chan chan, khi cúi xuống khi ngước lên, ngực rất vừa tầm mắt người ngồi ăn, cặp đùì khi khép lại khi xoè ra, đường chỉ đứt đũng quần nứt ra một đường trắng bóng. Anh ghé tai mình cười khì khì, nói hay không hay không, tụi mình viết văn đéo câu khách giỏi bằng bà này.

Đến khi anh đi xa rồi, mỗi lần nhớ anh, không nhớ gì chỉ nhớ mỗi chuyện ấy. Anh ra đi năm 1989, đúng năm đất nước đổi mới thế giới đổi thay, suốt đời viết văn khóm róm chỉ mong có một ngày nhìn thấy cái sướng nó méo hay tròn, đúng lúc sướng rồi thì anh lại ra đi, nghĩ mà ứa nước mắt.

Cứ tưởng anh sống như thế thì bạn bè anh, những người sống cùng anh dọc cả đời lính lẫn đời văn nghe anh mất thì đau lòng lắm, hoá ra cũng có kẻ không như thế. Buổi tối anh ra đi ti vi đang phát phim Đơn giản tôi là Maria, phim này một thời hút hồn cả nước, đám nhà văn cũng bị hút hồn theo.

Anh Đỉnh ( Trung Trung Đỉnh) nghe tin anh mất chạy ào xuống báo, nói anh Châu mất rồi. Không một cái đầu nào ngẩng lên. Anh Đỉnh tưởng người ta không nghe, lại nói anh Châu mất rồi. Vẫn không ai ngẩng đầu lên, phim đang đến đoạn hay. Anh Đỉnh nói to hơn, gay gắt hơn, nói ơ kìa anh Châu mất rồi mọi người không nghe à. Có người nhăn mặt cáu kỉnh, nói biết rồi, và lại dán mắt vào ti vi.

Ông tất nhiên rồi

Tuần trước đến Cục sân khấu nói chuyện cho lớp Nghiệp vụ sân khấu, vừa ra khỏi Cục được chục mét chợt có tiếng gọi ê nhà văn, quay lại té ra là anh đang ngồi quán nước vỉa hè. Anh vẫn trẻ khoẻ như cách đây hai mươi năm, tóc đen mượt, da dẻ hồng hào, thoáng nhìn dễ nhầm anh chỉ hơn bốn mươi, sáu lăm tuổi mà đựơc như thế thật quá phục.

Anh làm văn viết báo hơn hai chục năm trước, trường phái nét mới, điểm sáng bài nào bái nấy nhạt hoét. Ai chê, anh cười ha ha ha rất hồn nhiên, nói tôi văn dốt báo dát, viết lách để kiếm cơm thôi. Dứt lời anh lại cười ha ha, cặp mắt sáng tươi, nụ cười mãn nguyện trơn tuột.

Hơn hai mươi năm mới gặp không lẽ không ngồi với nhau, mình đến kéo ghế ngồi, nói ông anh vẫn trẻ khoẻ quá nhỉ. Anh cười khì khì, nói tất nhiên rồi, nhìn cái mặt già cấc của mày anh thương quá. Rồi anh rót bia cho uống, nói chú mày viết khoẻ nhỉ, anh đọc chú mày suốt, phục thằng em quá. Biết anh nịnh thối, mình chỉ mỉm cười không nói gì.

Anh có cái mặt hiền khô, ai giỏi quan sát mới thấy mắt anh thỉnh thoảng hắt lên mấy tia sang ngược rất đáng sợ, còn thì hỏi trăm người cả trăm người đều nói thằng đó hiền lành, có gì đâu. Tướng ấy gọi là mặt Phật tâm xà, ai không biết dễ mắc lỡm vào tròng vớí anh lắm.

Gần gũi như vợ anh- chị giáo viên cấp ba hẳn hoi, thông minh phết- cũng đinh ninh chồng mình đã hiền lành còn giỏi giang, ai ai cũng yêu mến. Chị xinh đẹp, ngưỡng mộ anh lắm, coi anh như trời, lâu lâu anh kéo vài người nổi tiếng, ít kẻ quan to đến chơi nhà, nói chuyện gì cũng giành thế bề trên, nói ông phải thế này nghe chưa, ông phải thế kia nghe chưa, đôi mắt vợ anh nhìn anh lóng la lóng lánh vô cùng kiêu hãnh.

Anh chạm cốc, nói uống đi em, được đãi bia mấy thằng thông minh như mày không tiếc tiền, suốt ngày hầu bọn ngu dốt chán lắm. Rồi anh kéo mình tới gần, nói này, anh nói thật nhé, viết như chú mày chỉ gãi ngứa thôi gãi ngứa thôi, bây giờ chúng nó thối nát lắm, để anh cung cấp tư liệu cho mày, viết cả năm không hết. Nghe anh nói lại nhớ chuyện xưa.

Hồi ở Huế mình làm báo siêng hơn viết văn, trúng vào kì đất nước đổi mới, dân báo được dịp chống tiêu cực khắp nơi. Trong tỉnh Bình Trị Thiên hồi đó nhóm Quý Doãn, Thanh Ba, Thế Thịnh khởi đầu bằng vụ Vịt anh đào, phóng sự mấy số báo liền, xôn xao khắp tỉnh, nổi tiếng đến nổi hễ gặp Quý Doãn, Thanh Ba, Thế Thịnh ở đâu là lập tức có người gọi vào quán, nói ê ê vào anh đ. vào anh đ. ( Nói lái của Vịt anh đào)

Mình cũng hăng máu vịt lắm, suốt ngày chạy rong chống tiêu cực. Một hôm gặp anh, anh kéo vào quán, ngó ngược ngước xuôi, mặt mày nghiêm trọng, nói có vụ này hay lắm, chỉ có mày khui mới chắc thắng. Anh kể chuyện tiêu cực bệnh viện huyện nọ, mình đi liền.

Trước khi đi anh còn gặp dặn đi dặn lại, nói thằng này mày phải thế này, thằng kia mày phải thế kia. Mình nói bệnh viện huyện nhà anh, anh thuộc như lòng bàn tay, sao anh không đi? Anh cười buồn vỗ vai mình, nói anh phải cậy nhờ chú mày, thấy quê hương như thế anh đau lắm chứ, có điêù anh bất tài… làm được gì tốt. Cái mặt anh ngứơc lên chân thành vô biên, mình cảm động lắm.

Vụ ấy cũng nổi tiếng, ông giám đốc bệnh viện mất chức, đang hí hửng tự thấy mình công to thì biết thực chất ông phó giám đốc nhờ anh đánh cho đổ ông giám đốc, mình ngớ ra, ân hận, xấu hổ vô cùng. May ông giám đốc mấy năm sau lại phục chức, cuối đời còn lên làm giám đốc sở, nếu không mình áy náy suốt đời. Từ đó lẳng lặng chấm dứt luôn cái sự chống tiêu cực.

Hơn một năm sau gặp anh, mình chửi anh té tát, nói anh biến em thành thằng đánh thuê à. Anh tỏ ra ân hận, nói anh xin lỗi, chẳng qua thằng bạn anh nó nhờ anh, chứ vụ đó anh có kiếm được bao nhiêu đâu. Mình trố mắt nhìn anh, nói ủa, té ra anh chống tiêu cực để kiếm ăn à, nước này ai cũng như anh có mà loạn. Anh cười khì khì, nói tất nhiên rồi, mình lo cái thân mình thôi, nước non là cái đéo gì đâu em.

Từ đó mình tránh gặp anh, rồi chia tỉnh chia teo, mình về Quàng Trị ra Hà Nội, lâu ngày cũng quên mất anh, hơn hai chục năm mới gặp lại, không ngờ anh ra Hà Nội cũng đã lâu.

Tuồng như anh đã quên chuyện cũ, lại kéo tay mình thì thầm, nói vụ Biển đảo ông này như thế này ông kia như thế kia, vụ Bauxite ông này như thế này ông kia như thế kia, mày chơi không, anh cấp tài liệu lôi chúng nó ra ánh sáng đi, nhơ nhuốc lắm.

Mình cười nhạt, nói thèm vào, em là thằng nhà văn thấy việc chướng tai gai mắt thì nói, em đâu có điên đi nói xấu chế độ, đả kích cá nhân. Anh cười khì khì xoa đầu mình, nói anh tưởng mình anh hèn, hoá ra mày cũng hèn.

Tưởng sẽ không gặp anh nữa, ai dè lại gặp, thế mới chán.

Hôm qua mình đi xin chữ kí một ông xếp, người ta nói ông đang họp, mình mò tới tận nơi. Chẳng biết họp gì, thấy ai nấy mặt mày nghiêm trọng. Mình tìm mãi mới thấy ông xếp, đưa giấy tờ cho ông ký, vừa lúc thấy anh lên phát biểu.

Anh nói dài mình cũng không để ý, chỉ đến cái đoạn anh nhắc đến mình thì mình mới ngơ ngác ngước lên. Rõ ràng anh nhìn thấy mình hẳn hoi nhưng anh cứ tỉnh bơ, nói tôi thấy chúng ta hơi tả khuynh, cần phải làm mạnh, xiết chặt vào, để mấy ông nhà văn nói năng văng mạng, vô chính trị là không có được. Có ông nhà văn tài cũng có một chút nhưng huếnh lên, lại bị bọn xấu xúi dục, làm bờ lóc bờ leo nói xấu chế độ không ra làm sao, rất đáng xấu hổ.

Mình quyết định ngồi lại chờ hết cuộc họp gặp anh. Vừa thấy anh đi ra, chưa kịp chửi anh đã vui vẻ kéo mình ra một góc, nói anh mượn mày lấy điểm lãnh đạo chút, đừng giận anh nha. Mình tức, nói anh nói thế mà không biết xấu hổ à. Anh cười khì khì xoa đầu mình, nói tất nhiên rồi, mày hay xấu hổ tào lao mới chóng già đấy em ạ.

Nhớ Phan Tứ

Mình đọc văn Phan Tứ thời bé, đọc vì tò mò muốn biết chuyện chiến đấu miền Nam, chuyện chiến đấu ở Lào, anh ra cuốn gì đều đọc ngấu nghiến cuốn đó. Sướng nhất vẫn là cuốn Trước giờ nổ súng.Văn chương thời đó mà tả yêu đương lãng mạn, lại còn nói chuyện phản bội là ghê lắm, có lẽ trong vòng chục năm, kể từ năm 1960, đó là cuốn tiểu thuyết hay nhất.

Thời đó Phan Tứ lấy tên thật là Lê Khâm, kể từ cuốn Về làng anh mới lấy bút danh là Phan Tứ, dù thế nào mình cũng tiếc cái tên Lê Khâm, nó hay hơn tên Phan Tứ, nhất là sau cuốn trước Trước giờ nổ súng cái tên Lê Khâm đã đóng đinh vào trí nhớ nhiều thế hệ bạn đọc miền Bắc rồi.

Vì thế mới có chuyện thầy giáo của mình khoe là bạn học với Lê Khâm, mình biết ông nói phét chứ Lê Khâm học Đại học tổng hợp từ năm 1958 còn thầy thì học sư phạm Việt Bắc năm 1968. Mình nói thầy có quen Phan Tứ không, thầy nói Phan Tứ học trước tớ hai năm, nhưng quen thân nhau lắm.

Bốc lên thầy còn khoe một hôm thầy ngồi uống rượu nói chuyện với Lê Khâm và Phan Tứ, thầy phê bình Lê Khâm về tính tiêủ tư sản trong tiểu thuyết Trước giờ nổ súng. Thâỳ nói Lê Khâm không chịu nhưng Phan Tứ thì gật gù khen tớ nói đúng.

Hi hi thầy bà nước mình vui lắm, nhiều người chỉ chờ lên lớp là tán phét tôi ngày xưa thế này, tôi ngày xưa thế kia, kì thực dạy Kiều không đọc hết Truyện Kiều, dạy Chinh phụ ngâm không biết cuốn Chinh phụ ngâm ngang hay dọc. Thôi không nói chuyện này nữa, kể chuyện Phan Tứ cho vui.

