Anatoli Toboliak- Một chuyện tình

ANATOLI TOBOLIAK - MỘT CHUYỆN TÌNH

PHAN BẠCH CHÂU DỊCH

Anatoli Toboliak sinh ngày 31 tháng 7 năm 1936 tại thành phố Novokuznhetsk (Nga). Sau khi tốt nghiệp phổ thông trung học ông làm cộng tác viên trong ban biên tập của một tờ báo địa phương, học hàm thụ khoa báo chí trường đại học quốc gia Ural. Làm việc ở Ural, Bắc cực, Evenki, Taimưr và Viễn Đông. Năm 1969 tại Krasnoiarsk xuất bản tuyển tập thơ duy nhất "Những con đường". Năm 1971 ông chuyển đến Xakhalin và làm phóng viên tại ban vô tuyến truyền thanh vùng Xakhalin. Năm 1975 tập truyện vừa "Một chuyện tình" của ông được đăng lần đầu tiên trên tạp chí "Tuổi trẻ" đã làm cho tên tuổi của ông được nhiều người biết đến. Đối với những bạn đọc của tạp chí "Tuổi trẻ" năm 1975 và tất cả những ai sống tuổi thanh xuân của mình vào những năm 70 của thế kỷ trước, tập truyện vừa này là một hồi ức thú vị. Tập truyện cũng đã được dịch ra 12 thứ tiếng và xuất bản ở nhiều nước, được chuyển thành phim ở Liên Xô (phim "Chỉ hai người", hãng phim Sverdlov) và ở Bulgari (phim "Con chim lửa").

Những tập tiểu thuyết, truyện vừa, thơ ca do ông sáng tác sau đó đã miêu tả những nét đặc trưng đa dạng của nhiều tầng lớp xã hội, nhiều thế hệ, thông qua những vấn đề về tình yêu, tình bạn, các mối quan hệ giữa con người với con người trong những tình huống phức tạp, đôi khi rất bi thương. Ông đã miêu tả cuộc sống trong cái bộn bề của những mâu thuẩn không giải quyết được, những đối kháng, những số phận đầy kịch tính. Ông không chạy theo thời cuộc, nhưng luôn nắm bắt được những yêu cầu của cuộc sống thực tại, dù cái thực tại đó có liên quan hay không đến nội dung hay hình thức của những tác phẩm ông viết ra

Ông đã qua đời trên mảnh đất Israel xa xôi, mặc dù phần lớn quãng đời và hoạt động sáng tạo của ông gắn liền với Xakhalin, vùng đảo mà ông yêu thương tận tâm và trìu mến. Khi từ giã bạn bè ông đã viết những dòng đầy xúc động:

"Đối với tôi hòn đảo này đã trở thành nhà.

Tôi chưa làm điều gì tổn thương đến nó.

Từng vùng đất nơi đây tôi đều tường tỏ.

Và giờ đây xin được quì xuống cầu xin

Cho mảnh đất này mãi sống và phồn vinh".

Xakhalin đã trở thành nơi khởi nguồn hoạt động sáng tạo của ông, rọi sáng tâm hồn ông. Chính ở nơi đây ông đã viết những tác phẩm cho phép người ta nói về Toboliak như một nghệ sĩ thiên tài, đã nắm bắt được những điều quan trọng nhất trong sự vận động của thời gian và trong sự vận động của văn học.

Toboliak đã được nhận nhiều giải thường văn học, là hội viên hội nhà văn Liên Xô từ năm 1968, sau này là hội viên hội nhà văn Nga, ngay cả thời gian ông sang định cư tại Israel từ năm 1998. Ông mất ngày 16 tháng năm 2001 tại Israel.

*

- 1 -

Tôi làm quen với họ vào một ngày cuối tháng Tám.

Hôm đó, sau giờ tan tầm tôi phải ở lại cơ quan để viết nốt bài báo cho tạp chí "Phát thanh và truyền hình". Sau 6 giờ mọi người ra về gần hết, trụ sở ban biên tập vắng lặng, chỉ riêng ở phòng tổng đài còn vọng ra tiếng nói của các nhân viên trực máy.

Ngồi bên chiếc máy chữ đặt cạnh cửa sổ, tôi đưa mắt ngắm nhìn dòng sông rộng mênh mông. Xa xa, một màu vàng óng ả trải dài trên các sườn đồi. Vừa hút thuốc và gạt tàn vào chiếc ống nhỏ lấy ra từ một chiếc máy ghi âm cũ, tôi vừa gõ đều đều lên các phím chữ bằng hai ngón tay. Mặt trời hãy còn cao, ánh nắng chiều tràn ngập căn phòng. Chú chó nhỏ Kuchum nằm ngủ ngon lành bên chân tôi. Chốc chốc toàn thân nó khẻ rung, dường như đang mơ thấy dấu vết đàn cáo trên bãi trống giữa cánh rừng phủ đầy tuyết trắng... Từ chiếc loa phóng thanh treo trên tường vang ra những âm thanh nhè nhẹ. Tai nghe nhạc mà trong đầu lan man suy nghĩ. Thật thú vị biết bao, tôi thầm nghĩ, nếu giờ đây được nghỉ phép năm, nằm phơi nắng trên một bãi tắm nào đó ở phương nam, uống bia thoả thích, sau đó cùng vợ đến Pribantich, nghe hoà nhạc ở Kaonaxo và, cuối cùng, ghé thăm Viện bảo tàng Chiulionis... Và thật thú vị biết bao, tôi lại tiếp tục dòng suy nghĩ trong khi hai ngón tay vẫn gõ lên phím máy những dòng chữ vô vị: "...đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm đưa tin về các đội chăn hươu".

Dòng suy nghĩ lại lan man sang những việc khác. Thời tiết này mà dùng mồi giả để câu cá hồi trên sông Vivi thì trúng lắm, hay là thử thuyết phục các phi công lái máy bay lên thẳng đi câu cá vậy. Có lẽ đã đến lúc tìm một cán bộ tháo vát hơn Ivan Ivanôvich Xuvôrov, và có trở ngại gì đâu nếu ta tìm một người phó có vẻ ngoài dễ coi hơn bà Iulia Pavlovna Niuxova, và có lẽ cũng tốt hơn nếu cho phát hành tiếp tạp chí phát thanh châm biếm... "...tổ chức thường xuyên những chuyến đi công tác đến các đội ở xa...".

Cửa phòng bật mở.

- Vào được chứ ạ?

Bước vào phòng là một thanh niên to cao, áo sơ mi đỏ chói và quần bò, chân đi giày basket. Mái tóc sáng màu đã lâu không cắt trùm kín gáy. Khăn quàng quấn quanh cổ. Đôi mắt màu xanh trên khuôn mặt rám nắng. Trông dáng người khoảng tuổi mười tám.

Chàng trai dừng lại giữa phòng với vẻ mặt khó đăm đăm. Bằng một giọng thiếu thiện cảm cậu ta hỏi tôi có thể tìm gặp tổng biên tập ở đâu. Kuchum ngước mõm lên khe khẽ gầm gừ.

- Tôi nghe đây, anh bạn trẻ

- Chú là tổng biên tập à?

Tôi xác nhận: đúng vậy, tôi là tổng biên tập.

- Có thể trình bày với chú việc này được không ạ?

Tôi nhún vai: sao lại không nhỉ, cậu nói đi.

Khách quay người trên đôi giày đế cao su.

- Chờ cháu một lát. - rồi biến mất ra ngoài cửa.

Tôi rút thuốc châm lửa hút. Từ ngoài hành lang vọng vào những tiếng thì thào vội vã, một chút ồn ĩ khó hiểu. Cuối cùng chàng trai xuất hiện, dắt theo một cô gái mảnh mai như dắt một đứa trẻ qua đường phố đông đúc xe cộ. Cô gái cũng trạc tuổi người bạn đường, cũng mặc quần bò và đi giày basket. Cả trên khuôn mặt hai người cũng có những nét hao hao - nhỏ và rám nắng, mặc dù mái tóc cô gái màu hạt dẻ, mềm mại, không che kín chiếc trán dô, đôi mắt long lanh như hai hạt hổ phách mài nhẵn.

Cô gái bước vào với đôi môi mím chặt, má đỏ bừng, chào tôi giọng nhỏ nhẻ:

- Cháu chào chú ạ!

Tôi và con Kuchum cùng bật dậy như theo một hiệu lệnh chung.

- Mời vào, ngồi xuống đi, hai bạn trẻ, - tôi mời họ.

Hai người đưa mắt nhìn nhau.

- Ngồi xuống đã, ngồi xuống đã nào, - tôi niềm nở nhắc lại.

Hai người lại đưa mắt nhìn nhau.

Ngồi xuống đây, em, - chàng trai bảo cô gái.

Họ buông tay và ngồi xuống bên nhau trên chiếc ghế dài kê sát tường. Ngay lúc đó Kuchum tiến về phía hai người khách lạ, đưa mũi hít trên đầu gối họ. Cô gái đưa tay vuốt lên gáy nó. Kuchum thở dài rồi nằm ệch xuống sàn.

Tôi bật cười. Cô gái ngước mắt lên và dè dặt mỉm cười.

Bạn cô dùng mũi giày huých vào sườn Kuchum, rồi bỗng cất tiếng bộp chộp hỏi:

- Cộng tác viên của chú đấy à?

Cô gái ném vội về phía bạn cái nhìn lo âu.

Tôi hơi ngạc nhiên.

- Không, nó không được nhận vào biên chế. Giọng của nó không thích hợp với nghề phát thanh. Tuy nhiên nó săn cáo rất giỏi.

- Và nó canh giữ cho chú khi có người lạ đến.

- Xeriogia... - cô gái khẽ kêu.

- Nhưng anh có nói gì đâu? Anh chỉ hỏi thế thôi - rồi quay sang tôi, hỏi - cháu không xúc phạm gì đối với chú chứ?

- Xúc phạm tôi ấy à?

Bằng một giọng khá lạnh lùng tôi trả lời rằng không thấy có gì xúc phạm đến mình trong các câu tếu táo của cậu ta, rồi nói thêm là những người đến với ban biên tập đều là khách quí.

- Đấy, em thấy chưa, - cậu ta nói và đưa tay vuốt nhanh trên cánh tay cô bạn như để làm cô yên lòng.

- Tôi xin nghe đây, hai bạn trẻ.

Chàng trai hất mái tóc sáng rồi vội vã nói:

- Chúng cháu đi tìm việc. Chỗ chú có thiếu người làm không ạ?

Điều này tôi chưa ngờ tới.

Cả hai nhìn tôi chờ đợi

Hơi bị lúng túng, tôi đưa lên môi điếu thuốc đã tắt.

- Tìm việc làm... ở ban biên tập chúng tôi? Nhưng các cháu là ai mới được chứ? Từ đâu đến?

- Trước hết chú hãy bảo: chỗ chú có cần người làm không? Nếu có, chúng cháu sẽ kể về mình. Còn nếu không - chúng cháu sẽ đi ngay.

- Ôi, Xeriogia...

- Chuyện phiếm vô nghĩa chỉ tổ mất thì giờ, có đúng không ạ?

- Cháu nói năng bộc tuệch bộc toạc như đấu bò vậy.

- Nhưng việc gì phải lãng phí thời gian kia chứ? Chúng cháu đâu có phải là những người trường sinh bất tử.

- Ôi, Xeriogia... em van anh...

- Tốt nhất là hỏi ngay: chỗ chú đây có thiếu người làm không?

- Nhưng mà... - tôi kéo dài giọng, hơi ngạc nhiên - Cái đó còn tuỳ thuộc vào việc các cháu có kỳ vọng gì. Tôi hoàn toàn chưa rõ các cháu muốn làm việc gì. Ở ban biên tập có những việc về kỹ thuật, có những việc về sáng tác. Nếu có thể, các cháu hãy nói xem các cháu quan tâm đến việc nào?

- Một làm sáng tác, một làm kỹ thuật.

- À, một sáng tác, một kỹ thuật. Nhưng có thể nói rõ hơn không?

- Vâng, Cachia, - chàng trai quay nhìn cô gái và mặt cô bừng đỏ lên như ngọn đuốc nhỏ, - muốn làm nhân viên đánh máy chữ. Còn cháu biết viết.

Cậu ta tuyên bố như vậy đấy: "Cháu biết viết"

Hình như tôi không nhịn được cười. Chàng trai nhận thấy và liền cau mày.

- Chú không tin à?

- À không, sao lại không tin. Thời buổi này thì mọi người đều biết đọc, biết viết. Ý tôi muốn nói là hiện nay mọi người đều biết chữ. Các cháu đã làm việc ở đài phát thanh bao giờ chưa?

- Trước hết chú hãy nói, chỗ chú đây có thiếu người làm không?

- Cứ cho rằng thiếu.

- Cứ cho rằng cháu đã từng làm việc ở đài phát thanh.

Cô gái đưa hai tay bưng mặt.

- Ái chà! - tôi lắc đầu - Ai bày cho các cháu đi tìm việc theo kiểu cách như vậy. Ở chỗ chú đang cần người làm. Không "cứ cho rằng" gì cả. Nhưng điều đó chưa có nghĩa gì đâu, đồng ý nhé.

- Vậy là chú cần người, đúng chứ ạ?

- Đúng vậy,

- Một phóng viên và một nhân viên đánh máy, đúng chứ ạ?

- Đúng.

- Thế chứ, thế mới là bàn bạc thiết thực. Bây giờ chú có thể hỏi đi.

- Tôi cần hỏi điều gì kia chứ?

- Chúng cháu là ai, chúng cháu từ đâu đến - và mọi câu hỏi cần thiết.

"Chúng cháu, chúng cháu, chúng cháu..." Tôi dựa lưng ra sau ghế, chăm chú quan sát hai người.

- Được, thì làm theo ý cháu. Các cháu từ đâu đến vậy?

- Từ Mascơva ạ.

- Thế ư, xa xôi quá. Mà cái gì đã đưa đẩy các cháu đến đây, nếu không có gì bí mật?

- Chúng cháu đi tìm việc, cháu đã nói rồi đó. Ở Mascơva chúng cháu đã đi học.

- Đi học à! Trường nào?

- Tất nhiên là trường phổ thông.

- Sao lại "tất nhiên"? Có thể ở trường trung cấp, trường cao đẳng. Các cháu tốt nghiệp phổ thông rồi chứ?

- Vâng ạ.

- Rồi sao nữa... nhận bằng tốt nghiệp... và lập tức ra máy bay? Xin lỗi vì đã cật vấn như vậy. Nhưng vì các cháu đến đây tìm việc nên tôi cần biết các cháu là ai.

- Vâng ạ - Chàng trai vội ngắt lời - Chúng cháu phải tự giới thiệu về mình. Chú tên là gì ạ?

- Ôi, Xeriogia... - cô gái thở dài.

- Đúng đó, - tôi đồng tình - Quên đi mất. Tôi là Bôris Antônôvich. Họ là Vôrônhin. Chức vụ thì các cháu biết rồi.

- Còn chúng cháu, họ là Krôtôv. Tên là Xecgây và Cachia. Chúng cháu chưa thi vào đại học. Lúc đầu cũng định thi, sau lại thay đổi ý kiến. Chúng cháu không với tới đó được. Chúng cháu đã cưới nhau và quyết định đi làm.

2. Một thoáng yên lặng. Tôi vừa cố dụi tắt mẩu thuốc lá hút dở, vừa chuẩn bị ý kiến. Cả hai nhìn tôi chăm chú.

- Thế đấy... - tôi chậm rãi nói. - Vậy mà, xin nói thật, tôi cứ tưởng...

- Chú tưởng chúng cháu là hai anh em! - Chàng trai cướp lời tôi.

- Đúng vậy. Hai cháu trông giống nhau.

- Có người cũng đã nói điều đó với chúng cháu. Chú có biết là ai không? Biên tập viên một tờ báo ở địa phương của chú. Chúng cháu đã nói với bà ấy rằng chúng cháu là hai vợ chổng. Bà ta xua tay và toang toác lên như một mụ gà mái. Có thể đó là một người đàn bà quá thì, đúng không ạ?

- Sao, cháu bảo sao? - Tôi rất đỗi ngạc nhiên.

- Chúng cháu cho rằng đó là một người đàn bà quá thì.

- Kỳ quái thật! Các cháu có cả những xét đoán như vậy à!

- Nhưng mà sao. Không đúng vậy sao?

- Không, tất nhiên là không. Bà ấy đã có ba người con lớn.

- Nhưng về bản chất lại là một người đạo đức giả.

- Xeriôgia!...

- Bà ấy cũng có những quan điểm cổ hủ như chiếc váy bà ấy vậy. Chúng cháu không thể làm việc ở đó được. Chúng cháu đã tuyên bố với bà ta như vậy.

- Nhưng bà ấy đã giới thiệu công việc với các cháu à?

- Chưa đâu. Bà ấy rao giảng đạo đức cho chúng cháu. Chúng cháu đã đứng dậy và bỏ đi. Chúng cháu đã ngấy món đạo đức rồi.

- Tôi hiểu... Nhưng dù sao các cháu đánh giá như vậy cũng quá khắt khe. Theo tôi, cháu quá nóng tính. Không điềm tĩnh hơn được sao?

- Phải như thế nào? Như một thây ma à?

- Không, chỉ cần đừng nổi nóng. Chúng ta cùng bình tĩnh nói chuyện nhé.

- Nói về việc gì cơ? Tại sao chúng cháu cưới nhau sớm ư? Chúng cháu sẽ không trả lời câu hỏi này.

"Chúng cháu, chúng cháu, chúng cháu..."

- Thế các cháu bao nhiêu tuổi, có thể cho tôi biết được không?

- Được ạ! Tuổi cả hai là ba mươi tư.

- Nghe có vẻ đáng kể đấy. Nhưng tuổi từng người?

- Chia đôi ra ạ.

- À hả. Nghĩa là mười bảy tuổi.

Trong đôi mắt tinh nhanh của chàng trai ánh lên một tia lửa châm biếm.

- Chú có năng khiếu toán học, - cậu ta bộp chộp nói.

- Lần đầu tiên trong đời tôi được nghe lời tán dương như vậy... Hượm đã, các bạn trẻ! - tôi chợt nghĩ. - Sao lại thế nhỉ? Các cháu mười bảy tuổi. Vậy mà các cháu đã...

- ... Vậy mà chúng cháu đã cưới nhau! - Krôtôv rành rọt nói tiếp ý nghĩ của tôi. - Tất cả đều đúng. Chú đã tụt hậu với cuộc sống. Hiện nay ở tuổi mười sáu người ta đăng ký kết hôn trong những trường hợp ngoại lệ. Chúng cháu là một ngoại lệ, chú hiểu chứ?

- À hả! Hừm... Hiểu rồi... Sự phát triển tăng tốc... - tôi lẩm bẩm khá ngớ ngẩn.

Lại một thoáng yên lặng. Tôi với tay lấy thêm điếu thuốc trong khi vẫn cảm nhận cái nhìn chăm chú của hai vợ chồng Krôtôv.

- Các cháu thấy đấy, vấn đề là thế này, - vừa hút thuốc tôi vừa chậm rãi nói. - Cơ quan nào cũng có một nguyên tắc: không mua mèo nhốt kín trong bao tải. Tôi đã biết các cháu là hai vợ chồng, đã tốt nghiệp phổ thông. Nhưng còn những điều khác, chẳng hạn như, bố mẹ các cháu có biết các cháu đến đây không? Nhưng chớ có vội liệt tôi vào số những kẻ đạo đức giả.

- Bố mẹ sẽ không thể đi làm để nuôi các cháu mãi, phải không ạ?

- Phải. Nhưng bố mẹ có thể đi tìm các cháu hoặc làm cái gì đó đại loại như vậy. Còn tôi thì nhận các cháu vào làm việc và bị rơi vào một tình huống khó xử. Có thể như vậy lắm chứ?

- Không thể như vậy! Bố mẹ chúng cháu sẽ dõi theo các sự việc. Còn những điều khác không can hệ gì đến chú.

- Được. Có nghĩa là bố mẹ biết các cháu đến đây.

- Biết ạ. Phải biết chứ ạ.

- Thế là tốt, việc này rõ rồi. Và bây giờ hãy nói xem tại sao các cháu lại đi đến quyết định là có thể làm việc ở một cơ quan biên tập. Cháu đã từng có bài đăng báo chưa, đã từng viết cho đài phát thanh nào chưa?

- Chưa ạ.

- Thế đấy.

- Nhưng viết như mọi người thì cháu có thể viết được. Thậm chí còn hay hơn.

- Cậu có quá tự tin không đấy?

- Thì chú cứ kiểm tra đi. Hãy giao cho cháu một việc gì đấy.

- Chẳng hạn việc gì nào?

- Một việc bất kỳ. Viết một bài phóng sự, một bài báo, một bản tin.

- Ồ, cậu đã kịp tìm hiểu các thể loại, - tôi châm chọc nhẹ nhàng. - Nhưng điều đó chưa đủ để có thể làm việc ở một cơ quan biên tập.

Hai vợ chồng đưa mắt nhìn nhau.

- Anh nói nhé? - Krôtôv hỏi Cachia. Cô gái gật đầu. Chàng trai nhìn sang tôi. - Cháu đã viết. Viết từ lâu rồi. Và cháu muốn trở thành nhà văn chuyên nghiệp.

Không hơn, không kém! Trở thành nhà văn chuyên nghiệp.

Không ghìm được mình, tôi buông tiếng thở dài. Tâm trạng hoài nghi của tôi không còn giấu diếm được ai. Krôtôv nhìn Cachia như muốn hỏi: "Phải chăng đã đến lúc chấm dứt với loại người này". Đoạn chàng trai ngửa người ra ghế, hai chân bắt chéo.

- Chú lại không tin à?

- Đâu có, sao lại không tin. - tôi dè dặt trả lời - Dự định đó, dù sao đi nữa, cũng táo bạo đấy. Thật ra sẽ còn rất nhiều gian nan trên con đường cậu chọn.

- Cháu biết.

- Vậy là, nếu cậu đã biết thì...

Tôi buồn phiền. Chàng trai đã làm tôi thất vọng. Nhưng bỗng dưng tôi thấy lo cho cô gái này - cô gái hiện đang ngồi tròn xoe mắt nhìn chàng trai.

- Chắc cậu có làm thơ chứ? - Tôi lơ đễnh hỏi.

Chàng trai phẩy tay một cách khinh mạn: không, không làm thơ - mà viết văn xuôi, tiểu thuyết.

Tôi nêu nhận xét rằng tiểu thuyết là một thể loại khó, đòi hỏi người viết phải có kinh nghiệm sống và tài nghệ văn chương. Chàng trai lạnh lùng đồng ý với nhận xét đó. Tôi nói lên điều lo ngại là ở tuổi cậu ta thì tiểu thuyết, hơn nữa lại là tiểu thuyết hay, có thể sẽ không viết nổi. Chàng trai không trả lời. Một sự im lặng đầy ý nghĩa. Rồi đưa tay đặt lên bàn tay vợ như đặt lên lá bùa hộ mệnh.

Tôi hỏi xem cậu ta yêu thích nhà văn nào. Pholkner! Uyliam Pholkner. Chúng tôi im lặng. Trong lúc tần ngần suy nghĩ tôi gõ ngón tay lêm phím máy chữ.

- Thôi được, tạm gác sang một bên các dự định viết văn của cậu. Nói thật, tôi cho rằng những dự định đó khó có hy vọng đạt được... - Cachia thở dài, và tôi liền nói thêm - ... những ý đồ xốc nổi. Ở ban biên tập của chúng tôi không có các tiểu thuyết gia, và chúng tôi không cần đến họ. Mà ở đây người ta cũng không tạm ứng tiền cho những quyển tiểu thuyết sẽ in.

- Cháu sẽ làm tất cả mọi việc cần làm. Điều đó liệu chưa đủ sao?

- Đề nghị đó có một ý nghĩa nhất định, nhưng...

Tôi đứng lên, bước đến cạnh cửa sổ, đưa mắt nhìn cảnh hoàng hôn và dòng sông rộng mênh mông. Đầu tôi đang nhẩm tính mọi điều "thuận" và "không thuận". Hai người thì thầm sau lưng tôi.

- Xeriôgia, Xerriôgia... - giọng cô gái van vỉ.

Cuối cùng tôi đã đi đến một quyết định.

- Nghe đây, hai bạn trẻ, - tôi quay về phía họ. - Tại sao các cháu lại đến đây mà không phải là một nơi nào khác? Chàng trai há miệng định nói, nhưng tôi ngăn lại và đề nghị Cachia trả lời: - Nếu không thì anh chồng sẽ không để cô nói một lời nào.

Cô gái lúng túng, hai tay tỳ lên đầu gối, bắt đầu cựa quậy trên ghế...

- Chú biết không... chúng cháu mua một bản đồ vùng Xibêri. Xerriôgia bịt mắt cháu lại và bảo cháu chỉ tay lên bản đồ. Cháu đã chỉ đúng chỗ này. Chúng cháu mua vé và lên đường.

Tôi nhìn Krôtôv với vẻ ngạc nhiên: chẳng lẽ đúng vậy sao? Chàng trai cười hết cỡ và xác nhận: sự thật đúng như vậy.

- Thế các cháu có bà con gì ở đây không?

- Lấy đâu ra ạ! - Chàng trai trả lời

- Còn người quen, có không?

- Chẳng có một ai.

- Vậy thì, Cachia này, cháu biết không, cần gắn huân chương cho cháu vì lòng dũng cảm.

- Còn cháu thì sao? - Krôtôv thắc mắc.

- Cậu thì đáng đánh đòn.

- Không thông minh lắm. - chàng trai nhăn nhó,

- Nhưng có tác dụng! Tiện thể cho hỏi, tôi nói với Cachia, - cháu có biết nhạc không?

Cô gái nhìn chồng dò hỏi rồi nhỏ nhẻ trả lời:

- Biết chút ít ạ...

Krôtôv nhìn tôi với vẻ xét nét và nghi ngờ. Lần này thì tôi không thèm để ý đến cái nhìn của cậu ta.

- Cháu có thích nhạc hiện đại không?

- Rất thích ạ...

- Đã tìm hiểu nhạc cổ điển chứ?

- Hình như... vâng, cháu có biết.

- Một cuộc sát hạch văn hoá à? - Chàng trai xấc láo hỏi.

Tôi không thèm để ý đến cậu ta.

- Cháu có hình dung được phòng lưu trữ băng ở ban biên tập đài phát thanh là cái gì không?

- Cái đó... Cái đó đại loại như cái thư viện, nhưng chỉ có băng nhạc thôi... Đúng không ạ?

- Đúng rồi. Ở đây đang thiếu người trông coi phòng lưu trữ băng. Trách nhiệm bước đầu là như thế này: cần sắp xếp cho ngăn nắp các loại băng, - xin nói thêm là số lượng đến bốn mươi nghìn cuộn, - dần dần sẽ lập danh mục tra cứu, và sau nữa là chuẩn bị những hợp đồng đặt mua các băng mới. Nếu việc này cháu làm được...

Krôtôv bật dậy khỏi ghế và reo lên:

- Nhận lời đi, Cachia, nhận lời đi!

- Thưa chú... cháu, tất nhiên là... tất nhiên là, cháu nhận làm ạ.

Krôtôv quay nhìn tôi với vẻ mãn nguyện và có phần bối rối.

- Cám ơn chú! - chàng trai thở phào. Rồi ngay lúc đó, trước mặt tôi, anh quàng tay ôm vai vợ và hôn chùn chụt lên má cô. - Anh đã bảo em rồi mà! Còn em thì cứ sợ!

Đôi mắt cô gái long lanh.

- Còn cháu thì sao? Chú nhận cháu chứ?

Tôi quyết định cho cậu ta một bài học.

- Tôi e rằng không giải quyết được gì cho cậu. Ở đây đang thiếu một phóng viên cho bản tin giờ chót, nhưng cần phóng viên có kinh nghiệm. Làm cộng tác viên nghiệp dư thì tất nhiên không ai ngăn cản cậu.

- Lúc nãy chú đã định giao việc cho cháu.

- Nhưng tôi đã nghĩ lại.

Chàng trai cụt hứng, nhưng chỉ trong khoảnh khắc.

- Được thôi! Cháu cũng chẳng chết đâu. Có thể nói thẳng với chú được không ạ?

- Cứ nói xem.

Chàng trai đã nói một cách thẳng thắn. Anh nói rằng tôi thiếu cái trực cảm của người làm công tác biên tập. Rằng tôi đã có được một cơ hội hãn hữu, nhưng tôi đã để lỡ mất.

- Thật thế ư? - tôi giả bộ ngạc nhiên, uể oải hỏi.

Lời nói của chàng trai làm tôi khó chịu. Bài học tôi định cho cậu ta không mang lại kết quả gì; tôi những muốn làm cậu ta sợ, muốn qui phục tính kiêu căng thái quá, nhưng rốt cuộc chỉ làm cho nó bùng cháy to hơn...

- Thôi được, thế này nhé! Tôi chẳng phải là người quá thận trọng như cậu nghĩ đâu, và vì vậy tôi sẽ giao cho cậu một việc. Nếu hoàn thành tôi sẽ nhận vào biên chế với thời gian tập sự là một tháng.

"Cơ hội hãn hữu" nhíu cặp lông mày lại và nói:

- Đây là sự ban ơn chăng?

Đến nước này thì tôi đành chịu nhịn. Vâng, lúc này thì còn ai khác đành chịu nhịn nữa?

- Khỉ gió, thật là quá quắt! Nghe này, Cachia, chồng cháu là một đứa cực kỳ lếu láo.

Xin chú đừng giận. Xeriôgia rất tốt. Chỉ có điều dễ tự ái...

Chà, làm gì với họ bây giờ!

- Thôi được, bỏ qua đi, - tôi bảo - Đúng 9 giờ sáng mai có mặt tại đây. À mà các cháu đang nghỉ lại ở đâu?

Lẽ ra chẳng cần hỏi: hai vợ chồng chưa có chỗ ở. Đồ đạc gửi ở kho sân bay. Họ tưởng rằng ở đây có khách sạn.

Tôi nói cho họ biết là ở thị trấn của chúng tôi chỉ có một nhà trọ cho khách vãng lai với mười giường nằm. Tôi nhấc ống nghe và khó khăn lắm mới thuyết phục được nhân viên lễ tân mà tôi quen biết để bà đồng ý kê thêm hai chiếc giường gấp ngoài hành lang. Hai vợ chồng Krôtôv nồng nhiệt cám ơn rồi bước ra cửa.

- Này, hai bạn trẻ, - tôi thoáng nghĩ. - Còn tiền đấy chứ?

Tiểu thuyết gia tương lai dừng lại ở ngưỡng cửa, đưa tay gãi mái tóc nhẹ sáng màu.

- Cachia, chúng mình còn bao nhiêu?

Cô gái thì thầm điều gì đó.

- Một chục! - Krôtôv phấn khởi reo.

Một phút sau qua khung cửa sổ tôi nhìn thấy chàng trai với chiếc áo sơ mi sáng chói, quần bò hẹp, tóc sáng và đôi chân dài, đang dìu Cachia, một tay quàng qua vai vợ, tay kia vung vẩy, đang huyên thuyên điều gì đó bên tai cô gái. Hai người đã đi khuất.

Tôi ngồi vào sau máy chữ định tiếp tục công việc, nhưng hai người khách kỳ lạ vẫn chưa rời khỏi đầu tôi. Sau khi đánh hỏng hai trang giấy tôi đóng máy lại, chấm dứt ý định viết cho xong bài báo.

Tôi về đến nhà trong tâm trạng bứt rứt. Vợ hỏi vì sao về muộn, tôi trả lời ấp úng, cáu bẳn và hoạnh hoẹ vô cớ đứa con gái. Mắng cháu khi thấy nó chuẩn bị đến chơi nhà bạn gái sau bữa cơm tối - ở miền vĩ độ chúng tôi trời vẫn còn sáng đến tận khuya. Buổi tối hôm đó trôi qua một cách phí hoài vô vọng.

Trước khi đi ngủ, chưa yên tâm, tôi gọi điện đến nhà khách.

- Vôrônhin lại quấy rầy chị đây. Hai người khách tôi gửi chị ra sao rồi?

Chị nhân viên lễ tân trả lời tôi khe khẽ:

- Hai con bồ câu đó ngủ rồi, vừa ngủ xong

3.

Ngày hôm sau, khi hai vợ chồng đến chỗ tôi làm việc, không khí trong phòng như thoang thoảng mùi sữa tươi và mùi dưa chuột mới hái. Krôtôv mặc áo săng đay đan kiểu mới, quần sáng màu, đi giày săng đan. Cachia thay quần bò bằng chiếc váy ngắn màu xanh, để hở đôi chân rám nắng. Mái tóc dài của cô được chải gọn gàng, phủ lên lưng và đôi vai như một tấm khăn san.

Một số cộng sự đang có mặt ở phòng làm việc của tôi. Tôi giới thiệu hai vợ chồng Krôtôv với họ: Cachia - nhân viên mới của phòng lưu trữ băng, còn Xecgây tôi gọi là phóng viên tập sự đang muốn thử sức mình trong công tác phát thanh. Krôtôv lịch sự cúi đầu chào. Cachia đứng im, mắt nhìn xuống sàn, xinh xắn và mảnh mai.

Tôi mời hai người ngồi. Những người khác im lặng quan sát.

Sau đó, đúng như tôi dự đoán, Ivan Ivanôvich Xuvôrôv cựa mình cót két trên ghế. Bác là người cán bộ cao tuổi nhất trong chúng tôi, biên tập viên trưởng của phòng nông nghiệp. Bằng một giọng nói như ống bơ gỉ bác cật vấn: phải chăng chàng trai kia được coi là cộng tác viên trong biên chế của ban biên tập.

- Không, - tôi nói, - cậu ấy được giao một công việc, nếu làm tốt sẽ được nhận vào biên chế với thời gian tập sự một tháng. Bác Ivan Ivanôvich ạ, tiện đây xin nói là bác có thể giao cho cậu ấy một đề bài. Thời gian gần đây chỗ bác bài vở không được nhiều lắm, - tôi lưu ý với giọng pha chút chê trách. - Thì đây chính là sự hỗ trợ dành cho bác.

- Thôi, xin đủ, - Xuvôrôv làu bàu. - Tôi tự tìm cách xoay xở lấy. Chẳng có thì giờ đâu mà bảo ban người khác. Đồng chí biết đấy, tự mình viết lấy đơn giản hơn là chữa bài người khác. Tôi không cần sự hỗ trợ đó, không có nó tôi cũng chẳng sao.

Tôi những muốn cảnh cáo Xuvôrôv vì tính ngang ngạnh và gắt gỏng kinh niên. Thực chất bác ta là một cán bộ kém năng lực và vô tích sự. Nhưng đằng sau bác ta là ba mươi năm thâm niên công tác được tích cóp lại, y hệt khoản tiền trong sổ tiết kiệm.

- Bác làm như vậy thật phí hoài, - tôi nói. - Rồi bác sẽ hối tiếc vì đã chồi từ. Đúng vậy không, Xecgây?

Tôi ngạc nhiên vì Krôtôv vẫn lặng thinh. Dướng một bên chân mày, chàng trai nhìn Xuvôrôv như nhìn một cái gì đó có vẻ hoang dã, không hiểu được. Phổ biến xong công việc tôi cho các cộng sự về chỗ làm việc. Mọi người rời căn phòng.

Krôtôv đưa mắt nhìn theo Xuvôrôv, rồi hỏi tôi:

- Người đó là ai vậy?

Tôi giải thích. Cậu ta lại hỏi:

- Một nhà báo giỏi à?

- Một cán bộ có kinh nghiệm.

Krôtôv suy nghĩ giây lát rồi nói dằn từng tiếng một:

- Ông ấy làm người ta liên tưởng đến lão già Romualduch đang nhai miếng xà cạp.

Tôi lạnh lùng nhìn chàng trai.

- Tôi không biết nhân vật đó. Nhưng từ giờ trở đi cậu hãy giữ trong đầu những xét đoán về con người.

- Ngay cả khi người ta làm nhục cháu?

- Chẳng ai làm nhục cậu cả, đừng có suy diễn. Bác ta không thể hiểu được ngay là đang tiếp xúc với một thiên tài. Đúng vậy không, Cachia?

- Vâng ạ! - cô gái đáp lời và tươi tỉnh ra. - Xeriôgia này, bác ấy nào đã biết anh đâu.

"Lạy chúa tôi", - tôi nghĩ... Tôi thở dài và chuyển hướng câu chuyện: hai vợ chồng đã nghỉ ngơi ra sao?

- Cám ơn chú, tốt lắm ạ, - Krôtôv trả lời.

- Tuyệt lắm ạ! - Cachia xác nhận.

- Hai cháu ăn sáng chưa?

Vâng, họ vừa rời nhà ăn, lần đầu tiên trong đời được thưởng thức món thịt hươu.

- Thế nó ra làm sao, ngon chứ?

- Rất ngon ạ! - cô gái đánh giá.

- Không gì ngon bằng! - chàng trai tấm tắc.

Chúng tôi chuyển sang chuyện về công việc. Tôi yêu cầu Cachia viết lý lịch và điền vào phiếu lao động. Cô gái ngồi sang một bên, sau chiếc bàn nhà báo nho nhỏ, còn tôi nói chuyện với Krôtôv. Tôi vừa mới bắt đầu kể cho chàng trai nghe về vùng Taiga của chúng tôi, một vùng đất tĩnh mịch như một trại thợ săn, thì đã nghe giọng nói của Cachia:

- Xong rồi ạ. Cháu viết xong rồi.

Tôi cầm lấy tờ giấy cô đưa. Nét chữ to tròn và đều đặn. Bản lý lịch được viết như thế này:

"Họ và tên: Krôtôva Ekaterina Alekxeevna (trước khi lấy chồng họ là Naumôva). Sinh ngày 16 tháng 5 năm 1955 tại Mascơva. Bố là cán bộ khoa học ở Viện luyện kim. Mẹ là bác sĩ. Năm 1962 vào trường phổ thông, năm 1972 tốt nghiệp. Đoàn viên Comxômol từ năm 1964".

Hai phần ba tờ phiếu cán bộ vẫn để giấy trắng.

- Được rồi, - tôi bảo. - Đâu vào đấy cả. Bây giờ cháu sang phòng lưu trữ băng, ở cuối hành lang, phòng bên trái. Hỏi chú Lêônhit Xemenôvich Gôlubev. Chú ấy là phát thanh viên. Nói là tôi cử cháu đến làm việc. Chú ấy sẽ hướng dẫn công việc cho.

Môi cô gái mấp máy nhắc lại tên người cần gặp. Cô nhìn chồng lần cuối như để chia tay... Chúng tôi còn lại hai người.

Trong vòng nửa giờ tôi kể cho Krôtôv về miền đất của chúng tôi, khuất nẻo giữa rừng Taiga rậm rạp. Vành đai bắc cực cắt qua miền đất này vào đúng điểm giữa. Đôi mắt Krôtôv vụt sáng khi nghe tôi kể tên các đại lý thương nghiệp của người Êkimô: Kabrô, Maierô, Aimô, Taimura... Tôi nói về đặc thù của nền kinh tế địa phương, về các đàn hươu rong ruổi trên những miền đất hoang, về các lán trại đơn độc của thợ săn, về những trại thú, nơi người ta thuộc những bộ lông cáo màu ánh bạc, về các đội địa chất đang thăm dò quặng quí hiếm - quặng spat gốc băng đảo, về các tuyến đường bay không có ranh giới của những chiếc máy bay AH-2. Chàng trai xúc động ngồi nghe. Tôi nói thêm rằng bất cứ một người nào mới đến vùng này đều lồ lộ như một cây cao, và mọi người đánh giá anh ta như đánh giá tuổi cây qua từng thớ gỗ.

Krôtôv thở dài.

- Thế là chúng cháu gặp may!

- Đúng, các cháu đã gặp may.

Tôi lại kể tiếp cho chàng trai nghe về cái mùa đông kéo dài sáu tháng làm đông giá những tâm hồn yếu đuối, nhiều người mới đến đã không chịu đựng nổi và bỏ chạy. Chàng trai cười vang như một đứa trẻ. Tôi bực mình:

- Làm sao vậy? Có gì buồn cười nào?

- Dạ, không ạ... Xin lỗi chú... Hình như, khi nhận xét về Lêonhit Andreev, Tôlxtôi có nói rằng nhà văn này hù doạ độc giả bằng những truyện ngắn của mình, còn ông ta thì chẳng hề sợ. Và cháu cũng không sợ.

- Thật uổng công. Tôi chẳng thêm bớt điều gì.

- Cháu không phải là chiếc mũ đỏ, còn chú không phải là con cáo xám. Đúng vậy không ạ?

- Cứ cho là thế. Tuy nhiên cậu cũng phải suy nghĩ đi. Dù chỉ vì Cachia. Tiện thể xin hỏi, cậu sẽ làm gì nếu khả năng viết báo của cậu chỉ là điều hoang tưởng và tôi buộc phải không nhận cậu vào làm?

- Điều đó không thể xảy ra.

- Vâng, tất nhiên! Còn có thể trông đợi ở cậu điều gì nữa! Mặc dù vậy, cậu có phương án dự phòng nào không?

- Còn dự phòng gì nữa! Cháu sẽ vào rừng Taiga.

- Cái gì, cái gì?

- Chăn hươu! Cháu đã đọc: ở đây cần người chăn hươu. Không đúng vậy sao?

- Đúng vậy. Nhưng cậu đã ở rừng Taiga bao giờ chưa? Tôi muốn nói rừng Taiga thực thụ kia, không phải những cánh rừng cỏn con ven ngoại ô Mascơva đâu.

- Lấy đâu ra rừng ạ. Cháu là dân thành thị mà.

Tôi phát bực.

- Vậy thì, tính tự tin của cậu chỉ là ngoáo ộp. Nói xin lỗi, nó gần như sự ngu ngốc. - Chàng trai tái mặt. - Chỉ có những ai không biết tự kiềm chế chút nào mới tự tin rằng sau khi ăn một que kem cà phê ở Mascơva mình có thể trở thành người chăn hươu. Đúng thế, cậu chỉ cần hình dung xem chăn giữ đàn hươu là như thế nào? Đó là sự du cư quanh năm ngày tháng trong chiếc lều da cơ động, là rét mướt của mùa đông, là ruồi muỗi của mùa hè, là cuộc sống trên yên ngựa xa cách các vùng dân cư, là kinh nghiệm, kinh nghiệm và kinh nghiệm! Vì sao ư? Vì phải học nghề từ tấm bé. Hơn nữa, không phải thổ dân ở đây ai cũng chịu đựng được. Thanh niên thích đi làm thợ máy hơn. Nhưng thôi, nói làm quái gì. Xecgây ạ, cậu lú lẫn rồi đấy, lạy chúa tôi! Đừng có nhắc lại với bất kỳ ai ở đây về việc đó nếu cậu không muốn để người ta cười vào mũi. Tôi cứ tưởng là cậu chín chắn hơn kia. Thật đáng buồn. - Tôi đánh diêm châm lại điếu thuốc đã tắt. Krôtôv ngồi với vẻ mặt căng thẳng, môi mím chặt. - Nếu rồi đây cậu không thành đạt gì trong lĩnh vực báo chí - mà giờ đây tôi thiên về ý nghĩ này - và cậu không tìm được lý do để trở về nhà, thì hãy đến làm việc ở công trường. Ở đây không có các nhà máy, nhưng nhà ở thì đang được xây dựng ít nhiều. Người ta sẽ nhận cậu làm chân thợ phụ. Tiền lương cũng khá, cộng với khoản phụ cấp bắc cực. Ít nhất cũng đủ nuôi Cachia của cậu.

Chàng trai nói, giọng bình tĩnh:

- Chú có thể cho cháu biết chú bao nhiêu tuổi rồi không ạ?

- Tuổi tôi? Biết để làm gì? Nhưng, được thôi. Bốn mươi hai

Chàng trai nhíu mày suy nghĩ điều gì.

- Cậu cần biết tuổi tôi làm gì? Muốn ghi tên tôi vào bộ sưu tập những kẻ lỗi thời của cậu à?

- Không ạ. Cháu tính xem còn bao lâu nữa thì cháu già. Chẳng lâu lắm đâu. Hai mươi lăm năm.

Theo cách của chàng trai, tôi nhẩm bài tính trừ: bốn mươi hai trừ mười bảy.

- Chà, đồ quỉ tha ma bắt! Như vậy cậu đã coi tôi là người già. Nếu biết được cậu đã dựa trên cơ sở nào thì hay đấy. Nào, nói xem.

- Vâng, chú nghe nhé. Một là, chú cho những lời khuyên thông thái. Hai là, chú tính trước đủ mọi chuyện, thậm chí chú cũng không quên khoản phụ cấp bắc cực. Chú tính toán mọi khoản, như trong bản quyết toán vậy. Chú khuyên răn - nghỉ khoẻ nhé. Xin cám ơn. Chỉ có điều cháu sẽ không dùng đến những lời khuyên đó.

- Thật uổng công! Uổng công!

- Không, chẳng uổng công đâu. Cháu cũng có thể cho chú những lời khuyên. Bao nhiêu cũng có.

- Cậu? Cho tôi? Nghe hấp dẫn đấy.

- Chú hãy rời văn phòng, mang theo một khẩu súng, dựng một lều trú đông trong rừng Taiga, chọn lấy một quyển sách và hãy sống!

- Nào, xin cám ơn về lời khuyên đó. - Tôi bất giác cười.

- Chú không thích à?

- Hoàn toàn không. Nhảm nhí, ngu ngốc và vô nghĩa.

- Duy lý và vụ lợi! Đó là đánh giá của cháu về các lời khuyên của chú. Chú có biết khi học ở trường cháu được nghe bao nhiêu lời khuyên kiểu đó rồi không? Một tỷ! Hai tỷ! Cháu có thể ngắt mạch bộ óc mình và sống theo các lời khuyên. Và mọi việc sẽ OK.

- Bộ óc ư? Có óc hay không? Vấn đề là chỗ ấy.

Krôtôv bỗng sừng sộ, mặt tái mét.

- Chú nói kiểu gì thế, hài hước à?

- Thôi được, thôi được, - tôi e ngại, - tôi xin lỗi. Nhưng dù sao cũng cần nói với cháu, nhà thông thái ạ, rằng cháu có một mớ triết lý khá rối rắm. Tôi chuyển sang gọi bằng cháu được chứ?

- Cháu không phản đối.

- Cám ơn. - Tôi nói. - Còn với cháu thì tôi chưa cho phép đổi cách xưng hô đối với tôi.

- Cháu hiểu.

- Có thể đổi cách xưng hô khi cháu trở thành tiểu thuyết gia nổi tiếng. Cháu cười gì? Sự khôi hài u ám chăng?

- Không ạ, chẳng đến nỗi nào... tàm tạm.

- Cháu thật xấc láo.

- Đúng mực.

- Còn đúng mực nữa à! Nếu cháu biện minh được cho những ý kiến của cháu, dù chỉ mười phần trăm thôi, tôi sẽ bảo cháu bớt đi trong người tôi bấy nhiêu phần trăm máu. Xin nói thêm là tôi bị cao huyết áp.

- Cháu khuyên chú đi vào rừng Taiga.

- Ồ, cháu hãy quẳng cái chuyện vớ vẩn ấy đi. Tôi ngồi ở chiếc ghế này tám năm rồi. Và tôi không thu xếp rời khỏi nơi này nếu chưa bị buộc thôi việc. Tôi thích chỗ này. Mặc dù, cũng phải thừa nhận rằng ở đây còn bệnh thủ cựu.

- Cháu hiểu.

- Cháu hiểu cái gì?

- Còn bệnh thủ cựu ạ.

- Như ở mọi nơi, như ở mọi nơi... Cháu hiểu nhiều về bệnh thủ cựu. Đối với cháu thì người nào thích một tác phẩm cổ điển chắc rằng anh ta thuộc loại thủ cựu. Còn cháu thì chỉ cần Pholkner.

- Pholkner cũng là tác giả cổ điển.

- Có thể lắm. Tôi không định tranh luận. Theo tôi thì tác giả này khá phức tạp. - Tôi liếc nhìn: cậu ta không cười chứ? Không, cậu ta ghìm được. - Thôi nhé, bây giờ tôi phải đi họp. Nhiệm vụ giao cho cậu là như thế này...

Tôi nói rõ là cậu ta phải đi làm một bản tin về một đội địa chất, bằng bài viết, không có máy ghi âm. Đề tài là tổng kết mùa thăm dò ngoài thực địa.

- Cháu cứ tự giới thiệu là cộng tác viên nghiệp dư. Nếu người ta yêu cầu xác nhận, mà điều này có thể xảy ra lắm, thì gọi điện cho tôi.

- Vâng.

Ngắn gọn và rõ ràng. Chàng trai đi ra. Tôi ngồi lại một lát, suy nghĩ, hút thuốc, rồi nhấc ống nghe gọi kế toán trưởng đến. Bà ta đến ngay - một phụ nữ gầy gò, khô khốc. Tôi đưa bà xem các giấy tờ của Cachia. Qua cặp kĩnh lão, Clavdia Ilinhichna đọc các giấy tờ rồi nhướng mày ngạc nhiên:

- Một cô gái trẻ như thế này ư, đồng chí Bôris Antônôvich, từ trường phổ thông vào thẳng đây sao?

- Vâng, đúng là trẻ, như vậy thì đã sao? Không lẽ có thể bằng cách nào đó tính lùi ngày sinh của cô ta... sớm hơn một tuần chẳng hạn? Cô gái đến đây từ Mascơva.

- Không có giấy gọi?

- Tất nhiên rồi.

- Một sự vi phạm, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

- Tôi biết, chị Clavdia Ilinhichna ạ. Tôi đang làm quyết định. Cô bé hầu như hết nhẵn tiền.

- Tôi hiểu, thưa đồng chí BôrisAntônôvich.

- Thế thì tốt. Mà còn một việc nữa. Có thể bắt đầu từ hôm nay ta phải nhận chồng cô ta vào làm phóng viên, cái cậu Krôtôv ấy. Chị nhớ cho.

- Vâng ạ, thưa đồng chí. Cũng trẻ như thế chứ ạ?

- Vâng, chị biết đấy, cũng trẻ như vậy. Có thể là ở bên cạnh họ rồi chúng ta cũng trẻ ra.

- Chẳng lẽ thế sao, Bôris Antônôvich?

- Về mặt tâm hồn, chị Clavdia Ilinhichna ạ, trẻ ra về mặt tâm hồn.

- À vâng, đồng chí nói với ý ấy, - chị nói, với nụ cười làm duyên của người có tuổi. - Tôi không phản đối, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

"Quỉ bắt chàng trai này đi, - tôi nghĩ, - chỉ mong sao cậu ta đừng thất bại".

***

TRÍCH NHẬT KÝ KRÔTÔV

"25.7.1972, vào buổi trưa, trên một ngã tư đông đúc ở Mascơva xảy ra một vụ va quệt. Trong sổ sách biên bản của cảnh sát giao thông vụ này không có ý nghĩa gì. Một người đi bộ quá tốc độ cho phép đã va vào một khách bộ hành khác.

Các quả táo từ trong túi lưới văng ra, lăn lông lốc trên mặt đường như những quả bóng lấp lánh sắc màu. Cô gái mím môi.

Chàng trai chạy rối lên để đuổi nhặt những trái cấm hái từ vườn tiên. Khi chàng quay lại thì nàng đã bỏ đi. Người nàng ưỡn ra sau với vẻ tức giận, sau lần áo váy đôi vai nàng so lại như hai gọng kìm. Một bàn chân đen của người Phi Châu đá phải một quả táo làm nó bắn vọt ra giữa đường.

Toàn thân nàng toát ra vẻ căm ghét và khinh bỉ. Ghét và khinh.

Hôm đó tôi có nhiều thời gian rỗi. Đã định đi xem phim, nhưng trên suốt dọc đường cứ đắn đo: liệu có đáng để phí hoài ba giờ đồng hồ cho một bộ phim nhạc kịch Mêxicô không. Các bạn hãy hiểu cho, tôi là một kẻ sành xem phim.

