Phạm Ngọc Tiến-Truyện ngắn

Phạm Ngọc Tiến, sinh ngày 2 tháng 7 năm 1956, tại Hà Nội. Quê gốc: xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Hiện nay ở Mai Động, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1997). Là biên tập viên Hãng phim Truyền hình Việt Nam - Đài Truyền hình Việt Nam.

Tác phẩm chính đã xuất bản:

- Họ đã trở thành đàn ông (truyện ngắn, 1992);

- Tàn đen đốm đỏ (tiểu thuyết, 1994);

- Đợi mặt trời (truyện dài, 1995);

- Những sinh linh bé bỏng (truyện ngắn, 1996)...

Giải thưởng văn học:

- Giải nhì cuộc thi truyện ngắn do tạp chí Văn nghệ Quân đội với truyện ngắn "Chạy trốn";

- Giải thưởng về đề tài chiến tranh cách mạng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 với tập truyện ngắn "Họ đã trở thành đàn ông";

- Giải A cuộc thi viết về thiếu nhi của Nhà xuất bản Kim Đồng (1993 - 1995) với truyện vui "Đợi mặt trời";

- Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội 5 năm (1991 - 1996) với tiểu thuyết "Tàn đen đốm đỏ".

- Giải thưởng Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1996 với tập truyện ngắn "Những sinh linh bé bỏng".

Truyện ngắn: Nguyên thủy

Phạm Ngọc Tiến

Như rất nhiều quán ăn, tiệm uống theo mốt thời thượng, “Sơn nữ ca” ở phố Cây Bàng cũng do một diễn viên tài danh sáng lập và trực tiếp đứng làm chủ.

Cái tên mỹ miều kia thực chất chẳng mấy ăn nhập với những món nhậu bình dân của quán, những món nhậu cũng theo mốt, nó lặp lại những thứ mà từ cái thời xa xưa, dân tình đói khổ coi là cao lương, là mỹ vị, tỉ như vó bò, nem chạo, xoài xanh, cóc chát…

Dù vậy quán lúc nào cũng nườm nượp khách vào ra.

Đương nhiên cái sự vào quán, mục đích thứ nhất phải là ăn uống, song ai dại gì vào những quán kiểu này, sực vài thứ lăng nhăng mà giá cả hẳn vào loại không thể bình thường, dứt khoát nó phải có cái gì đó đặc biệt.

Thì đấy, chủ quán Hà Dương, một diễn viên có hạng dù mới chỉ xuất hiện ở vài phim nhựa ế khách, loại phim được đạo diễn kiêu ngạo xưng xưng vỗ ngực cho rằng phim kén khách là phim bác học và vài bộ truyền hình nhiều tập dở dở ương ương nhưng được cái bàn dân thiên hạ nhẵn mặt vì xuất hiện liên tục.

Dương ngoài ba chục tuổi, vào nghiệp diễn viên mới có dăm năm nhưng đi đâu làm gì cũng bị trẻ con, người lớn chỉ trỏ bàn tán.

Sự quấy nhiễu này quả là dễ chịu, xem ra lập danh bằng mặt là thứ lập danh nhanh nhất, ngắn nhất và cũng dễ nhất, Dương nổi tiếng như cồn, tuần ít nhất xuất hiện một lần trên mặt báo, không trả lời phỏng vấn cũng có hình in.

Bởi thế cái sự nổi tiếng càng có cơ được phát tiết, không phải đóng thuế nên Dương mặc sức tung hoành.

Tóm lại khách khứa vào “Sơn nữ ca” ngoài chuyện ăn uống, nhu cầu thưởng thức cái danh là một yếu tố quan trọng, được nhìn, được đối thoại với chàng diễn viên đẹp trai là một việc chẳng nên hà tiện, có tiêu tốn hơn một chút tiền cho đời nó thêm không khí há chẳng đáng hay sao.

Khách vào “Sơn nữ ca” đủ loại, đến rồi đi thoảng như ngọn gió, song cũng có những khách ruột, nghĩa là loại khách thâm thuỷ đến thường xuyên.

Số khách này hơi kỳ lạ một chút, họ không thuộc phái mày râu mà rơi vào đám các bà, các cô, những người thật không phù hợp với rượu dân tộc, với những món nhắm gân guốc của quán, vốn chỉ dành cho đệ tử thật sự của Lưu Linh.

Người phục vụ ở “Sơn nữ ca” cũng đặc biệt không kém gì khách.

Ngoài mấy cô, cậu tre trẻ thuộc nguồn lao động dôi dư tràn ra từ nền nông nghiệp nhàn nhã nơi thôn quê, còn có một nhân vật trung tâm, nói không ngoa cùng với danh tiếng của ông chủ, nó quyết định sự thành bại của “Sơn nữ ca”.

Đó là một chú hầu đực theo dòng vượn đen vá trắng có cái tên rất hiệp sĩ: Đông Joăng.

Việc dùng khỉ hay vượn làm thú cảnh bồi bàn vốn không lạ xưa nay nhưng với Đông Joăng thì lại khác.

Nó là một con vượn đen, vá những mảng trắng ở đùi ở cổ nom rất bắt mắt và tinh khôn bậc nhất.

Không chỉ đảm nhiệm vai trò bưng bê lặt vặt như những tiếp viên bình thường, vượn ta làm được vô số trò mà các nhân viên khác không thể làm nổi. Chuyện đó nói sau.

Cái tên Đông Joăng, ông chủ Hà Dương đặt cho con vượn không phải là vô tình.

Chuyến ấy, Hà Dương đóng một vai trong bộ phim “Tình của rừng xanh” tít cù tịt tại một khu rừng núi đá phía bắc.

Trong phim nhân vật mà Dương đảm nhiệm vì buồn có nuôi một con vượn làm bạn.

Diễn viên vượn được mượn của nhà xiếc mang đi từ Hà nội.

Con vượn cái này được thuần hoá công phu đã lâu, dạn dĩ với đời sống đoàn phim, có thể làm hết khả năng theo sai khiến của con người.

Đoàn phim làm việc đúng theo trình tự kế hoạch. Con vượn xiếc được giao cho Hà Dương quản lý, ở luôn trong lều diễn viên, chỉ đêm mới phải xích để đề phòng thú dữ trong rừng tấn công.

Đến đận quay các trường đoạn về con vượn xiếc sắp sửa hoàn thành thì một tối, chính con vượn xiếc được bạn tình giúp đỡ bẻ khoá trốn vào rừng khiến cả đoàn phim phát cuồng vì lo lắng.

Biết kiếm đâu được diễn viên vượn đóng thế bây giờ.

Mọi người trút giận dữ lên đầu Hà Dương vì trước đó khi phát hiện một con vượn đực không biết từ đâu mò đến, liều lĩnh đu cây vít cành, làm trò, khoe mẽ, tán tỉnh con vượn xiếc, vị đạo diễn đã cẩn thận nhắc nhở mọi người canh chừng nó.

Trước cơn giận của mọi người, Hà Dương nín lặng, một điều rất không bình thường với một ngôi sao đang nổi, có tính khí cương cường, trúc trắc không chịu ai như Hà Dương.

Điểm này chỉ Hà Dương và cô tình nhân cùng đoàn biết, lỗi chính thuộc về anh.

Khi con vượn đực kia từ rừng sâu mò đến, ngay lập tức nó và con vượn xiếc bắt được tín hiệu đực cái của nhau, kiểu như con người ta bị choáng váng vì tình yêu sét đánh, Hà Dương hiểu rằng, một mối tình hoang dã của rừng thẳm và xích xiềng tất yếu sẽ xảy ra và anh hứng thú vì điều đó.

Hà Dương ngấm ngầm ủng hộ.

Đêm đến, con vượn hoang mò đến sát bên lều, ở ngoài ngay chỗ xích con vượn xiếc.

Chúng cách mặt nhưng âu yếm nhau bằng âm thanh.

Thứ âm thanh này với một người từng trải như Hà Dương không có gì lạ. Muôn loài đều vậy cả thôi, chung một thứ ngôn ngữ, dẫu là rên rỉ hay gầm gào đều là tiếng lòng da diết, khao khát và thèm muốn.

Hà Dương phập phồng vui sướng trong suốt một chuỗi ngày chơi trò ú tim với đôi tình nhân đang cơn si cuồng vì bị ngăn trở.

Cho đến một hôm cô diễn viên phụ của đoàn ở dãy lều con gái vốn đã kết mắt với Hà Dương từ hôm đầu, liều lĩnh ngủ lại qua đêm ở lều của Hà Dương thì trò chơi của anh kết thúc.

Con vượn xiếc chứng kiến cảnh ân ái của đôi diễn viên trẻ đẹp đã không chịu đựng nổi. Nó tru lên những tiếng dài thê thảm và cặp mắt ánh lên những tia oán hờn trách móc.

Hà Dương sững người khi bắt gặp cặp mắt của nó.

Một cặp mắt không phải của súc vật, càng không phải mắt người bình thường, dù nó là dòng giống thuỷ tổ loài người, cặp mắt của một tình yêu bị xích xiềng, bị dồn nén, cặp mắt của những si mê khao khát, cuồng cháy, của sự van lơn, cầu xin và trên hết là sự căm giận của một trái tim phẫn nộ trước tạo hoá bất công.

Hà Dương không chịu đựng nổi, bất chấp sự điên dại của cô gái trong đỉnh điểm mê đắm, anh vùng dậy lao đến chỗ con vượn xiếc.

Trong giây phút có thể vì mềm lòng, vì đồng cảm vì thương xót, vì hối hận, Hà Dương đã làm một động thái đầy ân nghĩa, anh đã thòng dây xích đưa con khỉ xiếc ra ngoài cho nó gặp bạn tình.

Đêm của hai cặp yêu nhau giữa thăm thẳm đại ngàn diễn ra mỹ mãn đầy hoan lạc nhưng kết cục của nó lại chắng mấy tốt đẹp.

Đôi tình nhân vượn không biết bằng sức mạnh gì đã mở bung được ổ khoá, thoát vào rừng sâu, để lại đoạn xích sắt chỏng trơ và nỗi lo sợ của đoàn phim cùng phiền toái cho chàng diễn viên đa tình.

Hà Dương ngơ ngẩn cùng đoàn phim lao vào rừng tìm con vượn xiếc với hy vọng mong manh.

May thay, tình yêu dù cuồng dại, dù mê đắm đến đâu, bao giờ cũng chỉ nhất thời, sự sống đó mới là vĩnh cửu, là cần thiết trên hết.

Con vượn xiếc được thuần dưỡng, quen ăn những món ăn do người nuôi, sau vài ngày nông nổi trao thân đã không thể gửi phận được cùng với bạn tình nơi rừng xanh núi thẳm, bất chấp cả gốc gác, cả cội nguồn xứ sở, cả tình yêu thân xác đang rực cháy…nó đành phải dò dẫm mò về gần chỗ đoàn phim.

Hà Dương phát hiện ra cặp tình nhân vượn quanh quẩn, lập tức hiểu ra vấn đề.

Không căm ghét con vượn hoang đã làm mình khốn đốn, thậm chí trong thâm tâm còn kính nể, ngưỡng mộ kẻ quyến rũ tài năng nhưng Hà Dương vẫn nung nấu ý định phải bắt bằng được nó.

Tuy vậy bắt bằng cách gì thì Hà Dương chịu, con vượn xiếc sợ sệt không dám mò về lều dù nó vẫn lảng vảng dò xét.

Cuối cùng Hà Dương phải nhờ đến cô diễn viên phụ.

Nói chung phụ nữ bao giờ cũng nhanh nhạy và quyết liệt hơn đàn ông, Hà Dương nghe mách nước của cô ta, tán thuốc ngủ trộn vào đồ ăn mang đến chỗ con vượn xiếc thả.

Đôi tình nhân vượn âu yếm săn sóc cho nhau ăn rồi lăn ra ngủ mê mệt, Hà Dương chỉ việc thộp từng con dễ ợt mang về lều. Cũng chính cô diễn viên hiến kế chỉ cần xích con vượn hoang là đủ giữ được cả đôi.

Chuyến đó đoàn phim thực hiện những cảnh quay có diễn viên vượn một cách suôn sẻ. Hà Dương mang theo con vượn hoang về Hà nội, anh đặt tên nó là Đông Joăng.

Cô diễn viên phụ xinh đẹp sau những mưu kế tuyệt vời đã lập tức bị Hà Dương bỏ rơi vì quá kinh sợ với cái lý đơn giản nhưng rất thuyết phục, với con vật, cô ta còn giỏi giang thế huống hồ con người, dính vào cô ta, chỉ có nước đeo gông cả đời, chạy đâu cho thoát.

Có Đông Joăng, Hà Dương nảy ý định lập quán kinh doanh.

Đông Joăng, sau một thời gian được Hà Dương huấn luyện đã thành thục những ngón nghề điệu nghệ như biết bật bia, biết châm thuốc, rót rượu, bản thân nó ăn uống, hút hít tất nhiên không bằng con người nhưng có thể coi như một dân chơi chính tông, vô khối các bà, các cô bốc đồng cụng ly trăm phần trăm với nó đã say khướt đổ kềnh đổ càng gục ngay tại quán.

Hà Dương cắt may cho nó nhiều bộ quần áo lạ mắt, rất mốt và thay đổi soành soạch.

Đông Joăng phần vì xa cách, phần nghiện ngập trà thuốc đã quên hẳn mối tình sét đánh của mình.

Nó không còn gầm gào quậy phá như những ngày đầu, hoàn toàn chấp nhận với thân phận mới, thậm chí nó được tự do đi lại, ngủ nghê như những người làm công khác.

Tất nhiên Đông Joăng có hẳn một vương quốc riêng là chiếc lồng sắt kiến trúc cầu kỳ và vô cùng bắt mắt đặt ngay giữa khuôn viên quán.

Sự đời có những đổi thay không ngờ. Hôm ấy, Đông Joăng mặc một bộ bò cộc nom rất ngộ, lăng xăng chạy ra chạy vào nhắng nhít tít mù.

Quán vắng chỉ có hai bàn khách. Mấy bà khách ruột giầu sang, chán cảnh chơi bời xa hoa đến đây tán gẫu tiêu khiển cùng Đông Joăng.

Đã quá quen với những màn thoại cợt nhả kiểu như :

- Chàng Đông Joăng đẹp trai, châm cho em điếu thuốc.

-Đông Joăng yêu quý, chàng là nguồn nứng bất tận của em…

Đại loại thế, đáp lại những lời đường mật kia, chẳng hiểu con vượn có biết đấy chỉ là những bông lơn giả dối và rỗng tuếch hay không nhưng từ gương mặt nó bao giờ cũng ánh lên niềm thích thú chân thành.

Bản năng giống nòi được kích thích bởi hoàn cảnh thuận lợi tạo nên những phản xạ tuyệt vời, nó nhún nhảy làm điệu bộ của những tài tử xi nê nổi tiếng mà ông chủ học mót truyền dạy cho nó, kiểu như hôn gió, rạp người, lắc mông…

Táo tợn hơn nó còn cả gan dám vuốt ve khoảng ức trần trắng bốp, xốp xộp của một mụ nạ dòng sồn sồn, nổi tiếng chớt nhả, mặt nhẵn lỳ ở quán.

Tiếng cười dâm đãng của người đàn bà này cất lên chính là lúc con vượn hứng chí luồn hẳn bàn tay lông lá vào sau lần áo chứa bộ ngực núc ních bùng nhùng của bà khách khiến Hà Dương phải đỏ mặt quay đi.

Có lẽ chỉ bà khách ruột này hiểu được cú đỏ mặt đột xuất của chàng diễn viên. Có gì đâu đã dăm bảy bận bà khách này say mềm gục qua đêm tại quán.

Say chỉ là cái cớ, nhẽ chính như Hà Dương cao hứng cất ra khi cuộc tình chớp nhoáng giữa mụ nạ dòng và chàng trai hào hoa đang lúc nước sôi lửa bỏng là anh ta ban phát sự từ thiện cho quý bà.

Không đơn giản thế đâu, bà khách có xe hơi tự lái này chẳng dễ dàng nhận không sự ban phát tình cảm, bà có những thứ khác mà Hà Dương thèm khát.

Nhưng thôi, Đông Joăng của chúng ta làm sao hiểu được nhẽ đời ấy.

Duy nhất nó chỉ biết lặp lại phần nào những động thái mà trí óc súc vật tăm tối lờ mờ thu nhận được. Mà điều này Đông Joăng quá thạo.

Hiếm hôm nào ông chủ nó không có những thực khách mến mộ lưu trú qua đêm.

Hà Dương từ ngày mở quán đã quyết định không neo lại bất cứ một mối tình nào, anh thả thời gian và đam mê theo những cuộc tình chốc lát. Điều đó đã thành triết lý sống của Hà Dương.

Sự quá trớn của Đông Joăng không kéo dài được lâu bởi bà khách đã cười đến ngưỡng, hất mạnh tay nó ra vì nhột một phần, lớn hơn là vì tởm. Tởm chứ, lông lá nhường kia…

Cuộc vui cứ thế kéo, không ai để ý đến chiếc bàn khuất dưới một lùm lá lòa ròa có một thực khách đang độc tửu.

Người này phóng cặp mắt khinh thường nhìn đám khách sồn sồn đang nghiêng ngả.

Chỉ đến khi Đông Joăng lăng xăng sán lại gần thực khách đàn bà ấy giở thói ỡm ờ chòng ghẹo thường nhật bằng cách tót lên lòng ngồi thì tất cả mọi con mắt trong quán đều dồn tụ cả về phía đó.

Sau cú quăng mạnh đầy khinh bỉ, Đông Joăng kêu choeng choéc nằm bết bệt trên nền quán. Những tiếng cười tắt lịm.

Hà Dương vùng chạy đến như để trừng trị cái kẻ hỗn xược dám bất nhã động đến linh hồn của “Sơn nữ ca”.

Ngay lập tức anh ta sững lại.

Trời ạ, một khuôn mặt trắng lạnh như băng. Một cặp mắt nhìn thôi miên như hóa đá vạn vật. Trẻ! Rất trẻ! Đẹp! Tận cùng đẹp!

Tạo hóa giầu trí tưởng bở cũng chỉ dám mơ đến độ ấy.

Sao lại có một đóa hoa lộng lẫy nhường kia lạc vào “Sơn nữ ca”. Hà Dương ngây người nhìn không chớp mắt.

Kẻ dày dạn tình trường không thốt nổi một lời. Đông Joăng như chia sẻ cảm xúc cùng ông chủ, quên phắt đau đớn, lồm cồm đứng dậy tay cào cào vào ống quần Hà Dương.

Đám thực khách sồn sồn có vẻ như bị xúc phạm bởi sự xuất hiện của cô gái, lục tục giải tán.

Một kết cục không ngờ trước đã xảy đến chóng vánh và êm ả.

Như thể có sự sắp đặt. Tiền định chơi trò chi quái gở để oái ăm đưa đường dẫn lối cho kẻ háo sắc gặp được mỹ nhân.

Trước sắc đẹp lạnh lùng ma mị, Hà Dương không thể kiềm nổi mình, hoàn toàn biến đổi.

Từ vai trò một kẻ chinh phục, Dương như gã trai mới lớn bỡ ngỡ lần đầu lạc vào vườn cấm.

Dạt dào là thế, mạnh mẽ, tự tin là thế, Hà Dương bỗng thấy mình vụng dại, cằn cỗi như triền đá trùng điệp cao nguyên khô khát bất ngờ gặp vụm đất rừng tươi tốt màu mỡ xanh um.

Người con gái xa lạ với ánh nhìn thăm thẳm lạc từ miền sơn cước đã hóa giải mọi sự trống vắng khuất lấp trong miền hưởng lạc của gã trai si tình, đánh bạt đi triết lí yêu đương tạm bợ.

Sống như chưa bao giờ được sống, yêu như chưa bao giờ được yêu, Hà Dương lao vào cuộc tình mới với tất cả bản năng dồn nén cộng niềm khao khát của lý trí cuồng say.

Chóng vánh, cực kỳ chóng vánh, sao đã đổi ngôi. Người con gái trước đó còn xa lạ ngồi độc tửu trong vai khách hàng, một bước biến thành bà chủ.

Tiếng tăm “Sơn nữ ca” càng nổi như cồn. Cái tên quán đặt vô tình giờ như ứng nghiệm.

Rành rành một sơn nữ hẳn hoi, Miền vốn là cô gái mạn ngược lần đầu tìm về thành phố.

Vẫn những món nhắm ấy, quang cảnh ấy nhưng không khí đã hoàn toàn thay đổi.

Thực khách cũng vậy, đám sồn sồn giống cái thưa dần rồi lui hẳn, thay vào đó là bàu đoàn thê tử đủ các loại đàn ông từ lão già đầu hói đến gã trai non tơ tóc nhuộm.

Họ đến, quăng tiền để nhìn ngắm, để giao tiếp để đối ruợu với bà chủ xinh đẹp, lạnh lùng đấy nhưng bao giờ cũng khơi bùng nhục dục, đốt cháy ngọn lửa lòng các đấng nam nhi.

Hà Dương dần dần mai danh trong “Sơn nữ ca” nhường bước cho bà chủ nõn nường để rồi một ngày Dương hoàn toàn ẩn tích trước người vợ kiêu sa bí hiểm.

“Miền sơn cước”, dẫu không thay tên đổi biển nhưng thực khách đàn ông lan truyền nhau về biệt danh người đẹp, giờ là thương hiệu của thực quán.

Hà Dương sống những ngày viên mãn đến tột đỉnh.

Mê mẩn người vợ sét đánh đã đành, sự thu hút thực khách của Miền khiến cho doanh thu quán tăng vùn vụt.

Cùng lúc được cả tình lẫn tiền lại không vất vả họa có là rồ dại mới không biết sướng.

Chỉ tội nghiệp cho Đông Joăng.

Khi Miền xuất hiện, cú quăng chí tử đã là điềm báo sự thất sủng của diễn viên kép này.

Khi không còn đám thực khách nữ tụ bạ, đôi bạn Hà Dương và Đông Joăng hết đất diễn đâm ra thất nghiệp.

Đám đàn ông thấy Đông Joăng tỏ ra ghê tởm, nhăn mũi, nheo mắt xua đuổi.

Dương mê mải với bạn tình, với công việc, cũng dần sao nhãng Đông Joăng.

Có những lúc Hà Dương phải tránh ánh nhìn khẩn thiết van lơn và oán trách của con vật.

Miền thì khỏi bàn, không hiểu sao cô ta căm thù Đông Gioăng đến vậy.

Chỉ loắng quắng được ít ngày, nếm đủ đòn thù, Đông Joăng bị lột trần trở về với hình hài nguyên thủy bị tống vào vương quốc của mình là chiếc lồng sắt.

Buồn bã, u sầu, lồng lộn, tức tối, Đông Joăng lúc treo người thất thần, lúc cào cấu chửi bới bất lực trong chiếc lồng giờ đã là chốn ngục tù thực sự.

Thi thoảng vào những lúc tâm trạng, Hà Dương cũng để mắt đến Đông Joăng.

Dương tháo cũi cho Đông Joăng hít thở chút ít không khí tự do.

Những lúc ấy, con vượn lại được trở về với ngày tháng vinh quang, nó chạy nhảy, hí hớn nô đùa trong ánh mắt kiềm tỏa của bà chủ.

Nhưng những khoảnh khắc hạnh phúc ấy dần một ngắn lại, thưa dần.

Phần vì ảnh hưởng của Miền ngày một lớn, phần nữa, trong tột đỉnh thăng hoa, Hà Dương tớn lên nhận một vai diễn trong một bộ phim thị trường được hứa hẹn là đắt khách. Anh thường xuyên vắng nhà.

Đám thực khách trong quán được sự đồng lõa của bà chủ mỗi ngày lại tìm ra một trò chơi mới hành hạ Đông Joăng.

Lúc thì họ hắt ruợu, vứt đầu mẩu thuốc lá, lần thì dùng cả mắm tôm vây bủa khắp lồng. Que gậy chọc đánh không kể khiến Đông Joăng mình mẩy chi chít vết thương.

Đông Joăng không vừa, nó phản ứng một cách rất con người.

Dù đã bị nhốt nhưng không ít khách sơ ý bị nó nhanh tay giật được kính, bút, tiền, cả điện thoại di động.

Mặc cho khách cuống quýt tìm cách lấy lại, Đông Joăng bình thản trả thù.

Phàm đã vào tay Đông Joăng không một vật gì có thể quay trở lại được với chủ nhân.

Kính, bút bị bẻ gẫy, tiền bị xé, điện thoại bị đập bể, chắc ăn hơn nó còn đái vào cho tịt hẳn.

Có lần, gã khách ruột đầu hoa râm, chủ của một tổng công ty lớn, kẻ thân nhất của bà chủ và luôn đầu trò hành hạ Đông Joăng bị nó vợt được nguyên cả chiếc ví khi gã này sơ ý đứng bên lồng sắt móc ví lấy vật gì đó.

Gã khách tức giận thét lên. Bà chủ cuống quýt gọi nhân viên mở khóa lồng sắt để lấy lại.

Đông Joăng không bỏ lỡ dịp may, nó treo mình trên nóc lồng tránh đòn, tay lôi từng thứ giấy tờ, tiền bạc, cắn xé điên cuồng trong sự bất lực của gã khách.

Và nữa, khi lôi nguyên chiếc bao cao su OK trong ngăn nhỏ, Đông Joăng đã khiến tất cả thực khách cùng bà chủ phải quay mặt.

Nó kêu khèng khẹc, xé vỏ thuần thục, lồng chiếc bao vào dương vật, tay chỉ trỏ vào thẳng mặt bà chủ.

Trời xui đất khiến, đúng lúc ấy Hà Dương mò từ đoàn phim về, chết sững trước cử chỉ này của Đông Joăng.

Dương vốn thuộc tính con vật. Nó là một kẻ tinh khôn, có năng khiếu lặp lại những động thái cử chỉ trong tầm quan sát.

Hành động này đã có lần Đông Joăng thực hành với bà khách sồn sồn khiến bà ta được một phen cười vỡ bụng.

Chưa kịp phản ứng, ánh nhìn sắc lạnh của Miền đã trùm lên Hà Dương khiến anh câm bặt.

Số phận Đông Joăng lập tức được quyết định.

Chính vị khách hoa râm bỏ một món tiền lớn. Nó phải bị giết thịt.

Hà Dương đưa Đông Joăng ra khỏi chốn ngục tù.

Trước đó không một ai làm nổi việc này.

Anh ôm lấy nó, cánh tay hơi xiết lại như một lời từ biệt.

Dường như Đông Joăng linh cảm được tình thế của mình, nó đăm đắm nhìn vào cặp mắt rân rấn của ông chủ.

Cặp mắt đang ân hận xót xa bất lực khi không thay đổi được số phận của con vật từng gắn bó thân thiết.

Hà Dương quay mặt, tránh cái nhìn của nó. Đông Joăng rùng mình, ứa lệ.

Nó đã hiểu tất cả.

Vào lúc kẻ đầu bếp giơ cánh tay đồ tể vươn ra đón lấy Đông Joăng chính là lúc nó cắn mạnh vào tay Hà Dương rồi vọt mình rất nhanh, quăng người vút lên bờ rào và nhanh chóng tẩu thoát lên cây.

Đám đông người ngây ra.

Đông Joăng rít lên giận dữ và bất ngờ vạch chim vỗ vỗ đầy khinh bỉ, sau đó nó biến mất trong tán lá rậm ròa.

Đêm hôm đó, Hà Dương sa vào trạng thái vô cùng nặng nề.

Một thời “Sơn nữ ca” cùng Đông Joăng không phải không có những kỉ niệm đẹp.

Vẫn biết tất cả những người đàn bà trong đời mình giờ đây đều mờ nhạt trước người vợ trời cho nhưng cái quyết định trừ khử Đông Joăng khiến Dương không thể không suy nghĩ.

Cô ta từ đâu đến, tại sao đám khách đàn bà lại bỏ đi, tại sao đàn ông nhâu đến, tại sao Miền lại ghét bỏ Đông Joăng?

Bao nhiêu câu hỏi quay cuồng khiến ánh nhìn của người đàn ông dù đang mê đắm vẫn hiện nét hoang mang.

Dương nốc ruợu cật lực cố tìm câu trả lời.

Miền như không để ý đến tâm trạng Hà Dương.

Chỉ khi Dương đã say tít, cô mới ngồi đối diện chồng.

Một tích tắc, cái nhìn lạnh băng ma lực của Miền đã đốt sạch men ruợu.

Lúc này Hà Dương cũng chỉ như bao gã đàn ông tầm thường khác ngã gục trong men tình.

Khi Dương chồm lên người đàn bà xinh đẹp thân thiết nhưng vẫn bí hiểm xa lạ cũng là lúc một tiếng động mạnh phát ra nơi cửa khiến cả hai giật mình rời nhau.

Một bóng đen vút qua chập chờn.

Đông Joăng. Đúng là Đông Joăng! Con vật đã trở lại trong khát vọng trả thù.

Sau đó, hiếm hôm nào Đông Joăng không quay lại “Sơn nữ ca” phá đám.

Khi thì đồ lót đang phơi của Miền bị cuỗm sạch.

Khi thì một thực khách loạng quạng ra về hứng hẳn một bãi tiểu từ trên cây tương xuống khai mù.

Liều lĩnh hơn, Đông Joăng còn mò vào tận phòng ngủ của Miền nhét đủ thứ bậy bạ vào giưòng nệm, ví xách.

Tất nhiên nó không tha đồ đạc của kẻ tình địch, lấy đi bất cứ thứ gì có thể lấy được.

Cũng lạ Đông Joăng chẳng bao giờ chạm vào bất cứ vật gì của Hà Dương.

Miền nổi điên thuê người lùng bắt.

Rình rập, giăng bẫy, thậm chí một nhóm thiện xạ mai phục bằng súng thể thao cũng không làm Đông Joăng nhụt chí.

Nó rình đúng lúc sự vây bắt sơ hở lại mò về quấy rối.

Nhưng cũng chỉ một dạo, Đông Joăng như đã chán bỏ đi bặt tích.

Không khí giữa Hà Dương và Miền trở nên căng thẳng. Không nói, nhưng Hà Dương rơi vào cơn khủng hoảng trầm uất.

Anh mất ngủ triền miên. Và say cũng triền miên.

Đêm đêm, Hà Dương tha thẩn ra sân ngước mắt nhìn lên vòm lá. Để đợi Đông Joăng hay là anh nhớ về một thời buông thả, tự do và khao khát vừa trôi qua chưa xa?

Vẫn mê đắm nhưng bắt đầu Hà Dương manh nha mơ hồ về một điều gì đó không thể cắt nghĩa.

Một đêm, Đông Joăng đường đột xuất hiện.

Hà Dương đi diễn về muộn, lúc mở cửa vào nhà, bất ngờ Dương gặp Đông Joăng đu từ cành cây xuống.

Con vật như muốn nói điều gì đó với người chủ cũ.

Hà Dương đang say vì trận liên hoan tổng kết kết thúc đoàn quay, vô cùng mừng rỡ.

Đông Joăng bạo dạn sà hẳn xuống sân quán.

Hai kẻ thâm tình một người, một thú như nhảy nhót như quay cuồng.

Chính lúc Miền từ trong nhà lao ra với nỗi căm hận tột độ thì trời sầm sập đổ mưa.

Đông Joăng tót lên cây choeng choéc kêu đầy tâm trạng, còn Hà Dương thì gục xuống sàn mưa vì cơn say đã ngấm lịm.

Kỳ lạ trong cơn mê sảng, Dương nghe rất rõ âm thanh đêm hoan lạc dạo nào của đôi bạn giữa thăm thẳm đại ngàn.

Đêm đó mất điện, Hà Dương ngủ miên mải. Đến sáng bạch anh mới tỉnh giấc.

Sự trống vắng đến rợn người khiến Dương chồm dậy.

Nỗi mơ hồ bấy nay đã có lời giải. Miền đã bỏ đi không lời từ biệt, không một dấu tích.