Năm 1982 mình đóng quân ở Phước Tường ( Đà Nẵng) vẫn hay qua lại Hội Văn nghệ tỉnh chơi, quen anh Quốc ( Bùi Minh Quốc), anh Quế ( Thanh Quế) chị Cúc ( Ngô Thị Kim Cúc) đã lâu nhưng Phan Tứ thì chưa gặp. Một hôm đang ngồi quán cà phê cạnh Hội, thấy một ông già già nho nhỏ gầy gầy, áo bỏ vào quần gọn ghẽ, đi dép cao su đeo đủ bốn quai, cái ca táp khóac chéo quai ngang ngực lúi húi đi vào, anh Quế nói Phan Tứ đó kià, mình quá ngạc nhiên.

Đọc Mẫn và tôi mình cứ hình dung anh như nhân vật Thiêm, đẹp trai sang trọng, nhã nhặn ôn hoà, linh lợi hoạt bát, chẳng ngờ anh y chang ông trưởng thôn lên tỉnh họp. Anh bắt tay mình, nói Lập còn trẻ quá nhỉ rồi quay sang bàn việc Hội với anh Quốc, anh Quế, bàn xong thì đi, không hề nói chuyện văn chương. Nói chung bốn năm gần anh chưa bao giờ mình nghe anh tán gẫu được dăm câu, lúc nào anh cũng có vẻ vội, không hề thích đàn đúm.

Anh Quế nói ông Phan Tứ làm cái gì cũng lên kế hoạch, thời gian biểu kẻ bảng, hôm nay đi đâu mấy giờ, làm việc đến mấy giờ, tạt qua thăm ai, nói chuyện cái gì, mấy giờ thì về nhà… cứ thế răm rắp.

Anh Quốc nói ở nhà ông còn răm rắp hơn, thức dậy giờ nào, thể dục giờ nào, ăn sáng giờ nào, uống thuốc bắc giờ nào, nghe đài ta giờ nào đài địch giờ nào, vào bàn viết giờ nào… tuyệt không sai một khắc.

Mình cười hì hì, nói ngủ với vợ chắc cũng đúng giờ luôn nhỉ. Anh Quế nói chớ sao, đến vệ sinh giờ nào đi xia giờ nào đi tiểu ông còn rèn cho đúng giờ được nữa là. Mình thè lưỡi rụt cổ, nói sợ quá sợ quá.

Anh Quốc đập tay cười kha kha kha, nói được rồi, khi nào tôi chuốc ông Phan Tứ món rượu kích dục xem thử ông có đúng giờ được không. Anh Quế nhăn răng cười, nói hay hay, nhưng mà thua ổng thôi, ổng lập trường vững vàng lắm, chưa đúng giờ thì có dí bướm vào mũi ổng vẫn không xao xuyến.

Có lẽ nửa đời trong quân ngũ, sống trong môi trương gian khổ khắc nghiệt đã rèn cho Phan Tứ một nếp sống rất lính, chặt chẽ ngăn nắp đến từng li. Anh đặt chỉ tiêu một tháng một cái truyện ngắn, hai mươi trang tiểu thuyết cứ thế mà răm rắp. Nhờ thế anh có gần chục ngàn trang in, chưa kể 50 cuốn nhật kí dày cộp, nếu in ra cũng chục ngàn trang in là ít.

Anh viết nhật kí đều đặn đúng giờ như người ta phải ăn cơm đúng bữa, viết bằng ba thứ tiếng Lào, Nga và Pháp, thêm tiếng Việt nữa là bốn. Mình đến nhà chơi, thấy chồng nhật kí cao ngất của anh mà hoa mắt, lại còn viết bằng ngoại ngữ mới thất kinh. Anh nói viết ngoại ngữ để rèn kĩ năng ngoại ngữ, với lại nhỡ có rơi vào tay địch hay tay ai cũng đỡ phiền. Phục anh quá chừng.

Nghe nói trước khi viết cái gì anh đều làm đề cương chi tiết đưa bạn bè đọc, cấp trên xem xét, cho góp ý xong thì mới bắt tay vào viết, rất nghiêm túc. Có lẽ vì thế văn anh càng về sau càng thấy hợp lý, mọi thứ đều đâu vào đấy nhưng mà đọc mất sướng.

Đối với lớp trẻ anh rất ân cần thương mến nhưng ít khi anh nói chuyện văn chương, chưa khi nào anh hỏi mình cậu thấy truyện này truyện kia của tớ thế nào. Tuồng như anh biết văn anh là thế nào, đang ở đâu, có hỏi cũng chỉ nghe nói dối mà thôi.

Một hôm mình nói anh Tứ chẳng khi nào nói chuyện kinh nghiệm viết lách cho tụi trẻ các em nghe cả. Anh mỉm cười, nói các cậu bây giờ thành sư cả rồi, cái mà mình cho quan trọng thì các cậu cho vớ vẩn, cái mà các cậu cho là ghê gớm thì mình coi chẳng ra gì. Cho nên mạnh thằng nào thằng đó cứ viết, thằng hót thằng hét thằng hát văn đàn Việt mới hay lên được.

Thích nhất vẫn cái tính kĩ lưỡng chi tiết của anh. Trong cái tạp dề của anh có hộp kim với năm bảy loại kim dài ngắn to nhỏ. Chỉ cũng năm bảy loại và một hộp cúc có đến mấy chục cái cúc khác nhau. Mình nói biết là anh có tính phòng xa nhưng anh mang theo nhiều loại kim chỉ làm cái gì, lại còn cúc mấy chục loại nữa, không lẽ áo quần anh nhiều loại cúc thế à. Anh nói mang phòng nhỡ có ai tuột chỉ đút cúc thì có dùng chứ áo quần mình có mấy đâu.

Đi đâu mà có Phan Tứ đi cùng khỏi lo gì hết, kể cả chuyện vặt ít ai nghĩ tới anh cũng đã tính rất kĩ. Mình nhớ mãi chuyến đi chơi dọc sông Thu Bồn có anh đi cùng. Hôm ấy có đông người lắm, mấy chục người cả thảy văn thơ nhạc hoạ đủ hết, danh sĩ Bắc Trung Nam ngồi đầy một chiếc thuyền lớn.

Đến khúc sông cạn, nước trong vắt, mọi người cắm thuyền giữa dòng, ai thích tắm thì tắm. Nhiều người nhảy xuống tắm, tắm xong leo lên bờ, lúng túng không biết thay áo quần ở đâu. Phan Tứ chìa ra một cuộn vải với ba cái cọc móc sẵn cho mọi người làm cái quầy che tạm thay đồ. Thì ra anh đã tính trước cuộc chơi có những mục gì, tại đó cần cái gì, anh lẳng lặng lo cho anh em trước cả.

Đêm neo thuyền ven bờ ngủ lại men sông, mình ngồi trên tảng đá to phẳng lì với Bùi Minh Quốc, Thanh Quế, Cao Việt Bách, Thuận Yến, Nguyễn Trọng Oánh uống rượu tán phét rất vui. Giữa chừng hết rượu trong khi hãy còn thòm thèm. Rượu mang theo khá nhiều nhưng đoàn đông người, đi chơi hai ba ngày, anh Thâm ( Nguyễn Bá Thâm) sợ hết rượu nên quản rất chặt.

Biết xin thêm anh Thâm chả cho, anh Quốc nói các vị trên thuyền ngủ rồi đấy, thằng Lập khoẻ trẻ đẹp trai, mày xông vào ăn trộm một bình tông nhanh lên. Mình lĩnh ấn tiên phong mò vào thuyền sờ soạng tìm rượu, chẳng may đụng phải chân Ngô Thị Kim Cúc, bà Cúc tưởng ai định sàm sỡ kêu ầm lên, thế là lộ chuyện.

Anh Thâm chẳng những không cho rượu lại còn mắng cho nữa. Mình vừa ngượng vừa tức nhảy ra khỏi thuyền thì Phan Tứ gọi giật, nói Lập Lập đây đây, anh dúi vào tay mình một bình tông rượu đầy, nói rượu mình mang theo dự phòng đây. Mình cảm động quá, anh còn tính trước cho cả mấy ông sâu rượu, hiếm có ai chu đáo đến như thế.

Phan Tứ là vậy, đi đâu nhỡ đói có anh mang sẵn tiền, nhỡ khát có anh mang sẵn nước, giấy lau miệng, tăm xỉa răng, dao cạo râu… đủ cả, đến cả giấy vệ sinh nhỡ khi đau bụng anh cũng chả quên. Hôm nghe tin anh mất, hình như là một ngày mùa thu năm 1995, mình đang ở Hà Nội, lảng lặng ra quán rượu ngồi một mình nhớ anh. Chỉ nhớ mấy chuyện lặt vặt ấy thôi mà ứa nước mắt.

Bạn văn 32

Bảo Ninh hơn mình hai ba tuổi gì đây nhưng mình vẫn mày tao với nó từ thời mới gặp nhau đến giờ, mấy chục năm rồi. Mình vốn cục bộ địa phương, hồi mới gặp nhau ở Huế nó hầu như vô danh trong khi mình đang rất nổi, vô danh hữu danh chẳng quan trọng, miễn dân Quảng Bình là kéo nhau vào quán bù khú được rồi.

Sau này biết nó thuộc dòng danh gia vọng tộc, bố nó là nhà ngôn ngữ mình vô cùng kính trọng và ngưỡng mộ, ông cố nội nó là thượng thư bộ lại ba đời vua Triều Nguyễn, có tên đường ở Đồng Hới thì nể lắm, đôi khi thấy mình cũng vinh lây. Chẳng cần nó làm gì, văn veo viết lách ra sao, chỉ cần nhìn cung cách ngồi uống rượu của nó cũng biết nó thuộc giống người sang, lịch lãm có từ trong máu.

Trong giới văn nghệ mình đã ngồi uống với hầu hết anh tài trong nước, chỉ thấy có hai người uống rượu cực quí phái đó là Văn Cao và Bảo Ninh, chưa thấy người thứ ba. Có người bảo cụ Nguyễn Tuân nữa nhưng mình không thấy, cụ Nguyễn giống anh Tường ( Hoàng Phủ Ngọc Tường) thạo văn hoá chơi nhưng chơi thì không thạo. Đã uống rượu dùng trà với cả hai người rồi, mình biết. Cụ Nguyễn thiên về diễn cái sự chơi chứ chơi thì cũng thường.

Nhìn Bảo Ninh cầm chai rót rượu, nâng cái ly ngang mày, khoan thai nhấp một ngụm, mắt hơi ngước lên mơ màng như đang tận hưởng mùi thơm toả ra, vị cay thấm xuống, tự nhiên thấy rượu quí hẳn, sang hẳn. Về món văn hoá chơi này rất khó rèn tập, nó thuộc gen di truyền quí phái, cái thằng nhà quê ba đời ăn củ chuối như mình có cố làm như nó thì chỉ thấy lố không thấy hay.

Dạo này mình ít gặp Bảo Ninh, có khi vài tháng mới gặp nhau một lần, phần vì mình ngại ra khỏi nhà, phần vì nó cũng đã hạn chế đàn đúm rượu chè, nghe nói nó đang viết cuốn tiểu thuyết mới, nếu là cuốn Thảo Nguyên thì mình đã đọc mấy chục trang đầu từ năm 1996.

Cuốn ấy đến giờ vẫn chưa thấy ra, cũng không nghe nó nói năng gì, hay là viết được nửa chừng rồi bỏ cũng chẳng biết. Bảo Ninh kín tiếng, có hai thứ nó không bao giờ nói ra đó là nó đang viết gì và tiền túi nó còn bao nhiêu. Ai hỏi thì gằn gằn gừ gừ rồi đánh trống lãng.