Cô gái với túi táo vơi vẫn rảo bước, không thèm ngoái lại.

Tôi nhét mấy quả táo nhặt được vào trong vạt áo. Còn một quả thì lau qua quýt rồi cắn một miếng.

Em xuống ga tàu điện ngầm.

Chẳng có việc gì thú vị bằng bám đuôi theo. Cách thức thật đơn giản. Để ý theo cô gái chân dài, mặc mini gýp. Em đi trên hè phố, em vượt qua đường, em liếc nhìn các biển quảng cáo, em vào cửa hiệu mua hàng, em gọi điện thoại, em xuống ga tàu điện ngầm - em lên xe. Bạn cũng đi trên hè phố, cách cô ta chừng hai chục bước chân, cũng qua đường, cũng liếc nhìn các biển quảng cáo, cũng vào cửa hiệu, cũng xuống ga tàu điện ngầm - cũng lên xe. Một giờ, hai giờ, ba giờ - bao lâu cũng được! Em đi đâu? Em là ai? Mười bậc thang của cầu thang máy là khoảng cách giữa quen biết và xa lạ.

Ira? Anhia? Ôlia? Liuba? Xveta?

Trước khi bước ra khỏi cầu thang máy em ngoái đầu nhìn lại. Như con chim rừng cảm nhận ra ánh mắt của người thợ săn nấp sau bụi cây.

"Cái đuôi" đã bị phát hiện. Cuộc săn đuổi không còn bí mật nữa.

Tôi nhai rau ráu miếng táo.

Từ trong đường hầm đoàn tàu điện ngầm lao ra như điên như dại, hình dáng tựa một chiếc phong cầm kéo căng. Qua những khoảng trống trên ống thân tàu người người lũ lượt lên xuống. Em lên tàu, tôi lên theo với miếng táo nhồm nhoàm trong miệng.

Đoàn tàu chuyển bánh chui vào cổ họng đen ngòm của đường hầm.

Em có nhìn không?

Em đã nhìn.

Tôi cầm quả táo huơ lên như huơ chiếc đèn pin.

Em ngoảnh mặt đi.

Rồi ngay lúc đó em và tôi xuống tàu ở ga Krasnôpres- nhenskaia.

Tiếng loa oang oang khẳng định dòng chữ ghi tên ga trên tường.

Giờ đây em và tôi ra ga theo cầu thang máy. Tôi đứng thấp hơn em mười bậc thang. Đôi chân em như hai tia sáng đen nhánh đập vào mắt.

Rồi một buồng điện thoại công cộng nuốt chửng người em.

Tôi đứng tựa lưng vào một quầy kem bỏ trống... Quả táo trong tay tôi vụt bay đi.

Và thế là, một cuộc nói chuyện qua điện thoại.

"Alô, Xveta đây, cậu đấy à? Mình gọi từ máy công cộng ở ga Krasnôpresnhenskaia. Mình vừa gặp một chuyện kinh khủng. Một kẻ lạ mặt đang săn đuổi mình. Ừ, đúng nó đang săn đuổi. Nó bám theo từng bước và đang đứng nhai mấy quả táo của mình. Đấy, nó đứng kia kìa, đang chờ mình ra khỏi buồng điện thoại. Người thế nào ấy à? Tóc vàng, tuổi chừng mười tám, cao, mắt xanh. Cậu bảo mình phải làm gì bây giờ?"

Hoặc là:

"Alô, Vichia, cậu đấy à? Mình gọi từ đâu ấy à? Từ máy công cộng. Mình ra cửa hàng mua táo, và cậu có tưởng tượng được không, một kẻ lạ mặt đâm sầm vào mình và làm đổ túi táo. Việc xem phim thế nào ấy à? 8 giờ đợi mình ở góc phố, như mọi khi".

Và cũng có thể:

"Mẹ ơi, con về muộn đấy. Ở cửa hàng phải xếp hàng dài kinh khủng. Con đã mua được táo, nhưng một kẻ nào đó đâm sầm vào con làm đổ mất một nửa. Gì cơ? Bây giờ con đang ở ga Krasnôpres- nhenskaia... Nó săn đuổi con. Suốt nửa giờ nó bám theo con, không chịu rời. Gì cơ? Vâng, con sẽ đi taxi"

Và bỗng dưng:

"Alô, sếp đấy à? Marina, biệt hiệu nước giải khát có gaz đang nói đây.

Việc xếp giao em làm xong rồi, mua được táo, một rúp hai. Em phát hiện ra một "cái đuôi". Hắn vờ vĩnh va vào em. Em đang cố đánh lạc hướng hắn. Sếp có chỉ bảo gì không?"

Mẹ, Vachia, Xveta, sếp... Những đồng minh nguy hiểm. Giờ hành động đã điểm.

Tôi lấy quả táo hồng vạch lên kính buồng điện thoại ba chấm, ba gạch, ba chấm. Tín hiệu SOS.

Trả lời tôi là cái nhìn phẫn nộ của đôi mắt nâu.

Đôi môi mấp máy... Vành tai ửng hồng áp vào ống nghe.

Tôi giơ ba ngón tay, ngụ ý bảo giới hạn thời gian tối đa cho một lần nói chuyện bằng điện thoại công cộng.

Cửa buồng điện thoại bật mở. Tôi và em mặt đối mặt. Tôi bổng biến thành một cây táo có quả.

- Táo của cô đây. - Tôi nói rồi trút táo sang túi lưới của em".

Sáng hôm sau, Krôtôv mang đến một bài báo vừa viết xong. Đặt lên bàn tôi rồi đi ngay. Nửa giờ sau tôi ký quyết định nhận chàng trai vào ban biên tập.

Bài báo của chàng trai làm tôi ngạc nhiên. Trên bốn trang giấy Krôtôv đã gói gọn cả quá khứ, hiện tại và tương lai đội địa chất của chúng tôi, tưởng như cậu ta đã rong ruổi trên những miền thâm sơn cùng cốc với chiếc ba lô trên lưng.

Tôi nhấc ống nghe và gọi điện thoại cho Môrôzôv, đội trường đội địa chất.

- Lev Lvôvich, chào cậu. Vôrônhin đây. Có một chàng trai tóc sáng vừa đến chỗ cậu chứ?

- Có đấy, - Môrôzôv trả lời, - cậu bé làm mình mệt nhoài - Một tên du đãng chính hiệu.

- Hãy nghe mình đọc những điều cậu ta viết nhé. - Tôi đọc bản tin của Krôtôv. - Cậu sẽ ký xác nhận dưới bài viết này chứ?

Môrôzôv thở phì phò vào ống nghe, chưa trả lời.

- Sao cậu im lặng, Lev Lvôvich?

- Mình đang suy nghĩ. Cậu tìm đâu ra chàng trai đó thế?

- Hắn ta tự bay đến đây. Cậu tưởng tượng xem, cùng với một cô vợ trẻ.

- Lại còn thế nữa? Một tên du đãng thông minh.

- Nếu không nói quá... Còn việc ký xác nhận thì sao?

- Hắn viết nhanh và sắc sảo. Nắm bắt được thực chất. Hãn hữu mới gặp được một việc như vậy ở những người anh em của cậu.

- Nghĩa là cậu ký chứ?

- Cả hai tay.

- Mà cậu biết không, Lev Lvovich, - tôi bỗng tự hào, - đây là bài viết đầu tiên của hắn đấy, cậu có tưởng tượng được không?

- Chà, đồ du đãng! Hắn ta họ gì, nói được chứ?

- Krôtôv. Tên là Xecgây.

- Giờ thì mình nhớ rồi. Hãy cử hắn đến đây nữa nhé. Thằng nhỏ viết hay đấy.

Tôi gặp Krôtôv ở phòng lưu trữ băng cùng với Cachia. Khi tôi mở cửa, hai người dịch xa nhau ra. Tất nhiên là họ vừa ôm nhau.

- Nào, tiểu thuyết gia, - tôi bảo. - Tôi đã đọc bài viết của cháu. - Hai người lắng nghe. Tôi cố ý kéo dài thời gian chờ đợi. - Không biết tiểu thuyết thì thế nào, nhưng bản tin thì cháu đã thành công. Giỏi! Tôi nhận cháu vào làm việc.

Cachia khẽ reo lên một tiếng. Krôtôv đưa tay nới cổ áo, dường như vì nó mà cậu ta ngột ngạt. Mấy giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.

- Cháu được hưởng mức lương chín mươi tám rúp. Cộng với sáu mươi phần trăm phụ cấp khu vực. Nhuận bút thì tuỳ số bài viết. Được chứ?

Krôtôv đưa tay lau mồ hôi trán.

- Các cháu đang khó khăn, - tôi nói tiếp, và chẳng hiểu vì sao cảm thấy vui, - nên cả hai có thể đến tài vụ nhận tiền tạm ứng. Mỗi cháu năm mươi rúp, đủ chứ?

- Ôi! - Cachia nói và bị nấc thành tiếng. - Xin lỗi. Ik!

Krôtôv đưa tay vuốt lưng vợ.

- Đó là do cô ấy gặp may, - chàng trai giải thích. - Cô ấy linh cảm thấy sắp được một đôi giày mới.

- Thế còn cháu, tại sao không bị nấc?

- Cháu không phải là người yếu thần kinh. Mọi việc đều hợp lô gich.

- Chà chà! Thế cháu định để cô vợ trẻ của mình trú ở đâu, hả nhà lô gich học? Trên chiếc giường gấp ở nhà khách hay sao?

Chàng trai xoa đầu làm rối tung mái tóc sáng màu.

- Nói chung chúng cháu nghĩ rằng...

- Nào, nói xem, hay đấy.

- Cùng lắm thì có thể dựng một chiếc lều da.

- Cực kỳ thông minh.

- Hoặc tìm một xó xỉnh.

- Thế đấy.

- Hoặc ban biên tập cấp cho chúng cháu một căn hộ, - chàng trai kết thúc.

- Một ý kiến tuyệt vời. Nhưng tìm đâu ra nó, cái căn hộ ấy?

- Chúng cháu không khó tính lắm đâu, chú Bôris Antônôvich ạ. Chúng cháu chỉ cần một ngôi biệt thự bỏ hoang nào đó, hai tầng là đủ. Thế có được không, Cachia?

- Anh ấy nói đùa đấy, chú Bôris Antônôvich ạ. Anh ấy cứ hay đùa, - cô gái nói vội vàng. - Chú đừng nghe anh ấy. Chúng cháu chẳng cần gì cả đâu. Chú giúp chúng cháu như vậy là nhiều lắm rồi. Xin chú đừng lo. Chúng cháu sẽ tìm cách tự lo liệu lấy.

- Cachia sẽ lo liệu. - Krôtôv xác nhận, tay quàng qua vai vợ. - Cachia đảm đang lắm. Chú chưa biết cô ấy đâu. Sáng nay cô ấy đã khéo xoay xở một bữa ăn sáng chỉ mất ba mươi tám côpếch. Một kỷ lục về tiết kiệm.

- Xeriôgia, thôi đi anh!

- Và làm cháy cái bàn là ở nhà khách.

- Xin anh thôi đi nào! Chú đừng nghe anh ấy, chú Bôris Antônôvich ạ. Chúng cháu sẽ tìm cách lo liệu.

- Các cháu hãy suy tính cho kỹ, - tôi bảo. - Một tháng nữa là đến mùa đông. Hãy vào làng tìm xem, có thể ai đó sẽ cho thuê phòng ở. Nhưng ít có hy vọng lắm. Ở đây người ta không thích tiếp nhận những người thuê nhà. Nếu không tìm được chỗ nào thì buộc lòng phải bố trí các cháu ở tạm trong một phòng làm việc.

Hai vợ chồng đưa mắt nhìn nhau. Krôtôv huýt một tiếng.

- Trong phòng làm việc của chú à?

- Sao lại phải ở ngay trong phòng tôi. Ở đây đang còn một phòng bỏ trống. Không được tiện nghi lắm, tất nhiên là thế, nhưng còn hơn là không có chỗ ở. Dù sao thì cũng được cái đi làm gần.

- Không như ở Mascơva. - Cachia nói với giọng vui sướng. - Vậy mà, chú biết không, cháu tưởng chỉ ở Mascơva mới khó khăn về nhà ở. Xem ra thì ở đâu cũng thế.

- Vấn đề muôn thuở, - Krôtôv ngắt lời. - Xây dựng nhiều, nhưng vẫn thiếu.

- Đúng vậy, - tôi nói.

Sau đó chúng tôi còn trao đổi về trách nhiệm của người trông coi phòng lưu trữ băng. Tôi quyết định cho hai vợ chồng nghỉ làm ngày hôm sau để đi tìm chỗ ở, rồi để họ ngồi lại với nhau.

Hai vợ chồng không tìm được chỗ ở.

Công văn đề nghị của tôi gửi Uỷ ban nhân dân thị trấn cũng không mang lại kết quả. Trước mùa xuân không có cách gì giải quyết được.

Theo chỉ thị của tôi, trưởng phòng hành chính đã cho cải tạo một trong các phòng làm việc thành phòng ở. Đó là một căn phòng vừa thiếu ánh sáng, vừa chật hẹp, có một cửa sổ con và một lò sưởi lớn.

Hai vợ chồng Krôtôv dùng số tiền tạm ứng vừa nhận được để mua một chiếc giường sắt kiểu cũ với thành giường cao lênh khênh, còn bàn ghế và tủ thì ban biên tập cho họ.

Tôi được an ủi với ý nghĩ rằng họ đỡ phải gánh nước và chẻ củi vì đã có sẵn thùng chứa nước và củi thanh.

Họ đã ở lại trong trụ sở ban biên tập như vậy đấy.

Sự xuất hiện của Krôtôv ở ban biên tập không phải là điều vừa ý đối với tất cả mọi người. Ivan Ivanôvich Xưvôrôv và những cán bộ biên tập trạc tuổi bác thì công khai phản ứng. Thật là lố bịch và sai lầm! Thằng bé mười bảy tuổi, thiếu văn hoá, thiếu kinh nghiệm đã được nhận vào biên chế. Chẳng có ở đâu người ta làm như vậy! Không thể được, cứ để nó sống với bọn này cho nó khôn lên đã, cứ để con gà trống quay của nó mổ máy chỗ nào tuỳ thích - sau đó hẵng cầm bút. Bôris Antônôvich đã có thái độ khoan dung khó hiểu. Sắp tới đồng chí ấy còn nhận vào ban biên tập những đứa bé mới hết tuổi đi nhà trẻ.

Cuộc xung đột đã nổ ra sau khi Krôtôv đi làm được một tháng.

Ivan Ivanôvich Xuvôrôv viết xong một bản tin về một sự việc ly kỳ.

Trên sông Côtui, một người Evenki làm nhiệm vụ dẫn đường, tên anh ta là Khutôcôghire, đã đánh nhau với một con gấu để cứu hai nhà địa chất trẻ. Xuvôrôv rất tự hào vì đã tìm ra cái tin giật gân này. Đánh máy xong bản tin, người đánh máy đưa cho Krôtôv để sử dụng vào buổi phát thanh ban ngày. Được một lát thì Xuvôrôv đến.

Người ta nói cho bác biết là bài viết đang ở chỗ Krôtôv.

Với những vết nhăn cau có trên trán, Xuvôrôv xo vai bước về phía bàn làm việc của Krôtôv. Bộ mặt cau có của bác run run giận dữ.

- Bài viết cậu cầm hả?

Krôtôv cứ ngồi viết tiếp.

- Bài viết cậu cầm hả? Sao không trả lời?

Krôtôv ngẩng nhìn lên với ánh mắt phân vân.

- Bác hỏi tôi đấy à?

- Còn hỏi ai nữa? Đưa bài viết đây!

Krôtôv đặt bút sang bên cạnh.

- Tôi với bác chuyển sang xưng hô "cậu cậu tớ tớ" từ bao giờ vậy?

- Đưa đây, đưa đây. - Xuvôrôv nói lắp bắp.

Krôtôv chìa cho bác tờ giấy đánh máy đã được chữa dày đặc đến mức không còn đọc được những dòng đánh máy chen giữa những hàng chữ viết. Xuvôrôv giằng lấy tờ giấy rồi liếc nhìn - và khuôn mặt bác méo xệch đi một cách kỳ lạ. Mấy giây sau bác già khe khẽ mấp máy môi.

- Đây là... mày... đối với tao... như vậy?

Krôtôv bình thản xác nhận:

- Đúng, tôi chữa đấy.

Toàn thân Xuvôrôv run lên.

Bác nhìn khắp phòng, nhưng không để mắt vào chỗ nào, tay nắm chặt tờ giấy như đang bóp chết một thứ tà ma độc hại gì đó.

Trong cái im lặng nặng nề đó Krôtôv cất giọng:

- Theo tôi, cái tin này hay đấy. Bản chất sự việc khá hấp dẫn. Chỉ có điều nó được viết ra một cách kém cỏi. Tôi đã thu gọn bài viết, chọn lấy những thông tin chủ yếu ở đoạn đầu, vất bỏ những cái hào nhoáng bề ngoài. Dưới dạng đó thì bài viết sẽ dùng được.

Xuvôrôv hét lên:

- Mày... dạy tao... đấy hả?

- Thế bác tưởng bác là cái gì, chúa lắm đấy!

- Mày dạy khôn? Cho tao? Mày dạy? - Bác ta vo viên tờ giấy rồi ném vào mặt Krôtôv. - Đấy, cho mày đấy! Cầm lấy và chùi mũi bằng cái bài viết của mày.

Krôtôv bắt gọn viên giấy bay về phía mình, vuốt lại cho phẳng phiu rồi nói với cả phòng, giọng dằn từng tiếng một:

- Như Ostap Benđerơ đã nói, thưa thủ lĩnh, đã đến lúc ngài cần đi chữa bệnh bằng vật lý trị liệu...

- Đồ nhóc con mồm còn hôi sữa! Đồ xỉ mũi chưa sạch! Tao đã có bài đăng từ khi mày còn chưa ra đời kia.

- Việc đó chẳng mang lại lợi ích gì cho ngành báo chí nước nhà.

- Đồ công tử bột thành thị.

Krôtôv cười ranh mãnh.

- ... Định dạy khôn tao à! Chưa ngửi được mùi đời mà đã định dạy khôn người khác. Tao sẽ cho mày một bài học cho mày vãi đái ra quần.

Krôtôv nén cười.

- Tôi chưa hiểu, - cậu ta nói, - Điều đó là thế nào?

- Mày sẽ biết là thế nào! Mày chỉ quen ăn sẵn, hiểu chưa, quen sống dười nách bố mẹ. Chưa ngửi mùi chiến tranh, chưa biết cuộc đời... mà đã định dạy khôn!

Xuvôrôv bắt đầu nói lung tung. Krôtôv chăm chú nghe, đầu nghiêng sang một bên, tóc xoã lên vai. Cuối cùng chàng trai tìm được thời điểm thích hợp để tung ra câu trả miếng:

- Bố già ơi, rõ ràng là khi học vỡ lòng người ta đã quên không dạy cho bố về sự lễ độ.

Xuvôrôv lao về phía chàng trai. Phát thanh viên Golubev tóm được tay áo Ivan Ivanôvich, kéo bác ta lại. Những người có mặt cũng xúm vào can ngăn, đưa nước cho bác uống rồi kéo bác ra ngoài... Iulia Pavlôvna, một phụ nữ đứng tuổi, cao kều, bắt đầu quở mắng Krôtôv.

- Lẽ ra anh phải đưa bài báo cho Bôris Antônôvich. Chính Bôris Antônôvich sẽ chữa bài cho Ivan Ivanôvich. Về mặt đạo lý anh không có quyền làm việc đó. Hơn nữa, bác ấy có kinh nghiệm hơn anh, bác ấy lại là biên tập viên trưởng... Chẳng lẽ anh không hiểu được điều đó sao? Dù chỉ là tuân thủ nguyên tắc có trên có dưới.

- Có trên có dưới trong hoạt động sáng tác? Đó là cái gì vậy?

- Ái chà, thôi đi, tôi xin! - Miuxôva bất bình. - Anh vừa mới đến đây làm việc mà đã định chữa bài của biên tập viên trưởng. Nói tóm lại đó là việc khôi hài và vô luân.

Krôtôv vung tờ giấy nhàu nát.

- Tôi phải phát lên đài thứ nhảm nhí này ư? Cô thử đọc xem! "Nước dãi con gấu chảy ra"! "Những chiếc răng nanh nổi giận?"! "Những bộ mặt đầy khiếp đảm của các cán bộ thăm dò lòng đất"!

- Vâng, nhưng hãy nhớ cho rằng đó không phải là việc của anh. Tôi đồng ý là anh được giao nhiệm vụ làm bản tin giờ chót vì không có biên tập viên. Nhưng thực ra anh mới chỉ là phóng viên. Có các biên tập viên trưởng, và sau nữa còn có Bôris Antônôvich.

- Nhưng tôi ăn lương để làm gì?

- Thôi quẳng hết đi, cha nội ơi. - Gôlubev nói xen ngang, giọng ôn hoà. - Đừng chui đầu vào rọ. Anh có thể chữa bài của các cộng tác viên nghiệp dư. Đó là quyền của anh. Nhưng bài của một biên tập viên trưởng có ba mươi năm tuổi nghề thì...

- Tôi hiểu, - Krôtôv nói.

- Lạy chúa, anh hiểu ra!

- Lẽ ra việc cần làm không phải là chữa, mà là quẳng nó vào sọt rác.

- Thôi đi, cha nội, - Gôlubev nhắc lại, - đừng có bốc quá!

Krôtôv chộp lấy ống nghe, giận dữ đeo lên hai tai làm rối bù mớ tóc, rồi mở máy ghi âm. Sau đó chừng một phút Cachia lao vào phòng. Không để ý tới ai cả, cô đến đứng cạnh chồng, đưa tay vuốt lên vai chồng...

Cái hoạt cảnh gia đình này và cuộc xung đột với Krôtôv tôi nghe bà Iulia Pavlôvna thuật lại. Trong khi kể đôi chân mày bà nhướng lên ngơ ngác, đôi môi mím chặt.

- Đồng chí cần có biện pháp, thưa đồng chí Bôris Antônôvich!

Tôi hứa sẽ giải quyết.

Miuxôva đi ra. chưa hết xúc động

Sau giờ nghỉ trưa Xuvôrôv không đến ban biên tập. Việc này làm tôi bồn chồn. Tôi gọi điện về nhà bác. Vợ của Ivan Ivanôvich trả lời rằng bác trai không về nhà ăn trưa.

Tôi gọi Krôtôv đến chỗ tôi.

Cậu ta bước vào, tay cầm các dải băng ghi âm đủ màu sắc. Đầu tóc rối bù, trên tay một điếu thuốc còn đang toả khói.

- Chú gọi cháu ạ?

- Tôi gọi. Sao thế, bắt đầu hút thuốc à?

- Cháu thử hút xem sao.

- Quẳng mẩu thuốc đi, quẳng những đồ trang trí cây Nôel trên người cháu đi, chải lại đầu tóc cho đàng hoàng rồi hãy đến đây. Cháu đang làm việc ở ban biên tập hay ở rạp xiếc đấy?

- Chẳng lẽ hai nơi đó giống nhau sao?

- Châm chọc đủ rồi đấy! Hãy làm những gì chú bảo rồi mang cái bài viết bất hạnh đó đến đây.

Chàng trai nhún vai rồi bước ra. Chừng một phút sau có tiếng gõ cửa (thường ít ai gõ cửa khi đến phòng tôi).

- Mời vào!

Cái đầu tóc sáng của Krôtôv nhìn vào.

- Chú cho phép cháu vào chứ ạ?

- Vào đi.

- Chú cho phép ngồi chứ ạ?

- Cháu õng ẹo kiểu gì vậy?

- Cháu không õng ẹo. Mà chỉ tuân thủ nguyên tắc có trên có dưới. Chú cho phép ngồi chứ ạ?

- Ngồi xuống đi.

Chàng trai ngồi xuống ghế.

- Có thể hút thuốc được không ạ?

- Cháu làm sao thế, bắt đầu hút thuốc thật rồi à?

- Thử nghiệm lần đầu. Ở trường cháu chưa hút.

- Rồi cháu sẽ uống thứ gì tuỳ thích?

- Đúng thế ạ! Thuốc lá, rượu, ma tuý. Dây chuyền mà.

- Làm trò thế đủ rồi đấy. Bài viết ấy đâu?

Chàng trai đưa cho tôi cái tác phẩm bị nhàu nát và gạch xoá nhằng nhịt của Xuvôrôv. Tôi chăm chú đọc cả hai bản: bản đánh máy của Xuvôrôv, và bản viết tay chen giữa các dòng là của Krôtôv.

- Thế đấy. Mọi việc đã rõ. Giờ thì cháu hãy chú ý nghe nhé. - Tôi nhấc ống nghe và bảo nhân viên tổng đài nối máy để nói chuyện với phòng tài vụ đặt ở toà nhà bên cạnh. - Klavđia Ilinhichna đấy à? Chào chị. Vôrônhin đây. Trong quĩ của chúng ta còn tiền chứ chị? Còn à. Tốt lắm. Ngay bây giờ anh nhà báo mới ra lò sẽ đến chỗ chị. Vâng, vâng, chính anh ta, anh chàng trẻ tuổi ấy đấy, nhưng chứa đựng mầm mống của một kẻ hay gây gổ vĩ đại. Thế này nhé. Chị hãy làm giấy tờ cho anh ta đi công tác đến Ulekit. Thời gian 10 ngày. Bắt đầu từ mai. Cấp tiền theo qui định rồi đuổi ngay đi khi anh ta còn chưa kịp nói những điều nhảm nhí. - Tôi đặt máy xuống rồi bảo Krôtôv: - Đến đó làm giấy tờ đi công tác, rồi sáng mai ra sân bay và xéo đi cho khuất mắt. Chốc nữa đến đây chú giao nhiệm vụ. Có thể là phải đến trại chăn nuôi. Cần bài viết về việc nuôi hươu. Cháu sẽ được thấy Taiga, và những ảo tưởng trẻ con của cháu sẽ tiêu tan hết. Rõ cả chưa?

Với vẻ bàng hoàng, Krôtôv lắc đầu.

- Cháu chưa rõ chỗ nào?

- Cái này là thế nào... khen thưởng hay kỷ luật?

- Chẳng thưởng mà cũng chẳng phạt, nhà thông thái ạ. Chúng ta là một tổ chức để làm việc. Cần thiết thì bay đi, không có ý kiến gì hết. Còn về cái điều đáng xấu hổ hôm nay thì chú bảo trước cho cháu một cách hoàn toàn chính thức rằng: cháu hãy rụt ngắn cái lưỡi của mình lại.

- Cắt đi à?

- Rụt ngắn lại, chú đã bảo rồi! Và phải cố mà phân biệt giữa tự hào và tự kiêu, giữa tính nguyên tắc và tính trẻ con. Hết. Không tranh luận. Xéo khỏi đây ngay!

Xecgây vọt ra khỏi phòng, vô cùng phấn khích.

Tôi nhấc ống nghe và gọi điện đến ban văn hoá thành uỷ.

- Dina đấy à? - Tôi nhận ra giọng nói của cô thư ký. - Chào cô. Vôrônhin đây. Vừa rồi cô có tình cờ trông thấy người nào đến đấy không, một người đàn ông vẻ mặt buồn phiền, lông mày rậm, quần ống rộng?

- Xuvôrôv, đúng không ạ? - cô thư ký đoán ra ngay.

- Vâng, chính bác ấy.

- Bác ấy đang ngồi chỗ Venhiamin Ivanôvich. Bác ấy đến đây, làm náo động cả lên, chạy thẳng vào phòng Venhiamin Ivanôvich, áo măng tô cũng không thèm cởi ra.

- Đến mức ấy cơ à?

- Ngồi trong đó đến nửa giờ rồi. Vẫn mặc măng tô. Gọi bác ấy cho anh chứ?

- Không, không cần. Tất nhiên là đừng cho bác ấy biết việc tôi đã gọi điện. Được chứ?

- Tất nhiên ạ.

- Thế nhé, xin cám ơn. Tạm biệt.

Tôi đặt máy xuống và châm thuốc. Bên phòng bá âm vọng ra tiếng rít của băng ghi âm chạy qua đầu từ.

Vậy mà tôi đã nhiều lần nhắc nhở không được tua băng kiểu đó.

Sáng hôm sau Krôtôv đã bay đi.

Vào buổi trưa có điện thoại gọi đến từ ban văn hoá thành uỷ. Người ta nhắn tôi và Krôtôv đến gặp Bukharev.

Venhiamin Ivanôvich Bukharev ngồi trong một phòng làm việc rộng rãi, cửa sổ quay ra phía sông. Đó là một người đàn ông nhỏ thó, ốm yếu, tóc đen mượt, mặt rỗ hoa. Ông đứng lên bắt tay tôi rồi mời ngồi. Cặp mắt ti hí với mi mắt sưng mọng của Bukharev lướt qua bàn nhìn về phía tôi.

- Ít đến đây qúa đấy, đồng chí Vôrrônhin ạ. Đồng chí quên cả cấp trên rồi.

Câu mở đầu không hứa hẹn điều gì tốt lành. Tôi lấy thuốc lá châm lửa hút. Là người không hút thuốc, Bukharev cau mày, nhưng sau đó nghĩ lại, ông đẩy cái gạt tàn về phía tôi. Bằng một giọng khá ôn tồn ông hỏi tôi ở ban biên tập có điều gì mới, công việc ra sao. Tôi bắt đầu kể về một mạng truyền thanh mới, về một buổi phát thanh riêng bằng tiếng Evenki, trình bày những kế hoạch sắp đến của ban biên tập... Ông ngồi nghe, đưa mắt lướt qua vai tôi nhìn một nơi xa xăm nào đó. Nét mặt u buồn. Tôi nhắc lại là cuối tháng mười chúng tôi phải chuẩn bị một giờ truyền thanh cho đài Mascơva, trong đó tôi đề nghị có lời phát biểu của trưởng ban văn hoá.

Bukharev gõ nhẹ tay lên bàn.

- Không bàn về việc đó, không bàn về việc đó.

Tôi im lặng

- Đồng chí đang thực hiện chế độ tự trị phải không, đồng chí Vôrônhin?

Ông đứng bật dậy sau bàn, người gầy gò, nhỏ thó và nguy hiểm như một thùng thuốc nổ để mở. Xuvôrôv đã tác động có hiệu quả, tôi thầm nghĩ.

- Đồng chí đã phát triển chủ nghĩa tự do ở ban biên tập. - Bukharev hét lên. - Đồng chí đang lãnh đạo một cơ quan công tác tư tưởng hay một phòng thu mua? Tại sao không báo cáo chúng tôi biết đồng chí đã nhận ai vào làm việc?

- Tôi chưa kịp báo cáo.

- Chưa kịp là thế nào? Đồng chí đã nhận ai?

- Một thanh niên từ xa đến, rất có năng lực. Chỗ chúng tôi thiếu người. Tôi đã tiếp nhận.

- Làm chức vụ gì?

- Phóng viên bản tin giờ chót.

- Đảng viên chưa?

- Chưa, là đoàn viên Comxomôl, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich. Cậu thanh niên đó mới mười bảy tuổi.

- Đồng chí sẽ tổ chức nhà trẻ ở ban biên tập! Tại sao không xin ý kiến? Không hiểu nguyên tắc à?

- Nguyên tắc thì tôi biết. Tôi cho rằng tôi có thể tự tiếp nhận người làm phóng viên. Dù sao đó cũng không phải là biên tập viên hay biên tập viên trưởng.

- Đồng chí mánh khoé lắm, Vôrônhin ạ. Thế tại sao nhận vợ cậu ta?

- Tốt nghiệp phổ thông xong cô ấy đã đến đây cùng chồng. Đã một năm nay tôi thiếu người trông coi phòng lưu trữ băng. Không ai xin làm, vì lương thấp, cô gái nhận làm.

- Thế tại sao đồng chí mâu thuẫn với Xuvôrôv? Xúc phạm và định sa thải bác ấy? Mà bác ấy là người có nhiều cống hiến, đã ba mươi năm làm việc ở địa phương này.

- Tôi biết. Tôi không hề xúc phạm bác ấy. Bác ấy, như đồng chí biết đấy, là một người đa nghi và khó tính. Nếu bác ấy định thôi việc, tôi sẽ không nài nỉ bác ở lại. Với tính cách là một nhà báo thì bác ấy không đáng giá lắm. Đồng ý là thâm niên công tác của bác ấy rất cao, nhưng điều đó chưa đủ. Trong công việc của chúng tôi, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich, điều cần thiết nữa là phải biết viết, phải có tính sáng tạo. Tôi không rõ trước đây như thế nào, nhưng hiện tại thì Xuvôrôv không còn đủ khả năng nghiệp vụ. Tôi phát biểu điều này với đầy đủ ý thức trách nhiệm.

Bukharev nổi nóng thực sự.

- Đồng chí suy nghĩ không đúng! Cần phải bảo vệ những cán bộ lớp trước. Vậy mà đồng chí cho phép một đứa trẻ con lăng nhục một người có nhiều cống hiến. Đồng chí làm một việc tốt đấy chứ?

- Họ cãi vã nhau vì một việc vặt vãnh. Tôi đã cảnh cáo Krôtôv không bao giờ để xảy ra những sự việc tương tự như vậy nữa. Xuvôrôv cũng cần lịch thiệp hơn.

- Đồng chí biện bạch cho thằng bé! Tại sao nó không đến đây? Tôi đã bảo gọi cả đồng chí và nó kia mà?

- Cậu ấy đi công tác vắng, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich.

- Đi lúc nào?

- Sáng nay. Tôi cử cậu ta đi lấy tin về các trại nuôi hươu.

- Khi nào nó về thì đưa đến đây. Tôi sẽ nói chuyện với nó.

Bukharev ngồi xuống với vẻ bớt căng thẳng. Mặt hết nhăn nhó. Chúng tôi còn ngồi nói với nhau mươi lăm phút nữa về đủ mọi thứ chuyện, sau đó tôi mới được ra về.

Bước vào trụ sở ban biên tập tôi thầm mong sao cho cả tôi lẫn Krôtôv đều không bị sứt mẻ gì bởi cái tiết trời bất lợi cho các chuyến bay như thế này.

Xuvôrôv đang có mặt ở chỗ làm việc. Bác ngồi sau bàn, cánh tay luồn trong ống bọc may bằng vải sa tanh đen, cặp kính trễ xuống mũi. Tôi mời bác đến phòng tôi.

Bác đến, không còn đeo kính và hai ống bọc ngoài tay áo, vẻ mặt nhăn nhó như một lái buôn đồ cổ bị thua lỗ; bác ngồi xuống ghế, đôi chân mày dồn về phía hốc mũi. Tôi mở ngăn kéo, lấy ra tờ giấy bất hạnh.

- Thế này này, bác Ivan Ivanôvich ạ, tôi được biết về vụ xô xát giữa bác với Krôtôv. Tôi đã đọc bài viết của bác, đọc bản chữa lại của cậu ta. Tôi cho rằng, về mặt văn phong, chữa lại như vậy là đúng.

Xuvôrôv đỏ mặt và đứng phắt dậy.

- Đã vậy thì tôi không thích nói chuyện với đồng chí về vấn đề này. Xin cám ơn.

- Bác hãy gượm đã. Tôi xin nhắc lại, chữa như vậy là đúng. Bản thân tôi sẽ không thấy có gì đáng xấu hổ nếu được cậu ta chữa cho những bài viết của mình. Chàng trai này sắc sảo về ngôn từ và cách hành văn. Nhưng từ nay cậu ta sẽ không chữa những bài viết của bác nữa. Bác bằng lòng chưa?

- Không, chưa được. Phải bắt nó xin lỗi tôi, cái thằng xỉ mũi chưa sạch ấy.

- Nếu còn gọi cậu ta là thằng xỉ mũi chưa sạch thì bác đừng có mà chờ đợi ở cậu ta một lời xin lỗi.

- Vậy thì sao, tôi chăng, tôi phải xin lỗi cái thằng xỉ mũi chưa sạnh ấy chăng?

- Có thể lắm chứ, bác làm sai.

- Thế đấy! Rõ rồi! Với đồng chí thì tôi làm sao mà đúng được, khi đồng chí che chở cái thằng đó dưới sự bảo trợ của mình, cái thằng xỉ mũi chưa sạch. Thậm chí đồng chí còn cử nó đi công tác để tránh xa cái vụ tai tiếng này.

- Hãy nghe đây bác Xuvôrôv, - tôi nói. - Chúng ta làm việc với nhau không phải là năm đầu tiên, đã kịp tìm hiểu về nhau. Bác là người khó tính. Viết lách kém. Mặc dù vậy tôi chưa hề đề nghị bác viết đơn xin thôi việc. Có lẽ sẽ đúng hơn nếu nói tôi nâng đỡ bác dưới sự bảo trợ của mình, chứ không phải là nâng đỡ Krôtôv. Cậu ta là một cán bộ có triển vọng. Bất cứ ban biên tập nào cũng sẽ vồ lấy cậu ta ngay sau bài viết đầu tiên.

- Chúng tôi biết thừa những đứa linh lợi kiểu đó. Không phải năm đầu sống trên đời. Còn đơn của tôi thì đồng chí sẽ nhận được, sẽ nhận được. Tôi không có ý định làm học trò của những thằng xỉ mũi chưa sạch. Tôi đã sống đến lúc bạc đầu không phải để rồi làm cái việc như vậy, làm học trò của những đứa xỉ mũi chưa sạch.

- Tuỳ bác thôi.

- Đồng chí trả lại bài viết ấy cho tôi.

- Bác cầm lấy.

Xuvôrôv giật lấy tờ giấy, bước ra phía cửa nhưng còn lần chần.

- Chuyện đến là hay! Nếu biết trước thế này thì tôi chẳng đến còn hơn.

Tôi khép cửa lại rồi bắt tay vào việc. Hôm đó là thứ sáu, một ngày nhốn nháo và bận rộn. Sau bữa ăn trưa phải đọc và nghe mấy chương trình phát thanh chuẩn bị cho ngày thứ bảy và chủ nhật, giúp đỡ soạn bản tin giờ chót, sắp xếp lại các băng ghi của phòng bá âm, dàn xếp mấy cuộc cãi vã nhỏ giữa các nhân viên ở phòng máy. Đến tận bảy giờ, khi mọi người đã về hết, tôi gõ cửa phòng của vợ chồng Krôtôv.

Cachia ngồi một mình bên bàn, hai tay chống cằm, đang lặng lẽ ngắm nhìn khuôn mặt mình trong gương. Nhận ra tôi, cô giật mình đứng dậy, cúi người tất tả xếp dọn mớ chăn gối bừa bộn và những quyển sách nằm rải rác khắp phòng. Tôi bảo cô ngồi xuống.

- Thế nào, Cachia, buồn nhớ Xecgây à?

Cô lo lắng gật đầu.

- Không nên như vậy. Từ nay các cháu thường phải xa nhau. Cậu ấy đã chọn cho mình một công việc như vậy cơ mà. Hãy quen dần đi, Cachia ạ!

Môi cô run run buồn bã.

- Chú biết không, có lẽ cháu không thể nào quen được. Anh ấy mới đi được một tiếng cháu đã bắt đầu lo rồi. Ở đây máy bay có hay bị rơi không chú?

- Cháu nghĩ gì lạ vậy, Cachia?

- Suốt ngày cháu đi ra đi vào và suy nghĩ: nếu chẳng may máy bay bị rơi thì sao? Đây lại là Taiga, anh ấy chẳng có chỗ nào mà trú. Rồi chẳng may có con gấu nhảy bổ vào anh ấy thì sao? Rồi chẳng may anh ấy bị lạc thì sao? Cháu cứ suy nghĩ, suy nghĩ...

- Nhưng nếu cháu đi xem phim cháu sẽ khuây khoả. Hôm nay ở câu lạc bộ chiếu phim Pháp, có Lui đờ Phuynexơ đóng.

- Cháu biết. Nhưng, cháu chẳng muốn xem phim đâu. Đến đó thì phải vui, mà bây giờ thì cháu không thể vui được. Cháu đã định đọc..., đây này, chú xem, quyển "Công viên Bullet"; Xeriôgia khuyên cháu đọc... cháu đã bắt đầu đọc, nhưng giữa các dòng chữ... Đây này, chú nhìn xem. Chú không nhìn thấy gì à?

- Không, chẳng thấy gì.

- Còn cháu thì thấy, - cô thật thà nói, đôi chân mày nheo lại, - ở đó có chữ: "Xeriôgia, Xeriôgia, Xeriôgia..." Xin lỗi, vì cháu đã nói chuyện cởi mở với chú như vậy.

- Không sao, chú hiểu.

- Có lẽ điều đó thật ngốc nghếch, nhưng cháu không thể nào làm khác được. Cháu ngồi và suy nghĩ: nếu chẳng may anh ấy cãi nhau với ai ở đó thì sao? Anh ấy không biết tự kiềm chế. Và chẳng may có người đâm anh ấy một nhát dao thì sao?

- Nào, thế thì buồn cười quá. Không nên tự làm khổ mình như vậy. Cậu ấy là một thanh niên có tính tự lập, có khả năng tự vệ.

- Vâng, chính là ở chỗ anh ấy có khả năng, chính ở chỗ ấy đấy! - cô reo lên phấn chấn. - Anh ấy không bao giờ im lặng, dù bất cứ lý do gì. Chúng cháu đi xe lửa đến Krasnôiarsk, trên một toa tàu chợ, lúc đó có ba tên càn quấy bắt đầu chửi mắng nhau và làm náo động cả lên. Mọi hành khách đều ngồi im, còn Xeriôgia thì lên tiếng, đến nỗi suýt choảng nhau. Anh ấy ấy à, đã tức lên thì chẳng biết sợ ai.

- Điều đó thì chú có thể tin được.

- Chú chưa biết nhiều về anh ấy đâu. Còn cháu thì biết anh ấy ba tháng nay rồi! Đôi lúc anh ấy cứ như trẻ con vậy. Phải công bằng với anh ấy - chỉ cần vậy thôi! Còn chuyện này chúng cháu chưa kể với chú... chẳng phải là không muốn kể, mà chỉ là chưa có dịp... Khi đến Krasnôiarsk chúng cháu có tìm đến các ban biên tập để xin việc, gọi là cầu may thôi, nhưng chẳng ai chịu nhận anh ấy cả. Anh ấy không biết cách giao tiếp. Anh ấy làm cho mọi người chống lại mình.

- Ừ, đúng vậy. Những chiến thuật của cậu ấy không phải là loại tốt nhất. Còn cháu, Cachia này, khi nào cậu ấy bắt tay viết tiểu thuyết thì cháu phải làm trợ lý văn học cho cậu ấy, - tôi nói đùa.

- Ôi, chú này! Cháu chỉ là con bé vô tích sự. Còn Xeriôgia mới là người tháo vát. Thật ra, anh ấy không biết tính toán tiền nong, còn trong mọi việc khác thì anh ấy cực kỳ tháo vát. Anh ấy nhớ hết, biết hết... Trí nhớ của anh ấy thật đáng ngạc nhiên. Đọc xong một quyển sách anh ấy có thể trích dẫn lại hàng trang.

Mặt cô ửng hồng và trở nên xinh đẹp vô cùng, đôi mắt nâu lấp lánh, mái tóc màu hạt dẻ xoã xuống vai.

- Cachia này, mọi chuyện cháu đều nói về Xecgây. Giờ hãy nói về cháu đi.

- Chú chế diễu cháu đấy à? Về cháu thì có gì mà nói? Cháu là một con bé hoàn toàn... vâng, hoàn toàn xoàng xĩnh.

- Đừng quá khiêm tốn thế.

- Vâng, đúng như vậy. Đấy, như anh Xeriôgia chẳng hạn, anh ấy có trình độ vận động viên cấp một về bóng bàn và quyền anh. Còn cháu, trong thể thao cháu chẳng có gì nổi bật cả.

- Thế cháu đã định thi vào trường nào?

- Xerriôgia thích thi vào học viện điện ảnh, khoa đạo diễn.

- Không, chú muốn hỏi cháu đã định thi vào trường nào kia, Cachia ạ?

- Cháu định thi vào đại học y. Nhưng nói đúng hơn thì không phải là cháu mà là mẹ cháu muốn thế. Xeriôgia bảo rằng chính cháu cũng không biết cháu muốn gì.

- Nhưng mà sao, cậu ấy nói đúng chứ?

- Vâng, tất nhiên ạ! Đúng là cháu rất thiếu kiên định. Xeriôgia bảo rằng ở cháu tiềm ẩn nhiều khả năng, nhưng mọi khả năng đó đều còi cọc. Còn anh ấy thì hoàn toàn biết rõ mục tiêu của mình và không bao giờ nghe ý kiến ai. Anh ấy gạt phăng hết.

- Thôi, với Xeriôgia chú rõ cả rồi. Cháu, nghĩa là cháu định thi vào đại học y khoa.

- Vâng, cháu muốn thế, nghĩa là mẹ cháu muốn thế. Xeriôgia bảo rằng mẹ cháu muốn sống thay cho cháu. Tất nhiên là anh ấy nói đùa. Xeriôgia và mẹ cháu không hiểu được nhau. Xeriôgia cho rằng mẹ cháu hết sức bảo thủ, còn mẹ cháu thì coi anh ấy là hipi... - Cachia cười, hai tay xoa má.

- Còn riêng cháu thì muốn học ở đâu?

- Trước khi gặp Xeriôgia ấy à?

- Ừ, trước khi gặp Xeriôgia.

- Có một dạo cháu mơ ước trở thành nhà tạo mốt. Cháu đã tự may lấy, nghĩ ra các kiểu, đọc các tạp chí. Nhưng mẹ cháu bảo rằng giỏi lắm thì cháu cũng chỉ trở thành thợ cắt may trong xưởng may. Mẹ cháu không bằng lòng điều đó. Hơn nữa, trong việc này Xeriôgia và mẹ cháu có ý kiến giống nhau.

- Thế còn cậu ta thì muốn gì?

- Xeriôgia ấy à? Anh ấy cho rằng cháu phải trở thành chuyên gia về máy tính.

- Ồ!

- Vâng, chú biết đấy, cháu có năng khiếu về toán. Ở trường cháu chưa bao giờ nhận điểm số dưới điểm năm. Rồi sau đó có một dạo cháu bị lôi cuốn vào môn điều khiển học, thậm chí cháu có đọc một quyển sách của Venhierơ và hiểu được kha khá. Và rồi chính anh ấy cũng thuyết phục cháu.

- Rồi sao, có kết quả chứ?

Cô trầm ngâm suy nghĩ, mắt nhìn xuống, tay vân vê mớ tóc dài.

- Cháu chẳng biết bây giờ thì chúng cháu nên như thế nào... Nhưng nói chung chắc cháu có thể học ở khoa toán. Cháu thích toán hơn y.

- Tốt thôi, cháu làm việc một năm, sau đó thi vào đại học.

- Xeriôgia cũng nghĩ như vậy...

Tôi lắc đầu chê trách.

- Ôi dào, lại nhà tư tưởng Xeriôgia. Liệu cháu có quan tâm đến cậu ấy quá nhiều không đấy?

Một nét phân vân thoáng qua trong đôi mắt cô, rồi thay vào đó là một lời phản đối kiên quyết.

- Chú cứ nói thế! Hoàn toàn chẳng nhiều chút nào. Anh ấy chăm sóc cháu nhiều hơn bao nhiêu ấy chứ!

- Cũng có thể, chú không tranh cãi làm gì. Nhưng có lần chú thấy cháu tự đi xách nước. Rồi cháu lo chạy đi mua sắm. Còn cái chậu thau rửa mặt của nhà cháu thì treo thế kia. Giá sách thì chẳng có. Mà đó là những việc của đàn ông, đúng không nào?

- Vâng, Xeriôgia bảo rằng anh ấy sẽ làm ngay tất cả mọi việc khi đi công tác về. Tối nào anh ấy cũng viết, chẳng còn thì giờ làm những việc trong nhà.

- Hoá ra là như vậy! Chú hiểu rồi. Nhưng Cachia này, dù sao chú cũng muốn khuyên cháu một điều, tuy biết rằng Xecgây không thích những lời khuyên, và cả cháu có lẽ cũng vậy. Cháu đừng vội đồng ý với các quyết định của chồng.

- Tại sao vậy chú?

- Như vậy sẽ tốt hơn. - Tôi trả lời lấp lửng rồi đứng lên.

- Chú định về rồi sao? - Cachia hỏi, giọng buồn buồn.

- Ừ, và chú định đưa cháu đi cùng đây.

- Đưa cháu đi à?

- Đúng vậy! Khoác áo vào nhanh lên rồi cùng đi với chú, cháu sẽ thấy thời gian rỗi sau giờ làm việc trôi qua thật nhanh. Vợ chú đã chuẩn bị món thịt băm viên.

- Ôi! - Cachia thảng thốt.

- Sao lại ôi, hả Cachia?

- Thật là tuyệt!

- Cái gì tuyệt?

- Thịt băm viên và nói chung... Chú biết không, cháu ở nhà một mình buồn lắm.

Trong bữa ăn tối Cachia rất hoạt bát, cô trò chuyện vui vẻ với con gái tôi về Mascơva. Vợ tôi rất thích cô.

***

TRÍCH NHẬT KÝ KRÔTÔV

Đèn đỏ - ác cảm, khiếp sợ.

Đèn vàng - suy nghĩ, phân vân.

Đèn xanh - tin cậy.

Đèn hiệu trong mắt em thay đổi ba lần. Và thế là tôi được xách trên tay chiếc túi lưới, như một chiến lợi phẩm của cuộc săn đuổi.

Vì sao thành phố trở nên im ắng? Người đi đường bỗng biến đi đâu cả? Chẳng còn ai, tôi và em là hai nhà du hành đội chung một mũ giáp bơi trong khoảng không vũ trụ.

Nhớ lại trong buổi liên hoan bế giảng tôi đã ôm hôn Natasa P., một bạn gái béo tròn học cùng lớp. Hôm đó chỉ là tò mò, bất chấp mọi sự, và vui vẻ.

Trong những giây phút ngừng nghỉ giữa các nụ hôn tôi nhăn nhó thẹn thùng, nhưng quay mặt đi để cô ta không trông thấy. Cô ta hỏi tôi có yêu cô không?Còn phải hỏi, tôi trả lời. Cho đến tận khi chui vào quan tài. Rồi đây tôi có quên cô ta không? Không, không bao giờ, không bao giờ! Cô bé ngốc nghếch đã tin tất cả những điều đó. Chút - chút - chút. Trơ tráo và vui vẻ. Natasa là một cô bé béo tròn, chắc lẳn như một khúc dồi. Điều buồn cười nhất là cô ta cũng nói dối chẳng kém gì tôi. Quả thật cô ta cũng chi muốn có một chút kỷ niệm về buổi liên hoan bế giảng. Chút - chút - chút. Rốt cuộc tôi đã chán cái trò đó và chạy ra nhập bọn với đám bạn cùng cánh.

Bây giờ thì sao? Vì sao tôi nhìn mà chẳng thấy gì? Còn trong đôi mắt em là hình bóng của tôi.

- Em là người Mascơva à?

- Vâng.

- Thi vào đại học chứ?

- Ừ hử.

- Em tên gì?

- Cachia. Thế tên anh?

- Xecgây.

Chúng tôi mang túi táo về đến nhà em, cách ga tàu điện ngầm chừng hai mươi phút đi bộ. Lên hết cầu thang tôi trao lại em chiếc túi lưới.

- Chờ em ra chứ?

- Chờ một chút xíu, em ra ngay.

- Liệu ở nhà có cho em đi không?

- Cho thôi.

Tiếng động của ổ khoá. Chừng mươi lăm phút sau lại tiếng động ấy. Em bước ra cửa, mặt còn ngoái lại.

- ... đừng lo. đừng lo!

Em mặc váy kẻ ô ngắn, áo khoác ngoài màu xanh da trời. Mái tóc chải mượt chảy gần đến thắt lưng. Nhìn mà phát điên lên được.