Hà Dương bật mạnh cánh tủ. Rỗng không! Trong tâm trạng giống như vậy, anh tha thẩn đi dọc phố Cây Bàng. Đám người hiếu kỳ đang xúm xít đen đặc khúc phố. Trên đường điện cao thế, một sinh thể cháy đen còn vắt vẻo. Một con vượn, ai đó kêu lên.

Đông Joăng! Thôi, thế là xong phận mày! Bỗng Hà Dương lảo đảo tựa vào tường rào, tim thắt lại vì sự thật vừa phát hiện.

Hà Dương đã hiểu ra nguyên nhân sự bặt tích và lần trở lại đêm qua cùng tiếng kêu của Đông Joăng.

Tại sao anh và cả con vật lại không thể biết sớm hơm điều đó? Tại sao?

Phố Cây Bàng có nơi trú ngụ những con vật nuôi của rạp xiếc. Chỉ cách “Sơn nữ ca”một quãng đường.

Bây giờ, ngay bên trong sân, sát sạt hàng điện cao thế, con vượn xiếc đang lồng lộn trong chuồng man dại tru lên tiếng của đại ngàn nguyên thủy./.

Hết

Truyện ngắn: Tiếng hót lồng

Phạm Ngọc Tiến

Tôi quen Trọng quãng vài bốn năm nay. Cũng là do công việc. Anh là đạo diễn phim, trưởng thành từ diễn viên.

Mươi lăm năm trước, Trọng có một vai diễn xuất sắc.

Nhân vật mà anh thủ vai, nổi tiếng đến mức, từ văn học bước thẳng vào đời sống.

Có thể nói không quá lời một chút nào, cũng không sợ Trọng giận, thành quả hôm nay anh có được, là nhờ ăn theo nhân vật tiếng tăm kia.

Trọng lành tính và mặc dù, chơi với anh khá thân, giữa chúng tôi vẫn có nhiều điểm không thể tương đồng.

Điều này có thể là do nghề nghiệp.

Trong khi cánh nhà văn chúng tôi thường hay la cà trà rượu, thì các đạo diễn nói chung sống chỉn chu, chừng mực và mỗi người đều tạo cho mình một thú chơi riêng.

Với Trọng, anh đi xe phân khối lớn, đeo vòng bạc, dây chuyền bạc, nhà to với đủ cây cảnh, vườn quả, ao cảnh, hòn non bộ và đặc biệt là thú chơi chim.

Nhà Trọng nuôi rất nhiều chim. Lần đầu đến chơi, tôi vô cùng hoang mang khi thấy vô số các loại lồng, trên cao có, dưới thấp đầy, lồng to, lồng nhỏ, san sát, lủng liểng treo khắp khu vườn rộng.

Chim chóc nhiều vô kể, con lớn, con nhỏ, con đen, con trắng, con nâu, con vàng, chen chúc ríu rít. Như bất kỳ dân chơi nào cũng kiêu hãnh với cái thú của mình, Trọng tỷ mẩn giới thiệu từng lồng, từng loại.

Tôi vốn dị ứng với cảnh chim lồng nên không mấy hứng thú, đành phải kiên nhẫn bấm bụng chịu đựng.

Nhiều lắm, từ loại phổ thông nhất như cu gáy, sáo sậu, khướu, chích choè đến những loại sang trọng và quý hiếm như hoạ mi, thiên thanh, công đất...

Đặc biệt Trọng nuôi một con quạ, lông đen mướt và tinh khôn vô cùng. Nó phát âm tiếng người cực kỳ chuẩn.

Khi đã quen thân Trọng, tôi mới phát hiện ra điều này: Con quạ quái đản được treo tít trên lưng chừng cây trong một chiếc lồng sắt nhưng lại phân biệt được rành rẽ các loại khách nhà Trọng.

Khách lạ, bao giờ nó cũng kêu lên điệp khúc: “ Có khách,có khách”.

Bọn trẻ hàng xóm vào nhà, nó biết tỏng đám này chỉ nghịch ngợm, phá phách và mục đích duy nhất là trộm quả vườn, nó hét lên đầy doạ nạt: “Trộm, trộm, bắt lấy nó, bắt lấy nó”.

Còn cánh chúng tôi, có lẽ con quạ có cảm tình đặc biệt, nó reo lên vui vẻ: “ Rượu, rượu, Trọng ơi, rượu, rượu”.

Nhìn Trọng viên mãn đi giữa bầy chim của mình như viên tướng đang điểm đạo quân nhốt, tôi thấy rờn rợn.

Những con chim của rừng xanh, của núi đỏ, của ruộng đồng, dòng sông, cánh bãi, giờ quy tụ ở khuông vườn này, sau những nan lồng kia, không biết chúng nghĩ gì?

Liệu chúng có còn nhớ được về nơi gốc gác của mình?

Đa phần lũ chim còn giữ được giọng hót của giống nòi.

Còn con quạ lông đen mướt nói tiếng người kia... tôi rùng mình không dám nghĩ tiếp.

Trong sự xúc động đầy mặc cảm, tôi thương xót tận cùng cho lũ chim lồng.

Nhưng đấy chỉ là cảm xúc của lần đầu tiên.

Dần dà tôi thấy thú chơi chim của Trọng cũng chỉ là lẽ thường. Nó cũng hệt như những thú chơi khác của những người khác.

Tôi biết có một hoạ sĩ. Anh có bức tranh vẽ người đàn bà khoả thân, đang tắm chậu. Người hoạ sĩ này quý bức tranh đến mức, ngày nào anh cũng ngồi uống rượu hàng giờ bên bức tranh. Không ít lần uống quá đà, anh khóc, nước mắt ràn rụa.

Tôi không am tường hội hoạ nên không thể biết giá trị của bức tranh nhưng tôi biết, anh thương người đàn bà trong chậu kia. Còn tôi, tôi lại thấy thương anh.

Với Trọng cũng vậy, dù rất thương lũ chim lồng nhưng tôi không hề thấy căm ghét cái thú chơi mà tôi cho là tàn nhẫn kia.

Thậm chí có lần tôi còn lây cái vui của anh khi bẫy được một con chim lạ.

Trọng hồ hởi khoe:

-Hay lắm các ông ạ. Vườn nhà tôi, chim lạ về rất nhiều. Chỉ một hai buổi là tôi sập được chúng.

Có gì đâu, Trọng chỉ cần mở cửa lồng chim mồi, vài buổi gù nhau, con chim lạ cùng giống đã tự nguyện lao vào bẫy, để sống kiếp chim lồng.

Dù vẫn thương xót chúng nhưng quả thực, tôi không tài nào hiểu được tại sao lũ chim lại ngu ngốc đến vậy.

Cũng lại chính Trọng làm cho tôi hiểu.

Và chính cái sự “hiểu” này khiến tôi chung chiêng mất một dạo. Tôi buộc phải thay đổi quan niệm về lũ chim với một nỗi buồn ghê gớm.

Lần đó, Trọng vừa giành được tấm huy chương vàng trong Liên hoan với một bộ phim về đề tài chiến tranh. Chúng tôi đến nhà anh uống rượu mừng.

Chủ khách đều vui, nghiêng ngả uống đến tận đêm.

Cuộc vui ồn ã, đúng vào lúc Trọng đang hào hứng khoe phải dùng đến ba tạ thuốc nổ cho phim, thì từ phía sân vườn vọng vào tiếng hót cúc cu.

Trọng ngừng nói, lặng người đi. Tôi buột miệng:

-Chim cu gáy.

Mọi người ngơ ngác. Phản ứng nhanh của tôi thực ra là do tác dụng của rượu, thấy tiếng cúc cu thì buột thế, chứ tôi thì mít mịt biết gì về chim với chóc.

-Đúng thế! - Trọng xác nhận. Anh nhìn tôi xúc động - Ông Tiến tinh lắm. Nhà tôi có đến chục con cu gáy nhưng con này quý nhất. Chỉ có nó biết hót về đêm. Cũng chỉ có nó có giọng bổ ngũ.

Bỏ qua đề tài thuốc nổ đánh trong phim. Trọng giảng giải về bổ ngũ, về nết quý hót đêm.

Tất cả ậm ừ nghe. Tôi láng máng hiểu, đại loại giọng bổ ngũ quy ra tiếng người nó hót được năm âm tiết: Cúc-cù-cu-cu-cu...

Đang đà hứng khởi, Trọng phon phót chạy ra vườn xách vào lồng chim được quây kín bằng vải đỏ, đặt cạnh tôi:

-Nó đấy. Tặng ông!

Tôi ngỡ ngàng. Đã nói, tôi thương lũ chim lồng, sao có thể nuôi chúng.

Nhưng bạn đang vui, tôi cũng không nỡ từ chối.

Trọng lại chạy ra vườn. Anh xách vào tặng đủ mỗi người một lồng chim.

Không ai từ chối cả. Người ta đang mừng, đang vui, đang xúc động, từ chối mình còn ra cái giống gì nữa.

Nhà văn Trung cầm chiếc lồng phần của mình có con chim quý công đất, ngắm ngắm nghía nghía đầy dò xét.

Đang vui, Trọng hứng khởi tặng phứa như thế cũng là vì say nữa, chứ tôi thừa biết Trọng rất quý chim của mình, chưa bao giờ lại vung vãi thế này.

Lại nói nhà văn Trung, anh lớn hơn bọn tôi gần một giáp, nhà ở làng Láng cũng có vườn nhưng chúa ghét nuôi chim, bây giờ Trung nheo mắt nhìn con công đất:

-Con công này, quý quá. Thôi, đổi cho tớ lồng bìm bịp.

Trọng lại phon phót chạy đi đổi lồng. Nguyên Trọng có đôi bìm bịp rất đẹp, được nuôi từ nhỏ.

Đã có lần Trọng nói về đôi chim này. Đại loại, bìm bịp đạt đến mức mắt đỏ, tròng trắng, cổ cườm, đuôi xoè dải quạt là cực quý.

Đôi chim này có một kết cục khá bất ngờ. Thảo nào tôi thấy nhà văn Trung mỉm cười rất mãn nguyện.

Ngay sáng hôm sau tôi có việc đến nhà Trung. Anh đang hì hụi đào bới một cái hốc ở góc vườn.

Thấy tôi ngơ ngác nhìn chiếc lồng rỗng không vứt ở gần đấy, Trung tủm tỉm vẫy tôi lại chỉ vào chiếc bình thuỷ tinh, trong đó đôi bìm bịp kiêu hùng đã vật vờ, lút ngập trong rượu

- Bí mật đấy nhé, bìm bịp là loài trung tính, chế được cả âm lẫn dương. Đôi chim này tớ mết đã lâu, không dễ mà tìm được đâu. Tớ hạ thổ. Một trăm ngày nữa cậu đến đây, anh em mình đánh chén. Bí mật đấy, không được hở cho thằng Trọng biết kẻo nó tiếc, nó giận.

Tôi nhìn hai cái xác chim co quắp, lông lá lềnh phềnh muốn cười mà không cười nổi.

Thảo nào, trước đấy, đến nhà Trọng bao giờ Trung cũng xuýt xoa trước lồng bìm bịp của Trọng.

Suy cho cùng, kết cục này của đôi chim cũng không đến nỗi nào. Ít ra nó cũng hữu ích một cách trực tiếp với Trung trong vai trò trung tính, chán vạn lần hơn kiếp chim nhảy nhót trong lồng.

Con chim gáy tôi mang về từ nhà Trọng đêm ấy không ngờ lại gây khá nhiều rắc rối.

Phải rất vất vả tôi mới tha được lồng chim về.

Quãng nửa đêm, vợ tôi ra mở cổng, thấy tôi khư khư ôm cái lồng phủ vải đỏ, đã hoảng hồn nhảy bật ngược:

-Ông lại làm cái trò gì nữa thế này? Giời ạ, chồng với con!

-Cu gáy bổ ngũ.

Tôi giải thích theo lối của người say đã đến ngưỡng kiệm lời.

Rồi vợ tôi cũng hiểu chuyện gì đã xảy ra.

Thuộc tính chồng, vợ tôi không nói gì thêm, lẳng lặng xách lồng chim vào nhà.

Sáng hôm sau, tôi tỉnh dậy đã thấy trong bề bộn, ngổn ngang của hơn chục mét vuông dành cho tôi, chiếc lồng chim được đặt ở một góc trống, thoáng.

Tôi hiểu ngay sự sắp xếp này. Vợ tôi đã không chấp nhận con chim.

Cũng không sao cả, những việc như thế này, tôi biết cách tự mình giải quyết.

Theo lời Trọng dặn, tôi rót nước, rải thóc, quây lại tấm vải đỏ để con chim đỡ sợ khi phát hiện lạ nhà.

Hôm ấy không xảy ra chuyện gì. Đêm, tôi đang đánh vật với chồng bản thảo thì đột nhiên con chim cất tiếng gáy: Cúc-cù-cu-cu-cu....

Tôi sững người.

Tiếng hót dịu dàng, thật dịu dàng, trong văn vắt từng nhịp, từng nhịp.

Căn phòng chật hẹp giây phút tràn ngập âm thanh tươi lạ.

Đang mệt mỏi khô khát, đang còm cõi đơn độc, cõi hồn của tôi bỗng chốc đắm vào dòng suối mát rượi.

Kỳ lạ, thật kỳ lạ, tôi chưa bao giờ được tận hưởng khoảnh khắc kỳ diệu đến thế của thế giới âm thanh tuơi lạ.

Nhưng cũng chỉ được đêm đó. Hôm sau, hôm sau nữa, thoảng nhặt tiếng hót mới phát ra, lúc thì ngày, lúc thì đêm, rời rạc, khô khốc, cũng không còn đủ nhịp cúc cu năm tiếng kia nữa.

Đến hôm thứ tư tôi phát hiện ra con chim bỏ ăn và phá lồng liên tục.

Nó lấy sức toàn thân lao đầu vào vách nan kiểu như muốn tự tử.

Tôi sợ hãi lôi con chim ra khỏi lồng.

Tội nghiệp quá, đầu nó đã tung toé cả lần da, trơ nguyên hộp sọ, máu bết cứng thẫm.

Tôi lấy cồn và bông lau vết thương cho con chim. Nó giãy đạp không chịu.

Có lẽ nó gặp mối đe doạ nào đó, tôi gạn hỏi con gái. Con gái tôi lắc đầu:

-Mẹ cấm hai chị em con lại gần lồng chim.

Nguyên nhân vợ tôi không chấp nhận con chim đã rõ.

Có lẽ vợ tôi sợ dịch bệnh từ con chim nguy hiểm này lan ra. Đó là bệnh nghề nghiệp của một bác sĩ.

Tim tôi chợt thắt lại, hay là con chim biết mình đơn độc.

Tôi thương nó vô cùng. Hôm sau, tôi đèo lồng chim ra ngoại thành.

Đang mùa gặt, lúa trải vàng đồng. Tôi tìm một chỗ thuận tầm quan sát để canh chừng chuột bọ, rồi mở cửa, dấp lồng chim vào giữa một khoảnh lúa.

Rất lâu vẫn không thấy con chim động tĩnh gì.

Thi thoảng, có một con chim đồng bọn của nó bay xoạch từ ruộng lúa vút lên.

Thời gian chậm chạp trôi, tôi đã hết kiên nhẫn, chạy ra chỗ lồng chim.

Con chim quắp hẳn chân vào nan lồng.

Tôi thở hồng hộc.

Đây là đồng đất của mày, là cội rễ của mày, chim ơi, sao không hót lên, sao không bay về với xứ sở của mình.

Tôi giật tung mảnh vải đã được tháo đang bay phơ phất. Nhìn rõ đi chim ơi, đây có phải cánh đồng của mày không?

Con chim vẫn quắp chặt chân vào nan lồng. Nó không hề nhận biết được khoảng trống tự do đang dành cho nó.

Trong một xúc cảm căm giận tột độ thay vì lôi con chim thả ra, tôi sập mạnh cửa lồng. Tôi đèo thẳng lồng chim về nhà Trọng.

Trọng đang huýt sáo luyện chim hót. Hỗn loạn thứ âm thanh của dàn đồng ca vênh giọng.

Con quạ kêu lên mừng rỡ:

-Rượu, rượu, Trọng, rượu, rượu!

Trọng đỡ lồng chim treo vào chỗ cũ. Anh đã hiểu tất cả:

-Hôm trước, tôi bốc quá. Biết ngay mà, nuôi cũng phải có tay đấy. Rõ hoài của... Nó mệt lả đi rồi. Chắc chết!

Anh tiếp tục huýt sáo. Âm thanh ran ran.

Tôi giật mình vì có tiếng quẫy đạp trong lồng con cu gáy.

Trọng lại gần. Bất ngờ từ lồng chim cu phát ra tiếng hót rành rẽ, khoẻ khoắn.

Tôi chạy lại. Trọng cười rổn rảng:

-Ông thấy chưa? Đủ tiếng nhé. Đúng là bổ ngũ chưa?

Quả có thế. Tiếng hót lảnh lót vừa dứt, tôi bàng hoàng nhìn thấy nó rũ xuống, chết gục.

Ra vậy, tôi lạnh ngắt người vì ý nghĩ vừa ùa đến. Con chim hót lời cuối cùng.

Nó chỉ hót khi sống giữa bầy đàn của nó. Nó chỉ hót ở nơi cuộc sống nó đã quen.

Tự nhiên tôi nghĩ đến người hoạ sĩ có bức tranh thiếu nữ khoả thân tắm chậu. Cũng thế cả, đó là kẻ tự lừa dối mình bằng sự huyễn hoặc.

Lòng tê tái, mặc cho con quạ lồng lộn chào mời: “Rượu, rượu, Trọng, rượu...”, mặc cho Trọng đang ngẩn ngơ buồn tiếc, tôi lặng lẽ rời khỏi khu vườn.

Không hiểu sao lúc này, ý nghĩ của tôi lại hướng về nơi góc vườn của nhà văn Trung, nơi có đôi bìm bịp đang nằm sâu dưới đất?

Không bao giờ tôi còn cảm giác thương lũ chim lồng nữa.

Tôi căm ghét chúng từ hôm ấy.

Hết

Truyện ngắn: Tai tượng

Phạm Ngọc Tiến

Đó là một quán giải khát nhỏ nằm ở một phố khuất nẻo ngoài rìa thành phố.

Chẳng có gì đáng nói ở cái quán này cả, ngoại trừ người chủ của nó – một gã trung niên rất khó đoán tuổi bởi bộ râu rậm rì của gã phủ gần kín nửa dưới khuôn mặt.

Một khuôn mặt luôn lậm lừ, thách đố đầy vẻ bất cần và gây sự.

Người gã vâm váp và thật khó moi được ở gã một tẹo lời thừa nào, ngoài những gì cần thiết phải giao dịch mua bán.

So với dung mạo, thì gã không phải là người kiệm lời.

Hẳn là gã ép mình như thế. Chưa một lần nào đến quán, tôi lại thấy gã rời khỏi vị trí.

Bao giờ, gã cũng ngồi sát chiếc bể cá bằng kính. Cặp mắt gã luôn dán vào đó. Tất nhiên, ngoại trừ những lúc gã phải làm bổn phận chủ quán của mình.

Tôi đến đây hoàn toàn không phải lý do ý thích, mà vì hoàn cảnh.

Huyền chọn nơi này là điểm hẹn của nàng và tôi.

Thường, chúng tôi gặp nhau vào giờ gần trưa của mỗi ngày làm việc.

Giờ đó, công việc nhiệm sở đã vãn. Đấy là với Huyền, nàng làm tại một cơ quan hành chính sự nghiệp, chỉ rỗi rãi được vào buổi trưa.

Chả bù cho tôi, thời gian là thứ tôi giàu có nhất trong đời. Tôi vốn là một nhà văn bất đắc dĩ viết nhăng nhít cho vài tờ báo nhỏ để kiếm sống.

Bao giờ tôi cũng đến trước Huyền. Chỗ của chúng tôi đối diện với chiếc bể cá đặt ở góc phòng.

Những cuộc gặp này kéo dài được vài tháng, nên gã chủ rất hiểu khách hàng.

Khi tôi đến, gã đang bất động bên bể cá.

Không nói một lời, mắt không một tia chào hỏi, mặt không một thoáng biểu cảm, gã lẳng lặng đứng dậy, rót đầy một ly rượu thuốc, đặt trước mặt tôi, rồi hí húi ra quầy pha tách trà nóng – thứ duy nhất Huyền dùng ở quán này.

Bao giờ cũng thế, khi gã đặt tách trà xuống bàn thì Huyền đến. Chính xác đến độ kinh ngạc.

Sau đó, nếu không có khách nào khác, gã lại về chỗ, mắt dán vào bể kính.

Hồi mới đến đây, tôi rất thắc mắc về thái độ của gã. Sau thì vỡ lẽ, gã từng có một gia đình, chứ không lông bông, cô độc như tôi.

Nghe nói gã cũng từng làm đến một chức vụ kha khá ở một công ty lớn. Sau dính vào chuyện làm ăn mờ ám gì đó, nên bị tống vào tù bóc lịch mất ba năm.

Chuyện đó cũng thường tình ở thời buổi làm ăn nhốn nháo hiện nay, song điều đáng nói, chuyện vào tù của gã nằm trong kịch bản do chính vợ gã dàn dựng.

Người đàn bà táo tợn kia đã thí gã để theo một người đàn ông khác, giàu có và quyền lực hơn.

Ngôi nhà này, là chút thương tình còn lại nơi người đàn bà. Thị để cho gã sở hữu ngôi nhà.

Chuyện đã xảy ra vài ba năm trước nhưng có lẽ còn hằn vết và ám ảnh nặng nề, nên gã không thể nào quên được.

Bởi thế gã luôn dán mắt vào chiếc bể cá với tất cả sự lạnh lùng và đam mê điên cuồng.

Đến đây, chắc bạn đọc hẳn sẽ khó chịu về cái sự kể lòng vòng dây cà, dây muống này.

Quả là có thế, chính tôi cũng đang rất khó chịu về gã.

Thú đam mê phải nói là rất ngu xuẩn kia của gã tác động đến tôi ghê gớm. Đến mức nó làm tổn thương tôi và mặc dù nhu nhược, rất nhu nhược, tôi vẫn buộc phải kiểm nghiệm lại chính mình.

Ở điểm này, rất có thể bạn đọc nào đó sẽ đồng cảm với tôi và trong một chừng mực sẽ chịu hàm ơn gã.

Tất cả là ở chiếc bể cá.

Một chiếc bể bằng kính trong suốt thông thường như những chiếc bể cá cảnh đang là mốt thời thượng hiện nay của các công sở, nhà hàng và các gia đình khá giả.

Thú chơi cá cảnh, bây giờ không còn là đặc quyền của trẻ con nữa.

Tôi còn nhớ như in chiếc bể cá bé tẹo cuả tôi hồi nhỏ, được ghép bằng những miếng kính thải – dăm ba con khổng tước vui nhộn. Đôi cá kiếm kiêu hãnh như những hiệp sĩ thực thụ của thời Trung cổ còn sót lại. Chú cá thần tiên mang vẻ uyên bác của một học sĩ nhàn tản, hết thời. Con cá vàng bảnh chọe, lừ ngừ ặc è đầy bụng trứng bơi trễ nải ... Rong rêu, đá cuội và những nhúm thủy trần vón cục lua nhua...

Cái bể cá của gã dẫu thời thượng thì đại loại cũng vẫn thế. Tất nhiên nó sang trọng, đủ hệ thống dưỡng khí, đèn đóm như những chiếc bể cùng loại bây giờ.

Cái khác là cách chơi của gã. Trong chiếc bể kính, ngoại trừ con cá dọn bể đen mốc, mồm ngoác rộng, dán vào thành kính, trần sì chỉ có đôi tai tượng.

Tôi tìm hiểu song không biết tại sao loại cá này lại có tên như vậy. Có lẽ chúng không liên quan đến loài cá cùng tên ở miền Tây Nam Bộ được nuôi để làm kinh tế.

Đôi cá sàn sàn bằng nhau. Cỡ một bàn tay vật. Màu sắc của nó rất ma quái như của loại bươm bướm ma, trong đó vằn vện xem kẽ hai gam màu chủ đạo đen và vàng. Đôi cá vật vờ nhàn tản trong bể. Chúng thuộc loài cá ăn thịt dữ tợn. Biết được điều này vì tôi đã chứng kiến.

Thông thường gã cho cá ăn vào buổi trưa.

Đúng vào giờ tình tự của tôi và Huyền.

Không nhìn ai, gã thả chừng dăm, bảy chục con cá giống loại nhỏ vào bể.

Đó là những con cá trôi hoặc trắm được vớt lên từ các ao hồ nuôi cá ở ngoại ô.

Thứ thức ăn này của loài cá cảnh ăn thịt được đáp ứng tối đa ở chợ.

Không biết gã mua từ bao giờ, lúc nào tôi cũng thấy gã để riêng ở một cái cóng thủy tinh nhỏ đặt cảnh bể.

Đã thành quen, người ran lên, tôi nín thở nhìn lũ cá ngơ ngác khi chúng vừa được thả vào bể.

Rất nhanh, bản năng bầy đàn giúp chúng tụ lại với nhau dạt vào góc bể.

Đôi cá tai tượng lừ đừ nhìn các con cá con đang nhớn nhác vì sợ hãi.

Với một vẻ lười nhác, chậm rãi, chúng uể oải dồn đàn cá con sang góc bên kia.

Miệng của cá tai tượng mím chặt. Khá khen cho tạo hóa sắp đặt. Khớp miệng của tai tượng khuềnh xuống, khoặm vào khiến mặt cá khắc khổ, có nét hiền từ của khuôn mặt người già.

Bao giờ cũng vậy, đúng vào thời điểm này, tay tôi lần lần tìm tay Huyền.

Ngón tay Huyền mảnh, dài, bàn tay trắng hồng.

Riêng những ngón tay điểm những lằn gân xanh nhỏ chìm rất đẹp.

Bạn đọc chắc lại khó chịu. Tưởng gì, cá lớn ăn thịt cá bé, lẽ tự nhiên là vậy, có gì mà phải bàn.

Đúng thế, nhưng hãy nhìn cái cách thức thằng người, lòng đang chất chứa những ẩn ức riêng đầy thù hận kia, thực hành lẽ tự nhiên của hóa công mà xem.

Đôi cá tai tượng vẫn lừ đừ dồn đuổi.

Gã nhìn vào bể cá cùng bằng cái nhìn hệt như thế.

Bất ngờ gã bật lửa châm điếu thuốc.

Không hút, gã giắt điếu thuốc vào tai bức tượng thần tài đặt ở ban sát cạnh bể.

Tượng thần tài kiểu cách như tượng ông địa, miệng cười ngoác, áo phanh, bụng phưỡn.

Tinh mắt, thấy ở ban, chân que nhang cắm đang rạc tàn lửa cuối cùng.

Gã nhón tay vứt vào bể vài mẩu thịt bò sống, còn nhuốm hồng hồng máu.

Hiệu lệnh đã được phát ra. Thành thạo theo phản xạ, cá tai tượng đớp mẩu thịt bò.

Và cứ thế chúng xông vào đàn cá. Mù mịt, tơi bời, quăng quật, dồn đuổi, chết chóc.

Một thoáng, rồi một thoáng, cuộc chiến kết thúc, vài con cá sống sót, chết khiếp, lờ đờ nơi đáy bể, chỗ con cá dọn bể màu đen mốc, miệng vẫn đang dán chặt vào thành kính bể theo đúng chức phận.

Gã không biến đổi khuôn mặt. Điếu thuốc giắt ở tai ông Địa vẫn đượm lửa. Và khuôn mặt ông thần tài có vẻ như rạng rỡ hơn nhờ ánh hồng của điếu thuốc.

Không quá xúc động, nhưng vào những lúc như thế, người tôi bao giờ cũng run lên.

Không phải vì những tàn vảy, mẩu đuôi, khúc đầu của những con cá bé nhỏ, rơi rớt vương vãi dưới đáy bể, mà vì khuôn mặt lạnh lùng như tạc của gã người và sự cười cợt vô tư của tượng ông Địa.

Bao giờ cũng thế, điểm tựa cho tôi bấu víu là những ngón tay trắng, mảnh, dài có lằn gân xanh mịn chìm rất đẹp của Huyền.

Tôi bóp chặt những ngón tay của nàng. Bóp thật chặt, thẫn thờ và cuồng dại.

Thường thì Huyền là người xúc động.

Nhưng nàng xúc động vì cú bóp tay của tôi.

Nàng không mảy may biết được đó chỉ là kết quả của cuộc chiến vừa dứt.

Hoặc giả nàng biết nhưng điều đó không tác động mấy đến nàng.

Cũng có lần trong trạng thái bị kích động, tôi thốt ra một lời gì đó và Huyền lập tức dập tắt bằng một cử chỉ thật nồng nàn.

Nàng thầm thì vào tai tôi thứ ngôn ngữ cụt lủn, chắt lọc chỉ có ở người đang yêu:

-Anh...

Những lúc như vậy tôi đâm ra oán Huyền. Tại sao Huyền lại bắt tôi đến đây để phải chứng kiến cảnh chẳng mấy hay hớm này.

Nhưng thú thực, không biết từ bao giờ, tôi đã thật sự bị hút vào trò chơi của gã chủ quán.

Đến độ, không có nó chưa chắc tôi đã kéo dài được cuộc tình với Huyền. Cũng có lần tôi nói chuyện này với nàng, Huyền không phản đối, chỉ cười rất hiền.

Hình như Huyền có nói với tôi:

-Đàn ông các anh buồn cười thật. Chồng em cũng thế. Có cái gì mà cứ phức tạp lên. Cuộc đời vốn nó là thế, đừng hoắng...

Cuộc đời vốn nó là thế. Tôi đâm ra ngờ vực bản thân mình. Ngờ vực cả Huyền.

Vì sao Huyền lại chọn tôi, một gã trai tầm thường, không có nổi một thứ gì cả ngoại trừ món hành trang mấy chục tuổi đời bơ phờ và dầu dãi.

Huyền có chồng. Một người chồng đầy đủ cả ở mọi nghĩa. Đừng nghĩ Huyền là kẻ lộn chồng. Chúng tôi đến với nhau chủ yếu là nhu cầu tinh thần. Huyền yêu tôi thật sự. Tôi đang bơ vơ cần một chỗ dựa. Còn Huyền thì ngược lại, khi yêu nàng muốn che chở ai đó. Đàn bà là vậy! Nàng bảo:

-Người ta cứ nhầm khi bắt đàn ông phải là kẻ mạnh. Chồng em ấy mà, anh ấy mạnh lắm. Nhầm, nhầm hết. Khi người đàn ông tư hữu sức mạnh, họ không còn là đàn ông nữa. Đàn ông thực sự thì không thuộc về một cái gì cả.

Tôi không hiểu. Nhưng điều này thì tôi biết. Huyền sẵn sàng bỏ chồng để cưới tôi.

Cưới tôi, chứ không phải tôi cưới nàng.

Mọi sự ở Huyền có vẻ như rất mâu thuẫn và ngược đời.

Chính vì thế mà tôi thấy tủi nhục. Sau này tôi mới biết không phải Huyền vô tình dẫn tôi đến điểm hẹn chết người kia.

Nàng muốn thế, vì nàng tin thế. Nhưng rồi có một chuyện làm đảo lộn tất cả.

Vẫn là buổi trưa, vào lúc chuẩn bị cuộc tàn sát. Tay tôi đang lần tìm tay Huyền.

Đôi cá tai tượng đang dồn lũ cá nhỏ vào góc bể bằng khuôn mặt hiền từ.

Chính vào lúc ấy thì thằng bé hàng xóm quãng 12 tuổi bước vào. Nó quan sát bể cá rất lâu.

Cuộc chiến bắt đầu và kết thúc nhanh chóng. Mọi động thái vẫn như cũ. Chỉ riêng thằng bé mặt nhợt đi. Nó lắp bắp:

-Khiếp thật!