Ngồi đâu cũng chỉ tán văn người khác, tán rất hăng nhưng chỉ văn người khác thôi, chưa bao giờ nó nhắc đến văn nó dù nửa câu. Ai nhắc đến văn nó bất luận khen hay chê nó đều gằn gằn gừ gừ, ngứa ngáy khó chịu, ý chừng muốn nhổm đít bỏ đi.

Tiền nong cũng thế, ngồi nhậu đâu nó cũng móc túi ra trả trước, nếu có người gạt đi thôi, không, nó trả hết. Tiền túi chẳng biết bao nhiêu cứ móc ra đưa chủ quán, ai hỏi ông có không, hay để tôi trả, nó cứ gằn gằn gừ gừ không nói có chẳng nói không. Nhiều lần mình nói ông lịch dự rởm kiểu đó có ngày chết đói, nó chỉ cười khì khì.

Có những cuộc nhậu trời ơi, đi dọc đường có kẻ kéo vào, tàn cuộc nó cũng móc tiền trả. Nhiều khi mình thấy nó trả nhiều sốt ruột, nói thôi đừng sĩ diện hão nữa ông ơi. Nó cười khì khì, nói mẹ, biết là hão nhưng không móc túi ra cứ thấy mình quê quê thế nào.

Ngày trước hầu như ngày nào cũng gặp nhau, không gặp chịu không nổi, cứ thấy thiêu thiếu một cái gì. Gặp nhau không bao giờ chịu ngồi nói chuyện suông, nhất định kiếm quán rượu nhâm nhi. Ngồi với nhau từ sáng đến tối, sáng mai lại í ới gọi nhau, lại ngồi với nhau từ sáng đến tối. Có một nhúm chuyện mà nói mãi không biết chán. Hôm qua nói rồi, hôm nay cũng chỉ mấy chuyện đó vẫn cứ say sưa.

Quanh đi quẩn lại cũng chỉ có mấy thằng, nó, mình, thằng Nguyên ( Phạm Xuân Nguyên), thằng Cường ( Nguyễn Việt Hà), thằng Đạo ( Trần Quang Đạo), thằng Tiến (Phạm Ngọc Tiến), anh Đỉnh ( Trung Trung Đỉnh). Sau này có thêm hai thằng là thằng Sơn ( Nguyễn Thanh Sơn) và thằng Vân ( Nguyễn Thanh Vân). Xưa có thêm mấy em mặn mà xinh đẹp còn đánh đu theo hội này, lập thành một hội gọi là Hội ốc bươu, lâu lâu kéo nhau lên Hồ tây ăn ốc chọc ghẹo nhau chán thì về. Bây giờ các nàng bận rộn chồng con, cũng có lẽ họ đã ngấy “mấy thằng cha già” người đã cũ mà chuyện trò còn cũ hơn, nay đã biến sạch, hi hi.

Những năm 1990- 2000, trong khi thiên hạ đang đọc Nỗi buồn chiến tranh, bàn tán xôn xao, nó đang là ngôi sao sáng rất nhiều người muốn gặp, nhiều nơi mời mọc, nó cứ mặc kệ, chạy rong với đám bạn suốt ngày. Có cảm tưởng nó chỉ nằm chờ đến sáng là vọt ra khỏi nhà, đi lòng vòng tối ngày mới tha xác về, đang uống thì nói thôi tôi phải về đây, về đến cổng cứ lần chần không muốn vào, ai ới cái là quay đầu xe vọt liển. Cũng chẳng cần ai ới, tự nhiên nảy ra một cái cớ nào đấy vô cùng quan trọng, không đi không được, lại vọt đi.

Chưa khi nào thấy Bảo Ninh đổ gục vì rượu, uống đến say mềm vẫn làm chủ đươc hành vi, nhớ đường về nhà, ít khi thấy nó chân nam đá chân chiêu ngất ngưỡng trước mặt mọi người. Khi say nó đi xe hay cực, cứ đến ngã tư đèn đỏ đáng lẽ dừng xe chờ thì nó vọt sang lối khác, chạy vòng vòng cả khu phố cho đến khi gặp lại đường cũ. Nếu đến đó lại gặp đèn đỏ nó lại rẽ lối khác, lại chạy vòng vòng cả khu phố, rất buồn cười. Hình như trong vô thức nó rất ghét cái qui củ nhưng không dám nói cũng không dám chống, chỉ muốn tránh đi thôi.

Nói chung Bảo Ninh là cả một khối mâu thuẫn, ở nhà cũng như giữa đám đông nó vừa muốn tách ra vừa muốn hoà hợp, vừa muốn chia sẻ vừa muốn giấu mình, vừa muốn vùng lên vừa muốn yên phận. Ngồi đâu cũng vậy, khi rượu ngấm rồi gật gù chọc người này nửa câu rồi gằn gằn gừ gừ, chọc người kia nửa câu lại gằn gằn gừ gừ.

Bảo Ninh ham chuyện nhưng không hoạt khẩu, nói gì cũng chỉ nửa câu thôi rồi để lửng bằng gằn gằn gừ gừ. Mình nói ông toàn phun ra dấu chấm lửng làm sao ai hiểu, nói cười khì khì, nói mẹ… Đến văng tục nó cũng chấm lửng nốt. Nhỡ có ai cãi lại nó chỉ cười cái xoẹt, chắp hai tay ngang trán, nói à vâng vâng, kính anh.

Hình như trong nó có một khối ấm ức, ngày một phình to ra, nó cứ loay hoay ông biết xử lý thế nào, không biết ngõ cùng ai. Những gì nó đã chứng kiến trong cuộc chiến cũng như giữa đứờng đời, với sự nhạy cảm kì lạ, đã làm cho cái khối ấm ức của nó không có cơ thoát ra được. Rượu chưa đủ đô không ngủ được, ngủ được rồi thì giấc ngủ như một cuộc chiến tranh, tay đập chân đạp miệng gầm gừ, ai không quen sợ lắm. Bạn bè nhiều khi nhận được những tin nhắn điên điên của nó, nó chửi loạn cả lên.

Có lần mình ba giờ sáng mình nhận được tin nhắn của nó, nói đ. mẹ chúng mày, tao giết hết, tao bắn hết. Sáng ra gặp nó hỏi chuyện gì mà nhắn tin như thế, tất nhiên nó chẳng nhớ, những gì nó nói hoặc làm trong khi say thì tuyệt không bao giờ nó nhớ. Mình nói ông vừa cãi nhau với ai à, nó bảo đâu có, tối qua tôi uống một mình, có ai đâu mà cãi. Thì ra nó đòi đánh nhau, chửi nhau, thậm chí bắn nhau với khối ấm ức của nó thôi.

Bạn bè chơi với nhau mấy chục năm, chưa thấy khi nào nó động đến văn của ai, hễ ngồi với nhau là chửi nhau trêu vui, hết mẹ mày thằng đểu đến mẹ mày thằng bố láo. Đến nhà thằng nào nó cũng khen vợ thằng đó rối rít, rồi xoa đầu nói cẩn thận đấy em ơi, vợ mày mê tao đó.

Chỉ khi ngồi riêng với nhau, khi không có giọt rượu nào, nó cứ ngồi mở to mắt đỏ ngầu không nói một lời. Có một nỗi buồn thăm thẳm nào đó trùm lên gương mặt nhầu nhĩ vì rượu của nó.

Hôm mình bị tai nạn, cứ hễ mở mắt là thấy nó ngồi cạnh mình, tay nắm chặt tay mình, mở to mắt nhìn mình, không nói một lời nào, cái nhìn buồn thăm thẳm. Cách đây mấy ngày cũng vậy, nó đi đâu về ghé vào nhà mình, ngồi bệt bó gối giữa sàn nhà, bảo uống rượu không uống, uống trà không uống.

Rất lâu sau nó mở to mắt nhìn mình, thở hắt ra, nói viết đi ông ạ, không viết không ra cái đéo gì đâu. Nói xong thì đứng dậy phủi đít quần, nói tôi về đây. Rôì đi, không nói thêm một lời nào. Mình biết nó đang nói với nó thôi, chẳng phải nói mình.

Bạn văn 33

Mình quen biết Thuỳ Linh năm 1987, khi nó được cái giải nhất truyện ngắn Mặt trời bé con của tôi của báo Văn Nghệ. Đợt thi truyện ngắn năm đó mình chỉ được cái giải khuyến khích. Thi cử mà thua đàn bà con gái kể cũng nhục nhưng khi thấy nó xuất hiện rực rỡ như tiên giáng trần thì bụng bảo dạ, nói mẹ khỉ, mình ở dưới gót chân nó cũng đáng, hi hi.

Năm sau dự trại viết văn Suối Hoa (Hà Bắc), đáng đứng với Đức Ban, Nguyễn Trọng Tính trên gác hai, một anh chàng đẹp trai đi cái Simson chở Thuỳ Linh phi thẳng vào. Cả bọn mắt trợn mồm há, nói má… em nào ngon quá ta. Mình nhờ cái miệng cá ngão của Đức Ban cứ há to đến nỗi cơ hồ không đóng hàm lại được. Sau biết cái anh đẹp trai đó là chồng mới cưới của nó, cả bọn thất vọng vô cùng.

Kể từ đó tự nhiên mình thích cái tên Thuỳ Linh, nhiều tác phẩm của mình nhân vật chính có tên này, từ truyện ngắn Một giờ trước lúc rạng sáng đến vở kịch Mùa hạ cay đắng, đến cuốn tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng đều có cặp nhân vật Hoàng và Thuỳ Linh, ngay cả cuốn Tình cát mình đang viết vẫn có cặp nhân vật này, tạo thành một cặp nhân vật xuyên suốt trục sáng tác hai mươi năm của mình.

Cô em vợ của mình sinh hai đứa con, một trai một gái, đã đặt tên con là Hoàng và Thuỳ Linh. Nhiều người nghi là mình và Thuỳ Linh yêu nhau, kì thực không phải, mình với nó khi nào cũng coi nhau như bạn bè như anh em. Gặp nhau cái là quí nhau, thân nhau liền, và cũng chỉ dừng lại đó thôi, chưa bao giờ mình tán tỉnh nó, nó cũng chưa khi nào thèm để ý đến mình.

Mình nghiệm ra đối với đàn bà con gái yêu được họ chả khó nhưng giữ được họ thật khó vô cùng, ngược lại để làm bạn bè chí thiết với họ khác nào đơm đó ngọn tre, nhưng nếu được thì tình bạn thật bền vững, còn hay hơn cả bạn trai.

Mình đã có cô bạn gái như thế, cho đến bây giờ vẫn mày mày tao tao, chuyện gì cũng nói với nhau kể cả những kín đáo khác giới. Rất ít khi gặp nhau, có khi cả năm mới gặp một lần, cũng chẳng điện thoại tin nhắn. Nhưng hễ đụng chuyện là có mặt đầu tiên, lo lắng quán xuyến còn hơn cả người nhà, xong rồi bỏ đi, không thèm chờ đợi một lời cảm ơn.

Năm 1983 mình đi Lạng Sơn cùng với cô bạn, hồi đó đói khổ chỉ đủ tiền thuê một phòng khách sạn một giường, nó cũng mặc kệ, thản nhiên leo lên ngủ chung giường với mình, nói nằm yên nhá, tí tởn là tao cho bay ra khỏi giường đấy. Đầu hôm còn nghiêm chỉnh lắm, hai đứa hai góc nói chuyện say sưa, toàn nói chuyện tầm bậy cười rích rích với nhau, rất vui. Đến nửa đêm mình sấn đến, nó trợn mắt gằn giọng, nói nằm yên, tao đạp cái chết giờ. Mình cụt hứng tẽn tò nằm yên cho đến sáng, hi hi.