Hai con người sống ở hai đầu trái đất. Cuộc gặp gỡ tình cờ đã làm xáo động cả hai. Định mệnh chăng? Duyên số chăng? Sự va chạm bất ngờ của hai nguyên tử. Tôi chẳng biết.

Những tín đồ phật giáo tin vào kiếp luân hồi của cuộc sống. Có thể là em và tôi đã gặp nhau trong tiền kiếp. Tôi không biết và cũng không muốn biết.

Các bạn học của tôi vẫn thường ngắm các bạn gái cùng lớp, đánh giá họ qua những cái nhìn. Nhưng có mối tình nào nghiêm túc ở tuổi học trò! Những đam mê vô độ. Những nụ hôn, những lời van vỉ, những giọt nước mắt, những lời thề thốt - đó là trò thể thao nhiều môn phối hợp không thể thiếu được của tuổi học trò. Mà ở đó tôi khoác chiếc áo vận động viên xuất sắc.

Cachia, Cachia...

Tiếng rít của phanh xe. Người lái xe tắc xi quát mắng:

- Mù cả rồi hả? Chán sống rồi hả?

Còn trong mắt em là ngọn đèn xanh: đường đã thông.

- Tại sao anh đi theo em?

- Đó là sở thích của anh. Anh bám theo mọi cô gái đẹp.

- Thế đấy, mọi cô!

- Anh bám theo tất cả, nhưng bắt chuyện thì chỉ có với em.

- Em thì cứ tưởng anh là một kẻ càn quấy nào đó.

- Còn anh thì biết ngay rằng em là một người từ sao hoả xuống. Ở trái đất không có được những người như vậy.

- Tên dối trá và kẻ nịnh đầm.

- Anh là nhà vô địch của trò thể thao nhiều môn phối hợp.

- Lại còn trò thể thao phối hợp nào vậy?

- Thở dài, bắt tay, nói những lời âu yếm, van vỉ. Em biết đó là cái gì không? Sẽ chẳng là cái gì cả.

- Vậy thì sẽ có gì?

- Sự thật. Chỉ có sự thật.

- "Con cần phải nói thật, chỉ có nói thật". Vậy chứ gì?

- Đúng, bây giờ anh sẽ bắt em thề. Ta ngồi xuống ghế này nhé?

- Ghế mới sơn đấy.

- Vậy thì đến ghế này. Cô ngồi xuống đây. Cô đặt tay trên tay tôi, như trên quyển kinh thánh. Thề đi!

- Tôi xin thề nói thật, và chỉ có nói thật.

- Được rồi. Tên cô là gì?

- Cachia. Nghĩa là Ecaterina.

- Họ?

- Naumôva.

- Bao nhiêu tuổi?

- Mười bảy và có dư một ít.

- Có chồng chưa, cô Ecaterina Naumôva?

Em cười phá lên.

- Cô trả lời đi! - tôi yêu cầu.

- Chưa, tôi chưa có chồng.

- Đính hôn chưa?

- Chưa.

- Đã ra toà chưa?

- Chưa bao giờ.

- Có bà con ở nước ngoài không? Thôi, cho qua việc này... Cô thích đọc sách không, cô Ecaterina Naumôva?

- Có, rất thích.

- Cô thích nhà văn nào?

- Ôi, câu hỏi này khó quá! Trong số tác giả cổ điển tôi thích Golxiôxi, còn trong số các nhà văn hiện đại... vâng, Paustôvski.

- Còn Dotstôevski? Mikhain Bulgacôv? Lêônôv? Pholkner? Stern? Những cái tên này có nói với cô điều gì không?

- Vâng... tôi có đọc, nhưng không phải tất cả.

- Cô yêu thích những công việc gì?

- May và đan. Và còn... chơi cờ.

- Cô đánh giá thế nào về bộ phim "Andrây Rublev"?

- Tôi thích.

- Chỉ thế thôi à? Một bộ phim kiệt xuất. Cô đã đọc Maria Vargas Liôxi chưa?

- Gì cơ? Chưa, tôi chưa đọc.

- Một khiếm khuyết lớn. Cô có thường đi xem ở nhà hát Taganca không?

- Ôi, còn phải hỏi! Vừa mới rồi tôi đã đi xem vở "Hămlet". Bọn bạn không thích, nhưng tôi thích.

- Thế còn Lêmô? Bredoberi? Strugaskie?

- Tôi chưa đọc quyển nào. Không thích chuyện viễn tưởng.

- Đáng buồn. Thôi được! Tôi hài lòng. Còn với cậu Xecgây nào đó cô có quan hệ thế nào?

Em cười, đầu cúi xuống.

- Chúng tôi quen nhau.

- Lâu chưa?

- Chưa... Nhưng tôi có cảm giác như lâu lắm rồi.

Krôtôv đi vắng hai tuần. Sau khi đi được năm ngày cậu ta có gọi điện về từ Ulêkit. Máy rất khó nghe. Âm thanh lạo xạo như tiếng súng liên thanh nổ giữa không trung. Tôi nghe và cũng hiểu được là cậu ta chuẩn bị đến một đội chăn hươu gần hồ Khacpitri. Nghe xong điện thoại tôi đến phòng lưu trữ băng. Cachia đang sắp xếp các cuộn băng. Tôi chuyển đến cô lời hỏi thăm của chồng. Suốt ngày hôm đó từ phòng lưu trữ băng vọng ra tiếng hát khe khẽ của Cachia.

Sau đó Krôtôv bặt tăm mấy ngày liền, cơ hồ như đã mất tích trên những cánh đầm lầy hoang vắng. Cachia ở lỳ trong căn phòng con lạnh lẽo và vắng vẻ, giữa những giá chất đầy các cuộn băng ghi âm. Ngày ngày cô ngồi trong căn phòng đó, hoàn toàn đơn độc, đánh máy các tấm phiếu: "P.I. Tsaicovski. Bản hoà tấu số 1", cô gõ máy bằng hai ngón tay. Để giúp cô khuây khoả tôi lại ghé đến phòng lưu trữ băng, giải thích với cô rằng các đội chăn hươu ở cách xa các vùng dân cư, giữa rừng Tai ga hoang vắng.

- Thế còn điện đài? - Cô tỏ ra có những hiểu biết không ngờ.

Đành phải bịa các lý do: nào là điện đài có thể bị hỏng, hoặc sóng vô tuyến không truyền đi được - điều vẫn thường xảy ra ở miền vĩ độ này. Nhưng dường như những lời tôi nói không đủ sức thuyết phục đối với cô.

Trong những ngày đó, cùng với gói bưu kiện báo chí gửi đến từ Mascơva có một bức thư đề tên người nhận là Naumôva. Phải mất một lúc tôi mới hiểu ra đó là thư gửi Cachia. Tôi cầm phong thư đến phòng lưu trữ băng; thấy Cachia vẫn đang làm công việc thường ngày - đánh máy những tấm phiếu. Tôi đề nghị cô nghỉ tay vài phút để khiêu vũ. Cô áp tay lên ngực.

- Có thư hả chú?

Tôi cầm phong thư huơ lên không.

Cachia như vọt bay khỏi chiếc ghế đang ngồi.

- Của Xecgây gửi phải không ạ?

- Theo chú, của mẹ cháu gửi.

- A... à! - Cô kéo dài tiếng à, như thay vì thanh kẹo sôcôla cô chỉ nhận được mảnh giấy gói kẹo rỗng không.

Tôi thực sự bực mình với Krôtôv. Tất nhiên cậu ta có thể báo cho biết tin tức về mình. Mùa này điện đài ở các đội nuôi hươu hoạt động tốt. Máy bay lên thẳng vẫn thường bay đến đó. Nhỡ có việc gì xảy ra với cậu công tử này thì sao? Sang ngày thứ mười hai cậu ta gọi điện về từ Ulêkit. Lần này thì nghe rất rõ. Bằng một giọng phấn chấn và rắn rỏi Krôtôv thông báo rằng chuyến đi rất có kết quả, đã thu được tám cuộn băng ghi âm, đã gặp những người chăn hươu và sẽ trở về khi có chuyến bay đầu tiên.

- Người ta đang giục cháu, nhiều người đang chờ nói chuyện. Xin tạm biệt, chú Bôris Antônôvich!

- Tạm biệt! - tôi nói, rồi treo ống nghe.

Vào giờ nghỉ trưa tôi ghé nhìn vào phòng vợ chồng Krôtôv. Cachia đeo tạp dề đứng cạnh bếp, uể oải dùng thìa khuấy món gì đó trong chiếc nồi con.

- Nào, Ecaterina Alêchxâyevna, - tôi nói vời cô từ ngoài cửa, - đừng rầu rĩ nữa nhé. Xecgây vừa gọi điện về. Cậu ấy mạnh khoẻ, đã về từ Taiga, nhờ chuyển đến cháu lời chào nồng nhiệt và những cái hôn.

Thậm chí cô đã nhảy chồm lên.

- Chú nói thật đấy chứ?

- Ngày kia cậu ấy sẽ về đến đây, nếu thời tiết không trở ngại.

- Tuyệt quá! Cháu mừng lắm! cám ơn chú đã báo tin.

- Đây là nghĩa vụ của tổng biên tập - động viên tinh thần của các cán bộ dưới quyền. Nhưng chú khuyên cháu một điều, Cachia ạ, sau này... nhưng hình như chú đã nói với cháu rồi... Cháu phải làm sao để khi xa nhau chồng cháu phải buồn nhớ cháu nhiều hơn so với cháu nhớ cậu ấy. Cháu hiểu chứ?

- Chẳng phải thế đâu ạ. Chú tưởng anh ấy không nhớ sao?

- Chú không nghi ngờ rằng cậu ấy nhớ. Nhưng cậu ấy không đánh mất đi cái sảng khoái của tâm hồn và thi vị của cuộc đời. Cháu hiểu chưa?

- Hình như thế, vâng ạ... Cháu sẽ cố gắng. Tất nhiên chú không vừa ý khi nhìn thấy bộ mặt ủ dột của cháu. Mọi người đã cười cháu rồi đấy. Cháu vô tình nghe người ta bàn tán với nhau trong phòng máy. Họ bảo cháu héo hon vì nhớ Xecgây. Tất nhiên đó là sự thật, chỉ có điều cháu không hiểu việc này có gì đáng cười? Ngay trong các vở bi kịch Hy Lạp nhiều người vợ cũng bồn chồn lo lắng khi chồng họ phải đi đến một nơi xa xôi nào đó. Chẳng hạn nàng Ôđixê đã suốt đời chờ đợi Penhilôp. Cháu chỉ lấy làm lạ, tại sao cô ấy đã không chết vì khổ đau.

Tôi mỉm cười.

- Chà, sự so sánh của cháu không hoàn toàn đúng chỗ... Tốt hơn hết hãy cho chú biết: sao cháu không đến ăn ở nhà ăn? Nấu nướng ở nhà rất bất tiện.

- Ở đấy toàn người là người.

- Thì ra thế, hay thật. Cháu là ai vậy, một kẻ yếm thế chăng?

- Không ạ, chú này! Chỉ vì Xeriôgia bảo cháu đừng đến đấy thôi.

- Sao lại phải thế?

Cô ngập ngừng. Có thể thấy là cô ngại nói ra một chút bí mật gia đình.

- Chỉ tại thế này thôi... Chúng cháu đã quyết định là bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng đều phải có nhau.

- Thì ra, cả đi xem phim cháu cũng không được đi một mình chứ gì?

- Không ạ, sao lại thế. Tất nhiên cháu có thể đi xem. Nhưng cháu không muốn làm Xecgây giận.

- Giận ư?

- Vâng... chú hiểu cho, hành động như vậy là không thật lòng với anh ấy.

- Không thật lòng?

- Vâng ạ, không tốt! - Cô khẳng định. - Làm thế thì hoá ra cháu sống theo ý cháu, anh ấy theo ý anh ấy... Chú thấy có phải thế không ạ?

- Chú cố hiểu thế. Nói cháu bỏ lỗi, Cachia nhé, cậu ấy là gì vậy, một Ôtenlô thời nay chăng?

Cô cúi đầu, đưa bàn chân nhỏ nhắn đi dép di di trên sàn nhà.

- Không phải về chuyện đó... tất nhiên Xeriôgia cũng ghen như mọi người đàn ông khác. - ("Hừm!" tôi dặng hắng tỏ ý không hoàn toàn tán thành kết luận đó) - Nhưng, nếu chú muốn biết, không có anh ấy thì tự cháu cũng chẳng thiết đi đâu cả. Cháu buồn khi vắng anh ấy.

- Và vì thế tối nào cháu cũng ngồi trong buồng tu sĩ này, hoặc trong nhà kho, đúng vậy không?

Cachia gật đầu, xác nhận sự thật đúng như vậy.

- Thế là rõ, - tôi vui vẻ nói. - Có thể là những quan niệm của chú về cuộc sống gia đình đã lỗi thời, nhưng cần phải nói rằng chú không hoàn toàn hiểu cháu... Thế bố mẹ viết thư bảo cháu những gì, nếu không bí mật hãy nói chú nghe?

- Bố mẹ mắng cháu.

- Vẫn còn mắng à? Có lẽ đã đến lúc làm lành rồi chứ?

- Chưa đâu ạ, mẹ cháu vẫn còn giận lắm. Mẹ cháu rất dễ xúc cảm, thậm chí đã phát bệnh vì buồn rầu. Chú biết không, mẹ cháu bảo sẽ đến đây để bắt cháu về. Mẹ cháu còn định sẽ viết thư cho chú. Chú chưa nhận được thư mẹ cháu chứ?

- Chưa, chưa thấy.

- Rồi chú sẽ nhận được. - Cachia khẳng định. - Mẹ cháu nhất định sẽ viết. Nhưng chú đừng lo.

- Ừ, chú có lo gì đâu. Tuy nhiên về phần mình, chú có cách gì giúp mẹ cháu không nhỉ. Đóng gói cháu vào thùng rồi gửi về Mascơva theo đường bưu điện chăng?

Cachia cười, môi trên cong lên xinh xắn.

- Xeriôgia không cho chú gửi cháu đi đâu.

- Lại Xeriôgia! Nhưng chú không thả Xeriôgia của cháu ra đâu. Chú rất cần cậu ta, Xeriôgia của cháu ấy! Tiện thể nói thêm, bố mẹ cậu ta có thái độ thế nào đối với việc kết hôn của các cháu?

- Ôi, bố mẹ anh ấy thật tuyệt vời!

- Nghĩa là thế nào?

- Bố mẹ anh ấy thật tuyệt vời! Còn Xeriôgia thì cười. Anh ấy bảo, làm bố mẹ thì ai rồi cũng đến lúc rơi vào tình huống căng thẳng thần kinh khi con cái đi xa. Anh ấy cho rằng điều ấy xảy ra càng sớm càng tốt.

- Ừ, cậu ấy là triết gia cơ mà.

Cô không nhận ra câu châm biếm nhẹ nhàng của tôi.

- Anh ấy có một triết lý về cha và con không kém gí triết lý của Tuốcghênhép. Chẳng hạn, anh ấy cho rằng ở người lớn hiện nay đầu óc kinh tế rất phát triển. Họ tranh nhau chiếm lấy những chỗ béo bở, họ chú tâm vào những chuyện tiền nong. Còn bọn trẻ chúng cháu thì bất cần mọi thứ tiện nghi. Và chính vì vậy mà bố mẹ không hiểu được con cái. Bố mẹ cứ cố làm sao có cuộc sống sướng hơn, còn con cái thì coi khinh việc đó. Cháu có tranh cãi với anh ấy, nhưng anh ấy luôn luôn thắng. Cháu rất kém về lôgích.

- Còn chồng cháu chắc là giỏi chứ?

- Vâng, khó mà cãi anh ấy.

- Thế đấy, thế đấy... Cháu hãy tìm cách đưa cậu ấy đến chơi nhà chú, chú muốn nghe những bài giảng lôgích của cậu ấy.

Sau bữa ăn trưa, đi dọc hành lang ngang qua phòng lưu trữ băng tôi nghe tiếng máy chữ vẫn gõ đều đều. Có cảm giác như cô đang đánh đi đánh lại mấy chữ: "Xeriôgia, Xeriôgia, Xeriôgia..."

Trước hôm Krôtôv đi công tác về tôi lại phải nghe một việc về cậu ta.

Hôm đó là một ngày làm việc náo nhiệt và bận rộn: máy chữ gõ liên hồi, hàng nghìn mét băng từ quay trên các máy ghi âm, các loa phát thanh mở ầm ĩ, chuông điện thoại réo - tất cả mọi hoạt động thường ngày ở một ban biên tập của bất kỳ đài phát thanh nào, dù là ở tỉnh lẻ như ban biên tập chúng tôi.

Tôi ngồi trong phòng làm việc, đọc và sửa chữa bài phát biểu của cục trưởng cục quản lý ngành săn bắt. Vừa lúc đó Ivan Ivanôvich Xuvôrôv bước vào. Trong mấy ngày qua thỉnh thoảng tôi có gặp bác thoáng qua - ở các cuộc họp giao ban nhanh buổi sáng hoặc gặp tình cờ nơi các phòng làm việc. Chúng tôi không nhắc lại về tờ giấy bất hạnh kia. Như thường lệ, Xuvôrôv đưa tôi ký mấy bài viết của bác; nhiều lần tôi gạch xoá hàng trang, bác tiếp nhận bài sửa không hề phản đối.

Xuvôrôv bước vào, mặc bộ com lê đen, cổ áo sơ mi trắng muốt ép sát quanh gáy. Cặp mắt ti hí ánh lên một nét khác thường.

- Có câu chuyện để nói với đồng chí đây. Cho phép chứ ạ?

- Mời bác ngồi, bác Ivan Ivanôvich.

Bác ta ngồi xuống, xoa hai bàn tay vào nhau, mấy nếp nhăn trên trán dãn ra.

- Thậm chí đến hai câu chuyện. Chuyện thứ nhất là thế này. Đồng chí còn nhớ bài viết về con gấu chứ? Bài viết bị thằng nhãi ranh xỉ mũi chưa sạch gạch xoá, còn đồng chí thì tán thưởng bài chữa của nó. Bài viết của tôi, tôi đã gửi thẳng về Mascơva, đến ban biên tập đài phát thanh "Hải đăng". Và đồng chí nghĩ gì về việc này?

- Cứ theo cung cách nói của bác thì chắc bài viết đã được phát trên đài.

- Hoàn toàn đúng. Đồng chí đoán đúng. Thế đấy! - Bác nói, vẻ mãn nguyện.

- Xin chúc mừng. Theo tôi, chắc bác cũng hiểu là sau cái thắng lợi huy hoàng này vẫn sẽ không có sự khoan dung nào đối với những bài viết của bác.

- Đồng chí cứ việc chữa, cứ việc chữa! Không thể tẩy xoá được sự thật, sự thật luôn bộc lộ ra ngoài.

- Câu châm ngôn đó, về mặt văn phong, không được trong sáng lắm. Còn gì nữa không, bác Ivan Ivanôvích?

- Còn một chuyện này nữa. Có một người vừa từ Ulêkit về đây. Anh ta có việc phải đến đó và đã nghe được những chuyện về thằng nhãi xỉ mũi chưa sạnh của chúng ta.

- Tôi cảnh cáo bác lần cuối cùng...

- Được, được... tôi sẽ không gọi thế nữa. Anh ấy đã nghe một chuyện về..., nghĩa là về cái người của chúng ta đang được cử đi công tác, và cho đến tận bây giờ, đồng chí có tưởng tượng nổi không, anh ấy vẫn chưa hoàn hồn.

- Bác muốn nói đến việc gì?

- Vâng, cái của cưng của đồng chí khéo xoay xở lắm, và đến giờ phút này tôi cũng chưa lường hết được là rồi đây cái vụ này sẽ ảnh hưởng đến đồng chí như thế nào.

- Bác khỏi lo cho tôi. Xảy ra việc gì vậy? Nói rõ hơn xem. - Tôi cho tay vào túi lấy thuốc lá.

Xuvôrôv đắc chí nhìn tôi hút thuốc. Đôi chân mày bác nhíu lại như hai đám mây thù địch hướng về phía tôi.

- Vâng, chẳng có gì phải nói nhiều! Tốt nhất đồng chí cần tìm hiểu xem cái người được đồng chí bảo trợ ấy đã lấy đâu ra cây thánh giá.

- Cái gì? Cây thánh giá nào?

- Cây thánh giá thông thường ấy mà! Có lẽ đồng chí đã từng nhìn thấy rồi, những cây thánh giá mà người theo đạo vẫn đeo ấy. Thằng bé của đồng chí cũng có một cây thánh giá như vậy, dù rằng Ixux Cristôt đối với thằng nhãi xỉ mũi chưa sạch ấy cũng như dưa cải chua đối với con hươu... Nó buôn bán cây thánh giá, sự việc là thế! Đổi lấy một bộ lông thuộc! Xuvôrôv thông báo xong cái tin của bác.

Tôi nhìn bác với bao nỗi phân vân. Xuvôrôv ngồi đó, khẽ nhếch mép cười. Từ ngực bác nghe rõ tiếng thở khò khè. Cổ áo sơ mi quá chật làm nổi lên những đụn da cổ gồ ghề như một vùng đồi núi thu nhỏ.

- Bác chịu trách nhiệm về lời nói của mình chứ, bác Ivan Ivanôvich?

- Nếu không tin tôi, đồng chí cứ hỏi Venhiamin Ivanôvich Bukharev. Đồng chí ấy cũng biết rồi đấy.

- Chuyện này chẳng hay ho gì.

- Vâng, cái đó thì có hay ho gì đâu, - bác phụ hoạ theo.

- Bác không biết gì cụ thể hơn sao?

- Toàn bộ sự việc thì tôi không biết. Chỉ nghe nói cậu ta bán cây thánh giá cho một tín đồ cựu giáo có họ là Philipôv. Và chắc là ông ta đã nói với ai đó, rồi tiếng đồn đến tai Bukharev. - Xuvôrôv ngừng nói, có vẻ như tỏ ý buồn. - Tôi đã nhiều lần báo cáo với đồng chí là chớ nên đối xử tốt với thằng ấy. Bây giờ thì có mà húp cháo. Cũng đáng tiếc cho đồng chí... - Bác tỏ lòng thương cảm.

- Bác nói hết rồi chứ?

- Nhưng, đối với đồng chí thế vẫn còn ít lắm sao?

- Đủ rồi. Bác có thể đi làm việc.

- Tôi đi ngay đây. Cuối cùng chỉ muốn biết đồng chí dùng biện pháp gì để trị cái kẻ sùng đạo đó? Chẳng lẽ việc này rồi cũng bỏ qua sao?

- Bác hãy đi làm các công việc của bác. Và, nếu có thể được, đừng có kể lại với ai câu chuyện này.

- Đó là lời đề nghị hay chỉ thị? - Xuvôrôv nhăn nhó hỏi lại.

- Lời đề nghị.

- Được, nếu là lời đề nghị thì câu chuyện này sẽ không lan đi đâu nữa. Tôi cũng có thể giữ mồm giữ miệng. Tôi chẳng phải là loài hùm sói như mọi người vẫn nghĩ. Tôi cũng có thể giữ mồm giữ miệng. - Bác bước ra với đôi chân thẳng tắp cứng đờ.

Thời gian nặng nề trôi.

Mười lăm phút sau tôi bước vào văn phòng của trưởng ban văn hoá thành uỷ sau khi đã gọi điện đến để hẹn gặp.

Venhiamin Ivanôvich Bukharev đứng bên cửa sổ, hai tay chắp sau lưng, ngắm nhìn phong cảnh tháng mười - dòng sông lạnh lẽo lấp lánh ánh băng, xa xa phía bờ bên kia là những dãy đồi phủ đầy tuyết trắng. Nghe tiếng gõ cửa ông quay lại, khuôn mặt tàn nhang đen sạm trông thật ủ dột.

- Thời tiết đẹp quá. - Bukharev nói, thay cho lời chào. - Bây giờ mới đúng là mùa săn bắn - tuyết còn mỏng, đàn chó có thể chạy mà không bị ngập vào trong tuyết. Vậy mà cứ phải ru rú ở đây như con thỏ ngồi trong cũi sắt. Tôi đã trở thành con người đứng ngoài cuộc sống! - bỗng dưng ông ca thán.

- Chẳng riêng gì đồng chí đâu, - tôi tỏ ra thông cảm với tâm trạng của Bukharev.

Không trả lời tôi, Bukharev đi lui đi tới một lúc dọc theo chiếc bàn dài, bước đi nhẹ nhàng không một tiếng động.

- Tôi say mê Taiga, đồng chí Vôrônhin ạ. Đã hai mươi năm nay tôi thường đi săn cáo.

- Việc đó tôi có nghe người ta nói.

- Mỗi mùa săn tôi kiếm được hàng trăm con. Không ai săn được nhiều như vậy. Mọi người đều trầm trồ thán phục khi nhìn thấy các tấm da cáo của tôi trong cuộc đấu xảo ở Leningrad. Thế mà bây giờ thì... Thôi được! - Ông dừng lại, cắt ngang dòng hồi tưởng của mình. - Đồng chí hẹn đến gặp có việc gì?

- Chính đồng chí cũng biết về việc gì rồi.

Bukharev ngồi xuống chiếc ghế bành rộng, người ông bỗng trở nên nhỏ bé và thô kệch.

- Tôi biết tất cả. Đồng chí nhận một tên buôn lậu vào làm việc ở cơ quan hả?

- Chuyện vô lý, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich. Không thể có chuyện đó được.

- Sao lại không thể? Mọi người đồn ầm cả lên. Cậu ấy lấy đâu ra cây thập tự đó?

- Cây thánh giá, - tôi đính chính. - Tôi không được biết.

- Đổi lấy tấm da thuộc. Còn tấm da là của ăn cắp lấy từ kho nhà nước ra. Đúng vậy không? Có thể đưa ra toà. Vậy mà đồng chí đã nói gì về cậu ta?

- Và bây giờ tôi cũng nhắc lại như vậy. Một thanh niên giỏi, có năng lực. Nóng tính, tất nhiên là như vậy.

Bukharev ném chiếc bút chì ông vẫn cầm xoay xoay trên tay xuống tấm kính trên mặt bàn, làm phát ra tiếng kêu lạch cạch.

- Thế nó có lấy tấm da thuộc chứ?

- Tôi không tin, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich. Chính đồng chí cũng biết rằng một thị trấn hẻo lánh cũng tựa như một ổ khoá. Người Taiga lại hay chuyện gẫu.

- Thế cậu cán bộ này bịa chuyện sao?

- Cậu ấy có thể nhầm lẫn.

Bukharev bấm chuông gọi. Cô thư ký người cao thô bước vào. Bukharev bảo cô mời Pôlapôv đến. Chúng tôi ngồi im lặng, không ai nhìn ai. Venhiamin Ivanôvich gõ gõ ngón tay lên mặt bàn, đăm chiêu nhìn qua khung cửa sổ. Một thanh niên béo chắc, mặt ửng hồng, xuất hiện. Anh ta là một người mới đến thị trấn này.

- Tôi xin nghe đây, thưa đồng chí Venhiamin Ivanôvich.

- Cậu hãy kể lại những gì đã nghe được ở Ulêkit.

Người thanh niên ngồi xuống, hắng giọng, đưa tay sửa lại cà vạt cho ngay ngắn, rồi hoạt bát kể lại câu chuyện sau đây.

Trong thời gian anh ta đến thị trấn Ulêkit người chủ nhiệm nhà văn hoá địa phương có đến gặp và bảo rằng, tín đồ cựu giáo Philipôv, một kẻ chuyên gây rối trong các buổi tuyên truyền, đã được một cán bộ đến đây công tác đổi cho một cây thánh giá để lấy tấm da cáo thuộc. Lúc đến nói lại chuyện này chủ nhiệm nhà văn hoá có hơi say rượu (đã lai rai tý chút). Anh cán bộ nghe xong chỉ khoát tay rồi bào người chủ nhiệm ra về. Cũng ngày hôm ấy anh ta lại một lần nữa được nghe nói về cây thánh giá. Lần này người nói là một thợ săn. Như vậy là tiếng đồn đã bay khắp thị trấn, nơi chỉ có vẻn vẹn hai mươi nóc nhà, không kể các nhà lều mùa hè hiện đang bỏ trống. Anh thợ săn cho biết người kia họ là Krôtôv, nghề nghiệp - phóng viên đài phát thanh khu. Đến lúc này thì anh cán bộ bắt đầu suy nghĩ: ma quỉ nào biết được anh chàng, dù sao cũng là một cán bộ làm công tác tư tưởng... không nên chút nào. Cậu ta định tìm Krôtôv, nhưng anh chàng đã đi đến trại nuôi hươu.

- Tất cả chỉ có thế. Tôi đã không kịp xác minh thêm.

Bukharev quay sang nhìn tôi với đôi mắt thâm quầng, dường như muốn dò xét xem câu chuyện của Pôtapôv đã tác động đến tôi như thế nào. Tôi lấy thuốc hút và nhìn người cán bộ trẻ với vẻ khó chịu.

- Anh tin vào câu chuyện này chứ?

- Vâng, biết nói thế nào với đồng chí... - anh ta nhún vai.

- Đã vậy anh còn đem kể lại với Xuvôrôv. Việc đó chẳng khác nào đem phát thanh trên đài.

Anh ta bối rối ngượng nghịu. Bukharev đứng bật dậy sau bàn.

- Chẳng có gì phải tranh luận về việc này. Cần kiểm tra. Nếu khuyết điểm - đồng chí cần có biện pháp xử lý.

- Nếu cậu ấy có khuyết điểm - tôi sẽ buộc thôi việc ngay.

- Phải thế! - Ông đập tay xuống bàn để kết thúc câu chuyện và ném vội một cái nhìn sốt ruột ra phía cửa sổ.

Tôi chợt hiểu ra rằng, đối với ông cuộc nói chuyện này cũng chẳng kém nặng nề hơn đối với tôi.

Anh cán bộ trẻ vẫn tiếp tục ngồi trong tư thế chờ đợi. Tôi đứng dậy và bước ra phía cửa. Giọng nói của Bukharev giữ tôi lại.

- Mà này, đồng chí Vôrônhin! Đồng chí có nói là cậu ấy, cái anh chàng của đồng chí, có vợ rồi phải không?

- Vâng, có vợ rồi.

- Vậy mà ở thị trấn người ta kháo nhau về việc cậu ta theo đuổi một cô y tá. Cô gái khá xinh. Nó, cái anh chàng của đồng chí, chẳng phải là đứa ngốc nghếch.

Tôi uể oải đứng tựa vai vào bậu cửa, nhìn anh cán bộ trẻ thóc mách đang thẹn chín cả mặt.

- Dối trá! Dối trá và dối trá! Ba lần dối trá.

- Sao đồng chí lại không tin? Một thanh niên trẻ - một cô gái trẻ. Cậu ấy có thể theo đuổi lắm chứ.

- Không thể có chuyện đó.

- Chẳng lẽ đồng chí chưa từng là thanh niên.

Tôi chỉ phẩy tay rồi bước ra khỏi văn phòng.

Ngay ngày hôm sau Krôtôv xuất hiện. Đầu tiên tôi nhận ra giọng nói cậu ta từ ngoài cửa, đâu bên phòng họp của các biên tập viên: Krôtôv đang hào hứng kể một câu chuyện gì đó. Tôi đặt sang cạnh bàn bản thảo của một cộng tác viên nghiệp dư. Cánh cửa bật mở. Krôtôv bước vào, hay nói đúng hơn là lao vào hay bay vào.

- Chào chú, chú Bôris Antônôvich. - Chàng trai mặc áo bờ-lu-dông dạ, không cài cúc, bên trong là áo săng đay, giầy du lịch, quần bò, trên đầu là chiếc mũ bê rê đội lệch sang một bên tai. Khuôn mặt dầu dãi gió mưa, đôi môi nứt nẻ, cặp mắt xanh ngời sáng. Có cảm giác như cả người cậu ta còn đang căng lên trong ngọn gió của cuộc hành trình.

Tôi đáp lại lời chào với giọng nhát gừng rồi mời cậu ta ngồi. Krôtôv ngồi xuống ghế, duỗi thẳng hai chân, thở hồng hộc. Tôi lặng lẽ quan sát cậu ta. Cậu ta đưa tay nhấc mũ bê rê và vuốt mái tóc.

- Nào, kể đi. - Tôi yêu cầu.

- Nói vắn tắt thì như thế này: nhiệm vụ chú giao, cháu đã hoàn thành. Những ấn tượng thì nhiều vô kể! Cám ơn chú đã cử cháu đi, chú Bôris Antônôvich. Thật là thú vị.

- Cậu sẽ viết báo cáo chính thức sau. Trong báo cáo không cần lời cám ơn và những ấn tượng. Cần viết rõ: đã ghi băng những tài liệu gì, người nói, chiều dài băng đã ghi được. Kèm theo là các chứng từ tạm ứng. Rồi đưa cho tôi ký.

- Rõ rồi ạ!

- Bây giờ thì kể đi.

Giọng nói của tôi làm cậu ta lúng túng...

- Cháu không biết bắt đầu từ đâu. Cháu đã đến chỗ trại hươu ở Tsapôghira. Thật là xúc động. Chẳng muốn rời nơi đó tí nào. Cháu đã đến công tác ở một nơi như vậy đó!

- Tôi không quan tâm đến những cảm xúc của cậu. Cứ để đó mà dùng khi viết hồi ký. Hãy bắt đầu từ cái chủ yếu nhất - từ cây thánh giá.

Krôtôv bỗng đớ người, giống như một đứa trẻ có điều thầm kín bị người khác biết được.

- Làm sao chú biết việc đó?

- Làm sao tôi biết được - đó không phải là việc của cậu. Kể đi!

- Chuyện vô nghĩa thôi, chú Bôris Antônôvich ạ. Một nghĩa cử bình thường.

- Cái gì - Cái gì?

- Việc đó thích hợp với đầu đề "Người Xô viết hành động như thế đấy", cậu ta hào hứng giải thích.

Tôi hít thở nặng nhọc.

- Nghe đây, Krôtôv, tôi đã chán ngấy những lời sắc sảo của anh rồi đấy. Tôi không muốn nghe thêm nữa, đồ quỉ tha ma bắt. Trước mặt anh không phải là người bạn. Hãy trả lời nghiêm túc. Đây là ban biên tập. Tôi đang nói chuyện với anh với tư cách người lãnh đạo. Ngồi lại cho ngay ngắn, đừng dạng chân ra như thế, đây không phải chỗ tắm nắng.

Cậu ta thu chân về rồi ngồi lại ngay ngắn. Dường như cậu ta ngạc nhiên trước phản ứng của tôi.

- Câu chuyện về cây thánh giá của anh là như thế nào? Chỉ có điều là đừng nói dối.

- Vâng, cháu không định nói dối đâu, thưa chú Bôris Antônôvich.

Có tiếng chuông điện thoại. Tôi nhấc máy và nói chuyện với văn phòng thành uỷ. Krôtôv lơ đãng nhìn qua cửa sổ. Tôi đặt ống nghe xuống rồi châm lửa hút thuốc. Một mẩu diêm sinh bắn vào má bỏng rát. Tôi rủa thầm. Krôtôv nhăn nhó. Cậu ta đã lấy lại bình tĩnh.

- Có thể tiếp tục được chưa ạ?

- Nói đi.

- Chỉ có điều chú đừng nổi nóng. Sự việc như thế này. Một hôm cháu đi ngoài đường, nhìn xuống chân thấy một cây thánh giá. Thế là cháu nhặt lên rồi bỏ vào túi.

- Cậu theo đạo à?

- Sao chú lại hỏi thế, chú Bôris Antônôvich. Cháu là kẻ vô thần kiên định. Vị thần của cháu là trí tuệ. Còn cây thánh giá cháu định vứt đi, nhưng rồi quên... Cháu thề đấy! - Cậu ta đưa tay làm dấu thánh giá với điệu bộ rất trẻ con. - Trong thời gian đến thị trấn ấy cháu có tìm gặp Philipôv. Mùa săn vừa rồi ông ấy bắn hạ tám chục con cáo. Cháu đã phỏng vấn, như chú đã chỉ dẫn cho cháu. Ông ấy đang ngồi cắt tấm da gấu, bản thân ông ấy cũng giống một con gấu. Cháu cùng ông ấy ngồi ăn với nhau. Cháu nói luôn mồm, còn ông ấy im lặng. Moi được một lời của ông ấy chẳng khác nào rút tiền ở két sắt. Mặc dù vậy cháu cũng lấy được bài phỏng vấn... Sau đó ông ấy cùng cháu uống một ít rượu. Cháu kể cho ông ấy nghe về Mascơva. Ông ấy là một nông dân tốt bụng. Sống độc thân. Không có bà con họ hàng, chỉ có một mẹ già. Bà cụ đã chín mươi tuổi. Một bà cụ phúc hậu... tuyệt vời! Không đứng dậy được khỏi giường, nhưng nhớ đủ thứ chuyện và kể lại mới hay làm sao! Ngoài ra, cụ tin ở các nhà du hành vũ trụ, nhưng lại thương hại họ... một bà cụ tuyệt vậy đó! - Cậu ta ngừng lời để suy nghĩ, dường như đang tưởng tượng đưa mình trờ lại Ulêkit, - Vậy đấy! Rồi sau đó cụ bảo chẳng còn sống bao lâu nữa, sẽ ra đi vào mùa đông này, không có cây thánh giá để mạng theo. Cụ đã đánh mất nó. Cụ cứ băn khoăn mãi về việc không có cây thánh giá trong phút lâm chung. Cụ nhờ tìm hộ cho cụ ở đâu đó. Và cháu cho tay vào túi, lấy ra... - Chàng trai dừng lại giây lát rồi nói tiếp, giọng thành thật không ngờ: - Chú biết không, bà cụ đã hôn lên tay cháu, cháu không kịp làm gì cả... - Rồi cậu ta ngồi im.

- Tiếp tục đi! - tôi giục.

- Tiếp tục việc gì nữa ạ?

- Cái gì đã xảy ra tiếp sau đó?

- Chẳng có gì cả. Cháu cùng Philipôv uống thêm mỗi người một ly rượu chúc sức khoẻ bà cụ. Rồi cháu đi.

- Hết chưa?

- Hết rồi ạ.

- Cậu không quên điều gì chứ?

- Vâng, không... còn điều gì nữa kia ạ?

- Vậy thì, tôi nói cho. Tôi được nghe là cậu lấy của nhà Philipôv một tấm da cáo thuộc, rằng cậu nhận tấm da để đổi cho người ta cây thánh giá của cậu, rằng đối với cậu cuộc trò chuyện cứu rỗi linh hồn đó mang ý nghĩa vụ lợi. Đúng vậy không? Chỉ có điều đừng nói dối!

Hai gò má Krôtôv đanh lại, dưới làn da mỏng hằn lên những bướu thịt. Đột nhiên cậu ta bắt đầu nói lắp.

- Ai nói... cho chú... chú điều... đó?

- Không quan trọng. Trả lời đi!

- Cháu... sẽ đấm... cho nó vỡ... vỡ mồm.

- Tôi không chắc lắm. Có hay không?

- Cháu không có ý định trả lời chú.

- Thế đấy!

- Cháu... không ngờ... chú lại... như thế. - Cậu ta đứng dậy, mắt vẫn dán vào tôi. - Cháu thật không ngờ... Cháu tưởng... tưởng... chú thông minh hơn kia.

- Có hay không?

- Cháu không thèm làm việc với chú... chú nữa. - Cậu ta đứng hẳn dậy.

Tôi bước vòng qua bàn, chặn không cho cậu ta ra cửa.

- Ngồi xuống, đừng có nổi cơn tam bành lên! Nghe đây! Những chuyện đó đều đến tai chú. Chú phải kiểm tra lại. Chú không muốn làm những việc này, nhưng phải làm.

- Ba lô... mở ra chứ?

- Chú cần quái gì cái ba lô của cháu.

- Vậy chú cần gì?

- Chẳng cần gì cả! Ngồi xuống đi! - Tôi ấn cậu ta xuống ghế, còn mình thì đi đi lại lại trong phòng. - Chú không tin là cháu có thể lấy tấm da tởm lợm đó. Nhưng bản thân sự việc cháu có cây thánh giá cũng đủ mang lại mọi tình tiết hoang tưởng. Đừng quên rằng cháu là người mới đến vùng này, thêm nữa lại có cái dáng vẻ đập vào mắt mọi người. Mỗi bước đi của cháu đều có người biết.

- Cháu không thể... trở thanh... một kẻ tàng hình.

- Điều đó không ai đòi hỏi! Một ý thức sơ đẳng về sự chừng mực - đó mới là điều cần phải có. Bây giờ cháu không phải chỉ là Krôtôv, mà là đại diện cho cả ban biên tập. Cháu cần mang theo trong người cây thánh giá để làm gì, hơn nữa lại đem ban phát cho một bà cụ sắp từ giã cõi đời. Bà cụ cần thuốc, cần bệnh viện, chứ không cần cây thánh giá.

- Nếu ở địa vị cháu, chú sẽ làm gì?

- Không biết ở địa vị cháu chú sẽ làm gì! Chú chưa hình dung được trong tình huống như cháu chú sẽ làm gì! Chú không lấy vợ vào năm mười bảy tuổi, chú không lên xe đi đến một nơi khỉ ho cò gáy theo mệnh lệnh của ngón tay trỏ, không viết tiểu thuyết... Tất cả những điều đó đã đủ khác đời lắm rồi, không cần đến thứ bùa hộ mệnh của nhà thờ nữa, hãy hiểu đi.

- Giờ thì chú muốn gì ở cháu?

- Chỉ một điều: xử sự cho khôn ngoan hơn. Nếu chú mà hành động như cháu, chú đã mất ghế từ lâu rồi. Cháu còn được châm chước, vì còn trẻ.

- Cháu không cần châm chước. Chú có thể buộc thôi việc.

- Cháu im đi, cứ lải nhải như con vẹt: buộc thôi việc, buộc thôi việc. Chú mới cảnh cáo cháu thôi. Hãy nhớ rằng việc cháu biết viết chưa phải là cái vỏ bọc an toàn, không phải trong mọi trường hợp cái khả năng đó đều có ích cho đời. Hãy nghĩ đến Cachia. Cháu là người có vợ.

- Cháu vẫn nghĩ đến cô ấy. Cháu đã đổi chác bộ lông cáo để may áo măng tô cho cô ấy.

- Đủ rồi, chấm dứt cái trò mỉa mai của cháu đi. Hút thuốc chứ?

- Cháu xin.

- Cầm lấy. Và để kết thúc câu chuyện này, chú muốn báo trước để cháu biết là Ivan Ivanôvich Xuvôrôv cũng đã biết hết mọi chuyện. Việc đó chẳng hứa hẹn điều gì tốt lành, nhưng cháu đừng có gây sự cãi vã với bác ấy.

Krôtôv im lặng với vẻ chán chường. Tôi bước đến ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh cậu ta.

- Chú còn một việc để hỏi cháu, Xecgây ạ... một việc hơi tế nhị. - Cậu ta im lặng, tỏ ra không quan tâm. - Thế nào, hỏi được chứ?

- Chú cứ hỏi.

- Chỉ có điều đừng nện quả đấm lên người chú. Cháu có mối quan hệ gì ở trạm y tế thị trấn?

- Viết vào báo cáo chứ?

- Đừng có ngốc nghếch. Chú hỏi với tư cách bạn bè.

Cậu ta ngấm nguýt nhìn tôi, tỏ vẻ nghi hoặc.

- Cháu đến đó để lấy bài phỏng vấn.

- Cho tạp chí tuổi trẻ à?

Cậu ta uể oải nhún vai.

- Đối với cháu thì phỏng vấn cho ai cũng được cả. Một cô gái rất hay. Cô ấy đến đó sau khi tốt nghiệp một trường trung cấp ở Goôcnô Antaisk. Nhưng có việc gì vậy?

- Chẳng có việc gì. Cháu không ngạc nhiên gì cả hay sao về việc chú biết được nhiều chuyện như vậy?

- Còn phải hỏi.

- Nhưng điều đó chẳng có gì lạ. Hình như chú đã nói với cháu rằng bất cứ ai mới đến vùng này đều được mọi người chú ý đến. Thì đấy, điều chứng minh đấy. Hãy thận trọng trong các mối quan hệ.

- Cháu ngạc nhiên quá!

- Vì cái gì? Giải thích xem.

- Không thể đi một bước mà không nhìn trước ngó sau. Ở nhà trẻ - nội qui, ở trường - cả bảng dài nội qui. Cháu có phải là con người được tự do không?

- Tất nhiên.

- Cháu có thể hành động theo ý mình không?

- Cứ cho là như vậy.

- Thế thì đủ rồi. Những mối quan hệ bạn bè của cháu chẳng việc gì đến ai.

- Cả đối với Cachia?

Cậu ta xoay ngược ghế.

- Sao lại có chuyện Cachia ở đây?

- Cô ấy là vợ cháu. Cháu nghĩ thế nào, việc cháu làm quen với ai chẳng có quan hệ gì đến vợ cháu hay sao? Hoặc giả sử thế này, cháu sẽ có thái độ ra sao nếu cô ấy làm quen với một thanh niên đang sống cô đơn và buồn chán. Đấy tất nhiên chỉ là giả thiết, - tôi nói thêm vì thấy cậu ta chợt hiện ra vẻ lo lắng.

Krôtôv ngắt lời tôi.

- Điều đó mãi mãi sẽ chỉ là giả thiết.

- Tôi tin như vậy. Nhưng nếu nó đến thì sao?

- Khi đó Cachia sẽ hỏi ý kiến cháu trước. Rồi sau đó cô ấy sẽ làm theo lời cháu. Chúng cháu đã có giao ước.

- Một giao ước hay. Hai chiều chứ?

- Cháu không giấu cô ấy điều gì. Về chuyện ở trạm y tế cháu cũng sẽ kể lại.

- Cháu hành động đúng. Nhưng cháu đã không lường hết sức mạnh của những điều thêu dệt. Nó có thể biến con ruồi thành con voi.

- Cachia không phải là đứa ngốc.

- Nhưng cô ấy là phụ nữ, phụ nữ trẻ.

- Cachia không ghen.

- Nhưng cô ấy dễ xúc cảm, đúng không nào? Riêng việc này cũng đã đủ: để cô ấy yên tâm chú phải nói dối cô ta là cháu có gửi lời thăm hỏi.

Krôtôv đấm hai tay vào đầu.

- Ôi, khỉ thật! Xin lỗi chú.

- Vớ vẩn. Về mà xin lỗi vợ.

- Cháu mệt qúa rồi. Có thể đi được chứ ạ? Chắc cô ấy đang mong cháu.

- Chẳng lẽ cháu chưa gặp vợ cháu sao?

- Chưa ạ, cháu đã đến thẳng chỗ chú.

Tôi ngồi lặng đi nửa phút để ngắm nhìn cậu ta dưới một góc độ mới.

- Chà, Krôtôv này, cháu biết không, chú đánh giá cao tinh thần tận tuỵ đó, nhưng nó vượt ra ngoài sự hiểu biết của chú. Vợ ngồi cách hai bước chân, mong cháu như mong mẹ về chợ, còn cháu thì việc đầu tiên là trình diện để báo cáo về những ấn tượng ngốc nghếch của mình.

- Vâng, cháu thì muốn tốt nhất là...

- Cháu xéo ngay đi. Và ngày hôm nay đừng ló mặt đến đây nữa. Hãy đến nhà tắm, kỳ cọ cho sạch hết mọi tội lỗi.

Krôtôv lao ra, nhưng còn dừng lại ở cửa.

- Hỏi một câu... được không ạ?

- Nào?

- Tại sao chú cử cháu đi công tác?

- Để ít phải nhìn thấy cháu, tiểu thuyết gia ạ. Cháu đã làm chú ngấy đến tận cổ.

Krôtôv nhìn lên trần nhà như cố hình dung điều gì đó, rồi nói:

- Chú là người tốt, chú Bôris Ivanôvich ạ. Được rồi, cháu sẽ cố đợi đến lúc bị buộc thôi việc.

Cậu ta tặng thưởng tôi như vậy, rồi biến đi.

Tôi ngồi lại một mình, bực tức và ngỡ ngàng, điếu thuốc tắt ngấm vẫn cầm trên tay, và bỗng dưng cảm thấy mình cũng già cỗi như trái đất này, mệt mỏi và ốm yếu, lòng đố kỵ tràn ngập trong tim.

Từ hành lang vọng vào tiếng reo man rợ khoái trá: Krôtôv chào gặp vợ.

***

TRÍCH NHẬT KÝ KRÔTÔV

"Mascơva - con búp bê bằng gỗ khổng lồ và sặc sỡ, trong bụng chứa những búp bê con đồng dạng nhỏ tí xíu. Mascơva - cái bộng ong gồm hàng triệu tổ, một trong những tổ đó là căn phòng của bà cô họ xa của tôi. Cô tôi đang đi điều dưỡng ở miền nam. Chùm chìa khóa phòng đang leng keng trong túi tôi.

Các rạp chiếu bóng - quên đi.

Thư viện - dẹp sang một bên.

Mascơva thu nhỏ lại, co thắt lại, chỉ còn mười mét vuông. Trên cái bề mặt đó là một chiếc giường, một chiếc bàn, tủ chè và mấy chiếc ghế.

Cửa sổ quay ra một sân kín. Bên ngoài các bức tường là cảnh tất bật ngược xuôi, tiếng loảng xoảng của xoong nồi, những giọng đay nghiến, mùi khói bếp khét lẹt của một căn hộ tập thể.

Xa hơn nữa là quảng trường Arơbat, vang vọng tiếng rì ào như sóng vỗ suốt ngày đêm.

Cửa cài khoá. Hai đứa chúng tôi ở trong một khoang buồng khí áp kín bưng. Ở đây thời gian cơ hồ ngưng lại, chỉ còn sự yên lặng và những tiếng thì thầm.

- Anh yêu em không?

- Rất rất, còn em?

- Em yêu anh.

Ai hỏi, ai trả lời? Cái từ "yêu" huyền diệu biết bao! Hàng tỷ người đã nói cái từ này hàng tỷ lần. Nhưng cái từ "yêu" vẫn không tàn lụi, không phai mờ. Cái từ bất diệt.

Lần đầu tiên trong đời khi nói "yêu" tôi hiểu được được điều đó có ý nghĩa như thế nào.

Sự tiếp xúc của bàn tay em - run rẩy đến rợn người.

Đôi môi em làm lu mờ tất cả.

Rồi sau đó - trạng thái đê mê.

Hai đôi môi giành giật nhau.

Hai bàn tay tôi bỗng trở nên táo tợn.

Quần áo, quần áo - quần áo chết tiệt. Chiếc lá nho của Ađam. Khố đóng quanh bẹn của người dân tộc thiểu số. Bộ y phục của người châu Âu văn minh. Thứ quần áo chết tiệt.

Đột nhiên cảm nhận được cái mát lạnh trên thân thể em.

Tôi và em trở thành hai đứa trẻ sơ sinh, hai anh em sinh đôi nằm chung trong một chiếc nôi.

Những phút thời gian bị gạch xoá khỏi cuộc đời. Hoặc nói ngược lại - cả cuộc đời dồn nén lại trong mấy phút thời gian.

Tôi và em mang hai cái tên mới - đàn ông và đàn bà.

Em thì rên rỉ bất lực qua hai hàng nước mắt: làm sao bây giờ, tình yêu, mẹ ơi, em sợ, em yêu, việc này kỳ lạ quá, đâu là lối thoát của cuộc đời, mẹ ơi, tai vạ, em yêu...

Tôi thì lẩm bẩm: anh yêu, chưa bao giờ trong đời, lần đầu tiên, mặc kệ tất cả, anh yêu, em là người đẹp nhất, không ai bằng, chưa bao giờ xảy ra, em đừng sợ, anh là của em..."