Chính lúc đó một con cá tai tượng vẫn còn đang say mồi. Nó lừ đừ bám theo đàn cá còn dăm con đờ đẫn dạt không theo một hướng nào cả.

Con tai tượng há mồm. Một con cá con xấu số lọt vào tầm mõm. Có cảm giác nghe tiếng khậc hàm của con tai tượng. Cái đầu cá bé xíu xiu lạng nước rớt xuống đáy bể. Thằng bé, mặt tái nhợt, hực hực trong cổ. Nó chạy ra khỏi quán. Gã chủ quán vẫn nín thinh, bất động.

Rất nhanh, thằng bé lộn trở lại. Nhà nó ở liền bên cạnh.

Trên tay nó là một chiếc cóng đựng mấy con cá chọi tím biếc

Có lẽ phải đến chục con. Đang cơn tức, thằng bé dốc ồng ộc lũ cá chọi vào trong bể.

Tôi lo đến thắt ruột vì biết ý định của thằng bé. Ngày nhỏ tôi đã từng là một cây đấu cá chọi cự phách.

Gã chủ vẫn không thay đổi nét mặt. Quả nhiên, lũ cá chọi vừa kịp quẫy những nhịp đầu tiên, hai con tai tượng đã nhào đến.

Cuộc chiến không cân sức kết thúc chóng vánh. Thằng bé đờ mặt nhìn những con cá chọi bị chết ngửa bụng.

Nó lại chạy vụt đi. Lần này nó trở lại với chiếc lưỡi câu và sợi dây cước chắc vừa rứt ra ở cần câu.

Thằng bé thoăn thoắt mắc miếng thịt bò vào lưỡi. Tôi ngạc nhiên nhìn gã chủ. Gã không một tẹo phản ứng.

Sự việc diễn ra quá nhanh. Con tai tượng hám mồi bị mắc lưỡi. Thằng bé giật nó ra khỏi bể.

Con tai tượng tuột lưỡi câu, giãy đành đạch trên nền nhà. Lúc này gã chủ quán bừng tỉnh.

Gã giáng một cái tát cực mạnh vào má thằng bé.

Không ngờ, nó ôm mặt, tôi cũng không hiểu nó nghĩ gì mà dám nhảy mạnh lên, dẫm vào con cá và hét lên cămphẫn:

-Chú ác lắm!

Gã chủ đứng chết trân. Lần đầu tiên, tôi thấy gã thổi ra lời cảm thán: “Trời !”.

Thằng bé giàn giụa nước mắt chạy vụt đi.

Bây giờ thì tôi biết nó khóc vì lẽ gì rồi. Đầy cảm hứng, tôi rút tay mình khỏi những ngón tay của Huyền.

Khác với mọi lần, Huyền nắm tay tôi rất chặt, phải giằng mạnh mới ra.

Tôi nhìn thật sâu vào mắt nàng. Tôi nói bằng hết. Những gì tôi hiểu, được diễn giải bằng thứ ngôn ngữ câm lặng của tình yêu thật sự.

Thề có cao xanh, tôi yêu Huyền. Song tôi muốn trò chơi này phải có một kết cục dứt khoát.

Tôi không thể, chồng nàng cũng vậy, mang thân kiếp của những con cá tội nghiệp kia.

Nàng hiểu hết và tiếp nhận.

Mặt nàng liên tục đổi màu. Đỏ, xanh, tái rồi trắng bệch. Bất ngờ nàng đứng phắt dậy, kiểu dồn nén của đổ vỡ, nàng ụp vào mặt tôi:

-Đồ hèn!

Sau đấy không bao giờ tôi quay trở lại cái quán nhỏ ấy nữa.

Cũng không bao giờ tôi được gặp lại Huyền.

Nàng có viết cho tôi một bức thư đoạn tuyệt.

Đại loại Huyền coi tôi như con cá dọn bể hèn mọn.

Cũng chẳng sao, tôi bật cười ý nghĩ trẻ con của nàng.

Nghe nói Huyền sống bình yên bên chồng. Nàng đang theo chồng đi một chuyến công du dài bên Châu Âu.

Cuộc sống trôi đi, tôi đã chấm dứt cảnh sống lang thang để vào làm hẳn ở một cơ quan nghệ thuật. Tôi tạm hài lòng về những mối quan hệ đồng nghiệp và những nguyên tắc, trật tự công việc mới.

Thi thoảng cũng có lúc buồn, tôi chạnh nhớ về những ngày tháng trước của mình với niềm nuối tiếc khôn nguôi.

Một hôm có việc vướng mắc ở cơ quan, tôi chán nản rời nhiệm sở.

Tôi lang thang trên đường chẳng biết để làm gì.

Tự nhiên tôi nghĩ đến những ngón tay mảnh, dài có những lằn gân xanh, mịn chìm rất đẹp của Huyền.

Và như một sự dẫn dắt, bước chân lang thang của tôi lần về nơi quán nhỏ.

Tất cả vẫn thế. Gã chủ quán đặt ly rượu thuốc trước mặt tôi và lộn trở lại quầy hí húi pha tách trà nóng.

Gã mang trà ra và rất tự nhiên thế chỗ của Huyền. Tôi giật mình.

Không có bộ râu rậm rì, gã trẻ ra rất nhiều. Gã nhoẻn miệng cười với một người đàn bà bụng chửa, từ ngoài vào xách một làn thức ăn đầy ự.

Tôi lồi mắt nhìn. Chiếc bể cá vẫn đặt chỗ cũ. Cả tượng ông Địa cũng thế.

Đến lượt gã cười với tôi.

Đã quá quen gã, quả thật tôi có hơi bị bất ngờ về thái độ khác thường này của gã. Gã nói, giọng trầm và ấm:

-Tôi vẫn đọc anh đều. Nói chung, cuộc sống là thế. Anh biết không, đôi cá tai tượng dạo trước là của Huyền mang đến. Cô ấy là bạn thân với vợ cũ của tôi. Huyền muốn...

Tôi gật đầu. Người đàn bà bụng chửa đã trở ra.

Chị ta ngồi vào sau quầy. Gã cũng gật đầu với tôi:

-Vợ tôi đấy. Chúng tôi cưới nhau cách đây một năm.

Đoạn, gã châm một điếu thuốc, đi đến bên bể cá và giắt vào tai ông Địa như dạo trước.

Khói thuốc bay, tôi nhìn vào bể kính không ngạc nhiên chút nào.

Không còn đôi cá tai tượng.. Trong bể lượn vô số loài cá quen thuộc. Đám khổng tước công lau nhau. Đôi cá kiếm oai vệ. Con cá thần tiên hiền triết. Chú cá vàng mắt lôi, bụng to vật, lừ ngừ trễ nải...

Và con cá dọn bể, miệng rộng dán chặt vào thành kính.

Bây giờ, tôi ao ước có Huyền ở bên cạnh.

Hết

Truyện ngắn: Vũ hội trăng

Phạm Ngọc Tiến

Người đàn ông tần ngần mất một giây trước cánh cổng sắt bịt bùng. Không đoán được tuổi, toàn thân người đàn ông toát ra vẻ mệt mỏi, nhàu nát. Ngón tay trỏ của anh đặt hậm hờ trên nút bấm đỏ của chuông điện. Chợt có tiếng chó sủa. Một cái mõm dài đen, răng ngoác chơm chởm hiện ra ở lỗ tò vò khoét trên thành cánh cổng sắt.

Người đàn ông giật mình đánh rơi bọc giấy cắp ở nách. Văng ra cái hộp con bằng nhựa trắng trong suốt, nhìn thấy rõ sợi dây chuyền lóng lánh và quyển sách bọc gáy, mạ nhũ vàng.

Anh luống cuống nhấn mạnh chuông điện. Có tiếng chân người. Rồi tiếng ậm ào. Tiếng chó sủa câm bặt. ở chính cái lỗ tò vò thấp thoáng một khuôn mặt đàn bà:

- Anh đấy à?

Người đàn ông như bị điện giật. Tiếng "vâng" thoảng qua chìm nhanh trong ngào ngạt hương thơm quyến rũ tỏa ra từ ô lỗ tò vò. Lần này là một cặp mắt đen ghé sát:

- Trông anh ốm yếu quá. Mãi anh không thay đổi được à?

Im lặng. Cơ thể người đàn ông khẽ rung lên. Nhưng điều đó thoảng qua rất nhanh. Rồi tiếng người đàn ông đanh lại:

- Tôi vẫn thế!

Tiếng người đàn bà:

- Vẫn thế!

Một chuỗi cười nho nhỏ lành lạnh. Vẫn tiếng người đàn bà:

- Thôi nhé, chào anh! Nó sắp ra đấy!

Tiếng chân người nhẹ dần. Và chó lại sủa.

Nó kia rồi. Sau tiếng rin rít của cánh cổng sắt nặng nề, nó ào ra. Anh chững người bất động như một gốc đại thụ bị bão vặn mất ngọn. Nó nhoẻn cười. Từ hàm răng trắng ngọc ngà của nó nhả ra chùm âm thanh dịu ngọt:

- Bố ơi!

Anh bừng tỉnh. Mắt anh sáng lên. Anh cũng nhoẻn cười. Anh nghẹn ngào nhìn nó. Mắt anh mờ đi, rồi sáng lại rất nhanh. Nó đây, con gái mười tuổi của anh thướt tha trong bộ váy gấp mầu trắng sang trọng. Tay anh vươn ra định bế bổng nó. Nhưng anh kìm nén được. Nó đã lớn, vả lại...

Anh dắt tay nó đi trên hè phố. Cánh cổng sắt bịt bùng đã lùi lại rất xa. Anh chỉ có một tiếng đồng hồ với nó. Phải vất vả anh mới bước kịp nhịp chân tung tẩy của con gái. Nó thao thoắng hỏi anh đủ mọi điều:

- Sao bố lâu đến với con?

- Nhà bố ở đâu, sao con không biết?

- Sao không bao giờ bố vào nhà con?

- Sao bố mẹ lại bỏ nhau?

- Mẹ sắp có em bé. Bố có em bé không?

Anh như mê đi. Tâm tưởng anh hoàn toàn bị xáo trộn. Anh phiêu diêu trong xúc cảm khó tả. Anh thập thõm trả lời từng câu của nó. Dối trá hoàn toàn. Mười tuổi, nó đã bắt đầu biết, nhưng chẳng hiểu gì cả. Anh càng không muốn nó hiểu.

Anh dẫn nó vào vườn hoa trung tâm. Anh mua một ly kem đầy. Anh châm thuốc, viên mãn nhả những vòng khói xoáy tròn, nhìn nó đang vội vã xúc từng thìa kem trắng ngần. Mắt nó long lanh sáng. Bím tóc nó đen mượt nhún nhảy.

Anh ngắm nó đến ngây dại. Anh thảng thốt nhận ra nó với mẹ giống nhau như hai giọt nước. Và lòng anh cồn lên.

Bốn năm trước.

Cứ mỗi chiều đến đón nó ở trường học, anh lại nhận được bàn tay bé xíu trắng hồng vẫy vẫy và tiếng gọi giật đến nao lòng:

- Bố ơi!

Rồi nó lon ton chạy ra bíu ào lấy cổ anh. Có lần vội quá nó vấp ngã sóng sượt. Anh sợ hãi bế nó dậy. Nó đau tái mặt. Mắt nó rân rấn và môi mím lại:

- Tại bố!

Anh rối rít xin lỗi. Nó phụng phịu chán chê và cuối cùng anh phải hứa đền một cái gì đấy mới ổn. Thường thì anh phải thực hiện ngay lập tức, bởi nó đòi dai dẳng và quyết liệt. Mà chả cứ ngã, thể nào mỗi hôm nó cũng tìm ra một cớ gì đấy để bắt đền anh.

Cũng có gì nhiều nhặn đâu. Hôm thì mấy quả ô mai bé xíu. Hôm cái bánh quế vo tròn. Sang nữa là que kem bốc khói. Nhìn khuôn mặt rạng rỡ của con, bao giờ anh cũng sung sướng đến cực điểm. Những lúc ấy anh quên đi tất thảy mọi cực nhọc, mọi gánh nặng đè trên đôi vai mệt mỏi của mình.

Chỉ khi về đến nhà, bắt gặp khuôn mặt lạnh lùng như tượng tạc của vợ, cảm giác hạnh phúc kia mới lặng lẽ rời bỏ anh.

Và anh buộc phải đối mặt thật sự với cuộc sống chung đáng sợ. Cuộc sống mà ở đấy, cả anh và người vợ xinh đẹp, đã nhấn chìm nghỉm tình yêu mãnh liệt vào cái bể choèn choèn của vật vã miếng cơm, manh áo thường nhật.

Anh lặng lẽ vào nhà. Lặng lẽ chịu đựng chính sự lặng lẽ đáng sợ của vợ. Và anh làm tất thảy những việc gì anh có thể làm, không phải để đổi lấy nụ cười và sự vui vẻ của vợ mà đơn giản chỉ để cái khoảng thời gian kia trôi đi thật nhanh.

Đã từ lâu, trong ngôi nhà anh, ngọn lửa ấm cúng đã lụi tàn. Chỉ đêm đến, sau khi se sẽ đến bên giường, ngắm thật lâu khuôn mặt của con gái đang trong giấc ngủ thiên thần, ngồi vào bàn viết, anh mới thật sống cuộc sống của riêng mình.

Anh rút cây bút, ngắm nghía nó cũng thật lâu. Khi tiếng sột soạt của ngòi bút đè kín dần từng trang bản thảo, lúc ấy anh mới chợt gặp lại cảm giác hạnh phúc hồi chiều. Nhưng cũng có hôm anh cứ mãi mân mê cây bút không thể viết nổi dù chỉ một dòng. Anh cứ ngồi thế, bất động trên ghế, mắt đăm đắm nhìn lên trần nhà.

Mầu trần trắng nhạt nhòa đằm anh vào ký ức còn mới nguyên, nóng bỏng nhưng đã mù mịt, xa vời. Anh cố nghĩ đến một điều gì đó, cố bứt mình khỏi tâm tưởng đang hoảng loạn, chới với. Cũng có lúc anh minh mẫn nghĩ đến tương lai của mình. Nhưng cũng chẳng nghĩ được điều gì đến đầu, đến đũa. Lởn vởn trong anh duy nhất chỉ là những lộn xộn chắp nối hình ảnh của con gái yêu quý. Anh sắp phải xa nó. Xa mãi. Anh đã ký vào tờ đơn ly dị do vợ anh chủ động viết. Lúc cầm bút anh đã đắn đo thật lâu.

Hiển hiện trước mắt anh nụ cười tươi trẻ và cặp mắt hồn nhiên của con. Chính lúc ấy anh muốn quên hết tất thảy. Những vật vã, sự đay nghiến câm lặng. Cả một chút tự trọng, một thoáng kiêu hãnh. Vậy mà không hiểu sao anh vẫn ký, tay chẳng hề run rẩy.

Để rồi sau này, những lúc cồn quặn nhớ thương con, anh thấy mình lầm lỗi và ân hận vô cùng.

Anh yêu người đàn bà ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên. Có lẽ đó là chớp lóe của định mệnh. Người đàn bà, nàng trẻ lắm và đẹp.

Trên bục diễn đàn của một hội thảo sinh viên, với tư cách nhà văn nói về tác phẩm của mình, anh bất chợt gặp ánh mắt của nàng. Ánh mắt thẳm sâu và nồng nàn quyến rũ như trăng mùa thu mát dịu. Anh đắm ngay vào ánh mắt của nàng hồn nhiên như đứa trẻ ngợp mình trong trời trăng đêm rằm.

Sau này khi anh đã yêu nàng, cưới nàng, vào những lúc yêu thương nhất, anh thường lặng đi rất lâu, cố nhìn thật sâu vào đôi mắt ấy. Không phải để tìm kiếm một điều gì còn bí ẩn trong tâm hồn nàng, mà giản đơn chỉ là để giãi bày bằng một thứ ngôn ngữ tĩnh lặng, giãi bày bằng hết tình yêu nồng cháy, thủy chung của mình. Và anh đặt bờ môi khô khát lên đôi mắt của nàng. Hôm ấy khi kết thúc hội thảo, trong rừng người dập dìu, anh vẫn dễ dàng tìm ra được nàng.

Lúc đó anh ba mươi tuổi và đã có chút ít tiếng tăm về văn nghiệp. Anh vốn là một người lính. Rời khẩu súng thì cầm bút. Khác với bản tính nhút nhát thường ngày, anh mạnh bạo tiến đến bên người con gái lạ, nhìn thẳng vào mắt nàng. Nhìn thẳng và lời anh cất lên thật tự nhiên. Tự nhiên đến không ngờ:

- Xin lỗi! Tôi muốn được tặng cô cuốn sách.

Nàng gật. Mắt long lanh như cười. Anh từ tốn ghi những lời đề tặng. Tất cả chỉ có thế. Đêm ấy anh thức trắng. Đoạn đời ba mươi năm của anh như nước lũ ào ạt tràn về. Còn nghi ngờ gì nữa, cuộc đời anh là để dành cho nàng. Ngay đêm ấy tâm hồn anh đã hoàn toàn thuộc về nàng.

Hôm sau anh đến trường tìm nàng. Rồi cứ thế những lần gặp giữa hai người ngày một mau hơn. Đến một hôm anh dẫn nàng đi lang thang suốt buổi tối trên sân trường. Khuya lắm, cả khu ký túc xá đã đắm vào giấc ngủ đêm tĩnh lặng. Sân trường phơi mình dưới trăng bạc trở nên mênh mông khác thường.

Thân hình nàng đẫm trăng đêm. Khuôn mặt nàng sáng bừng như thể vầng trăng thiên nhiên náu mình trong đó. Đôi mắt của nàng rực cháy. Đôi môi của nàng chín đỏ. Mắt anh nhòa đi.

Những giọt trăng rơi thánh thót phủ mờ khuôn mặt nàng. Anh mê lịm. Cổ họng nghẹn tắc khiến anh không thể thốt lên được một lời nào. Còn nói gì nữa, cuộc đời anh và cuộc đời nàng...

Cả khuôn mặt anh, khuôn mặt nàng đẫm những giọt trăng sánh nước. Những giọt trăng đậu trên môi ngọt ngào. Trong trạng thái siêu thoát, anh nghe thấy có tiếng nhạc run rẩy. Trái đất bây giờ là sân trăng ngờm ngợp. Anh dìu dặt cùng nàng đắm trong hạnh phúc. Cuộc đời trước mắt anh là một vũ hội tuyệt diệu.

Một năm sau anh cưới nàng.

Anh nhìn đồng hồ. Đã sắp hết một giờ hạnh phúc. Ba tháng trời anh mới có một giờ hiếm hoi này. Điều đó đã thành quy ước giữa anh và nàng kể từ lúc mẹ con nàng rời bỏ anh ra đi. Anh chậm rãi đưa nó trở về. Anh như cố níu kéo lại từng giây quý giá.

Bao giờ cũng thế vào những giây phút cuối cùng ấy, đầu óc anh đều lộn xộn, quay cuồng hệt như kẻ tử tù sắp phải vĩnh viễn rời bỏ người thân để bước vào xà lim chờ giờ hành quyết. Đúng thế, chả lần nào anh không có ý nghĩ đau đớn đây là lần gặp con cuối cùng. Và anh lại nghĩ đến nó. Dường như thế giới này chỉ tồn tại mỗi anh và nó.

... Lúc nhận nó từ đôi tay nàng, toàn thân anh run bần bật. Mắt nó nhắm nghiền. Anh vụng về chao nựng nó. Tim anh như dừng lại khi mí mắt nó khẽ đụng đậy. Rồi nó mở đôi mắt bé xíu trong veo nhìn anh. Bất chợt nó oe oe khóc. Anh áp chặt nó vào mình. Có cái gì đó xếp yên trong cõi lòng anh chợt òa vỡ. Đất trời chao đảo. Anh đắm đuối nhìn nàng. Lúc ấy, anh hoàn toàn mãn nguyện.

Khi chỉ còn một mình vò võ trong mười mét vuông nhà anh vẫn ngơ ngẩn tưởng như điều ấy chưa hề xảy ra. Sao anh và nàng lại xa nhau nhỉ? Anh yêu nàng đến thế cơ mà. Cuộc tình của anh nào phải đơn phương.

Lúc gặp anh, nàng mới hai mốt tuổi, đang chuẩn bị làm luận văn tốt nghiệp. Quê nàng rất xa. Một mình nàng phải xoay trở tất cả. Sau khi tốt nghiệp, anh tìm được cho nàng một chân giáo sinh tập sự ở trường huyện. Tiếng thế, nhưng cũng chả cách nhà anh bao xa.

Đám cưới của anh và nàng thật vui. Căn phòng nhỏ tòa soạn cấp tạm cho anh ngày còn độc thân chất ngất đầy hoa. Tuần trăng mật của anh ngọt ngào kéo đến tận khi nó ra đời.

Nhiều lần anh cố tĩnh tâm để tìm bằng được lý do nàng rời bỏ anh. Anh vốn nghèo. Nàng cũng thế. Gia tài của anh đơn sơ. Chiếc giường cũ kỹ. Cái tủ, bộ bàn ghế mượn của cơ quan. Chỉ có kệ sách là quý giá. Thêm vào đấy là chiếc cát-xét kỷ niệm của một thời chiến trận.

Nhưng điều đó nghĩa lý gì. Có nàng, tình yêu chất ăm ắp ngôi nhà nhỏ niềm vui và tiếng cười. Nàng ít nói, hay lặng lẽ cười. Đêm đến, anh hì hụi viết, nàng cặm cụi chấm bài, soạn vở.

Thanh bình quá, có lúc không đành được, anh buông bút ôm choàng lấy nàng. Anh tự hào về cuộc sống của mình. Cuộc sống mà có lúc thi vị anh đã ví nó như chiếc bình pha-lê đựng thứ hạnh phúc trắng muốt, tinh khiết không gợn vẩn một tí bụi trần. Nàng mủm mỉm cười đồng lõa.

Lương giáo sinh tập sự của nàng, lương công chức của anh, thêm vào đấy những đồng nhuận bút ít ỏi nhưng sạch sẽ, đủ để vợ chồng anh sống tùng tiệm, thanh thản.

Phải đến khi nó ra đời. Khi ngôi nhà của anh trở nên quá chật chội, ngang dọc dây phơi quần áo, tã lót, bề bộn bát đĩa, xoong nồi, anh mới nhận rõ tình cảnh thật của mình.

Thì ra thế, cuộc sống thanh thản còn phải cần rất nhiều thứ. Sữa, thịt cho nó chẳng hạn. Mà anh thì đã kịp chuẩn bị gì đâu. Nàng vẫn hay mỉm cười. Nhưng anh chợt thảng thốt nhận ra nụ cười trinh nữ của nàng đã bắt đầu phảng phất mệt mỏi. Nàng đã trở thành thiếu phụ thực sự với bao nhiêu nỗi lo âu thường nhật.

Nàng mỏng mảnh và hao gầy. Bầu sữa sinh tồn từ cơ thể nàng truyền sang cho nó đã vắt dần đi sức sống thanh xuân và sắc đẹp của nàng. Có lúc anh bắt gặp nàng cười vu vơ.

Anh tự trách mình vô tâm. Làm sao có thể lấy cái hôn nồng nàn đôi lứa để khỏa vào phần thiếu hụt kia được.

Cả anh và nàng đều chới với bấu víu vào nhau, tự an ủi cố vượt khỏi miệng hố ngày một sâu của thiếu thốn vật chất. Manh nha trong anh nỗi sợ hãi mơ hồ. Không, đó là nỗi sợ hãi thật sự.

Anh đã thảng thốt hơn nhiều lần, khi bắt gặp từ ánh mắt nàng nỗi nghi ngờ ngày một rõ. Anh đau đớn nhận ra rằng, niềm tin của nàng vào hạnh phúc đang lung lay. Có lúc nỗi sợ hãi ấy bật ra trong trí tưởng anh đoạn độc thoại câm lặng của nàng:

- Hạnh phúc là thế này ư, anh yêu?

- Rồi con của chúng ta sẽ ra sao?

- Không! Em vẫn tin vào tình yêu. Nhưng bây giờ em không tin chỉ bằng riêng tình yêu có thể tạo dựng được hạnh phúc.

- Đừng, đừng hiểu lầm em. Rồi sẽ qua hết. Có điều em mệt mỏi quá chừng.

Mắt của nàng xác nhận điều ấy. Anh nén thở dài, cố lảng tránh ánh nhìn của nàng. Người anh sọm hẳn.

Vì sao nàng rời bỏ anh?

Lúc ý thức được tình cảnh của mình và không còn nghi ngờ gì nữa về những đoạn độc thoại ngày một nhiều hơn của nàng, anh trở nên rầu rĩ vô cùng.

Anh trầm hẳn. Bạn bè anh hoảng sợ về những cái nhìn thất thần ngây dại, những nụ cười vu vơ, cả thứ trầm tư im lặng chưa từng có của anh. Đêm đêm anh cặm cụi viết. Viết tất tật mọi thứ, miễn là kiếm ra tiền. Thì, anh còn biết làm gì khác.

Anh chắt chiu mang về từng đồng bạc lẻ. Anh lẩn tránh mọi cuộc vui bạn bè. Anh loại bỏ dần những nhu cầu cá nhân đơn giản mà bây giờ với anh là xa xỉ như chén rượu, điếu thuốc.

Anh tự ép xác mình để gánh vác gia đình. Bỗng dưng anh biến đổi thành con người hoàn toàn khác. Tình cảnh càng tệ hại hơn khi hết thời hạn nghỉ đẻ nàng phải tiếp tục đi làm. Mới sáu tháng tuổi, nhưng buộc lòng anh phải gửi nó vào nhà trẻ phường.

Sáng sáng anh lẵng nhẵng bồng nó đến lớp và chiều chiều, sau một ngày làm việc bã bời, anh lại thất thểu đến lớp đón nó về. Những việc ấy anh phải đảm nhận bởi nàng dạy học xa, giờ giấc không thể chủ động. Đấy là chưa kể những lúc nó bấy người vì trái nắng, giở giời.

Tất cả những điều đó cũng không sao, anh đủ sức chịu đựng được. Chịu đựng vui vẻ nữa là đằng khác, nếu anh không bắt gặp những cái nhìn của nàng. Cũng chỉ thoảng nhặt, nhưng đó là những cái nhìn trách móc và giễu cợt.

Anh tưởng tượng và anh tin thế, dù rằng cuộc sống vợ chồng vẫn tiếp diễn bình thường, suôn sẻ. Nàng vẫn lặng lẽ đến bình thản không một lời than thân, không một lần nhắc đến tiền bạc, không một lần...

Anh nhớ chỉ có một lần, đấy là lần nó phải nằm viện vì sốt cao. Anh quáng quàng nháo đến bạn bè kiếm ít tiền thuốc thang cho con. Lần ấy nàng bảo anh nhỏ nhẹ:

- Hay là em tạm nghỉ dạy ít lâu.

- Hả?

- Có một người bạn giới thiệu em sang bên ngoại thương.

- Để làm gì?

Nàng nhoẻn cười chỉ vào tệp tiền nơi tay anh. Anh thoáng rùng mình. Không biết anh nghĩ gì mà mắt đột ngột chuyển mầu, thoắt cái xám mốc vô hồn như kẻ mộng du. Nàng im lặng khẽ nhún vai và vẫn mỉm cười.

Chuyện đó không bao giờ nàng nhắc lại nữa. Sáng sáng nàng vẫn đều đặn đung đưa chiếc cặp lồng, cặp giáo án ra ngã tư đón xe buýt sang trường. Và đêm đêm anh vẫn lụi hụi viết. Có đêm quá mệt mỏi anh bất lực dằn mạnh ngòi bút xuống trang giấy vô tội. Rồi trong một trạng thái vô thức, tay anh lần lần lôi ra đám giấy bạc nhàu nát từ trong túi để vuốt lại từng tờ thẳng thớm xếp ra bàn.

Chính lúc ấy ngoài chấn song cửa sổ đột ngột một vầng trăng hiện ra. Ô kìa, trăng, anh bừng tỉnh ôm lấy đầu. Chưa bao giờ anh trông thấy một vầng trăng méo mó đến thế.

Cánh cổng sắt kêu rin rít. Anh vội vã ôm choàng lấy nó hôn lên mặt, lên cổ. Nó vùng vẫy thoát ra khỏi anh. Nó cười khinh khích: "Bố làm con nhột". Anh đưa cho nó bọc giấy: "Quà cho con" - "Bao giờ bố lại đến?" - "Bố sẽ đến!". Anh khẳng định một cách lấp lửng.

Lần nào chia tay con, anh cũng trả lời câu hỏi của nó như vậy. Ba tháng nữa... Không hiểu sao lần chia tay này anh không còn cảm giác đau đớn của chia ly như trước nữa. Ngược lại anh thấy mình và con gần gụi lạ thường. Tuồng như hai bố con không còn cách xa nữa.

Ý nghĩ này làm người anh mềm đi. Lòng anh dâng lên những cuộn sóng không vật vã mà êm dịu man mác. Anh hút mắt theo nhịp chân của nó. Khóe mắt anh cay cay. Anh áp cả khuôn mặt mình vào ô lỗ tò vò.

Kìa, nó sắp bước vào nhà. Nó dừng lại giơ tay vẫy anh. Bàn tay trắng hồng.

Bỗng anh bật ngửa ra đằng sau vì cú táp bất ngờ của con chó. May mà nó chưa táp trúng mặt anh. Bây giờ cái mõm đen chơm chởm răng, bít kín hẳn ô lỗ tò vò. Anh lùi lại.

Tiếng chó gầm gừ bỗng lại nín bặt. Anh nhác thấy cặp mắt đen dõi suốt người anh. Toàn thân nóng bừng. Và cái ý nghĩ kia lại ùa đến ám ảnh anh.

Tại sao anh phải xa nó?

Khi nó tròn một tuổi thì gia đình anh hoàn toàn rơi vào băng giá. Tình cảm vợ chồng giữa anh và nàng có thể coi như ngọn đèn đã lụi bấc.

Sự thể xảy ra đúng vào dịp nó sinh nhật một tuổi. Cũng dịp ấy, anh vừa in được một cuốn tiểu thuyết. Bạn bè đến chúc mừng anh. Đông lắm và vui lắm. Dạo đó, cũng như bao gia đình khác, đời sống của anh hết sức eo hẹp và chật vật. Biết thế nhưng đời liệu có mấy dịp vui mà bỏ lỡ.

Anh tổ chức sinh nhật nó rất trọng thể. Khách đến, người mang dăm cái lạp-xường, người bông hoa, chai rượu. Anh nghiêng ngả cùng bạn bè, nghiêng ngả với niềm vui hiếm hoi của mình.

Hôm sau anh mệt bã bời. Đang ngồi xếp lại số sách mua bằng tiền nhuận bút dành để tặng bạn bè, anh chợt bắt gặp cái nhìn của vợ. Lạ lùng lắm. Không, chưa bao giờ nàng nhìn anh như thế. Rồi nàng hỏi, giọng nhẹ nhàng như không có thật:

- Còn tiền không, hả anh?

Anh như bị điện giật. Cả câu hỏi này nữa, cũng chưa bao giờ nàng như thế cả. Miệng anh lắp bắp vô nghĩa:

- Để làm gì?

Nàng khe khẽ mỉm cười. Rồi nàng đi đến góc nhà mở nắp thùng gạo. Anh chỉ kịp nghe thấy tiếng ống bơ sữa bò quẹt quẹt vào đáy thùng sắt, toàn thân đã rung lên bần bật.

Anh khẽ "à" lên một tiếng. Nỗi đau đớn lan đến tận từng chân tơ, kẽ tóc. Giá như lúc ấy nàng đi ra ngoài hoặc làm một việc gì khác, chứ không khoanh tay mỉm cười thì có lẽ sự thể đã không thành to tát đến thế.