Thuỳ Linh cũng vậy, mình với nó có khi cả nửa năm không được một tin nhắn, nó ghét cay ghét đắng việc đu đưa chát chít trên mạng, thăm hỏi xã giao. Nó giúp ai cứ lẳng lặng làm, làm xong rồi nói, nói xong thì bỏ đi, chẳng cần nghe ơn huệ, chưa bao giờ nghe nó kể nó đã giúp ai, giúp thế nào. Tiện đây nói luôn, nhiều đạo diễn, biên kịch thành danh nhiều năm đều có công của nó. Hãng phim truyền Việt Nam trở thành hãng phim anh cả đỏ, có cả rổ giải vàng bạc, cũng nhờ công sức của nó đổ vào đấy không ít.

Năm 1996 mình đem cả nhà ra Hà Nội, mua nhà sửa nhà nợ nần tùm lum. Mình chưa có việc làm, sợ vợ con lo lắng sáng nào cũng giả đò xách xe đi làm, sống lay lắt bằng ba bài báo vặt. Rất nhiều người thấy thế thì thương lắm, nói những lời thương cảm. Nó đến chơi nhà mình hai ba lần, đến rồi đi chẳng nói năng gì.

Một ngày đẹp giời nó gọi đi làm phim ti vi cho một dự án của tây, sau ba tháng mình kiếm được một mớ tiền, nợ nần xong xuôi lại còn mua được cho vợ cái xe máy. Kì thực nó đã giúp mình trút được một gánh nặng tưởng chừng không cất lên nổi. Nhưng hễ mình mở mồm kể công nó là lập tức nó lườm, nói anh như thằng dở hơi, kể kể cái gì. Mua chút quà tặng nó thì nó trừng mắt lên, nói anh làm cái trò gì thế.

Thuỳ Linh tính nữ nhưng khí đàn ông, thông minh cực đoan đàn ông cũng phải sợ. Đàn bà thông minh cực đoan lại xinh đẹp nữa hiếm ai giữ được chữ phúc. Hình như cái chữ phúc trong nó cũng khác người thường, nó chẳng mê đẹp trai, chẳng mê tài năng, chẳng ham giàu có. Người hiền lành chưa chắc nó đã thích, bọn đầu gấu chưa chắc nó đã sợ.

Nhìn nó sống và yêu thấy na ná Lê Vân, ghét thì ba vạn cũng bỏ, thích thì dao kề cổ cũng theo, có thằng đeo đẳng năm bảy năm không ăn thua, có anh từ quen đến yêu không đầy một tiếng đồng hồ, thật dễ sợ. Đám đàn ông ba lăng nhăng như mình chỉ nể sợ chẳng dám yêu, được nó quí mến là mừng rồi, chẳng dám dở bài tán tỉnh.

Chưa mở mồm nó đã biết mình định nói gì, nguýt một phát đấm một cái, nói thôi đi ông anh ơi, bài đó cũ lắm rồi. Trò chuyện văng tục thoải máí nó cũng thây kệ, gác cả hai chân lên bàn nó cũng không thèm chấp, nhưng hễ ngả ngớn cái là nó sầm mặt trợn mắt, nói tránh ra, đạp một cái chết giờ.

Nó lấy chồng chẳng ai biết, chẳng cưới hỏi gì, ông chồng trẻ đòi cưới xin mấy lần, lần nào nó cũng lắc đầu thở ra, nói cưới xin làm gì, để đến khi nào ông chán tôi, muốn bỏ đi cũng tiện, khỏi phải vào toà ra toà, mất thời giờ.

Ai không biết tưởng nó khó gần, thiếu sự mềm mại nữ tính, mình thoạt đầu cũng vậy, hoá ra sai bét hết. Một lần mình hỏi ông người yêu cũ cuả nó, nói bác thì thiếu gì gái đẹp mà chết mê chết mệt Thuỳ Linh. Ông này nói đấy là cô gái đặc biệt nhất mà tôi đã từng gặp, vô cùng nhạy cảm và tinh tế, cô biết khi nào mình cần thì sà đến khi nào mình muốn một mình thì lánh xa, chỉ đơn giản vậy thôi nhưng đa số đàn bà chẳng ai làm được, thậm chí có người mù tịt chẳng biết gì.

Chiều qua đi ăn cưới con trai một ông bồ cũ của Thuỳ Linh, mình ngồi gần nó, nói em lên làm sếp được một năm mà trẻ ra bao nhiêu. Nó trề môi bịp một phát, nói chán doanh nghiệp nhà nước lắm rồi, đang tính nghỉ không lương chờ hưu như anh đây. Nói xong rồi cười toe.

Dạo này nó vẫn nói cười toe toét, tuồng như đời nó toàn phơi phới chẳng có vấn đề gì xảy ra, kì thực trong nó có một nỗi buồn thăm thẳm, nỗi buồn mọi thời đại của các bà mẹ, nó đã không thể có con. Ba lần có thai đều không giữ được, bây giờ muốn có cũng chả được. Đứa con nuôi đã đi lấy chồng mất rồi. Ai gặp nó cũng tránh nói chuyện này, nó cũng tránh đàn đúm gặp gỡ đám đông, sợ nhỡ có ai hỏi chuyện con cái.

Mình nhớ khi nghe nó sẩy đứa thứ 3, cả lũ bạn hoảng lên vội vàng chạy đến bệnh viện. Khi đến gần phòng nó nằm thì lại ngại vào, sợ thấy nó khóc mà mình không biết nói năng sao để động viên. Nhưng nó không khóc, nó ngồi dựa tường mở to mắt mệt mỏi nhìn trời, tuyệt không nhìn ai, nói em chẳng hiểu em sống thế nào mà trời chẳng thương em. Nó nấc lên một tiếng khô khốc, đôi mắt đỏ ngầu ráo hoảnh.

Nhớ Trần Khắc Tám

Mình quen Trần Khắc Tám từ năm 1982 khi mình vừa chuyển quân từ Quảng Ninh về Đà Nẵng. Một buổi sáng mình đến Hội văn nghệ chơi, thấy một anh chàng ốm nhom đi đứng nhẹ tênh như là không dính đất nhưng mặt mũi sáng trưng, đẹp trai nữa, đôi mắt tươi sáng lạ thường. Mình hỏi nhỏ Thanh Quế ai đó, anh Quế kéo mình đến chỗ nó, nói Tám Tám, Nguyễn Quang Lập đây này.

Nó bắt tay mình, cái nhìn vô cùng ấm áp thân thiện, nói Lập vừa ở Quảng Ninh vào à. Té ra nó đọc rất nhiều, mình mới in có hơn chục bài thơ mà nó đọc hết, nói vanh vách bài này bài bài nọ, còn biết mình là bộ đội tên lửa, vừa được giải thơ Trung ương Đoàn, học Bách Khoa, người Quảng Bình. Mình sướng rêm, không ngờ thế mà mình cũng nổi tiếng, ít nhất cũng có một người thích thơ mình, đó là Trần Khắc Tám, hi hi.

Hồi đó Hội Văn Nghệ Quảng Nam- Đà Năng rất mạnh, lực lượng hùng hậu, qui tụ nhiều văn tài khét tiếng, tụi mình chỉ là đám văn trẻ loăng quăng, mấy thằng hay chơi với nhau là mình, Trương Điện Thắng, Thuận Hữu, Nguyễn Tấn Sĩ, Trần Khắc Tám…suốt ngày đàn đúm, đói rách thế mà hễ gặp nhau là kéo nhau vào quán bù khú, tranh nhau đọc thơ văng cả bọt mép, say sưa ngất ngưỡng con cà cưỡng, thằng nào thằng nấy hung hăng lắm, như sắp giật giải Nobel đến nơi, hi hi.

Tám lăng lẳng theo hội này, không hăng máu vịt như tụi mình, chỉ lẳng lặng ngồi nghe, ừ ừ à à, thỉnh thoảng nói một câu tiếng nào tiếng nấy rời như cơm nguội, nếu không nhìn vào mắt nó, chỉ nghe nó nói thật chán ngắt. Tuồng như nó sống để nhìn và ứng xử chứ không phải để nói. Mắt nó biết nói, chỉ nhìn vào mắt nó thì biết nó yêu ghét thế nào, vui buồn ra sao.

Ngồi đâu cũng vậy, ai bảo đọc thơ thì bẽn lẽn ngượng ngùng như gái bị gợi tình, nói thơ tui có chi mà. Ép mãi rồi cũng đọc một bài, được khen mắt lóng la lóng lánh hệt gái nhận được nụ hôn đầu, nói hay thiệt không hay thiệt không. Rồi ngồi im nghe người khác nói mắt ngước nhìn háo hức, ai nói chuyện với nó, chỉ cần nhìn mắt nó thôi cứ muốn nói mãi.

Bạn bè ai có thành công gì nó hân hoan mừng rỡ giống người nhà có được thành công, ngồi đâu cũng chép miệng nói ông đó giỏi hè, bà kia giỏi hè vô cùng chân thành, ánh mắt sáng trưng đầy ngưỡng mộ không một gram ghen tị, y chang fan hâm mộ nói chứ không phải đồng nghiệp nói về đồng nghiệp.

Lâu lâu gặp mình ít khi thấy nó vồ vập, vô vô ra ra lờ vờ, nói đợi tui chút nghe, ai không biết tưởng nó lạnh lẽo, chỉ cần nhìn vào mắt nó là biết nó mừng rỡ thật lòng thế nào. Ối người vừa gặp tay bắt mặt mừng, có khi ôm choàng thắm thiết, kì thực ánh mắt lạnh tanh, kéo vào quán uống đôi ba chén nói dăm ba câu rồi kiếm cớ chuồn thẳng. Đau nhất là trước khi chuồn còn ôm choàng thắm thiết, nói gặp lại cậu mừng lắm mừng lắm, bữa nay mình kẹt quá, nhất định anh em mình phải có một bữa nhậu ra trò, sau đó thì mất hút con mẹ hàng lươn, hi hi.

Sau 1984 mình ra quân về Huế làm việc, nhận luôn việc xuất bản. May Trần Khắc Tám làm ở công ty phát hành sách, có bản thảo nào mình liền hỏi nó mày mua bao nhiêu, nó bảo mua bao nhiêu mình in bấy nhiêu, in xong vác sách vào nộp nó, lấy cái sec ra, khoẻ re. Cũng có khi phải ăn chực nằm chờ cả tuần mới lấy được tiền, những lần như vậy mình đều ở nhà nó.

Mỗi lần vào cơ quan tìm nó, chưa bao giờ thấy nó tay bắt mặt mừng, ôm choàng thắm thiết, gặp cái là nó lẹ làng giải quyết hết việc cơ quan rồi dắt xe ra, nói đi hè, coi như đương nhiên mình phải về nhà nó, không cần phải bàn.

Chẳng riêng gì mình, anh em văn nghệ từ Bắc vào từ Nam ra đều về ở nhà nó, có người ở đến hai ba tháng nó vẫn vui vẻ như không. Vợ nó hiền lành nhu mì, phàm là bạn chồng lập tức vợ nó coi như người nhà, đối đãi vô cùng tử tế. Nói thật mình chưa thấy vợ ai hiếu khách được như vợ Trần Khắc Tám. Ở nhà nó thoải mái như ở nhà mình, lúc nào cũng thấy gương mặt sáng trưng của hai vợ chồng nó, như là việc mình đến là đem đến niềm vui cho chúng nó vậy.

Thời này đói kém, nhà cửa chật chội, bữa cơm không phải chuyện đùa, ăn nhà ai một bữa, bữa thứ hai đã phải tính xem có nên không. Mình nhớ có lần cùng đường, tiền hết gạo hết, suýt chết đói ở Ngã Tư Sở vẫn chẳng dám đến nhà ai. Bạn bè đã ăn cơm hết lượt, nhà ông anh ruột cách đó chừng mấy trăm mét thì đã ăn mòn bát rồi. Nếu không gặp anh Xuân Diệu có khi chết đói thật, may.

Chuyện này mình đã kể, nhắc lại để mọi người hiểu cho cái thời này cay cực như thế nào, có được một nhà như nhà Trần Khắc Tám thật hiếm lắm thay. Nhiều người đã ăn ở lại còn phá quấy, rượu say lên còn chửi bới đập phá lung tung, vợ chồng nó vẫn niềm nở không một lời ta thán, quá phục.