Ngày lại ngày trôi qua, ánh nắng mờ dịu dần. Mặt sông đã đóng băng từ lâu. Trời tối nhanh và đêm kéo dài. Da cáo đắp dày thêm trên những chiếc áo lông, những phát súng trường vang lên khô khốc trong rừng Taiga. Đàn hươu đã ăn đẫy bụng trên những bãi nấm mùa thu, hiện giờ đang vượt qua những đầm rêu xám. Đêm đêm, từ những ống khói khắp thị trấn những cột khói vươn cao lên bầu trời. Các hàn thử biểu cũng bắt đầu đông lại.

Ở ban biên tập mọi hoạt động vẫn tiếp diễn bình thường. Hàng ngày, vào đúng 18 giờ 15 trong không trung vang lên giai điệu phát ra từ một nhạc cụ dân tộc để mở đầu buổi phát thanh của chúng tôi. Từ 9 giờ sáng đến 6 giờ chiều các máy ghi âm quay không ngừng nghỉ, các phóng viên đi đi về về, tấm biển đèn trên cửa phòng phát thanh viên nhấp nháy làm hiện lên dòng chữ "ĐANG GHI, YÊU CẦU IM LẶNG", các sọt giấy hết đầy lại vơi, âm thanh không bao giờ ngừng trong phòng máy, nơi đó, các nữ nhân viên dùng kim và keo dán để biến những lời nói lắp bắp thành những lời lẽ hùng hồn, các cuộc họp giao ban được triệu tập, các cộng tác viên bay đi bay về - blốc lịch để bàn mỏng dần qua từng ngày.

Mùa đông thứ chín của tôi ở miền đất này kéo dài lê thê.

Vợ chồng Krôtôv vẫn sỗng trong căn phòng con ở trụ sở ban biên tập. Có người nào đó nói đùa rằng cần trả thêm cho họ lương nhân viên bảo vệ như một công tác kiêm nhiệm. Mọi người đã quen với Cachia và có lẽ đã yêu mến cô. Cô sống khiêm nhường, hầu như khó nhận ra cô giữa đám đông người, sẵn lòng giúp đỡ các nhân viên phòng đánh máy và bắt đầu phát huy khả năng ở phòng lưu trữ băng. Tôi đã nghĩ đến việc giao cho cô chuẩn bị các chương trình ca nhạc theo yêu cầu thính giả.

Từ cái việc Cachia sống trầm lặng và khiêm nhường, có người nào đó đã đưa ra kết luận sai lầm là cô thiếu tinh thần trách nhiệm. Có lần bà Iulia Pavlôvna, một phụ nữ tuổi bốn mươi, thích làm dáng, trong khi chuyện trò với Cachia đã đùa bảo cô hãy "làm cho Xecgây thành người". bằng cách cắt tóc cho cậu ta và đẽo gọt bớt các góc cạnh. Với giọng phẫn nộ không ngờ, Cachia tuyên bố:

- Chị không được nói thế!

Miuxôva chớp chớp hàng mi xanh lè:

- Sao vậy, Cachia?

- Anh ấy không cần ai trau chuốt. Anh ấy là một siêu nhân. Anh ấy có quyền làm mọi việc.

- Chà, một tín đồ cựu giáo thuộc dòng Raxcôn chăng! - Bà ta thốt lên.

Những ngày gần đây Krôtôv ít nói, sống khép kín. Trong các buổi giao ban cậu ta ngồi im lặng, thả dòng suy nghĩ trôi về chốn xa xôi vô định. Cậu ta gầy đi trông thấy. Đoán là cậu ta ít ngủ, tôi thận trọng hỏi dò bà bảo vệ vẫn trực suốt đêm ở trụ sở ban biên tập. Bà xác nhận điều phỏng đoán của tôi. Krôtôv làm việc đến tận khuya trên chiếc máy chữ.

Câu chuyện về cây thánh giá không còn ai nói ra nói vào nữa, qua đó tôi có cái nhìn khác đi đối với bác Ivan Ivanôvich Xuvôrôv. Từ đầu mùa đông bác bị bệnh (tái phát của chứng đau cột sống kinh niên) và nghỉ ốm một thời gian dài. Những cộng tác viên khác chấp nhận Krôtôv như một việc tất nhiên. Với cậu ta họ quan hệ lạnh lùng và dè dặt. Krôtôv cố tạo ra chung quanh mình một khoảng không gian đặc biệt, một môi trường thiếu không khí, trong đó lòng tốt và thiện cảm không có chỗ để tồn tại. Người duy nhất công khai khen ngợi Krôtôv là phát thanh viên Golubeb, một người đàn ông vui nhộn, vô tư, đôi khi có dáng dấp của một gã xà ích. Giữa Krôtôv với anh ta hình thành một mối quan hệ bạn bè, nhưng vị tất tình bạn đó có trở nên thân thiết.

Qua chuyến công tác Krôtôv mang về mấy cuộn băng ghi âm rất hay. Tôi chỉ thị cho các kỹ thuật viên giao hẳn cho Krôtôv sử dụng thường xuyên một máy ghi âm loại mới nhất. Hiệu "Phóng viên - 5". Cậu ta đã sử dụng máy thành thạo, nhờ đó dường như có một ngọn gió trong lành toả ra từ những bản tin giờ chót của chúng tôi... Giờ đây trong mỗi buổi phát thanh đều nghe được những giọng nói sinh động (bài phỏng vấn, những cuộc toạ đàm ngắn gọn, phóng sự truyền thanh). Tôi cố ý tìm trong đó một chút hời hợt, nhưng khó mà phát hiện ra điều gì có thể bắt bẻ, hoạnh hoẹ được. Một điều lạ là cậu ta khó quan hệ với người khác trong phạm vi bốn bức tường của ban biên tập, nhưng lại tìm được tiếng nói chung với các tác giả bên ngoài một cách nhanh chóng, sắc sảo và không tốn mấy công sức.

Vào cuối tháng mười Krôtôv nhận được một thành tích nhỏ đáng chú ý. Chúng tôi đã chuẩn bị một chương trình phát thanh dài sáu mươi phút cho đài Mascơva. Chương trình đã được thực hiện thành công. Dường như theo đúng qui luật về sự kích nổ, ban biên tập buổi phát thanh "Trái đất và con người" của đài phát thanh Liên bang đề nghị chúng tôi gửi một chương trình mười phút về nghề chăn hươu ở địa phương.

Tôi gọi Krôtôv đến để hỏi cậu ta có dự trữ băng ghi nào thích hợp với đề tài đó không. Krôtôv khẳng định có và sau mấy ngày cậu ta mang đến đưa tôi một đoạn băng ghi âm đã được ghép nối hoàn chỉnh với một nội dung súc tích. Trong vòng tám phút người nghe được sống trong cái yên ả của vùng Taiga, nơi đó vang lên tiếng leng keng phát ra từ những chiếc lục lạc buộc cổ hươu, tiếng nổ lép bép của cành lá bị thiêu rụi trong đống lửa, và giọng khàn khàn chậm rãi của một cụ già Êvenki đang kể về cuộc đời... Lời người nói đều đều và mộc mạc, hoà nhập với khung cảnh một đống lửa đang lụi tàn và dòng hồi tưởng chậm rãi của một cụ già. Qua lời kể người nghe cảm nhận một hơi thở đang cố ghìm nén, sự lo âu và nỗi u buồn kỳ lạ của một người miền núi có trái tim đầy xúc động đang dồn dập đập. Tôi nghỉ rằng Krôtôv đã không phóng đại khi nói về những ấn tượng mạnh mẽ của mình trong chuyến đi công tác đến các trại nuôi hươu.

Câu chuyện kết thúc không vui, cụ già thở dài, rên lên khừ khừ, nói rằng cái chết cũng chẳng còn xa và lo không biết giao cho ai vị trí chỉ huy mà cụ đang gánh vác, sau đó là tiếng chó tru văng vẳng ai oán như đang than khóc cụ già.

Đoạn băng đã được gửi về Mascơva kèm theo một bản thuyết minh và chẳng bao lâu đã được phát trên đài. Một thời gian sau Mascơva thông báo rằng ngoài tiền nhuận bút thường lệ câu chuyện truyền thanh của Krôtôv còn được Uỷ ban trao giải thưởng lớn. Tôi vui mừng và xúc động. Một mặt, những hy vọng của tôi đã được khẳng định và sự hy sinh đã tỏ ra không vô ích. Mặt khác, tôi cũng lo rằng cái thắng lợi đầu tiên này có thể làm cho Krôtôv bị sốc.

Krôtôv đón nhận cái tin về giải thưởng với một thái độ kỳ lạ: cậu ta nhẩm tính gì đó trong đầu rồi lạnh lùng tuyên bố rằng số tiền này đủ để mua cho Cachia một chiếc áo măng tô mới. Vẻn vẹn chỉ có thế. Bức điện của Uỷ ban cậu ta nhét luôn vào túi. Mấy ngày sau người quét dọn cơ quan nhặt được bức điện nằm giữa đám giấy lộn trong sọt rác và mang đến đưa cho tôi. Tôi gọi Krôtôv đến và bực mình quở mắng cậu ta. Đó là trò công tử bột, - tôi mắng, - trò trẻ con, những giấy tờ như thế này mà đem quẳng vào sọt giấy loại. Cậu ta nhún vai hỏi: giữ làm gì bức điện ấy? Tôi giải thích rằng đó là một loại giấy bảo hành khi gặp khó khăn, giấy xác nhận nghiệp vụ nhà báo. Cậu ta lại nhún vai. Vậy thì cháu sẽ không bao giờ được nhận lại bức điện ấy. Tôi bảo, rồi cho bức điện vào ngăn bàn.

Có điều gì đó đã xảy ra với Krôtôv. Còn Cachia trong những ngày gần đây cũng có vẻ buồn bã. Hầu như cô ngồi suốt ngày trong phòng lưu trữ băng và gõ máy chữ lạch cạch như con chim gõ kiến. Đầu tháng mười một tôi nhận được một phong thư gửi đến từ Mascơva. Vừa mới xé phong bì và đọc mấy dòng đầu tiên tôi đã hình dung được mẹ của Cachia viết những gì.

"Đồng chí Bôris Antônôvich quí mến.

Từ tháng tám đến nay con gái tôi là Ecaterina Naumôva (theo chứng minh thư hiện nay họ của cháu là Krôtôva) làm việc ở chỗ đồng chí. Qua các thư cháu gửi về tôi được biết đồng chí đã tốn nhiều công sức để thu xếp cuộc sống cho cháu. Tôi thiết nghỉ đồng chí cũng hiểu được rằng Cachia cần có trình độ đại học (chắc đồng chí cũng có con). Bởi vậy đồng chí sẽ thông cảm với việc tôi đã hết sức phản đối chuyện lấy chồng sớm và thiếu suy nghĩ của con gái tôi. Không cần phải giấu diếm với đồng chí rằng tôi ác cảm sâu sắc với cá nhân cậu Xecgây Krôtôv, cái người được gọi là chồng của con gái tôi. Chắc đồng chí cũng đã có thể thấy được rằng đó là một thanh niên nhẹ dạ. Cậu ta không thu xếp nổi cuộc sống cho riêng mình, còn nói gì đến việc lo cho cuộc sống của Cachia. Việc lấy chồng của cháu là hậu quả của tính đam mê trẻ con. Việc đó sẽ không đem lại điều gì tốt lành.

Đồng chí Bôris Antônôvich, tôi khẩn khoản mong đồng chí giúp đỡ tôi. Tôi đã phát ốm vì phiền muộn. Là một bác sĩ nên tôi hiểu được là bệnh tình của tôi khá trầm trọng. Bôris Antônôvich kính mến, xin hãy vì Chúa! Tôi van đồng chí hãy dùng tất cả uy tín và ảnh hưởng của mình khuyên bảo Cachia quay trở về Mascơva. nếu không thì cả cuộc đời cháu sẽ bị dập vùi.

Với lòng kính trọng sâu sắc NAUMÔVA"

Đoạn tái bút với nội dung sau đây đã làm tôi tức giận:

"Tôi sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của đồng chí."

Tôi nhét bức thư vào ngăn kéo bàn. Bản thân cũng không biết mình có thể giúp gì cho mẹ của Cachia.

***

TRÍCH NHẬT KÝ KRÔTÔV

"Cô tôi cùng với các thứ hòm xiểng và túi xách lỉnh kỉnh đã từ miền nam trở về.

Hoang đảo của chúng tôi đã có người đến.

Chúng tôi còn lại những gì? Quán nước, những đường phố đông người, ghế dài trong các công viên, những rạp chiếu phim mờ tối. Khắp mọi nơi toàn những tai và mắt. Cả thủ đô nhìn ngó chúng tôi. Em và tôi là hai cá thể giữa quần thể loài người, không nơi nương náu và bị dày vò.

Mỗi buổi tối chúng tôi chia tay nhau trước cửa nhà Cachia. Vạt lưng áo của chúng tôi đã xoá sạch những chữ viết bằng phấn trên tường. Vốn từ ngữ của chúng tôi thu hẹp lại trong một chữ "yêu"

Đến kỳ thi còn lại mười lăm ngày.

Rồi mười ngày.

- Chúng mình trượt mất thôi, Xeriôgia.

- Vớ vẩn.

- Chúng mình làm sao bay giờ?

- Hành động.

- Anh có yêu em không?

- Yêu.

- Anh sẽ tìm ra cách gì chứ?

- Anh sẽ có cách.

Tôi không còn hiểu nổi mình. Chẳng phải chính tôi đã từng chế nhạo Emin Chigiơ vì cậu ta say mê Valia Gôlubenca khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đó là một thiếu nữ có mái tóc xoăn tít như làn khói trong các tranh vẽ của trẻ con. Chẳng phải chính tôi đã từng nói với bạn bè một câu độc ngữ: tình yêu là một tình cảm lỗi thời.

"Ngày hôm đó giống như một diễn viên tỉnh lẻ nọ sắm vai trong một vở bi kịch của Sêchbia, tôi đã bế trên tay mình trọn vẹn cả người em, từ đầu đến chân, biết rành rọt tất cả về em, tôi cứ đi lang thang như thế trong thành phố và diễn tập vai mình đóng". Nhà văn Paxternax viết câu này dường như để nói về tôi.

Có một hôm Cachia không đến chỗ hẹn. Tôi chờ em. Đọc hết cả tập báo, uống hết hai cốc nước ngọt có gaz, ngốn ngấu một cốc kem hoa quả trong nỗi buồn cô đơn.

Đồng xu hai côpếch chui tọt vào khe hở trên máy điện thoại công cộng như một con thú nhỏ chui vào hang.

- Alô. - Một giọng nữ êm ái vang lên trong máy.

- Chào bác. Có thể nói chuyện với Cachia được không ạ?

- Ai hỏi nó đấy?

- Cháu là Xecgây.

- Cachia không có nhà và trong mấy ngày tới nó cũng sẽ vắng nhà. Nó đi ra nhà nghỉ ở ngoại ô. Đề nghị không gọi điện đến đây nữa.

Tiếng tút tút báo hiệu máy đã bị ngắt mạch - đó là sự lăng mạ không diễn đạt bằng lời. Một biện pháp cổ điển để từ chối giao tiếp. Giờ đây chiếc ống nghe trong tay tôi giống như chiếc gậy gãy của người hát rong mù.

Vêra Alếchxăngdrôvna gọi tôi đến để làm quen với nhau. Thời cơ đã đến! Tù và đang giục! Tôi bị quẳng vào lửa. Sau hai phút phóng nhanh lên tầng tám tôi mệt thở không ra hơi. Mặc kệ tất!

Chuông gọi cửa, tiếng động của ổ khoá Ănglê. Trước mắt tôi là Quí bà tuyệt mỹ đứng trong khung cửa. Bà có vóc người dong dỏng cao, nét mặt nghiêm nghị như mặt đức mẹ, một mớ tóc bạc lẫn trong mái tóc màu hạt dẻ.

- Bác là Vêra Alêchxăngdrôpna?

- Vâng, chính tôi.

- Cháu là Xecgây. Cháu vừa gọi điện cho bác. Cháu cần gặp Cachia.

Một thoáng ngỡ ngàng trên khuôn mặt của Quí bà tuyệt mỹ.

- Chẳng lẽ tôi chưa bảo với cậu là Ecaterina vắng nhà sao?

- Không phải thế!

- Tôi nhắc lại: nó vắng nhà. Cậu là kẻ hay quấy nhiễu.

Ngay lúc đó, như một viên đạn đá bắn ra từ một nòng súng gỗ thời xưa, Cachia chạy như bay từ hành lang vào đến cửa.

- Xeriôgia!

Đôi gò má của Quí bà tuyệt mỹ bỗng ửng hồng.

- Cậu vào nhà đi, - bà bảo tôi.

Và tôi bước vào.

- Cachia, con vào phòng trong. Mẹ muốn nói chuyện riêng với bạn con.

- Mẹ!

- Đi đi! Mẹ sẽ gọi con nếu cần. Mẹ không ăn thịt cậu ta đâu.

- Em vào đi.- Tôi nói.

Rồi em bước đi, mắt vẫn ngoái nhìn, chân không giày tất, áo bờ lu ngắn.

Quý bà tuyệt mỹ. Căn phòng tuyệt mỹ có cửa sổ nhìn ra một phong cảnh tuyệt mỹ. Và một câu chuyện tuyệt hay.

- Cậu đã buộc tôi phải nói dối. Tôi không quen làm việc đó. Nhưng tôi phải làm thế vì Caterina. Nó đã phát rồ. Tôi bắt nó ngồi học. Có lẽ cậu cũng đang ôn thi vào đại học chứ?

- Vâng.

- Việc tôi làm cũng có lợi cho cả cậu.

- Tại sao cơ?

- Quan hệ thân quen mê muội của cậu sẽ làm cậu mất quá nhiều thời gian. Cậu còn bố mẹ chứ?

- Cháu là đứa trẻ bị bỏ rơi.

- Cậu xấc láo quá. Tôi không thích điều đó.

- Nhưng Cachia lại thích ạ.

- Caterina là một con bé ngốc nghếch, Nó dễ phải lòng. Hồi học lớp bảy nó thích một nhạc công. Lên lớp tám nó thích một cầu thủ bóng đá, còn bây giờ thì thích một người hóm hỉnh. Óc thẩm mỹ của nó hỏng rồi. - Tôi nén giận để nghe lời bà nói. - Cậu phải để cho nó được yên.

- Tại sao vậy?

- Tôi giải thích lại nhé: Caterina sắp phải thi cử đến nơi rồi. Nó thi đỗ nếu nó học bài. Hẹn hò với cậu nó quên hết sách vở.

- Chúng cháu cùng đọc sách và trao đổi về bài vở.

- Việc đó không giúp ích gì cho thi cử. Ngoài ra, - Quý bà tuyệt mỹ bắt đầu bực tức, - tôi không tán thành những sự quen biết tình cờ.

- Việc đó chắc bác trai thích, - tôi buộc miệng nói. Đôi khi tôi nói trước khi kịp nghĩ mình nói gì.

Bà bị phật ý.

- Cậu đúng là đứa ngổ ngáo.

- Thế tại sao bác nói thay cho Cachia?

- Còn tại sao nữa? Nó là con gái tôi.

- Cachia là người lớn, đã có giấy chứng minh nhân dân. Cô ấy có thể chịu trách nhiệm về mình.

- Tôi sẽ biết nó có thể hay không có thể. Tôi không muốn tranh cãi với cậu. Hôm nay nó sẽ không đi đâu cả.

- Thế còn mai?

- Mai cũng vậy.

- Thế ngày kia?

- Nó sẽ khu xử theo ý muốn của tôi.

- Điều đó thật nhảm nhí! - tôi buột mồm.

Quý bà tuyệt mỹ cười cay nghiệt.

- Một thanh niên hiện đại... Thật không ngờ! Tôi cứ tưởng rằng Caterina có những quan hệ bạn bè tốt hơn. Tạm biệt! - Bà đứng dậy.

Buổi tiếp đã kết thúc.

- Cháu muốn gặp Cachia.

- Cậu có thể chia tay hẳn với nó.

- Bác hành động hết sức độc đoán.

Lại một tiếng cười cay nghiệt trên khuôn mặt tuyệt mỹ được chăm chút hàng ngày.

- Khi nào cậu làm bố cậu sẽ hiểu tôi.

- Việc đó chẳng phải đợi lâu đâu.

- Cái gì?

- Cháu yêu Cachia. Cô ấy cũng yêu cháu.

- Cậu bé, cậu có nhớ tôi đã nói gì không. Cậu thật buồn cười. Caterina đã phải lòng bao nhiêu lần rồi, cậu không tưởng tượng nổi đâu.

- Nhưng lần này là nghiêm túc.

- Tôi phải báo tin buồn cho cậu: lần này cũng chẳng khác gì những lần trước.

- Cachia!! - Tôi gọi vang cả căn hộ.

Và em hiện ra ngay, cứ như tôi vừa chạm tay vào cây đèn Alađanh. Em vẫn mặc áo bờ lu, chân để trần, vẻ hoảng hốt.

- Xeriôgia!

- Em có yêu anh không? Vêra Alếchxăngdropna không tin. Em yêu anh chứ?

- Mẹ.

- "Mẹ, mẹ" cái gì? - Người mẹ quát lại, giọng có phần bối rối.

- Chẳng lẽ mẹ không hiểu gì sao?

- Tao cần phải hiểu gì nào? Để cho mày thi trượt chăng? Để mặc mày huỷ hoại cuộc đời mày chăng? Để tao phải coi những đam mê ngu ngốc của mày là tình yêu chăng?

- Con yêu Xeriôgia.

- Nhảm nhí.

- Cháu yêu Cachia.

- Vớ vẩn. Thậm chí đến nghe cậu nói tôi cũng chẳng muốn.

Tôi mụ cả đầu, hoa cả mắt.

- Bác Vêra Alếchxăngdropna, bác là Cabanhikha. Mụ phù thuỷ và kẻ đạo đức giả

- Xéo ngay khỏi nhà tôi!

- Mẹ! Đừng đuổi anh ấy!

- Cachia, anh xuống đợi em dưới đường.

- Mẹ, tha lỗi cho con!

- Chỉ còn thiếu mỗi nước ấy! Cút đi cả lũ, đồ ngu!

Nghe xong lời dặn dò lúc chia tay này tôi chạy xuống cầu thang.

Năm phút sau Cachia xuất hiện, em khóc nức nở, một chiếc giày đi ở chân, một chiếc kia còn cầm trên tay. Tôi ôm choàng lấy em.

- Anh thích mẹ em. Mẹ có cá tính và sẽ là bà mẹ vợ cực kỳ.

- Ôi, Xeriôgia!..."

Vào đầu tháng mười một tại trụ sở ban biên tập xuất hiện một cô gái trẻ, cô gái mặc áo lông ngắn, chân đi ủng lông, trên đầu là chiếc mũ lông với hai tai mũ dài.

Cô muốn gặp Krôtôv. Cậu ta không có mặt ở cơ quan. Iulia Pavlôvna Miuxôva lịch thiệp mời khách cởi áo khoác ngoài và đợi Krôtôv về. Cô gái bỏ mũ rồi ngồi xuống ghế. Cô có khuôn mặt dễ ưa, lưỡng quyền cao, mồm nhỏ xíu với đôi môi mím chặt, vẻ cương nghị.

Cô nhanh chóng hòa nhập vào môi trường lạ và chừng năm phút sau đã cật vấn Xuvôrôv tại sao bác ấy hút thuốc trước mặt phụ nữ, hơn nữa lại hút trong căn phòng đóng kín cửa. Việc đó là phản vệ sinh, cô tuyên bố. Xuvôrôv sặc khói và thở khò khè.

Ngồi buồn thêm năm phút nữa khách lại bắt chuyện với Miuxôva. Cô muốn biết Iulia Pavlôvna đã mua bút chì kẻ mắt ở đâu. Nghe xong câu trả lời cô gật đầu hài lòng rồi lại ngồi im. Nhưng chỉ được một lát.

- Thế Xeriôgia sắp về chưa ạ?

"Xeriôgia"

Miuxôva đặt bút xuống bàn.

Là một người đàn bà có tính thích quan tâm đến mọi chuyện trên đời, bà thận trọng hỏi cô gái cần gặp Krôtôv về việc gì.

- Chỉ để tán chuyện thôi ạ. - Cô gái trả lời.

- Anh chị quen nhau lâu chưa?

Cô gật đầu. Vâng, lâu rồi. Cô làm quen với Xeriôgia ở Ulêkit, nơi cô làm nữ hộ sinh.

Xuvôrôv rên khừ khừ và xoay người trên ghế. Cô gái có lưỡng quyền cao ném về phía bác cái nhìn bực bội... Vừa lúc đó Krôtôv bước vào phòng, tuyết bám đầy người. Cô gái bật dậy khỏi chiếc ghế đang ngồi.

- Xeriôgia!

Krôtôv nhận ra cô, mồm huýt lên một tiếng.

- Đồ quỉ! Tônhia! Em từ đâu xuất hiện ra vậy?

Cặp mắt xếch của cô gái long lanh vui vẻ.

- Em lên máy bay rồi bay về đây.

Miuxôva cắm cúi trên trang giấy. Xuvôrôv ngồi dính chặt vào bàn, như một biểu tượng thường trực của phẩm giá.

Krôtôv nhấc chiếc máy ghi âm ra khỏi vai.

- Tuyệt quá! Ta đi nào, anh sẽ giới thiệu em với Cachia. - Rồi cậu ta cầm tay cô gái dắt ra khỏi phòng.

Cô gái không quay lại trụ sở ban biên tập nữa. Sau chừng nửa giờ Krôtốv quay về, người phấn chấn, ngồi vào bàn và bắt đầu đánh máy.

Chẳng bao lâu sau những lời đồn thổi đã đến tai tôi, rằng một hôm nào đó có một ai đó đã nhìn thấy Cachia ở một nơi nào đó với đôi mắt đẫm lệ, rồi thì một người nào đó đã nhìn thấy Krôtôv từ nhà khách đi ra vào một giờ rất khuya. Khi đem đến đưa tôi duyệt một bài viết, Ivan Ivanôvich Xuvôrôv không còn ghìm được, đã bảo:

- Tôi nghe nói cậu thần đồng của chúng ta đã quay đuôi khỏi cô vợ. Hay là thiên hạ chỉ đồn thổi?

- Tôi không bàn về những chuyện đồn đại, bác Ivan Ivanôvich ạ.

- Về cái bộ lông thuộc tôi đã không nói với ai. Bây giờ cũng vậy, nghĩa là phải im lặng chứ gì? Thì ra mọi thứ trên đời chẳng động chạm gì đến người anh hùng của chúng ta, có phải thế không ạ?

Sau đó Iulia Pavlôvna Miuxôva đến gặp tôi tại văn phòng. Chị mở đầu câu chuyện rất xa xôi bóng gió và dè dặt, rồi cũng đi đến sự việc mà Xuvôrôv đã đề cập.

- Đồng chí hiểu cho, thưa đồng chí Bôris Antônôvich, nếu tất cả những điều đó là đúng sự thật, thì với cương vị chủ tịch công đoàn tôi không thể bỏ qua được. Vâng, tôi chỉ thương cô gái.

- Nhưng chị đã nói chuyện với Cachia chưa? - Tôi hỏi. - Chỉ có điều đừng nói với danh nghĩa chủ tịch công đoàn, mà như một phụ nữ tâm tình với một phụ nữ.

- Tôi có hỏi chuyện rồi. Cô ấy không công nhận một điều gì và tỏ vẻ như không biết gì. Khẳng định rằng mọi việc trong gia đình đều êm đẹp. Nhưng chính cô ta thì héo mòn đi, mắt sưng húp vì khóc nhiều. Tôi đã tìm mọi cách... Nhưng đồng chí cũng biết đấy, cô ta hết sức tôn sùng Xeriôgia của cô. Đây là sự sùng bái thực sự.

Tôi hứa với chị là sẽ nói chuyện này với Krôtôv.

Nhưng ngay ngày hôm sau Krôtôv đã đến tìm tôi, không phải ở văn phòng, mà là ở nhà riêng.

Trước khi đến cậu gọi điện cho tôi.

- Chú Bôris Antônôvich đấy ạ? Cháu có chuyện muốn nói với chú. Gấp lắm.

- Việc gì xảy ra vậy?

- Qua điện thoại không nói rõ được. Đến nhà chú được chứ?

- Nào, đến ngay đi, việc gấp cơ mà.

Tôi có nhận xét là khi còn trẻ chẳng có việc gì là không gấp.

Krôtôv xuất hiện ngay, cứ như cậu ta đã chờ sẵn trước cửa. Cậu đang xúc động mạnh, há mồm thở sau một quãng đường chạy hộc tốc, trong ánh mắt chứa đầy lo âu. Trong khi chờ vợ tôi mang nước ra bàn, cả người cậu ta cứ thấp thỏm trong chiếc ghế bành, hút vèo hết hai điếu thuốc. Tôi lo ngại, vội kéo vợ đi nhanh sang phòng bên, rồi quay lại khép chặt cửa.

- Nào, có chuyện gì vậy? Chuyện gì đổ bể sao?

- Cachia sắp đi ạ. - Krôtôv nói luôn.

- Chuyện gì kỳ vậy? Đi bằng gì? Đi đâu?

- Về Mascơva với mẹ.

- Chú chẳng hiểu gì cả. Hình như chú cũng chưa cấp giấy phép cho cô ấy.

- Bây giờ chú cấp đi vậy. Cô ấy nhận được điện "Mẹ ốm nặng. Về ngay. Bố". - Krôtôv đọc. - Có chứng nhận của y tế. Mọi việc cứ y như thật.

Cậu ngừng lời và nhìn tôi, mồm vẫn hé mở, trán lấm tấm mồ hôi.

- Một việc khó xử, - tôi nói.

Krôtôv tung người khỏi ghế.

- Đây chỉ là sự bịa đặt, chú Bôris Antônôvich ạ.

- Cái gì?

Bức điện giả mạo! Bịa đặt! Láo toét! Họ muốn lôi Cachia về, chú hiểu không?

- Không, chú không hiểu như vậy. Chú không nghĩ rằng họ bịa chuyện. Thậm chí chú còn tin rằng đó là chuyện thật. Cháu ngồi xuống đi, bình tĩnh lại nào. Dựa vào đâu mà cháu nghi ngờ bố mẹ Cachia?

- Họ căm ghét cháu. Cho rằng cháu đã hủy hoại cuộc đời Cachia.

- Họ cũng có chút cơ sở nào đó để nghĩ như vậy, đúng không nào?

- Họ chẳng có cơ sở quái gì! Cachia đang sống hạnh phúc.

- Cháu tin như vậy à?

- Cháu tin, còn thế nào nữa! Mà họ coi Cachia như một đồ vật. Muốn sắp xếp cô ấy như sắp xếp một đồ vật trong nhà.

- Cháu có sự đánh giá không cao lắm về bố mẹ vợ... Chú không thích điều đó.

- Còn cháu thì không chịu nổi sự lạc hậu và phù phiếm của họ.

Tôi nhăn mặt.

- Cháu làm sao vậy, mới uống rượu à?

- Vừa uống xong! Nửa lít vốtka.

- Giỏi thật! Cháu tiến bộ đấy. Điều chú sắp nói với cháu là thế này: giảm bớt nhiệt huyết của cháu đi. Cháu thiếu công bằng và thiếu khách quan. Đối với một nhà văn, mà dường như cháu tự coi mình là một nhà văn, thì đó là một thói xấu vô cùng, còn đối với một con người thì điều đó cũng không thể tha thứ được.

- Giá mà chú biết được họ là những người như thế nào! Đặc biệt là bà mẹ.

- Nào kể xem. Chú nghe đây. Chỉ có điều là đừng hét tướng lên và đừng đập vỡ cốc chén.

- Vâng, thậm chí họ sẵn sàng cấm cửa cả Benđơgiamin Spôc! Chú đã đọc sách của ông ấy chưa?

- Mới đọc được mấy đoạn trích.

- Họ sẵn sàng đem đốt quyển sách ấy. Mà chú có biết vì sao không? Vì theo họ thì Spôc chống lại luân lý, hạ thấp vai trò của bố mẹ.

- Chú cũng có thể tranh cãi với tác giả này.

- Tranh cãi thì được, nhưng không được đốt! Cứ nghe nói đến hai từ "hippi" là họ đã giật bắn người. Họ không coi "Quả lê ba cạnh" là một thi phẩm. Đối với họ thì Pholkner là một kẻ suy đồi.

- Benđơgiamin Spôc, hippi, Vagiơnhenski, Phlokner. Cachia thì có liên quan gì đến những người này?

- Sao chú không hiểu được nhỉ? Đó là cả một thể thống nhất. Họ là những kẻ hủ lậu, không muốn suy nghĩ, không cảm nhận được thời đại. Chú hiểu chứ?

- Một phần thôi. Nhưng dù sao thì Pholkner và Cachia có mối liên quan như thế nào kia chứ?

Dường như Krôtôv không nghe thấy câu hỏi của tôi.

- Đối với họ tình yêu chỉ là sự yên ổn. - Krôtôv thất vọng nói.

Vợ tôi mở cửa nhìn vào phòng, thấy tôi khoát tay cô ấy lại lùi ra.

- Thế theo cháu thì tình yêu là gì?

- Theo cháu - đó là sự dâng hiến và tiếp nhận!

- Một câu sáo rỗng, Xecgây ạ. Mang dư vị của thứ văn chương tầm tầm.

- Không. Đó là niềm tin.

- Có lẽ bố mẹ Cachia cũng có một niềm tin.

- Họ chỉ có tính toán. Họ lập kế hoạch mọi thứ. Trước hết Cachia tốt nghiệp phổ thông, sau đó tốt nghiệp đại học, rồi lấy chồng, rồi họ sẽ mua cho cô một căn hộ, rồi họ mua sắm đồ đạc cho cô, rồi một đứa bé sẽ ra đời, rồi họ về hưu, rồi họ sẽ nuôi cháu, rồi họ chết, rồi Cachia chết, sau cùng thì tất cả đều thối rữa.

- Cháu là chuyên gia bậc thầy về cường điệu.

Cậu ta vẫn không nghe thấy.

- Đó không phải là cuộc sống, mà là một nền kinh tế kế hoạch hoá.

- Nhưng chẳng phải chính cháu cũng có kế hoạch đó sao? Đầu tiên cháu sẽ viết tiểu thuyết, sau đó đưa in, rồi giành được tiếng tăm, rồi trở thành hội viên hội nhà văn. Vân vân.

- Cái đó hoàn toàn khác, hoàn toàn khác!

- Ừ, thì khác. Ở họ là những suy nghĩ đứng đắn, còn ở cháu là những dự định viễn vông. Chính vì vậy mà họ lo lắng. Điều đó là đương nhiên đối với những ai làm cha làm mẹ.

- Họ truy tìm Cachia. Bức điện này là một cái bẫy. Cachia yêu quí mẹ. Họ đang lợi dụng điều đó. Họ muốn chia lìa cô ấy với cháu.

- Chà, cháu say thực rồi. Uống tí trà đi.

- Cháu không thích trà! Chú Bôris Antônôvich này!

- Gì cơ?

- Chú đừng cho Cachia đi.

Nét mặt cậu ta tỏ vẻ cầu khẩn. Cái nhìn ngơ ngác như chú cún con bị lạc. Tôi lắc đầu.

- Chú không thể làm như vậy, Xecgây ạ, và cũng không muốn làm như vậy.

- Ồi! - cậu ta thở dài.

- Việc duy nhất chú có thể làm là giải quyết cho cháu cùng nghỉ phép không ăn lương. Làm như vậy là sai nguyên tắc, nhưng chú sẽ làm.

Cậu ta nhất mực từ chối.

- Tại sao vậy? Chính cháu cũng không muốn để vợ đi phép một mình...

- Vấn đề không phải ở chỗ đó. Cháu không sợ. Cháu tin Cachia. Cháu không muốn để Cachia đi phép vì họ sẽ giày vò cô ấy, làm khổ cô ấy. Nhưng nếu cháu ở bên cạnh cô ấy thì sự thể sẽ còn tồi tệ hơn.

- Đúng đấy, sự có mặt của cháu sẽ không giúp ích gì cho bà mẹ đang đau ốm. Việc này cháu đã suy nghĩ đúng.

- Chúng cháu cũng không đủ tiền để hai đứa cùng đi.

- Đó cũng là một lý do, dù rằng chú có thể cho mượn. Lúc nào có thì trả.

- Không đâu, cháu cám ơn chú. - Cậu ta từ chối, cũng nhất mực như vậy.

Chúng tôi im lặng. Cậu ta ngồi cúi đầu tư lự. Tôi bước vòng qua bàn, đến đặt tay lên vai cậu ta.

- Này, sao cháu rầu rĩ thế?

Cậu ta ngồi im không nhúc nhích.

- Cháu là một người viễn tưởng có tầm cỡ. Cháu nghĩ ra những chuyện quỉ quái đâu đâu. Và chắc là cháu đã ngăn không cho Cachia đi phép.

- Cháu chưa nói gì với Cachia. Cháu chỉ mới bảo là cô ấy phải đi.

- Đúng đấy.

- Nhưng họ sẽ làm khổ cô ấy.

- Đấy, lại tưởng tượng rồi! Tất nhiên là họ sẽ cố thuyết phục Cachia ở lại Mascơva. Việc đó hoàn toàn hợp tình, hợp lý.

Cậu ta ngẩng đầu lên, ánh mắt trở nên giận dữ.

- Chú cũng đứng về phía họ! - Tôi nhấc tay khỏi vai cậu ta. - Chú bênh vực họ.

- Vớ vẩn, Xecgây. Chú cố gắng suy nghĩ một cách đúng đắn. Chỉ có vậy thôi. Chú cố đặt mình vào hoàn cảnh họ. Rồi thì chú cũng sẽ có một đứa con gái lớn. Nó chỉ trẻ hơn Cachia có hai tuổi thôi. Và nói thật, chú cũng không muốn hai năm nữa sẽ xuất hiện một thanh niên như cháu, làm cho nó say mê, rồi bắt cóc cô vợ chưa cưới đem đến một nơi nào đó ở Chucôtca. Không, chú chẳng muốn thế!

- Tại sao vậy?

"Thực ra thì tại sao nhỉ?"

- Ừ... dù chỉ là do chú không tin lắm vào sự bền vững của những cuộc hôn nhân quá sớm. Hơn nữa các số liệu thống kê cũng chứng tỏ là chú nói đúng.

Cậu ta bực tức ngắt lời tôi.

- Cháu đã đọc quyển "Literaturka" rồi.

- Đấy, chính cháu biết đấy, điều chủ yếu, theo ý chú, người phụ nữ lấy chồng sớm là đánh mất tuổi trẻ. Trong việc học hành, nếu đã dính vào tã lót thì coi như vất đi. Cháu đã nghĩ đến điều đó chưa?

- Có nghĩ đến rồi ạ. Cháu và Cachia muốn có một đứa con.

- Chú cũng không phản đối việc có cháu gọi chú bằng ông. Nhưng tốt nhất hãy để cho việc đó xảy ra muộn hơn một chút.

- Tại sao vậy"

"Thực ra thì tại sao nhỉ?"

- Ừ... để cho con gái chú học xong đại học, nhìn thấy cuộc sống, thu nhặt những kinh nghiệm ở đời... đấy là lý do.

Krôtôv bĩu môi.

- Thật quá lo xa.

- Thế cháu nghĩ sao? Mỗi người làm bố làm mẹ, Xecgây ạ, đều cố gắng lo xa hết sức mình.

- Bố mẹ cháu không như vậy đâu.

- Cháu muốn nói gì về việc đó?

- Cháu nói rằng bố mẹ cháu hiểu cháu. Bố mẹ cháu chỉ đưa mắt nhìn nhau khi cháu nói về Cachia. Thế thôi. Sau đó mẹ cháu khóc. Thế thôi. Còn bố cháu thì bảo: nếu có gì khó khăn thì nói cho bố mẹ biết. Thế thôi.

- Với con trai thì dễ hơn... - Tôi thở dài, thở dài một cách vô lý như vậy.

- Chú cứ khóa cửa nhốt con gái chú lại, rồi mọi việc sẽ OK!

- Cám ơn lời khuyên đó.

- Chú đã tính toán mọi việc. Nhưng nếu con gái chú yêu rồi thì sao?

Tôi phẩy tay và đưa mắt nhìn về phía cánh cửa khép kín.

- Bậy bạ! Yêu đương gì ở tuổi mười lăm?!

- Nhưng nếu con gái chú yêu rồi thì sao?

- Này, cháu nói cái từ "yêu" sao dễ dàng vậy...

- Nhưng nếu thế thì sao? - cậu ta khăng khăng nhắc lại câu hỏi.

Tôi bắt đầu nghiêm nghị.

- Nếu điều đó xảy ra, tất nhiên chú sẽ không ngăn cấm nó. Mặc dù chú không dám chắc.

- Và chú để họ được tự do?

- Có lẽ thế.

- Và cho phép họ sống tự lập?

- Hình như vậy.

- Và không viết thư để bắt ép?

- Chú sẽ cố gắng.

- Chú chưa phải là con người hoàn toàn vô dụng. - Krôtôv kết luận.

Mà thú thực, tôi cũng cảm thấy dễ chịu khi nghe câu kết luận này.

Lần đó chúng tôi đã không nói một lời nào về cô gái có lưỡng quyền cao.

***

TRÍCH NHẬT KÝ KRÔTÔV

"Một cách gọi kỳ lạ: đăng ký kết hôn! ĐKKH!

Mặt Cachia biến sắc.

Tôi bảo em ngồi xuống ghế.

Trước mặt chúng tôi là một phụ nữ tóc bạc, mang kính gọng trong, chính vì vậy mà mắt bà có vẻ trong như H hai O nguyên chất. Bà xem xét hồ sơ của chúng tôi: chứng minh nhân dân, giấy chứng nhận sức khoẻ của Cachia, đơn.

- Lạy chúa, các cháu ơi, ai xui các cháu đến đây thế này?

Tôi giả bộ ngọt ngào, cứ như dìm bà vào chậu mứt. Tôi khúm núm xun xoe như một tên xu nịnh chuyên nghiệp. Tôi nói năng ngọt xớt đến tởm lợm. Xiu... xiu... xiu... May mắn cho chúng tôi là đã gặp chính bà này. Số phận chúng tôi tuỳ thuộc ở nơi bà.

- Giá các cháu biết được có bao nhiêu đứa như các cháu! Tất cả đều nôn nóng, đều vội vã. Đi đâu mà nôn nóng vậy? Đi đâu mà vội vã vậy? Các cháu còn bao nhiêu là thời gian để sống và sống.

Cachia như sắp khóc.

- Mà thủ tục thì phức tạp lắm, các cháu ạ! - Bà than thở. Bà lo lắng cho chúng tôi biết bao! Bà mong muốn biết bao cho chúng tôi... từng người một được hạnh phúc!

Hồ sơ... uỷ ban quận... hội nghị... nghị quyết...

- Các cháu ạ, sẽ không giải quyết được gì hết nếu không có sự đồng ý của bố mẹ. Có làm gì đi nữa thì ít nhất cũng phải sau một tháng mới xong công việc.

Một tháng!

Tôi mụ cả đầu óc.

Một tháng!

Sao không phải là vĩnh viễn?

Chúng tôi là những vệ tinh quay quanh quỹ đạo bố mẹ. Chúng tôi sẽ khôngvượt ra khỏi sức hút của bố mẹ. Vera Alếchxăndrôpna là ngôi sao Mộc giữa các thiên thể.

Xiu... xiu... xiu. Tôi lại tung ra các thứ kẹo lạc và sôcôla.

- Thôi được, các cháu ạ, bác sẽ cố gắng làm nhanh các thủ tục.

Lòng nhân ái muôn năm! Sự nhã nhặn muôn năm!

Ra đến ngoài phố Cachia đã bình tĩnh trở lại.

- Lúc nãy em làm sao thế? - tôi hỏi.

- Em chẳng biết. Tự dưng em thấy thèm ăn dưa bắp cải chua.

- Anh xử sự ra sao?

- Ôi, anh thật tuyệt vời.

- Anh là kẻ quyến rũ đối với phụ nữ đứng tuổi.

- Nhưng anh yêu em chứ?

Thay cho câu trả lời tôi tóm lấy tay một cậu bé xách cặp chạy ngang qua chỗ chúng tôi.

- Gượm đã, chíp hôi!

- Gì cơ? - cậu bé trố mắt hỏi.

- Chú em nhớ nhé, chị này tên là Cachia. Anh yêu chị ấy. Chị ấy sẽ là vợ anh. Hiểu chưa?

Cậu bé giật tay ra, vừa chạy vừa cười toáng như điên, mắt nhìn ngoái lại.

Trong cửa hàng rau chúng tôi đã ăn hết một gói bắp cải muối chua.

Tiến lên! Tiến lên! Tù và đang giục! Hãy vững vàng nhé, Cachia! Mẹ em, mẹ vợ anh, bố em, bố vợ anh, bố anh, bố chồng em, mẹ anh, mẹ chồng em - mọi thứ rối tung lên trong thế giới này!

Vêra Alếchxăngdrôpna đứng ở cửa vào căn hộ, đưa mắt nhìn chúng tôi và phỏng đoán.

Tôi nghe thấy cả nhịp đập của trái tim bà.

Tôi hiểu rằng trên nét mặt của chúng tôi những từ "ĐKKH" đã hiện lên bằng những chữ cái lớn.

Mẹ vợ tôi đâu rồi?

Không có mẹ vợ tôi.

- Mẹ ạ... - Cachia bắt đầu, với đôi môi không còn điều khiển được. - Chỉ xin mẹ đừng có lo...

- Bác Vêra Alếchxăngdropna, - tôi giành lấy thế chủ động, - chúng con cần báo với bác là... (rồi bỗng dưng tôi hình dung là tôi đang nói bằng văn phong của Gôgôn; "Thưa Bà, tôi cần báo cho Bà biết một tin không lấy gì làm dễ chịu...") - ... chúng con quyết định lấy nhau. Cachia đang mang thai. Ở phòng ĐKKH người ta đòi có sự đồng ý của bác. Mong bác đồng ý cho.

Ở lối vào có một chiếc ghế bành rộng, ngồi thoải mái. Nếu có ngã nhào và bất tỉnh thì chỉ có ngã vào đấy.

Mẹ vợ tôi lùi lại và ngồi đúng vào chiếc ghế đó.

- Cậu là thằng đểu! Còn mày là con chết tiệt, hư hỏng, ngu ngốc!

- Kìa mẹ!

- Mày đẩy mẹ mày xuống mồ. Tao sẽ chết trước khi...

Hãy vững vàng nhé, Cachia! Và anh cũng sẽ chịu đựng! Không một lời phản ứng! Mẹ em, mẹ vợ anh có thể hiểu được. mẹ đang ngồi trên ghế nhục hình.

- Cút xéo đi!

Bà nói với tôi, hay nói với cả hai đứa?

- Xeriôgia, anh đi đi. - Cachia mấp máy môi, đôi mắt mở to như đôi mắt chú cún con trong truyện của Angđecxanh. Anh về đi... để tự em... xin anh...

Em yêu! Hãy vững vàng nhé!

Tôi ôm hôn em ngay trước mặt Quý bà tuyệt mỹ, rồi bước ra.

Tôi lao về nhà, bất chấp luật lệ giao thông. Gió rít bên tai. Không có chiếc ôtô nào va phải. Thành phố trống trơn."

Cachia bay đi.

Trước khi ra sân bay cô đến gặp tôi ở văn phòng để chia tay. Cô mặc áo khoác ngoài ngắn bằng lông cừu, đầu choàng khăn, chân đi ủng dạ, trông vụng về và dễ thương.. Tôi chúc cô mọi sự tốt lành và nhờ chuyển đến mẹ cô lời thăm hỏi. Ra đến bậc cửa Cachia dừng lại.

- Chú Bôris Antônôvich, xin chú trông nom Xecgây hộ cháu.

Cô ấy nói như vậy: "trông nom", như giao lại cho tôi trông nom một đứa trẻ con. Tôi hứa sẽ trông nom hộ.

Sau đó một cô nhân viên phòng máy của chúng tôi, cô Nhina Ivanôva, người có mặt ở sân bay hôm đó, đã đi khắp các phòng làm việc để kể lại cảnh vợ chồng Krôtôv chia tay nhau ở sân bay. Theo lời cô, Cachia đã khóc nức nở như phải đi xa mãi mãi, còn Krôtôv thì ôm hôn cô trước mặt mọi người, dỗ dành cô, họ cứ ôm nhau mãi, cô tiếp viên hàng không phải tìm cách tách họ ra ở cầu thang máy bay, hành khách cười ầm ĩ, rồi Krôtôv chạy theo máy bay, và nói chung đó là một đoạn hài kịch...

Tôi đang ngồi làm việc ở ban nông nghiệp thành uỷ thì có điện thoại gọi. Nhân viên điện thoại trao cho tôi ống nghe. Trong máy vang ra giọng nói hồi hộp của Miuxôva.

- Đồng chí Bôris Antônôvich, tôi tìm đồng chí mãi! Ở cơ quan ta đang xảy ra một vụ lộn xộn to! Đồng chí về nhanh lên!

- Việc gì vậy?

- Krôtôv về cơ quan sau khi uống rượu say, gây sự với Xuvôrôv, chúng tôi không thể nào can ngăn được, đấy đấy, họ đang sấn sổ với nhau.

Từ văn phòng thành uỷ đến trụ sở ban biên tập đi bộ nhanh cũng mất năm phút. Tôi về đến nơi thì những việc chủ yếu đã qua rồi. Ivan Ivanôvich Xuvôrôv đang ngồi trên đi văng, đầu cúi xuống, tay ôm ngực. Miuxôva lăng xăng quanh bác với bình nước trong tay. Trong phòng còn có chừng năm người nữa, các cộng tác viên của ban biên tập.

Krôtôv không có mặt ở nơi làm việc.

- Cậu ta đâu rồi?

- Về phòng cậu ấy rồi. Vừa đi xong. Hoàn toàn không còn tự chủ được.

Bước mấy bước tôi đã đến trước cửa căn phòng làm nơi ở của Krôtôv. Tôi mở cửa bước vào, không gõ báo trước.

Tôi quát.

- Nào, đứng dậy!

Krôtôv chậm rãi quay ngang người, nặng nề nhấc mình ngồi dậy. Đúng là cậu ta đang say: mồm méo xệch, cặp mắt trống rỗng như hai hạt thuỷ tinh. Tôi giận run người.

- Muốn bợp tai hả?

- Cư-ứ... thư-ử... xem...

- Đồ dở hơi! Bạc nhược! Đồ xỉ mũi chưa sạch! Cậu sẽ bị buộc thôi việc. - Rồi tôi bước ra, sập cửa lại.

Xuvôrôv đã lấy lại bình tĩnh. Tôi yêu cầu các cộng tác viên về chỗ làm việc, rồi ngồi xuống đi văng bên cạnh bác.

- Sự việc thế nào, bác Ivan Ivanôvich?

Miuxôva nói chen ngang. Bà ta kể hấp tấp.

- Ivan Ivanôvich đang ngồi làm việc yên lành. Tôi cũng vậy. Thế rồi Krôtôv bước vào. Tôi ối lên một tiếng. Cậu ta có bộ dạng lôi thôi lếch thếch, đến ngồi vào bàn mình và nhìn ra cửa sổ... Ivan Ivanôvich hỏi đùa một câu. Bác hỏi thế nào nhỉ, bác Ivan Ivanôvich?

- Tôi hỏi: uống rượu mừng vợ đi xa hay sao đấy?

- Vâng, vâng, đúng thế! Và Krôtôv cứ như là tuột khỏi xích, nhảy bổ đến đấm bác Ivan Ivanôvich, bắt đầu lăng mạ bác ấy.

- Nó bảo đã đến lúc quẳng tôi vào hố rác lịch sử, - Xuvôrôv mỉm cười chua xót. - bảo rằng những người như tôi thì đem đặt vào bảo tàng, ở phòng trưng bày các thứ đồ cổ bằng lông thú. Lông thú! Tại sao lại lông thú kia chứ? Chẳng lẽ tôi là loài cáo hay sao?