Một cơn rét khô lạnh chạy sắc lẹm trong máu anh. Sự xúc phạm quá lớn. Phải rồi, nàng giễu cợt anh. Nàng đỏng đảnh và độc ác.

Tai anh ù đi. Tiền, tiền... thì ra lâu nay anh không nhầm. Tại sao nàng lại thế. Như một con thú trọng thương, anh chồm tới, điên khùng. Mặt nàng nhợt nhạt. Anh kịp dừng lại. Nhưng rồi giận dữ trong anh như ngọn đuốc bừng bừng lửa không thể dập tắt được nữa.

Anh giật tung cánh tủ, lộn túi quần túi áo, vét bằng hết những tờ bạc còn lại ném tung tóe trước mặt nàng. Anh hét lạc cả giọng: "Tiền đây, tiền đây".

Chưa hết, anh còn đá tung chiếc thùng sắt đựng gạo. Cái lon sữa bò lăn xoeng xoẻng. Văng vãi những hạt gạo ơn ởn trên nền nhà.

Nước mắt lăn dài trên má nàng. Dường như cơn phẫn uất trong nàng cũng bùng cháy. Nàng xông tới đống sách của anh đấm đạp, vò xé. Rất lâu anh mới thoát khỏi cơn điên dại.

Anh thõng thượt đứng trước nàng. Cả nước mắt cũng đã hết. Mặt nàng khô kiệt. Rồi nàng nói, vẫn thoảng nhẹ như không có thật: "Em có lỗi. Em có lỗi. Em xin anh đừng nói thêm gì nữa. Chúng ta hãy quên cái ngày này đi".

Vô ích. Anh đã kiệt sức. Cõi lòng anh tan nát. Buồn tê tái, anh gieo mình xuống ghế.

Cũng có một giây thoáng tỉnh khiến anh ân hận. Nghĩ thế, song miệng anh vẫn buột ra chán chường: "Ừ, hãy quên. Chúng ta đã lầm lẫn...". Câu nói của anh bị cắt ngang bởi một tia sáng xanh lạnh lẽo lướt qua mắt nàng. Trong tích tắc anh có cảm giác mặt nàng hóa đá.

Từ đấy băng giá ùa vào tổ ấm của anh.

Cả anh và nàng, cõi lòng câm lặng như đá tảng. Năm năm trời kế tiếp đằng đẵng. Hai người lặng lẽ làm đúng phận sự chồng, vợ.

Rồi đúng vào dịp con gái anh cắp sách đến trường học, nàng tất bật chuẩn bị. Đó là một ngày đáng ghi nhớ. Cả hai người đều nghỉ làm đưa con đến trường. Nàng rủ anh vào chợ mua mua, sắm sắm.

Anh ngỡ ngàng trước thái độ khác thường của vợ. Nàng hồn nhiên và tươi trẻ như ngày anh mới yêu nàng, như thể giữa anh và nàng không hề có đoạn đời băng giá kia.

Đêm hôm ấy nàng chủ động đến với anh. Cuồng nhiệt và dữ dội, anh đáp lại tình yêu của nàng. Anh thiếp đi mãn nguyện. Thật mãn nguyện.

Ngay trong mơ cảm giác mãn nguyện vẫn vẹn nguyên. Anh dắt nàng đi trong sân trường đêm. Một trời trăng. Một biển trăng.

Khuôn mặt nàng ngời sáng như trăng. Anh đắm vào mắt nàng. Chợt mắt nàng sầm tối.

Có một đám mây đen đặc vừa lướt qua. Ơ, nàng đâu rồi, anh ú ớ gọi tên nàng. Tay anh quờ quạng tìm nàng. Không thấy.

Anh hoảng hốt tỉnh giấc. Không có nàng thật, giường trống không. Anh bật dậy. Đèn phòng sáng trưng. Nàng ngồi ở ghế mỉm cười với anh. Anh tiến đến bên nàng. Rất dịu dàng, nàng nhìn anh.

- Anh ngồi xuống đi. Em vẫn đợi anh. - Nàng nói liền một mạch, giọng thẳm sâu như vang lên từ một thế giới khác. - Anh nói đúng. Chúng ta đã nhầm lẫn. Cuộc sống chung này không hợp với em và anh. Em đã cố gắng hết mức. Từ sau cái lần ấy... Em đã quyết định. Bây giờ thì điều đó có thể thực hiện được. Con chúng mình đã lớn. Nó đã đủ sức để theo em. Phải thay đổi, anh ạ. Chúng ta sẽ làm lại từ đầu. Chúc anh...

Anh không nghe thấy gì nữa. Nàng chìa cho anh tờ đơn. Anh run rẩy còn nàng vẫn mỉm cười. Mắt anh như bọc sương trắng.

Tờ đơn trắng đặc chữ và hàm răng nàng lấp lóa trắng. Anh gạt tờ đơn xuống mặt bàn, lững thững bước lại bên giường.

Gương mặt con anh rạng ngời như gương mặt một thiên thần. Trời ạ, nó đang cười trong mơ. Giấc mơ đẹp nào mà không ngọt ngào, con ơi.

Mãi khi hừng đông hé rạng, mặt trời bầm bầm như một bát tiết dây khổng lồ lừ ngừ hiện lên, uể oải ném vung vãi từng vốc nắng đỏ sặc, anh mới bừng tỉnh.

Anh chậm rãi quay vào ngồi đối diện với nàng. Như có tiếng chuông reng từng nhịp, từng nhịp trong tim anh. Kìa, nàng vẫn cười.

Anh từ từ nhấc tờ đơn và thong thả rút bút.

Đến khúc ngoặt cuối phố anh mới dừng lại. Một lần cuối anh ngoái lại nhìn. Ngôi nhà thấp thoáng mờ ẩn.

Nó sống ở trong đấy. Nó sống như thế nào. Cứ nghĩ đến người đàn ông thế chân anh, không máu mủ ruột rà với nó lại sống cùng nó, thậm chí vuốt ve nó, hoặc mắng chửi nó là lòng anh trào lên nỗi xót thương vô bờ.

Sáu tháng sau khi anh ký đơn, thì mẹ con nàng rời bỏ anh ra đi. Cũng rất nhanh, ngay trong năm ấy nàng đến với người đàn ông là chồng của nàng bây giờ.

Nghe nói họ biết nhau từ thuở thiếu thời. Đó là người đàn ông trẻ tuổi, trẻ hơn anh rất nhiều, nhưng thành đạt trước tuổi. Anh ta giàu. Anh không dám nghi ngờ tình yêu của họ. Nàng đẹp thế, hiển nhiên nàng có quyền ban phát tình yêu của nàng để đổi lại những gì nàng muốn.

Anh đã đắn đo rất lâu, để rồi cuối cùng vẫn nhận lời mời đến dự đám cưới nàng. Anh đến một phần vì lòng tự trọng và kiêu hãnh, nhưng cái chính là vì nó.

Hôm ấy giá không bắt gặp khuôn mặt ngơ ngác của nó hẳn anh cũng sẽ rất vui trước hạnh phúc mới của nàng.

Từ thẳm sâu tâm hồn mình, anh cầu mong cho nàng được hạnh phúc. Ý nguyện của anh chân thành. Cũng dễ hiểu, bởi anh yêu nó biết bao nhiêu. Anh sống vì nó và tất nhiên trong tình yêu ấy, sự sống ấy làm sao có thể trống vắng bóng nàng.

Điều đó giải thích suốt những năm tháng xa nàng, anh không đến với bất cứ một người đàn bà nào khác, dù chỉ trong ý nghĩ.

Anh vẫn yêu nàng - người đàn bà lấy cuộc đời anh làm chặng dừng chốc lát.

Suốt những năm tháng ấy anh chông chênh trong niềm thương cảm, trong ngọt ngào của hạnh phúc dĩ vãng, trong bồn chồn, chờ đợi, mong nhớ.

Và tình yêu cứ tích tụ, cứ dồn đọng lớn dần lên rực sáng trong tâm hồn anh. Anh hiểu tình yêu ấy là của nó.

Cũng kỳ lạ, anh lao vào viết như điên như dại, như thể có một cái gì đấy lớn lao và mạnh mẽ thúc đẩy anh, thổi cho anh nguồn sinh lực tràn trề, khai sáng những gì còn mù mịt tiềm ẩn trong anh.

Anh vắt kiệt sức lực vào công việc. Cõi lòng anh dàn trải theo từng ngày, từng đêm trên từng trang giấy, từng con chữ.

Đó là quãng thời gian gấp gáp hối hả, anh sống như chưa từng được sống, viết như chưa từng được viết bao giờ. Bản thảo của anh bộn lên. Những trang viết nóng hổi phần vật chất cơ thể anh. Anh sọm xuống, già hẳn và tiều tụy.

Cứ ba tháng một lần, anh đã quá quen với điệp khúc gặp gỡ. Chu kỳ thời gian hình như làm cuộc sống của anh ngắn lại.

Cái đích gặp con bao trùm toàn bộ đời sống của anh. Với anh, dường như trên thế gian này lớn hơn tất thảy, hơn mọi thứ tình cảm phải là tình cha con.

Đúng vậy, tình yêu của người cha cô đơn bao giờ cũng có thêm phần tình của người mẹ đối với con mình, dù không được đảm bảo vẫn là thứ dây nối bền chặt nhất.

Mỗi lần đến với con, ngoài sách, anh kỹ lưỡng tìm một thứ quà gì đấy hợp với tuổi tác và ý thích của nó.

Nàng không từ chối, không ngăn cản, thậm chí nàng còn vui mừng một cách đầy bao dung và thông cảm. Những lúc thế này nàng vẫn hay mỉm cười lặng lẽ. Anh hoàn toàn ngây dại trước cái cười của nàng.

Cũng không bao giờ anh có thể biết được rằng, những thứ quà ấy nàng đều cất dành trong một chiếc hòm gỗ đề tên anh.

Và nếu có biết, hẳn anh đã phải cảm ơn nàng, bởi nàng đã tiên cảm rất đúng.

Lần gặp này lòng anh chộn rộn khó tả. Con gái anh đã mười tuổi.

Ôi, nó lớn biết bao. Anh đã suy nghĩ rất nhiều mà không chọn được một thứ quà ưng ý. Giá không vô tình nhìn thấy một đám rước dâu trên đường phố, hẳn anh đã không thể nghĩ được món quà tặng nó.

Hình ảnh hạnh phúc của cô dâu, chú rể trong cái đám cưới vô tình kia làm anh chạnh lòng. Anh cũng đã có một lần như thế. Vẫn biết rằng, giờ đây nàng và anh đã mất nhau vĩnh viễn, nhưng nó thì không thể.

Phải cho nó được vẹn nguyên dù chỉ là một chút kỷ niệm, một thoáng hồi ức tốt đẹp về cha mẹ nó. Anh vét toàn bộ số tiền mình có mua một sợi dây chuyền vàng có chiếc lắc nhỏ rất xinh gắn hình anh và nàng ngày cưới.

Sau này khi trưởng thành hẳn nó sẽ nghĩ tốt đẹp về một thời của anh và nàng. Ý nghĩ ấy làm anh vui hẳn lên.

Những gì nặng nề khi gặp nàng đã biến mất. Anh tạt vào quán rượu quen ven bờ Hồ Hoàn Kiếm. Niềm phấn chấn khiến anh bỏ lối uống nhâm nhi thường ngày.

Anh ngửa cổ dốc từng chén lớn. Từng chén, từng chén chui vào họng anh, ngấm vào máu, biến thành máu. Mới chiều nay thôi, nó hỏi anh: "Bố uống nhiều rượu lắm phải không?".

Anh đã ậm ừ, nhưng lòng cồn lên vui sướng. Ai bảo cho nó biết? Còn ai ngoài nàng nữa. Vậy là từ mảnh tình đã vỡ vụn, trong một góc chật hẹp nào đó của ký ức nàng, anh vẫn còn tồn tại.

Lúc người đã nhẹ bẫng và từ ngực anh dâng lên cơn khát cháy bỏng, tiếng nói của nó ban chiều vẫn ngọt ngào, ngấm lịm: "Ứ, bố hứa đi.. Bố uống ít rượu thôi nhé?" - "Ừ, bố hứa".

Anh cười thành tiếng: - "Kìa, bỗng dưng cười, anh say rồi đấy, thôi về đi". Anh chau mày khó chịu nhìn ông già chủ quán. Giọng anh đã khê đặc: - "Lão vừa cướp mất của ta nửa niềm vui đấy!" - "ừ, lão xin lỗi. Nhưng về đi anh".

Anh lảo đảo đứng dậy. Còn đứng được là còn đi được. Rượu vốn thế.

Trời tối từ bao giờ. Đèn đường đã bật tỏa ra thứ ánh sáng vàng vọt . Anh chật chưỡng bước đi quên cả trả tiền.

Ông lão chủ quán mở cuốn vở ghi nợ, chép miệng: "Khổ, sao hôm nay anh ấy uống nhiều đến thế?". Làm sao ông có thể biết được anh đang vui. Phải, rất vui.

Nhưng anh không về nhà. Cứ chân ngang, chân dọc anh cập quạng đi hết một vòng Bờ Hồ. Rồi anh ngồi ghé vào đầu chiếc ghế đá kê sát cây lộc vừng thân ngả, cành lá là là chạm hẳn xuống mặt nước.

Đây là chỗ quen thuộc của anh mỗi lần đi dạo. Ở đầu kia đôi trai gái non choẹt đang chồm chỗm trên đùi nhau vội vã buông rời, rồi lẩm bẩm dắt nhau sang ghế đá bên cạnh. Chúng sợ mùi rượu nồng nặc từ thằng người nom nhếch nhác.

Anh ngồi thế lâu lắm. Hầu như cơ thể anh ở nguyên một tư thế. Bất động vậy, nhưng lòng anh lan tỏa những đợt sóng tròn hệt như mặt nước hồ loang loang giỡn đùa cùng gió.

Cho đến tận phút này anh vẫn không tìm ra được câu trả lời. Tại sao anh phải xa nó? Mà anh và nó thương yêu nhau biết bao nhiêu. Mắt anh đu theo dây hoa lộc vừng giăng giăng.

Cả những xác hoa dập dềnh trên mặt hồ lăn tăn sóng. Xác hoa. Anh đã già đâu nhỉ? Bất giác chân anh di di lên gốc cây xù xì. Bao nhiêu năm rồi cái gốc chùm vô số rễ gộc nổi trên mặt đất vẫn như thế, chẳng thay đổi gì cả.

Ngày bé anh cùng bọn trẻ thường túm tụm trên gốc cây chơi chán chê đủ trò, rồi cả lũ bò men men theo thân cây bám vào những cành là là buông mình rơi xuống hồ.

Thú lắm. Cũng đã có lần anh dìu nó leo lên một cành gần gốc. Nhưng nó sợ hãi hét lên, mặt xanh xám, mắt nhắm nghiền.

Anh hoảng hốt đưa nó xuống vội. Mãi sau anh mới ớ ra, cười ngặt nghẽo. Thật ngốc, nó là con gái, đâu có thích những trò leo trèo. Cũng trên chiếc ghế đá này có lần anh đã ngồi trọn cùng hết suất thời gian của một lần gặp gỡ.

Hôm ấy anh đãi nó món sấu chín vàng gọt xoáy hình ốc chấm muối. Chà, sấu chín, thoạt đầu có vị chua thanh thanh, rồi ngọt dần, ngọt dần, lịm vào lưỡi.

Anh nuốt ực ngụm nước miếng vừa tứa ra. Cơn khát lại dâng lên. Cơn khát đẩy anh về một trận mưa ngày nhỏ.

Có thằng bé con là anh vừa tụt từ cây sấu già xuống, thì trời ập mưa rào. Thằng bé vội vàng chạy. Cái áo may-ô đã ngả mầu của thằng bé lèn chặt đầy sấu.

Bỗng thằng bé ngã oạch. Cả bụng sấu òa ra. Những quả sấu vàng xuộm tung tóe, lăn lóc giữa đám bong bóng nước phập phồng.

Thằng bé cuống quýt nhoài theo. Những quả sấu chín vàng đến tận bây giờ. Có lần anh kể đoạn này cho nó nghe.

Nó cứ ngác ngơ mãi không hình dung ra nổi. Chán chê nó mới hiểu. Và nó hỏi: "Thế bố có nhặt hết được không?".

Anh làm bộ ngơ ngác để nó phải giải thích. Rồi cả hai bố con cười như nắc nẻ.

Bỗng người anh nẩy lên. Bàn tay ai đó đặt lệch một bên vai. Ả ăn sương to đùng như hộ pháp, mặt trét bự sáp son, lù lù bên anh tự bao giờ toe toét: "Này bố già, à anh giai, ngủ kỹ thế, dậy đi cho đỡ phí đời.

Nào, vui vẻ, canh cuối hữu nghị thôi". Anh vẫn ngồi bất động. Ả kia sỗ sàng tót xuống cạnh, tay lùa lùa bụng dưới anh.

Anh khẽ hất tay ả, mắt vẫn miên man. Ả cúi sát sạt mặt anh, rồi vùng đứng dậy chửi: "Rõ khốn, vớ phải thằng cô hồn say rượu. Đúng là vận áo xám".

Có lẽ ả điếm bị ế khách từ tối nên tức vô lý. Ả loạt soạt vơ mấy tờ giấy bẩn gom sát chân anh, bật diêm đốt, rồi bỏ đi. Hẳn là ả đốt vía. Lửa táp rát chân không làm anh ngừng mạch nghĩ về nó.

Đêm đã khuya lắm rồi. Đường phố heo hút. Giờ này chắc nó đã ngủ ngon. Chẳng biết anh có trong giấc mơ của nó hay không?

Anh đứng dậy. Rượu vẫn rần rật chạy trong bầu máu nóng. Cái gì thế kia. Anh sững người. Những tia sáng trắng mờ buông phóng đãng qua kẽ của tán lá lộc vừng.

Muôn ngàn chiếc lá rung rinh như những bàn tay mời gọi.

Anh phóng mắt. Trời ơi, trăng. Trăng lên tự bao giờ. Ngờm ngợp, mơn man.

Mặt hồ xanh nhuộm ánh trăng vàng. Đất trời bừng sáng. Người anh run lên. Cây lộc vừng chao nghiêng ngả.

Trước mắt anh sân khấu trăng lộng lẫy. Cả tiếng nhạc run rẩy.

Từng đôi, từng đôi một dìu dặt theo tiếng nhạc.

Nàng kìa. Nàng đi ra từ bên kia sân trăng. Nàng cười tươi tắn.

Anh cũng cười theo. Nhưng quả tim anh khững lại. Nàng không đi một mình. Người đàn ông cạnh nàng trẻ lắm.

Nhạc vẫn run rẩy. Vẫn từng đôi, từng đôi quấn vào nhau say dại.

Anh dụi mắt. Đúng rồi. Nó. Tim anh đập mạnh trở lại. Đúng là nó. Mắt nó long lanh sáng. Bím tóc nó đen mượt nhún nhảy.

Nó đã nhìn thấy anh. Nó vẫy. Bàn tay trắng hồng. Nó ào đến.

Anh sung sướng dang rộng hai tay. Người anh mềm đi.

Những giọt trăng thánh thót rơi xuống nhòa ướt mặt anh.

Con ơi. Con của ta. Cuộc đời bé bỏng của cha. Nhạc run rẩy. Người anh cũng run rẩy. Từng bước một, từng bước một, anh vươn người ôm chầm lấy nó.

Mười năm sau.

Một tối bên gốc cây lộc vừng hồ Hoàn Kiếm.

- Mẹ thấy đường đột quá. Con mới hai mươi tuổi. Còn những hai năm nữa con mới ra trường. Bao nhiêu thứ phải lo, mà con trẻ thế...

Nước mắt lăn dài trên má thiếu phụ. Chị không còn trẻ, nhưng vẫn tràn xuân sắc.

- Không còn cách nào khác, mẹ ạ. Con không thể dựa dẫm mãi vào dượng. Chúng con sẽ ở tạm ký túc xá. Cảm ơn mẹ về tất cả. Những di vật của bố, cả câu chuyện buồn này nữa. - Thiếu nữ xinh đẹp nâng chiếc dây chuyền có chiếc lắc nạm hình cha mẹ, áp vào ngực.

Mắt cô trầm uẩn nhìn cành lộc vừng là là mặt hồ. - Mẹ ơi, hiểu cho con. Mẹ còn có dượng, có các em. Bố còn có sự nghiệp của bố, có mẹ, có con. Còn con thì chẳng có gì hết ngoài nỗi cô đơn. Không, con phải tự giành lấy hạnh phúc cho mình. Chúng con trẻ và phải làm mọi thứ từ đầu, nhưng tình yêu của chúng con... Vâng, tình yêu, con tin thế...

Thiếu phụ khẽ thở dài.

- Mẹ ơi, mai là ngày cưới của con rồi. Xin mẹ hãy trả lời con. Mẹ có hạnh phúc không, hả mẹ?

Nước mắt lại lăn dài trên má thiếu phụ. Có một khoảnh khắc im lặng. Gió lô xô đuổi những chiếc lá lộc vừng xào xạc.

- Mẹ có tất cả mọi thứ. Nhưng hạnh phúc thì hình như không, con ạ.

- Thế còn bố con?

Thiếu phụ nấc lên nghẹn ngào:

- Bố con ư? Mẹ cũng không biết nữa. Duy có điều này thì mẹ biết. Bố con chỉ sống bằng hai thứ trên đời. Đó là những cuốn sách và tình yêu. Tiếc thay, hai thứ ấy không nuôi nổi bố.

Thiếu nữ đứng dậy. Cô đăm đắm nhìn. Đêm ấy trăng rất sáng. Những dây hoa lộc vừng phớt hồng bắt ánh trăng vàng thẳm.

Mặt hồ mênh mang. Kỳ lạ chưa kìa! Người cha thân yêu của cô hiển hiện đúng như với tư thế mười năm về trước trong cái đêm ông từ bỏ cuộc đời.

Ông chết đứng. Nước ngang ngực. Hai tay víu vào cành lộc vừng. Hoa lộc vừng giăng giăng trên tóc. Đôi mắt, khuôn mặt rạng rỡ. Miệng mỉm cười.

Nghe kể lại, thiếu nữ đã không tin. Còn bây giờ. Cô thổn thức gọi: "Bố ơi!".

Trăng sáng hơn. Những dây hoa lộc vừng xao động. Như có mối giao cảm linh thiêng, cô nghe thấy tiếng nhạc run rẩy.

Cha cô cười rạng rỡ, tay buông cành lộc vừng. Ông cất tiếng gọi cô. Những giọt trăng thánh thót rơi. Cây lộc vừng chao nghiêng. Thiếu nữ dang hai tay đón đợi.

Vào chính lúc ấy, cô tin rằng cha cô hoàn toàn hạnh phúc và cả điều kia nữa. Cô đã quyết định đúng.

Ngày mai cô đi lấy chồng.

Hết

Giọt gianh

Người đàn ông lực lưỡng nằm chật chiếc giường trong phòng tẩm quất, đang thiu thiu ngủ, chợt vùng dậy:

-Đấm bóp thế hả, biết huyệt gì không mà bấm loạn xì ngậu vậy. Thôi đi!

Thắm giật thót người, quýnh quáng tay gạt phải chiếc điện thoại di động khiến nó rơi xuống nền gạch.

Sợ hãi, cô vội chụp nó bằng hai tay, đưa trả ông khách, giọng ríu lại:

-Tôi…em, em xin lỗi.

Người khách nhìn trân trân vào mặt Thắm, có lẽ nhận ra nét sợ sệt chất phác của cô gái chân quê, bèn nằm xuống, và bất ngờ chuyển giọng dịu dàng:

-Mới vào làm chứ gì, quê ở đâu?

Thắm càng cuống, nói không ra hơi:

-Dạ, em ở…ở quê…

Ông khách phì cười, lật người nằm sấp:

-Chưa thạo thì đấm, đấm mạnh vào, giở giời mỏi quá là mỏi.

Thắm làm theo lời ông khách, đấm bình bịch.

Sức vóc lực điền của cô gái thuần quê như được đất dụng võ, cộng thêm một chút tủi thân, một tẹo e dè ngượng ngập, khiến những cú đấm chắc nịch của Thắm phầm phập bổ vào tấm lưng trần vạm vỡ của người đàn ông.

Được một lát, người này nhỏm dậy, thoả mãn:

-Đủ rồi, cô đấm khoẻ lắm, đến trâu cũng ngoẻo. Tốt!

Khách lại cười, nhìn Thắm ra chiều thông cảm, có ánh một chút thương hại:

-Sao không ở nhà làm ruộng? Nghề này không hợp với cô đâu.

Ông ta dúi tờ bạc hai chục ngàn, vuốt nhẹ má Thắm rồi đi ra. Thắm ngồi lặng đi.

Câu nói của người khách lạ vô tình huyệt trúng tim cô làm dâng lên, dâng mãi một cảm giác hờn tủi vô bờ.

Sao mà hợp được, sức vóc dư thừa có đấm bóp cật lực vẫn nhàn sức nhưng Thắm không thể nào quen được với những thân hình đàn ông lạ, dẫu rằng việc cô đang làm kia cũng chỉ là một thứ lao động thuần tuý.

Quán cắt tóc, gội đầu, tẩm quất này, vốn chỉ phục vụ đám khách bình dân, công chức cấp thấp ít tiền và trong sạch đúng tất tật mọi nghĩa.

Cô nhân viên ở ngăn ri đô bên trong cũng đã trả khách, bước ra vỗ nhẹ vào vai Thắm:

-Nghĩ ngợi làm quái gì, bọn họ nói lung tung ấy mà. Chưa biết, làm mãi cũng sẽ thạo. Tao trước cũng ấm ớ như mày thôi. Có công việc ở đây là quá tốt. Chỗ khác nhiều tiền, nhưng nó vần vò mình còn quá con vật. Xuống ăn cơm đi, tối muộn rồi!

Thắm dạ khẽ, đi theo người bạn cùng làng. Tờ bạc hai chục ngàn rớt xuống đất, Thắm không hề hay biết.

***

Bữa cơm đạm bạc vội vàng là suất ăn được chủ quán miễn phí.

Gọi đạm bạc nhưng nó chán vạn lần hơn bữa cơm quê của gia đình Thắm.

Ngồi ăn nhưng Thắm không thể nào tập trung được, cơn mưa mùa đang quất ràn rạt, hắt cả nước vào cửa quán.

Ngay cả thứ mưa thành phố này cô cũng không thể quen được.

Những ban công, mái hiên che chắn không cho nước xối, luôn tạo cho Thắm một cảm giác trơn chuội.

Thắm là người thích mưa. Mỗi khi mưa trút, mái nhà lợp rạ của cô, nước đọt thành dòng theo giọt gianh tuôn xả bao giờ cũng gợi cho Thắm một nỗi niềm lâng lâng khó tả.

Từ nhỏ, Thắm đã có thói quen ngồi ngoài hiên xem mưa. Nước từ giọt gianh đọt xuống giăng thành bức mành trắng trong suốt.

Sân đất nện, thời gian và chân người bước đã làm hoá thạch bề mặt khiến nó phẳng lì nhẵn bóng, làm chuội trôi những bong bóng nước phập phồng.

Có lần thương những chiếc bong bóng sớm bị tan vùi trong dòng nước xối, Thắm đã oà khóc.

Bà nội Thắm mắng cháu bằng một một so sánh xa xót, con bé này rồi cũng như chiếc bong bóng kia, chẳng bao giờ thoát khỏi mái rạ nghèo.

Chưa bao giờ Thắm bận tâm về lời tiên tri của bà nội.

Ngay cả lúc đã có hai mặt con, và cuộc sống thì vô cùng khốn khó, Thắm vẫn giữ được niềm thích thú đã trở thành tài sản riêng kia của cô.

Hơn tháng nay, Thắm được người bạn vừa rồi giới thiệu làm ở quán tẩm quất này.

-Ăn đi chứ, con hâm , hôm nay mày làm sao thế?

-Em nuốt không trôi.

-Nhớ con chứ gì, mày thử nghĩ xem, chồng mày như thế, không cứu lấy thân, chui về, chết dúi, chết rọ cả đám. Ăn đi, kẻo có khách đến lại đói.

Thắm lắc đầu, cố trệu trạo nhai nuốt.

Con sao lại không nhớ, lúc ngủ, lúc ăn, lúc thòm thọp đấm cho khách, lúc nào Thắm cũng thấy hiện hữu khuôn mặt thơ dại của con.

Làm vợ từ năm mười bẩy tuổi theo lệ làng, hai mặt con, đứa đầu lên mười, đứa sau lên tám, nếp tẻ đủ cả, lẽ ra Thắm đã có thể yên ổn sống, nhưng…

-Mưa gió thế này, coi như lại trắng tối nay. Các chị nhanh nhanh lên cho, xem có vớt vát được mống nào, hay mống ấy.

Chủ quán cũng là một phụ nữ trẻ như Thắm ca cẩm. Thắm đặt bát cơm dở xuống, tiện tay dọn luôn mâm bát.

Chợt chị bạn giữ tay Thắm:

-Ai như thằng Bân.

Thắm rùng mình, nhận ra hình hài Bân nhoè nhoẹt trong màn mưa mịt mùng dày đặc trắng bạc.

Từ ngày tìm ra chỗ vợ làm, Bân thường đến ngồi ở hàng nước chè chén đối diện nhìn sang cho đến tận khi quán đóng cửa.

Chiếu cố hoàn cảnh, chủ quán cho Thắm được ngủ lại, và điều đó khiến cho Bân tức điên.

Vài lần, Bân đã xông vào hoạnh hoẹ gây sự với Thắm nhưng vì nơi đất khách quê người, loại tinh tướng ở xó làng như Bân chẳng làm gì nổi.

Lần sau cùng, vì làm ầm ĩ, Bân bị người của quán tống cổ ra đường một cách ê chề nhục nhã. Chị bạn dóng dả:

-Mưa to thế, vẫn mò đến, xem ra thằng này điên thật rồi. Cho chết, cơm không ăn, ăn kít. Đận này, mày về làng thu xếp dứt điểm đi. Không thể thương được bọn đàn ông thối tha.

Thắm yên lặng bê mâm bát rếch vào bếp.

Đang cọ rửa, thấy tiếng ồn ào cô vội bỏ đấy đi ra ngoài. Đúng như linh tính mách bảo, Bân đang đứng chống nạnh ở cửa.

Tiếng chủ quán xa xả:

-Đang mưa ế chỏng ra đây, ông biến đi cho chúng tôi nhờ, đừng cháo ám nữa, đồ cô hồn. Cô Thắm đâu…

Hình như Bân vừa uống rượu, giọng khê khê:

-Khinh thằng này không có tiền à? Đây!-Bân móc ra một nắm tiền nhàu nát- Đủ cho hai chầu, gọi đúng con Thắm cho tôi. Nó phải tẩm quất cho tôi!

Tất cả ắng đi vì bất ngờ. Chị bạn bối rối nhìn Thắm.

Bân đã nhìn thấy vợ, mắt ngầu lên đỏ đục như trâu chọi. Tủi quá, Thắm nhảy hai bậc cầu thang một, nghẹn ngào:

-Anh lên đây!

***

Bân nằm lóng ngóng trên chiếc giường chật.

Gọi là giường nhưng nó chỉ rộng quãng bẩy chục phân, vừa đủ cho một người nằm.

Qua sự hùng hổ ban đầu ở dưới, bây giờ Bân lúng túng không biết hành xử ra sao, ấp úng:

-Cô làm cho thiên hạ thế nào, làm đúng tôi như thế! Thằng này đầy tiền.

Thắm lẳng lặng làm phận sự. Cô xoa mặt Bân trước.

Da mặt thô tháp quen thuộc của người từng có chục năm chăn gối, giờ trở nên cứng ráp dưới tay Thắm.

Mắt Bân đang trừng trừng như muốn ăn sống nuốt tươi cô, chỉ qua mấy lượt xoa đã khép hờ hờ. Bân lảm nhảm:

-Tưởng gì, rời thằng này ra chắc gì đã sung sướng. Cả làng đang réo vào mặt tôi để cô đi làm điếm kia kìa.