Gần gũi nó mấy chục năm chưa khi nào thấy béo lên được chút nào, nó bị hen lại đại tràng kinh niên, uống thuốc còn nhiều hơn cơm cháo. Nhiều đêm khuya khoắt thấy vợ nó loay hoay với cơn hen bất chợt của nó cho đến ba bốn giờ sáng mới yên, vừa thương vừa áy náy quá. Đôi lần muốn bỏ đi, vợ chồng nó đều vội vàng can ngăn, nói không không, è he có chi mô mà.Ông đi vợ chồng tui còn buồn hơn. Những lúc như vậy đôi mắt nó anh lên tươi sáng lạ thường.

Mình bị tai nạn nằm liệt giường hai năm, thỉnh thoảng nó gọi điện ra hỏi ông khoẻ không, chỉ hỏi thế thôi rồi không biết nói gì thêm nữa, hình như nó nghĩ nói gì lúc này cũng sáo. Ra Hà Nội lần nào nó cũng đến thăm mình, ngồi nắm tay mình mắt rưng rưng không nói gì. Đến năm mình gượng dậy được, đi lại vững vàng nó mừng lắm, cả vợ lẫn chồng bay ra thăm. Nó cười cười nói nói vui hơn tết, nói hay rồi hay rồi, ri là có cơ hội vô Đà Nẵng chơi với tui được rồi.

Nó nói tui ráng làm cái nhà rộng rãi để đón rước bạn bè thì bạn bè cũng khá lên cả, chẳng ai vô ở nhà mình nữa, toàn ở khách sạn không thôi. Hè ni tui đón cả nhà ông vô ở nhà tui một tháng. Khai trương cái nhà không có bạn bè vô ở buồn lắm, tủi nữa. Nó cười, nụ cười rưng rưng.

Chẳng ngờ một tháng sau thì nó chết, cái chết vô lý hết sức. Nó đi tập thể dục về đi qua đường, một bà đi xe máy chở hai cái sọt củ cải đi qua, cọng sắt cái sọt ngoắc vào áo nó, lôi nó đi hơn chục mét, đưa vào bệnh viện một ngày thì nó đi.

Nó đi vào đúng tuổi 49, khi hai thằng con đã khôn lớn giỏi giang, khi nhà cửa đàng hoàng, công việc vợ con không còn phải lo nghĩ, bạn bè cũng đã khá lên nó khỏi phải lo đón rước, chi nhánh Nhà xuất bản Kim Đồng nó đã tổ chức thành công đang kì phát triển, tuồng như mọi việc trời giao nó đã hoàn thành, thì nó đi, thế thôi.

ĐI CHỢ CHIỀU NHỚ MẸ

Thơ của Trần Khắc Tám

chiều nay

con đi chợ một mình

gió thổi dọc bờ sông

dòng sông như mẹ

suốt bốn mùa phút giây nào cũng chảy

dòng sông thì còn đó

nhưng chiều nay con ra chơ một mình

buổi chợ đông lối nào cũng chật

rau tươi từ đâu về

xanh một góc chợ chiều đến thế

hàng cá sông bên hàng cá bể

tiếng đàng ngoài lẫn với tiếng đàng trong

hàng trầu cau thấp thoáng áo nâu

những mẹ già ngồi nhai trầu móm mém

muốn nán lại nơi hàng trầu một chút

chỗ mẹ ngồi đấy còn ấm dưới bàn chân

buổi chợ đông

con vẫn thấy có gì như vắng vẻ

lại như buồn đôi mắt thấy cay cay

một mình con đi chợ chiều nay

ngày xưa ấy mẹ con mình dạo bước

mẹ thì già bao giờ cũng đi trước

con theo sau

mảng ráng chiều cháy đỏ trên đầu

bây giờ khi con lớn lên

cỏ đã xanh trên nấm mồ của mẹ

những giấc mơ nhỏ nhoi thời thơ bé

khi con làm ra đồng tiền đầu tiên

con sẽ mua cho mẹ hộp cao sao vàng mẹ thích

cùng với mẹ những giấc mơ ấy bây giờ mẹ yên nghỉ

lặng lẽ những bông hoa dại trên mồ

trong vườn những trái đào chín rụng

thiếu mẹ nhiều khi con lúng túng

nhìn về đâu cũng thấy thiếu một người

chiều nay con đi chợ mẹ ơi

lối nào cũng chật

tiếng ồn ã đầy hai cửa chợ

đi chợ một mình con lại nhớ

những buổi chiều bóng mẹ lẫn bóng con

Bạn Văn 34

Nguyễn Khắc Phê là nhà văn đầu tiên mình gặp trong đời. Thủa bé thì thấy các nhà thơ Hải Bằng, Nguyễn Văn Dinh, Xuân Hoàng khi các ông về Ba Đồn đọc thơ, chỉ dám đứng xa xa ngắm nghía, không dám tới gần. Anh Phê đã gặp mình một ngày mùa đông năm 1975, nói chuyện với mình, lại ôm vai hót cổ nữa, chỉ chừng mươi phút thôi rồi đi thế mà mình sướng râm ran cả tuần.

Hồi mình còn là sinh viên, trong lớp có thằng Minh con nhà thơ Viễn Phương, chỉ cần con nhà thơ là mình đã nể trọng lắm rồi, đi đâu cũng khoe tao học với con nhà thơ Viễn Phương. Cái thằng nhà quê như mình được học với con nhà thơ nổi tiếng miền Nam, được đá bóng với con đại tướng, được chơi thân con gái ngài bộ trưởng, óach cực, về quê khoe với tụi bạn suốt ngày.

Chiều chủ nhật mình đi chơi về, thằng Hoan thằng Tuất kéo tay mình mặt mày nghiêm trọng, nói có nhà văn Nguyễn Khắc Phê tới tìm anh hai ba lần, mình đứng ngây người vừa sung sướng vừa tự hào. Bảo đảm cả lớp chẳng có thằng nào được nhà văn đến tìm như mình trừ thằng Minh, bố nó tìm nó là đương nhiên, tự nhiên thấy giá mình lên cao hẳn, hi hi.

Đến chiều tối anh Phê đến, anh mặc cái áo đại cán đã sờn, đội cái mũ lá, đi đôi dép cao su y chang mấy ông cán bộ xã, bụng tấm tắc khen sao nhà văn giản dị thế. Té ra anh ăn mang “giản dị” như thế cho đến già, bất kể lúc nào, ở quê hay ra phố, trên đường hay vào hội nghị, thời bao cấp hay thời đổi mới… bất di bất dịch. Về sau thì biết đó là mốt của các ông đồ xứ Nghệ, ai cũng như ai, cứ áo đại cán, mũ lá, dép cao su vào vào ra ra lóm thóm suốt cả cuộc đời.

Anh vỗ vai mình, miệng thít thít mắt cười rất tươi, nói Lập trẻ hè trẻ hè, rồi giao cho mình cái cặp phần thưởng giải ba thơ Hội văn nghệ Quảng Bình và 22 đồng, nói đây là tiền nhuận bút, tiền giải của ông được 80 đồng, ông X. nhận rồi, ông X. nói quen thân ông, ai cũng tin.

Khi đó mình 20 tuổi, lần đầu tiên trong đời nhận được những đồng tiền do chính mình làm ra, được nhà văn nổi tiếng tìm hai ba lần mới gặp, ôm vai hót cổ gọi bằng ông, được nhà thơ nổi tiếng khoe quen thân với mình, dù khoe là để cuỗm tiền giải của mình thì mình cũng sướng củ tỉ. Tụi bạn học trong lớp nhìn mình ngưỡng mộ lắm.

Thú thật khi đó mình chưa đọc gì của anh Phê, chỉ cái bút kí viết về trại gà Đồng Hới mình đọc hồi lớp 10, rất thích, cái ông lù đù vậy mà viết dí dỏm ra phết. Sau mới biết anh là nhà văn sống chết với đường Trường Sơn, anh đã viết 5 cuốn sách cả thảy, cuốn nào cũng ghi đựơc dấu ấn một thời. Văn học Trường Sơn thời Chống Mỹ thơ có Phạm Tiến Duật, văn có Nguyễn Khắc Phê, cả hai hình như đã vắt kiệt tài năng và sức lực cho Trường Sơn và thu được những thành công không nhỏ, nếu không muốn nói là to lớn.

Mình không ngờ anh Phê là bạn thân của ông bố vợ mình, cả hai đã từng ăn cùng mâm ngủ cùng hầm, sống chết có nhau trên những cung đường chết, toạ độ lửa. Ông bố vợ nhà mình hình như chẳng biết nhà văn Việt Nam nào trừ Nguyễn Khắc Phê, hễ ông nói chuyện văn là y như ông nhắc đến những cuốn sách của Nguyễn Khắc Phê, những cuốn sách ông đã thuộc nằm lòng thời máu lửa. Cứ mở mồm là Nguyễn Khắc Phê nói thế này, Nguyễn Khắc Phê viết thế kia.

Qua ông bố vợ mình mới biết cái ông đội mũ lá, mặc áo đại cán, đeo dép cao su kia té ra thuộc dòng danh gia vọng tộc, con trai đại thân triều Nguyễn, hai lần Phủ Doãn Thừa Thiên, hàm Thượng thư cải cách hương ước khét tiếng một thời. Bốn anh em Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi, Nguyễn Khắc Phê đều có trí lự phi thường, hết thảy đều nổi tiếng trong trường văn.

Đọc Ngô Minh mới biết cái câu 16 chữ: Tôn tộc đại quy / Tôn lộc đại nguy / Tôn tài đại thịnh / Tôn nịnh đại suy (Tôn trọng nòi giống ắt đại hòa hợp / Tôn trọng bổng lộc ắt đại nguy nan / Tôn trọng tài năng, ắt đại phồn thịnh / Tôn trọng siểm nịnh, ắt đại suy vong) nổi tiếng hơn trăm năm nay là của Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm,cha đẻ của Nguyễn Khắc Phê. Kinh. Anh Tường (Hoàng Phủ Ngọc Tường) nói nên đúc vàng 16 chữ kia treo trước cửa Quốc hội để răn dạy muôn dân. Anh Phê cười hì hì, nói chết chết ai lại treo chữ của ông đại địa chủ, vì cha tôi là đại địa chủ nên tôi mới không lấy được cô Dạ nhà anh đấy.

Chuyện Nguyễn Khắc Phê đòi cưới Lâm Mỹ Dạ dân văn nghệ Bình Trị Thiên ai cũng biết. Ngày đó chị Dạ 19 tuổi đẹp mê tơi, mấy ông Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khắc Phê tất nhiên là mê tít. Anh Phê thậm chí còn đòi cưới cho đựơc chị Dạ, kẹt vì mẹ chị Dạ không cho, nói con Dạ cũng con địa chủ, anh cũng con địa chủ ai cho lấy, mà lấy rồi sống mần răng nổi.

Mình có hỏi chị Dạ chuyện đó có không, chị Dạ cười cười, nói thì cũng rứa đo, không nói có chẳng nói không. Mình rỉ tai hỏi anh Phê, nói anh tán đổ chị Dạ à, anh cười miệng thít thít, nói ông chê tôi xấu trai không tán đổ chị của ông à. Anh Phê có điệu cười thít thít rất vui, quen anh mấy chục năm rồi, chưa khi nào thấy anh nổi cáu, lúc nào cũng thấy anh cười tít mắt, cái miệng thít thít, bất kể gặp chuyện gì cũng mắt cười miệng thít vậy thôi.

Dạo này về hưu rồi mới thấy anh thong dong, để ý đến chơi bời, mình về Huế lần nào cũng vậy, hú cái là anh vọt tới liền, chứ ngày xưa đừng có hòng, rời cơ quan, hết họp hành hội nghị hội báo là anh lên xe đạp cắm cổ chạy về nhà ngay. Chưa khi nào thấy anh tụ bạ đàn đúm với anh em, tuồng như anh thấy việc ngồi quán xá là vô lý hết sức, anh chẳng rủ ai vào quán cũng chẳng để ai rủ mình, chèo kéo mãi thì anh ghé đít ngồi vào một chút rồi biến liền.