- Hắn còn nói sỗ sàng hơn kia, đồng chí Bôris Antônôvich ạ. Hắn tuyên bố là căm thù những kẻ như bác Ivan Ivanôvich. Tôi phát hoảng lên. Không biết hắn moi đâu ra những ý nghĩ như vậy?

- Hắn bảo, đối với những người như tôi phải có một đạo luật riêng cấm sinh con. Thế đấy! - Ivan Ivanôvich nhắc lại.

- Hắn còn đơm đặt chuyện vô sinh trong sáng tác, đồng chí tưởng tượng xem, đồng chí Bôris Antônôvich.

- Hắn bảo, những người như tôi là trở lực của tiến bộ, là những người sẵn sàng ăn tươi nuốt sống mọi thứ... Thế đấy!

- Những lời hắn nói ra thật kinh khủng, thưa đồng chí Bôris Antônôvich. Tất nhiên là bác Ivan Ivanôvich tức điên lên và định bạt tai hắn. Nhưng hắn giữ tay bác ấy lại.

- Hắn bảo có thể vặn ngược cổ tôi cho mặt quay ra đằng lưng, vì hắn là vận động viên thể thao... Thế đấy! - Xuvôrôv ho khan.

Miuxôva đầu tóc rối bù, cho tay vào túi xách lấy chiếc gương soi rồi giận dữ bắt tay vào việc tô lại môi son.

- Mọi việc rõ rồi, - tôi bảo. - Cậu ấy sẽ bị buộc thôi việc, bác Ivan Ivanôvich ạ.

Xuvôrôv nhăn trán lại như như cố hiểu lời tôi vừa nói ra.

- Chẳng lẽ như vậy sao?

- Bác viết cho một bản báo cáo chính thức, tường trình mọi việc xảy ra. Cả chị nữa, chị Iulia Pavlôvna ạ.

- Tôi sẽ viết! - Miuxôva nhận lời ngay.

Xuvôrôv rên khừ khừ như xương cốt bị gãy dập.

- Nhưng viết cái gì cơ chứ. Tôi không đủ tài để viết những giấy tờ như vậy.

Tôi gạt phăng nỗi phân vân của bác.

- Bác đừng quá khiêm tốn như thế. Bác sẽ viết được.

Bác ném về phía tôi một cái nhìn nặng nề sau cặp kính.

- Sao đồng chí biết được là tôi có thể viết. Biết đâu tôi lại không muốn viết những giấy tờ như vậy... Thế đấy!

Miuxôva đặt chiếc gương soi xuống bàn, đôi mi mắt màu xanh chớp chớp.

- Vậy là đồng chí quyết định ngay kỷ luật buộc thôi việc, - cựa mình trên đi văng, Xuvôrôv tiếp tục nói. - Đuổi việc thì dễ thôi, chẳng có gì dễ hơn. Vâng, cũng nên buộc tên đê tiên thôi việc, cho nó chừa. Nhưng mà hắn, cái tên đê tiện đó, lại đang có vợ! Khi trở thành kẻ thất nghiệp hắn sẽ lấy gì để nuôi vợ? Cần suy nghĩ kỹ việc này... Thế đấy!

Miuxôva chồm lên khỏi ghế.

- Ivan Ivanôvich, bác tha thứ cho hắn được sao? Suýt nữa thì hắn làm cho bác bị nhồi máu!

Nét mặt Xuvôrôv cau lại và sa sầm hơn.

- Thằng xỉ mũi chưa sạch đó không thể nào làm cho tôi bị nhồi máu được đâu, lương tâm nó sẽ bị cắn rứt nhiều. Tôi đã trải qua những năm tháng chiến tranh, khi đó người ta sống trong sạch hơn. Tôi chẳng thương hại gì hắn, cái thằng xỉ mũi chưa sạch ấy. Khi còn bé hắn ít bị ăn đòn, thế đấy! Tôi nghĩ đến vợ hắn. Con bé sút đi trông thấy. Hơn nữa hắn lại bỏ rơi vợ để đi lang bang, chính tôi nhìn thấy hắn láng cháng trong làng với con chim sa kia, tôi nghe bảo con bé ấy đã chuyển về đây rồi... Mà buộc thôi việc - cũng có nghĩa là làm cho cô vợ hết tiền. Không, cái thứ giấy như vậy tôi sẽ không viết đâu. Và tôi khuyên chị cũng đừng có viết, chị Iulia Pavlôvna ạ.

- Bác Ivan Ivanôvich, làm như thế là cao thượng đấy, nhưng...

Xuvôrôv cắt ngang lời chị ta.

- Đã biết là cao thượng thì chị hãy xử sự một cách cao thượng đi. Mà hình như hắn cũng chưa động gì đến chị.

- Lương tâm của tôi, bác Ivan Ivanôvich...

- Chị cục ta cục tác cái gì vậy, chị Iulia Pavlôvna! Chắc là tôi cũng có lương tâm. Có nhiều hơn chị nghĩ là đằng khác. Cảnh cáo - thế là đủ cho hắn rồi, cái thằng xỉ mũi chưa sạch ấy.

Miuxôva bực tức cắn môi. Chị ta bị một cú choáng. Cả tôi cũng vậy.

- Cảnh cáo cái thằng xỉ mũi chưa sạch ấy để từ rày hắn chừa đi, - Xuvôrôv nhắc lại như van nài. Bác đứng dậy khỏi đi văng rồi nặng nhọc bước ra khỏi phòng.

Một lát sau, với các chứng cứ còn nóng hổi, tôi thảo quyết định cảnh cáo nghiêm khắc Xecgây Krôtôv vì say rượu trong giờ làm việc và bỏ việc cơ quan. "Nếu còn để xảy ra những việc tương tự, - tôi viết, - sẽ bị bãi miễn các chức danh hiện giữ".

"Xuvôrôv như vậy đấy! - ý nghĩ đó cứ đeo đuổi tôi. - Ivan Ivanôvich như vậy đấy!"

Trước giờ nghỉ trưa tôi làm thay Krôtôv công việc chuẩn bị bài cho bản tin thời sự. Không muốn yêu cầu cộng tác viên khác làm việc này. Chương trình của buổi phát thanh đó khá nghèo nàn.

Giờ nghỉ trưa tôi đến chỗ Krôtôv. Cửa phòng khép hờ, bên trong không có ai. Lúc sáu giờ chiều, trước khi ra về tôi lại ghé nhìn - vẫn không có ai. Krôtôv mất hút.

Ngày hôm sau tôi đến trụ sở ban biên tập sớm hơn thường lệ để kịp nói chuyện với Krôtôv trước giờ làm việc. Cửa phòng cậu ta khoá chặt, không ai đáp lại tiếng gõ cửa. Tôi gặp bà thường trực cơ quan hỏi xem đêm qua Krôtôv có về ngủ không. Bà làu bàu bảo rằng, cái kẻ quấy đảo đó, theo cách gọi của bà ta, có về nhà, gõ máy chữ thâu đêm, như một kẻ đáng nguyền rủa, chẳng cho ai ngủ, và vừa mới xéo xong.

Đầu giờ làm việc không thấy Krôtôv đến. Chín giờ cũng chưa thấy cậu ta. Mười một giờ rưỡi tôi nhấc ống nghe gọi điện đến bác sĩ trưởng bệnh viện khu, một người quen, họ là Xavôstin. Trong vòng năm phút chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện linh tinh về thời tiết, về câu cá mùa đông, sau đó tôi hỏi đến vấn đề cần thiết. Tôi hỏi anh có biết cô gái trẻ từ Ulêkit đến đây không? Vâng, có biết. Hiện giờ cô ta làm việc ở đâu? Ngay đây, trong thị trấn này. Chuyển đến lâu chưa? Nửa tháng rồi. Được cấp nhà ở chưa? Rồi, đã tìm được một căn phòng con. Anh có biết địa chỉ không? Xavôstin bối rối chưa trả lời ngay. Tất nhiên anh biết, chính anh ấy đã góp sức tìm chỗ ở cho cô gái. Nhưng thực ra thì có vấn đề gì cơ chứ? Cần tìm một nhà chuyên môn trẻ, làm đề tài cho một bài phóng sự. Vậy thì đây! Phố Tungutskaia, nhà số bốn hai, cạnh nhà tắm công cộng. Họ cô ta là gì? Xalatkina, Tanhia Xalatkina. Có thích hợp cho đề tài bài phóng sự không? Sao lại không - một cô gái năng nổ. Tuyệt lắm. Xin cám ơn.

Thị trấn của chúng tôi chẳng to lớn gì. Nhà cửa cụm lại trên một bãi cao, chỗ ngã ba của hai nhánh sông đầy ắp nước. Phía sau chúng tôi là một dãy đồi. Tuyết phủ trắng xoá trên các sườn đồi. Xa hơn nữa là rừng Taiga băng giá, đi hàng chục kilômét không gặp một nóc nhà. Bầu trời mờ như sương. Trong thị trấn người đi đường vội vã bước dọc các vỉa hè lát gỗ kêu cót két.

Tôi tìm ra ngay ngôi nhà cần đến ở phố Tungutskaia. Ngôi nhà đứng đơn độc trên một bờ dốc đổ xuống phía sông. Đó là một ngôi nhà gỗ ọp ẹp, bốn bề trống trải, với hai cửa sổ bị băng đóng. Một làn khói mong manh bay ra từ cột ống khói trên nóc nhà. Tôi bước vào phòng đệm tối om và gõ vào cánh cửa bên trong.

- Cửa mở đấy, - giọng Krôtôv vang ra.

Nhà chỉ có một buồng. Một bức vách ngăn với màu sơn xanh khó chịu chia căn buồng ra làm hai ngăn, một bên để ở, bên kia là bếp. Krôtôv mặc áo săng đay, quần dài, đang nằm trên chiếc giường có phủ chăn. Hai tay đặt dưới đầu. Trên môi là một điếu thuốc đã tắt. Cạnh giường kê một chiếc tủ thấp, bên trên có một cốc nước chè đang uống dở và một đĩa tách đầy tàn thuốc. Nhìn thấy tôi Krôtôv đã chống khuỷu tay định nhổm dậy, nhưng nghĩ thế nào lại nằm xuống. Mắt nhìn lên trần nhà.

- Chào cậu. - Tôi nói.

Cậu ta đáp lại dửng dưng, không thèm nhìn lại.

- Chào chú.

Tôi nhìn quanh. Trong căn buồng được sưởi ấm mọi thứ đều rất bừa bộn. Trước lò sưởi củi vất ngổn ngang, trên sàn nhà toàn rác, nơi thành giường vắt ngang nào váy, nào áo khoác nữ, trên bàn bày đầy bát đĩa chưa rửa.

- Nào, ngồi dậy chứ, tôi đang nhìn cậu đấy! - Cậu ta không nhúc nhích. - Tôi bảo ngồi dậy. Không ai nằm tiếp khách bao giờ.

Krôtôv cau mày, bỏ chân xuống đất, rồi ngồi dậy, khuỷu tay chống gối, hai bàn tay ôm cằm, mắt nhìn xuống đất. Lông gối bám đầy trên mái tóc màu len sáng.

- Cậu có định đến chỗ làm việc nữa không?

Im lặng. Krôtôv lấy bàn chân đi tất lau tàn thuốc rơi trên sàn nhà.

- Tôi hỏi, cậu có định đến chỗ làm việc nữa không?

- Đến làm gì?

- Mọi người đến chỗ làm việc là để làm việc. Sau cái vụ ngày hôm qua đầu óc cậu mụ mẫm cả rồi hay sao? Cô bạn cậu đâu rồi?

- Cô ấy ra cửa hàng.

- Còn cậu chờ cô ấy mang đồ ăn thức uống về chắc?

Cậu ta ngước mắt nhìn tôi.

- Xin chú nói nhẹ nhàng hơn.

- Hôm qua tôi đã muốn bợp tai. Ý muốn đó hôm nay vẫn còn. Cậu là một đứa nhu nhược.

- Nhẹ nhàng hơn đi, chú Bôris Antônôvich! - Cậu ta cất giọng. Đôi mắt sa sầm.

- Thế cậu ra lệnh cho tôi phải nói năng với cậu như thế nào? Đến cơ quan sau khi uống rượu say, ẩu đả nhau... Hoàn toàn đáng cho một cái tát tai.

- Cháu là một vận động viên cấp một về quyền Anh.

- Tôi muốn nhổ toẹt vào cái trình độ cấp một của cậu. Cậu doạ vặn ngược cổ cả đối với bác già Xuvôrôv. Thế đây! Cậu phải xin lỗi Ivan Ivanôvich. Xin lỗi cả chị Miuxôva. Bác ấy đã cứu cậu khỏi bị buộc thôi việc. Đó là điều thứ nhất. Thứ hai là, thu xếp đến cơ quan làm việc ngay. Rõ chưa?

Cậu ta im lặng, cau có nhìn xuống sàn nhà.

- Rõ hay chưa rõ?

- Chú chờ cho một lát. Tônhia về ngay bây giờ.

- Cậu cần gì ở cô ta?

- Cần chào trước khi đi.

- Cũng được! Thu xếp đi.

Krôtôv uể oải đứng dậy, đưa tay vuốt lại mái tóc, kéo áo săng đay, rồi lệch xệch đi ra phía sau bức vách ngăn. Tôi dùng chân đẩy chiếc tủ con ra rồi ngồi xuống hút thuốc. Cậu ta lúi húi thay quần áo. Cuối cùng tôi không nén được cơn giận.

- Cậu không thấy xấu hổ với Cachia sao?

Sau bức vách vang đến tiếng trả lời.

- Không.

Bực mình, tôi quát:

- Đúng như vậy hay cậu tưởng vậy?

- Muốn hiểu thế nào tuỳ chú.

Vừa lúc đó cô chủ nhà xuất hiện. Từ phòng đệm bước vào, nhìn thấy tôi, cô chững lại ở cửa.

Krôtôv bước ra, quần áo đã mặc xong, đi ủng lông, áo khoác ngắn. cậu nhìn cô gái, hất đầu về phía tôi, rồi mỉm cười.

- Chú và em làm quen nhau đi. Đây là chú Bôris Antônôvich, thủ trưởng của anh. Đây là Tônhia.

- Chào chú, - cô gái lưỡng quyền cao cất giọng chào bạo dạn.

Tôi gật đầu. Vẫn gật đầu. Dù là không muốn.

- Chúng tôi đi đây. - Krôtôv giả thích. - Chú Bôris Antônôvich cho rằng, - Krôtôv nói tiếp với điệu cười cong cớn, - cách xử sự của chúng mình là đáng chê trách. Cả hai. Anh và em. - Cặp mắt cô gái rực lửa như hai hòn than. - Bôris Antônôvich vừa cho anh một bài học về đạo đức vì anh ngồi ở nhà em. Thôi, tạm biệt, chúng tôi đi đây.

- Hôm nay anh còn về đây chứ?

- Chưa biết thế nào. Em ghé đến chỗ anh vậy.

- Anh ăn gì chưa?

- Chưa muốn ăn.

- Họ không đuổi việc anh chứ? - Cô ta chỉ hỏi Krôtôv.

- Đến giờ thì chưa.

Cặp mắt xếch đen quay sang nhìn tôi với vẻ muốn gây gổ.

- Chú không có quyền buộc anh ấy thôi việc.

Tôi đứng im. Cảm thấy mình già nua quá. Mệt mỏi và già nua.

- Tôi không có quyền à?

- Vâng, không có quyền.

- Dù sao cậu ấy vẫn sẽ bị buộc thôi việc nếu còn uống rượu say và bỏ việc ở cơ quan.

Mặt cô ửng đỏ và tức giận.

- Chú không hiểu gì cả! Không hiểu gì cả!

- Có thể như vậy. Điên đầu lên được vì các người! Mụ đầu lên được! Mắc bệnh thần kinh lên được! Tôi đánh đổi một Krôtôv lấy mười Xuvôrôv. Tôi phát chán các người rồi!

- Chú chẳng hiểu cái gì cả!

Krôtôv cười hô hố như đứa dở hơi. Tôi bước ra và đóng sầm cửa lại.

Cậu ta đuổi kịp tôi ngay, đến đi sát bên cạnh. Trong cổ họng cậu ta vẫn còn khùng khục tiếng cười cố nén lại.

- Chú Bôris Antônôvich!

Tôi vẫn bước tiếp.

- Chú Bôris Antônôvich!

Tôi dừng lại.

- Chỉ có điều là cấm nói với tôi rằng tôi chẳng hiểu gì cả, tôi sẽ xé xác cậu ra.

- Chú chẳng hiểu gì cả!

- Còn cậu là thằng say. - Tôi hét lên. - Đồ nghiện ngập. Mới gặp chút khó khăn là chộp lấy chai rượu. Thay vì viết câu chuyện đê tiện của cậu, cậu lại đi léng phéng với các cô gái, tìm sự an ủi ở họ. Cậu trao đổi với cô ta về chuyện gì nào? Về Pholkner chăng?

- Chúng cháu trao đổi với nhau về Cachia.

- Cậu nói láo! - Tôi hét vang cả một vùng.

Krôtôv cười rũ rượi. Tôi huých mạnh tay vào người làm cậu ta ngã nhào xuống tuyết, nhưng vẫn chưa làm dứt được chuỗi cười. Tôi bực tức bỏ đi, theo đường tắt qua một bãi trũng ngập đầy tuyết.

Tôi trở về trụ sở ban biên tập như vậy đấy, sống dở chết dở vì giận.

Năm phút sau, ngồi trong văn phòng tôi nghe thấy giọng nói của Krôtôv. Ngay sau đó Miuxôva bước vào, mi mắt tô xanh, tất bật và căng thẳng như sợi dây đàn.

- Đồng chí Bôris Antônôvich...

- Lại việc gì nữa đấy? Tôi hỏi cộc lốc.

- Cậu ấy đã đến. Đã xin lỗi bác Ivan Ivanôvich.

- Một sự kiện đấy! Cần phải phát thanh việc này lên đài! Quyết định cảnh cáo đây này. Chị huỷ đi.

- Vâng ạ, thưa đồng chí Bôris Antônôvich! Chưa hết đâu ạ. Bukharev gọi đồng chí và Krôtôv đến gặp bác ấy. Cô thư ký gọi điện thoại đến. Đồng chí đã muộn mất mười lăm phút rồi đấy.

- Tôi sẽ đến chậm thêm mười lăm phút nữa. Bukharev chưa chết được đâu.

Chị ta trố mắt nhìn tôi.

- Không nên thế, đồng chí Bôris Antônôvich.

- Chị nghe đây, chị Iulia Pavlôvna, tôi không yêu cầu chị nói với tôi những lời khuyên.

- Tuỳ đồng chí thôi...- Miuxôva cụt hứng quay ra.

Tôi chặn lại.

- Chị nói lại cho tôi biết mấy đứa con chị năm nay bao nhiêu tuổi rồi?

Đôi lông mày được tô vẽ cẩn thận dướng cao lên.

- Iuri hai mươi, còn Lêna mười bảy.

- Chị hiểu chúng nó chứ?

Có lẽ Iulia Pavlôvna cho rằng chị ta nghe nhầm. Không, thính giác không đánh lừa chị.

- Tôi có hiểu các con tôi không ấy à? Tất nhiên!

- Tất cả mọi hành động của chúng?

- Dĩ nhiên, tất cả.

- Vậy thì cần gắn huy chương cho chị vì sự sắc sảo. Thôi, chị đi được rồi đấy.

Miuxôva đi ra, phật ý và thắc mắc.

Tôi hút liền hai điếu thuốc. Có tiếng chuông điện thoại. Từ phòng tiếp khách của Bukharev người ta khăng khăng yêu cầu tôi đến.

***

THƯ CỦA CACHIA

"Anh Xeriôgia thân yêu! Giá anh biết được em buồn nhớ anh như thế nào. Em cứ nghĩ, nghĩ mãi đến anh, và không thể nghĩ thêm về một điều gì khác được. Em yêu anh hơn cả cuộc sống. Anh biết không, thậm chí nhiều lúc em thấy mình đã bắt đầu yêu bố mẹ ít hơn. Điều này thực sự khủng khiếp, nhưng em không thể làm gì được. Còn các bạn gái cùng trường thì đã trở nên hoàn toàn xa lạ đối với em. Em không còn hiểu được các bạn. Họ chuyện phiếm với nhau về các kiểu mốt, em nghe và nghĩ: những chuyện mới nhảm nhí làm sao! Các bạn rất quan tâm đến việc anh và em đã sống như thế nào. Họ phát hoảng lên về việc chúng mình đã đến một nơi khỉ ho cò gáy như vậy, em thì nghĩ: các bạn chẳng hiểu gì cả.

Anh Xeriôgia ơi, nếu chúng mình còn xa nhau lâu thì em chết mất, em thề đấy! Cuộc trao đổi thật sự với bố mẹ vẫn chưa xảy ra, nhưng rồi nó sẽ đến, và em nhớ hết mọi điều anh đã dặn em. Em thật chẳng muốn làm cho mẹ buồn phiền chút nào, mà chính vì vậy em càng đau khổ nhiều hơn.

Em đã đến nhà anh và được đón tiếp tuyệt vời. Thật tốt biết bao khi bố mẹ không thành kiến. Bố anh thật là một con người cừ khôi. Bố rất quan tâm và ân cần đối với em, bố bảo em phải nghiêm khắc hơn đối với anh. Cứ làm như em chiều anh lắm ấy! Còn mẹ là một phụ nữ nhân hậu vô cùng. Thật ra thì em chưa biết mẹ nhiều, vậy mà mẹ đón tiếp em như một người thân. Mà điều chủ yếu là mẹ không nghĩ rằng em làm quẫn trí anh và phá hoại cuộc đời anh. Anh phải hết sức yêu quí bố mẹ, anh nhé. Người ta bảo không ai chọn bố mẹ, nhưng nếu được chọn thì tốt nhất là anh đừng chọn ai khác.

Nhưng anh có còn yêu em không đấy? Có thường nhớ đến em không? Mỗi ngày mấy lần? Em thì nhớ anh từng giây. Có lẽ anh đã mê hoặc và thôi miên em, mà cưỡng lại bùa mê và thôi miên là một việc vô ích. Mà em cũng chẳng muốn cưỡng lại. Càng ngày em càng yêu anh nhiều hơn. Em muốn hôn lên khắp mọi tế bào của anh, anh thương, anh yêu, anh quí, cục vàng của em, chồng của em! Cuối cùng em đã hết ngượng khi nói từ này. Anh là chồng của em, và nếu bỗng dưng anh biến mất thì em cũng biến luôn đi lập tức. Nếu không có anh thì em chẳng cần con cái, chẳng cần Mascơva, chẳng cần mặt trời - chẳng cần gì hết!

Thôi nhé, mẹ đang gọi em. Mà em chưa kịp viết gì hết. Mẹ ốm nặng thật đấy, dù không nằm bệnh viện mà nằm ở nhà. Mẹ bị rối loạn thần kinh nặng.

Xeriôgienka, anh yêu, tạm biệt nhé! Hãy ăn uống tốt vào nhé, anh nhé. Vì rằng anh thì ăn được mọi thứ chứ không như em, chỉ ăn thức ăn mặn. Anh thấy chưa, em viết toàn những chuyện ngu ngốc thế nào ấy. Không giống như Patơric Kămpôpen viết cho Becna Sô. Nhưng có thể là họ không yêu nhau thực sự, anh nhỉ?

Hôn anh, hôn anh, hôn anh, hôn anh, hôn anh 10. CACHIA CỦA ANH.

Chuyển đến Tônhia lời chào của em. Em đã mua những thứ bạn ấy nhờ mua."

- 12 -

Vào cuối tháng mười tôi bay đi công tác. Đầu tiên là đến Krasnôiarsk, sau đó công việc lại đưa tôi đến Mascơva. Đến nơi tôi bận rộn đủ thứ chuyện, chạy loanh quanh hết mấy tầng gác ở trụ sở Ủy ban phát thanh Liên bang. Nào van nài cấp thêm trang thiết bị, nào ký các thứ giấy tờ, nào chỉnh lý lại sơ đồ mạng lưới phát thanh, rồi tiếp xúc với các ban biên tập. Sau ba năm trời không đi đâu cả, chỉ ngồi lỳ ở miền quê yên tĩnh của chúng tôi, giờ mới trở lại Mascơva, thành phố đã làm tôi xúc động và ngỡ ngàng. Tối đến, chân cẳng mỏi dừ, tôi lăn ra giường khách sạn ngủ ngon lành. Một hôm, may mắn có thời gian rỗi, tôi gọi điện đến phòng tra cứu danh bạ điện thoại, qua đó biết được số máy nhà riêng của gia đình Naumôv. Tôi gọi đến và nghe một giọng đàn ông trả lời. Tôi đề nghị cho nói chuyện với Cachia.

- Ai hỏi Cachia đấy?

Đành phải tự giới thiệu.

- Xin chờ cho một phút! - người đàn ông nói, rồi im bặt.

Sau một chốc im ắng, trong máy vang lên giọng nữ êm ái.

- Anh Bôris Antônôvich đấy phải không ạ?

Đó không phải Cachia mà là mẹ cô, bà Vêra Alêchxăngdrôpna. Bà bày tỏ sự vui mừng vô hạn vì được nói chuyện với tôi, hỏi thăm tôi nghỉ lại ở đâu, rồi bằng một giọng nữ êm ái bà báo cho tôi biết Caterina đã lên tàu đi cách đây bốn ngày. Tôi hỏi thăm sức khoẻ của Vêra Alêchxăngdrôpna và nghe bà trả lời rằng "còn lâu mới bình phục được?". Thật ra chẳng còn gì để nói nữa.

- Nếu anh có thì giờ rỗi, tôi và nhà tôi sẽ rất vui mừng được tiếp anh tại nhà tôi ngay bây giờ.

Tôi nói với bà điều phân vân là liệu việc đó có tiện không, vì sức khoẻ của bà còn lâu mới bình phục...

Vêra Alếchxăngdrôpna cam đoan rằng hoàn toàn thuận tiện, rằng hôm nay bà cảm thấy khoẻ, rằng họ đã nghe Cachia nói nhiều về tôi và từ lâu muốn được làm quen.

- Nhà tôi sẽ có mặt ở nơi anh ở sau nửa giờ nữa, bằng xe riêng. Anh không được từ chối đâu, anh Bôris Antônôvich ạ.

Đúng ba mươi phút sau có tiếng gõ cửa phòng tôi ở. Trước cửa là một người đàn ông hơi gầy, ăn mặc bảnh bao, áo khoác ngoài bằng da màu nâu, cổ áo màu sẫm hơn.

- Đồng chí là Bôris Antônôvich?

- Vâng, tôi đây.

- Tôi là Alêchxây Vichtorôvich Naumôv.

Chúng tôi bắt tay nhau.

- Vêra Alêchxăngdrôpna đang chờ đồng chí.

Ông ta nói điều đó cứ như ông chỉ là người lái xe của Vêra Alêchxăngdrôpna thôi.

Naumôv không thuộc loại người lắm lời. Trong suốt thời gian chúng tôi ngồi trên chiếc xe "Mascơvich" đi giữa dòng xe cộ lấp loáng dưới ánh đèn đêm (như con cá lách mình theo dòng nước đi tìm chỗ đẻ), ông chỉ nói với tôi hai câu chẳng có ý nghĩa gì.

- Xe cộ ngày càng nhiều, - ông nhận xét. Rồi qua mấy cột đèn hiệu mới lại hỏi tiếp: - Đồng chí đến Mascơva lâu chưa?

- Năm ngày rồi.

Khoảng thời gian còn lại chúng tôi ngồi trong xe không nói với nhau câu nào. Thật ra, Naumôv lái xe giỏi như một tài xế chuyên nghiệp. Tôi tò mò quan sát dáng người trông nghiêng rất cân đối của ông. Với chiếc áo da đúng mốt và chiếc mũ lưỡi trai cũng hợp mốt, trông ông khá trẻ. Có cái gì đó ở ông làm người ta liên tưởng đến bức tượng một nữ vận động viên trượt băng nghệ thuật kiều diễm tạc bằng xương, được đánh bóng và quét sơn. Hỡi ôi, tôi buộc lòng phải công nhận rằng, ngồi cạnh ông, tôi chỉ là một dân tỉnh lẻ quê kệch.

Chúng tôi đến gần một toà nhà cao tầng. Alêchxây Vichtorôvich đưa xe vào bãi đậu, khoá cửa xe lại, chúng tôi bước vào một tiền sảnh rộng. Đứng trong buồng thang máy Naumôv dặng hắng rồi báo trước với tôi.

- Vêra Alếchxăngdrôpna đang ốm.

- Tôi biết.

- Cần tránh làm bà ấy xúc động.

Tôi nhìn ông với ánh mắt dò hỏi. Naumôv không giải thích gì thêm, cứ như đó là những lời cuối cùng mà ông được uỷ thác nói với tôi trong cuộc trò chuyện này.

Từ buồng thang máy chúng tôi bước ra chiếu nghỉ tầng tám. Naumôv mở của bằng chìa khoá riêng và đưa tôi vào phòng đệm. Ông bước vào sau và khẽ gọi.

- Vêra ơi! Chúng tôi về đây rồi.

Có tiếng bước chân nhẹ nhàng. Từ phía đầu kia căn hộ rộng thênh thang xuất hiện một người đàn bà thon thả, rất quí phái và đẹp. Một nụ cười chào đón nở ra trên khuôn mặt trắng trẻo. Bà đưa tay bắt tay tôi.

- Rất vui mừng. Anh đã có lòng tốt đến với chúng tôi. Alêchxây, lấy hộ đôi dép của ông cho anh Bôris đi trong nhà. Tôi hy vọng rằng nhà tôi đã đưa anh về đây suôn sẻ chứ?

Tôi nói là chúng tôi đi đường rất thú vị, nhưng tôi cảm thấy không tiện lắm...

- Có gì đâu, - Naumôva nói. - Chúng tôi rất vui mừng được gặp anh. Xin mời anh vào nhà. Alêchxây, ông chưa tìm ra đôi dép sao? Suốt đời cứ như vậy! Ông nhà tôi bây giờ phải lo việc nội trợ, nhưng khó mà trông đợi sự ngăn nắp ở cánh đàn ông, anh đồng ý chứ?

- Vâng, có lẽ...

Alêchxây Vichtorôvich mang ra một đôi dép rất đẹp. Vêra Alêchxăndrôpna đưa tôi vào một căn phòng rộng có các cửa sổ khá lớn. Giữa phòng kê một chiếc bàn rộng được chiếu sáng bằng một chùm đèn pha lê, trên bàn bữa ăn tối đã được dọn sẵn. Sàn nhà trải thảm len. Một chiếc thảm khác được treo trên tường, phủ dài xuống sau chiếc xô pha, bên trên đặt mấy chiếc gối. Mọi thứ đồ gỗ trong nhà đều có chung một màu nâu nhạt. Một căn phòng thật tuyệt vời.

Trên chiếc dương cầm đặt tấm ảnh lớn của Cachia. Cô đang mỉm cười, mắt nheo lại vì chói nắng. Tôi cảm thấy ấm áp dễ chịu.

Vêra Alêchxăngdrôpna đề nghị ngồi vào bàn, không cần nghi lễ khách sáo. Bà ngồi đối diện với tôi, quay lưng ra phía cửa sổ, chăm chú quan sát bát đĩa bày biện trên bàn.

- Tôi mong rằng anh sẽ bỏ lỗi cho chúng tôi vì bữa ăn thanh đạm này. Tôi bị ốm nên không đi mua sắm gì được.

Tôi bảo bà đừng bận tâm về chuyện đó.

- Rất tiếc là chúng tôi không thể đãi anh món thịt hươu. - Bà chủ nhà tươi cười nói.

Alêchxây Vichtorôvich mang vào một bát rau xà lách. Vêra Alêchxăngdrôpna mời chồng cùng ngồi vào bàn. Ông gật đầu và ngồi xuống với vẻ mặt trang trọng, rồi bắt đầu cẩn thận buộc khăn ăn trước ngực.

- Rót rượu ra hộ cho. - Vêra Alêchxăngdrôpna nói với vẻ hơi sốt ruột.

- Đợi một chút, Vêra ạ, tôi quên mất một thứ.

Với chiếc khăn ăn trước ngực, Naumôv đi xuống bếp. Vêra Alêchxăngdrôpna mỉm cười nhìn theo ông, chiếc thìa trên tay bà khẽ gõ lên đĩa.

- Anh đến Mascơva lâu chưa? - Bà hỏi sau một lát im lặng.

- Năm ngày rồi.

- Vậy mà sao không gọi điện cho tôi sớm hơn? Sao vậy anh Bôris Antônôvich? Anh có thể đến ở chỗ chúng tôi thoải mái.

- Sao lại phải thế, chị Vêra Alêchxăngdrôpna? Sao lại phải làm cho anh chị bận bịu thêm? Tôi ở khách sạn cũng tốt rồi.

- Tôi hy vọng là người ta đã dành cho anh một buồng riêng chứ?

- Buồng hai người, nhưng rất tốt.

- Lẽ ra anh có thể gọi điện và Alêchxây Vichtorôvich sẽ tìm cho anh một phòng riêng. Ông ấy có nhiều quan hệ với các khách sạn.

- Tôi không nhờ vả thì chắc anh Alêchxây Vichtorôvich cũng phải lo hàng trăm thứ chuyện rồi.

- Chuyện vặt thôi. Ông ấy có thể làm mọi việc cần thiết. Anh quá giữ ý. Lẽ ra anh cần gọi điện đến mà đừng khách sáo như thế.

Alêchxây Viachtorôvich mang ra một lọ đựng gia vị, ngồi vào bàn, sửa lại chiếc khăn ăn trước ngực rồi rót rượu vào các ly. Vêra Alêchxăngdrôpna đề nghị nâng cốc chúc mừng cuộc gặp gỡ này. Tiếng ly chạm leng keng.

- Ông đưa hộ món thịt đông mời anh Bôris Antônôvich. Mời anh, xin đừng khách sáo.

Có lẽ trong nhà này không ai ưa khách sáo. Phải chăng vì thế mà tôi cảm thấy mất tự nhiên.

Qua ô cửa sổ con để mở vọng vào tiếng ồn ào ban đêm của đường phố. Alêchxây Vichtorôvich bị sặc vì một mẩu bánh mì. Vêra Alêchxăngdrôpna nghiêm mặt nhìn ông, sau đó mỉm cười với tôi như muốn xin lỗi thay chồng.

- Anh Bôris Antônôvich, xin anh kể cho chúng tôi về thành phố của anh. Chúng tôi sẽ rất thích thú được nghe anh kể.

- Có gì đâu mà kể, chị Vêra Alêchxăngđrôpna? Thậm chí không thể gọi đó là thành phố, mà chỉ là một làng nhỏ với khoảng ba ngàn dân. Chỉ cần một toà nhà như toà nhà anh chị ở đây là đủ để chứa hết từng ấy người. Chắc Cachia đã kể cho anh chị nghe rồi.

- Vâng, cháu có kể cho chúng tôi nghe rồi, nhưng qua lời nó chúng tôi chỉ có thể hiểu rằng trên trái đất này không còn nơi nào tốt hơn cái làng của anh. Không thể tin cháu nó được, anh Bôris Antônôvich ạ. Cháu nó nói bằng cái giọng của người khác.

- Chị định nói đến Xecgây à?

Cái tên đã được nhắc đến. Khuôn mặt xinh đẹp của Vêra Alếchxăngdrôpna trở nên u buồn và đau khổ. Tấm lưng thẳng đuột của Alêchxây căng ra.

- Vâng, tôi nói về cái người được gọi là chồng của cháu. Anh có ngạc nhiên khi tôi gọi cậu ta như vậy không?

- Xin công nhận là tôi có ngạc nhiên.

- Vậy thì, anh Bôris Antônôvich ạ, xin anh cho biết, có thể gọi như thế nào đối với cái con người đã hành động vô trách nhiệm, như một đưa bé ngốc nghếch như thế? Hơn thế nữa, cậu ta còn đưa cháu đi theo đến một nơi khỉ ho cò gáy, làm cho cháu nó mất hết điều kiện học hành, mất cả tương lai, thực chất là đã biến cháu thành một người nội trợ, chẳng những thế lại còn huyễn hoặc cháu rằng đó là lối sống tốt đẹp nhất? Làm sao tôi có thể gọi cậu ta khác được và làm sao mà tôn trọng cậu ta được.

- Có lẽ với quan điểm của chị thì những điều chị nói là đúng.

- Với quan điểm của tôi ư? Thế còn anh, anh có ý kiến như thế nào về cậu ta, anh Bôris Antônôvich? Anh có thể cho biết một cách thẳng thắn, không khách sáo.

Tôi suy nghĩ. Tất nhiên là tôi đã dự kiến trước cuộc chuyện trò này khi nhận lời đến đây.

- Xecgây là một thanh niên khá phức tạp, chị Vêra Alêchxăngdrôpna ạ. Cậu ta không phải là con người đơn điệu. Nói chung, tôi đồng ý với chị là để tạo lập cuộc sống gia đình thì cậu ta chưa đủ trưởng thành.

Cuối cùng thì Alêchxây Vichtorôvich cũng lên tiếng.

- Anh vừa nhắc đúng lời của vợ tôi. - Ông nói oang oang.

- Vâng, tôi cũng đã nói như vậy, anh Bôris Antônôvich ạ. Tôi đã nói đi nói lại điều đó hàng trăm lần với Caterina. Nhưng cháu nó cứ như sống trong sương mù, không nhìn ra sự thực. Cháu là một đứa con gái đa cảm, còn cậu ta thì làm cho đầu óc cháu mê mụ bằng những chuyện hươu vượn về cái tài năng huyễn tưởng của cậu ta. Không rõ đồng chí có thấy điều này không, cậu ta biết cách xếp đặt một vài từ ngữ lên trang giấy - đó là cái tài năng mà cậu ta định dùng để xây dựng cuộc sống cho mình và cho Caterina. Cậu ta làm mỗi tháng được bao nhiêu tiền vậy, anh Bôris Antônôvich?

- Tôi nhớ là... kể cả phụ cấp khu vực và nhuận bút - khoảng hai trăm hai mươi rúp.

Trên má Vêra Alếchxăngdrôpna xuất hiện những vệt đỏ.

- Caterina nói dối tôi là cậu ta được bình quân khoảng ba trăm rúp. Nhưng vấn đề chẳng phải ở chỗ tiền nong, anh Bôris Antônôvich ạ. Về vật chất, chúng tôi có thể giúp đỡ Ecaterina nếu thấy cần thiết. Lương bổng của Alêchxây Vichtorôvich khá đủ. Vấn đề là ở chỗ cả cuộc đời của chúng nó hoàn toàn mất hết tương lai.

- Tôi nghe nói là Cachia đang chuẩn bị để sang năm thi vào hàm thụ đại học. Và có lẽ cả Xecgây cũng vậy.

- Thật vớ vẩn vô cùng! - Vêra Alêchxăngdrôpna kêu lên. - Thế tại sao chúng nó không thi năm nay? Cậu ta có giải thích cho anh chứ?

- Cô cậu ấy muốn sống tự lập.

- Caterina cũng nói với tôi như vậy. Cậu ta đã làm cho đầu óc con bé lú lẫn thật sự. Sống tự lập! Anh có hiểu điều đó có nghĩa gì không, anh Bôris Antônôvich?

- Chắc điều đó có nghĩa là tự kiếm sống, không dựa dẫm vào bố mẹ, - tôi cố diễn đạt một cách nhẹ nhàng nhất.

- Anh ăn nữa đi, xin đừng khách sáo. Anh chẳng ăn gì cả vậy. Ông rót hộ rượu cho anh Bôris Antônôvich đi... Thật là viển vông! Cậu ta đã làm cho cháu ngộ nhận cái bong bóng xà phòng kia là ý nghĩa cuộc đời. Bôris Antônôvich ạ, xin nói thật với anh là tôi không hiểu nổi Ecaterina. Trước đây nó luôn luôn là đứa con gái biết điều. Tôi chẳng muốn khen cháu đâu, nhưng ở cháu trước đây luôn luôn có những suy nghĩ chín chắn. Ở trường cháu học rất giỏi, với sự giúp đỡ của tôi cháu có được cơ hội thực tế để thi đỗ vào trường đại học y khoa. Thế rồi bỗng xuất hiện kẻ mơ mộng viển vông kia, một kẻ tóc trắng nhợt chuyên nói khoác, một tên xấc láo - và thế là mọi việc tan thành mây khói.

Tôi ngồi im, uống vơi ly rượu vừa mới rót. Vêra Alêchxăngdrôpna mân mê chiếc khăn ăn trong mấy ngón tay dài thon thả.

- Xin nói thật với anh điều này, anh Bôris Antônôvich ạ. Tôi gọi Caterina về đây chẳng phải vì tôi ốm đâu, mặc dù tôi có ốm thật, tôi bị chứng rối loạn thần kinh... Tôi định thuyết phục cháu ở nhà. Chúng tôi đã không thể làm gì được vào tháng tám, khi xảy ra cái chuyện đăng ký kết hôn. Lúc đó tôi đã nêu ra với Cachia vấn đề phá thai, nhưng suýt nữa thì cháu nó tự tử. Chúng tôi đành phải chấp nhận cái cuộc hôn nhân cuồng dại và man rợ đó. Nhưng giờ đây, cháu nó đã trải qua cuộc sống gia đình ở nơi thâm sơn cùng cốc đó rồi! Tôi định thuyết phục cháu ở lại nhà. Tôi bảo lả cuộc hôn nhân này sẽ không mang lại hạnh phúc cho cháu, khuyên cháu đưa đơn ly dị, vâng, ly dị. Rốt cuộc rồi cháu vẫn còn có thể tìm cho mình một đám tốt hơn, thậm chí với đứa con riêng ẵm trên tay. Đối với cháu mọi việc đang còn ở phía trước! Anh có biết cháu nó đáp lại như thế nào không? Nó nhìn tôi với cặp mắt trống không rồi lắc đầu. Nó không thể thoát ra khỏi mối tình phù du của mình.

Vêra Alêchxăngdrôpna đưa khăn lên lau mồm. Alêchxây Vichtorôvich lo lắng nhìn vợ. Một thoáng yên lặng nặng nề. Tôi đưa mắt nhìn bức ảnh Cachia chan hoà ánh nắng.

- Nó đã tự huỷ hoại cuộc đời mình. - Naumôv đau khổ kết luận.

Vêra Alếchxăngdrôpna rưng rưng nước mắt. Bà vội đứng dậy và bước ra khỏi phòng.

Naumôv rót rượu ra ly. Chúng tôi lặng lẽ ngồi uống như nhà có đám tang.

- Anh hãy thứ lỗi cho nhà tôi. Bà ấy rất phiền muộn. Chúng tôi đã hy vọng nhiều ở Cachia. Mọi việc chưa phải đã mất hết. Trước khi cháu đi tôi có đến tham khảo ý kiến nhiều nơi, nói chuyện với nhiều nhân vật cần thiết. Việc ly hôn của cháu có thể giải quyết dễ dàng trong vài hôm.

Những việc riêng tư được nói ra như thể tôi là người nhà. Tôi không còn tự chủ được.

- Nhưng lẽ nào Cachia đã nghĩ đến khả năng ly dị rồi hay sao?

- Chúng tôi nghĩ đến khả năng ly dị. Chúng tôi! Dù thế nào thì điều đó cũng sẽ xảy ra. Những quan hệ kiểu chúng nó không thể nào bền lâu được.

Naumôv bỗng đấm nhẹ tay xuống bàn.

- Anh có hiểu được bọn thanh niên bây giờ không? Anh có hiểu bọn họ thích gì không? - Tôi im lặng. - Bọn họ hoá rồ vì rửng mỡ. Sự phát triển tăng tốc! Chuyện nhảm nhí! Lấy cái thế phẩm tình yêu thay cho tình cảm cao thượng. Họ lấy cái tân kỳ hợm hĩnh của kẻ tâm thần phân liệt để thay cho nền văn học cổ điển. Đối với họ văn minh trong cách xử thế đồng nghĩa với thói khoe mẽ. Họ tôn thờ bọn hippi, sùng bái xe mô tô, chơi đàn ghi ta đeo ở cổ. Đối với họ thì đó là tổ ấm gia đình, là địa vị xã hội, là sự đảm bảo vật chất! Điều cần thiết đối với họ là thít cái quần bò vào mông cho chặt hơn, gào thét chung quanh đống lửa trại với món xúp. Đối với họ con đường công danh là điều đáng nguyền rủa. Họ cần tụ tập lại thành bầy như loài khỉ.

Một lần nữa ông lại ném một nắm đấm khô khan xuống mặt bàn. Vêra Alêchxăngdrôpna bước vào. Ngay lúc đó Naumôv cũng đứng dậy và đi xuống bếp. Vêra Alêchxăngdrôpna ngồi vào ghế của mình. Trán và má vừa được xoa một lớp phấn nhẹ, mặt hơi đỏ.

- Anh Bôris Antônôvich, xin anh bỏ qua cho tôi và nhà tôi. Đứa con gái đã làm đảo lộn hết mọi nề nếp sinh hoạt bình thường của chúng tôi. Xin anh cứ thật lòng cho biết: chúng tôi có thể giúp gì cho anh?

Cái câu hỏi này là điều tôi ít trông đợi hơn cả.

- Chị Vêra Alêchxăngdrôpna, xin chị làm ơn nói rõ chị định hỏi điều gì?

- Anh đã làm nhiều việc cho Ecaterina. Mặc dù cháu nó xúc phạm nhiều đối với chúng tôi, vợ chồng tôi cũng đánh giá cao sự đóng góp của anh trong cuộc đời cháu. Xin anh cho biết nó có khả năng được cấp một căn hộ không?

- Trước mùa xuân hoặc mùa hè thì chưa chắc.

- Có thể bằng cách nào đó thúc đẩy việc này đến sớm hơn được không?

- Tôi e rằng không. Ở chỗ chúng tôi người ta không xây dựng các nhà ở tập thể. Làng thì bé, việc xây dựng tiến hành rất ít ỏi.

- Vậy cháu phải làm sao, anh Bôris Antônôvich?

- Phải chờ đợi thôi, chị Vêra Alêchxăngdrôpna ạ.

Naumôv mang ra một liễn thức ăn có nắp đậy. Bà vợ nghiêng mắt nhìn chồng.

- Tôi nghe nói anh có một cháu gái phải không ạ?

- Vâng, và cháu chỉ kém Cachia của anh chị có hai tuổi. Còn chiều cao thì cháu cao gần bằng tôi.

Naumôv mỉm cười lịch thiệp.

- Một cô gái lớn. Hẳn là sau khi tốt nghiệp phổ thông cháu sẽ vào đại học?

- Tôi không dám nói trước, chị Vêra Alêchxăngdrôpna ạ. Cũng có ý định như vậy, nhưng... - Tôi khoát tay.

Có lẽ thái độ khinh suất của tôi không hợp với sở thích của hai vợ chồng Naumôv.

- Anh không hy vọng vào cô con gái của anh sao? -Naumôv hỏi.

- Cách đây không lâu tôi trở thành môn đồ của thuyết định mệnh.

- Anh có thể trông đợi sự hỗ trợ của chúng tôi nếu cháu về dự thi ở Mascơva. Alêchxây Vichtorôvich có nhiều người quen trong ngành đại học.

Tôi từ chối ăn món nóng. Vêra Alêchxăngdrôpna khẩn khoản mời, nhưng tôi một mực chối từ. Bà mời uống cà phê. Tôi cũng từ chối uống cà phê, đưa tay xem đồng hồ tỏ vẻ sốt ruột. Bà mời tôi xem tủ sách gia đình. Tôi viện cớ bận việc phải về vì đã hẹn trước một cuộc gặp để giải quyết công việc. Vêra Alêchxăngdrôpna đảm bảo rằng chồng bà sẽ đưa tôi về khách sạn. Tôi cám ơn và bảo với bà tôi thích được đi bộ. Bà đành nhượng bộ nhưng tỏ vẻ không bằng lòng.

Cả hai bước ra phòng đệm tiễn tôi. Naumôv khẽ cúi người chào từ biệt. Vêra Alêchxăngdrôpna đưa tay bắt tay tôi.

- Tôi hy vọng lần sau đến Mascơva thế nào anh cũng ghé lại chỗ chúng tôi.. Nhà vợ chồng tôi lúc nào cũng mở rộng cửa đón anh.

- Cám ơn anh chị.

- Xin anh nói hộ với Cachia lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng nhận cháu trở về.

- Vâng, tôi sẽ nói...

- Chúng tôi trông chờ vào sự tác động của anh.

Với câu nói hơi khó hiểu này cuộc tiếp kiến đã kết thúc.

Thủ đô buổi tối chìm trong màn tuyết trắng lả tả rơi, không gian âm vang tiếng rì rào không nghỉ như tiếng xào xạc của rừng Taiga. Tôi ngồi lại châm thuốc hút khi bắt gặp chiếc ghế đá đầu tiêp.

- 13 -

Tôi còn lưu lại Mascơva thêm năm ngày. Kết quả van nài cũng đem lại đôi điều an ủi. Vụ kỹ thuật của Uỷ ban hứa cấp cho chúng tôi ba máy ghi âm để bàn, một amply của Hungari sản xuất và hai máy ghi âm loại "Phóng viên". Vụ tài vụ đã động lòng trắc ẩn, tăng thêm quĩ công tác phí hàng năm, còn vụ biên tập phát thanh địa phương đã chấp nhận mạng lưới truyền thanh của chúng tôi.

Để có tiền trước khi về, tôi đăng ký nói chuyện điện thoại đường dài. Phòng tài vụ không ai trả lời. Miuxôva không có mặt nơi làm việc, Xuvôrôv cầm ống nghe. Bằng một giọng không nhiệt tình lắm bác hứa sẽ truyền đạt lại yêu cầu của tôi cho Clavdia Ilinhichna, kế toán trưởng. Tôi hỏi thăm ở ban biên tập có gì mới không, Ivan Ivanôvich dấm dẳn trả lời rằng mọi việc vẫn thế - hàng ngày đưa tin và bài phát lên đài, trong khi lãnh đạo dùng tiền nhà nước rong chơi phung phí. Tôi hỏi bác mọi việc có ổn không. Xuvôrôv cho biết là Cachia đã vào nằm bệnh viện.

- Cô ấy bị làm sao?

- Làm sao thì tôi không được biết, vì không phải là bác sĩ, còn theo người ta nói thì có gì đó bất ổn về thai nghén.

- Krôtôv có ở ban biên tập chứ?

- Láng cháng đâu đó. - Xuvôrôv là bàu.

- Cậu ta thế nào? Không dở trò gì thêm chứ?

Ở cách xa nhau bốn ngàn kilômet mà dường như tôi vẫn hình dung được Xuvôrôv đang cười mỉa mai.

- Chẳng lẽ đồng chí không biết... Suốt đời cậu ta chỉ có mỗi trò xiếc, - Xuvôrôv nói dấm dẳn.

Chiều hôm đó tôi gọi điện đến nhà Naumôv. Vêra Alêchxăngdrôpna cầm máy. Bà ngạc nhiên khi biết tôi vẫn còn ở Mascơva. Không giải thích điều đó, tôi hỏi bà đã biết tin Cachia đang nằm bệnh viện chưa. Naumôva chưa biết gì.

Có lẽ Vêra Alêchxăngdrôpna bị bối rối. Trong máy có thể nghe thấy hơi thở gấp của bà. Tôi chờ một lát rồi bảo bà nên gọi điện đến bệnh viện khu để hỏi các bác sĩ. Tôi cho bà biết bác sĩ trưởng có họ là Xavôstin, và đọc cả số điện thoại của bác sĩ.

- Vâng, vâng, tôi sẽ làm như vậy. Xin cám ơn anh. Điều đó tất phải đến thôi.

- Chị bảo điều gì tất phải đến? - tôi không hiểu.

- Lấy chồng sớm, tính gàn dở, có thai, và bây giờ là đau ốm... cái nọ theo sau cái kia.

Tôi nói lên điều hy vọng là mọi việc rồi sẽ ổn thoả. Vêra Alêchxăngdrôpna càng thở gấp hơn. Tôi hỏi bà số điện thoại của gia đình Krôtôv. Trong ống nghe lặng lẽ như tờ. Giây phút im lặng kéo dài. Cuối cùng nghe thấy giọng nói đều đều của Naumôva.