Thắm vẫn đều tay xoa bóp. Bân ợ liền mấy cái:

-Tôi nói cho cô biết, từ mai tôi quyết không để con tôi phải sống bằng những đồng tiền này.

Bân lải nhải đủ chuyện nhưng Thắm chẳng hề để ý.

Tuyệt nhiên im lặng, Thắm không ngờ mình lại bình tĩnh được như thế, dù lòng cô đang cồn sóng, đang lay động, quằn quại gào thét.

Cái con người đang nằm đây, sặc sụa mùi rượu, huyên thuyên trăm thứ vừa hằn học tàn nhẫn, vừa đau đớn bất lực, chính là người đã đẩy cô vào cuộc sống nơi thành thị đầy xa lạ và sợ sệt này.

Thắm cứ xoa, cứ bóp và trí óc cô mông lung trở về với làng quê của mình, ở đấy Thắm có niềm vui, nỗi buồn, có những đôi mắt trẻ và giọt gianh của mái rạ nghèo ròng ròng nước.

Lấy chồng khi còn là một đứa trẻ, sinh con để thành người lớn, Thắm tưởng cuộc đời chỉ giản đơn là thế.

Bân và Thắm cùng tuổi, cùng xóm, chuyện chồng vợ cũng na ná như tát ao, làm đồng, chăn trâu, cắt cỏ, chẳng hề hệ trọng.

Mà đúng thế, hệ trọng gì đâu, ruộng mấy sào, vườn một thửa, lợn vài con, giêng hai rồi đến tết chạp, cứ thế làm nên đời sống chồng vợ, chẳng phú quý giầu sang nhưng yên bình dân dã.

Đến một ngày, khi Thắm đã hài lòng yên phận thì Bân chợt nhận ra rằng cái giọt gianh mà vợ thích thú kia là thứ quái gở chẳng ra gì, nó không thể sánh được với quả cầu đặt trên tum tầng ba của nhà thằng Bạt ngọng con lão Bất chủ tịch xã.

Càng không thể chấp nhận được cái thú tối tối, vợ chồng con cái rúc rích trên giường chơi trò gia đình đầm ấm.

Thứ đó xưa rồi, sống là phải karaoke dàn như nhà con Na “ngựa” ông ổng thâu đêm suốt sáng.

Bét nhất cũng được như lão Phần già mở quán bia cỏ, uống bia được xem kèm phim chưởng Hồng Kông, nghe đồn khách ruột uống nhiều còn được lão đãi món phim tươi mát, mũi lõ, tóc vàng, không quần, không áo.

Bân cuồng lên vì những sự lạ ở làng, càng cuồng, càng thấy mình hèn, mình kém, mình thua thiệt, sống đấy mà chưa phải là sống.

Thói đời thằng nhìn lên, lại ngu ngốc mang cái thân kém cỏi của mình để so sánh với thiên hạ, dĩ nhên là phải chuốc kết cục khốn nạn.

Chưa đâu vào đâu, Bân dốc sạch mọi thứ có được trong nhà vào cuộc đua đổi đời bằng một cú đi buôn bị lừa nhẵn túi.

Thắm đang ngơ ngác thì Bân như một sự tất yếu của kẻ yếm thế lao vào rượu, vào bài bạc và cú cuối cùng là mồi lửa quẫn trí chưa thiêu nổi căn nhà nhưng cũng liếm nham nhở mất cái giọt gianh thân thiết của Thắm.

Xem ra mươi năm chồng vợ chưa phải là cái gì ghê gớm, Thắm mang con về nhà mẹ đẻ, cũng từa tựa như lần trước xách quần áo theo chồng.

Miên man với dòng suy tưởng, Thắm chợt giật mình khi thấy cô đã ngừng phận sự từ bao giờ, đầu dụi vào ngực Bân, thói quen của Thắm khi ân ái cùng chồng.

Bân, đầu ngoẹo sang một bên, miệng há, ngáy như kéo bễ, quên bẵng mất vụ tiêu tiền không hề nhỏ này.

Thắm nhìn kỹ Bân. Gã hốc hác đi nhiều, gầy thì đã rõ, xương sườn Bân, mười năm qua, chưa bao giờ đếm được như bây giờ.

Sau khi Thắm theo chị bạn đi làm, Bân cũng bỏ làng theo một cai đầu dài xây dựng, làm phụ nề kiếm ăn độ nhật.

Đang dưng thành tay trắng, Bân trút giận vào cái nghề Thắm đang làm, gã coi đó là một điều sỉ nhục. Bất chợt Bân cựa mình ú ớ nói mê gì đó.

Hình như Bân gọi tên con, đúng thế, gọi tên của cả hai đứa, và Thắm thấy mình nao nao, chút thương xót còn lại bất ngờ dâng lên.

Không kìm được, Thắm lay Bân dậy, mặc cho Bân mắt nhắm, mắt mở chưa kịp định thần, cô nói một cách cương quyết nhưng nhẹ nhàng hết mực:

-Anh về đi, đừng đến đây nữa, tôi chẳng làm gì không phải đâu. Đã khổ, đừng chuốc thêm khổ.

Bân ngỡ ngàng dụi mắt, nhìn quanh quất:

-Tôi…tôi…

Giá như Bân tiếp tục chửi bới, rủa sả, có lẽ Thắm đã không phải bận lòng.

Nhưng sự ngượng ngập bối rối, có một chút như ăn năn, xấu hổ của Bân làm người cô như mềm lại.

Con người gầy gò lam lũ, nhếch nhác này, dù với cô, cõi hồn đã gần như khô kiệt, đã như người dưng nước lã, thì chí ít, gã vẫn là cha của hai đứa con cô.

Thêm một chút xót xa, thương hại, nếu không bất chợt nhìn thấy ngọn lửa từ tay Bân bùng lên, liếm vào giọt gianh hôm nào, có lẽ Thắm đã ngã lòng, và rất có thể cô sẽ nhượng bộ phần nào đòi hỏi vô lý của Bân phải trở về làng quê, không phải để sống tiếp cuộc sống chồng vợ mà chủ yếu là để tránh miệng lưỡi thị phi của làng nước.

Thắm nói với Bân rành rọt chính xác và tỉnh táo:

-Anh nên thương lấy mình. Uống ít rượu thôi. Cũng đừng bôi xấu tôi với con. Chúng nó còn nhỏ, chưa hiểu gì cả, tội nghiệp lắm.

Dù đã rất cứng rắn nhưng khi nhắc đến con, Thắm vẫn nao nao lòng.

Cô quay đi để giấu giọt nước mắt nóng hổi đang rưng rưng tứa ra. Bân đờ dại không một phản ứng, cum cúp theo Thắm đi xuống. Ngoài trời mưa vẫn ào ào trút nước.

***

Có đến dăm hôm không thấy Bân bén mảng đến hàng nước nhìn sang quán nữa. Chị bạn mừng ra mặt:

-Hôm trước, mày làm gì mà nó mất mặt vậy?

Thắm lắc đầu:

-Không có chuyện gì chị ạ. Em đã dứt khoát.

Chủ quán vui miệng bình phẩm:

-Thằng chồng cô, nom thế mà nhát, mượn hơi rượu thôi, chứ thực chất nó đích thị là thằng hèn. Đàn ông bây rặt bọn khốn nạn. Các cô hay kén chọn, phải tôi, tôi cứ kiếm thằng vừa hèn vừa ngu là sống ổn.

Thắm không tiếp lời, mà cũng còn biết nói gì hơn, bây giờ Thắm đến cả quyền lựa chọn cũng không có.

Cuộc sống của Thắm diễn ra sẽ đúng như vậy nếu không có một chuyện xảy ra liền sau đó. Thắm về thăm con, lo ít tiền để bọn trẻ chuẩn bị vào năm học mới.

Thấy chúng xúng xính quần áo mới, ríu rít kể chuyện nhà, đòi đi thăm mẹ, Thắm rất ngạc nhiên. Càng ngạc nhiên khi biết Bân đã sắm sửa cho bọn trẻ, nhưng quan trọng là Bân đã vẽ ra một hình ảnh Thắm khác với những gì Bân đe nẹt, rêu rao trước đây.

Thắm không còn tâm trí đâu để xúc động nhưng quả thật, từ đáy lòng cô nhen lên một chút gì đó tựa như khoan dung, trong một khoảnh khắc, sự căm ghét, lòng thù hận cái con người đã tước đi cuộc sống gia đình của cô, vợi đi rất nhiều.

Sau này, Thắm đã tự nhủ rút cục mình cũng chỉ là đàn bà.

Đàn bà thường hay mủi lòng, dễ chấp nhận tha thứ. Bân lại mò đến đúng vào lúc một cơn mưa bất chợt dội xuống, chỉ khác lần này gã không uống rượu.

Tự tin, không còn hoang mang, ngượng ngập, Bân vào thẳng chuyện muốn Thắm đồng ý cho gã lợp lại cái mái nhà.

Thắm lúc đầu tức điên, nhưng sau đó cô tĩnh trí lại. Ngôi nhà của ai đi chăng nữa thì cũng là của con Thắm sau này.

Vả lại khi Bân đã biết hối, Thắm cũng chả nên căng thẳng với gã làm gì. Nhưng lý do để cô đồng ý, chính là trận mưa đang xối xả đã khiến cô bất chợt nhớ về mái rạ, giọt gianh của mình với niềm nuối tiếc.

Sau đó, vài lần qua lại, gặp gỡ, Thắm không thể ngờ rằng, trong trái tim cô bắt đầu đội đến những cảm giác chưa bao giờ bắt gặp.

Với Bân, lòng thù hận, sự căm ghét vẫn còn, nhưng nó nhỏ hơn rất nhiều với cảm giác đang xuất hiện trong cô.

Sự tha thứ, niềm thương và nhất là nỗi nhớ, muốn gặp lại kẻ từng là chồng mình trong danh nghĩa.

Một lần, Bân mời Thắm đi chơi. Không cưỡng lại được, họ đã trở lại miền xưa của một thời thơ dại.

Tiếp tục những lần hò hẹn, khi là một góc công viên, lúc là nơi nhà trọ rẻ tiền.

Những cuộc gặp nhiều lên thì căm ghét và thù hận mỏng lại, và điều này mới quan trọng, không thể cắt nghĩa được, nhưng Thắm biết, cô và cả Bân nữa đã lột xác thành những con người khác, khác cả đam mê lẫn khao khát.

Chị bạn cùng làng khi biết chuyện đã ngớ ra, và thật bất ngờ, người đàn bà chịu nhiều đổ vỡ, luôn chất chồng trong lòng thù hận đã buột miệng:

-Có lẽ đúng, ngày xưa bọn mình chơi trò chồng vợ sớm quá, nên chẳng biết gì, cái đó người ta gọi là tình yêu. Tình yêu, mày hiểu không? Tao chỉ thấy lạ, sau ngần ấy chuyện, và vào lúc khốn cùng nhất, chúng mày còn đến được với nhau thì quá là điên rồ. Thật điên rồ!

Thắm bật cười, cô không hiểu còn có cặp vợ chồng nào khác yêu nhau như Thắm và Bân không. Những lần trả tiền trọ, họ sòng phẳng đến mức luân phiên nhau trả.

***

Tôi biết được câu chuyện này từ chính quán tẩm quất nơi Thắm làm.

Hồi kết của nó, xảy ra ở một xóm bờ sông nghèo, nơi có những buồng trọ tồi tàn, rẻ tiền.

Bân đón Thắm đến căn buồng gã mới thuê, để kết thúc giai đoạn sòng phẳng trả tiền luân phiên, và chính là để mở đầu một giai đoạn chung sống mới. Căn nhà nhỏ, tường gạch, mái lợp gianh.

Thắm có vẻ ngỡ ngàng vì sự kiện này.

Họ chưa kịp trao đổi gì thì như một định mệnh, trời lại đổ mưa sầm sập. Khi nước mưa theo giọt gianh đọt xuống, Thắm đã bàng hoàng ngồi lặng đi, run rảy nhìn vô vàn bong bóng nước nhảy múa nơi sân đất.

Bất giácThắm nhớ lại lời tiên tri của bà nội bằng so sánh xa xót năm nào. Không bao giờ Thắm thoát khỏi mái rạ nghèo.

Cần gì phải thoát, Thắm đã sinh ra lớn lên dưới vòm mái rạ ấy, ít nhất cô đã được sống những quãng đời hạnh phúc cùng giọt gianh, mái rạ và những bong bóng nước phập phồng, tất nhiên cả những ký ức đau buồn nữa.

Thắm đột ngột quyết định. Tại sao họ lại không trở về với ngôi nhà của mình?

Ngôi nhà có những kỷ niệm cũ và một tình yêu mới.

Hôm sau, Thắm và Bân rời thành phố!

Hết

Truyện ngắn: Thằng mõ trâu

-Các bác có biết thịt trâu chọi ngon nhất thứ gì không? Mà này phải gọi là ông trâu đấy nhá, có thế mới thiêng, mới thành. Ngon nhất, bổ nhất là dái, tinh lực của “ông” trâu dồn cả vào đấy các bác ạ! Kế đó là bộ vó, lúc “ông” trâu xung trận, khí huyết dồn tụ xuống d­ưới, ngon lắm. Còn ba cái thứ thịt bắp này, cũng đ­ược như­ng phải biết làm.

Miệng nói, tay khua, gã làm cả mâm nhậu của chúng tôi ngơ ngác hết lư­ợt.

Hôm đó, một ngư­ời bạn văn ở Hải Phòng, nhân hội chọi trâu, đãi chúng tôi món thịt trâu chọi ngay tại một quán ăn sát biển Đồ Sơn.

Nãy giờ không ai để ý đến gã. Quán vắng, gã ngủ gục ở một chiếc bàn gần đó.

Có lẽ vì cánh chúng tôi to tiếng bàn luận món ẩm thực lạ lùng độc nhất vô nhị này, khiến gã động nhĩ chăng?

Đúng vậy, gã gắp một miếng thịt sống đã ư­ớp gia vị, đưa lên ngửi, vứt toẹt xuống, mũi nhăn lại, miệng phán xanh rờn:

-Rởm!

-Hả?

Anh bạn Hải Phòng bật lên hỏi. Gã vẫn điềm nhiên:

-Đây là thịt rởm! Thịt trâu cày, đám con buôn độn vào bịp các bác. Mua ngoài chợ chứ gì? Hố mất mấy lần tiền rồi.

Bạn tôi ngồi ngay đơ không nói thêm đ­ược một tiếng. Chủ quán ăn đứng kề bên gật gù xác nhận:

-Tôi ngờ ngợ không rõ thực hư­ nên không dám nói. Anh Tu đây, dân chơi trâu chọi cự phách, nói không sai đâu.

Mặt gã vẫn tỉnh bơ, tay quào quào, bới đĩa thịt:

-Nghe các bác nói, em biết ngay mà. “Ông” trâu cuối cùng hoá tận từ tối hôm qua. Như­ng không sao, cho chục lòng đỏ trứng gà đi.

Nh­ư thể gã mới là chủ tiệc. Gã quấy đều bát lòng đỏ trứng, giật điếu thuốc từ miệng tôi, rít mạnh một hơi dài rồi lại cắm trả:

-Thịt trâu các bác ăn nư­ớng thì còn đếch gì thú. Dai ngoách! Cho chảo mỡ ra đây ! Khẩn tr­ương!

Gã dùng đũa ném thịt trâu ư­ớp vào bát trứng. Sau đó đợi chảo mỡ sôi, gã liên tục t­ương thịt trâu đã ư­ớp trứng vào chảo.

Xèo xèo, mù mịt khói mỡ, lừng lựng h­ương vị thơm lạ, xộc tràn khứu giác.

-Kìa, các bác ăn đi. Nóng sốt mới ngon. Sang năm, muốn xơi thịt trâu chọi phải xuống sớm, phải có thổ công, đảm bảo với các bác đã ăn, nghiện đếch dứt đư­ợc.

Sang năm, sang năm nữa, tôi đều đặn ra Đồ Sơn.

Quả thật, thịt trâu chọi ngon khó lòng quên, nh­ưng sức hút tôi đến với miền đất đó vào dịp lễ hội chọi trâu, không phải từ thú ẩm thực này mà chính là từ gã, một con người quái dị với đam mê hoang dại, không thể cắt nghĩa.

*

* *

Tôi quen Tu từ hôm đó. Thật ngẫu nhiên, đêm tr­ước gã cùng đám bạn bè nhậu đến tận sáng, say xỉn nằm gục tại trận.

Sau này khi đã thân quen, có lần gã cư­ời hì hì bảo tôi: “Cánh nhà văn các bác dễ mến thật, chơi với bọn em là chơi với “tinh” đấy, như­ng các bác thì có đếch gì, trên răng d­ưới cà, được cái giỏi bịa. Bịa rồi tin ngay vào điều mình bịa, hồn nhiên thế mà sống khoẻ đ­ược thì cũng lạ thật. Đấy, cái tay đãi bác thịt trâu rởm đấy, gặp em đứt c­ước ngay, cứ gọi là im thin thít, biết quái gì mà dám viết hẳn một cuốn sách về chọi trâu. Em quý các bác là quý ở cái nết ấy ”.

Lý lẽ của hắn ngồ ngộ, chẳng ăn nhập gì với nhau lại hơi khó hiểu, chả hơi đâu mà tranh luận với gã, tôi đành c­ười xoà chấp nhận.

Gã bồi thêm: “Đến miếng ăn vào miệng còn bị lừa, em cũng đến chịu các bác thật. Có lẽ điềm trời xui khiến bắt em phải gặp các bác, khuynh gia bại sản cũng là lẽ đương nhiên ”.

Tôi không dám c­ười nữa, câu sau gã nói hết mực thành thực tuy chẳng đư­ợm một tẹo nào tủi hờn, cay đắng.

Gã sạch sành sanh cơ nghiệp thành kẻ trắng tay vì đặt c­ược vào chính “ông” trâu của gã.

Con trâu chọi mà sau khi thất trận gã vái nó bằng một tràng trào lộng: “Con lạy “ông”! Đấu trường mà “ông” nghệ sĩ, văn veo thế, toi cả nhà con rồi “ông” ơi! ”.

Chuyện xảy ra đã đư­ợc vài bốn năm.

Đã nói ở trên, tôi và gã bập vào nhau sau cái đận thịt trâu rởm đó. Vài bận đi lại, chúng tôi thành bạn của nhau.

Vẫn biết thứ bạn chỉ bằng dăm cuộc nhậu, thêm chút ít tìm hiểu xã giao, nó c­ương cư­ỡng thế nào ấy, dù vậy tuy không nói ra như­ng cả tôi và Tu đều mặc nhiên chấp nhận.

Tu khoái tôi ra mặt khi thấy tôi có vẻ hứng thú cái sở thích chơi trâu chọi của gã.

Đất Đồ Sơn ruộng ít, dân theo nghề biển, trâu chẳng có nhiều, đ­ương nhiên vị trí của ông thần nông này quy sang nghề lúa nư­ớc hẳn không còn mấy giá trị.

Vậy mà hơn bất cứ nơi nào, nuôi trâu ở đây thành hẳn một nghề công phu với rất nhiều mánh lới sành sỏi.

Tu bảo: “Đám lái trâu mạn ng­ược nhìn thấy em là rúm vó. Chỉ cần thoáng xệch đuôi mắt là em biết tỏng đ­ường ăn, nết đánh của các “ông” trâu ngay. Cấm có “ông” hay mà lọt qua đ­ược mắt Tu lếch này.”.

Lếch là biệt danh của gã. Của đáng tội gọi thế hơi oan, mắt của Tu chỉ hiêng hiếng.

Mắt ấy ở thành phố, rơi vào nhà có của, hẳn là một lợi thế đáng kể của những công tử con quan trên chiến trư­ờng chinh phạt phái đẹp, đằng này, Tu, bất quá cũng chỉ là anh chăn trâu, dù có lúc gã đã tậu đ­ược cả cây xăng, thầu của đại lý bán xỉ xăng dầu của thị xã nên từ hiếng chuyển sang lếch cũng là thuận lẽ.

Vẫn là Tu c­ười ngoác, phô trọn cả hàm răng lởm khởm nám xuộm thuốc lào: “Con tỳ, con vị nhà nó chứ, cả cái xứ này, sau l­ưng ai cũng gọi trộm em là thằng mõ trâu. Mõ cũng đư­ợc, mõ người mới nhục, chứ mõ trâu sang chán vạn. Thề có bác, em mà đư­ợc bám đít trâu đến lúc chết, không nói quá, coi nh­ư đ­ược sống đến hai kiếp. Sống danh, sống giá, ra tấm, ra miếng, sống thế mới gọi là nên ng­ười.”

Th­ường thì không bao giờ tôi phản đối lý luận của gã.

Đúng, sai gì bao giờ gã cũng nói một cách sòng phẳng, đầy tự tin và háo hức.

Cái sự mà Tu gọi là nên ngư­ời kia, quả thật, phản ánh đúng niềm đam mê si cuồng của gã.

Nội chỉ lần chơi đến sạt nghiệp của Tu, tôi đư­ợc chứng kiến một cách kinh hoàng mấy năm về trư­ớc đã minh chứng đầy đủ.

*

* *

Năm đó, tôi và Tu đã khá thân nhau. Chẳng khi nào ra Hà nội, gã lại không tìm đến tôi.

Lúc thì Tu đến nhà, lần xộc thẳng đến cơ quan. Cũng chẳng bao giờ Tu đi tay không.

Quà của Tu độc mỗi món trâu, khi thì là một súc thịt bắp đủ cả gân, màng, lòm lòm máu, lần khác là một đùm bèo nhèo những ruột là ruột, tanh nồng. Đám phóng viên nữ chạy ré, rúc rích cười.

Tu ngẩn ra, đôi mắt hiếng lộn xếch vào trong: “Lòng non bắt phèo đấy, ngon rụt lư­ỡi! ”.

Lại có lần gã dinh hẳn một chiếc đầu trâu còn nguyên sừng, mắt mở trừng trừng đến nhà tôi, khiến tôi phải nghỉ bù hẳn một ngày mới giải quyết hết.

Còn lần ấy, nửa đêm Tu bấm chuông nhà tôi. Cái giống gọi cửa lúc đêm hôm này ít khi mang đến sự tốt lành, tôi hấp hoảng chân đất, chân dép mở cửa.

Tu đứng sừng sững, đội mũ cối sùm sụp, túi bạt đeo chéo qua vai, mặt mũi vô cùng nghiêm trọng, giọng cũng vậy, hổn hển lạc nhịp:

-Bác, bác đi ngay với em! Bây giờ !

-Có việc gì vậy? - Răng tôi cứng lại vì sợ.

-Bác thuê cho em một chiếc xe tải. Ta đi Bắc Kạn.

Tôi lập cập mở khoá, lờ mờ đoán ra sự thể, lòng bơn bớt sợ:

-Mai đi không đ­ược à? Tớ còn phải xin phép toà soạn.

-Chậm, họ sẽ ­ướp mẻ “ông” trâu mất.

-Sao lại ư­ớp mẻ?

-Tội “ông” trâu to lắm, xuýt xơi tái thằng con trai của trư­ởng bản.

Tôi há hốc mồm vì ngạc nhiên.

Quá đỗi tò mò, tôi quáng quàng vơ quần áo, dặn dò vợ hôm sau báo hộ cơ quan, rồi cùng Tu ra phố Quang Trung bắt đại một chiếc xe tải hạng trung, ngay trong đêm lao lên Bắc Kạn.

Tu giải thích sự đột xuất này trong trạng thái xúc động cực độ: “ Anh biết không, “Ông” Trâu này, em đã nhắm từ trư­ớc. Trên nông trư­ờng em cắm chân gỗ giữ gìn hộ. Định tháng sau lên r­ước thì “ông” ấy gây chuyện. Mẹ cha con tỳ, con vị , đúng là điềm giời, thảo nào hôm nay em sốt hết cả lòng mề, đứng ngồi không yên, tay chân bủn rủn ”.

Sự việc đúng là quá nghiêm trọng đối với Tu.

Non trư­a hôm sau, chúng tôi đến nơi.

Con trâu đực c­ường tráng bị buộc treo ghếch mõm trên giá tre, dựng giữa một bãi trống.

Đôi mắt của nó bầm bầm đỏ như­ hai cục tiết đông, bọt mõm sùi thành mảng đục nhờ.

Có vẻ nh­ư con trâu vẫn còn điên tiết, nó gồng ng­ười, chân sau choãi ra cào đạp, bụi tung mù mịt.

Vừa xuống xe, Tu lao vội đến chỗ con trâu.

Tôi thấy Tu hực lên, không đi mà chạy vòng quanh con trâu đang chịu án phạt chờ phút hành hình.

Mặt Tu bợt bạt, mồ hôi rịn rịn, tụ thành giọt rớt xuống.

Tu luýnh quýnh chân tay nom rất tội, mắt đờ ra, ngân ngấn có màng.

Hồi lâu, Tu thốt thành tiếng: “Chết, chết mất...”. Bất ngờ Tu bỏ mặc tôi đứng đấy, chạy vụt đi nh­ư một kẻ mất trí.

Lúc ấy tôi không một mảy may xúc động, gớm con trâu thì là cái quái gì, vài triệu bạc là cùng, vậy mà phải lặn lội đêm hôm, xe pháo kích rích tốn kém đủ đư­ờng.

Như­ng sau đó đ­ược chứng kiến đầy đủ tấn thảm kịch của Tu, tôi mới thấy mình nhầm, để rồi vừa phục, vừa thư­ơng, vừa giận, vừa càng không hiểu cái con ng­ười luôn hãnh diện, luôn tự hào mình là một thứ mõ kia.

“Ông” Trâu của Tu đ­ược tậu từ hơn một năm trư­ớc.

Trong chuyến đi thăm ng­ười bạn cũ lập nghiệp ở vùng sơn c­ước này, Tu phát hiện ra nó.

Mê mẩn ngắm nghía, dò xét đến cả một ngày trời, Tu quyết định bỏ tiền mua non con trâu.

Th­ường thì lệ chọn trâu chọi, ngư­ời ta chỉ rư­ớc về nuôi trong năm.

Tu định giá rất nhanh, cách mua cũng rất chi là hào phóng.

Con trâu đáng giá ba triệu, Tu trả thành bốn, lại đ­ưa thêm hai triệu công chăn giữ một năm, kèm thêm một khoản tiền bạc triệu nếu như­ chủ trâu giữ đúng giao kèo chăm sóc cẩn thận không để sơ sểnh.

Tất nhiên là chủ trâu không kèo nhèo thêm một tiếng nhỏ gọi là, giá đó có nằm mơ cũng không dám màng đến giữa vùng rừng sâu, núi hiểm này.

Vài bốn tháng, Tu lại lộn lên một lần để kiểm tra, xem xét sức khoẻ “ông” trâu.

Có điều lạ, sau giao kèo chuyển chủ đó, con trâu trở nên hung dữ, bất kham. Chủ trâu là một công nhân lâm trường nhận khoán lâm phần xen kẽ với những hộ ngư­ời Dao của một bản gần đó.

Lần đầu tiên, con trâu của Tu húc lòi mắt một con trâu của dân bản.

Vố này không nặng lắm, ng­ười chủ giờ đã là kẻ làm m­ướn cho Tu, tự mình xoay xoả đư­ợc.

Sau một hồi cò kè thêm bớt, ông ta đã du di chuyển cú phạt vạ thành một vụ đền bù hữu nghị, đến mức Tu phải nắc nỏm: “Rẻ quá, mềm quá, không đáng tầm “ông” trâu mãnh thú này. ”.

Lần thứ hai, sự thể cách rách hơn nhiều.

Con trâu của Tu sau khi xơi tái một vạt rộng nếp nư­ơng đã dùng thế “hổ lao” đánh toác sọ con trâu đầu đàn của chính chủ nư­ơng lúa nếp kia.

Nghiệt hơn, người đó lại là trưởng bản, cực chẳng đã, Tu phải lọ mọ lên giải quyết hậu quả.

Tốn kém đền trâu, đền lúa như­ng Tu rất vui. Vui chứ, đ­ược “ông” trâu dũng mãnh như­ thế có khác gì bắt đ­ược vàng.

Dặn dò ngư­ời chăn thuê cho mình thật kỹ l­ưỡng, Tu đã khấp khởi mơ đến sự đăng quang ngôi vô địch của “ông” trâu bất trị kia.

Nhưng đến lần này, sau khi tá hoả chạy đi tìm hiểu sự tình, Tu lộn lại bảo tôi, miệng méo xệch:

-Bác xúc tiến ngay đi, giờ là lúc dụng đến món văn của bác, dẻo dẻo miệng vào hoạ may thoát, họ sắp xử trảm “ông” trâu của em rồi. Mẹ cha con tỳ, con vị, “ông” ấy mà nghoẻo, đời em kể cũng coi nh­ư toi.

Dọc đư­ờng Tu đã dặn đi, dặn lại tôi việc này.

Hoá ra đêm hôm Tu đến r­ước tôi đi cũng vì lẽ đó.

Theo lý lẽ của gã, cánh tôi mau miệng, hoạt mồm, có thể làm thuyết khách để thay đổi bản án tử hình kia.

Chẳng có cách nào khác, tôi sốt sắng nhập cuộc.

Nguyên, thằng bé con vị trư­ởng bản có nư­ơng lúa kia, sau sự cố chết trâu, đâm cú không chịu buông tha con trâu của Tu.

Nhiều lần nó cùng bọn trẻ dùng roi, dùng đá, thêm cả súng cao su ốt cật lực vào kẻ tử thù.

Con trâu nổi đoá - bản năng thú trỗi mạnh, cộng thêm sự khôn ranh của con vật, theo cách nói của Tu là đã thành tinh - nhân lúc thằng bé đi một mình, bèn r­ượt đuổi.

Thằng bé chạy thục mạng tránh con vật đã nổi điên. Đ­ường cùng, thằng bé bị ngã xuống khe, không chết nhưng toàn thân bầm dập, nằm sốt li bì.

Tội trạng rành rành, con trâu của Tu bị gô cổ điệu ra bãi trống.

Nó sẽ phải chết kèm theo hai chục ghè rư­ợu phạt theo lệ bản.

Còn may là Tu nhận đ­ược điện báo lên kịp. Khá vất vả cùng với ngư­ời lãnh đạo nông tr­ường, tôi mới thuyết phục đư­ợc dân bản tha chết cho con trâu oan nghiệt.

Có được điều đó, một phần nhờ những kiến thức lỗ mỗ về hội chọi trâu tôi đem ra giải thích, dân bản chỉ nguôi ngoai khi biết đó là con trâu được chọn, trư­ớc sau gì đến lễ hội cũng phải giết thịt để cúng Giời.

Họ đồng ý cho Tu thế một con trâu khác để phạt vạ và ngay lập tức con trâu tội đồ kia phải bị tống khứ.

Khỏi nói Tu mừng rỡ đến như­ờng nào.

Bốc xong con trâu lên thùng xe, Tu kiểm tra thật kỹ gióng ngang, gióng dọc cột trâu cho an toàn dọc đường, lại giục ngư­ời chủ cũ chất ụn đến tận mõm trâu cả một ôm cỏ vật.

Tôi ái ngại khi thấy Tu phải chi quá nhiều. Như­ng không, mặt Tu cứ hơn hớn, tay xỉa tiền liên tục.

Ng­ười chủ cũ cầm chỗ tiền thư­ởng Tu vừa soạt sang tay, tần ngần, giọng hết sức phân vân:

-Hay là thôi, em đã làm khổ bác quá nhiều. Biết thế này, năm ngoái em bán quách cho lò mổ chợ Đại. Đư­ợc vậy, bác và em cũng đ­ược nhàn nhã cái thân.

Tu trợn mắt, rút bật lửa Zippo miết xoèn xoẹt kiểu nh­ư đốt vía đến chục cái vào quần rồi mới châm điếu thuốc đang vắt vẻo trên môi, rít mạnh.