Đi đâu có khát nước cháy cổ anh cũng cố chạy về nhà uống nước chứ chẳng chịu mất cho quán nước một xu, còn bảo vào quán uống chén trà thì anh cười lắc đầu, nói trà ở nhà mình cũng có, vô đó mần chi. Thằng Dương Thành Vũ nói ông Phê kẹt gớm, đến nhân vật ông cũng chẳng cho ăn một bữa ngon. Mọi người cười ầm, thằng nào lừa được ông Phê chi cho một bữa ngon trời sập cái đoàng.

Trêu anh cho vui vậy thôi, anh không thuộc dòng dõi họ nhà kiết, chính xác anh chỉ kiết cho chính anh thôi, bạn bè ai hỏi mượn tiền anh đưa liền, chẳng khi nào hỏi mượn làm gì, khi nào trả. Cũng giống như mấy ông đồ Nghệ khác, anh nghiện chữ, sách đắt mấy cũng mua, mua cả tấn sách miệt mài đọc quanh năm, hết đọc thì viết, viết hết cuốn này sang cuốn khác. Phàm đã nghiện chơi chữ thì thì thấy chơi mấy thứ khác đều tầm phào, thậm chí vô nghĩa, anh kiên quyết không chịu tốn tiền cho mấy trò mà anh cho là vô nghĩa, vậy thôi.

Giống Văn Công Hùng, anh quanh năm làm phó, hết làm phó cho anh Xuân Hoàng đến làm phó cho Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ. Lắm người làm phó chỉ vài năm đã thấy ngứa ngáy khó chịu, anh làm phó bền bỉ ba chục năm vẫn tươi tỉnh như không, ai hỏi thì miệng cười miệng thít, nói mình con đại địa chủ được thế này phúc đức lắm rồi.

Người ta tranh nhau đi nước ngoài dập dập dìu dìu anh vẫn an nhiên không chút sốt ruột, mình nói tại mấy cuốn sách của anh nó yểm ảnh đấy. Anh bảo sao, mình nói Phùng Quán có tập thơ Từ thơ đến huyệt, in xong cái chết liền, Hữu Thỉnh có tập thơ Từ chiến hào đến thành phố, in xong nhảy một phát về Thủ đô, lên ngựa xuống xe hai chục năm đã đời, anh cứ hết Đường qua làng Hạ, Đường giáp mặt trận, vì sự sống con đường thì chỉ có suốt đời quẩn chân chị Rạng vợ anh, đừng có mơ tây tàu mà mệt.

Anh cười hì hì, nói ông nói phải phải. Mấy năm sau anh ra cuốn sách mới có tên là Những cánh cửa đã mở, in xong cái là được đi tây hai ba chuyến, được lên làm trưởng liền. Mình gọi điện cho anh, nói em nói đúng chưa. Anh cười hì hì, miệng thít thít, nói nhưng sắp hưu rồi, lại về làm phó cho mụ Rạng thôi he he.

Bạn văn 35

Tối qua nhậu ở nhà Nguyễn Nhật Ánh về không say nhưng hơi mệt, định bụng ngủ một tiếng rồi dậy làm việc, chẳng dè đánh một giấc thẳng cánh đến 3 giờ sáng, chiêm bao không thấy ai lại thấy Trọng Đài. Khi đó hình như mình mở mắt thấy có người ngồi cuối giường, lúc đầu thấy cái đầu trọc, sau thấy ba chòm râu ngọ ngoạy, cái mũi nhúc nhích khịt khịt, lúc này mới nhận ra Trọng Đài.

Nghĩ cũng hay hay, bạn bè ở Hà Nội cả tấn, đến khi xa Hà Nội đứa mình đánh đu với nó suốt ngày thì không thấy, Trọng Đài cả năm qua không hề gặp mặt thì lại thấy. Nó ngồi bó gối nhìn mình cười khì khì, nói vào đây làm cái gì, ba chỏm râu của nó ngọ ngoạy ngọ ngoạy, thiếp đi một lúc mở mắt lại thấy ba chòm râu của nó ngọ ngoạy, rất lạ.

Mình quen Trọng Đài từ năm 1992, khi nó làm nhạc cho vở Những linh hồn sống của mình. Gần trưa mình đến Nhà hát kịch Hà Nội thấy nó đang lúi húi ghép nhạc, nhiều người chạy ra bắt tay bắt chân mình, nó cứ mặc kệ, xong việc thì tới vỗ vai mình rất thân thiện như là quen nhau từ lâu lắm, nói đi làm mấy be.

Trọng Đài ngồi uống thường nghe nhiều hơn nói, bảo nhạc nó hay chỗ này chỗ kia nó gật gật ừ ừ, không hề tỏ ra mừng rỡ, hí hửng. Chê nhạc nó dở chỗ này chỗ kia nó cũng gật gật ừ ừ, cũng chẳng tỏ ra buồn chán, tự ái. Nó thuộc típ người tri túc, biết chắc việc nó làm, cái nó biết, khả năng nó tới đâu, rõ là dân Hà Nội.

Dân Hà Nội, đặc biệt dân Hàng Đào, cái gì không biết thì thôi, phàm đã biết đều biết rất thấu đáo chu toàn. Ngồi đâu cũng vậy họ ít nói cái họ biết, ai hỏi thì nói, cũng chỉ nói vừa đủ cái người ta cần nghe, cần biết, ít khi nghe họ nói thừa, thứ ngôn ngữ khoe mẽ hầu như xa lạ đối với họ.

Món văn hoá giao tiếp giả cầy, lịch sự đãi bôi, sến và cải lương là của mấy anh dân quê tạo ra chứ dân Hà Nội gốc tuyệt không có món đó. Người Hà Nội lịch lãm thấm nhuần từ trong máu, lịch lãm truyền kiếp, họ chẳng cần diễn món lịch lãm như mấy anh khách ở quê ra đâu. Mình cũng là dân quê một cục, hễ thấy ai diễn món lịch lãm đã cực kì ngứa mắt, đừng nói dân Hà Thành.

Trọng Đài cũng vậy, là trai Bát Đàn Hà Nội nó nhanh chóng bỏ qua mấy thủ tục giao tiếp mà văn hoá giao tiếp giả cầy qui ước để đến thẳng với người mình muốn chơi, không màu mè, khách khí. Tuồng như từ trong máu nó đã biết ai là người để chơi, ai là kẻ cần tránh.

Với bạn nó chơi say mê, không e dè kiêng kỵ giữ ý tứ. Nó chơi như kẻ không biết tiếc thời gian, lắm khi thấy nó đàn đúm, la cà hết chỗ nọ sang chỗ kia như thằng không có việc làm, ít ai biết để có thời gian dành cho bạn nó đã chối khéo hết các cuộc giao tiếp khác. Chỉ cần mất năm bảy phút cho các cuộc gặp gỡ vô nghĩa vô duyên vô tích sự nó cũng tiếc quay quắt. Nó sẵn sàng lái xe phi về Thanh Hoá hú hí với bạn suốt đêm, trong khi ai đó ngồi quán cách nhà nó vài trăm mét gọi nó lần nào nó chối khéo lần đó.

Mình làm việc với Trọng Đài ba bốn vở kịch, hầu như vở nào của mình do Nhà hát kịch Hà Nội dựng là nó làm nhạc. Trọng Đài làm nhạc kịch cũng như phim, hay dở chưa bàn nhưng chưa ai lo nó lỡ hẹn. Bảo nó làm việc nọ việc kia, nó ừ một tiếng nhẹ không, chỉ cần nói một câu là xong, không cần nói câu thứ hai, không cần nhiều lời bàn đi tính lại, cũng chả cần vờ vịt kêu ca khó dễ để moi thêm tiền bạc. Đúng hẹn là nó xong việc, không sớm không trễ, giao việc cũng nhẹ không, chưa bao giờ nghe nó nói ôi ông ơi tôi phải cố thế này phải gắng thế kia.

Còn như giúp ai đó một việc gì, xong việc là xong chuyện, tuyệt không bao giờ ngồi lê lết khoe khoang, kể công như một số người. Mấy người này vui lắm, chưa giúp đã khoe, giúp rồi thì khoe suốt đời, thậm chí chẳng giúp gì cũng vơ vào để lấy ơn, vô duyên vô lối hết nỗi, cái tính ấy nó ghét cay ghét đắng, mình cũng thế.

Bạn bè mời đến nhà chơi, nó đã nhận lời thì đến sớm, khi đi một mình khi đèo thêm Mai Hoa vợ nó, nhậu nhẹt tán gẩu thong dong, chưa bao giờ nhìn đồng hồ. Hết nhậu nhẹt đến chơi ta lả, chơi cho đến khi không còn gì để chơi nữa mới chịu về. Chơi đến đáy làm đến đỉnh là cung cách của dân Hà Nội chính hiệu.

Mấy ông nhậu nhẹt chạy sô, ngồi vào mâm nhậu mặt mày cứ nhớn nhác sợ trễ hẹn cuộc sau, nửa chừng cuộc nhậu thì viện lý do bỏ cuộc, nhậu cũng như họp cứ loay hoay loay hoay đến khổ. Mấy ông này nói đến việc gì thì xong ngay, ba mươi giây, chuyện nhỏ ấy mà… tóm lại chẳng làm gì cả. Cung cách chơi và làm đó đích thị là của mấy ông Hà Nội giả cầy.

Dài dòng loanh quanh vậy để nói có không ít người hiểu nhầm tính cách người Hà Thành. Mình cũng vậy, thời trẻ mình chán dân Hà Nội đến nỗi ra trường được phân làm việc ngay Hà Nội cứ khóc đứng khóc ngồi đòi về quê làm việc cho bằng được. Khi lớn khôn, giao du nhiều, được tiếp xúc với người Hà Nội gốc thấy mê đi, mê lắm nhưng mà học không được, theo không nổi. Vả, đó là tính cách truyền kiếp, chẳng học mà thành, nhiều kẻ văn hoá chưa đủ lưng bát cứ cố đeo lấy mà học, thành ra nửa ông nửa thằng nửa dơi nửa chuột, rất tức cười.

Ngay việc ứng xử với đồng tiền dân Hà Nội gốc cũng khác hẳn với dân khác, họ không trọng cũng chẳng khinh tiền. Trọng vọng đồng tiền tất nhiên chẳng ra gì rồi nhưng cố gồng lên để khinh rẻ đồng tiền chẳng qua cũng chỉ là phía khác của sự trọng tiền, xuất phát từ mặc cảm đói nghèo.

Trọng Đài ngồi nhậu đâu cũng vậy, chẳng khi nào trốn tránh việc trả tiền, cũng chẳng khi nào cố giành lấy trả. Không ai trả thì nó trả, nhẹ nhàng như không, có người trả rồi thì thôi, cũng nhẹ nhàng như không. Đối với đồng tiền nó chẳng cú đỉn rị mọ cũng không hoắng huýt tinh tướng.

Giỗ đầu Trần Khắc Tám, Nhà xuất bản Kim Đồng tổ chức một đêm thơ nhạc Nhớ Trần Khắc Tám, giao cho mình phụ trách. Mình đưa bài thơ Tim tím của Tám cho nó, nói ông phổ nhạc giùm tôi, giúp nhau nhé, tôi không có tiền trả ông đâu. Nó gật gật, nói bạn ông là bạn tôi. Nó nhét bài thơ vào túi, coi như xong không phải nói gì thêm, tháng sau đưa cho mình cái đĩa bài hát nó phổ cẩn thận, phối cũng rất hay, Mai Hoa hát cũng rất có hồn, rồi kéo mình đi nhậu, chẳng nói thêm gì.