- Đồng chí muốn đến thăm họ à?

- Vâng, có người nhờ tôi một việc, - tôi tự dối mình.

- Cậu ta à?

Cái tên Krôtôv bị cấm nói ra từ miệng bà, như thể đó là một tiếng thoá mạ.

Tôi ghi địa chỉ do Naumôva đọc rồi cám ơn:

- Xin cám ơn chị.

- Cám ơn anh đã gọi điện đến. - Vêra Alếchxăngđrôpna nói.

Giọng nói sâu trong lồng ngực của bà vang ra một cách lạnh nhạt.

Thế rồi tôi đến thăm bố mẹ của Xecgây Krôtôv.

Vì sao tôi đến đó? Ai yêu cầu tôi làm việc này? Tại sao tôi thân thiết với tất cả những gì có liên quan đến Xecgây và Cachia? Tại sao lúc đi xa, đến thành phố Mascơva này, tôi nhớ đến hai con người ấy cũng nhiều như nhớ đến gia đình mình? Mà thật ra họ là ai kia chứ, cái cậu Xecgây và cô Cachia, cái cô Cachia và cậu Xecgây này, vì sao mặt đất rung lên theo những bước đi vội vàng của họ và cuộc sống mới vừa ổn định lại bắt đầu lung lay chao đảo? Họ hình dung như thế nào về bản thân? Ai cho phép họ đột kích vào chúng tôi, những người lớn tuổi, những người đã bắt đầu suy nghĩ đến cái chết, làm rát bỏng tâm hồn chúng tôi, buộc chúng tôi phải tự dằn vặt mình về những ngày đã sống?

Ra mở cửa cho tôi là một phụ nữ nhỏ nhắn, vai choàng khăn san. Sau lưng bà là một Xecgây Krôtôv đứng tuổi, gầy gò, với mái tóc bạc.

- Anh chị có phải là Anna Pêtrôvna và Lêonhit Ivanôvich không ạ?

Người đàn bà chớp chớp đôi mắt hẹp, có vẻ lo lắng, rồi quay nhìn chồng.

Tôi tự giới thiệu. Bôris Antônôvich Vôrônhin, đồng nghiệp của Xecgây, đi công tác ghé qua đây.

- Xin mời đồng chí vào nhà, xin mời đồng chí vào nhà! - người đàn bà nhỏ nhắn nói. Giọng bà du dương như tiếng hát.

- Hân hạnh mời đồng chí... xin đồng chí bỏ áo ngoài ra! Xecgây Krôtôv đứng tuổi nói.

Anna Petrôvna nhắc lại:

- Xin mời đồng chí vào nhà, xin mời đồng chí vào nhà! Vào đây ạ, phòng này ạ! Bố nó chạy quàng ra cửa hàng đi. Ba chân bốn cẳng nhanh nhanh nhé!

- Tôi chạy ngay đây mẹ nó ạ.

- Xin anh chị đừng bày vẽ.

- Đừng bày vẽ là thế nào. Đồng chí đi đường xa. Bố nó hãy mua giò, giăm bông, phó mát, tự bố nó cũng biết cần mua gì rồi...

Leônhit Ivanôvich cầm khuỷu tay tôi rồi hỏi:

- Đồng chí uống vốtka chứ?

- Vâng, uống được.

- Và có lẽ, cô nhắc nữa chứ?

- Thôi ạ, vốtka thì hơn.

Leônhit Ivanôvich nháy mắt với tôi, mặc vào người chiếc áo khoác dài, làm mấy đồng xu trong túi kêu leng keng - rồi bóng người cao lênh khênh của bác mất hút sau cánh cửa.

- Ông ấy chỉ đi một loáng thôi. - Anna Petrôvna cam đoan với tôi.

- Anh chị cứ bày vẽ, xin nói thành thực đấy! Tôi đã ăn rồi. Mà nói chung đâu phải tôi từ xa mới đến. Tôi đến Mascơva đã mười hôm rồi.

Nhưng bà không muốn nghe gì cả. Bảo tôi đừng bận tâm, rồi hỏi, nào là tôi có muốn ngồi sang đi văng cho êm hơn không, nào là có mở ti vi xem không, có đọc báo không trong lúc bà bận xuống bếp, nào là có hút thuốc không, nếu muốn thì hút cho ngon miệng, cái gạt tàn đây... Nhỏ nhắn và nhanh nhẹn, Anna Petrôvna chạy vội vào bếp, ngay lúc đó từ nhà bếp vang lên tiếng động của bát đĩa. Tôi ngồi một mình, vừa hút thuốc vừa nhẩn nha quan sát mọi vật chung quanh.

Không có một căn phòng nào lại không trò chuyện với khách, bằng một thứ ngôn ngữ riêng không vang lên thành lời, về những người chủ của nó. Tôi có cảm giác như mình đã từng đến đây. Càng nhìn lâu chiếc đi văng sờn rách, những chiếc giá xếp đầy sách báo và tạp chí, những bức tường bồi giấy với gam màu êm dịu hài hoà, tôi càng có cảm giác rõ hơn là mình đã từng nhìn thấy chúng ở đâu đó, mà không phải chỉ một lần... Bỗng nhiên tôi chợt nghĩ: có lẽ căn hộ riêng của mình đã được di chuyển đến Mascơva bằng một phép màu nào đó, và tôi đang ngồi ở nhà mình. Trong căn phòng đó chỉ thiếu có mỗi chiếc lò sưởi xấu xí nằm nhô ra ngoài mặt tường. "Xin chào!" - tôi thầm nói. Sau đó xuất hiện thêm những chỗ khác nhau nho nhỏ. Chẳng hạn, một nửa số sách trên giá rõ là sách của tôi, còn nửa kia là của một người khác, một người yêu thích loại văn chương tầm tầm hiện đại của nước ngoài. Trên giá sách của tôi có treo những bức ảnh chụp nghiệp dư, còn ở giá sách này, bên cạnh các gáy sách là những tượng nhỏ ngộ nghĩnh tạc bằng gỗ. Nhưng bù lại đã có chiếc máy ghi âm giống hệt chiếc máy của con gái tôi, chiếc ghế bành kiểu tháo gấp được, giống hệt chiếc ghế của tôi, còn chiếc máy khâu đặt ở góc nhà cũng cùng loại với chiếc máy của vợ tôi. "Kia nữa, kia nữa!" - tôi ngạc nhiên lẩm bẩm.

Khoảng mươi lăm phút sau Anna Petrôvna quay ra để dọn bàn ăn, vừa khua dao nĩa bà vừa hỏi han tôi: tôi đến Mascơva thế nào, đi đường có mệt không, máy bay có rung lắc nhiều không, tôi thích món nấm sữa muối hơn hay món bơ có gia vị. Vừa lúc đó Leônhit Ivanôvich về đến nhà, mang theo cả một lô một lốc các thứ đồ ăn thức uống mua được, hớn hở như một cậu bé sau cuộc dạo chơi. Anna Petrôvna lại vội vàng xuống bếp. Leônhit Ivanôvich cởi áo vét ra rồi ngồi xuống trước mặt tôi, hai bàn tay to lớn đặt trên đầu gối, mồm ngậm điếu thuốc. Sau khi nhả một hơi khói, bác cúi người về phía trước và hỏi.

- Vậy đấy, đồng chí có thích đi câu không?

- Rất thích.

- Mai có bận gì không?

- Không bận lắm.

- Tôi biết một cái hồ, cá rô ngon cực kỳ. Chiều mai ta đi câu ngầm dưới băng nhé?

- Rất vui lòng.

- Đồ nghề có sẵn rồi, còn áo quần đi câu tôi sẽ tìm.

- Thế thì tuyệt.

- Ta đưa cả Anna Petrôvna theo. Bà ấy thích đi câu lắm.

- Tuyệt quá!

Leônhit Ivanôvich hồ hởi gọi to:

- Mẹ nó đâu, định để khách chết đói sao! - rồi ông quay sang tôi. - Về đồng chí thì tôi đã biết qua thư từ của Xecgây gửi về. Cháu nó như thế nào? Không quậy phá nhiều chứ?

- Cũng tạm tạm.

- Đồng chí đừng nuông chiều nó quá. Nó rất gặp may. Tìm được một cô vợ cực kỳ xinh đẹp và một việc làm tốt, đến được một nơi lý thú. Nó quá gặp may. Nó khoẻ chứ ạ?

- Vâng, khoẻ. Nhưng Cachia đang ốm.

Nét mặt với nhiều nếp nhăn của bác đang vui vẻ bỗng vụt biến sắc. Bác giơ một ngón tay đặt trước môi rồi hỏi thầm:

- Cháu nó bị làm sao vậy?

Tôi thuật lại nội dung câu chuyện nghe được qua điện thoại.

- Thật không may. Thương con bé quá. Đồng chí đừng cho Anna Petrôvna biết vội - bà ấy lo. Cần báo cho gia đình Naumôv.

- Tôi đã báo rồi.

- Tội nghiệp. Mẹ của Cachia đang ốm. Thương con bé quá! - Bác thở dài lo lắng.

- Đồng chí có biết, khi về đây Cachia có đau ốm gì không?

- Cháu có đến thăm chúng tôi, trông rất phiền muộn. Có hứa trước khi đi sẽ ghé lại, nhưng rồi không ghé. Từ ga Đômôdedop cháu gọi điện đến báo. Tôi vội gọi tắc xi đi ngay, muốn ra tiễn cháu, nhưng không kịp. Xeriôgia có làm điều gì phật ý cháu không, đồng chí?

Tôi ngập ngừng. Leônhit Ivanôvich nhận ra điều đó ngay.

- Đồng chí cứ nói thật cho.

Mắt liếc nhìn ra phía cửa, tôi khe khẽ nhắc lại cho bác những sự việc xảy ra gần đây. Leônhit Ivanôvich chăm chú lắng nghe, đưa tay xoa rối bù mái tóc lưa thưa - một động tác đã thành thói quen! - dụi tắt mẩu thuốc lá vào cái gạt tàn.

- Chẳng lẽ nó nói dối, rằng đó chỉ là cô bạn quen? Nó không biết nói dối đâu. Hay là nó học nói dối. Tôi sẽ viết thư cho nó, thư riêng...

- Có lẽ thế tốt hơn.

- Tôi sẽ nói lại với mẹ cháu. Việc này chẳng có gì phải giấu. Không lẽ nó làm như vậy. Tôi không tin.

Vêra Petrôvna bước vào, tay bê một mâm đầy những đĩa thức ăn. Bà đã cởi bỏ chiếc khăn san. Trong chiếc áo váy sáng màu trông bà càng nhỏ nhắn và mảnh dẻ hơn. Mái đầu bà lẫn những mớ tóc bạc, khoé mắt có những nếp nhăn, nhưng tâm hồn cởi mở và thái độ niềm nở thể hiện trên nét mặt làm cho bà như trẻ ra.

Ngay sau đó chúng tôi ngồi vào bàn. Leônhit Ivanôvich đã lấy lại bình tĩnh, bác nói cười vui vẻ và bắt đầu điều khiển chai rượu theo cung cách một vị chủ nhà. Anna Petrôvna chốc chốc lại tiếp thêm thức ăn cho tôi. Một đĩa cá rán được bê ra. Chuyện trò rôm rả không lúc nào ngừng. Hai vợ chồng hỏi chuyện tôi về Taiga. Như được cổ vũ, tôi cố gắng hết sức mình để kể lại về những khoảng không gian mênh mông um tùm cây lá của chúng tôi, nơi đó những túp lều da nhọn nóc nhả khói lên bầu trời, những chiếc bẫy thú kêu đôm đốp và đàn chó bắc cực thở hổn hển trên đường chạy... Chủ nhà thỉnh thoảng lại thốt lên những tiếng ồ vì ngạc nhiên, hỏi han về đời sống của tôi, và tôi buộc lòng phải kể lại cái tiểu sử tẻ nhạt của mình. Hai vợ chồng đưa mắt nhìn nhau, thở dài ghen tỵ, như thể có trời mới biết được tôi là một du khách từ đâu đến. Leônhit Ivanôvich như trẻ ra, các nếp nhăn lớn trên trán như mờ đi, trông bác càng giống Xécgây, và trong một thoáng bất chợt tôi có cảm giác như Cachia đang ngồi cạnh bác.

Tôi quay về phía Anna Petrôvna:

- Sao chị không hỏi gì về Xecgây? Chắc chị luôn nhớ đến cháu, nhưng lại không hỏi.

Bà tỏ ra lúng túng đến mức tôi cảm thấy ngượng vì đã hỏi một câu thiếu tế nhị.

- Thật ra, Bôria... - và bà mất bình tĩnh thật sự, - Bôris Antônôvich ...

- Chị cứ gọi là Bôria cũng được. Đã lâu lắm rồi không ai gọi tôi như vậy.

- Đồng chí đã đọc được ý nghĩ của tôi. Tôi nghĩ về cháu, nhưng ngại hỏi. Chẳng hỏi thì đồng chí cũng đã vất vả vì cháu nhiều rồi. Tốt nhất xin đồng chí cho biết Cachia như thế nào?

Lòng tôi bỗng cảm thấy lâng lâng và tươi trẻ như cái thời kỳ đẹp đẽ nhất của tuổi thanh xuân, khi tình trạng không trọng lượng nâng nhấc con người bay bổng lên không và cả thế giới chỉ toàn những người đáng yêu và nhân hậu. Với sự hào hứng bất chợt tôi đã kể lại những thành công của Xecgây trong nghề báo, về việc Cachia đã chinh phục được cả ban biên tập, đã làm cho một con người yếm thế như bác Ivan Ivanôvich Xuvôrôv cũng phải sống lại. Rồi tôi nói lên điều tin tưởng của mình là đứa trẻ sắp chào đời sẽ củng cố vững chắc hơn gia đình của hai cháu và mọi việc đều sẽ tốt đẹp. Đôi mắt của Anna Petrôvna long lanh như hai hạt pha lê màu dưới ánh nắng mặt trời. Leônhit Ivanôvich so lại đôi vai. Tôi cười nhìn họ rồi cùng với Leônhit Ivanôvich cạn thêm mỗi người một ly rượu, ăn món nấm mỡ muối, kỳ kèo ép Anna Petrôvna uống hết ly rượu của bà. Vắn tắt lại là mọi người đều vui vẻ.

- 14 -

Đầu tháng mười hai tôi về đến nhà. Thị trấn nhỏ đón tôi trong khung cảnh một bầu trời mịt mờ tuyết trắng, tiếng chó sủa, làn khói thoát ra từ những ống khói nhỏ và những đống củi ngổn ngang bên các bờ giậu... Thật khoan khoái biết bao khi được hít thở không khí trong lành và ngắm nhìn bờ sông tít tắp tận chân trời, nơi đó tuyết phủ dày trên những sườn đồi trắng xoá một màu. Tôi về đến nơi lúc trời đã xế chiều, mặt trời trắng nhợt nhạt đã xuống sát chân trời và ánh nắng chiều chẳng còn hơi ấm. Những tấm ván lát vỉa hè kêu cót két theo mỗi bước chân đi. Sung sướng làm sao khi ta lại bước vào căn hộ của mình, hôn vợ, ôm chặt đứa con gái đang nép đầu bên má, rồi sau đó tắm rửa, thay quần áo, ngồi vào bàn ăn và cảm nhận ra rằng cuộc đời dù sao cũng nhiều lý thú... Vợ con hỏi đủ thứ chuyện: đã đến những đâu? Thấy được những gì? Tôi thích thú kể lại về chuyến đi của mình. Khi vợ con bắt đầu mở xem các món quà từ Mascơva tôi cầm máy điện thoại gọi đến ban biên tập. Lúc đó đã gần sáu giờ chiều.

Iulia Pavlôvna Miuxôva trả lời.

- Chị hãy thông báo tin giờ chót: Vôrônhin đã về đến nơi. - tôi nói.

- Đồng chí Bôris Antônôvich! - Miuxôva reo lên.

- Chào chị Iulia Pavlôvna.

- Đồng chí đang ở nhà đấy sao, đồng chí Bôris Antônôvich?

- Vâng, tôi đang hưởng hạnh phúc gia đình.

- Tôi rất mừng vì đồng chí đã về! Đồng chí không tưởng tượng được tôi vui mừng đến mức nào đâu! - Miuxôva nói hoan hỉ.

- Hừm... đúng thế chứ? - Tôi nói với vẻ nghi hoặc.

- Tôi mừng quá, đồng chí Bôris Antônôvich ạ. Tôi kiệt sức lắm, kiệt sức lắm rồi. Khi nào đồng chí mới đi làm?

- Có lẽ mai. Nhưng việc gì đã làm chị kiệt sức vậy?

- Đồng chí còn hỏi ư, đồng chí Bôris Antôniivich? Đây không phải là công việc, mà là cái nhà thương điên. Tôi sút mất hai cân rồi đấy.

- Quỉ tha ma bắt! Tại sao chị lại như vậy?

- Đồng chí còn cười được sao, đồng chí Bôris Antônôvich, riêng tôi thì chẳng còn bụng dạ nào mà đùa. Sự vụ nghiêm trọng lắm, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

Giọng Miuxôva ngân vang. Tôi cảnh giác hỏi:

- Còn gì nữa, chị báo cáo đi.

- Việc này không nói qua điện thoại được, thưa đồng chí Bôris Antônôvich. Mai tôi sẽ kể hết với đồng chí.

- Tôi hy vọng không phải việc về Krôtôv chứ?

- Hắn, chính hắn đấy!

- Cậu ta lại quấy phá gì vậy?

- Việc này không nói qua điện thoại được đâu, thưa đồng chí Bôris Antônôvich, - Miuxôva khẳng định lại điều đã nói.

- Cachia vẫn nằm viện à?

- Vẫn nằm viện, thưa đồng chí Bôris Antônôvich. Sự vụ nghiêm trọng lắm, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

- Chị làm gì mà la lối om sòm lên vậy? Hãy bình tĩnh mà nói đi. Việc gì xảy ra nào?

- Việc này không nói qua điện thoại được, - Miuxôva khăng khăng.

- Chị nghe đây, chị Iulia Pavlôvna, tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra. - Miuxôva luống cuống kéo dài giọng "Ê ê... ê..." - Nào, chẳng có ai nghe trộm chúng ta đâu. Chẳng có gián điệp nào ở đây đâu. Chị nói đi.

- Cậu ấy đã bị buộc thôi việc, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

Như một phát súng nổ bên tai.

- Buộc thôi việc là thế nào? Từ lúc nào? Lý do gì?

- Việc này không nói qua điện thoại được, thưa đồng chí BôrisAntônôvich.

Lúc đó tôi chỉ muốn làm sao ném được chiếc ống nghe đến phòng làm việc, đập vỡ trán Iulia Pavlôvna, đập thật đau, nhưng chưa đến mức chết người.

- Chị đợi tôi, ngay bây giờ tôi sẽ đến đấy.

Trong các phòng làm việc và ngoài hành lang trụ sở ban biên tập vắng lặng như tờ. Mọi người đã ra về. Đèn hiệu ở phòng phát thanh vẫn còn sáng. Gôlubev đang đọc bài phát thanh.

Ngay từ ngoài đường tôi đã nhìn thấy Miuxôva chạy đi chạy lại trong phòng, từ góc này sang góc kia. Sự xuất hiện của tôi làm gián đoạn quĩ đạo chuyển động của chị. Chị lao đến gặp tôi.

- Đồng chí Bôris Antônôvich, tôi rất tiếc, nhưng...

- Bản quyết định đâu?

Một cặp hồ sơ chuẩn bị sẵn đang nằm trên bàn. Trên tờ văn bản cuối cùng ghi rõ ràng bằng giấy trắng mực đen: "Krôtôv Xecgây Ivnôvich thôi giữ nhiệm vụ đang làm theo yêu cầu cá nhân, căn cứ đơn xin thôi việc."

- Sao chị dám ký quyết định này?

Miuxôva lo sợ. Chị ít khi nhìn thấy tôi tức giận như vậy. Và cũng có thể chưa bao giờ thấy như vậy. Mặt chị nhăn nhó thiểu nảo.

- Nhưng tôi biết làm thế nào được, thưa đồng chí Bôris Antônôvich! Cậu ấy đưa lá đơn đến, rồi ngày hôm sau nghỉ việc luôn. Tôi phải xem xét việc tuỳ tiện bỏ việc này, hoặc...

- Lẽ ra chị phải chờ tôi về. Lẽ ra chị phải tìm hiểu tại sao cậu ấy làm như vậy. Tại sao chị không thể khuyên ngăn cậu ấy? Tại sao? Tại sao cậu ấy đưa đơn? Tại sao cậu ấy bỏ việc? Tại sao vậy, chị trả lời đi?

- Tôi không rõ, quả thật... Có lẽ, cuộc họp đó...

- Cái gì? Cuộc họp nào?

- Cuộc họp công đoàn. Chúng tôi muốn phê bình những hành vi của cậu ta. Chúng tôi biết là cậu ta thoái hoá về đạo đức. Chúng tôi muốn cảnh tỉnh cậu ta, muốn tác động đến cậu ta.

- Chúng tôi à? Đó là những ai vậy? Cái kiểu cách cung đình này xuất hiện ở các người từ lúc nào vậy? Chúng tôi, mà người số một là Miuxôva chứ gì? Sáng kiến đó là của chị chứ gì?

- Với tư cách chủ tịch công đoàn tôi thấy cần phải... Theo các nguồn tin đáng tin cậy tôi được biết cậu ta có quan hệ bất chính. Mà điều ấy lại xảy ra khi vợ cậu ta đang nằm bệnh viện! Tôi phải làm như thế nào đây? Nhắm mắt làm ngơ sao? Tôi không thông báo trước nội dung cuộc họp, chỉ mời cậu ấy đến rồi trình bày mọi việc một cách thẳng thắn. Tôi đã nói là hành vi đó của cậu ta thật đáng xấu hổ, thiếu đạo đức. Chẳng lẽ nói như vậy là không đúng? Tôi không định có hình thức kỷ luật nào đối với cậu ta, chỉ muốn làm cho cậu ta thấy xấu hổ thôi. Vậy mà cậu ta... - Miuxôva luống cuống, gõ mấy ngón tay lên mặt bàn. - Cậu ta quát ầm lên, bảo tôi là kẻ ăn thịt người, kẻ ở hang động, rồi đóng sập cửa lại, bỏ họp, đồng chí tưởng tượng được không? Ngày hôm sau cậu ta đưa lá đơn đến.

Trong khoảnh khắc yên lặng sau đó tôi nhẩm đếm từ một đến mười. Phương pháp tự kỷ ám thị này của trường phái iôga tỏ ra không hiệu nghiệm. Vì vậy Miuxôva thảng thốt hỏi:

- Sao đồng chí nhìn tôi lạ vậy? - Rồi chị ta lặp lại. - Sao đồng chí nhìn tôi lạ vậy?

Lời nói từ miệng tôi thoát ra một cách chật vật, như dòng nước chảy ra từ một máy bơm hoen gỉ.

- Chị nghe... nguồn tin... đáng tin cậy đó ở đâu vậy?

- Chị nhân viên tạp vụ và bà thường trực nói rằng cô gái đó ở lại chỗ cậu ta đến tận khuya. Tôi thì chưa thấy, nhưng nhiều người thấy cậu ta từ nhà cô gái đó đi ra.

- Và rồi chị... đã quyết định... mở phiên toà đoàn thể?

- Thưa đồng chí Bôris Antônôvich, tôi không thể bàng quang nhìn một gia đình tan vỡ.

- Tan vỡ ư? Ngoài ra đầu óc chị không nghĩ được điều gì khác à?

- Còn điều gì kia ạ? Quan hệ bất chính...

- Quan hệ ư? Nhưng có thể đó là tình bạn thì sao? Chị biết cái từ này chứ?

- Tình bạn? Đồng chí nói đùa đấy chứ? - Rồi chị lại hỏi: - Sao đồng chí nhìn tôi lạ vậy?

Tôi giận đến mức không còn nói được nữa.

- Tôi nhìn chị như vậy vì... đã năm năm qua tôi chưa nhìn ra chị một cách thấu đáo. Đó là lý do vì sao tôi nhìn chị như vậy. Chị là kẻ ăn thịt người, sống trong hang động.

- Đồng chí quẫn trí rồi! Đồng chí đã nhục mạ tôi!

Tôi xé vụn tờ quyết định, ném vào sọt giấy, kéo cửa bước ra ngoài. Phát thanh viên Gôlubev giáp mặt tôi ở hành lang. Anh ra đó hút thuốc trong mấy phút phát nhạc sau khi đọc xong bản tin. Anh là một thanh niên cao đến hai mét, thật thà và nhân hậu.

- Bôris Antônôvich! Chào đồng chí! Xin chúc mừng đồng chí đã trở về!

- Cậu cũng có dự cuộc họp xét xử Krôtôv chứ? Và cậu đã không thể giải tán bọn họ được? Cũng không thuyết phục cậu ấy được? Và đành cứ nhe răng ra mà cười?

- Nhưng, Bôris Antônôvich, nhưng tôi...

Trong khoảng thời gian lội bộ qua suốt xóm phố để đến bệnh viện không khí trong lành đã làm dịu đi trong tôi cơn bực tức. Các cửa sổ bệnh viện đã lên đèn. Hai dãy đèn có chụp hình hộp mờ xếp thành hàng dọc theo chiều dài ngôi nhà. Trên bậc thềm trước phòng khách có mấy người đàn ông đang đứng hút thuốc. Trong phòng rất đông người: các bệnh nhân khoác áo choàng màu xám, những người nhà bệnh nhân xách theo các thứ túi, làn lỉnh kỉnh.

Vợ chồng Krôtôv ngồi ở cuối một chiếc ghế băng dài. Cachia mặc áo dài có dây buộc ngang hông, chân không tất trong đôi dép rộng, mái tóc được trùm kín trong chiếc khăn quàng. Cô đang say sưa nói với Krôtôv một chuyện gì đó. Cậu ta ngồi nghe, đầu cúi xuống, tay mân mê chiếc mũ, vẻ mặt tư lự.

Tôi đến cạnh họ và chào hỏi trước. Hai vợ chồng định đứng dậy nhưng tôi bảo họ cứ ngồi tự nhiên, rồi tôi cũng ngồi xuống chiếc ghế dài đó. Hai người im lặng nhìn nhau. Cachia là người đầu tiên cố gắng bắt đầu câu chuyện. Cô ngập ngừng hỏi:

- Chú đi đường thế nào, chú Bôris Antônôvich?

- Cám ơn, bình thường cả. Bố mẹ các cháu gửi lời thăm. Chú đã đến làm quen với bố mẹ các cháu mà chưa trao đổi với các cháu.

Krôtôv lườm mắt nhìn tôi. Cachia mím chặt môi. Đó là thói quen của cô khi gặp điều khó xử.

- Bố mẹ có gửi chú mang hộ cho các cháu mấy thứ quà ngon. Các cháu có thích không?

Nhưng cả điều đó cũng chẳng có tác động gì đến hai vợ chồng trẻ. Rõ ràng là lúc này họ không thiết gì đến việc nhận quà cáp.

- Sao cháu lại bày ra cái chuyện ốm đau này, hả Cachia? Chưa được phép của lãnh đạo... Không tốt đâu...

Cô gái bỗng trở nên lúng túng, cứ như là tôi đã quở trách cô thực sự.

- Chú Bôris Antônôvich, cháu muốn ra viện ngay thôi! Chú giúp cháu với! Chú quen với bác sĩ mà!

- Chú đừng giúp cô ấy việc này! - Krôtôv bực tức ngăn chặn trước.

- Xeriôgia, sao anh lại nói thế! Giá mà anh vào ở đây như em.

- Nhưng cháu ốm gì vậy, Cachia?

- Cháu nằm điều dưỡng thôi, chú Bôris Antônôvich ạ. Theo cháu, sống ở đây còn tệ hại hơn ở tù.

- Thôi nào, thôi nào, đừng quá phóng đại như thế. Cháu cố bình phục sức khoẻ cho nhanh, lúc đó cháu sẽ được ra tù. Bây giờ cháu thấy trong người ra sao?

- Khoẻ rồi chú ạ. Cháu bảo với mọi người là cháu khoẻ rồi. Thế mà mọi người cứ như thông đồng với nhau từ trước, không ai chịu tin cháu cả. Nằm viện đi và nằm viện đi. Làm sao mà chẳng ai chịu hiểu giùm cho là lúc này chẳng phải là lúc cháu có thể nằm viện.

- Em cứ phải tiếp tục nằm viện! - Krôtôv nói dứt khoát.

- Chú thấy chưa, anh ấy cũng cùng một duộc với họ. Chẳng ai chịu hiểu một tý gì. Toàn là đồ ngốc! Ước gì cháu phá tung được cái bệnh viện này! - cô gái nổi nóng, hai bàn tay nắm chặt, nhưng lại ỉu xìu ngay. - Xin lỗi, cháu đã trở nên dễ nổi cáu.

- Điều đó là tất nhiên thôi. - Tôi cố động viên cô. - Cháu gắng ăn uống, nghe lời các bác sĩ, rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy. Hãy nhớ rằng vắng cháu phòng lưu trữ băng rất buồn, - tôi vừa nói vừa đứng dậy.

Cả hai ngồi nhìn tôi mặc áo khoác, đội mũ và đi găng tay. Tôi làm những việc đó một cách dềnh dàng. Từ ngoài hành lang một cô y tá trẻ mặc bờ lu trắng bước vào phòng khám. Tôi nhận ra cô Tanhia Xalatkina. Nhìn thấy tôi, cô chững lại. Trên khuôn mặt lưỡng quyền cao dễ thương của cô hiện rõ vẻ phân vân: nên vào hay không. Lòng quyết tâm đã thắng thế, Xalatkina đi thẳng về phía chúng tôi.

- Cachia, không được ngồi đây lâu quá như vậy. Chỗ này gió lùa.

Một cái nhìn ném nhanh về phía tôi cho thấy cô ta phản đối sự có mặt của tôi. Vì có tôi ở đây nên cô không thể bày tỏ hết trách nhiệm bảo vệ người mẹ mà cô dành cho vợ chồng Krôtôv. Có cảm giác như lâu nay Tanhia Xalatkina vẫn ghen tỵ về mối quan hệ giữa tôi với Cachia và Xecgây, cố giành lấy độc quyền trong tình bạn với hai vợ chồng Krôtôv.

- Mình sẽ vào ngay, mình sẽ vào ngay. - Cachia trả lời với giọng van nài.

Tanhia lắc đầu tỏ ý bực mình rồi quay bước bỏ đi, tiếng gót giày khua vang.

- Thế nhé, - bằng một giọng cố tỏ ra câu chuyện chẳng có gì quan trọng, tôi nói: - Cháu sẽ ra viện, còn bây giờ Xecgây đi với chú về nhà đi.

Hình như đã chờ đợi trước điều này nên vừa nghe xong cậu ta đã vươn thẳng người.

- Để làm gì?

- Có chút chuyện.

- Chuyện gì ạ?

- Chuyện riêng. - tôi bực mình.

Nhưng câu trả lời kiểu đó cũng không xua được nét ương bướng trên khuôn mặt chàng trai.

- Nếu về công tác thì chú cứ nói tại đây. Cachia cũng biết cả rồi.

- Đã vậy thì, - tôi chấm dứt câu chuyện, - cháu có thể về sau. Ngày mai chú chờ cháu ở trụ sở ban biên tập như thường lệ.

- Cháu đã bị buộc thôi việc.

- Chú biết rồi. Quyết định buộc cháu thôi việc đã bị huỷ bỏ. Hãy coi như nó chưa hề có. Quên nó đi.

Krôtôv tái nhợt mặt mày. Đã từ lâu tôi có nhận xét là nét mặt cậu ta biến đổi nhanh chóng và lạ thường. Giờ đây thậm chí đôi môi và đôi cánh mũi cũng tái nhợt. Cachia cầm lấy tay chồng.

- Xeriôgia!

- Gượm nào... - cậu ta nói, mắt vẫn nhìn tôi chằm chặp. - Cháu đã đưa đơn, còn chú thì bảo không có điều đó. Cháu đã thôi việc, còn chú thì bảo: hãy quên đi. Vậy theo chú thì cháu là loại người gì? Một con rối chắc?

Hai người đàn bà ngồi cách đó không xa bỗng ngừng nói chuyện và nhìn về phía chúng tôi với vẻ hết sức tò mò. Tôi đứng dậy, quay lưng chắn cái nhìn của họ về phía Xecgây và Cachia.

- Miuxôva không có quyền cho cháu thôi việc. Bà ta đã vượt quá quyền hạn của mình.

- Nhưng cháu cóc cần! Cháu bỏ việc không cần có quyết định.

- Đừng dở trò ngốc. Đó là cái tính trẻ con. Cachia, cháu đã biết do đâu mà xảy ra cuộc cãi vã ầm ĩ này hay chưa?

- Xeriôgía đã kể hết với cháu rồi. Đó thật là nhảm nhí!

- Đúng là nhảm nhí, Cachia ạ. Đôi khi ở người lớn cũng có những suy nghĩ lệch lạc. Chú cũng vậy thôi. Đối với sự việc đã xảy ra cần phải cười chê. Cười thật to. Chẳng có gì mà phải phát khùng lên, Xecgây ạ.

Tôi quay lại phía hai người đàn bà. Họ vẫn đang há hốc mồm nhìn sau lưng tôi.

- Các chị thích hóng chuyện lắm sao?

Họ bỏ đi nơi khác.

- Nghe chú bảo này, Xecgây, đấu đá thế đủ rồi. Đừng làm điều dại dột, mai đến làm việc đi.

- Cháu làm điều dại dột, thật chứ?

- Quỉ thật! Cachia, cháu bảo chồng cháu đi.

- Cháu không biết phải nói gì, chú Bôris Antônôvich ạ.

- Không biết là thế nào? Theo cháu, cậu ta xử sự như vậy là đúng sao?

- Chính Xecgây phải tự quyết định lấy, - cô trả lời rắn rỏi.

Trong cơn bối rối suýt nữa tôi đã định lấy thuốc ra hút, thậm chí đã rút bao thuốc ra khỏi túi rồi mới nhớ là đang ở trong bệnh viện. Hai vợ chồng trẻ vẫn ngồi, tay trong tay, đầy nỗi lo âu, gắn bó như hai anh em sinh đôi dính liền nhau người Thái Lan. Cánh cửa phòng khách của bệnh viện chốc chốc lại bật mở khi có người ra vào.

- Chú bảo thế này, các cháu nhé. Các cháu hãy nhớ lời bài hát này: mọi kẻ nên khôn đều có dại; công bằng, sòng phẳng, chẳng trừ ai. Đối với cái dại người ta phải đấu tranh chứ không chạy trốn. Cháu thử nghĩ xem, Xecgây. Nếu vấn đề này lại chính ở nơi bà Iulia Pavlôvna...

- Đây là vấn đề nguyên tắc, - cậu ta cắt ngang lời tôi.

- Nguyên tắc gì nào?

- Cần phải giải thích chứ?

- Nói xem.

- Cháu không thể làm việc khi người ta đơm đặt chuyện về cháu.

- Quỉ tha ma bắt! Nếu cứ như vậy thì suốt đời cháu sẽ chẳng có việc làm.

- Mặc kệ! Không bàn nữa. Cháu đã quyết định rồi.

- Đó cũng là nguyên tắc chứ? - tôi tỏ ý nghi ngờ. - Không, đó là sự cố chấp được nhân lên bởi lòng tự ái. Và cháu có nghĩ đến Cachia không? Vợ cháu đang ốm. Các cháu lấy gì để sống?

- Cháu chẳng cần gì cả. - Cachia trả lời trước như vậy.

Xecgây quàng tay ôm vai vợ.

- Em đừng sợ, anh sẽ tìm được việc làm.

- Em có sợ gì đâu, Xeriôgia.

Cả hai không còn nhớ đến tôi. Tôi cảm thấy mình hoàn toàn trở thành một người thừa, một thứ dị vật trong mối quan hệ của hai vợ chồng trẻ, một dạng khối u... Tôi đứng lên. Cachia cũng vội vàng đứng lên theo, lấy áo choàng che ngực và đưa tay kéo Xecgây đứng dậy.

- Rất cám ơn chú đã đến đây, chú Bôris Antônôvich, - cô nói lời cám ơn.

- Mong cháu chóng bình phục, - tôi nói.

Bỗng Krôtôv nói với giọng hoà nhã:

- Thế còn các cụ... Các cụ trên ấy thế nào?

- Các cụ à? Tôi chẳng biết cụ nào cả.

- Họ khoẻ cả chứ?

- Mọi việc bình thường. Sắp tới cháu sẽ nhận được thư. Còn cháu, Cachia ạ, mẹ cháu sẽ gọi điện cho cháu.

Chúng tôi chia tay nhau.

- Suy nghĩ thêm đi, Xecgây. Nếu cháu muốn trở lại, ban biên tập lúc nào cũng mở cửa đối với cháu. Chú chờ cháu. Hãy lưu ý điều đó

- Cháu sẽ lưu ý, - cậu ta trả lời.

Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày trôi qua. Krôtôv không đến.

- 15 -

Ở khu chúng tôi, tờ báo "Ngọn lửa Taiga" phát hành mỗi tuần ba kỳ.

Biên tập tờ báo là bà Elizaveta Dmitrievna Pankôva, một phụ nữ tuổi năm mươi, ít khi cười. Tôi gặp bà trong các cuộc họp, các cuộc hội thảo. Thỉnh thoảng chúng tôi có nói chuyện qua điện thoại khi cần phát lên sóng vô tuyến những tài liệu nhận được từ tê lếch mà ở đài phát thanh không có, nhưng chẳng biết vì sao giữa chúng tôi vẫn không thiết lập được mối quan hệ chặt chẽ. Có lẽ vì báo chí có đặc thù riêng của họ.

Vào lúc mười giờ sáng một ngày làm việc bình thường tôi ghé đến văn phòng của bà Pankôva mà không hẹn trước. Trước mặt Elizaveta Dmitrievna là một chồng bưu kiện có đóng dấu "Thông tấn xã Liên Xô" - mới nhận được từ chuyến máy bay đến từ chiều hôm qua.

Tôi không chuẩn bị trước những lời rào đón nên cảm thấy mất tự nhiên trước cái nhìn chăm chú, xét nét của bà Pankôva. Đến văn phòng của người khác tôi thường mất tự nhiên, cảm thấy vụng về và gò bó, và có lẽ chính vì vậy mà tôi rất thông cảm với những người khép nép, sợ sệt khi đến văn phòng của tôi... Đầu tiên chúng tôi trao đổi với nhau về công việc ở các trại săn bắn và các trại chăn nuôi hươu, bàn luận về tin đồn sắp có nâng lương cho giới báo chí, - thực chất đây là một cuộc chuyện trò uể oải chẳng có gì hứng thú. Tôi xin phép được hút thuốc. Pankôva nhún vai: cứ tự nhiên.

- Biên chế ở chỗ chị thế nào, chị Elizaveta Dmitrievna?

- Anh muốn nói về điều gì?

- Chị cần cán bộ không?

- Cũng như mọi khi. Anh biết đấy thôi.

- Vâng, tôi biết. Người ta không thích đến với chúng ta.

- Thật đáng tiếc.

Chúng tôi im lặng. Trên khuôn mặt nghiêm nghị của bà Pankôva thoáng vẻ sốt ruột.

- Bôris Antônôvich, cần gì thì anh cứ nói đi. Đừng vờ vĩnh nữa. Anh không làm được điều đó đâu.

Tôi rơi vào thế khó xử, lúng túng như anh chàng nói dối bị lật tẩy.

- Một việc không hoàn toàn bình thường... Vâng chính thế! Không hoàn toàn bình thường. Tôi muốn giới thiệu với chị một thanh niên tuyệt vời, một nhà báo.

- Thú vị nhỉ.

- Tất nhiên chị sẽ hỏi tại sao tôi lại giới thiệu cho chị, mà bàn thân lại không nhận cậu ta vào cơ quan mình.

- Tất nhiên tôi sẽ hỏi thế.

- Một nhà báo xuất sắc trong mọi thể loại. Cậu ta chưa được đào tạo về một ngành chuyên môn nào, nhưng cái chị cần đâu phải là bằng cấp, mà là một ngòi bút.

- Đúng vậy.

- Tuổi mười tám, - tôi thêm cho Xecgây một tuổi. - Nhanh nhẹn như một con quỉ. Viết được mọi thể loại.

- Nếu tôi không nhầm, cậu thần đồng này có họ là Krôtôv phải không? - Pankôva nói. - Còn tên là... trời mà nhớ được... là Vitali hay Iuri gì đó.

- Xecgây.

- Vâng, vâng, Xecgây. Và cậu ta có một cô vợ hay bạn gái dễ thương... tên là Xônhia, có phải không?

- Cachia. Vợ của cậu ta.

- Vâng, đúng rồi, Cachia. Và tất cả những người trên hai mươi tuổi đều được cậu ta coi là thủ cựu, đúng không nào? Còn tôi thì cậu ta coi là gái quá thì chứ gì?

- À...

- Cậu ta không làm việc ở chỗ các anh được. Anh đã cho cậu ta thôi việc, và bây giờ anh quyết định đẩy sang cho tôi. Anh thấy đấy, mọi thứ tôi đều biết cả. Ở cái làng quê của chúng ta khó mà giấu diếm được việc gì.

- Cái gì đúng, thì nó vẫn đúng.

- Ngoài ra, hình như anh ta có chuyện bồ bịch gì đó... Người ta đồn vậy.

- Không đúng đâu, toàn chuyện bịa! Cậu ta nóng tính, hấp tấp, chỉ có vậy thôi.

- Cứ cho là như thế. Rồi sao nữa?

- Chị Elizaveta Dmitrievna, chị nghe tôi nói nhé. Chị đã ngồi trên chiếc ghế của chị mười lăm năm nay. Chị thử nhớ xem trong khoảng thời gian ấy có bao nhiêu những kẻ bất tài, vụng về, những cặn bã thứ thiệt đã luồn lách vào công việc của chúng ta?

- Tôi không làm bản thống kê đó.

- Và với tất cả bọn họ, bằng cách này hay cách khác chị cũng đã phải bận bịu, phải chăm sóc, phải hao tổn thời gian và thần kinh cho họ. Đó là công việc bình thường của người biên tập viên. Vậy lẽ nào không thử liều lĩnh vì một con người thực sự có tài? Làm việc với cậu ta có khó khăn, nhưng nếu hiểu được cậu ta... Cậu ta không phải là cái thùng rỗng. Cậu ta có cá tính, có đầu óc.

- Hình như anh mê tít cậu ta, - Pankôva lạnh lùng nhận xét.

- Ồ không! Tôi chỉ thích cậu ta. Chị có biết tôi sẽ nói gì với chị không? Thậm chí tôi còn ghen tỵ với cậu ta.

Pankôva ngả người ra sau ghế.

- Tôi không hiểu.

- Thế thì chị hãy làm việc với cậu ta rồi chị sẽ hiểu. Cậu ấy toả ra các nguồn sinh khí, thật vậy đấy.

- Điều ấy nghe thật ấu trĩ. - Pankôva nói.

Tôi lặng người. Tự nhiên cảm thấy buồn. Điếu thuốc đã tắt ngấm.

- Dù sao tôi vẫn chưa hiểu được tại sao anh lại cho thôi việc một kẻ có tài như vậy? - Pankôva phá tan sự im lặng.

Tôi thuật lại hết sức vắn tắt câu chuyện của Krôtôv.

- Và bây giờ cậu ta làm gì? - Bà hỏi.

- Chẳng làm gì cả. Mà vợ thì đang nằm viện.

- Cô ta ốm đau như thế nào?

Tôi nói về bệnh tình của Cachia.

Pankôva đăm chiêu, mân mê trong tay chiếc phong bì dày có dòng chữ nổi bật: "Bưu kiện nhà nước. Thông tấn xã Liên Xô".

- Thế tại sao không cho họ về Mascơva với bố mẹ họ?

- Điều đó đã bị loại trừ. Bọn trẻ có các nguyên tắc của họ.

Bà ta xé chiếc phong bì, từ đó rơi ra bàn những tấm bản kẽm mỏng dính.

- Thôi được, bảo cậu ta đến chỗ tôi. Tôi không hứa trước điều gì. Bảo cậu ta đến, chúng tôi sẽ nói chuyện.

Điếu thuốc trên tay tôi tự đỏ lên.

- Cảm ơn chị Elizaveta Dmitrievna!

- Về cái gì?

- Ai mà biết được, không loại trừ khả năng là đến một lúc nào đó nền văn học nước nhà cũng sẽ cám ơn chị. Chả là cái cậu Krôtôv này cũng đang bí mật viết tiểu thuyết.

Bà thở dài. Đó là tiếng thở dài của người phụ nữ mệt mỏi.

- Mà anh xử sự như trẻ con vậy. Lạ thật. Trước đây tôi chưa nhận thấy điều này.

Các tấm ván gỗ lát vỉa hè kêu cót két dưới bước chân đi. Không khí lạnh buốt, như cấu vào cổ họng mỗi lần hít vào. Trên đường phố lạnh cóng không một bóng người. Đằng xa một chiêc máy kéo kéo theo các xe trượt đang lầm lũi chạy, trông giống như một con voi răng kiếm vừa bị đánh thức sau một giấc ngủ triền miên. Khói từ các ống khói vươn cao lên bầu trời, như những sợi sống mong manh... Tại sao tôi lại sống ở đây? Cái gì đã buộc chặt tôi với mảnh đất này, nơi mà vào mùa đông để đào huyệt chôn cất người chết không thể không dùng thuốc nổ. Lưỡi xẻng mài sắc cũng bật trở ra khi chạm vào băng, tiếng súng nổ nghe khô khốc như tiếng ho của người bị bệnh lao, sự vắng lặng, cái chết tạm thời, bàn tay hơ trên đống lửa... Mà tôi tuổi đã bốn mươi hai. Giả sử có thể bớt đi hai mươi tuổi, liệu tôi có lên đường đi đến nơi này. Ôi, liệu tôi có níu kéo từng ngày, từng khoảnh khắc trôi qua, có run bắn lên như một lão hà tiện vì tiếc từng phút giây ngắn ngủi! Liệu tôi có sải dài bước chân như thế! Liệu tôi có suy nghĩ phóng khoáng như thế! Liệu tôi có không khoan dung chút nào cho lương tâm mình như thế! Liệu tôi có sống như thế!

Tổng biên tập ơi, anh thật trẻ con.

- 16 -

Krôtôv mặc áo lông ngắn đang ngồi xổm trước lò sưởi và ném các thanh củi vào lò. Trong phòng rất lạnh; băng đóng trên cửa kính. Hơi nước phả ra từ miệng Krôtôv.

- Không khéo cháu chết cóng ở đây mất thôi, - tôi nói thay cho lời chào.

Cậu ta ngước bộ mặt ngái ngủ và thiểu não lên.

- Chào chú.

- Chào cháu. Chú bảo là cháu chết cóng ở đây thôi. Hoặc là sẽ bị viêm phổi.

- Cháu chịu được giá lạnh.

- Cháu tiết kiệm củi của ban biên tập hay sao? Hoài công. Đốt lên mà sưởi - đừng ngại.

- Cám ơn. Bây giờ cháu đốt tất.

Tôi nhìn quanh. Căn phòng mang vẻ hoang vắng, không người ở.

- Chỗ cháu ở bừa bộn quá, như cảnh tản cư. Cháu hãy quét dọn đi một tý.

- Như thế này có gì là xấu nào?

- Cachia sẽ về và sẽ buồn phiền.

Cậu ta quẳng một thanh củi nhỏ vào lò.

- Cachia còn lâu mới về.

- Đừng có nói gở. Bây giờ cháu đang làm gì?

- Chú thấy rồi đấy, cháu đang đốt lò sưởi.

- Chú thấy là cháu đang đốt lò sưởi. Cháu còn tiền chứ?

Lại thêm một thanh củi bay vào lò.

- Cần đốt lò sưởi bằng tiền hay sao? - một câu hỏi thay cho câu trả lời.

- Đốt lò bằng tiền ấy à... Lại thêm một Rôtshild! Chú đã thấy một bức tranh biếm hoạ như thế này: có một thằng cha ngồi bên bàn ở một khách sạn, hắn đốt đồng đô la để châm điếu xì gà. Một cô gái ngồi cùng bàn bảo hắn: "Nếu anh muốn gây ấn tượng đối với tôi thì hãy dùng đồng ngoại tệ khác".

- Cháu hiểu. Đồng đô la bị mất giá.

- Cháu làm sao vậy, không hiểu được chuyện cười à?

- Đâu có... Cháu cười đây nè. Ha - ha.

- Thôi được. Nói thật đi, cháu còn tiền không?

- Cháu đã nhận được các khoản thanh toán. Đựng đầy cả túi.

- Hết cả rồi - cháu hãy nói thế. Đừng khách sáo. Như lời một người quen của chú và cháu thường nói. Bây giờ thì đừng có chọc gậy nữa. Chú cần nói chuyện với cháu.

Cậu ta lại cho một thanh củi vào lò.

- Lại nói chuyện... Thế chú còn làm việc vào lúc nào?... Lúc nào cũng nói chuyện với cháu.

- Đó không phải việc của cháu, cậu bé thông minh ạ. Chú có tin mới tốt lành.

Cậu ta cho thanh củi cuối cùng vào lò và đóng cửa lò. Vươn vai, đứng dậy. Nét mặt cau có, phờ phạc.

- Lấy ghế mời tổng biên tập ngồi đi chứ. Cháu chẳng lịch sự chút nào.

- Đây, mời chú ngồi...

- Thế chứ. Còn tin mới nhận được là thế này. Chú ý nhé! Elizaveta Dmitrievna Pankôva, biên tập tờ báo "Ngọn lửa Taiga" của chúng ta... Cháu còn nhớ bà ấy không? - Cậu ta không trả lời. - Chuyện là thế này, bà ta không từ chối trao đổi với cháu về việc làm. Cháu hãy rửa ráy, mặc quần áo vào, như một người lịch sự, rồi đến gặp bà ta. Càng nhanh càng tốt, rõ chưa?

Củi trong lò nổ lách tách, lửa bốc thành ngọn. Hai tay đút vào túi áo khoác để mở, Krôtôv nhìn vào nơi nào đó phía trên vai tôi.

- Cháu sẽ không đến chỗ bà Pankôva của chú.

- Tại sao lại như vậy chứ?

- Cháu không đến - thế thôi. Chú hoài công xin xỏ, chạy chọt.

- Ai bảo với cháu là chú chạy chọt? Tự bà ta gọi điện cho chú. Bà ta biết là cháu không có việc làm, và bà ta gọi điện. Có lẽ bà ta đã nghe những bài viết của cháu, hiểu ra rằng cháu cũng biết viết lách chút ít. Mà chỗ bà ta thì đang thiếu người.

Cậu ta khoanh tay trước ngực. Napôleông, vâng giống hệt!

- Cháu không đến chỗ bà ta. Và chú đừng có chạy ngược chạy xuôi cho cháu.

Tôi cảm thấy kiệt sức, kiệt sức, như anh chàng chạy đua trong truyện của Vưtôvski "chạy cự ly mười ngàn mét mà cứ vọt lên chạy như năm trăm mét, và ngất xỉu".

"Nghe đây, anh bạn!" - tôi nói thầm trong đầu. Không, không phải thế. "Nghe đây, Xeriôgia, anh bạn nhỏ"... Mà cũng không phải thế. "Nghe đây, đồ chó đẻ, mày đối xử với tao như thế à!".

- Cháu đã tìm được việc làm.

- Cái gì?

- Mai cháu đi làm.

- Ở đâu?

- Làm thợ đốt lò ở trạm cấp hơi nước.

Tôi nhắc lại, như tiếng vọng mơ hồ: thợ đốt lò ở trạm cấp hơi nước. Tôi cười phá lên. Đã từ lâu tôi không tự cười mình như vậy. Và cũng đã từ lâu tôi không đốt thuốc hút lấy hút để như vậy. Gần như chỉ một hơi đã hết gần nửa điếu.