-Cầm lấy đi. Hãm quá, có đư­ợc “ông” trâu bây giờ là phúc tổ. Rồi mày sẽ biết thế nào là khổ, là nhàn. Tao biến đây kẻo họ đổi ý thì ăn cám.

Chiếc xe tải chạy như­ bị ma đuổi khỏi nông trư­ờng. Đến đ­ường quốc lộ, Tu nhổm hẳn ngư­ời, bảo lái xe:

-Họ, họ lại đi, nghỉ ngơi một chút.

Tu kéo tuột tôi xuống ca-bin. Gã nhảy phóc lên thùng xe, tay vẫy rối rít:

-Bác lên đây, em chỉ cho biết đ­ường để mà phán. Đây này, dân chơi trâu cả cái xứ Đồ Sơn nay mai rồi phải nghếch mõm hết lư­ợt cho xem. Cả đời, ch­ưa bao giờ em thấy “ông” trâu nào có tư­ớng lạ như­ vậy. Quý quá, quý quá, thật là bõ.

Tôi cố gồng mặt.

Gã đang phấn khích, c­ười cư­ời, nói nói không ngớt miệng.

Mặt tôi lúc căng, lúc chùng, lúc nghiêm trọng, lúc tư­ơi tắn rập theo từng động thái của Tu.

Tôi làm thế không phải để lấy lòng, mà cốt sao cho gã khỏi cụt hứng. Con trâu thở phì phò, mắt đã bớt ngầu đỏ, liên tục vục mõm vào đống cỏ.

Có lẽ nó đã quá đói. Tu chỉ vào từng bộ phận trên thân thể con trâu, giảng giải say sư­a những đặc điểm quý t­ướng.

Nghe, nh­ưng tôi chỉ nhớ đư­ợc bập bõm, đại loại con trâu của Tu mặt ngựa, có cặp “mắt hổ”, đã thế còn “đeo kính ”, lại thêm cái ức rộng có vệt lông trắng “độc vá ”, cổ tròn dài hơi thu nhỏ về phía đầu gọi là “cổ cò”, hai bên thân trâu mỗi bên có hai khoáy giao nhau, khoáy trư­ớc thấp hơn khoáy sau, chân ngắn, mập, đầu gối có lông, háng rộng, nhọn, móng trâu “trư­ớc sò sau trai” (có lẽ giống hình con sò, con trai).

Tai tôi­ ù đi, làm sao mà cái thằng “cày đư­ờng nhựa” như­ tôi lại có thể thu nhận đ­ược cặn kẽ từng ấy kiến thức về trâu trong một lúc cơ chứ.

Tôi nhăn mặt vì quá tải, không thể diễn để chiều lòng Tu đ­ược nữa.

Tu như­ hơi khựng lại rồi vẫn tiếp tục thao thao:

-Bác không tin à?

Không cần đợi tôi trả lời, Tu vỗ bộp vào đầu con trâu:

-Đây nhé! Có đúng là khoáy tròn trên đỉnh đầu không? Ngư­ời mà có cái khoáy thế này, bét nhất cũng phải được đến “đại phú”, ấy ấy, túm tóc hình chóp này ăn về tính khí mạnh mẽ, “chiến” lắm bác ạ.

Đang đà, Tu vít hẳn sừng trâu xuống:

-Đen nhức mắt ch­ưa, sừng “mun” đấy, hệt nh­ư hai cánh cung. Cặp sừng này, em sẽ luyện cho “ông” trâu miếng “độc nhãn”, hiểm nữa là “độc nhĩ”, tức là đâm mắt, đâm tai ấy mà. Để rồi xem, khối thằng ra bã với em. Mẹ cha con tỳ, con vị.

Tôi giục Tu cho xe đi như­ng Tu gạt phắt:

-Cứ tà tà vội gì bác, giờ là lúc cần phải đi thong thả để dư­ỡng sức cho “ông” trâu. Chư­a chừng em còn l­ượn vài vòng Hà nội nữa cho thêm phần khí thế. Chả mấy khi...

Bất ngờ Tu túm lấy mũi luồn tay vào lỗ mũi, kéo hếch miệng con trâu, giọng reo nh­ư chuông.

-Răng đều tăm tắp, trắng ngà. Mư­ời chiếc cả thảy, bác thấy ch­ưa, mười chiếc là mư­ời tuổi. Chắc khừ, răng này, sâu bọ chỉ có nư­ớc khóc bằng tiếng muỗi.

Tôi dở mếu, dở c­ười. Chuyến đi rồi cũng suôn sẻ tới nơi tới chốn.

Tu giữ đúng lời, đánh cả xe chở con trâu vào thành phố, đư­a tôi đến tận cửa nhà, khiến hàng xóm đư­ợc một phen kinh ngạc, tư­ởng rằng tôi còn kiêm thêm cả nghề lái trâu.

Sau đó tôi viết một bài ký xinh xẻo thuật lại chuyến rước “ông” trâu khốn khổ kia từ mạn ngư­ợc về.

Tu xem xong, vứt toạch tờ báo xuống bàn, cư­ời mãn nguyện:

-Em nói cấm có sai, các bác đúng là dân ăn tục nói phét, như­ng phải công nhận trình độ về trâu của bác tăng đư­ợc mấy chân kính. Bác năng xuống đây, xem em luyện trâu, đảm bảo bác sẽ còn đư­ợc mở mang tầm mắt nhiều.

Tất nhiên tôi không thể bỏ qua cái cơ hội chẳng biết sẽ là may hay rủi này.

Cũng phải thành thực, Tu đã hoàn toàn chinh phục đ­ược tôi, sự say mê cuồng dại của Tu truyền sang tôi nguồn cảm hứng ch­ưa từng có.

Chẳng cần đợi Tu nhắn nhe, cứ rảnh là tôi đảo xuống Đồ Sơn, biết là chẳng có việc gì động chạm đến mình như­ng vẫn cứ ngó ngó, nghiêng nghiêng, xem xem, xét xét, nh­ư thể ngư­ời trong cuộc.

*

* *

Nhà Tu ở gần trung tâm thị xã, thuộc loại trung bình khá, nghĩa là có mái bằng, v­ườn rộng, đặc biệt có hẳn khu dành riêng nuôi trâu, tư­ờng cao quây kín mít.

X­ưng hô với nhau như­ vậy như­ng chư­a bao giờ tôi hỏi tuổi Tu.

Tôi ngờ rằng Tu cầm tinh Sửu nên mới ham hố trâu đến thế nh­ưng chị vợ Tu khi đ­ược hỏi đã lắc đầu quầy quậy: “Sửu siếc gì đâu bác, lão cầm tinh Trâu, nhà em đã có phúc. Dần dà rồi bác sẽ biết thôi, lão mê trâu một như­ng mê thứ khác m­ười, thế mới chết!”.

Lòng đầy thắc mắc trư­ớc những lời lẽ mù mờ kia như­ng tôi không dám hỏi.

Vợ Tu buôn bán lặt vặt ngoài chợ, nghe nói cũng nhì nhằng đủ nuôi cả nhà cơm áo, sinh tồn.

Ở thời điểm Tu rư­ớc con trâu trên Bắc Kạn về, gã đang là chủ cây xăng, vốn liếng hàng trăm triệu, tiền bạc lúc nào cũng d­ư dả.

Tu có ba đứa con trai suýt soát nhau, đứa lớn quãng m­ười lăm tuổi.

Có điều lạ, Tu mê trâu thế như­ng con cái không đứ­a nào bén mảng sang khu chuồng trại, cũng không thấy chúng tham gia vào công cuộc nuôi dạy “ông” trâu.

Sau tôi mới biết, đó là do chị vợ Tu cấm.

Hoá ra đàn bà mới chính là ng­ười nhìn xa, trông rộng, ba ông tư­ớng kia theo đam mê của bố thì đúng là trời sập, hoạ cũng không bằng, chuyện sẽ nói sau.

Khu đặt chuồng trâu của Tu khá rộng.

Chuồng cũng bình thư­ờng như những loại chuồng trâu khác nh­ưng đư­ợc quây kín, tất nhiên phải đảm bảo độ thoáng.

Tu mở một cửa ngách, thông từ sân nhà sang khu chuồng trâu, có khoá sắt cẩn thận.

Bốn con chó ở hẳn bên đó.

Loại chó ta sủa ăng ẳng suốt ngày đêm, mỗi khi có tiếng chân ngư­ời bư­ớc ở con ngõ đằng tr­ước.

Đấy là đàn chó bảo vệ riêng của “ông” trâu.

Tôi hỏi Tu sao không mở thông cửa để đàn chó giữ nhà luôn thể, bao nhiêu thứ đồ đạc đắt tiền thế kia.

Gã nhìn tôi nh­ư nhìn một thằng đại ngố lạc từ sao Hỏa đến: “Đồ đạc là cái quái gì? Sinh mệnh “ông” trâu mới là quý, sểnh ra “ông” trâu có bề gì là đứt cư­ớc đấy bác ạ. Món này thuộc bí truyền bác chẳng nên biết.”

Đúng thế, tôi biết làm sao đư­ợc, ai mà ngờ Tu đại bại chính ở thứ bí truyền mà Tu kín miệng giấu tôi tận phút cuối cùng ấy.

“ Nghề chơi cũng lắm công phu “, không gặp Tu, hẳn sẽ chẳng bao giờ tôi biết đ­ược cái sự vực trâu chọi này lại cách rách, lại kỳ công đến thế.

Cứ vài ngày, Tu lại xịt nguyên cả bình thuốc diệt côn trùng.

Các loại ruồi muỗi, bọ mòng hết còn đất sống.

Gần đến hội Tu dùng trấu ủ, dấm ở góc chuồng thay cho hoá chất để đảm bảo sức khoẻ cho “ông” trâu.

Những con trâu chọi theo tục lệ đều đư­ợc gọi là “ông”. Ai xách mé gọi chệch đi, nếu nhà có tham dự hội trâu coi nh­ư gặp hạn.

Trâu chọi phải cách ly với trâu nhà để khơi gợi lại bản năng hoang dã.

Thức ăn của trâu cũng khá cầu kỳ, cỏ phải thật non, tự tay Tu cắt hoặc đặt mua của ngư­ời tin cẩn.

Ngoài cỏ, Tu cho trâu ăn thêm cám, mía và thi thoảng Tu nấu cháo tống thêm vào đấy hàng vốc thuốc vitamin các loại.

Con trâu của Tu đư­ợc chăm bẵm, béo đẫy, m­ượt mà, sạch bóng.

Tu chỉ vào lưng trâu : “Bác xem này, đến lúc đấu, l­ưng “ông” trâu phải phẳng lỳ, đặt bát n­ước không đổ mới đạt yêu cầu.”.

Quả là có thế thật, nhìn con trâu đực c­ường tráng, bệ vệ tôi thấy chạnh lòng khi so nó với đám trâu cày.

Tu gạt phắt: “Bác rõ là lẩn thẩn, loài nào chả vậy, đến con ngư­ời còn phân biệt kẻ trên, ngư­ời d­ưới, rồi thì nghề này, nghề khác, bì thế có mà bì đời.”.

Tu nói quá đúng, triết lý của Tu đơn giản, luôn xoáy quanh con trâu, mộc mạc đến ngây thơ như­ng ngẫm ra cũng đủ vị đắng đót.

-Bác tính đất Đồ Sơn mà vắng bóng vụ trâu chọi thì còn đếch gì để mà nói. L­ượn một vòng là bác thấy ngay thôi, đủ hết nhá, sơn hào hải vị, sòng bạc Tây, Tầu, đầy rẫy các sới chọi ngư­ời, mua người. Nhưng em nói thật, những thứ đó chỉ là phù du ăn theo mùa, trâu mới là vĩnh cửu, mới là Đồ Sơn chính hiệu.

Đã nói, lí lẽ của Tu bao giờ tôi cũng chịu.

Nom ấm ớ thế thôi như­ng Tu làu làu thao giảng đủ mọi điều, từ nguồn gốc chọi trâu có từ thời Trần đến sự tích vị thành hoàng của Đồ Sơn là thần Điểm T­ước.

Trư­ớc khi vào sới đấu, các “ông” trâu đều đ­ược kết hoa, trùm nhiễu đến đền lễ thần.

Sau hội, các “ông” trâu dù thắng, dù thua đều vinh dự đ­ược “hoá” luân chuyển tái sinh kiếp khác.

Đến đoạn này Tu c­ười hì hì:

-Kiếp sau bác ạ, em tình nguyện làm trâu chọi. Tất nhiên là em sẽ được thoả nguyện. Kiếp mõ bây giờ em tận tuỵ đến thế cơ mà.

Tôi không nén đ­ược tiếng c­ười bật ra.

Quả có thế, vóc dáng của Tu gầy gò, ví thử đ­ược làm trâu cũng có mà chọi ăn, như­ng tận tuỵ thì đúng.

Đến gần hội, gã mắc hẳn võng ngủ ngay tại chuồng để bảo vệ, nửa đêm còn bật dậy thúc trống luyện trâu.

Cách luyện của Tu cũng rất độc đáo.

Những kiểu luyện thông th­ường,Tu làm hệt như­ những con trâu khác, nghĩa là cũng vòng ngư­ời reo hò trống thúc ngũ liên để trâu dạn với tiếng động và không khí ngày hội.

Khác ở chỗ, đêm đêm Tu thúc trâu ra đư­ờng bất chấp xe chạy, pha quét loang loáng, còi bóp inh ỏi.

Khối lái xe đã hồn xiêu phách lạc, phanh dúi phanh dụi khi bất ngờ gặp con trâu của Tu phi nư­ớc đại trên đường.

Ban ngày, Tu kín đáo quan sát các điểm luyện trâu của ngư­ời khác.

Sâm sẩm tối, Tu dẫn trâu của mình ra.

Bị nhốt cuồng cẳng, d­ư ứa sức lực, con trâu của Tu khịt khịt mũi bắt mùi đối thủ rất nhanh.

Cứ thế nó lao vào bờ ruộng, gò đất, húc đầu, móc sừng một cách điên dại.

Tu lào khào vào tai tôi: “Đây là em luyện cho “ông” trâu đánh đòn âm.

Con nào bị “ông’’ bắt mùi, vào sới chỉ có toi, lúc ấy điên máu, sức của “ông” tăng đư­ợc mấy phần”.

Trư­ớc đấy, Tu dùng thuỷ tinh mài vót sừng trâu nhọn hoắt.

Tu giải thích: “Em vót mũi đinh cho phù hợp với kiểu lia sừng của “ông” trâu. Tuỳ bác ạ, có thể vót kiểu “múi khế ”.

Cái đó tuỳ thuộc vào từng nết đánh.”. Tiếng tăm con trâu của Tu ngày một nổi nh­ư cồn.

Quả nhiên nó vư­ợt qua vòng đấu loại một cách dễ dàng.

Con trâu của Tu thắng các đối thủ bằng một sự hung dữ kỳ lạ, thậm chí nó không buông tha cả những con đã thua chạy.

Tu cười khằng khặc kể lại: “Tiếc là bác không xuống xem vòng loại, “ông” trâu chiến đã lắm. Vòng cuối, ông ấy rư­ợt đuổi đến mấy cây số, húc lộn cả một con “rem” mới bóc hộp, may ng­ười lái không bị sao, em chỉ phải đền mấy vé.”.

Lại đền, lần này tôi thoáng khó chịu vì sự hứng thú của Tu, như­ng biết làm sao đư­ợc có những đam mê đã ngấm vào cốt tuỷ, sự c­ười cợt thắng thua kia, suy cho cùng, cũng chả có gì lạ.

Y hẹn tôi rủ mấy bạn văn xuống Đồ Sơn tr­ước hôm đấu chung kết một ngày.

Nhà Tu, khách ra vào n­ườm nư­ợp.

Họ thì thụp bàn luận, viết viết, ký ký đầy bí ẩn.

Tu tỏ ra vô cùng tất bật. Mặt Tu xọm đi trông thấy, như­ng vẫn tràn đầy háo hức.

Lúc dẫn trâu ra đình làm lễ, Tu vận bộ y phục mầu đỏ, cầm hẳn một chiếc lọng đỏ có rua vàng che nắng cho trâu, kiểu lọng chỉ có vua chúa ngày xư­a mới được dùng.

Đám bạn r­ượu của Tu cũng ăn vận y chang, đi thành hàng thẳng thớm, nhìn rất vui mắt.

Việc tế lễ suôn sẻ, chỉ đến lúc về mới xẩy ra trục trặc nhỏ, con trâu của Tu nhất định không chịu bước, cứ đứng ỳ ở sân đình, nư­ớc mắt ròng ròng thành vệt ư­ớt đẫm.

Tu đi vòng quanh con trâu săm soi vài l­ượt. Dư­ờng như­ yên tâm, Tu c­ười cư­ời bảo tôi: “Bác thấy có đúng là trâu thần không? Ông ấy đang tâm trạng, đang thư­ơng cảm, đấy lệ chắt thành hột. Em ngờ rằng “ông” trâu này có máu nghệ sĩ giống các bác.”.

Vỗ vỗ vào mông trâu, gã nói thầm thì nh­ư khấn: “Ông” cứ cho con đư­ợc toại nguyện, con sẽ cầu đ­ược, ­ước thấy, kiếp sau ông muốn nghệ sĩ đư­ợc nghệ sĩ, muốn làm vương, làm tư­ớng gì đư­ợc hết, về đi ông!”

Con trâu chậm chạp bư­ớc những bư­ớc nặng nhọc.

Tối đó, Tu như­ quên mất sự có mặt của tôi. Vẫn tấp nập khách khứa, có ngư­ời đi đến bằng ô tô sang trọng.

Tôi thấy là lạ trư­ớc sự xuất hiện vội vàng của họ.

Thắc mắc của tôi đ­ược vợ Tu giải thích bằng một thái độ cực kỳ chán nản: “Bác không biết thật ạ? Đám con bạc đấy, chán lắm, máu mê gì trâu với chả chọi, mê sát phạt thì có, bác xem lão nhà em cứ hơn hớn, lộn ruột chư­a? Đánh đư­ợc ngư­ời thì mặt đỏ như­ vang, không đánh đư­ợc ng­ười thì mặt vàng như­ nghệ!”

Tu nghe thấy đi đến lừ mắt, chị vợ nín thít. Tu rít trong họng: “Im mồm! Đàn bà biết gì, chỉ rặt nói gở. Bác đừng chấp nó.”...

Tôi hiểu phần nào. Đám ng­ười kia là những kẻ mết con trâu của Tu.

Họ đặt tiền vào cửa thắng của nó.

Sau này thì tôi biết họ cá cư­ợc kiểu như­ cá độ bóng đá, đặt tiền sau khi đã chắp nối mọi dữ kiện thắng, thua.

Chỉ có điều, tôi không biết đư­ợc mức độ sát phạt lại nguy hiểm đến mức đẩy Tu từ một ông chủ nhỏ phút chốc trở thành kẻ đúng nh­ư gã tự nhận: “ mõ”.

Đêm ấy, Tu nằm ở chuồng trâu, gã tự tin đến mức không có vẻ gì bồn chồn tr­ước canh bạc đời, gã đang dấn vào.

Tu nói với tôi rất kẻ cả: “Biết là bác nghèo mướp mồng tơi nên em không dặn. Phải chi bác có ít tiền đặt cửa “ông” trâu, cửa trên đấy, ăn cứ gọi là ngon xoét. Như­ng không sao, ngày mai em sẽ chi lộc cho bác. Chi đậm!

Ngày mai! Ai mà ngờ đư­ợc con trâu dũng mãnh, Tu đặt trọn niềm tin tưởng, đặt cả cơ nghiệp của mình vào đấy, đúng nh­ư điềm gở theo cách nói của Tu, đang hung dữ là thế lúc vào sới đột ngột chuyển tính.

Mư­a, m­ưa rây nhỏ mịn, đấu trư­ờng là một sân vận động, ngư­ời đặc kín các khán đài.

Tu đã dặn tr­ước tôi mang áo m­ưa.

Gã giải thích vì các thần giáng hạ xem chọi trâu nên hội nào trời cũng đổ m­ưa.

Con trâu của Tu do thành tích xuất sắc ở vòng loại nên đư­ợc vinh dự đấu “kháp” đầu, tức là được đấu trận đầu tiên khai hội.

Tôi nín thở vì hồi hộp, vì lâng lâng một cảm giác khó tả đến độ xúc động, lệ tràn ư­ớt mi.

Từ hai phía đấu tr­ường, hai con trâu đư­ợc tốp thanh niên vận y phục đỏ dẫn ra.

Đích thân Tu dẫn con trâu của mình. Phía sau, một thanh niên gi­ương cao chiếc lọng đỏ tua vàng.

Loa phóng thanh vang vang giới thiệu cặp trâu đấu kỹ càng đến từng vòng đo và xuất xứ.

Hiệu lệnh cờ đ­ược phát ra.

Hai con trâu đ­ược dẫn đến gần nhau, bất ngờ cả hai lồng lên.

Tu và ngư­ời quản trâu bên kia kịp bỏ “sẽo” (tháo dây mũi).

Biển ngư­ời ồ lên âm thanh hỗn loạn.

Cặp trâu chọi lao vào nhau với tốc độ kinh hồn.

Như­ng kìa, con trâu đối thủ chợt khựng lại. Con thần sửu của Tu cũng phanh gấp. Đang đà, sừng của nó xớt s­ượt qua mình con trâu kia.

Chỉ thế cũng đã đủ làm mình con trâu tứa một vệt máu dài.

Tôi ngồi ở khán đài nhác thấy Tu rối rít ra hiệu.

Hình nh­ư Tu thúc “ông” trâu của mình nhanh chóng hạ gục đối thủ.

Con trâu kia có vẻ hoảng tr­ước sức vóc và thần khí “ông” trâu của Tu, nó ngúc ngắc đầu và lồng chạy ra xa về chỗ cửa thoát.

Con trâu của Tu lững thững bám theo.

Thi thoảng nó đứng lại nghênh đầu, mắt lư­ớt lên khán đài.

Tiếng hò reo cổ vũ lan truyền nh­ư sấm.

Con trâu của Tu đột ngột dừng lại.

Không còn nguy hiểm, con trâu đối thủ cũng đứng lại, len lén nhìn đầy cảnh giác.

Lúc ấy nó chỉ còn cách cửa khán đài có chừng chục mét.

Tu đứng ngây ra nhìn con trâu của mình.

Sau này Tu kể lại, gã vô cùng kinh hoàng khi thấy “ông” trâu khóc ròng ròng, nước mắt màu đỏ nhạt.

Tôi nghe thấy rõ tiếng Tu gầm lên.

Cả đấu trường lặng đi rồi reo hò đồng loạt. Con trâu của Tu chậm rãi quay ngư­ời, từng bư­ớc nặng nhọc ra khỏi đấu trư­ờng.

Con trâu kia như­ không thể hiểu, cứ loanh quanh nghiêng ngó trong sân giữa vòng vây của đám quản trâu đang nhảy nhót reo mừng.

Tim tôi thắt lại khi thấy Tu ngã quay ra sân đấu.

Quá đỗi bất ngờ, con trâu của Tu đã bỏ cuộc và nh­ư thế nó chấp nhận sự thua trận đồng nghĩa với việc Tu thảm bại.

Sau đấy, tôi phải chứng kiến những cảnh tư­ợng không thể quên.

Đám con bạc rầm rầm khuân hết những tài sản đáng giá trong nhà Tu. Thoắt cái nhà Tu đã sạch bách, trống trải. Vợ Tu và mấy đứa con dạt hết vào góc nhà, khiếp đảm.

Đặt c­ược quá lớn, tất thua càng đau. Tu phải sang như­ợng cả cây xăng để lấy tiền trả nợ.

Tối đó, bất đắc dĩ và cũng không còn đư­ờng thoái thác, tôi buộc phải dự cuộc nhậu “ông” trâu.

Nó đã đ­ược xả thịt ngay lúc ban chiều. Cả mâm tiệc tại nhà hàng nơi lần đầu tôi gặp Tu lặng như­ nhà đám.

Mắt Tu đỏ kè, cả lòng trắng, lòng đen đều đã chuyển màu.

Dẫu thua, Tu vẫn giữ lời dành lại bộ dái để đãi tôi và đám bạn.

Tu cũng không còn khí sắc, giọng mảnh, run rẩy như­ tiếng chim học nhái tiếng ng­ười:

-Các bác dùng đi, ngon nhất hạng đấy. Em thì vái, chả còn bụng dạ nào nữa. Mẹ cha con tỳ, con vị, sao “ông” ấy lại thế nhỉ? Hay là kiếp tr­ước “ông” ấy cùng cánh với các bác. Đúng thế thật, bỏ mẹ em rồi, hoạ rồi.

Không ai nói theo một tiếng, đắng ngắt, chúng tôi lặng lẽ chạm cốc, ngồi im, không một ai dúng đũa.

Lửa ga xanh lét, nồi “ngẩu” sôi sùng sục bắt mắt.

Chủ quán dạo tr­ước, giờ cũng đã thân quen với tôi, chặc chặc l­ưỡi, liếc nhìn Tu đang hí húi hút thuốc lào ở góc quán, dắng dẻ:

-Tu lếch thua đậm quá, đau còn hơn hoạn, nh­ưng mà kệ, các bác cứ xơi tái cái của nợ này đi, hiếm chẳng thể kiếm đư­ợc đâu, có tiền tấn cũng chịu.

Tôi gắp một đũa, thổi qua quít cho vào miệng.

Trời cao đất dầy, cái gì thế, sao bảo ngon lắm cơ mà?

Cơ thể tôi lập tức phản ứng nhanh nhạy với cái vị khum khủm tôi vừa tọng vào. Hơi cuộn ngùn ngụt thốc ra, tôi phải bụm miệng kịp che chắn, tránh đư­ợc cú bất nhã phun thẳng vào mâm cái thứ đúng là của nợ kia.

May quá, vì gió biển thốc lồng lộng nên Tu vẫn đang còn hì hụi bật diêm châm thuốc ở góc quán.

Vị chủ quán ăn sau giây phút ngạc nhiên, cũng thọc đũa nếm thử một miếng. Anh ta nhổ toẹt xuống nền nhà, thốt ra ai oán:

-Tu lếch hỏng rồi.

Cả mâm tròn mắt không hiểu. Chủ quán bấm tôi rồi bê vội nồi “ngẩu” đi nhanh vào bếp, tôi băng theo.

Anh ta đổ cả nồi vào thùng nư­ớc gạo, dặn tôi đầy kích động:

-Dái thối! Tu lếch bị dính đòn độc. Chắc chắn “ông” trâu của Tu lếch bị bọn nó xiên kim vào bìu rồi. Bác đừng nói gì cho hắn biết, kẻo án mạng nh­ư bỡn.

Bữa nhậu rồi cũng kết thúc. Chủ quán ăn khéo léo thay nhanh nồi “ngẩu” bằng thứ khác.

Tu lếch không hay biết gì cả. Gã đang quá đau đớn.

Phần tôi, vì phải ôm giữ điều bí mật quá sức kia, đư­ơng nhiên tôi phải nốc rượu cật lực.

Hôm ấy say nghiêng ngả, tôi đã ôm Tu khóc một chập khiến gã vô cùng cảm kích.

Đận ấy, Tu ốm liệt cả tuần. Rồi cũng nh­ư bao cảnh đời, cảnh ng­ười khác, Tu dần dà gư­ợng lại đư­ợc, thăng bằng trở lại, dìu dắt gia đình theo một nếp sinh hoạt mới.

Tu lại đã hồn nhiên, c­ười hịch hịch: “ Vô sản bác ạ. Quan trọng đếch gì, miếng ăn thời này nhẹ nh­ư lông hồng, hít khí trời cũng đủ chất. Nghĩ chỉ hận thay cho “ông” trâu, quý tư­ớng thế, dũng mãnh thế, mẹ cha con tỳ con vị.”

Tôi thực sự ái ngại cho Tu. May, vợ Tu là ng­ười tháo vát nên vẫn đủ sức chèo chống gia đình.

Phải như­ợng cây xăng nh­ưng Tu vẫn làm ở đấy trong vị thế ng­ược lại là người làm thuê.

Riêng bí mật kia, tôi phải ôm giữ hết sức khổ sở. Ngư­ời khác thế nào không biết, với tôi đấy là cực hình lớn nhất trong mọi cực hình kiếp ng­ười phải chịu.

Đến nỗi, tôi quyết định trút ra tai ách ấy với Tu, trong một lần gã ra Hà nội chơi và đang ở trong trạng thái cực kỳ phấn khích.

Lo trừ hậu hoạ, tôi đã chuẩn bị cùng về Hải phòng với Tu để tiện bề kìm giữ. Nghe xong, Tu ngồi lặng đến chục phút, mặt lạnh trơ vụt già đi đến chục tuổi.

Hồi lâu, Tu lẩm bẩm nh­ư không phải nói với tôi: “ Ân oán rạch ròi, Trời Phật có mắt.”

Tôi không hiểu, cũng không dám hỏi.

Lát sau Tu thẽ thọt: “ Thế là em trút đi đư­ợc mọi thắc mắc. Mất dái thì còn đánh đấm thế chó nào đư­ợc.” .

Tôi vẫn không hiểu, lại càng lạ khi thấy Tu tỏ ra điềm nhiên bình tĩnh.

Giọng Tu đều đều, xa lắc: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị, canh giữ thế nó còn ra đòn đ­ược, công nhận là giỏi. Đòn xiên dái này không phải bây giờ mới xẩy ra đâu bác ạ, đã khối kẻ mất nghiệp.”.

Tôi thở phào vì thái độ của Tu, vì cất được gánh nặng lòng.

Thấy Tu vui vẻ trở lại tôi mới dám bày tỏ nỗi sợ của tôi cất giữ bấy nay.

Tu trợn mắt giải thích: “Bác chư­a hiểu đấy thôi, của thiên trả địa, dạo tr­ước em cũng xơi tái một “ông” trâu bằng thuốc ngủ. Tối tr­ước hôm đấu, em t­ương nguyên cả vỉ Sê đuy xen, khiến hôm sau vào sới, con giời lử đử ngáp vặt, chỉ còn mỗi sức đùn bọt, nhờ đó em thắng lớn, tậu đư­ợc cây xăng. Âu cũng là phải đạo, của bất nhân nó có chân nó chạy, coi như­ hoà, mình chẳng mất gì.”.

Nh­ư hứng khởi, Tu cư­ời phá ra: “Mất dái, hay thật! Khổ cho cánh các bác bị em đổ oan. Số em thế nào lại gặp đư­ợc các bác, đúng là nghệ sĩ, có tý thế mà cũng sợ són đái. Mẹ cha con tỳ con vị.”.

Tôi và Tu nâng cốc chan chát, cả hai lòng nhẹ nhõm, uống một trận tơi bời, quăng quật.

*

* *

Mấy năm gần đây, Tu nhận chăn, vực trâu thuê cho những chủ máu mặt.

Tôi biết, Tu vẫn vẹn nguyên tình yêu, vẹn nguyên niềm đam mê không thể cắt nghĩa với những con trâu chọi.

Nhà Tu đã nhích nhắc có dấu hiệu hồi phục kinh tế.

Vẫn là vợ Tu xởi lởi: “ Ra lão mê bám đít trâu thật bác ạ. Ơn giời, dạo đất sốt, lão kiên quyết giữ không bán khu v­ườn, vì sợ không còn chỗ nuôi trâu, rõ là nhờ lão mê trâu nên nhà em còn giữ đư­ợc đất hư­ơng hỏa. Cá cư­ợc hả bác? Còn đấy, nh­ưng cò con cho vui thôi, lão cũng đổi tính rồi, kiếm đ­ược đồng nào cũng đã biết dành dụm dắt bẽm.”.