Phải như người khác thế nào cũng kêu khổ này khổ kia khó phổ, tôi phải thế này tôi phải thế kia, rồi thuê dàn nhạc khó thế nào, thu âm khó làm sao. Nó đưa cái đĩa xong là tuyệt không nhắc gì bài hát, chỉ nói tôi kẹt, không vô Đà Nẵng với ông được. Mình đưa phong bì tiền cho nó, nói không phải tiền tôi đâu, tiền thù lao của cơ quan tôi đấy. Nó cầm ngay, nhét vào túi rất nhẹ nhàng, chẳng nói gì, chưa bao giờ tiền là cái khiến nó phải nghĩ ngợi.

Thời buổi văn hoá trọc phú lên ngôi, thiên hạ mua xe xịn chạy ầm ầm, có người vay nợ ngân hàng mua cả cái xe chục tỉ bạc, nó vẫn chiếc Lada cà tàng ngược xuôi trên từng cây số, đỗ ngang nhiên với đám xe xịn không hề mặc cảm. Một khi người ta biết mình là ai rồi thì chẳng cần đeo lấy một mớ của cải làm sang, kì thực đang quê mùa hoá bản thân, tốn tiền hư người chẳng được cái gì.

Nhậu nhẹt nó cũng chẳng quan tâm uống cái gì, rượu xịn cũng chơi, rượu trắng cũng uống, dân chơi thường quan tâm cái view nó cũng chẳng thèm để ý, miễn sao vui là được. Có vợ ngồi cạnh vẫn tán chuyện cô này đẹp cô kia xinh chẳng hề e dè. Có ai trêu chọc nó trước mặt Mai Hoa nó cũng chỉ cười chẳng phân bua thanh minh gì, Mai Hoa cũng cười toe, tươi tỉnh thật lòng, còn vui vẻ tán thêm chuyện, mới thấy vợ chồng chúng nó tin yêu nhau thế nào.

Mình nhìn Mai Hoa cười cười, nói em thật khéo chọn chồng, dân tchaikovski xịn, đàn ông xịn, Hà Nội xịn, vớ được ông ba xịn sướng nhé. Mai Hoa cười tít, nói ui ui em làm sao chọn được, trời cho em đấy. Nó ngước nhìn vợ âu yếm, ba chỏm râu ngọ ngoạy, biết ngay cu cậu đang rất hạnh phúc, hi hi.

Bạn Văn 36

Từ khi đi làm việc đến giờ mình được làm việc với ba ông sếp, đó là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Văn Lợi và Nguyễn Thắng Vu, cả ba mình đều coi như anh trọng như thầy, họ cũng coi mình như thằng em thân thiết, đó là một diễm phúc không phải ai cũng có được.

Mình về làm việc ở Nhà xuất bản Kim Đồng năm 1996, bỏ báo Văn Nghệ về đấy vì với 800 ngàn của báo Văn nghệ không đủ nuôi vợ con, Kim Đồng hứa trả cho mình ba triệu đồng/ tháng, đơn giản chỉ có thế thôi. Nhiều bạn bè ngạc nhiên lắm, nói sao mày lại về Kim Đồng, mày mà về Kim Đồng a. Bây giờ nghĩ lại quả là bàn tay số phận đã chìa ra đúng lúc, từ ngày về Kim Đồng mình thật sự đổi đời.

Khi mình về đấy thì Kim Đồng đã qua kì hoạn nạn, đang đến kì thịnh vượng, chứ trước đó thì gay go lắm. Mấy anh quen sống trong bao cấp đến khi cơ chế chuyển đổi, Nhà nước bắt phải tay làm hàm nhai, không anh nào không lúng túng, có anh chết yểu ngay từ đâu, Kim Đồng cũng thế. Ai đời thuả một NXB trung ương mà giám đốc phải vay tiền nhân viên để in sách, sách bán không được càng vay càng khốn. Hình ảnh tổng biên tập Bùi Hồng phải bày cả chiếu sách bên Bờ Hồ, ngồi chồm hổm bán lẻ từng cuốn một… đến chết cũng chẳng ai quên.

Anh Vu nhận chức giám đốc đúng thời kì đó, anh bay đủ trò, xoay xở đủ kiểu, hết chuyện tranh ba chiều đến Tôn Ngộ Không cử động, vẫn không sao ngoi qua được cơn bĩ cực. Một ngày đẹp giời anh được một người từ Thái Lan về giới thiệu cuốn Đôremon, nói cuốn bày bán chạy lắm. Sách Nhật đọc từ sau ra trước, lóại truyện tranh comic được làm như phim, lâu nay xứ Việt chỉ quen tranh trên lời dưới, chưa ai biết tí gì về ngôn ngữ loại truyện tranh này, thành ra nhìn vào như nhìn cái hũ nút, chẳng ai hiểu gì cả.

Nhiều người khuyên nên bỏ, ta không hiểu làm sao trẻ con hiểu được, làm chẳng biết có bán được không khéo không ôm cục nợ vào thân, lại còn tiếng Nhật tiếng nhéo bản quyền bản kéo, mệt lắm. Nhưng anh Vu quyết làm, đó là quyết sách đúng đắn nhất của đời anh, đẩy Kim Đồng một bước lên tiên, đưa Nguyễn Thắng Vu trở thành nhà làm sách số 1 của ngành Xuất bản.

Sách bán chạy không ngờ, số lượng tăng vùn vụt hàng ngày, từ năm bảy ngàn lên đến năm bảy vạn, cuối cùng dừng lại con số 20 vạn. Anh Vu nhiều lần véo vào đùi thử xem đang mơ hay là thật, một bước lên tiên quả thật còn hơn cả một giấc mơ, bây giờ nhớ lại chuyện này anh hãy còn rất xúc động.

Mình về Kim Đồng buổi sáng, buổi trưa anh gọi vào phòng, đưa cho ba triệu, nói em cầm lấy mà mắc cái điện thoại, mình nói em mắc rồi mà. Anh cứ dúi vào tay nói thì cứ cầm đi, anh em trong cơ quan đều có suất ba triệu mắc điện thoại cả, nhưng em mới về thì chưa được tiêu chuẩn ấy. Kể ra anh bảo văn phòng cấp cho em cũng được, nhưng như thế không hay, anh em mình cùng làng phải giứ ý. Khi đó mình mới biết anh cùng làng với mình, nhà mình anh biết không sót người nào, lại còn chơi thân với ông anh cả, về sau lại biết anh còn có họ hàng xa với mình nữa.

Được vài ngày anh lại gọi vào đưa cho hai triệu, nói anh thấy dáng mày mặc áo da đẹp lắm, mua một cái mà dùng. Mình kiên quyết nói không, anh nhìn mình rưng rưng, nói thì cứ coi như anh mày cho mày, có gì đâu.

Mình áy náy quá kể chuyện này với anh Nam ( Trần Đình Nam), con rể cụ Nguyễn Huy Tưởng, anh Nam cười khì khì, nói ôi anh cho tao nhiều lắm, cho mày thế đã ăn thua gì. Sau này thì biết trong cơ quan ai có chút khó khăn anh đều giúp đỡ cả, chẳng cứ gì mình. Anh thuộc típ trọng người tài, đám văn trẻ Trần Đức Tiến, Trần Kì Trung, Đỗ Quang Hạnh, Bùi Chí Vinh… gặp lần nào anh đều dúi tiền vào túi.

Số anh hình như sinh ra để bao bọc người khác. Hồi chiến tranh anh phải nuôi một đàn cháu lắt nhắt lít nhít đứa mất mẹ đứa bố chết. Cái thời đói khổ vô biên, thêm một miếng ăn không hề đơn giản, một mình anh kéo một đoàn tàu há mồm cả con lẫn cháu mười mấy đứa, ai nhìn cũng phát sợ. Đến thời đổi mới, cháu con đứa nào cũng ăn ra làm nên, NXB Kim Đồng đến kì phát đạt thì anh lo bao bọc người ngoài.

Có lẽ không có cơ quan nào dám nuôi 100 bà mẹ Việt Nam anh hùng như Kim Đồng, cũng chẳng nhà xuất bản nào dám xây cả chục cái trường học như Kim Đồng, chưa kể hàng ngàn suất học bổng Đôremon, hàng chục thư viện lớn nhỏ các xã vùng sâu vùng xa. Thực ra Kim Đồng chả giàu, có chút của ăn của để chứ chả giàu, ối cơ quan giàu gấp năm gấp mười Kim Đồng chẳng ai làm như anh.

Mình ngồi với Nguyễn Nhật Ánh lần nào cũng vậy, nói chuyện loanh quanh một hồi thế nào cũng lại cũng nói chuyện anh Vu. Chưa thấy ai Ánh quí và phục như anh Vu. Ánh viết văn, thành đạt văn chương trước khi gặp anh Vu nhưng có thể nói chắc rằng nó chỉ trở thành đại gia văn học thiếu nhi khi và chỉ khi gặp anh Vu. Ít ai chăm sóc khách hàng tỉ mỉ, cụ thể đầy thái độ trân trọng và thân thiết tựa người nhà như anh Vu, Ánh vượt qua kì hoạn nạn cũng một phần có sự giúp đỡ của anh. Bộ Kính vạn hoa đã đưa Nguyễn Nhật Ánh lên nhà văn có số lượng bạn đọc lớn nhất trong lịch sử văn học nước nhà, trong đó có công của anh Vu không nhỏ, nếu không muốn nói là rất lớn.

Tuồng như trời sinh Nguyễn Thắng Vu ra để làm sách thiếu nhi, anh nghiện làm sách đến độ có lẽ chỉ trừ khi ngủ là anh không nghĩ về sách. Bất kì lúc nào anh cũng nghĩ về sách, nói về sách, anh nói say sưa không biết chán kể từ tuổi ba mươi cho đến gần tuổi tám mươi rồi vẫn cứ nói. Mỗi năm nhà Kim Đồng cho ra cả nghìn đầu sách, không cuốn nào anh không chăm chút từng ly từng tí, một cái lỗi kĩ thuật bé tí cũng làm anh mất ngủ..

Anh Nam nói anh Vu nghiện sách thiếu nhi hơn người ta nghiện thuốc phiện. Mình gật đầu cái rụp, nói đúng đúng, bây giờ nếu ai đó cấm anh Vu nghĩ về sách thiếu nhi thì anh chết ngay tức khắc chẳng cần bệnh tật gì.

Mình bị anh phạt một triệu khi biên tập cuốn Bí mật hồ cá thần của Nguyễn Quang Thiều vì để sai lỗi chính tả quá nhiều. Bị phạt nhưng mà sướng chỉ vì nghe anh nói đúng một câu: : “Nếu không biết tôn trọng trẻ em thì đừng làm sách trẻ em”. Bị phát nặng, bị mắng cũng dữ nhưng cuối ngày anh lại gọi vào nhét vào túi cho một triệu, nói mày giỏi nhưng chớ có chủ quan nghe em. Cái nhìn thắm thiết của anh đến bây giờ mình hãy còn nhớ.

Gần tết nghe tin anh Vu ốm, mình chạy đến viện Việt Xô thăm, nhìn mặt anh tái xanh hơi lo lo. Anh nói cười vui vẻ, nói chỉ bị xơ phổi thôi, bác sĩ nói chỉ cần uống loại thuốc gì đó một viên 5 triệu, ngày hai viên, một tháng là khỏi.

Mình trêu anh, nói bác nhiều tiền như quân Nguyên, miễn sao lành bệnh thôi chứ một viên 5 triệu thì xúc phạm bác qúa. Anh cười khà khà, nói uống thuốc này phải tuyệt đối kiêng hút thuốc, thèm thuốc chết được, giá có thuốc nào chữa lành bệnh mà vẫn được hút thuốc thì viên 10 triệu cũng chơi.

Mình cười tươi nhưng nói thật rất xúc động.

Anh năm nay đã 77 tuổi rồi, suốt đời chẳng ăn uống chơi bời gì, chỉ ba chén nước chè, cà phê với thuốc lá. Cả ba thứ đó cấm nữa thì quá tội cho anh. Chợt nhớ đến anh Phùng Quán, cả đời không được chén rượu ngon, đến khi có rượu hảo hạng thì ốm nặng không được uống.