- Vậy đấy, chú hiểu rồi. Và cháu bỏ chạy khỏi nghề báo.

- Nghề báo không bỏ cháu.

- Thế còn Cachia! Cachia biết chuyện chưa?

- Chưa. Cháu sẽ nói.

- Cháu nghĩ là cô ta tán thành?

- Cháu tin như vậy.

- Tán thành, tán thành, Cachia tán thành! Cô ta như một hòn núi đứng sau lưng cháu, một kẻ tâm thần. Nhưng tại sao lại làm thợ đốt lò ở trạm cấp hơi nước? Sao không làm nhân viên thu tiền ở nhà tắm công cộng? Sao không làm nhân viên phục vụ ở nhà xác? Sao không làm người đánh xe ngựa đi chở nước?

- Cháu cần có tiền. Ở đấy lương cao. Cháu đi làm một thời gian. Rồi sau sẽ hay.

- Xeriôgia này, - tôi nói, - chú thích tính cháu.

- Mỉa mai à?

- Chú thích tính cháu, Xeriôgia ạ, thật đấy. Nhưng trong những ngày tới đừng có để chú bắt gặp cháu trên đường. Nếu không chú sẽ đấm vào mặt đấy.

Tôi đứng dậy, đi về phía cửa.

- Nhưng, chú Bôris Antônôvich này, - giọng cậu ta đưa tiễn tôi, - nhà của chú cũng được sưởi bằng hơi nước của trạm cấp hơi nước. Chú hãy nhớ điều đó.

- Chúa nhân từ hãy cứu vớt chúng con... - tôi thầm nói khi ra đến bậc cửa.

Elizaveta Dmitrievna Pankôva không ngạc nhiên khi tôi thông báo cho bà biết.

- Chẳng biết tại sao tôi cũng nghĩ là cậu ta không đến.

- Chị đã gặp may, - tôi nói thành thực.

...Vào giờ làm việc buổi chiều bà kế toán trưởng Klavdia Ilinhichna đến gặp tôi ở văn phòng. Với vẻ lo lắng bà ngồi xuống mép ghế và đặt trên bàn tôi mấy chứng từ.

- Các bản thanh toán tiền nhuận bút, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

- Tôi thấy rồi. Có gì trục trặc chăng?

- Vâng, đồng chí hiểu cho... - bà ta bối rối. - Krôtôv từ chối nhận tiền nhuận bút.

- Chuyện lạ nhỉ?

- Theo chứng từ tháng mười một đồng chí đã tính cho cậu ta bảy mươi rúp bốn mươi sáu côpếch. Cậu ta không nhận.

- Sao thế? Tại sao?

- Cậu ta cho rằng đồng chí tính không đúng.

- À, ra thế! Chê ít à?

- Bảo là nhiều, thưa đồng chí Bôris Antônôvich.

- Nhiều à? - tôi ngớ người.

Thay vì trả lời, bà ta cầm lấy các chứng từ.

- Đây, đồng chí nhìn xem. Ở đây đồng chí ghi khoản chi thứ mười ba và đánh giá tài liệu này là bài phóng sự. Còn cậu ta thì khăng khăng đây là một bài báo thông thường và giá tiền rẻ hơn. Và đây, khoản chi thứ mười bốn, ký sự. Còn cậu ta thì chứng minh rằng về thể loại đây chỉ là bản phác thảo. Nhuận bút cũng giảm đi tương ứng. Chỗ này đồng chí đánh giá là bản tin. Còn cậu ta thì bảo là tin vắn. Tất cả chỉ có bốn mươi lăm rúp, không phải là bảy mươi.

- Cậu ta tự tính lấy à?

Klavdia Ilinhichna khẳng định: bút tích ghi bằng bút chì trên trang giấy.

- Chị hãy nói với cậu bé thông minh này là đừng có chọc mũi vào việc của người khác và ký nhận tiền trước khi tôi kịp thay đổi ý kiến. Và hãy nói thêm rằng sự ương bướng không phải là nét đẹp của cá tính.

- Tôi đã nói...

- Vẫn không chịu nhận?

- Vâng.

- Chị hãy gửi qua bưu điện!

- Tôi cũng đã định thế. Cậu ta tuyên bố sẽ gửi trả lại.

- Láo toét, cậu ta không gửi trả lại đâu.

- Tôi e rằng cậu ta sẽ gửi trả, thưa đồng chí Bôris Antônôvich, - bà kế toán trưởng phản đối.

- Thế thì làm gì bây giờ? - tôi lúng túng.

- Cậu ta yêu cầu tính lại. Còn nếu cứ để như thế này cậu ta sẽ khiếu nại lên sở tài chính khu.

- Thật thế sao?

- Cậu ta đã bảo thế. Nhưng mà, thưa đồng chí Bôris Antônôvich, cậu ta đúng chứ! Đồng chí đã tính trội hơn cho cậu ta phải không?

- Các bài viết đáng giá như thế. Vấn đề không phải là thể loại, mà là chất lượng. Cậu ta biết điều đó. Vậy mà cứ khăng khăng, quỉ thật, chị thấy đấy, cậu ta không muốn một sự ưu đãi nào.

- Tôi hiểu.

- Với bài ký sự khác thì trả năm rúp còn tiếc. Còn cậu ta, thằng quỉ, lại viết khá.

Tôi trầm ngâm suy nghĩ. Klavdia Ilinhichna kiên nhẫn chờ đợi.

- Ta làm như thế này, - sau khi suy nghĩ tôi cầm lấy bút. - Nếu hắn, cái cậu Krôtôv ấy, đã bới móc ngôn từ như vậy thì cứ cho cậu ta nhận bốn mươi lăm rúp của cậu ta. - Tôi gạch các khoản chi và ghi vào các khoản mới. - Còn hai mươi lăm rúp tôi sẽ ghi trong một quyết định riêng - thưởng cho chất lượng cao của các bài viết. Nếu cậu ta từ chối nhận tiền thưởng, kệ đời cậu ta. Còn các khoản thanh toán cậu ta nhận cả rồi chứ?

- Đã nhận rồi.

- Không thắc mắc gì về việc đã tính thêm một tuần làm việc trước khi cậu ta đến đây?

- Lạy chúa, cậu ta không nhận thấy.

Chúng tôi cùng cười.

- 17 -

Mấy ngày sau đó tôi không nghe ai nói gì về Krôtôv, không gặp cậu ta. Dồn dập những công việc chuẩn bị đón năm mới: các chương trình phát thanh lớn, lập các loại hồ sơ, các cuộc họp ở khu. Con gái tôi vào bệnh viện thăm Cachia Krôtôva. Khi trở về nhà nó rất lo lắng, giống như một bác sĩ sau ca phẫu thuật khó khăn, thầm thì với mẹ nó rất lâu ở dưới bếp và khi tôi hỏi về sức khoẻ của Cachia nó trả lời rằng trong những chuyện như thế này đàn ông không hiểu gì đâu.

Krôtôv nhắc người ta nhớ đến mình theo một kiểu cách rất bất ngờ.

Thông thường thì vào những ngày giá rét mạnh, khi mà ngay cả các hàn thử biểu cũng đông cứng lại, trong căn nhà gỗ hai tầng của chúng tôi hệ thống cấp hơi nước sưởi không đủ sức làm ấm căn hộ. Do đó mỗi ngày một lần buộc phải đốt thêm lò sưởi trong nhà. Trong gia đình tôi việc đốt lò này do tôi đảm nhận.

Một buổi tối, sau khi ôm bó củi đặt lên tấm sàn thép, tôi bắt đầu làm như thường lệ là chẻ nhỏ một thanh củi khô để nhóm lò và bỗng phát hiện ra rằng trong căn hộ ấm hơn mọi khi. Vừa lúc đó thì vợ tôi đi dạy về.

- Một chuyện đáng ngạc nhiên, - tôi chia sẻ với vợ về điều mình mới phát hiện ra, - Hôm nay không cần phải nhóm lò sưởi.

Chúng tôi sờ tay lên các ống dẫn hơi nước: chúng nóng bỏng tay.

- Nếu đây là nhờ Krôtôv, - tôi giả thiết, - thì có lẽ đúng là cậu ta đã tìm được việc hợp với năng khiếu của mình.

Vợ tôi nhìn tôi tỏ vẻ trách móc. Cô ấy lo âu với tất cả những gì có liên quan đến Cachia, và không thấy có lý do nào để đùa về việc này.

- Trong lúc em làm cơm tối, anh đến trạm cấp hơi nước để thay mặt cư dân ở đây cám ơn người thợ đốt lò.

- Tốt nhất anh hãy đến thăm cô gái, - vợ tôi khuyên. - Anh quên con bé rồi.

Tôi hứa đến thứ bảy sẽ ghé vào bệnh viện.

Hoá ra người thợ đốt lò tận tâm chính là Krôtôv. Cậu ta đang ngồi một mình trong căn buồng nóng hầm hập và thiếu ánh sáng của trạm cấp hơi nước, bên một chiếc bàn bẩn, trước một đống than đổ trên sàn xi măng, đầu đội mũ lông có vành che tai, mặc áo liền quần màu đen, đi ủng cao su bên ngoài đôi tất len. Trong lò than ngọn lửa réo phần phật. Tôi dừng lại một lát nhìn Krôtôv xếp những quân cờ đôminô trên bàn rồi dùng ngón tay búng ngã. Cậu ta chăm chú làm việc này đến mức không nhận ra tôi đã bước xuống theo một cầu thang sắt hẹp và đến bên cạnh.

- Chào cháu, Xecgây Leônhiđôvich. - Cậu ta quay đầu lại và nhìn tôi bằng một cái nhìn hững hờ, như thể tôi là một khách bình thường của trạm cấp hơi nước, hay tệ hơn, - như một cái xô đựng than. Khuôn mặt gầy và đôi bàn tay đen nhẻm bụi than.

- Chú đến để kêu ca à?

- Đến để cám ơn cháu. Thay mặt tất cả cư dân ở đây. Cháu đốt lò rất giỏi.

- Xin cám ơn người công dân của thị trấn, vì những lời nói tốt lành. Rất cám ơn. Chúng tôi đang cố gắng, - cậu ta kéo dài giọng, oang oang và giận dữ.

Tôi hơi bối rối.

- Nào - nào, cố gắng lên. Ngồi đây với cháu được chứ?

- Bị bẩn đấy. Những người ăn mặc sạch sẽ không đến đây.

- Thôi, đủ rồi đấy! - Tôi kéo chiếc ghế đẩu bằng sắt, quẹt ngón tay trên mặt ghế, rút khăn tay trong túi và ngay tức khắc chiếc khăn tay biến thành một miếng dẻ bẩn, sau đó ngồi xuống ghế.

Krôtôv chuyển các quân cờ đôminô từ tay này sang tay kia.

- Nào, công việc ra sao?

- Công việc trắng như muội than. Thợ đốt lò chúng tôi vẫn thường nói như vậy.

- Vất vả chứ?

- Thợ đốt lò chúng tôi không quen với vất vả. Bạn của chúng tôi là cái xẻng.

- Chú thấy là cháu chơi bài một mình?

- Tôi đang bói bài. Những con bài của cuộc đời. - Cậu ta ném những quân cờ xuống mặt bàn.

- Cháu nên đọc hoặc viết đi. Thế sẽ có lợi hơn.

- Đối với thợ đốt lò chúng tôi, văn hoá chẳng để làm gì.

- Đủ rồi đấy... Công việc là công việc, chẳng xấu hơn những việc khác. Cháu nên nhớ rằng Mac Twen cũng đã từng làm người bán báo, làm hoa tiêu, Lơnđơn đã đi là quần áo trong một hiệu giặt là. Pholkner yêu thích của cháu đã đi trồng bông.

- Đối với thợ đốt lò chúng tôi, miễn bàn đến văn chương.

- Lải nhải hoài! Cháu làm theo ca à?

- Đúng vậy, làm ban đêm.

Cậu ta tránh né tôi. Lùi ra xa, không để tôi tiếp cận. Chẳng biết từ lúc nào cậu ta, như một con nhện nước, đã tạo ra chung quanh mình những bọt khí mà những lời nói của tôi không lọt qua được.

Trong đôi ủng cao su Krôtôv bước đến cạnh lò lửa đang reo. Từ trong chiếc mũ nhỏ với cái chỏm da kỳ cục nhô ra mấy lọn tóc sáng. Cậu ta lấy móc cời lò mở cánh cửa lò, nhổ nước bọt vào tay, cầm lấy cái xẻng từ đống than và - Một này! Hai này! - cậu ta bắt đầu xúc than hắt vào họng lửa... Chẳng mấy chốc trán cậu ta đã vã mồ hôi. Cậu ta vẫn cúi khom người. Một này! Hai này! Thiêu đốt đi, hỡi địa ngục! Một... hai! Xẻng này cho bà này, Iulia Pavlôvna! Xẻng này cho chú này, chú Bôris Antônôvich! Xẻng này cho bà này, Quí bà tuyệt mỹ!

- Nhiều quá rồi đấy! - tôi hét lên.

Với khuôn mặt lọ lem, mồ hôi chảy ròng ròng trên trán, Krôtôv quay trở lại bàn, ngồi xuống và rút từ trong túi áo ra một bao thuốc lá nhàu nát, hiệu "Phương Bắc".

- Cháu làm việc rất giỏi, Xecgây ạ. Đừng làm quá sức.

Cậu ta cắn bẹp điếu thuốc đã ngậm trên môi.

- Rốn của cháu rắn chắc lắm.

- Xin lỗi trước vì tò mò, thế cháu nhận được bao nhiêu tiền cho cái công việc quá nặng nhọc này?

- Đủ để nhậu.

- Thế có đủ để nuôi Cachia không? Cháu có nghĩ đến việc này chứ?

Và tôi đã dự đoán đúng điều sẽ xảy ra. Đôi mắt cậu ta nheo lại, dưới làn da mỏng trên gò má hằn lên các khối u căng cứng. Cậu ta bắt đầu nói hổn hển.

- Chú... đến đây... để làm gì? Chú... cần... gì nào?

Tôi lo ngại.

- Bình tĩnh nào, Xeriôgia. Chú đến chơi thôi.

Cả người cậu ta run bắn lên, hai tay nắm chặt thành bàn.

- Đến... chơi thôi à? Thế ai... yêu cầu... chú nào? Nghĩa vụ tổng biên tập xui khiến hả?

- Cháu làm sao thế, Xeriôgia?

- Cháu không cần những lời an ủi của chú! Không có nó cháu vẫn sống được! Sao chú cứ bám theo chân cháu mãi vậy? Cháu ngấy lắm rồi!

Lập tức tôi cảm thấy nặng nề sau gáy.

- Thật đáng ghét! - Krôtôv thất vọng kêu lên.

Lạy chúa, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Tôi không bỏ đi. Nhưng chỉ đến khi cậu ta ném vào mặt tôi những lời nhảm nhí và man rợ: "Cháu biết lý do tại sao chú cứ quấy rầy cháu rồi! Chú đang ve vãn Cachia!" - tôi đứng lên, không còn nhìn rõ những gì chung quanh, cứ như cả trạm cấp hơi bỗng dưng ngập đầy khói, và - lần bám theo tay vịn - tôi leo lên cầu thang hẹp, ra ngoài trời.

Ống khói của trạm cấp hơi nhả khói lên bầu trời. Đường phố vắng teo vắng ngắt. Tôi về nhà, không thay quần áo, ngồi ngay xuống sàn trước lò sưởi và, như một người mù, bắt đầu ném củi vào lò. Vợ tôi vung tay ngạc nhiên.

- Anh làm gì thế? Đang nóng cơ mà?

- Cứ cho nó biết! Cho nó biết! Ta không cần dùng đến hơi nóng của nó.

- Bôria, có chuyện gì vậy? Anh làm vỡ lò sưởi bây giờ.

- Verka đâu! - tôi hét lên. Con gái tôi chạy đến. - Mày hãy chọn cho mày một thằng chồng chưa cưới, - tôi nói với nó, - có hệ thần kinh thực vật rắn như thép. Để cho nó đần độn như một gốc cây, để cho nó khỏi đọc sách, khỏi viết lách, chỉ biết chơi phong cầm thôi. Hiểu chưa?

Con bé chớp mắt nhìn.

- Thôi xéo đi! - tôi ra lệnh.

- Con đi đi, vợ tôi lạnh lùng chữa lại.

- Mọi người đi ngủ đi! - tôi nói. - Tôi sẽ đốt lò sưởi cho đến khi mọi thứ đều cháy rụi, sau đó tôi sẽ chui vào đó luôn.

- Vêra, con mang ra đây cho bố một cốc nước việt quất.

- Mang dầu hoả ra đây. Tôi sẽ đốt cái nhà này.

Hai mẹ con cười phá lên. Tôi ngồi trước lò sưởi, hai chân bắt chéo như Đức Phật, rồi đứng lên và bỏ đi. Đi đâu? Tất nhiên là đến trạm cấp hơi nước.

Krôtôv lại xúc than hắt vào lò. Tôi lần xuống cầu thang hẹp và đến đứng trước mặt cậu ta.

- Nghe đây, Krôtôv, hoặc là chú với cháu sẽ cãi nhau kịch liệt và một trong hai người sẽ quẳng người kia vào lò, hoặc là ngay lập tức cháu hãy nói cho chú biết cái quyển tiểu thuyết khỉ gió của cháu đang nằm ở đâu, chú sẽ đến lấy nó về để đọc.

- Không!

- Vậy thì chú báo trước, chú sẽ đánh cắp nó.

- Chú không làm điều đó được. Nó không còn nữa.

- Thế nó ở đâu?

- Cháu đốt rồi.

- Đốt lúc nào?

- Hôm nay.

- Thế còn bản thảo?

- Bản thảo cũng không còn.

- Cũng đốt rồi à?

- Đốt rồi.

- Cho vào đây? - tôi chỉ tay vào lò than.

- Vào đây!

- Chú cũng biết cháu là một chàng trai hoang dã, Krôtôv ạ. Trái tim đã mách bảo chú rằng cháu có tài xoay xở... Bây giờ thì chú sẽ ngủ yên. Và cháu có thể điều khiển cái xẻng này cho đến cuối cuộc đời. Việc này dễ dàng hơn và đơn giản hơn. Dễ dàng hơn và đơn giản hơn.

Tôi bỏ đi.

- Chú đừng nói với Cachia! Krôtôv nói với theo.

***

THƯ GỬI ÔNG BÀ KRÔTÔV

"Chị Anna Petrôvna và anh Leônhit Ivanôvich kính mến!

Tôi đã hứa sẽ viết thư cho anh chị về Xecgây và Cachia, không giấu diếm điều gì. Tôi nghĩ rằng tốt nhất là nêu ra các sự việc và để anh chị suy nghĩ. Các lời bình của tôi là thừa.

Ngày tám tháng mười hai Xecgây đã nhận quyết định thôi việc ở ban biên tập chúng tôi. Việc này xảy ra mấy ngày trước khi tôi đi công tác về. Nguyên nhân - không hoà hợp được với một số người trong tập thể.

Tôi đã đề nghị cháu trở lại làm việc ở ban biên tập. Xecgây khăng khăng từ chối.

Sau đó một thời gian xuất hiện một cơ hội để cháu có thể được nhận vào làm việc ở một tờ báo địa phương. Cháu đã không muốn sử dụng cơ hội này.

Cách đây mười hôm Xecgây bắt đầu đến làm thợ đốt lò ở trạm cấp hơi nước địa phương. Làm việc theo ca - lúc làm ngày, lúc làm đêm.

Trong suốt thời gian qua - cho đến tận chiều hôm qua - Cachia nằm ở bệnh viện. Cháu bị động thai, và như lời các bác sĩ nói, nằm viện để bảo vệ thai. Bây giờ thì đã tốt hơn, cháu đã được ra viện và đã bắt đầu đi làm.

Vẫn như trước đây, hai cháu sống ở văn phòng ban biên tập. Có khả năng là trong vòng ba bốn tháng nữa Uỷ ban khu sẽ cấp cho ban biên tập một căn hộ. Khi đó Cachia, với tư cách là một cán bộ trong biên chế của chúng tôi, chắc chắn sẽ được phân phối.

Xecgây và Cachia ít có người quen. Xecgây không tìm người quen. (Cháu cũng không giấu điều đó, mà nói ró ý kiến mình). Như tôi được biết, cho đến cách đây không lâu Xecgây vẫn còn mãi mê viết truyện dài và tiểu thuyết. Theo lời cháu, cháu đã đốt hết các bản thảo. Hiện giờ hình như cháu không viết lách gì nữa.

Tất cả mọi sự việc là như vậy.

Không bao lâu nữa là đến năm mới. Tôi định mời Xecgây và Cachia đến nhà tôi ăn tết, nhưng chưa dám chắc là Xecgây sẽ đồng ý. Xin chúc mừng anh chị nhân ngày lễ sáng sủa và trong sạch này. Chúc anh chị đón tết vui vẻ.

Tôi rất hài lòng nhớ lại ngày tôi đến thăm anh chị. Chị đã câu được bao nhiêu cá rô rồi, chị Anna Petrovna?

Chúc anh chị mọi sự tốt lành.

Vêrônhin"

- 18 -

Cachia cũng đã biết mà không cần đến sự giúp đỡ của tôi.

Lần đầu tiên sau khi nằm viện về tôi đã nhìn thấy cô ta, đi cùng với Tônhia Xalatkina. Đó là một ngày ảm đạm, ấm áp và yên tĩnh. Hai người đang đi thong thả về phía trụ sở ban biên tập. Tônhia Xalatkina xách một chiếc giỏ nội trợ. Cachia đi tay không. Cô y tá trẻ với khuôn mặt tươi tắn có lưỡng quyền cao, thân hình cân đối trong chiếc áo măng tô lông thú và đôi ủng lông hợp mốt đang thận trọng khoác tay cô bạn gái. Đi bên cạnh cô ta Cachia trông rất phờ phạc. Cô bé sồ sề ra và xấu đi. Hai bên má xuất hiện những vết sạm, trên trán có những nếp nhăn lờ mờ, chỉ có đôi mắt là vẫn vậy, trong sáng như hai hạt hổ phách được mài bóng.

Tôi nói chuyện với Cachia. Tôhia Xalatkina sốt ruột đứng chờ, hướng cặp mắt đen nhánh về phía chúng tôi. Với một chút ương ngạnh, để chọc tức cô gái tôi kéo Cachia sang một bên và bắt đầu hỏi bố mẹ viết thư bảo gì. Hoá ra, Vêra Alêchxăngdrovna đã hai lần gọi điện đến bệnh viện gặp bác sĩ trưởng Xavôstin và kỳ kèo đòi đưa Cachia về bệnh viện ở Mascơva, ở đấy đảm bảo có chỗ cho cô nằm điều trị. Xavôstin, một con người thông minh và chín chắn, thấy không cần thiết phải như vậy, nhưng để phòng xa ông vẫn nói chuyện này với Cachia, và cô ta đã từ chối.

- Có lẽ lúc đó cháu đừng từ chối thì hơn. Trông cháu không được khoẻ lắm, - tôi nói.

- Vâng, cháu biết... Cháu hoàn toàn trở thành một cô bé xấu xí... - cô buồn rầu nói và thở dài như một bà cụ. - Ô hay, chú Bôris Antônôvich! Chẳng lẽ lúc nào cũng lo cho cháu hay sao? Cháu sẽ chịu đựng được. Còn Xeriôgia thì... Cháu lo cho anh ấy quá. Anh ấy trở nên cáu kỉnh, bẳn tính. Trước đây anh ấy chỉ hơi nóng tính thôi. Còn bây giờ lúc nào cũng thấp thỏm. Anh ấy không phàn nàn, nhưng cháu cảm biết hết. Công việc này...

- Cậu ấy tự chọn cho mình.

- Vâng, chính tại cái điều là anh ấy tự chọn. Chú có biết tại sao không? Vì cháu đấy. Để kiếm tiền. Và còn một việc nữa, chú biết không... - Cô liếc nhìn Tônhia Xalatkina đang dùng mũi ủng hất đống tuyết, - chú biết không... - và đôi mắt cô mở tròn, thao láo và sợ sệt, - anh ấy đã đốt mất tập bản thảo rồi.

- Chú cũng đã nghe nói về việc đó rồi. Một Gôgôn mới xuất hiện. Cậu ấy đã gửi tập bản thảo đi đâu đó chăng?

- Vâng, chính vì thế mới sinh chuyện... - Cachia lại liếc nhìn về phía cô bạn gái đang đá đống tuyết. - Anh ấy đã gửi tập bản thảo cho một tạp chí, và người ta gửi trả lại. Và còn gửi kèm những lời nhận xét không tốt. Thế là anh ấy cầm lấy và đốt luôn. - Cô nhíu mày đau xót. - Anh ấy bảo từ nay sẽ không viết một dòng nào nữa.

- Và rồi không viết?

- Không.

- Thế những lúc rỗi cậu ấy làm gì?

- Anh ấy trở nên kỳ cục thế nào ấy. Lúc thì ngủ, lúc thì nằm, hút thuốc và im lặng. Thậm chí cũng không buồn đọc. Cháu cố động viên anh ấy.

- Đúng ra thì cậu ấy phải động viên cháu.

Cachia phẩy tay, làm như tôi đã nói ra một điều ngốc nghếch...

- Không, chú này! Cháu chịu đựng dễ hơn. Đàn ông là những người yếu đuối. Họ cần được nâng đỡ.

- Kachetka, cậu bị cóng bây giờ đấy! - Tônhia không còn đủ kiên nhẫn.

- Việc tiền nong của các cháu thế nào rồi, Cachía? Nói thật đi.

- Mọi việc ổn cả. Cháu đã nhận được tiển bảo hiểm.

- Còn Xecgây? Lương cậu ấy được bao nhiêu?

- Nhiều lắm, - cô ta nói. - Rất nhiều. Ba trăm rúp. Không mong gì hơn!

- Cháu biết không... Cố gắng thuyết phục Xecgây để cậu ta đừng có bướng nữa và hợp tác làm việc với chỗ chú, dù là ngoài biên chế. Điều đó có thể sẽ khích lệ cậu ta.

- Vâng, cháu sẽ cố gắng, - cô ta hứa không mấy tin tưởng.

- À này, Cachia, còn một việc nữa. Ngày ba mươi mốt ở nhà chú có một cuộc gặp mặt nho nhỏ. Chúng ta sẽ uống sâmpanh, khiêu vũ và tán chuyện. Cháu cùng với Xecgây sẽ đến chứ?

Da mặt cô ửng đỏ lên như vừa mới xoa tuyết.

- Có tiện không chú? Chỗ chú toàn người lớn với nhau.

- Đã sao nào? Cháu với Xecgây đâu còn là trẻ con. Sắp làm bố làm mẹ rồi còn gì.

- Ôi, lâu lắm rồi cháu không khiêu vũ.

- Thế càng tuyệt. Hãy bù lại những gì đã mất.

- Nhưng cháu sẽ mặc váy nào đây? Cháu không có váy mới.

- Hãy ra lệnh cho Xecgây, bảo cậu ta đi mua. Cậu ta có phải là chồng cháu hay không nào?

- Chồng chén đẫy quả lê... - cô lẩm bẩm, cánh mũi nheo lại.

Không còn kiên nhẫn nữa, Tônhia bước về phia chúng tôi.

- 19 -

Ngày cuối năm đến với mảnh đất chúng tôi một cách tĩnh lặng và thanh bình, với tuyết rơi và một bầu trời thấp ảm đạm. Chiều tối đường phố vắng teo. Ánh lửa bập bùng trong mọi ô cửa sổ, tất cả các ống khói đều nhả khói. Trong các ngôi nhà, chủ nhân tất bật quanh các lò sưởi nóng ấm, còn ở nơi xa xôi sâu thẳm giữa rừng già, trên các dòng sông Vivi, Taimua, Kôtue và những nhánh sông không tên tuổi, nơi có những nhà trú đông của thợ săn, những người đàn ông thái thịt trong các gian nhà kho để dùng cho bữa tối, rót rượu cồn dự trữ vào các cốc vại - và có lẽ chỉ có các vì sao và cây rừng không tham dự gì vào ngày lễ tết. Dù năm cũ đã trôi qua như thế nào đi nữa thì trong những ngày này tâm hồn bạn cũng hoà vào với ý nghĩ của hàng ngàn hàng triệu người, trái tim bạn cũng đập cùng nhịp với hàng ngàn hàng triệu trái tim khác, và bạn hiểu ra rằng sự tồn tại của mình trên thế gian này không phải là vô nghĩa. Thậm chí cả khi bạn không được hạnh phúc.

Khách bắt đầu đến vào lúc chín giờ. Đầu tiên là hai vợ chồng Xavôstin, anh là bác sĩ chủ nhiệm của bệnh viện khu, một người đàn ông rắn chắc với khuôn mặt đầy đặn, còn chị, một phụ nữ xinh xắn, rất yêu đời, ăn mặc đẹp, là bạn cùng trường của vợ tôi. Tiếp đến là anh chàng chưa vợ Morôzov, đội trưởng đội thăm dò địa chất, mặc áo len xám, sơ mi trắng, cằm cạo nhẵn, vẻ u buồn. Trong khi các bà vợ đang cùng nhau bày thức ăn ra bàn, chúng tôi ngồi hút thuốc, bình phẩm về những ưu việt nhà nòi của con chó con mà một người chăn hươu quen đã tặng cho Xavôstin, khen thời tiết đẹp và tìm hiểu sở thích của nhau về đồ uống...

Tất cả chúng tôi đều đã quen biết nhau nhiều năm nay, đã đến làm việc ở đây từ nhiều địa phương khác nhau, và mặc dù đã kịp quên đi hình bóng của quê hương, như chỉ còn nhìn thấy chúng lờ mờ qua màn tuyết trắng, nhưng khi rượu vào vẫn doạ nhau sẽ từ bỏ nơi này - vậy mà rồi chẳng ai bỏ đi đâu cả.

Nhưng vợ chồng Krôtôv vẫn chưa đến. Tôi bắt đầu liếc nhìn đồng hồ.

- Chúng ta còn đợi ai nữa? - Xavôstin hỏi, nhìn bàn ăn bằng đúng con mắt của nhà phẫu thuật.

- Bọn trẻ sẽ đến.

- Bọn trẻ nào?

Tôi giải thích là bọn trẻ nào.

- Cô gái đã nằm bệnh viện ở chỗ tôi ấy à? - Xavôstin nhớ ra.

- Đúng đấy, đúng đấy.

- Có phải chính cái cậu... đã phỏng vấn tôi không? - Morôzôv hỏi.

- Anh đã đoán đúng.

Có lẽ cả hai đều không hài lòng, dường như sự hiện diện của hai vợ chồng Krôtôv sẽ làm hỏng những kế hoạch của họ trong buổi liên hoan.

- Không sao đâu, các anh đừng ngại, - tôi nói. - Bọn trẻ không đến nỗi chán đâu. Không khác các anh đâu.

Cuối cùng, khi mọi việc đã sẵn sàng và mọi người quyết định ngồi vào bàn thì có tiếng gõ cửa. Tôi bước ra mở cửa.

Cachia đến một mình, thở hổn hển, và vội vàng nói ngay từ ngoài bậc cửa:

- Cháu đến để xin lỗi, chú Bôris Antônôvich... Xin chú hiểu cho, người ta gọi Xeriôgia đến chỗ làm việc ngay, ở chỗ họ có ai đó không đi làm... do đó cháu đến để nói... Ôi, chú mặc đẹp quá! Cả áo sơ mi thêu nữa!

- À vâng, - tôi xác nhận. - Áo thêu! Cháu cởi áo khoác đi.

- Cháu không thể nếu không có Xeriôgia. Cháu chỉ đến để nói...

- Thật tiếc là Xecgây bận việc. Nhưng đó không phải là lý do để cháu đến ngồi với nó ở trạm cấp hơi nước. Hôm nay chú xưng hô thân mật như vậy được chứ?

- Vâng không sao. Nhưng cháu không thể, cháu nói thật đấy.

- Và chú cũng không muốn nghe cháu nói đâu.

Tôi giúp cô ta cởi áo khoác. Cachia mặc một chiếc váy màu xanh lá cây rất giản dị - hình như cô ta tự may lấy - với ống tay ngắn và cổ áo trắng. Kiểu may rộng cũng không giấu được cái bụng tròn, nhưng khuôn mặt hồng hào sau chặng đường đi ngoài phố trông giống như cô học trò vừa chạy vội tới bữa liên hoan bế giảng. Tôi quay mặt chờ cho Cachia trang điểm trước gương. Cô ta chải cho mái tóc hắt ra phía sau lưng.

Khi tôi dắt tay đưa cô vào phòng thì mọi người đã ngồi vào bàn, cô rất e thẹn, thậm chí người cứ run lên.

- Đây là Cachia Krôtôva, - tôi trịnh trọng tuyên bố. - Chồng cô ta sẽ đến muộn một chút. - Rồi tôi giới thiệu cho Cachia biết những người ngồi quanh bàn.

- Nhưng chúng tôi quen nhau rồi, - Xavôstin nhắc lại. - Cachia, cô bé không nghe lời bố mẹ, đúng không nào?

Chị Xavôstina đỏm dáng thích thú nhìn cô gái đang lúng túng. Khuôn mặt u buồn của Morôzôv bỗng tươi tỉnh lên. Vợ tôi kéo Cachia ngồi xuống cạnh mình.

Chẳng mấy chốc bàn tiệc trở nên ồn ào. Sau mấy lần chạm ly câu chuyện đã trở nên rôm rả. Cachia đã hết lúng túng trong môi trường mới lạ và không còn e thẹn, cô quan sát mọi người với vẻ tò mò dễ thương. Hình như Xavôstina đã đem lại cho cô ta một sự ngạc nhiên đặc biệt. Quả thực chị ấy tạo ra ấn tượng mạnh trong chiếc váy dạ hội màu đen, với hàm răng trắng bóng và mái tóc sáng màu. Trên cổ chị óng ánh chuỗi hạt hổ phách. Chị ấy tán chuyện liên tục.

- ... Và, các bạn có hình dung nổi không, họ tưởng mình là một phụ nữ người Đức! Mà với tiếng Đức thì mình một chữ bẻ đôi cũng không biết.

Chị ấy đang kể lại về chuyến đi của mình đến vùng Cát Vàng.

- Mà họ thì chẳng biết lấy một từ tiếng Nga. Lúc nào cũng chỉ "pagialusta". Còn mình thì chỉ "đanke sôn". Ấy vậy mà, các bạn có tưởng tượng được không, chỉ trò chuyện với nhau theo cách đó mà mình ngồi với họ bốn tiếng đồng hồ liền trong nhà hàng. Với những đồng Lêva bất hạnh trong túi! Và, các bạn biết không, đấy là lần đầu tiên mình cảm thấy rất thoải mái giữa đám đàn ông, vì mình không hiểu được họ nói với nhau về chuyện gì! Này, Richat, - chị quay sang nói với anh chồng đang thản nhiên nhai miếng thịt rán, - anh hãy học tiếng Đức đi, để tạo cho em sự thoải mái.

- Anh biết tiếng Đức, - Xavôstin nói.

- À vâng, em quên mất! Đúng là Richat biết tiếng Đức. Và hôm đó mình rất thích! Bốn người Đức đứng đắn và mình. Và mình lần lượt nhảy với tất cả bọn họ. Không, các bạn nói gì thì nói, - chị ấy kết luận đầy mơ mộng, hàm răng lấp lánh, - những tối vui như vậy thật là hiếm hoi...

Cachia nghiêng đầu về phía tôi và hỏi thầm:

- Này chú Bôris Antônôvich, thế lúc đó chồng cô ấy ở đâu?

Tôi cũng nói thầm:

- Đang chữa bệnh cho cháu.

Cachia trầm ngâm, đưa mắt về phía Xavôstina một lần nữa, và dường như từ lúc đó cô không nhìn chị ấy nữa. Bây giờ cô lại chú ý đến Morôzov đang ngồi đối diện trước mặt cô. Anh ta đang chăm chú rót rượu vào ly; vầng trán cao bóng nhẫy, cặp mắt vui tươi. Morôzov bắt gặp cái nhìn của Cachia.

- Mà này, sao cô không uống? - anh ấy hỏi, giọng to vang.

Xavôstina ngừng câu chuyện, mọi cái nhìn đều hướng về phía Cachia.

- Cháu không thích, - cô đáp lại.

- Cô không thích thật chứ? - Môrôzov không tin.

- Cháu sẽ uống hết, nhưng chốc nữa cơ. - Cachia trả lời.

- Tại sao không phải là ngay lúc này? - Nhà địa chất thiếu tinh ý cứ vặn vẹo.

- Cháu sẽ uống khi nào chồng cháu đến. - Cachia nói lúc trong phòng không một tiếng động.

Xavôstina vỗ tay.

- Thế nào, anh Lev Lvôvich, hành tội cô ấy đủ rồi chứ?

Morôzov luống cuống. Cachia ngồi với vẻ sẵn sàng đối phó.

- Các bà đi du lịch mà nắm được nguyên tắc này thì tốt quá. - Xavôstin thản nhiên nhận xét.

Vợ anh ta cười khoái trá.

- Nói bóng nói gió em chứ gì... Thấy chưa, Cachia, tại cô đấy! Bây giờ thì anh ấy sẽ hành tội tôi vì mấy anh chàng Đức này. Thế bây giờ chồng cô ở đâu? Tôi muốn nhìn mặt cái anh chàng mà cô phải chờ đợi đến nhạt cả rượu. Thú thật đi, cậu ấy đang ở đâu?

- Giờ này anh ấy đang bận đi làm, - Cachia đáp ứng trí tò mò của chị ta.

- Làm việc vào giờ này à? Việc gì thế? Không bí mật chứ?

- Bí mật, bí mật, - tôi chen ngang vào câu chuyện. - Uỷ ban an ninh quốc gia. Chúng ta nâng cốc uống mừng cơ quan này chứ?

Nhưng Cachia không để ý đến sự can thiệp của tôi

- Anh ấy làm thợ đốt lò ở trạm cấp hơi nước. Ở đó có một người nào đó không đi làm và người ta đề nghị chồng cháu đi thay. Đấy là lý do tại sao anh ấy chưa đến đây được. - cô ta giải thích rõ ràng.

Một thoáng yên lặng khó xử.

- Thế đấy! - tôi kết luận. - Bây giờ không còn bí mật nữa.

Trên đôi mắt đẹp của Xavôstina ánh lên tia lửa khoái chí.

- Thật là hay! - chị ta thốt lên.

Xavôstin ngẩng đầu, đưa cặp mắt hiền từ bình thản nhìn vợ.

- Em thấy hay ở chỗ nào, Zôia?

- Em muốn nói rằng, - Xavôstina trả lời ngay, - thật là hay vì vẫn có người làm việc vào những giờ phút như thế này.

- Ừ hay tuyệt, - Xavôstin xác nhận.

- Ồ, Richat, xin anh đừng phá rối! Để em hỏi chuyện cô bé. Cô lấy chồng lâu chưa, Cachiusa?

- Lâu rồi. Sắp được nửa năm rồi, - Cachia trả lời rất đỗi thật thà. Thậm chí Xavôstin cũng mím môi cười.

- Sắp được nửa năm! - chị ta thốt lên. - Đã bao giờ tôi được nói như vậy chưa nhỉ: sắp được nửa năm rồi? Lạy chúa, sắp mười bảy tuổi rồi! Cachiusa, cô là một người hạnh phúc. Bây giờ thì tôi đã hiểu ra vì sao ly rượu của cô vẫn còn đầy.

Cachia nhìn tôi, như đang chờ đợi một lời khuyên. Tôi nhún vai, cháu cứ tự đối đáp với chị ta.

- Tại sao nào?

- Vì sắp mới có được nửa năm! Tôi muốn gặp lại cô sau mười - mười lăm năm nữa cũng bên chiếc bàn này. Ôi, lúc đó cô sẽ không còn chậm rãi khi nghe thấy bước chân ngoài cầu thang!

- Cháu chưa hiểu... - Cachia nói, băn khoăn nhìn người đàn bà đẹp.

Xavôstina cười vang bằng cái cười dễ lây. Anh chàng chưa vợ Morôzov tay chống cằm đang nhìn cô khách trẻ với vẻ chăm chú và nghiêm nghị. Xavôstin dùng mấy ngón tay chuối mắn của mình béo tai vợ.

- Tôi phạt cô ấy, - anh ta giải thích với Cachia.

Bữa tiệc thật thoải mái. Chúng tôi uống thêm mỗi người một ly, lần này Morôzov muốn chạm ly với Cachia, Xavôstin cũng vậy, và tôi chạm ly với vợ, còn Xavôstina thì đứng dậy đi vòng quanh bàn đến hôn đánh chụt vào trán Cachia.

Thật bất ngờ và không đoán trước được là Cachia trở thành trung tâm chú ý của mọi người. Xavôstina bắt đầu hỏi cô về Mascơva. Xavôstin quan tâm đến sức khoẻ của cô gái. Môrôzov lặng lẽ ngắm nhìn Cachia, trên nét mặt anh ta thoáng hiện những hồi ức mơ hồ nào đó... Tôi và vợ tôi rất vui mừng.

Sau đó các bà phụ nữ bắt đầu dọn bàn để bày thức ăn nóng; cánh đàn ông ngồi hút thuốc. Lúc đó đã mười một giờ theo giờ địa phương.

- Một cô bé dễ thương, - Xavôstin nhận xét.

Morôzov trầm ngâm nhả khói.

Tôi bước đến chỗ máy điện thoại và đề nghị cho nói chuyện với trạm cấp hơi nước. Tôi hơi bị váng đầu, và cảm thấy ánh sáng trong phòng chói chang khác thường, cứ như không phải là cái bóng điện con treo dưới trần nhà mà là mặt trời giữa trưa. Mãi không nghe tiếng trả lời. Sau đó thấy tiếng động trong ống nghe và một giọng nói to vang lên

- Alô! Cần gặp ai?

- Làm ơn gọi hộ Krôtôv, - tôi nói.

- Cháu nghe đây, chú Bôris Antônôvich!

- Cháu đấy à, Xecgây? Chú không nhận ra.

- Xin chúc mừng năm mới, chú Bôris Antônôvcih!

- Cám ơn. Chú cũng chúc mừng cháu. Cháu sẽ đến đây chứ?

- Cháu đến ngay đây, chú Bôris Antônôvich!

- Nghe đây, anh bạn trẻ, sao cháu gào to thế? Uống rượu ở đấy rồi hả?

- Uống rồi, chú Bôris Antônôvich! Nhân dịp năm mới! Krôtôv đáp uể oải.

- Coi chừng đấy, không được uống thêm ly nào nữa đâu. Đến đây đi. Mọi người đang đợi.

Tôi đặt ống nghe xuống và nheo mắt nhìn cho đỡ chói. Tôi bước đến chỗ máy quay băng, ấn phím. Một giai điệu vang lên.

- Ta nghe ca nhạc, - tôi lắc đầu và nói. - Thằng bé vui quá.

Bát đĩa trên bàn chưa kịp thay thì đã nghe tiếng gõ cửa. Tôi đứng dậy.

- Cậu ta đấy! Xin chúc mừng, con người không khoan nhượng! - Và, hơi lảo đảo và bị chói mắt, tôi ra mở cửa.

Cachia đã nhanh chân hơn tôi. Krôtôv đứng trên bậc cửa, chiếc áo lông ngắn mở phanh, mũ trễ sau gáy, mặt đỏ gay không hiểu vì chạy hay vì cái nóng của lò hơi...

- Xeriôgia!

- Cachia!

Họ ôm hôn nhau, như thể sau một dặm dài xa cách.

- Xin chúc mừng năm mới, chú Bôris Antônôvich!

- Cởi áo ngoài ra, anh chàng bụi đời. Rất vui mừng gặp cháu.

Cậu ta cởi bỏ áo lông, chỉ còn mặc áo săng đay, quần bò và đi ủng dạ. Cachia lấy tay vuốt mớ tóc sáng màu của chồng rồi than thở:

- Anh mệt lắm rồi, tội nghiệp...

- Không hề gì! Còn chú hôm nay như một người sành điệu, chú Bôris Antônôvich ạ.

- Vâng, chú là người sành điệu. Còn cháu là kẻ rách rưới.

- Nhưng dù sao anh ấy vẫn đẹp. - Cachia bênh vực chồng.

Krôtôv cười, để lộ hàm răng nhỏ không đều. Một chiếc lò xo mạnh nào đó đang dồn nén lại trong người cậu ta.

- Xeriôgia, chào cháu! Vào đây, vào đây! - vợ tôi vừa reo lên vừa chạy dọc theo hành lang, tay bê mấy cái đĩa.

Xavôstina ló cái đầu tóc trắng như bông từ trong bếp nhìn ra.

- Ở đây ai là Xeriôgia nào? Tôi muốn nhìn Xeriôgia một cái!

Cô ta đi ra phòng ngoài, vừa đi vừa cởi bỏ chiếc tạp dề bằng vải nhựa, rồi dừng lại, nghiêng đầu sang một bên vai.

- Anh là thế đấy! Bây giờ thì tôi sẽ biết cái con người này nó như thế nào mà vì anh ta cô vợ đã không đặt môi uống một giọt rượu nào. Nào, xin chào. Tôi là Zôia.

- Tôi là Xecgây Leônhiđôvich.

Hai bàn tay đẹp và đầy đặn của Xavôstina vỗ đôm đốp.

- Trời ơi, thật là long trọng! - Rồi chị ta đi vào nhà ăn, vừa đi vừa nói oang oang: - Tôi đưa vào cho các bạn cái anh Xecgây Leônhiđôvich mà chúng ta chờ đợi mãi đây này. Không ai được gọi tên anh ta khác đi! Chỉ mình tôi được quyền gọi anh ta là Xeriôgia, vì chỉ mình tôi có đeo xeriôgiơki 1)[1].

Tôi nghe thấy Krôtôv đứng sau lưng tôi nói khá to:

- Catca, đừng véo anh...

- Nhưng anh không được nhìn cô ấy, - Cachia thì thầm.

Mọi người lại ngồi vào bàn. Krôtôv ngồi vào đúng giữa Cachia và Xavôstina. Tôi đề nghị lấy lại đồng hồ. Bắt đầu tranh cãi về việc đồng hồ của ai chạy chính xác hơn. Krôtôv cứ ngồi nghe mọi người, rồi lắc đầu nói:

- Tôi đề nghị lấy đồng hồ nữ làm chuẩn.

Xavôstina vỗ tay hoan hô.

- Thế mới đúng là người lịch thiệp chứ! Những người dốt nát đâu, hãy học tập anh ấy đi. Cám ơn anh, Xecgây Leônhiđôvich.

- Gượm đã nào, Xavôstin ngắt lời. - Tại sao lại là đồng hồ nữ? Trong trường hợp này không có lý do nào để ưu tiên cho phụ nữ. Trước thời gian mọi người đều bình đẳng, cũng như trước con dao phẫu thuật vậy. Hãy chứng minh cho tôi ý kiến ngược lại đi.

- Cái đó thật đơn giản, - Krôtôv bốc lên, đáp lại ngay. - Chú bao nhiêu tuổi?

- Tôi ấy à? Ờ... ờ... cứ cho là, bốn mươi hai.

- Còn cô? - Krôtôv quay sang hỏi Xavôstina. Chị ấy dơ ngón tay doạ cậu ta. - Đấy, thấy chưa! - cậu ta hào hứng, - Tôi đã chứng minh được là trước thời gian không phải mọi người đều bình đẳng.

- Hoan hô! Mình chịu thua chưa? - Xavôstina reo lên và hỏi chồng.

- Nguỵ biện, - Chồng cô ấy bác lại với giọng ôn tồn. - Tôi không tranh cãi về việc con người quan hệ với thời gian theo những cách khác nhau. Nhưng thời gian làm cho mọi người già đi như nhau. Chúng ta đón năm mới vào cùng một thời khắc, không phụ thuộc vào việc chiếc đồng hồ của mỗi người chạy như thế nào. Đồng hồ là cái ước lệ. Thời gian là cái tất yếu.

- Nhưng chú đã đọc các tài liệu về chiều ngược của thời gian chưa? - Krôtôv hỏi Xavôstin, - Có một học thuyết nói rằng trong một không gian nào đấy thời gian đi giật lùi. Nếu bỗng nhiên có một người nào đó trong chúng ta rơi vào đó thì sao nhỉ?

- Người đó là tôi, là tôi! - Xavôstina tiếp lời cậu ta ngay. - Tất cả các anh đều già đi, còn tôi thì trẻ ra. Đến lúc tàn bữa tiệc này tôi sẽ trẻ lại như Cachia. Lạy chúa, Richat này, lúc đó mình sẽ tha hồ mà ganh tỵ!

- Nhưng cô chớ quên rằng. - Krôtôv cảnh báo, - với cái đà trẻ ra nhanh như thế chẳng mấy chốc người ta phải dùng thìa bón cho cô ăn.

Câu đùa được mọi người ồn ào tán thưởng. Xavôstina lắc lắc cái đầu với mái tóc sáng.

- Xecgây Leônhiđôvich, anh là kẻ phản bội. Phải cảnh giác với anh mới được. Dù sao cũng cám ơn anh vì điều anh nghĩ ra. Và chiếc đồng hồ của tôi chạy chính xác nhất.

Lúc này mọi người nhớ ra rằng chỉ còn ít phút nữa là đến giao thừa. Chúng tôi mở đài. Vội vàng lấy cốc to để mở sâmpanh. Xavôstin và tôi, mỗi người cầm một chai, bóc lớp giấy bạc bọc nút chai, tháo vòng dây thép và chuẩn bị cho nổ.

- Một! Hai! Ba - Xavôstina đếm. - Nổ đi! - Chị ta hét to.

Các nút chai bay lên trần nhà.

[1] 1) xeriôgiơki - tiếng Nga là cái hoa tai, trò chơi chữ.

- 20 -

Vào lúc hai giờ sáng bàn ăn đã dẹp sang một bên, tiếng nhạc dập dìu, các điệu nhảy đã vào lúc náo nhiệt nhất. Con gái tôi về đến nhà sau khi đi chơi với các bạn, diện như một cây thông Noel và nhanh nhẹn như con chim vành khuyên nhảy trên tuyết trắng. Tôi bảo cháu ngồi xuống bên cạnh và bắt đầu thuyết giáo, rằng mỗi khoảnh khắc cuộc đời trôi qua không thể kéo lại được, rằng mục đích cuộc sống phải rõ ràng, rằng sống vô vị cũng như là chết rồi, rằng hôm nay tôi với nó là những người cùng trang lứa. Cháu chớp mắt và chẳng hiểu tí gì. Lúc đó tôi mới hỏi cháu tối nay nó đã hôn ai, và cô con gái hét lên: "Bố này, không xấu hổ à?' - và tôi nói cho cháu biết rằng thời còn trai trẻ tôi đã có tài làm xiêu lòng những cô gái như nó, rằng không có gì đơn giản bằng mê hoặc các cô gái, còn tình yêu thì, - tôi nói, - đó là một cái hoàn toàn khác, tình yêu không thể lặp lại.

Nhưng chẳng hiểu tại sao hầu như không nhận được sự tán thành nào của bố mẹ tôi!

- Bố ơi, bố buồn cười quá!

- Đúng thế đó, con gái ạ, và bố tự hào về điều đó. Thôi con đi ngủ đi.

Nó cười giòn tan và chạy về phòng mình, còn tôi thì chộp lấy tay áo Krôtôv đang phấn khích sau điệu nhảy, kéo cậu ấy ngồi xuống đi văng và bắt đầu dò hỏi:

- Cháu nói xem, sao hôm nay cháu vui thế? Không, cháu hãy trả lời chú, sao hôm nay cháu vui thế? Chú hiểu cháu. Điều đó phải có lý do.

Cậu ta phồng hai cánh mũi, trong đôi mắt xanh ánh lên vẻ tinh quái...

- Cháu được thưởng! Thành tích đốt lò kiểu mẫu!

- Đừng có dối chú. Nếu không chú không cho uống sâmpanh nữa đâu.