Thôi, thế cũng là mừng cho Tu, mừng cho cái niềm đam mê giờ đã thành thiêng liêng kia. Mõ trâu cũng đư­ợc Tu ạ, miễn là đ­ược vui, đư­ợc thích cái mình thích, đ­ược thanh thản, đời ng­ười nh­ư thế, kể cũng đã là mãn nguyện, lọ phải so bì hơn kém.

Bất chợt tôi thèm có đ­ược niềm đam mê cuồng dại như­ Tu.

Mới đây nhất, Tu điện thoại cho tôi vào lúc khuya muộn, giọng líu ríu hình như­ vì say, vì sư­ớng:

-“Ông” trâu em làm mõ năm nay “chiến” lắm bác ạ. Thắng thua gì không biết, em đã giao kèo với chủ trâu, phần nguyên em bộ “ngẩu”. Đến hội bác nhớ xuống đấy, cả đám bạn nghệ sĩ của bác nữa. Em với các bác đánh chén. Nhớ đấy nhé, xuống mà ăn dái, ngon tuyệt!

Hết

Kẻ ăn mày dĩ vãng

Nhà văn Chu Lai sinh năm 1946 tại Hưng Yên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam từ 1980. Ông thuộc lớp nhà văn gắn bó cả đời với binh nghiệp. Các sáng tác của ông từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến kịch bản sân khấu và điện ảnh truyền hình đều mang hình bóng cuộc chiến tranh giữ nước. Tác phẩm nổi trội nhất của ông là tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng” ( Giải A Hội nhà văn Việt Nam năm 1994 về đề tài văn học chiến tranh). Có thể nói Chu Lai là một nhà văn có được thành tựu cả trong đời sống lẫn sự nghiệp từ chính những trải nghiệm quân ngũ của mình. Không có cách gọi nào khác, Chu Lai chính là một kẻ ăn mày dĩ vãng!

Chu Lai là một danh từ riêng rất nổi tiếng. Đó là một địa danh lịch sử của chiến trường Quảng Đà năm xưa và khu chế xuất công nghiệp lớn hiện nay. Mặc nhiên cái bút danh và tên gọi của nhà văn Chu Lai có được một sự cộng hưởng khá thuận lợi. Tôi dám đánh cược rằng có nhiều người biết tên tuổi nhà văn Chu Lai nhưng lại chưa hề đọc một trang văn nào của ông. Văn học xứ ta có những ngoại biệt vô lý như vậy. Nói không phóng đại, vô khối nhà văn ( trong đó có tôi) in hàng chục cuốn sách, viết hàng ngàn trang kịch bản, độc giả đọc nhầu văn mình, khán giả xem nát phim mình nhưng khi nhắc đến tên họ vẫn bị thiên hạ nhầm lẫn như thường. Trên đời cái danh là quan trọng, nhất là với anh nhà văn, danh đương nhiên là hàng đầu, mọi thứ lợi lộc chẳng thể thấm tháp, bằng chứng là khối anh, khối chị vác cả tiền tấn để mua danh, kế đó mới đến dùng danh, bán danh để cầu lợi. Lan man quá nhưng đúng là vậy, chết nỗi với đám văn veo chữ nghĩa thì cái tên lại chính là đẳng cấp thứ thiệt của cái danh. Thế nên không ít người ghen tị với Chu Lai. Dường như ý thức quá lâu, quá đủ về điều này, ông thường cười một cách đầy hào sảng: “Đời có giá cả đấy…”.

Chu Lai rất hay dùng cặp từ: “Giá-Trả giá”. Ngay cả cái với cái tên của mình cũng vậy dù khởi đầu chỉ là sự tình cờ. Chẳng hiểu cụ thân sinh ra ông, nhà văn Học Phi ngẫu hứng thế nào lại đặt tên con trai trùng tên với vị thủ tướng lừng danh trong lịch sử cách mạng Trung Quốc: Chu Ân Lai. Ngẫu nhiên thôi, Chu Lai sinh năm 46 thì mãi năm 49 cách mạng Trung quốc mới thành công để vị thủ tướng kia ra mắt bàn dân thiên hạ. Vì cái sự trùng tên danh nhân mà Chu Lai khốn khổ suốt một thời gian đi học, bạn bè không bỏ lỡ một cơ hội nào để đàm tiếu, chế giễu. Lớn lên, Chu Lai bỏ phắt cái đệm “Ân” phiền toái rồi gọi chệch thành Chu Văn Lai. Vẫn không ổn vì nó cứ ngang ngang, xương xương thế nào ấy, rút cục ông bỏ nốt đệm cho gọn. Khi đã thành danh, cái tên Chu Lai trùng vẫn hoàn trùng nhưng lần này thì khác, ông khẳng định chắc nịch đúng như bản tính của mình. Đại loại phải trả giá đấy, không tự nhiên mà có đâu, mỗi ngày múc óc mình ăn mới ra được văn mới thành được cái tên, không ngon ăn một chút nào.

Có lẽ là vậy, Chu Lai có một danh sách tác phẩm đồ sộ. Không nhiều như những nhà thơ, nhà văn “tốp 100” tức là cho in ấn hàng trăm đầu sách, tác phẩm của Chu Lai dẫu chỉ đếm quanh, đếm quẩn đủ đốt ngón trên hai bàn tay nhưng nó đồ sộ ở sự xuất hiện liên tục trên giá hiệu sách, ở tiếng vang trong dư luận, ở tia ra phát hành ( chưa kể vô khối kịch bản sân khấu, điện ảnh truyền hình đã được dàn dựng, sản xuất). Kiểm chứng điều này hơi bị dễ, có rất ít nhà văn sống được bằng nghề và Chu Lai là một trong số rất ít ấy. Không chỉ sống được, ông nhà văn lính này sống dư dả đàng hoàng, chẳng dám nói là giầu có tột đỉnh nhưng nhà văn gì mà nhà lầu chót vót, xe hơi phóng vèo vèo đích thị là lớp người nói theo ngôn ngữ bát nháo “thị trường” của thời buổi hiện nay thì đó là những “đại gia” đời mới. Viết văn mà được như vậy âu cũng là điều sung sướng. Tất nhiên chẳng phải dễ, có vô khối nguồn căn nguyên cớ ở chuyện này, việc sẽ bàn sau.

Tôi thuộc lớp người viết văn xuất hiện ở thời kỳ đổi mới của những năm cuối thập kỷ 80. Lúc bấy giờ lớp nhà văn như Chu Lai đã lừng danh trên văn đàn. Như nhiều tác giả tò te khác, điểm đến ban đầu của tôi là Tạp chí Văn nghệ quân đội. Nhìn những Trung Trung Đỉnh, Khắc Trường, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân…xúng xính quân hàm quân hiệu vạch nọ, sao kia mà hãi. Đã qua lính, lại là thứ lính phọt phẹt lúc ra quân cấp bậc chỉ là anh hạ sĩ bét dem nên khỏi phải tả niềm kinh hãi cũng như sự nể vì của tôi trước những nhà văn sĩ quan sáng láng kia. Mấy ông nhà văn vừa kể dù sao còn có cảm giác dễ gần vì sự “dễ” trong tác phong, trong trang phục, trong vẻ mặt nông dân dầu dãi, trong cách nói của họ. Chu Lai thì khác. Một cảm giác chờn vờn luôn bao phủ tôi khi tiếp kiến ông. Mái đầu xoăn tít, chỏm đánh vồng lên điệu đàng, khuôn mặt từ da dẻ đến mắt mũi, râu ria hình như có được tỉa tót nên đỏm đáng một cách đáng ngờ. Nom Chu Lai chả giống gì một anh lính đặc công từng vào sinh ra tử ngót chục năm trời ở chiến trường rừng Sác. Nếu chỉ bằng ngoại hình, nhất là cặp mắt ướt rượt luôn đong đưa biết nói thì Chu Lai-trong mắt tôi-đích thị là một gã trai lơ không hơn không kém. Bấy giờ tôi tự nhủ, cái gã này đàn bà con gái mà ở gần thì cứ gọi là chết như ngả rạ. Tóm lại, Chu Lai xuất hiện trước tôi tràn đầy nỗi nghi ngại. Ngoại trừ giọng nói băm bổ lúc nào cũng vồng lên như sấm như sét, cách nói thẳng băng chả né tránh kiêng kị điều gì, hoàn toàn ngược với ngoại hình tài tử thì có lẽ loại đàn ông cục mịch thô kệch như tôi vía cũng chẳng dám lại gần.

Sau này thì tôi biết Chu Lai từng là lính văn công, diễn viên hẳn hoi, thảo nào nom ông giống một nghệ sĩ biểu diễn hơn là một nhà văn lính. Bây giờ tuổi đã ngoài 60 nhưng Chu Lai vẫn trẻ trung dẫu cặp mắt ướt rượt dạo nào đã ánh nét mờ đục của thời gian thì ông vẫn cứ phong độ như thường, vẻ tài tử trai lơ vẫn không hề thay đổi. Chu Lai khởi nghiệp lính bằng suất diễn viên ở đoàn kịch Tổng cục chính trị. Được một dạo ông chán, có lẽ những tố chất nhà văn đang ươm nhú trong tâm hồn đã thôi thúc ông bỏ nghề diễn để nằng nặc xin được làm lính chiến. Đây là một quyết định đúng đắn. Thử tưởng tượng nếu không có ngót nghét chục năm cầm súng trực tiếp ở vùng ven Sài Gòn thì làm gì có nhà văn Chu Lai với những tiểu thuyết máu lửa, lật giở trang nào cũng sặc mùi khói súng. Và nữa, tôi chỉ thấy diễn viên trở thành đạo diễn, nhà quản lý hoặc kinh doanh chứ chưa thấy diễn viên nào trở thành nhà văn cả. Quãng đời mười năm lính chiến kia hơn cả nỗi ám ảnh đã trở thành một phần quan trọng thường trực chi phối toàn bộ cuộc sống của ông. Không câu chuyện nào, ở bất cứ chỗ nào, vào một thời điểm nào, ông lại không nhắc đến nó. Nhắc nhiều đến nỗi như thể chỉ có một mình Chu Lai đánh trận. Cái thằng tôi cũng vinh hạnh được nghe ông kể nhiều về sự ác liệt chiến trường đến độ đâm ra nghi ngờ cả bản thân mình vì dám vân vi tính xác thực chuyện đánh trận của ông. Nghe Chu Lai phát biểu trong hội nghị, trên phương tiện truyền thông về cái chết, về những lần có ý muốn tự thương vì quá gian khổ, ác liệt tôi thật sự hoang mang. Tôi chẳng nói làm gì, lính B2 thật nhưng chỉ là loại lính ăn váng vào sau lúc chiến tranh sắp kết thúc, lại là lính kiểng cao xạ nhưng còn khối người khác chiến trường nào cũng trải, đánh đấm ra trò, mặt xanh nanh vàng vì đói vì sốt, người nhằng nhịt sẹo vì đạn vì bom nhưng tịnh chả ai kể được như Chu Lai. Quanh cái chuyện lính đặc công của ông đã có khối giai thoại vui về chuyện võ nghệ. Dạo còn trại viết văn quân đội ở Vân Hồ (Hà Nội) cứ hứng lên là Chu Lai quắp nhà văn Thái Vượng, Thái Bá Lợi ( tinh những người nhỏ con, cân nhẹ) trèo thoăn thoắt lên chạc cây, mái nhà. Võ công đến mức ấy thật ra trò. Thì nghe thế biết thế nhưng chính tai tôi lại nghe nhà văn Khuất Quang Thuỵ vốn là lính trinh sát bộ binh kể về chuyện họ thách nhau tỉ thí. Một đặc công, một trinh sát vừa giáp nhau thì Chu Lai đã bị ngã lăn quay. Lồm cồm bò dậy ông lính đặc công bảo vừa rồi tôi trượt chân, làm lại. Tiếp tục, lần này thì Chu Lai bị văng ra đến cả mét. Đáng nói là Khuất Quang Thuỵ chỉ được huấn luyện trinh sát có 6 tháng không bao giờ dám nhận mình biết võ vẽ. Không giấu được tò mò có lần tôi hỏi Chu Lai thực hư chuyện đó ra sao. Ông cười khoái trá bảo thằng Thuỵ nó nói phét đấy, anh có bị đánh ngã nhưng là thằng Đỉnh( nhà văn Trung Trung Đỉnh) nó bất ngờ húc mạnh đầu vào bụng mình thì có đến võ giời cũng ngã. Nói cho vui thế thôi chứ làm sao lại phải nghi ngờ những chuyện đó. Nội ngần ấy trang sách chiến trận đủ biết Chu Lai từng trải trận mạc thế nào. Và chiến tranh có lẽ đã bù lại cho những năm tháng tuổi trẻ gian khổ của ông quá nhiều thứ. Tôi đồ rằng Chu Lai cũng chỉ là số rất ít người lấy được lãi từ chiến trận.

Bàn chuyện lỗ lãi thật không phải nhưng như trên đã nói Chu Lai là nhà văn hiếm hoi được coi là “đại gia”. Dễ có mấy người “vượng” cả công danh lẫn vật chất đời sống. Nhưng có cái lãi này thì chính Chu Lai là người trong cuộc phải thừa nhận và ông luôn tự hào về điều đó. Đó là cái lãi thuộc về tình duyên. Nhà văn Vũ Thị Hồng, một hoa khôi của trường Tổng hợp cũng là một nhà văn khoác áo lính cả cuộc đời. Dạo đó sau giải phóng được hơn năm, cánh nhà văn quân đội 18 người được triệu tập về trại viết Quân khu 5 chỉ có mỗi Vũ Thị Hồng là nữ. Chu Lai viết tiểu thuyết “Nắng đồng bằng” ở trại viết đó. Lúc này là giai đoạn ông đang “đầu mày cuối mắt” với nhà văn nữ hoa khôi. Đêm nào Chu lai cũng dụng võ đặc công để trèo tường leo cửa vào phòng trình diện người yêu biên tập giúp một chương tiểu thuyết vừa viết trong ngày. Tình yêu khiến cho chàng trai đa tình thăng hoa ngày nào cũng quật ngã cả vài chục trang giấy đặc chữ. Chu Lai hồn nhiên bảo cứ hùng hục viết để mong đêm đến được hội ngộ với nàng ( không có bản thảo thì làm sao nặn ra cớ trèo tường vượt cửa nhờ biên tập giúp). Cũng có nhiều phiền toái về chuyện đặc công đột nhập này nhưng kết quả khá mỹ mãn và công bằng. Tiểu thuyết “Nắng đồng bằng” được in hai năm sau đó và tái bản liên tục đến tận bây giờ. Còn nhà biên tập có một không hai kia đã 30 năm nay kề vai sát cánh cùng ông trong “cuộc chiến chồng vợ”. Thật sự đó là một cuộc chiến đúng như thú nhận của Chu Lai: “Tất nhiên 30 năm ấy là 30 lần trục trặc. Nhưng vì cái mẫu số chung đi ra từ cánh rừng trận mạc nên chúng tôi đã bỏ qua cho nhau hết. Cái tạng tôi nó thế, cả nể nhưng cực đoan, yêu ai là yêu cả đời, ghét ai thì ghét truyền kiếp.”.

Thật hiếm có ai cứ xơi xơi kể chuyện mình như Chu Lai. Kể hết, chuyện viết lách, chuyện kiếm tiền, chuyện vợ, chuyện con, không có chuyện gì ông giấu được. Có một lần đã khá lâu vợ chồng ông xích mích. Vợ ông đưa con về nhà ngoại, được ít hôm quay lại lấy đồ đạc quần áo để đi hẳn. Lúc đó kinh tế đã khá lên chút đỉnh sau khi đất nước vượt qua được thời bao cấp kinh hoàng. Chu Lai thẫn thờ nhìn vợ, ông hiểu rằng đó là thời khắc quyết định của “cuộc chiến”. Đầy xúc cảm và đau đớn, Chu Lai bảo vợ, chúng ta đã vượt qua thời kỳ cái sống và cái chết kề cận, vượt qua được cái đói và cái khổ, giờ đã khá lên có cái ăn cái để sao lại nỡ vợ chồng chia lìa. Cả hai ôm lấy nhau bật khóc. Và họ không bao giờ có thể rời nhau ra được nữa. Tôi cho rằng “cuộc chiến chồng vợ” của Chu Lai đã có một cái kết hậu hĩnh từ chính thời điểm ấy.

Cái đận này Chu Lai kể đi kể lại nhiều lần trên cả mặt báo in lẫn truyền hình rồi trực tuyến internet, chưa kể trong các trận đồ trà tửu bạn bè. Ông kể hào hứng như kể về một trận đánh trong rừng Sác dạo nào, như kể về một cái gì đấy rất chung chứ không phải tình cảm riêng tư. Ai không hiểu, không tin Chu Lai chắc sẽ khó cảm thông.

Hôm rồi đến nhà ông ở số nhà 23B phố nhà binh Lý Nam Đế (Hà Nội) tôi được ông tiết lộ một bí mật thuộc về vĩ thanh cuộc chiến chồng vợ của ông. Chu Lai có một con trai duy nhất đang là phóng viên báo Quân đội nhân dân mới lấy vợ được gần năm. Giọng ông sung sướng tột đỉnh. Tất nhiên vẫn vống lên như thường lệ: “Tháng sau là tôi có cháu đích tôn. Siêu âm rồi, con trai!”.

Chu Lai là vậy, không thể khác!

Tôi nhớ mang máng cách đây ít năm Chu Lai đột nhiên cho in trên Văn nghệ quân đội một truyện ngắn khá xuất sắc. Đại ý câu chuyện về người cha có con trai mới lớn nhập ngũ ở một đơn vị huấn luyện. Tấm lòng người cha lo lắng cho người con được ông thể hiện khá cảm động. Tôi ngạc nhiên về truyện ngắn này vì nó rất khác với phong cách Chu Lai. Văn của ông mạnh mẽ có chút khoa trương, chữ nghĩa băm bổ, bạo liệt khoan thẳng vào vấn đề dù là một tình huống chết chóc trong chiến tranh hay là thời khắc tình duyên lãng mạn, nhịp điệu thẳng băng không quanh co nên luôn tạo ra những hiệu ứng mạnh cộng hưởng trong độc giả. Trở lại với cái truyện ngắn “lạc điệu” kia, rõ ràng là một Chu Lai khác, mềm yếu, da diết, bất ổn dù vẫn còn đấy nguyên vẹn chất đàn ông cứng rắn. Tìm hiểu thì biết đấy là Chu Lai viết về chính con trai của mình. Vợ chồng ông chỉ có một con trai duy nhất, hèn gì ông lo lắng là phải. Với con trai mình không biết ông dạy dỗ những gì chỉ biết ông rất “hùng hổ” với con, nào là nghề văn quá khốn khổ nên thằng bé cứ nhú cái chồi văn nào là ông vặt béng cho nó ứ nhựa tiệt nọc dứt khoát không cho đi theo con đường của cha, nào là thằng bé học nghề tình báo, ông vặt trụi chữ “tình” chỉ để lại cho nó cái nghiệp “báo”. Chu Lai cười rổn rảng: “Nó giống tôi ông ạ, mắt cứ tít lại trước phái đẹp có mà “tình” với chả “báo”cái con khỉ...”. Khi khoe về đứa cháu nội “đích tôn” sắp ra đời nay mai, tôi biết ông đang tận hưởng niềm khoan khoái sung sướng của một người cha tin ở con mình, bắt đầu hãnh diện về đứa con dù nó chỉ khởi đầu bằng nghiệp “báo” nhưng rõ ràng cái hơi hướng văn chương của một gia đình truyền thống đã được Chu Lai cảm nhận thấy ở con trai mình rất rõ. Và ông tự hào về điều ấy. Chu Lai cười tít: “Nó mà nối được nghiệp tôi ( thâm tâm thì không muốn) thì nhà tôi có đến 3 đời làm văn, chưa kể đến đời các cụ xa lắc phía trước.”. Gia đình Chu Lai ngoài hai vợ chồng còn ông bố nhà văn lão thành Học Phi và anh trai là nhà văn Hồng Phi. Cười đấy nhưng rồi Chu Lai thoắt đanh mặt lại ra chiều ngẫm ngợi: “ Nó có giá cả đấy…”. Đoạn này thì tôi hiểu, ông muốn nói về cái đoạn đời nuôi con vất vả sau chiến tranh. Nhìn ông đại tá nhà văn về hưu ung dung giữa cơ ngơi của mình bây giờ tôi càng thấy thấm thía về cái thời gian khó đã qua ấy. Thật khó tin khi đã có lần cực nhọc quá Chu Lai đâm đơn xin ra quân để tìm đường đi xuất khẩu lao động. May lãnh đạo đơn vị đã không chấp nhận lá đơn ấy. Chu Lai kể, vợ chồng ông từng phải lọ mọ dậy thật sớm cạy đá trong chiếc tủ lạnh Xaratop để mang bán cho hàng nước ở phố hàng Đậu. Đi sớm trước khi mặt trời mọc để tránh người quen nhìn thấy, ngượng và nhục. Cũng vì khó khăn kinh tế rồi hai cá tính nhà văn ở liền nhau, nên Chu Lai chỉ dám đẻ một đứa con trai. Đẻ nhiều sợ không nuôi được, thêm nữa vợ chồng có gì bất đồng phải chia lìa thì con cái khổ. Khi nói về đứa cháu nội sắp ra đời, Chu Lai tiếc rẻ ca cẩm: “Giá tôi có thêm đứa con gái thì sướng quá. Lúc muốn đẻ thì mình lại già mất rồi.”. Tôi thật không biết nói gì trước điều ước cổ tích này của ông.

Mỗi nhà văn có một thế mạnh, Chu Lai là một nhà văn thiên về tiểu thuyết, dù ông viết nhiều thể loại thậm chí còn liều mạng làm cả thơ. Có lẽ không ai không biết ca khúc nổi tiếng “Hà nội đêm trở gió” của nhạc sĩ Trọng Đài. Nguyên đây là ca khúc viết nền cho vở kịch nói cùng tên mà Chu Lai là tác giả kịch bản. Tôi vốn không sành âm nhạc nhưng thi thoảng say sưa đánh đu cùng đám trẻ đi hát karaoke nên cũng thuộc được bài hát này. Thật đã đời khi ruợu ngà ngà được ông ổng cất giọng hát về quê hương của mình trên chính đất đai quê hương ấy: “Hà nội ơi tươi xanh màu áo học trò, những con đường thân quen còn đó, tiếng rao vang đâu đây nghe động trời đêm, Hồng Hà ơi, buồm ai khe khẽ thuyền về, cành me thì thầm gục đầu vào dĩ vãng…”. Nhạc hay đương nhiên rồi nhưng nếu không phải ca từ tuyệt vời cộng hưởng vào thì chưa chắc ca khúc đã đạt tới tầm cao như thế. Tôi dám chắc nếu có một cuộc bình chọn những bài hát “đỉnh” của “dòng nhạc karaoke” thì chắc chắn “Hà nội đêm trở gió” sẽ nằm ở tốp nhất, thậm chí giật giải “quán quân”. Dạo đầu tôi khá ngạc nhiên khi biết Chu Lai chính là tác giả của những ca từ tuyệt vời kia. Nhân chuyện này cũng phải nói rõ thêm chút đỉnh, đã có một sự hiểu lầm nho nhỏ dẫn đến việc dư luận săm soi rồi đồn thổi thành việc tranh chấp bản quyền ca từ giữa đạo diễn Hoàng Quân Tạo và nhà văn Chu Lai. Hiểu lầm nho nhỏ thôi, chứ ca từ đích thực là của Chu Lai, vị đạo diễn tài danh kia có chỉnh sửa đôi chút khi đưa cho Trọng Đài phổ nhạc. Sự cố be bé này không hề làm giảm đi giá trị của ca khúc và của chính vở kịch đồng thời cũng không làm tổn thương quan hệ nghệ sĩ của họ. Cho đến tận bây giờ ca khúc “Hà Nội đêm trở gió” vẫn đặc biệt ăn khách, thậm chí nó còn chui vào từng hang cùng, ngõ hẻm, đến tận từng gia đình khi đời sống tăng cao, nhà nhà nô nức sắm sanh dàn karaoke để hưởng thụ. Vẫn biết mấy anh văn xuôi hay khởi nghiệp ban đầu bằng thơ và ít ông nào chịu thừa nhận sự thất bại của mình, chỉ lẳng lặng bỏ thơ tìm đến với văn xuôi thì cũng không thể phủ nhận thành tựu “thơ” của Chu Lai dù chỉ bằng đoạn ca từ ngăn ngắn kia. Nhắc đến chuyện này Chu Lai hứng khởi, tất nhiên lại vống giọng: “ Tôi làm thơ hơi bị mả đấy, ngày trước cũng làm như điên. Nhưng…”. Ấy là ông muốn nói đến lần tuyên thệ từ bỏ “nàng thơ” khi đã câu được nữ văn sĩ Vũ Thị Hồng dạo ở trại viết Quân đội thuở nào. Câu chuyện tình duyên này luôn được Chu Lai kể ông ổng: “ Đầu tiên, chỉ là cảm hứng hiếu thắng, thế mà vì mỗi một câu thơ mang đầy tính đong đếm mậu dịch: Biển xanh đựng nắng đổ vào mắt em mà tôi trở thành... kẻ tù nhân của cô ấy suốt đời. Vì thế sau này tôi thề không bao giờ làm thơ nữa.”.

Thật may, nếu Chu Lai cứ tiếp tục làm thơ thì chắc gì ông đã viết được khối lượng tác phẩm đồ sộ kia. Ông viết nhanh và khỏe. Trung bình chỉ năm hơn năm ngót ông lại cho ra đời một tác phẩm. Vài chục cuốn sách, vở kịch, hàng trăm tập phim mang lại cho ông không chỉ cái danh vững vàng trên văn đàn mà đó còn là những khoản thu nhập không nhỏ. Tất nhiên không thể phủ nhận sự cần cù thâm canh của ngòi bút “đa diện” đầy nội lực này. Đã thành giai thoại, người ta kể về cái sự sáng tác của Chu Lai tuân thủ một quy trình như sau: đầu tiên là những chuyến đi thực tế vô hồi kỳ trận chỉ nhằm khơi gợi lại cảm hứng dĩ vãng, sau đó là nét cắt phác thảo bằng truyện ngắn. Từ truyện ngắn ông nghiền ngẫm rồi thêm “mắm muối tương cà” thành tiểu thuyết. Khi tiểu thuyết có tiếng và bán chạy ông bắt đầu rao bán nó bằng kịch bản sân khấu và phim truyện. Cứ thế quay vòng, “cái vòng tròn không hề bội bạc” này xoay vòng cuộc đời Chu Lai như chong chóng. Hiếm có một nhà văn nào lại chịu khó đóng cửa ngồi “thiền” bằng chính công việc viết lách như ông. Tôi công nhận điểm này nhưng cần phải nói thêm. Thường các văn nhân hay tụ tập trà ruợu. Cái việc tụ tập bất thành luật nhưng thành lệ này tiêu phí khá nhiều thời gian và…tác phẩm. Thì ngày này tháng khác, cứ tụ bạ triền miên viết bằng “ruợu vào lời ra” thì lấy đâu ra tác phẩm. Biết thế nhưng đố ai tránh được đấy. Mỗi ngày tôi tính trung bình những tửu đồ chính hiệu kia dành thời gian cho ruợu dứt khoát phải nhiều hơn việc sáng tác. Nói chuyện bên lề này không phải để ca ngợi Chu Lai mà là vạch ra một sự thật: Chu Lai không biết uống ruợu, đúng hơn là không uống được ruợu. Chẳng biết người khác thế nào chứ tôi không mấy thiện cảm với đám nhà văn không uống ruợu. Người mà lúc nào cũng tỉnh như sáo sậu thì đúng là khổ thật (ngược lại họ-những người không uống lại thương hại chúng tôi là một lũ rồ, lũ khốn). Thế nên, tôi ít khi giao du với những người tỉnh táo không ruợu. Ngay cả Chu Lai, dù rất kính trọng văn nghiệp của ông nhưng cấm bao giờ tôi lai vãng đến nhà chỉ thỉnh thoảng gặp nhau nơi trại viết hoặc hội nghị. Bằng cớ là hôm trước viết bài này tôi hẹn đến nhà ông nhưng lại cứ lọ mọ tìm quanh quẩn nhà cũ ở khu gia binh số 8 Lý Nam Đế, trong khi ông chuyển nhà mới chỉ có…hơn chục năm. Không uống ruợu tất nhiên có cho thêm vàng cũng chả đủ sức mà ngồi đua gan với đám nhậu mà đám bợm nhậu cũng chả dại gì chứa chấp một lão tỉnh queo ngồi nghe hết sạch những thông tin của kẻ say. Những thông tin ấy cực kỳ quý giá vì nó thật hơn cả thật. Người say bao giờ cũng nói thật. Đấy, không la cà tụ tập được thì chả ngồi nhà viết còn biết làm gì. Đố cái anh nhà văn làm được nghề gì khác cho ra hồn. Nói giỡn vậy thôi chứ Chu Lai đúng là có cái nết quý “thâm canh cày cuốc” thật. Phải nghị lực lắm, phải kiên trì lắm, say mê lắm mới làm được bao nhiêu việc lớn như vậy. Bởi nói gì thì nói, không có tình yêu chữ nghĩa, không có quá khứ oai hùng, không có đam mê cháy bỏng và trên hết là niềm đau dĩ vãng làm sao ông viết được những trang văn hôi hổi kia.

Trong văn nghiệp của Chu Lai tôi cho rằng ông thành công hơn cả ở tiểu thuyết. Sức mạnh của ông có lẽ tập trung cả ở thể loại này. Có thể coi mỗi tiểu thuyết tập trung cho một cột mốc trong chặng đường sáng tác của ông. Bắt đầu là “Nắng đồng bằng”. Chính tiểu thuyết này đã mang lại tên tuổi cho Chu Lai. Một loạt tiểu thuyết sau đó dần củng cố “ngôi vị” cho ông trên văn đàn. Tôi đặc biệt ấn tượng về tiểu thuyết “Ăn mày dĩ vãng”. Đây là tiểu thuyết đã mang lại cho ông giải A Hội nhà văn Việt Nam năm 1994 về đề tài văn học chiến tranh. Hơn thế cùng tiểu thuyết “Phố” chính “Ăn mày dĩ vãng” là cuốn sách mang tên tuổi Chu Lai ra khỏi biên giới Việt.

Cái chuyện “xuất ngoại” với Chu Lai cũng thật khác người. Vẫn là một sự tình cờ. Ở ta việc một nhà văn có sách dịch ra nước ngoài là chuyện quá xa xỉ nếu không muốn nói là khó khăn đến mức “đáy bể mò kim”. Vẫn có những tác giả liên tục “xuất khẩu” sách ra nước ngoài. Tài năng thì nhất trí rồi nhưng nói gì thì nói vẫn phải có mối quan hệ tốt hoặc với dịch giả, hoặc với một tổ chức xuất bản ngoài nước nào đó. Chu Lai thì không. Đến ông cũng hoàn toàn bất ngờ vì việc sách của mình được xuất ngoại. Câu chuyện vừa bất ngờ vừa gây cấn và lãng mạn như tiểu thuyết. Vào một ngày của năm 2002 Chu Lai nhận được điện thoại của một cô gái nói tiếng Việt lơ lớ không dấu. Người phụ nữ này đến từ Pari hẹn gặp ông. Cuộc gặp diễn ra liền sau đó. Hóa ra cô là con gái dịch giả, giáo sư Alain Clanet, người từng sống ở Việt Nam đến 25 năm và rất yêu đất nước này. Khi đã về Pháp ông vẫn thường nhớ đến mảnh đất ông từng sống cả một đoạn đời dài. Dịch giả có một cô cháu gái đi du lịch ở Việt Nam và mang về ngẫu nhiên cuốn tiểu thuyết “Phố”. Ông đọc thấy hay bèn nảy ý định dịch và xuất bản ra tiếng Pháp. Đó chính là lý do của cuộc gặp. Cô con gái dịch giả sang Việt Nam chính thức xin phép tác giả cho dịch sách. Khỏi nói Chu Lai vui sướng đến nhường nào. Có sách được dịch, được nhiều thứ từ tiền bạc đến danh vọng ai chả thích nhưng điều làm Chu Lai vui sướng hơn cả chính là cái cách tiểu thuyết của ông chu du ra nước ngoài bằng con đường…hoàn toàn do giá trị tác phẩm. Không giá trị sao được, khi một học giả Pháp phải đồng cảm chia sẻ rồi quyết định làm cái việc quan trọng kia. Chu Lai hào hứng: “Mấy tháng sau, tôi nhận được bản hợp đồng dài… 14 trang bằng tiếng Pháp của NXB L’Aube. Trong đời văn của mình, tôi chưa từng thấy một bản hợp đồng nào chi tiết, công phu và ghê gớm đến vậy. Vừa thán phục, vừa cảm thấy choáng vì cách làm việc nghiêm túc của đối tác, tôi đã phải “cậy” đến bố mình là nhà văn Học Phi dịch hộ bản hợp đồng. Theo đó, tôi sẽ nhận được 500 euro tiền tạm ứng. Còn tiền bản quyền tính theo số lượng bản in, phát hành cuốn sách thì tôi sẽ nhận được sau khi sách được bán ra…”.