Anh ngồi với mình suốt buổi chiều, anh nói liên tục, nói nhiều đến nỗi mình phải về để anh nghỉ, nếu còn ngồi đấy anh vẫn cứ nói. Cũng như cả trăm lần khác anh chỉ nói chuyện sách, tuyệt không nói chuyện gì khác, đôi khi ngồi như con gà rù hễ ai nhắc đến chuyện sách anh lại bừng tỉnh nói say sưa, đôi mắt già nua vẫn lấp lánh nhiều ước vọng.

Bạn Văn 37

Cách đây sáu bảy năm chi đó, một hôm Nguyễn Huy Thiệp mời mình đến nhà ăn cơm, nói ông đến đi, hôm nay có một nhân vật hay lắm. Mình đến, thấy một ông nho nhỏ thâm thấp đen đen ngồi nói chuyện tay bo với đám văn tài khét tiếng ba miền đầy tự tin không một chút kiêng dè, biết ngay đó là người mà Thiệp nói hay lắm.

Thiệp giao du thật lắm quái nhân, mỗi ông một nết hay, tài thật không ai lẫn với ai, ông này chắc cũng thế. Thiệp chìa tay giới thiệu với mình, nói ông này là Bảo Sinh bạn tôi, chỉ nói vâỵ thôi không nói gì thêm. Nhưng chỉ hơn mười phút sau mình biết ngay Bảo Sinh là nhà thơ Folklore trứ danh, Thiệp đã từng có bài khen, suốt buổi nhậu hôm đó chỉ ngồi nghe Bảo Sinh đọc thơ cười lăn cười lóc.

Văn nghệ có cái hay, phàm đã thích nhau thì chỉ cần gặp một lần đã coi như quen nhau từ vạn kiếp. Mấy hôm sau Bảo Sinh đến nhà mình chơi, tặng mình bốn năm tập thơ, đọc sướng rêm. Một đời thơ người ta chỉ mong có vài câu thơ đóng đinh vào trí nhớ người đời là mừng lắm rồi, ông này có đến vài chục câu, thậm chí vài trăm câu, phục lăn.

Té ra cái câu được truyền tụng lâu nay: Ra đường sợ nhất công nông/ Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì là của Bảo Sinh, câu Vợ là cơm nguội nhà ta/ Lại là phở tái thằng cha láng giềng cũng của Bảo Sinh nốt. Nhiều câu cười buồn, cười đau, cười đắng… vui và hay, tài. Có lẽ hay nhất câu này: Cùng chung một chuyến đò ngang/ Kẻ thì sang bến người đang: trở về/ Lái đò lái mãi thành mê/ Sang về chẳng biết mình về hay sang. Thơ như vậy mà báo chí ngại in, nghĩ cũng lạ.

Gặp nhau nhiều lần, lần nào Bảo Sinh cũng nói khi nào ông đến thăm khách sạn chó của tôi nhé. Mình bận lắm việc cù nhằng, cứ vâng vâng nhưng không đến được. Cũng tưởng là anh nói chơi thôi, làm gì có khách sạn chó nên cũng không mặn lắm chuyện thăm thú, may nhờ có Nguyễn Việt Hà kéo đến tận nhà Bảo Sinh mới ngả ngửa người, té ra có khách sạn chó thật, thất kinh luôn.

Nhà anh ở phố Trương Định, một mình cai quản cả khuôn viên rộng rinh rang, đầu ngõ treo cái biển to đùng: Khách sạn chó, thật táo gan. Mình nói chỉ riêng cái biển này cũng đủ cho người ta xách cổ anh lên phường năm lần bảy lượt, đúng không. Bảo Sinh cười hì hì, nói ôi nhiều chuyện lắm nhiều chuyện lắm.

Vào đấy mới biết người chỉ ở một góc, còn lại toàn chó mèo, đủ loại chó mèo, con bé tí bằng nắm tay, con to đùng như con nghé… Ở góc xa cuối vườn là nghĩa địa chó mèo được xây cất rất là… cung kính, hi hi. Hèn gì Bảo Sinh có biệt danh vua chó kể từ 1990, ai muốn có giống chó mèo tốt cứ hỏi anh, nhà ai có chó mèo ốm đau bệnh tật cứ hỏi anh là xong hết.

Khuôn viên được chia ra nhiều ngăn, trên các lối đi rải đá răm, thỉnh thoảng có những phiến đá xanh đựơc mài nhẵn bóng khắc thơ Bảo Sinh, thơ yêu lẫn thơ thế sự, thơ thiền lẫn thơ bố nhắng rải đều trên các phiến đá vườn nhà anh.

Cái hồ rộng chừng hai sào là thế giới hổ lốn vừa lạ vừa vui, chỗ thì ngộ nghĩnh chỗ thì đẹp mắt. Dưới hồ là dãy tượng đoàn thầy trò Đường tăng đi lấy kinh. Trên bờ có Tiên đồng Ngọc nữ, có Cửu trùng đài đắp tượng 18 vị La hán xếp thành hàng bên tường rào, mỗi vị một bát hương, một phiến đá đề thơ Bảo Sinh. Bên này hồ là tượng Phật uy nghi, bên kia bờ hồ là tượng Bảo Sinh cũng uy nghi không kém, cả hai đều tay bắt quyết miệng nam mô, he he.

Chó và mèo, người và ngợm, phật và ma… cả một thế giới lạ hoặc giữa phố phường Hà Nội, ai đã tới thăm một lần suốt đời không thể quên. Trong cái thế giới ấy ông chủ uống rượu đọc thơ, bà chủ tụng kinh niệm phật, chó sủa gâu gâu, mèo kêu meo meo… vui hơn tết. Khu vườn chỗ cây cổ thụ toả bóng râm mát, chỗ cỏ cây bụi bờ chen chúc trong nắng vàng hoe. Mùi hoa lan, hoa nhài hoa huệ lẫn trong mùi mèo mùi chó mùi người… vừa thơm vừa tục.

Bảo Sinh nói tôi đi bộ đội thoát chết trận là nhờ tiên nhờ Phật, ra quân thoát chết đói là nhờ mèo nhờ chó, còn vui vẻ đến giờ là nhờ người nhờ thơ, người ta ơn huệ đôi ba người còn tôi mang ơn cả thế giới.

Có một chuyên anh ít kể nhưng ai hỏi anh đều kể rất vui, đấy là chuyện bố anh. Cụ là một trong những tay vẽ truyền thần đầu tiên của Hà Nội, khét tiếng một thời. Hôm Lê Thiết Cương tổ chức triển lãm tranh truyền thần, nhiều bức của cụ được bày ai cũng thích. Cụ vẽ truyền thần và làm thơ, dạy cho Bảo Sinh vẽ truyền thần và làm thơ, có lẽ dòng thơ đặc sản Bảo Sinh có ảnh hưởng nhiều từ thơ của cụ.

Đến khi nghề vẽ truyền thần hết thời cụ cũng đã già, con cháu cũng đã ăn ra làm nên, có của ăn của để thì cụ mới đi truyền bá thơ cụ. Sáng sáng cụ ra Bờ Hồ đi bộ đôi vòng rồi tập hợp các cụ ông cụ bà yêu thơ tới nghe cụ đọc thơ, cụ trả tiền nghe thơ đàng hoàng, gọi là nhuận tai.

Những người khen đúng chỗ bao giờ cũng được hưởng nhuận tai nhiều gấp đôi gấp ba người chỉ biết nghe không biết khen, hi hi. Bảo Sinh nói nhuận tai của cu lên đến mấy trăm triệu không phải chuyện bỡn. Ngày cụ chuẩn bị về trời, cụ gọi con cháu vào, tưởng là để nghe nói lời di chúc, hoá ra không, cụ hỏi thơ bố có hay không. Con cháu chẳng ai đọc thơ cụ nên lúng túng không biết nói sao, trừ Bảo Sinh, anh nói thơ bố hay lắm, con xin theo nghiệp bố. Cụ cười hắt một tiếng, nói mày là thằng có hiếu, nói xong thì đi, tay nắm chặt tay Bảo Sinh.

Chuyện như phịa nhưng mà đúng vậy, Bảo Sinh nói tôi bỏ nghiệp truyền thần theo “nghiệp chó”, chỉ có thơ là tôi quyết nối nghiệp bố tôi, bố tôi mừng lắm, nói làm nhà thơ dân gian thôi con nhé, đừng làm nhà thơ nhà nước rách việc lắm. Bố tôi yêu thơ đến chết, chắc rồi tôi cũng yêu thơ đến chết, chỉ có một cái khác thôi… Mình hỏi khác cái gì, anh trâm ngâm không nói.

Rất lâu sau Bảo Sinh mới nói. Anh uống đủ một chầu rượu ngon, ngẩng lên nhìn trời, nói bố tôi suốt đời tôn thờ một cô gái, bức truyền thần đẹp nhất bố tôi vẽ là bức chân dung cô ấy. Cô ấy chết trẻ, kể từ đó ngày ngày bố tôi làm thơ, ra bưu điện gửi về đúng địa chỉ nơi cô ấy sống. Hơn nửa thế kỷ vật đổi sao dời, cái địa chỉ ấy chẳng còn, cụ biết nhưng cụ cứ kiên quyết không thay địa chỉ.

Mình nói thế anh tôn thờ ai, làm thơ cho ai, Bảo Sinh nói tôi tôn thờ cả thế giới, làm thơ cho cả thế giới. Rồi Bảo Sinh nhấp một chút rượu, ngâm nga: Cuối cùng tất cả chúng ta/Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân. Mình nói đó là câu thơ dọa chết hay nhất, anh mỉm cười lắc đầu, nói không không, tôi đang doạ người sống đó chứ. Và anh nhăn răng cười, cái răng sứt lộ thiên, mắt nhắm tít, đầu giật giật y chang Đỗ Mục khi say, chẳng biết có đúng không nữa.

THƠ BẢO SINH (Trích)

-Cuối cùng tất cả chúng ta

Đều lên nóc tủ ngắm gà khỏa thân.

-Lạc trong đời đạo dắt ra

Lạc trong đạo sẽ có ma dắt vào.

-Trời đất phải sinh ra ta

Nếu không sao được gọi là hóa công

Vào ra trời đất mênh mông

Thân ta là chỗ hóa công ở nhờ

-Ra đường sợ nhất công nông

Về nhà sợ nhất vợ không mặc gì!

-Vợ là cơm nguội nhà ta

Lại là phở tái của cha láng giềng

-Ai cũng làm được nhà thơ

Ai cũng có thể “sù cơ” của mình

-Muốn đuổi khách ra khỏi nhà

Đọc thơ được giải họ ra tức thì

-Muốn cho trộm chẳng đến nhà

Đề vào trước cửa: Đây là nhà thơ

-Cùng chung một chuyến đò ngang

Kẻ thì sang bến người đang trở về

Lái đò lái mãi thành mê

Sang về chẳng biết mình về hay sang.

-Đi đái thì đứng giữa đường

Hôn nhau lại đứng sau tường để che

-Ghế thì ít, đít thì nhiều

Cho nên đấu đá là điều tất nhiên

-Ba lạng ở chốn động tiên

Thừa chỗ đủ để cưỡi lên vạn người

-Im lặng vợ bảo giận gì

Tươi cười vợ bảo chắc đi với bồ

-Vợ là thánh chỉ vua ban

Có sao dùng vậy miễn bàn đúng sai

-Mình ngu nhiều kẻ ngu hơn

Cho nên được gọi là khôn hơn người

Em xinh đâu bởi nụ cười

Em xinh là bởi nhiều người xấu hơn

-Muốn so thơ dở thơ hay

So bồ của họ biết ngay thôi mà…

-Suốt đời chỉ yêu một người

Bệnh ấy còn nặng gấp mười ung thư