- Chú đổ ra ngoài cửa sổ chắc?

- Chú sẽ uống hết! Nào nói đi, cháu nghĩ điều gì?

- Bay lên mặt trăng!

Tôi dí ngón tay trước mũi cậu ta.

- Đừng có giấu chú... chú sẽ biết hết... Xeriôgia. - Tôi hích vào vai cậu ta. - Này anh bạn trẻ! Trước mặt chú có một sự lựa chọn: hoặc sẽ sống vô vị cho đến cuối đời, hoặc bay bổng lên. Cháu có hiểu không?

- Lờ mờ thôi.

- Chú đã sắp xếp cho cuộc sống của mình không đúng cách, Xeriôgia ạ. Đời sẽ trả thù chú, cháu hiểu không?

- Có chuyện gì xảy ra với chú sao?

- Không! Tất nhiên là không. Đơn giản chỉ vì chú chưa bao giờ bước lên tàu hoả mà không biết mình sẽ xuống ga nào. Cháu hiểu không?

- Chút ít thôi.

- Chú là một con người may mắn nhất, Leônhiđưs ạ. Cháu hãy nói xem chú có thể làm người thợ đốt lò được không?

- Chưa chắc.

- Tại sao, Xeriôgia, tại sao?

- Chú già rồi.

- Cháu dám nói thế ư! - tôi bực mình. - Già! Không, chú còn trẻ, như Rômêo!

Cậu ta cười khẩy.

- Như bố của Rômêo.

Tôi thấy buồn, nhưng chỉ thoáng qua.

- Theo cháu thì chú chẳng được tích sự gì, phải thế không Lêonhiđưs?

- Chú có chỗ đứng của mình, chú Bôris Antônôvich ạ. Chú là một biên tập viên ưu tú.

- Cháu phỉnh nịnh chú, đồ ba hoa. Cháu mê hoặc chú như nàng tiên cá có giọng nói ngọt như mía lùi. Còn chú thì cảm thấy khó chịu. Chú cần một sự đột biến. Cháu có nhớ không, như Puskin ấy mà? Ông ta luôn xáo động, luôn săn tìm chỗ mới... Xeriôgia này, có lẽ chú muốn bắt đầu lại từ đầu.

Đôi mắt xanh với hai con ngươi đen sâu thẳm của cậu ta lập tức trở nên nghiêm nghị.

Cậu ta suy nghĩ giây lát rồi nói không thương tiếc.

- Vớ vẩn! Sáng mai chú thức dậy mọi việc sẽ qua hết.

- Cháu nghĩ thế à? - tôi thất vọng. - Chú chẳng biết... Có thể rồi mọi việc sẽ qua. Có thể như vậy lắm... Nhưng chú cảm thấy không yên từ cái lúc ấy. Thậm chí chú có thể nói chính xác với cháu là từ lúc nào. Từ tháng tám!

- Chú nghe cháu hỏi nhé, chú Bôris Antônôvich, - cậu ta cắt lời tôi với sự vô ý nhẫn tâm của lớp trẻ đối với tâm sự của người già. - Đã từ lâu cháu muốn hỏi chú. Hỏi được chứ?

- Hôm nay thì việc gì cũng hỏi được. Đôi tai đã sẵn sàng rồi. Nào!

- Tại sao chú đối xử tốt với bọn cháu. Với cháu và Cachia? Chú nói thật đi.

- Đồ ngốc! Sao lại chỉ có với các cháu? Chú yêu quí cả loài người. Tất cả ba tỷ người, bạn thân mến ạ.

- Cháu cũng nghĩ như vậy! Chú là người mơ mộng. Chú nhìn thấy mọi thứ trong ánh sáng màu hồng. Đối với chú thì con cá hồi chết cũng là một cá thể đáng tôn trọng.

- Cá hồi à? - tôi ngạc nhiên hỏi lại.

- Chính thế! Chú không có kẻ thù.

- Không, cháu tưởng thế thôi! - tôi quát lên. - Không có kẻ thù! Nhưng chú có thể có hàng ngàn kẻ thù ấy chứ! Nhưng mà sao nào? Chú tôn trọng mọi người. Thế cháu có tôn trọng chú không nào?

- Chú đừng ngạc nhiên. Chú chưa hiểu hết con người.

- Chú... chưa hiểu hết? Cháu nói với chú như vậy à? Thế ai hiểu con người hơn ai - quả trứng hay con gà mái?

- Cháu. Quả trứng. Chứng minh chứ?

- Nào, chứng minh đi, chứng minh đi.

- Thế theo chú thì Xuvôrôv là con người như thế nào?

- Ivan Ivanôvich? Một người bình thường, không phải là người xấu.

- Thế mà ông ấy lập hồ sơ về chú, chú có biết việc đó không? Cháu tìm tờ giấy ở bàn ông ta và vớ phải. Trong đó ghi chép toàn bộ cuộc đời chú từng điểm một. Người bình thường ư?

- Cứ mặc ông ấy ghi chép! Ông ấy đã mang một lọ mật ong vào cho Cachia. Chú sẽ tăng tiền nhuận bút cho ông ấy vì sự chu đáo này.

- Ối dào! - Krôtôv phẩy tay.

- Còn gì nữa nào, nói tiếp đi.

- Chú thật là! Chú không muốn nói chuyện nghiêm túc.

- Sao lại không muốn? Còn muốn thế nào nữa. Con người đa dạng lắm, Xeriôgia ạ, hãy tin chú. Cần phải biết tha thứ những khiếm khuyết và đề cao những ưu điểm, dù là những ưu điểm cỏn con. Nếu không thì sống mà làm gì. Nếu không thì cháu hãy ra một hoang đảo mà ở.

Một bản nhạc mới nổi lên.

Môrôzov cùng với Cachia, Xavôstin cùng với vợ nhảy quanh cây thông Noel.

Krôtôv nhìn tôi chằm chặp.

- Thế có nghĩa là không có kẻ đê tiện và đứa ngốc nghếch?

- Cháu để ý đến bọn họ làm gì?

- Có hay không nào?

- Có... - tôi thừa nhận. - Có đủ cả. Bọn đểu cáng, kẻ ngốc nghếch, kẻ đố kỵ, và vân vân. Nhưng đừng tàn nhẫn, Xeriôgia ạ. Hãy chú ý quan sát chung quanh. Trên vũ đài có cái thiện và cái ác. Những hiệp đấu không có hồi kết thúc. Cái thiện có thể bị đánh choáng váng, nhưng không bị đo ván, không bao giờ.

- Thế đây! - Cậu ta chộp lấy lời tôi với vẻ hý hửng độc ác. - Cái thiện cũng cần đến nắm đấm, thế chứ gì?

- Trước hết cái thiện cần phải thông minh. Cái đó mạnh hơn nắm đấm. Nhưng cái thiện không phải là sự thương hại, không... Và cái thiện được củng cố vững chắc trong con người cùng với kinh nghiệm sống.

Krôtôv bỗng bật cười và khinh suất vung tay làm rối xù mái tóc sáng của mình.

- Cháu cười cái gì? - tôi phật ý.

- Chú đã nói đến "kinh nghiệm sống", làm cháu chợt nhớ lại một việc. Chú có biết người nhận xét về cuốn truyện của cháu đã viết cho cháu như thế nào không? "Anh là con người có năng lực, nhưng trong tác phẩm của mình anh đã xa rời văn học. Anh chưa đủ kinh nghiệm sống. Nhìn màu trắng thành màu đen"

- Đồ quỉ tha ma bắt! - tôi tức giận thay Krôtôv, tự dưng cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. - Cóc cần đến nó, Xeriôgia.

- Vâng, cháu cũng nghĩ thế. Cóc cần tập truyện! Cháu đã đốt cho nó đi theo ma quỉ - và thế là xong mọi chuyện. Mà họ nói đúng đấy. Mọi điểm đều đúng.

- Này, gượm đã! Sao lại gọi là đúng! - tôi phản đối và cảm thấy bối rối.

- Chú muốn cháu giải thích chứ? Cái này thật hai năm rõ mười. Cháu đã viết về cái gì? Về mình. Nhân vật chính là ai? Là cháu. Nhân vật chính làm gì? Viết truyện. Viết về ai? Về cháu. Chú hiểu ra chưa? Một vòng tròn khép kín. Những lá cờ đuôi nheo màu đỏ! Đứng ở trung tâm điểm là cháu và mấy quyển sách, còn đằng sau các lá cờ là cả thế giới. Không chọc thủng được.

- Khoan đã, khoan đã, anh bạn! Nhưng cháu muốn thế nào? Bằng cách này hay cách khác thì mỗi tác phẩm đều phản ánh con người của tác giả. Thiếu cái đó không thể có văn học.

- Đúng thế! Pholkner cũng thể hiện bản thân mình. Nhưng các nhân vật của ông ta không giống ông ta, mà là tổng hợp của hàng nghìn con người. Hoặc, chẳng hạn như Hêm.

- Còn Hêm nào thế?

- Hêminguây.

- À hả!

- Hãy xem truyện "Ông già và biển cả" của ông ấy. Cháu làm sao tạo được mẫu người như thế? Không viết được. Vì sao? Cháu chưa bao giờ ra đến biển, chưa biết về nghề câu cá, không hiểu gì về tâm lý của dân chài. Cháu có thể viết về việc cháu đứng trên bờ sông Mascơva và câu cá bống ra sao. Và như vậy tư duy của cháu là loại tư duy cá bống. Còn văn phong tất nhiên là vay mượn của Hêminguây. Hoặc như Lêonôv.

- Thôi đi, cháu đừng có lấy những người nổi tiếng ấy ra mà khuất phục chú. Vấn đề không phải ở chỗ đó.

- Vấn đề thuộc nguyên tắc! Cần có hiểu biết về cuộc sống, chú Bôris Antônôvich ạ. Người ta nhận xét đúng. Cháu đã viết và đã khoái chí, như chú gà rừng gọi mái. Đấy, cháu nói "gà rừng gọi mái", nhưng cả đời cháu chưa nhìn thấy con gà rừng nào, chưa biết nó gáy ra sao. Đó chỉ là câu nói rỗng không, chú hiểu chưa? Đằng sau nó chẳng có gì hết. Cháu đã gửi truyện cháu viết đi và nghĩ rằng: người ta sẽ phục lăn. Cháu bị choảng vào đầu một cú choáng váng. Bị phê phán đến nơi đến chốn, thế là nghỉ khỏe! Cháu đã đốt vì tức giận. Ném vào lò sưởi, và suýt nữa cháu cũng lao theo vào đó. Và cháu đã quyết định - xong! Chấm dứt! Rồi cháu bảo Cachia: anh không thể làm bá tước Monte Carlô được. Chúng mình quay về Mascơva thôi. Thế là đủ rồi. Và chú có biết vợ cháu như thế nào không?

- Nào, nói tiếp xem!

- Cô ấy nổi giận - khiếp lên được! Cô ấy gào lên, rằng cháu là đồ hèn nhát, là đồ phản bội. Cháu chưa bao giờ nhìn thấy cô ấy như vậy... suýt nữa thì cô ấy móc cả mắt ra. - Cậu ta nhăn nhó lấy ngón tay day day vào hốc mũi.

- Đúng... quá! Cachia khá lắm! Rồi sao nữa? - tôi nôn nóng hỏi.

- Rồi cô ấy bảo: anh hãy rời trạm cấp hơi ngay lập tức. - Cậu ta ngừng lời, đưa mắt nhìn về phía Cachia đang nhảy, rồi đột nhiên hỏi: - Chú còn nhớ việc cháu đã từng đến trại nuôi hươu không?

- Nào?

- Lúc đó cháu mê mẩn cả người. Chú có nhớ Chapôgir Timôphây Egôrôvich không?

- Tất nhiên là nhớ.

- Đấy. Ông ấy đang làm một công việc ra việc. Chú đồng ý thế không?

- Thế cháu định làm gì? Muốn viết thêm một bài phóng sự về ông ấy chăng? Và giành giải thưởng lần thứ hai chứ gì?

- Bây giờ thì Cachia đã khỏe rồi. - Cậu ta trả lời, đầu óc nghĩ sang việc khác, và cặp mắt tối sầm.

Tôi linh cảm một điều gì đó không tốt lành.

- Gượm đã... gượm đã... Cháu định nói gì? Cháu muốn nói đến việc gì?

Krôtôv lắc lắc cái đầu, như vừa mới ngủ dậy.

- Nói ngắn gọn là thế này, chú Bôris Antônôvich ạ, bọn cháu sẽ ra đi!

- Thế na... ào? Đi đâu?

- Thời gian! Thời gian, tiến lên! - giọng cậu ta át cả tiếng nhạc và cậu ta vụt đứng dậy.

- Dừng lại! Trả lời chú đã!

Nhưng Krôtôv đã rời khỏi ghế, chạy đến chỗ vợ tôi đang ngồi nghỉ trên một chiếc ghế bành, cậu ta cúi chào, nâng vợ tôi đứng lên và ngay tức khắc đôi chân dài đã quay trong điệu nhảy làm tôi hoa cả mắt.

Bên cạnh cây thông Noel Morôzov đang thận trọng và chăm chú nhảy cùng Cachia. Tôi tiến về phía anh ấy và nói to:

- Đủ rồi, đủ rồi... Cho cô bé nghỉ một chút... nào! - và tôi cầm lấy khuỷu tay Cachia. - Cháu chưa mệt à, Cachia?

- Đâu có mệt chú! Vui quá!

- Chú có một ý này, - tôi nói thầm vào tai cô ta. - Chú cháu mình trốn ra khỏi cái tổ phỉ này đi, ra ngoài trời một lát... được không?

- Cháu sẵn sàng!

- Suỵt! Đừng nói với ai! Bí mật... bí mật.

Không để mọi người nhìn thấy, hai chú cháu lẻn ra phòng đệm, tìm áo khoác rồi lặng lẽ rời căn hộ. Cạnh lối ra vào, chú cún Kuchum vẫn đang nằm ngủ ở chỗ thường ngày của nó, trong một cái hố nhỏ, và đang mơ thấy tuyết trắng. Tôi huýt sáo, nó vọt đứng lên rồi cất tiếng sủa mừng chủ.

Trời ấm áp và sáng sủa khác thường nhờ có tuyết rơi và những ô cửa sổ đầy ánh sáng giăng giăng khắp mọi nơi. Thị trấn không ngủ. Ngày lễ tốt lành và trẻ trung vĩnh cửu đang ngự trị trong từng ngôi nhà.

Tôi khoác tay Cachia, và im lặng rảo bước một lúc lâu.

- Nghe chú hỏi nhé, cô bé, - tôi dè dặt bắt đầu dò hỏi, - các cháu đã nghĩ ra điều gì thế? Các cháu chuẩn bị đi đâu?

- Ôi, cái anh Xeriôgia khoác lác! Anh ấy không giữ mồm được! - cô gái nhanh nhẹn đáp lại. - Chúng cháu định sau tết mới nói cho chú biết.

- Không được, nói ngay bây giờ đi, nếu không chú sẽ không ngủ được. Tại sao lại cần cái ông Chapôgir, hả?

Tôi đứng lại, Cachia cũng dừng bước, còn Kuchum lạnh cóng chạy bên cạnh, nó ngước mõm nhìn chúng tôi với đôi mắt vui mừng.

- Chú có nhớ là Xecgây đã đến Taiga rồi không? - Tôi gật đầu mà trong cổ thấy có gì vướng vướng. - Thế đấy. Khi anh ấy từ nơi đó trở về thì hoàn toàn, vâng, hoàn toàn không còn là anh ấy nữa. Ngay từ lúc đó anh ấy đã bảo: làm việc ở nơi ấy mới gọi là làm chứ. Cái ông Chapôgir Timôphây Egôrôvich của anh ấy, chú còn nhớ chứ, anh ấy đã làm bài phóng sự về ông ta ấy mà? - đã mời anh ấy phụ việc cho ông ta. Ông ấy bảo, cậu là một chàng trai chân dài, có thể chạy trên mọi bãi tuyết. - Cachia mỉm cười, đưa tay xoa má. - Còn cháu thì chẳng hiểu gì. Cháu tưởng anh ấy chỉ mơ mộng vậy thôi. Anh ấy có vô khối dự định... Thế rồi, khi anh ấy bị đuổi việc... nghĩa là khi anh ấy rời khỏi ban biên tập, anh ấy biên thư ngay về Ulêkit cho ông Chapôgir. Và một bức thư trả lời đã được gửi từ đó về, đúng nguyện vọng anh ấy. Do chính ông chủ tịch viết, vì Chapôgir không biết chữ... Nhưng thật trớ trêu là lúc ấy cháu đang ốm. Xeriôgia không nói gì cả, anh ấy giấu biến bức thư và đến làm ở trạm cấp hơi nước. Và lúc đó lại thêm bản nhận xét về cái truyện dài... Anh ấy hoàn toàn mất bình tĩnh. Chú có biết anh ấy đã nói gì không? Đủ rồi, chúng mình quay về Mascơva thôi! Thậm chí cháu tức anh ấy quá... chỉ giây lát thôi, nhưng dù sao... cũng thật là đáng sợ. Cháu yêu anh ấy rồi bỗng nhiên lại căm ghét. - Cachia lơ đễnh đưa tay vuốt lên mõm chú cún. - Đêm đến cháu không ngủ được, nằm suy nghĩ: có điều gì đó cháu chưa hiểu, anh ấy đang giấu cháu điều gì. Rồi tình cờ cháu nhìn thấy bức thư gửi đến từ Ulêkit. Xeriôgia, thế này là thế nào? Này, xé đi! Những mộng ước không thành! Cháu đọc và hiểu ra. Lạy chúa, mình ngốc quá! Hoá ra anh ấy lúc nào cũng nghĩ đến bức thư này! Bức thư đã được đọc đến nhàu nát cả ra, vậy mà anh ấy giấu, không nói ra, anh ấy thương cháu, vì lúc ấy cháu đang nằm bệnh viện và nói chung... Đấy, Xeriôgia như vậy đấy! - Cachia thốt lên và ép đôi tay vào ngực. - Tôi bỗng thấy cay cay trong mắt. - Lúc đấy cháu mới bảo: anh ngồi xuống đây, viết ngay thư trả lời rằng chúng mình sẽ đến đó! Em điên rồi sao, anh ấy hét lên. Làm sao mà em đến cái trạm hẻo lánh ấy được! Bụng em đang to lên không phải từng ngày, mà từng giờ! Không, không và không! Rồi cháu cầm cái thắt lưng anh ấy và nói: viết đi, không em đánh. Anh ấy cười phá lên, và cháu cũng cười phá lên. Nhưng sau đó Xeriôgia khóc... lần đầu tiên, và nói chung chưa bao giờ... rồi bảo: em biết không, em biết không, Catca, anh sẽ không bao giờ quên việc này... Anh ngốc quá!... Và rồi cháu cũng khóc oà lên, tất nhiên... là vì vui quá. Và chúng cháu quyết định đi.

- Đến Ulêkit? - tôi ngắt lời. - Cháu còn cười được hả, Cachia? Đến đó cháu sẽ làm gì? Ở đó không có gì cả, ngoài rừng Taiga!

- Sao lại không có gì, chú Bôris Antônôvich? - cô ta phản đối với giọng trách móc. - Xeriôgia đã kể cho cháu nghe hết. Tônhia cũng vậy. Ở đó có câu lạc bộ - là một này. - Cô ta gập một ngón tay. - Người ta còn gọi nó là chiếc lều đỏ. Phòng bưu điện - là hai này. Nhà trẻ - là ba này. Ban quản trị nông trường - là bốn này. Trạm y tế - là năm này. Thế mà chú bảo không có gì cả... - Rồi cô ta nhìn tôi với ánh mắt bạo dạn và tinh nghịch.

- Ở đấy còn trại nuôi thú dữ nữa! - tôi hét lên, giọng ồm ồm. - Cháu quên rồi! Trại nuôi thú dữ!

- Là sáu này, - Cachia tổng kết lại, rất bình tĩnh gập thêm một ngón tay.

- Kuchum, - tôi van nài con chó, - làm ơn cào vào chân tao đi! May ra tao sẽ tỉnh ngủ.

Kuchum ngoe nguẩy đuôi. Cachia lấy tay che miệng.

- Nghe đây, cô gái, hãy làm cho chú yên tâm đi. Cháu hãy nói rằng đó chỉ là câu chuyện tếu đầu năm thôi.

- Không, đâu phải thế, chú Bôris Antônôvich. Thậm chí cháu đã tìm hiểu kỹ rồi. Ở đấy đang cần một người đưa thư. Công việc này chính là dành cho cháu. Còn với Xeriôgia thì công việc đã rõ: anh ấy sẽ làm việc ở chỗ nuôi hươu với Chapôgir.

- Chỗ nuôi hươu?

- Vâng.

- Làm gì? Xua chó chăn hươu?

Mãi một lúc lâu Cachia không thể nói được câu nào vì cười lăn cưòi bò ra... Kuchum thì chạy quanh như phát rồ và sủa ầm ĩ. Tôi buồn bã đứng quan sát buổi hoà nhạc không mong đợi này.

- Chỉ có vậy thôi, Cachia nói sau khi đã bình tĩnh lại, - phụ việc chăn hươu.

- Cậu ấy? Thế cậu ấy có phân biệt nổi con nào là hươu, con nào là dê không?

- Anh ấy sẽ học, chú Bôris Antônôvich ạ. Mọi cái đều có thể học được, một khi đã muốn. Mà Xeriôgia thì muốn.

- Không, cháu gượm đã! - tôi lo lắng - Không, cháu có hiểu cháu nói gì không? Cháu sắp đến ngày sinh rồi!

- Vâng.

- Mà cháu có biết là ở đó không có bệnh viện, chỉ có một trạm y tế thôi không?

- Thế những người khác thì sao nào?

- Người khác... người khác... lại người khác... - tôi lẩm bẩm. - Người khác thì họ quen rồi. Họ được sinh ra ở chính nơi đó. Còn cháu thì mảnh mai yếu đuối.

- Ôi, lại mảnh mai yếu đuối!

- Không, khoan đã! Đừng ngắt lời chú, Cachia! Đến đấy cháu định sống ở đâu?

- Người ta đã hứa cho phòng ở.

- Nhưng Xecgây sẽ theo đàn hươu. Theo... đàn... hươu! Giống như là lên mặt trăng vậy, cháu hiểu chưa? Cháu còn lại một mình.

- Nhưng hoàn toàn không đơn độc, - cô đối đáp mau lẹ. - Nơi đó có người sinh sống. Còn Xeriôgia sẽ về mỗi tháng một lần. Dân chài và thuỷ thủ còn ít có mặt ở nhà hơn

- Thế còn việc bửa củi? Đốt lò? Gánh nước từ sông về? Ai sẽ làm những việc đó? Ma xó nó làm cho cháu à?

Cô gái cười sằng sặc, nhưng sau đó trả lời nghiêm chỉnh.

- Mọi người sẽ giúp cháu, chú Bôris Antônôvich ạ. Còn nhiều người tốt. Như chú vậy.

- Đừng có phỉnh nịnh chú, Cachia. Cháu không đánh trống lảng với chú được đâu, cô gái ạ. Cháu hãy nhớ lại là cháu đã khốn khổ như thế nào khi cậu ấy đi vắng hai tuần!

- Bây giờ cháu chịu đựng được. Cần phải như vậy, chú Bôris Antônôvich ạ.

- Cần cái con khỉ gì? Cần cho ai?

- Xeriôgia bảo rằng chăn hươu là công việc khó khăn nhất. Ở đó việc ra việc, có những con người khác thường. Lại có Chapôgir... Hơn nữa ở đó có thể thử sức xem mình có bị cong bị gãy không?

- Thế... nào?

- Đấy là anh ấy nghĩ ra cách diễn đạt như vậy, - Cachia giải thích.

- Hay thật. Cậu ấy sẽ thử sức mình, tích luỹ kinh nghiệm, còn cháu? Cháu có nghĩ đến mình không?

- Thế các bà vợ của những nhà cách mạng tháng chạp thì sao? Ai bắt họ đi đến Xibêri theo chồng bị đi đày? Thế mà họ đã đi... Họ có nhiều con đường để lựa chọn, và họ đã chọn con đường gian nan nhất. Họ có thể sống an nhàn, ăn và uống trong bộ cốc chén bằng bạc. Không đâu, chú Bôris Antônôvich! Đây không phải là ý chơi ngông của Xeriôgia. Chúng cháu phải tự chứng minh là mình có khả năng đến mức nào. Nếu không sẽ muộn mất.

Cachia lấy tay bốc một nắm tuyết trên đống củi, nắm lại và đăm chiêu thè lưỡi liếm. Tôi thò tay vào túi tìm bao thuốc như vị cứu tinh. Một cái gì đó làm cho tôi rờn rợn người. Kuchum ngồi xổm kêu lên ư ử.

- Thôi được. - tôi nói. - Cứ cho rằng cháu sẽ chịu đựng được. Cứ cho rằng cháu chịu hy sinh, mặc dù chú cũng không hiểu nổi việc này có dính dáng gì đến các bà vợ của những nhà cách mạng tháng chạp. Nhưng cháu phải thương Xeriôgia một chút chứ!

- Thương? Vì cái gì? - Cachia rất đỗi ngạc nhiên.

- Chú tin rằng cậu ta đã mô tả mọi thứ với cháu trong toàn một màu hồng. Nhưng chú biết thế nào là chăn hươu. Lạy chúa, chú đã hàng chục lần đến các đội chăn hươu. Có một lần thời tiết xấu đã giam chân chú cả tháng. Cháu hãy nhìn chú đi! Chú không phải là loại người không ưa lao động, lười biếng, mau nước mắt. Chú làm việc chẳng thua kém ai. Và cháu có biết không? Sang đến tuần lễ thứ hai chú đã khóc rống lên! Mỗi ngày phải ngồi trên lưng hươu đi hai mươi - ba mươi cây số qua những bãi rêu, những cánh đầm lầy. Ngủ qua đêm trong các lều da, trong túi ngủ. Chịu hít thở khói, vì phải hun khói cho muỗi khỏi đốt. Nhưng chẳng ăn thua! Nó đốt chú nhiều đến mức có thể đem chú đặt trong viện bảo tàng những của hiếm và bán vé ba rúp cho mỗi lượt vào xem. Không cởi ủng ra được, chân cẳng đau buốt. Cứ cách ngày là một điểm dừng mới. Cuộc sống du mục vĩnh cửu cả mùa đông lẫn mùa hè. Thức ăn chỉ có thịt, thường là không có muối, theo kiểu địa phương. Lo lắng cho từng con hươu: nó có chạy đi mất không? Nó có què chân không? Thú dữ có rình mò đàn hươu không? Về mùa đông nếu hít căng lồng ngực thì phổi sẽ bị đông lạnh. Mối liên hệ với thế giới là chiếc đài "Spiđôla", máy thông tin vô tuyến, chiếc trực thăng hiếm hoi và khi quãng đường cho phép thì ngồi trên xe cho hươu kéo... Cháu hiểu cái đó hay không nào?

- Bôris Antônôvich, mọi cái chú đã nói đều đúng. Chính vì vậy mà Xeriôgia cần phải đến đó.

- Nhưng nếu cậu ấy không chịu đựng được và bỏ chạy?

- Chú không được nói như thế!

- Nhưng nếu như thế thì sao? Cứ giả sử rằng trong một giây phút nào đó...

- Khi đó... - Cachia nói. - Khi đó anh ấy không phải là chồng cháu nữa. Và anh ấy biết rõ điều này.

Tôi ngạc nhiên im lặng. Trước mặt tôi là một người đàn bà nghiêm khắc và lạ lẫm. Ánh đèn từ các ô cửa sổ rọi sáng mặt cô, trên đó biểu lộ một thái độ kiên quyết và bạo dạn.

Tôi bất lực.

- Mà nói chung chú đừng phí công lo lắng, chú Bôris Antônôvich, - Cachia nói tiếp bằng một giọng khác, âm vang và sôi nổi. - Xeriôgia có thể trở thành một thợ chăn hươu tuyệt vời. Ngay bây giờ anh ấy đã biết được nhiều thứ. Khore là con hươu đực. Ôlenhimatca là con hươu cái. Valakan là con hươu non, - cô say sưa kể. - Maut là chiếc thòng lọng. Bầy hươu có hàng ngàn con. Bây giờ đang là mùa giết thịt. Bầy hươu đang ở gần trạm thu mua. Còn công việc thực sự sẽ bắt đầu từ mùa xuân. Hươu bắt đầu đẻ. Những chú hươu non sẽ ra đời. Cần phải chăm sóc chúng. Chỉ có điều phải nhanh lên để xem! Có đúng thế không chú?

- Đúng thì đúng rồi, nhưng do đâu mà cháu biết được những thứ ấy?

- Xeriôgia đã tìm được những quyển sách về nghề nuôi hươu. Và anh ấy còn quyết định học tiếng Evenki, để hiểu mọi thứ tốt hơn. Chú có muốn nghe không, - chợt cô ta đề nghị, - cháu sẽ đọc cho chú nghe hôm qua anh ấy đã viết những gì? Cháu cố ý cầm theo cái này! Cô ta lôi từ trong túi ra những tờ giấy nhàu nát, khoác tay tôi và dẫn theo lối mòn cạnh cửa sổ.

- Đợi đã nào, Cachia! Bây giờ không phải là lúc bàn về các tác phẩm.

- Không, xin chú hãy nghe cháu, chú Bôris Antônôvich. Cái này không đơn giản thế đâu. Cái này rất quan trọng. Có thể là nghe xong chú sẽ không hỏi thêm điều gì nữa. Chú nghe nhé!

Cô gái nheo mắt lại trong giây lát, lấy hơi vào lồng ngực - giọng cô cất lên...

- "Và đàn hươu lên đường! Những cái đầu hươu với các cặp sừng tua tủa nhánh ngẩng lên cao, những đôi chân với móng chân rộng và cẳng chân thon nhỏ phía dưới đầu gối gõ bước để thử xem độ cứng của mặt đất, những cặp mắt lồi mọng nước long lên sòng sọc, toàn thân run lên - và lên đường... Những ngày đầu tiên của chú hươu non, chuệnh choạng và yếu ớt trước cơn gió nhẹ, những ngày đầu tiên của cái quái thai chân dài với đôi mắt tròn xoe, phản chiếu sự hùng vĩ của mùa xuân trên trái đất, trôi qua trong cái vô tư thuần khiết. Hươu mẹ nuôi con bằng sữa, còn người chăn hươu theo dõi từng nhịp đập của chú hươu non. Và ngay từ giờ phút này mỗi vết rách trên tai chú hươu non mới sinh cũng quyết định số phận của nó. Nó phải thành gia súc và nó phải phục vụ cho con người! - Cachia đọc vội vàng. - Chân cẳng nó sẽ cứng cáp lên, nó sẽ lớn lên sừng sững trong bộ lông tối sẫm mà hiện giờ đang còn sáng màu, vết rách trên tai sẽ liền lại. Nhưng đã đến lúc nó không còn trông đợi vào nguồn sữa mẹ quí giá. Đến mùa hè nó sẽ tung tăng cùng chúng bạn trong một điệu múa vòng mệt lử để xua lũ ruồi trâu và muỗi mắt. Đến mùa thu nó sẽ được nhấm nháp vị ngọt của chiếc nấm đầu tiên, đến mùa đông nó sẽ húc sừng vào khoảng hở nhỏ hẹp giữa các cành lá và thử cặp móng chân bằng cách đào bới các lớp tuyết cho đến khi lộ ra đám rêu địa y... Tạo hoá đã cho nó đủ mọi thứ. Chỉ còn thiếu mỗi đôi cánh để bay lên bầu trời như loài chim"

Cachia im lặng thở gấp. Gần một phút trôi qua...

- 21 -

Krôtôv chạy rất nhanh, cùng với con Kuchum đang vừa lao vào người cậu ta vừa sủa ầm ĩ mừng khách quen, cậu ta lấy đà trên đôi ủng và hét vang cả một vùng.

- A, bắt được rồi nhé! - Cậu ta, tay cầm mũ, tóc rối tung lên vì chạy, ào đến như một cơn bão tuyết... - Lấy trộm củi nhà người khác nhá! Giơ tay lên! - và mất đà ngã xoài xuống tuyết. - Nhảy mệt quá! Một công việc nặng nhọc!

Cachia lập tức vỗ tay.

- Xeriôgia, Xeriôgia, đứng dậy ngay! Cảm lạnh đấy!

- Cứ để mặc hắn, - tôi nói với cái giọng ganh tỵ bất ngờ của một ông già xét nét. - Từ giờ trở đi hắn thường phải nằm ngủ như vậy. Cứ cho hắn rèn luyện.

Kuchum chạy vòng quanh như điên dại.

Không kìm chế được, tôi vốc một nắm tuyết rồi với một khoái cảm cay độc, tôi ném vào cậu ta.

- À, chú muốn hả! - cậu ta bật dậy và gào lên. - Chiến tranh thế giới hả! Nào, hãy cẩn thận!

Cậu ta ôm ghì lấy tôi. Một khoảnh khắc, một cú đá móc - và tôi đã nằm trong đống tuyết, còn cậu ta thì đè lên người tôi và ném tuyết vào cổ áo. Cachia vừa nhảy vừa vỗ tay. Kuchum sủa ầm ĩ. Từ ngôi nhà bên cạnh có mấy bóng người tò mò nhìn qua các ô cửa sổ, và tôi trở người, cố thoát ra, nói nhỏ vào tai Krôtôv:

- Cháu trở lại ban biên tập đi, trở lại đi...

- Không!

- Muỗi mắt sẽ xơi tái cháu, cháu sẽ bị chết cóng...

- Đầu hàng chưa?

- Cháu hãy nghĩ đến Cachia...

- Vì Cachia cháu sẽ chịu đựng được.

- Đồ trẻ con! Đồ cỏ lông bông!

- Chú đầu hàng chưa?

- Đầu háng, quỉ tha ma bắt cháu đi!

Nhưng tôi không đầu hàng, không! Và khi cậu ta kéo tôi đứng dậy, phủi tuyết bám trên áo lông, cả ba chúng tôi rảo bước trên đường phố không ngủ và sáng ánh đèn, dưới bầu trời thanh bình của năm mới, tôi thử cố thêm một lần nữa:

- Nhưng cháu có biết là những kẻ lêu lổng như cháu là một tai hoạ cho nhà nước không? Cháu có nghĩ đến việc là nếu tất cả học sinh sau khi tốt nghiệp đều bắt đầu đi lang thang khắp đất nước thì điều gì sẽ xảy ra không?

- Giờ tận cùng của thế giới! - cậu ta trả lời ngay. - Mất ổn định! Hỗn loạn và phá phách! Kinh hoàng.... khủng khiếp!

- Thôi đi nào! Tất cả chuyện này khá nghiêm túc đấy. Cháu cần suy nghĩ cho hết nhẽ.

- Mà cháu nói gì nào! Nghiêm túc đấy chứ! Còn thế nào nữa? Cháu có một đứa bạn cùng học. Người ta hỏi nó: sau khi tốt nghiệp phổ thông mày đi đâu? Đến với con người. Nói chính xác hơn xem. Đến với những người tốt. Chú nghĩ là cháu nói khôi hài à? Không đâu. Cậu ta chẳng biết là mình cần gì. Mày có muốn thi vào đại học không? Cũng có thể. Trường nào? Trường nào tốt thì vào. Có muốn vào làm ở nhà máy không? Có thể. Nhà máy nào? Nhà máy nào tiên tiến thì làm. Mày có thể ra công trường không? Cũng chẳng sao, Công trường nào? Công trường trọng điểm. Đó không phải là con người mà là chuẩn mực của sự chao đảo. Cháu đã gọi cậu ta như vậy. Đấy chú xem ai là kẻ lêu lổng, chú Bôris Antônôvich. Có thể là cậu ta sẽ không đi đâu khỏi Mascơva, nhưng cậu ta vẫn là kẻ không kiên định trong tư duy và trong hoài bão. Và cái đó còn tồi tệ hơn là lang thang khắp thế giới để tìm cho bằng được con chim lửa thực sự! Có đúng vậy không, Cati? - cậu ta quàng tay ôm vai vợ.

Ngay lúc đó tôi cảm thấy mình chưa biết hết về hai con người này, giống như tôi nhìn họ sau nhiều năm không gặp và thấy những con người đã trưởng thành.

- Tất nhiên rồi, Xeriôgia!

- Mà đó mới là điều chủ yếu nhât! - Krôtôv kết luận và hai đôi môi quyện chặt vào nhau trong nụ hôn.

Không, tôi đã lầm! Họ vẫn là họ, nhưng lại là những con người có cái gì đó khang khác.

- Này các cháu!... Biết điều một tý... - tôi xúc động nhắc.

- Mà chú có biết không, chú Bôris Antônôvich? Krôtôv lại nắm tay tôi. - Về mặt kinh tế học thì thằng bạn của cháu còn làm thiệt hại cho nhà nước gấp mười lần Krôtôv.

- Vì sao nào?

- Mọi cái đều vì thế thôi! Cậu ta chẳng có suy nghĩ gì hết. Cậu ta bị cuốn theo bất kỳ dòng chảy nào, như một con sứa. Trong con người cậu ta không có cái lõi. Cậu ta là một con người không có chính kiến. Mà điều đó có nghĩa là cậu ta không thể trở thành một chuyên gia giỏi.

- Nhưng đâu phải mọi người trên trái đất này đều là thiên tài, - tôi tự ái, như bị chạm nọc, và chẳng hiểu vì sao cảm thấy thông cảm với cái cậu bé đáng thương không quen biết đó. - Ngoài ra vẫn tồn tại hai loại: ý kiến và định kiến.

Krôtôv dường như chết lặng tại chỗ. Cachia lo lắng, hết nhìn tôi lại nhìn chồng. Nhưng rồi cậu ta khoan nhượng tuyên bố:

- Một miếng võ cấm! Giữa thanh thiên bạch nhật. Thôi được! Chú đúng. Người viết nhận xét đúng. Một lần nữa cháu lại sai. Đánh giá quá cao sức mình. Nhưng không có nghĩa là nốc ao, không đâu!

Tôi vội vàng chộp lấy sự nhượng bộ của cậu ta.

- Nhưng lấy gì đảm bảo là cháu không sai phạm lần thứ hai?

Krôtôv vung tay ném chiếc mũ xuống tuyết rồi lấy chân đá làm nó tung lên trời như một con chim sã cánh, khi chiếc mũ rơi xuống đất đã có Kuchum chờ sẵn, ngoạm lấy và phóng đi. Cachia khoát khoát đôi tay, vừa kêu vừa chạy theo con chó, thận trọng từng bước ngắn

- Xin chào, bà Vêra Alêchxăngdrôvna! - Krôtôv nhìn tôi và gào lên.

- Đừng có hóa rồ, Xecgây...

- Không có sự bảo đảm nào hết, thưa bà Vêra Alêchxăng- dropna! Chúng tôi không phải là quĩ tiết kiệm, thưa bà Vêra Alêchxăngdropna! Biết đâu ngày mai đột nhiên có một thiên thạch hoặc một cột băng trên mái nhà rơi xuống đầu chúng tôi? Không, thưa bà Vêra Alêchxăngdropna! Lòng tin - đó là sự bảo đảm của chúng tôi.

- Nói nhỏ thôi, đừng làm mọi người phát hoảng lên...

Cậu ta chuyển sang nói thầm. Mặt cậu ta kề sát mặt tôi, có cảm tưởng như mỗi đường nét đều chứa đầy sự ngông cuồng trẻ con.

- "Tôi chưa bao giờ bước lên tàu hỏa, - cậu ta nhắc lại lời tôi, - mà không biết mình sẽ xuống ga nào". Ai đã nói thế nhỉ? Chú có chối là những từ ấy không phải của chú không?

- Không.

- Đấy chỉ là câu nói suông phải không?

- Không.

- Là sự tiếc nuối?

- Đúng.

- Chú có muốn là khi đến tuổi bốn hai cháu cũng sẽ tiếc nuối như vậy không?

- Cháu hãy quẳng những bài kiểm tra ấy đi!...

- Không, chú trả lời đi!

- Cần phải có kinh nghiệm của mình, của mình!

- Vậy thì lôgich ở chỗ nào, chú Bôris Antônôvich? Ở chỗ nào? Tại sao chú cứ nhồi nhét kinh nghiệm của chú cho bọn cháu? Tại sao trong chú lại có hai con người khác nhau?

- Vì rằng... - tôi bỗng ấp úng, - vì rằng chú là người lớn... và chú lo cho các cháu, quỉ thật!

Cachia thở hổn hển quay lại, cầm trên tay chiếc mũ giật lại được từ mõm con Kuchum, đội lên đầu Xecgây và đe chồng:

- Nhưng anh không được đá nó nữa đấy!

Krôtôv quì xuống.

- Cati, đây là giờ phút trọng đại! Chú Bôris Antônôvich tán thành cho chúng mình đi.

- Đúng thế không chú? - Cô ta quay về phía tôi, tươi tỉnh hỏi.

Một việc kỳ lạ, và cái khoảnh khắc ấy cứ như một chuyện đùa trong chuỗi trò tinh nghịch của trẻ con, nhưng tôi bỗng thấy nhói lên trong lồng ngực. Hai khuôn mặt đang nhìn tôi, hai nét vẽ trên bức tranh vô tận của cuộc đời, một số phận con người... Có một cái gì đó chợt thoáng hiện giữa chúng tôi, giống như một tia hồ quang, và sự thân thiết bỗng trở nên sâu sắc và xúc động vô cùng.

- Thôi được, ta đi thôi, các cháu. Nếu không chú khóc òa lên bây giờ...

Và mọi việc thế là công cốc! Họ đi bên cạnh, lặng lẽ và bối rối, nhưng đã lên tới những tầng cao bồng bềnh, mà ở đó những người thuộc lứa tuổi chúng tôi bị cấm cửa, ở đó người ta phải đeo loại kính phòng hộ để không bị mù mắt... Còn tôi thì ở phía dưới, trong cái mái hiên rất đỗi an toàn, và không tiếp tục trèo lên cao được. Còn giữa chúng tôi là một sợi dây cứu hộ, nhưng có lẽ không còn dùng đến nữa.

Chúng tôi lặng lẽ về nhà. Thấy hai vợ chồng ngập ngừng ở lối vào tôi hiểu rằng họ không muốn quay lại với nhóm bạn của tôi. Làm thế nào được! Mà nói đúng ra, giờ đây tôi cũng không tiện lôi kéo họ vào điệu múa vòng đã hoạch định sẵn của người lớn.

- Chú tặng các cháu con Kuchum đấy, - tôi chợt nghĩ ra. Thậm chí Krôtôv ối lên một tiếng... - Nhưng không cho không đâu! - Tôi chặn trước cậu ta. - Để đổi lấy bài viết của cháu về những con hươu.

Cậu ta há mồm sửng sốt. Cachia khịt khịt mũi.

- Chúc các cháu ngủ ngon, - tôi chào. - Nhưng đúng ra chú phải nói là "Chúc buổi sáng tốt lành".

Chúng tôi chia tay nhau. Tôi quay vào nhà, nơi mọi người đã để mất tôi. Xavôstin chạy ra đón và cầm tay tôi.

- Chàng trai về rồi à? Cậu ta nhảy tuyệt quá! Nhẹ nhàng, như con chuồn chuồn.

- Cachia như thế nào rồi? - vợ tôi hỏi.

- Cậu ta tuyên bố với tôi, Xavôstin ngồi trên ghế vừa nhả khói thuốc vừa nói, - rằng tôi không sống mà chỉ tồn tại lay lắt qua ngày đoạn tháng. Thế có láu cá không?

- Tôi mất cô bạn nhảy rồi, - Morôzov trầm giọng nói.

- Cô gái sùng bái cậu ta, Xavôstina nói với vẻ thắc mắc. - Nhưng các anh thử giải thích cho tôi biết, lạy chúa, tại sao cậu ta lại gắn bó với cái trạm cấp hơi nước khủng khiếp đó?

Tôi bước đến cạnh bàn, rót cho mình một ly rượu và nâng ly lên. Mọi người im lặng. Lúc đó tôi trịnh trọng tuyên bố:

- Thế là đàn hươu đã lên đường, thưa các bạn! - và tôi nghe văng vẳng trong gió tiếng kêu lanh lảnh của Xecgây hòa trong tiếng leng keng của những chiếc lục lạc buộc ở cổ hươu.

- 22 -

Ngay sau tết Cachia nhận được các khoản thanh toán. Mồng bốn tháng giêng tôi đến trụ sở ban biên tập sớm hơn thường lệ để đưa tiễn vợ chồng Krôtôv ra sân bay. Xecgây và Cachia đang ngồi trong căn phòng trống không mà bây giờ đã trở thành của công, trên chiếc giường lò xo sắt không có đệm, còn trên chiếc ghế độc nhất là Tônhia Xalatkina.

Vợ chồng Krôtôv mặc ấm, đúng theo yêu cầu khi đi đường trường ở vùng chúng tôi. Cả hai đều mặc áo khoác lông cừu; trên đầu Cachia quấn một khăn len xù, còn đầu Xecgây được trang điểm bằng một chiếc mũ lông cáo to giống hình mặt trời. Cậu ta đi ủng lông, còn đôi chân Cachia được bọc ấm trong đôi giày ống mà trước đây tôi đã thấy Tônhia Xalatkina mang. Tôi nháy mắt thân thiện với cô gái, và trên khuôn mặt cô ta xuất hiện một nụ cười nghi hoặc. Có lẽ chỉ đến bây giờ cô ta mới thừa nhận là tôi được quyền có mặt bên cạnh vợ chồng Krôtôv...

Tôi cảm thấy Cachia có vẻ mệt mỏi và u sầu. Krôtôv thì phấn chấn. Giây phút nghi thức cuối cùng trước lúc lên đường cậu ta hầu như ngồi im, và sau đó đứng bật dậy, đeo ba lô, xách hai chiếc va ly, còn chiếc túi cuối cùng cậu ta định ngoạm nơi mồm... Tôi cầm bớt một phần các hành lý ít ỏi. Chúng tôi lên đường...

Đến cửa trụ sở ban biên tập Tônhia Xalatkina chia tay vợ chồng Krôtôv - cô ta vội về để trực ở bệnh viện - rồi vừa chạy vừa khóc. Thay vào chỗ cô ta là Kuchum.

Một buổi sáng tháng giêng mờ mịt sương, không biết đến ánh nắng mặt trời ở miền vĩ độ chúng tôi, cứng giòn và lạnh giá. Hứa hẹn một ngày khắc nghiệt. Tất cả mọi sinh vật đều ẩn náu trong nhà, trừ những con chó, như những cuộn lông trên tuyết. Trời chầm chậm sáng dần.

Còn ở cách xa bốn trăm cây số về phía Bắc, trong chốn thâm sơn cùng cốc lạnh giá của rừng tùng lá rụng, có lẽ chiếc động cơ điện đang rú lên sau một đêm ngừng hoạt động. Ulêkit thức giấc. Hai mươi hai nóc nhà gỗ tròn và mấy túp lều da trên bờ cao của một con sông. Một trong những nóc nhà đó là trạm bưu điện. Thức dậy đi, Cachia, đã đến giờ đi làm rồi!

Còn ở xa hơn nữa, đến tận nơi câm lặng giá băng của buổi sáng, vang lên tiếng thở phì phò của những con hươu - đàn hươu nhổm dậy. Ông già Timôphây Egôrôvich Chapôgir khom người bước ra khỏi lều, nheo mắt nhìn vào rừng Taiga băng giá, hít thở khí trời... Rét quá, tuy nhiên, vẫn phải chăn giữ đàn hươu. Đun trà đi, Xecgây!

... Chúng tôi im lặng trên đường đi tới sân bay. Mấy chiếc máy bay "AH-2" đứng thành hàng, cánh quạt quay vù vù. Tiếng gầm rít vang trong không trung - các động cơ đang khởi động. Chúng tôi không kịp vào phòng đợi - người ta thông báo nhận khách đi Ulêkit. Chỉ có bốn hành khách: vợ chồng Krôtôv, một bà cụ người Evenki, có lẽ về bệnh viện khu để chữa bệnh, và một chuyên gia về săn bắn đi công tác.

Người ta cho tôi được vào tận bãi đổ máy bay; tôi mang đồ đạc đến tận máy bay. Đến cửa máy bay mọi người buộc phải đứng đợi một lát - các công nhân khuân vác đang chất vào bụng máy bay những thùng lớn đựng đồ hộp.

Chúng tôi đứng nhìn nhau.

- Nào, hai bạn trẻ, - tôi cố gượng vui nói. - Hai cháu bay nhé.

Cachia chớp mắt, đôi môi mím chặt, rồi cô khóc. Krôtôv cúi đầu.

- Này, cô bé, - tôi nói, giọng u buồn. - Cho chú hôn từ biệt cháu!

Cô bé mỉm cười qua hai hàng nước mắt, vén chiếc khăn choàng và chìa má cho tôi.

- Chú hôn cả cháu chứ? - Krôtôv hỏi, giọng khàn khàn.

- Cả cháu nữa.

Chúng tôi vụng về ôm nhau. Kuchum không quen bị xích cứ vùng vẫy trên tay Krôtov và kên ăng ẳng.

- Nào, cún con, - tôi bảo với con chó, - nhớ bảo vệ chủ nhé.

Thế rồi cửa máy bay đóng lại, nhưng rồi lại mở ra ngay, và cái đầu Krôtôv với chiếc mũ lông to tướng nhô ra phía trên cánh tay người phi công.

- Chú Bôris Antônôvich, cám ơn chú về mọi việc! Chú hãy đến làm việc chỗ nuôi hươu!

- Vào đi, tôi đóng cửa! - người phi công nói.

Và cánh cửa máy bay đóng hẳn.

Tôi rời bãi đổ máy bay, đến đứng cạnh hàng rào.

Tiếng động cơ gầm thét; chiếc "AH-2" cuộn tung lên cơn bão tuyết, chạy về tận cuối đường băng, sau đó nó lại vút qua, nhảy chồm chồm trên các đụn tuyết, nặng nề rời khỏi mặt đất và mất hút về phía các dãy đồi trọc.

Trên bãi đổ máy bay xuất hiện một số người xách theo va li. Có lẽ loa phóng thanh thông báo nhận hành khách lên chuyến máy bay tiếp theo. Tôi chợt thấy chung quanh vắng lặng. Một hành tinh câm và điếc vì thiếu vắng Xecgây và Cachia!

Tôi hình dung thấy hai vợ chồng ngồi nép sát vào nhau. Tay cầm tay, mặt kề mặt, ý nghĩ vượt lên trước máy bay... Ước gì có thể biến thành kẻ tàng hình, thành một dạng thần linh phi vật chất và trở thành người bảo vệ luôn luôn đứng sau lưng họ! Nhưng họ sẽ nhìn thấy và đuổi đi. Ước gì có thể trải ra trước mặt họ chiếc khăn thần thoại với những của ngon vật lạ trên đời! Họ cũng đi tránh sang một bên. Ước gì có thể trở thành nhà tiên tri để từ nơi xa thì thầm vào tai họ những lời khuyên sáng suốt! Họ cũng bịt tai lại. Có cách gì đem cho họ những cái mà họ chưa có? Không có cách gì cả... Họ không cần đến những lời cầu xin của tôi. Họ nhìn thấy những ảo ảnh muôn màu mà tầm nhìn xa trông rộng của kinh nghiệm không phân biệt được. Tôi cảm thấy thời gian đang gào thét, làm cho tất cả đều già đi, và tôi nhìn thấy con đường tít tắp và buồn chán mà họ còn phải đi trong một thời gian dài... Chính vì vậy trong lòng cảm thấy không yên, như người đang ốm nặng...

Sau đó mấy hôm, trong khi dọn dẹp căn buồng vợ chồng Krôtôv đã ở, nhân viên tạp vụ của ban biên tập đã tìm thấy một quyển vở dày có bìa bằng vải sơn ở phía sau tủ và mang đến đưa tôi. Tôi lật xem. Đó là quyển nhật ký của Krôtôv, trong đó có kẹp một bức thư của Cachia.

HẾT