Mừng, thật mừng, mọi việc suôn sẻ cứ như trong mơ trừ một chuyện cốt yếu nhất, sau đấy bẵng đi tịnh không có ai liên lạc với Chu Lai. Ông không nhận được cả tiền tạm ứng. Thế này thì tèo là cái chắc rồi, trong đời ai chả có vài ba bận gặp phải những chuyện tương tự, có người ghét đã phao lên bảo Chu Lai ăn quả lừa, mừng hịt. Đúng vào lúc Chu Lai đã quên đi việc dịch sách với cái bản hợp đồng 14 trang dằng dặc kia thì ông có việc qua Pari. Vô tình Chu Lai vào một hiệu sách. Chợt ông lặng đi. Cái gì thế kia? Chẳng phải đó là sách của mình đấy sao. Đẹp, trang trọng mang tựa đề Rue des soldats tức là Phố lính. Cuốn sách nằm hiên ngang trên giá như một võ sĩ thách đấu. Mắt Chu Lai nhoè nhoè…

Đã nhiều lần Chu Lai bày tỏ cảm giác của ông lúc đấy. Chao ôi là sướng, nhìn đứa con tinh thần của mình mặc quần áo nước ngoài, chễm trệ trên giá, họa có thần kinh nhặt lá bánh mới không sướng. Nhưng rồi cảm giác sung sướng cũng dần tan đi để lại sự băn khoăn, thắc mắc. Chu Lai chợt nhớ đến bản hợp đồng và lập tức gọi điện thoại. Dịch giả, giáo sư Alain Clanet đến ngay và mang cho Chu Lai đúng…một cuốn sách dịch. Ông này vô cùng ngạc nhiên khi biết Chu Lai vẫn chưa nhận được khoản tiền tạm ứng. Vốn mến mộ Chu Lai, dịch giả sốt sắng tìm cách can thiệp. Ông này khuyên Chu Lai mở tài khoản để dễ bề nhận được tiền từ nhà xuất bản.

Về nước, Chu Lai làm ngay theo lời khuyên. Nhà văn lại là nhà văn lính vốn ấm ớ hội tề với ba cái thứ tiền nong tài khoản này, Chu Lai đã phải rất vất vả chạy đôn chạy đáo bị bẻ hành bẻ tỏi đến tuần lễ mới mở xong tài khoản. Nhưng thế đã xong đâu khoảng một năm sau ông mới nhận được khoản tạm ứng 500 euro, cũng phải chạy ngược chạy xuôi tiền mới về được tài khoản, đã thế còn bị trừ đầu, trừ đuôi. Tính ra cái vụ tạm ứng ấy Chu Lai chỉ thực lĩnh được có 420 euro. Chu Lai thở phào xoa tay ngồi chờ nhuận bút tính theo số lượng sách phát hành. Chờ, chờ mãi tịnh không có một chút tin tức gì khả dĩ. Gọi điện đến nhà xuất bản L’Aube thì nhận được năm lần, bẩy lượt hẹn hò. Nhờ cá nhân rồi cả đại sứ quán Pháp can thiệp tình hình vẫn tịch lặng như tờ. Thế mới biết cái anh nhà xuất bản chả cứ gì ở xứ ta, đến xứ Tây văn minh là thế mà cũng bầy nhầy bạc nhạc chỉ chực rình bóp hầu bóp cổ người viết. Nhiều người xui Chu Lai kiện nhà xuất bản, một công đôi việc. Chu Lai thẳng thừng từ chối với cái lý rất lính, thôi ầm ĩ làm quái gì ba cái chuyện tiền bạc, chẳng hay ho tẹo nào. Tiền cũng chẳng làm mình giầu hơn được, danh cũng chẳng thêm được bao nhiêu. Chỗ này tôi xin nói thành thực đấy là Chu Lai chứ rơi vào mấy người khác hám danh, hám của xem, lại chả ộn ạo lên ngay, thời buổi bây giờ thiếu gì người nổi tiếng bằng xì căng đan, họ tìm đủ mọi cơ hội để dư luận hướng vào mình. Sau đó, có lẽ cách hành xử của Chu Lai khiến nhà xuất bản kia động lòng hay sao ấy, họ bèn gửi trả 2000 euro nhuận bút tương đương với mấy chục triệu tiền Việt. Chu Lai lạnh te phán về vụ này: “Thôi cũng được, xấp xỉ nhuận bút nội, chỉ khác là tiền ngoại. Xong!”. Không xong được, năm 2007 giáo sư A’lain Clanet tiếp tục dịch cuốn “Ăn mày dĩ vãng”. Đã định gửi nhà xuất bản khác cho đỡ rắc rối nhưng rồi số phận cuốn sách lại vẫn rơi vào tay nhà xuất bản L’Aube. Còn tệ hơn ấy chứ-Chu Lai than vãn- chả hiểu họ làm ăn ra sao, lần này còn không có cả hợp đồng lẫn tạm ứng. Chuyện sau đó thế nào, tôi phát chán chả buồn quan tâm nữa. Xem ra có sách dịch cũng cam go thật, tôi tự nhủ, mình tài bé, phận hèn, đức mỏng thôi thì cứ “trâu ta ăn cỏ đồng ta” cho tiện, “mèo nhỏ bắt chuột nhỏ”, khoản xuất ngoại em xin “kính nhi viễn chi”, mời các quan bác, lộc giời bao la các bác cứ hưởng. Nghĩ vậy nhưng tôi lại buột ra thành lời. Chu Lai quắc mắt: “Lộc giời nào, bố láo, máu óc của mình đấy hiểu chưa…”.

Lại óc, lại máu…khi nói về công việc sáng tác, nhiều người bảo Chu Lai cứ hay nói quá lên (tôi gọi là vống) rặt lên gân lên cốt. Chuyện đó thì có, đại loại như múc óc, như gặm thân xác da thịt mình, như hút máu mình, như tù khổ sai vác lấy nghiệp chướng văn chương, thôi thì đủ thứ hệ trọng. Dĩ vãng cũng vậy, biết là Chu Lai chiến đấu ở vùng ven Sài Gòn suốt 10 năm, từ một anh lính trở thành đại đội trưởng đặc công, chiến trường ấy, thời gian ấy, vị trị ấy đương nhiên gian khổ ác liệt rồi, mất mát hy sinh là phải rồi nhưng việc gì cứ phải thẳng băng, căng cứng mọi chuyện ra như thế. Ngay cả ba cái chuyện yêu đương cũng vậy, tôi quý mến ông nhưng thật không chịu nổi cái cách xưng xưng mang chuyện mình ra tố giữa bàn dân thiên hạ mà cũng có giời biết những chuyện ấy có bao nhiêu phần trăm sự thật. Thí dụ như cái vố ông kể về mối tình đầu, hai người ở với nhau trong một căn nhà 3 ngày 2 đêm rút cục cô gái vẫn hoàn nguyên là …con gái. Thời ấy là vậy nhưng với Chu Lai tôi không tin. Nhưng nói đi phải nói lại, có lẽ tính cách ông là thế, nói cũng như làm cứ phăm phăm mặc kệ thiên hạ. Có chuyện thế này, đạo diễn Nguyễn Hữu Phần người làm phim “Đất và người” và “Ma làng” bạn của Chu Lai. Nguyên ông này có mua một mảnh đất ở Lương Sơn, Hoà Bình làm trang trại. Chuyến ấy Nguyễn Hữu Phần đánh xe rủ Chu Lai đi chơi. Ngay sát trang trại của vị đạo diễn có một cái hồ rất rộng, nước xanh ngắt vừa sâu vừa sạch. Chu Lai khoái quá, bèn cởi quần áo vận mỗi chiếc quần đùi lính thùng thình nhảy xuống hồ bơi. Khoái như đánh tàu chiến trên sông Sài Gòn-Chu Lai cảm thán. Rồi ngó trước, nhìn sau Chu Lai bảo Nguyễn Hữu Phần tìm cho mình một mảnh đất gần hồ. Có ngay, Nguyễn Hữu Phần trong vai ông mối cò mồi xăm xắm dẫn bạn đi. Chu Lai vẫn nguyên chiếc quần đùi ướt, tay ôm đống quần áo dài đi gặp chủ đất. Vừa xem đất, vừa mặc cả chưa đầy chục phút, Chu Lai đã mua bán xong. Moi hết tiền trong ví được triệu bạc với hai trăm “đô” để đặt cọc, ngay trong tuần đó, Chu Lai thanh toán xong tắp lự và nghiễm nhiên thành chủ trang trại. Bây giờ thì Nguyễn Hữu Phần đã bỏ của chạy lấy người, bán thốc bán tháo trang trại gỡ đủ vốn. Còn Chu Lai? Tôi gọi điện hỏi Nguyễn Hữu Phần, ông này phá ra cười: “Không trụ nổi đâu, hứng lên thì thế thôi chứ sức đâu mà lên đấy canh đất.”. Một chuyện nữa, nhân Chu Lai hay nói về “Giá-Trả Giá” nên tôi mới dám khẳng định chuyện này có ứng vào ông thật. Cách đây mấy năm tự nhiên ông vớ được một món bẫm. Nếu là nhuận bút thì chẳng nói làm gì, đằng này chuyện thật như đùa. Đận đó Chu Lai lĩnh được một khoản nhuận bút lớn gom được từ tiền bán kịch bản và in sách đâu được hai trăm triệu. Nhân ngân hàng cổ phần Quân đội phát hành cổ phiếu, hứng lên ( Chu Lai luôn luôn tuỳ hứng) bỏ tiền mua. Cũng là a dua a tòng theo mấy đồng nghiệp thôi chứ ông thì biết tính toán nỗi gì. Mua xong để đấy coi như một khoản tiết kiệm dưỡng già. Đến một hôm, bất ngờ Chu Lai nhận được cú điện thoại lạ gạ mua chỗ cổ phiếu kia với giá gấp 3 lần. Ông không để ý nghĩ là họ nhầm máy. Hai hôm sau lại một cú điện thoại, lần này trả gấp 4. Chu Lai lẩm bẩm đùa dai thế, chắc gã nào trong Tạp chí trêu chọc đây. Nhưng một tuần sau, không điện thoại nữa mà là một người đến trả trực tiếp: gấp 5. Gấp 5, tức là một tỷ. Số tiền quá lớn, bằng nhuận bút của cả chục cuốn sách với trăm tập phim. Không phải chuyện đùa, Chu Lai gật phắc. Tiền tỷ, phải bỡn đâu. Tự nhiên có trong tay một tỷ, nằm mơ cũng không có. Cầm tiền rồi vẫn cứ bâng khuâng không hiểu chuyện gì ra chuyện gì nữa nhưng chỉ mấy ngày sau thì Chu Lai vỡ lẽ. Không phải mơ mà là thật. Số cổ phiếu ấy nếu ông giữ lại thì giá của nó là gấp 8. Tám hai mười sáu, tỷ sáu, chao ôi hơn cả đùa. Có người bảo ông dại chưa? Lúc này Chu Lai đã qua cơn mơ trở về với con người thật của mình. Lại là sự tỉnh queo lì lợm của một anh lính chiến. Cái lý của Chu Lai chấp nhận được, của cải mất hết thì đúng là khốn nạn, nhưng được đến gấp 8 lần thì khốn nạn hơn nhiều. Lại nữa, làm anh nghèo thì hèn thật nhưng giầu có thì hèn hơn vì phải…toan tính. Sau này khi cả nhà ông đi vắng, trộm phá tum sân thượng vào nhà lấy đi khá nhiều của cải, Chu Lai chỉ chép miệng. Vẫn là câu lẩm bẩm đã thành triết lý: “Có giá cả…”.

Chu Lai không ít lần bày tỏ ông đi ra khỏi được cuộc chiến và sống thêm được mấy chục năm đã là một cái lãi lớn. Đấy là ông khiêm tốn. Buông cây súng, Chu Lai cầm bút và tôi nghĩ ông đã làm được rất nhiều việc ra trò. Văn học, sân khấu, điện ảnh, truyền hình, tác phẩm nào của ông cũng đề cập đến quá khứ chiến tranh. Tôi biết tạng của ông không thể viết khác. Dĩ vãng của ông đúng là có giá của nó. Chu Lai thường nói đùa, thôi thì cứ dĩ vãng của mình mà ăn mày. Mọi thứ có giá rồi, có dĩ vãng để mà ăn mày là hạnh phúc. Là biên tập phim, không ít lần tôi muốn ông viết một cái gì đó không phải chiến tranh cho dễ dàn dựng, cũng là một ý tốt để anh em có một kỷ niệm về công việc nhưng dứt khoát Chu Lai từ chối. Ông nói tôi đủ rồi, lãi rồi, tôi chỉ làm những gì mình thích.

Mấy năm gần đây Chu lai còn nổi hứng sắm ô tô. Ông bảo đánh trận rồi viết lách cả đời đến lúc mãn cuộc không có nổi cái ô tô thì đâu còn là mình. Không biết đã có bao nhiêu văn hữu dám ngồi trên chiếc xe 5 chỗ Hyundai Getz của Chu Lai do chính ông cầm lái. Tôi thì chắp tay vái chào dù tài nghệ vô lăng của tôi cũng vào hạng bét dem như cấp hàm hạ sĩ dạo ra quân vậy. Một bố già ngoại lục tuần ngồi sau tay lái. Chuyện hẳn không phải bình thường bởi vì bố già chỉ là một tay lái lạc, nghĩa là nghề nghiệp của ông ta không dành cho cái nghiệp “xế” ấy, hơn thế ông ta lại làm cái nghề văn chuyên tưởng tượng mơ mộng, nói dại đang miết vô lăng mà bố già lại vân vi tính toán chuyển thể truyện ngắn thành tiểu thuyết rồi thâm canh từ tiểu thuyết sang kịch bản thì có mà toi cả nút. Chưa hết, ông ta mới chơi mốt thời thượng làm bạn với tay lái chỉ vài bốn năm nay. Ấy vậy mà không ít người đã nức nở chẳng biết thật hay vờ khen Chu Lai lái quá giỏi. Còn bản thân thì tất nhiên chả dại gì ông không tự tấn phong cho mình là “tay lái lụa”. Có một sự thật thế này, trước mỗi chuyến đi bao giờ Chu Lai cũng cẩn thận ghi chép từng khoản, từng khoản từ vật chất đến tinh thần một cách chi tiết, tỉ như sổ tiết kiệm để ở đâu, trong ngăn kéo tủ còn bao nhiêu tiền mặt, ghi cả những việc hệ trọng gia đình cần phải làm, tất tần tật không thiếu một thứ gì. Thậm chí Chu Lai còn làm ủy quyền sử dụng một miếng đất ông đang sở hữu. Tính tình Chu Lai phóng túng ngang tàng thật không hợp với kiểu ghi chép tủn mủn ấy nhưng ông cũng chẳng thể làm khác…vì sợ không còn cơ hội. Ấy là Chu Lai lo…chết vì tai nạn nên phải trăng trối trước, một kiểu di chúc cũng có một không hai. Mà không phải lần một, lần hai, lần đi nào ông cũng buộc phải cẩn thận như vậy. Bên ngoài Chu Lai luôn mạnh mồm coi thường mọi sự nhất là cái nhẽ sống chết nhưng ngồi trước vô lăng bao giờ ông cũng cẩn thận một cách vô cùng nghiêm trọng. Không đùa được đâu, xe phóng vèo vèo trên đường, đủ thứ chướng ngại, chỉ ùm một cái là xong- Chu Lai thú nhận. Đến chuyến chở vợ đi xuyên Việt vừa rồi về thăm vùng chiến trường Quảng Đà cũ thì tôi biết tỏng ông nhà văn này sợ chết chỉ một phần mà nhẽ chính là thiếu tự tin vào trình độ tay lái của mình. Chuyến ấy cũng coi như một kỳ tích, trong 10 ngày, Chu Lai lái ngót nghét 3000 cây số, có ngày giã tới 500 cây có lẻ. Sức già lái được thế kể cũng đáng nể. Ngay cả chuyện lái xe Chu Lai cũng quy tuốt sang kiểu hành quân “bóc hành” ngày xưa, nghĩa là cứ đi cố thêm mươi cây, rồi mươi cây nữa nghỉ một thể, cứ thế trăm hơn trăm ngót cây số đến lúc nào không biết. Vui thật, đến cả lái xe ông vẫn toan tính kiểu lính!

Nhiều lúc tôi cứ băn khoăn về mẫu nhà văn như Chu Lai. Nếu không có cuộc chiến tranh và cả cuộc đời theo đuổi binh nghiệp thì số phận những người như ông sẽ thế nào? Cuối năm 2006 ở tạp chí Văn nghệ quân đội có một sự việc hy hữu, cùng lúc sáu sĩ quan nhà văn nhận sổ hưu. Nói hy hữu là vì cả sáu vị này đều suýt soát ở tuổi lục tuần, nghĩa là hơn muộn không đáng kể với độ tuổi quy định về hưu, điều trước đó không hề có ( cánh nhà văn thường về hưu rất muộn). Nhận sổ hưu, Chu Lai bèn bỏ nhà đi tuốt vào Tây Nguyên đón Tết nguyên đán. Ông tuyên bố với báo chí muốn hưởng một cái Tết tự do không bị cột vào tập tục, lề thói, xã giao. Nói vậy nhưng tôi ngờ rằng ông bị sốc vì cú về hưu kia. Chắc là Chu Lai sẽ phản ứng tôi khi đọc những dòng này. Nhưng thành thật, tôi nghĩ ông không sốc mới lạ. Cả cuộc đời ông theo đuổi binh nghiệp, giờ phải rời xa nó ông có quyền sốc một cách chính đáng. Điều đó thật đáng yêu, đáng trọng và nó đúng với bản tính, với con người ông. Ăn mày dĩ vãng, ông nói đúng! Chỉ có những người lính chân chính dù là cầm súng hay cầm bút mới có quyền được hưởng những gì tốt đẹp nhất được chắt của quá khứ họ đã từng sống. Nếu coi đấy là lãi thì đấy chính là một cái lãi vô giá vì ông và cả thế hệ ông đã sống đúng với bổn phận và trách nhiệm của mình. Trách nhiệm không thể chối bỏ của một người lính!

HẾT

Họ đã trở thành đàn ông

Phạm Ngọc Tiến

I

Tiếng người dẫn chương trình rành rọt vang trên loa phóng thanh:

- Sinh viên năm thứ tư khoa Văn trường đại học X, Phạm Vân Ngọc với tham luận: "Sự hy sinh - Những giá trị đích thực của nó thông qua số phận người phụ nữ trong chiến tranh giữ nước".

Đã gần hết giờ buổi sáng của hội thảo khoa học sinh viên khoa Văn các trường đại học. Hội trường ồ lên - Lại chiến tranh, đây có phải văn đàn đâu, lật xới làm gì mảng hiện thực cũ mèm ấy - Rách việc thế, chiến tranh thì can hệ gì đến hội thảo khoa học này - Mà biết quái gì về chiến tranh. Nữ sinh Vân Ngọc thoáng chút ngập ngừng. Rồi cô mạnh dạn từng bước một, đĩnh đạc tiến lên bục diễn đàn. Dáng vẻ dứt khoát ấy, cộng vào tà áo dài trắng tha thướt và một khuôn mặt đẹp dịu dàng, bất ngờ làm hội trường ồn ã ắng hẳn đi. Bằng một giọng run run, cô trình bày quan điểm của mình dựa trên các luận cứ khoa học đã được thử thách và một loạt dẫn chứng minh họa. Tham luận rất ngắn. Thoạt đầu chẳng có gì đáng nói. Hội trường im lặng. Thứ im lặng miễn cưỡng và có phần thờ ơ. Vấn đề không mới. Sự hy sinh ấy thời gian đã nghiền ngẫm nó đầy đủ. Chỉ đến phần cuối cùng của tham luận, nữ sinh đặt vấn đề trên nền một dẫn chứng cá biệt, lạ lẫm thì hội trường hoàn toàn sôi động. Có mặt ở cuộc hội thảo, ngoại trừ số ít các nhà văn, nhà lý luận, nghiên cứu và giảng dạy văn học, còn đa phần là sinh viên. Cô ta nói gì thế nhỉ? Sao lại thế? Hơn một nửa số người có mặt rầm lên phản đối. Tham luận kết thúc trong tiếng bàn tán, bất bình. Cô gái sững sờ. Mặt cô từ đỏ bừng chuyển dần sang trắng bệch. Phản ứng mạnh mẽ và đột ngột của người nghe khiến cô chôn chân, chết lặng. Phải đến mấy giây cô mới bừng tỉnh được. Giọng nói ai đó căng như loạt liên thanh quất mạnh vào khuôn mặt đang ngơ ngác của cô: "Đảo lộn mọi giá trị. Không cần sự hy sinh nhơ nhuốc ấy. Điên!". Cô gái rùng rùng người rồi đổ sập xuống. Một tích tắc. Cô bật dậy cũng rất nhanh, ào chạy khỏi hội trường. Vấp. Ngã. Lại vấp. Hội trường ắng đi, ngột ngạt. Không đành được, tôi băng theo. Có một cái gì đó ào ụp trên khuôn mặt ngây thơ của cô gái. Cô lau thật nhanh những giọt nước mắt đang tứa ra. Khoảnh khắc. Giọng cô gấp gáp:

- Chú! chú từng là người lính, từng cầm bút. Chú trả lời cháu đi. Chiến tranh đã lâu đâu, sao mọi người quên nó nhanh đến vậy? Tại sao không chấp nhận sự hy sinh nhiều thua thiệt ấy? Đạo lý ư, chiến tranh mà, tại sao lại coi điều đó làm hoen ố chiến thắng? Trả lời cháu đi, kìa chú!

Im lặng.

- Cha cháu là một trong những người đã trở thành đàn ông khi đi qua cuộc đời cô ấy. Chú đã biết điều đó. Sao chú vẫn im lặng. Chú cần phải biết thêm điều này. Mỗi khi gặp khó khăn tưởng chừng như phải gục ngã, bao giờ cha cháu cũng gượng dậy bằng được. Vì cái gì? Chính vì người đàn bà năm trước. Cho dù thời gian đã qua đi, nhân cách của cô ấy không hề bị hoen ố.

Im lặng.

- Tại sao thế? Không! không! Chú trả lời cháu đi. Đừng im lặng, chú. Cháu van chú. Sao? Chú nhẫn tâm thế? Độc ác!

Im lặng.

Tôi xiết chặt tay cô gái. Bằng một sức mạnh của sự đổ vỡ, cô vằng khỏi tay tôi và vùng chạy thật nhanh. Tôi đứng lặng. Loa phóng thanh lại vang rành rọt:

- Sinh viên năm thứ tư trường đại học Z Nguyễn Trung Hiếu với tham luận: "Thi pháp ảo trong thơ điên của Hàn Mặc Tử".

II

Năm ấy chị hai mươi hai tuổi và tròn một tuổi quân.

Đó là quãng thời gian ác liệt nhất của chiến tranh chống Mỹ. Binh trạm của chị nằm kề sát mặt trận. Những đoàn quân sau chặng dài hành quân mệt mỏi, nằm tập kết tại binh trạm để rồi tỏa ra khắp các hướng chiến trường. Chị là chiến sĩ quân lương. Kho của chị nằm giữa một cánh rừng đại ngàn. Tiếng là đại ngàn song bom đạn đã phát đi quang quẻ những tầng cây rậm rịp. Vào đến đây số chiến sĩ nữ như chị thật hiếm. Cả binh trạm vài trăm con người chỉ có dăm người là nữ. Duy nhất chị là người thành phố. Chị không đẹp - Đấy là chị tự đánh giá mình. Điều ấy đúng, nếu như chị vẫn còn ở thành phố quê hương. Nhưng ở đây, giữa hoang vắng của rừng rú, giữa nghiệt ngã của chiến tranh với vóc dáng thon thả, tóc đen mượt, nước da trắng của người thành phố lại chưa trải qua sốt rừng, chị là người đẹp nhất. Sát kho chị có một con suối. Nước lặng phắc, trong vắt. Suối không sâu nhìn thấy cả ánh vàng dưới đáy. Chị có thói quen tắm buổi sáng. Vì thói quen này chị bị phê là tiểu tư sản. Cái đó là tất nhiên đối với một chiến sĩ nữ là người thành phố. Chị có học. Văn khoa hẳn hoi. Dở đại học thì tình nguyện đi vào chiến trường.

Sáng ấy!

Hình như đã sang thu, trời lành lạnh. Mặt trời chưa lên. Sương bàng bạc. Nước bàng bạc. Da thịt chị cũng bàng bạc. Tất cả bàng bạc một mầu tinh khiết. Chị bất động giữa dòng suối như một pho tượng tạc vào thiên nhiên, im lặng tận hưởng đến cùng ban mai trong trẻo. Không có chiến tranh, không có phiền não, không có ưu tư... Mọi thứ vào giờ khắc ấy, dường như bị đẩy lùi, tan biến. Chị khỏa nước thật nhẹ. Bỗng chị ngồi thụp xuống. Có tiếng soạt khẽ. Vút từ ngọn búi lồ ô ven suối một chú gà soạch thẳng vào rừng. Đã sáng. Chị từ từ xoay lưng lại. Linh cảm phụ nữ mách bảo có người nhìn trộm thân thể chị. Giọng nói trẻ xoáy vào hõm đá.

- Đẹp quá! Hệt như thần vệ nữ.

- Vệ nữ thì tao không biết nhưng hơn đứt bọn con gái quê tao.

- Mày nhìn trộm chúng nó à?

- Không, quê tao trai gái đều tắm chung cầu ao. Dưng mà không được trắng thế kia - Có tiếng thở dài.

- Lần đầu tiên tao được nhìn con gái rõ đến thế.

- Tao cũng vậy thôi.

- Tao chưa có người yêu đã đành. Còn mày, lẽ ra đã cưới trước khi đi B, tưởng mày phải biết?

- Mày ngu thế, dễ cứ yêu là lột trần con người ta ra được à? Đừng hòng! - Giọng nói trầm hẳn xuống - Nếu muốn, tao có thể đã biết được cô ấy. Tội nghiệp, cứ giục cưới, mày bảo mình đi biết bao giờ về. Con gái có thì, tao không muốn cô ấy cột vào mình, để phải đằng đẵng chờ đợi. Bom đạn thế này biết cái gì sẽ xảy ra. Tao nhất quyết không chịu cưới. Trước hôm đi hai đứa dắt nhau ra đồng bãi, ngồi đến sáng. Cô ấy tức tưởi khóc. Thương quá. Cô ấy bảo không cưới cũng được, cứ để lại cho cô ấy một đứa con. Chiến tranh kéo dài bao lâu mặc kệ. Tiếng tăm, dư luận mặc kệ. Khổ thế nào cô cũng chịu được. Cô sẽ nuôi con chờ đợi. Bao nhiêu năm cũng vẫn đợi. Thú thật, có giây phút tao đã xiêu lòng định tặc lưỡi. May kìm được. Chắc cô ấy sẽ hiểu. Sau này dù thế nào, tao cũng nhất định tìm về cô ấy. Chỉ tiếc, có mệnh hệ gì...

- Suỵt, khẽ chứ. Ai nghe được thì chết. Tao cũng đang định nói. Đất nước loạn lạc, mình thân trai xông pha mũi tên, hòn đạn là phải. Nhưng bom đạn biết đằng mù nào mà tránh. Tao ở thành phố, nhà không đến nỗi, lại được chiều chuộng, cái gì cũng biết cả. Hiềm một nỗi, bây giờ có nằm xuống, mình, tiếng là thằng trai lừng lững mà chưa được thành đàn ông, kể cũng tiếc.

- Thôi ra đi mày, lấy nước rồi còn về. Từ từ thôi kẻo lộ, ngượng chết.

Chị không bỏ sót lời nào. Mắt chị hút theo bóng hai người lính trẻ. Chị đã quên bẵng họ vừa trộm nhìn chị. Đoạn đối thoại vô tình của hai người lính tác động ghê gớm đến chị. Người chị ớn lạnh. Chị rùng mình. Sao nước suối bỗng dưng lại lạnh buốt thế này? Toàn thân run rẩy, chị bấu chặt tay vào gờ đá sắc cạnh. Chị nghiến chặt răng, cố đẩy lùi cảm giác buốt tê tái đang dần chiếm cơ thể chị. Có thể thế được chăng? Tại sao chị không hiểu ra điều ấy. Anh ơi, linh hồn anh có phiêu bạt, lang thang ôm niềm tiếc nuối kia không? Chị thấy mình chới với. Không! Ngã xuống là chết. Chị vận hết sức gượng dậy. Lạnh quá. Người chị rùng rùng đón nhận trăm, nghìn mũi kim buốt giá đâm vào da thịt. Không biết bằng cách nào chị lên được đến bờ, mặc quần áo và lết về đơn vị. Chị ngã vật ra sạp hầm bất tỉnh.

*

* *

Chị thấy chòng chành. Người chị nảy lên rồi giần xuống. Bom gì lạ thế. Thôi chết, sao người chị lại trôi đi thế này. Sập hầm rồi. Không phải. Chị đã bị sập hầm một lần. Chị vẫn còn nhớ. Ngạt lắm. Toàn thân bị chèn cứng. Tay chị bươn bả, quào, móc. Tất cả tối đen. Chị gắng sức gào thật to. Không được. Chị cố gắng nghĩ đến một điều gì để dẹp nỗi sợ hãi. Mẹ chẳng hạn. Không, tội nghiệp lắm. Chắc chắn mẹ không thể chịu đựng được khi thấy tình cảnh này của chị. Bố vậy. Bố hy sinh ở Điện Biên. Chị chưa một lần biết mặt bố. Bộ đội hay nhỉ. Có dịp đáo qua nhà, gửi lại đứa con, rồi đi biền biệt không về. Không ổn. Bố lắc đầu: "Nhà có mỗi mình con, đừng chết.". Tốt nhất là nghĩ đến điều khác. Anh. Đúng rồi, anh cũng chết trong một trận bom tọa độ. Bom đánh trúng hầm. Đồng đội vất vả mới đưa được xác anh lên mặt đất. Tay anh vẫn khư khư chiếc bút máy Trường Sơn chị tặng. Có lẽ lúc ấy anh đang miệt mài với trang bản thảo. Nghĩ đến đấy, chị bỗng thấy trời lóe sáng. Chị nhắm chặt mắt. Có tiếng người lao xao. Đồng đội ơi. Người chị nhẹ bẫng. Sống rồi, chị òa khóc.

Ơ, sao người chị cứ trôi mãi thế này. à, chị đang đu quay ở công viên. Bị chóng mặt, sợ quá, chị thét lên gọi mẹ. Không phải mẹ. Mẹ không bao giờ vận áo trắng, mũ trắng. Tiếng ai đấy nhỉ? Lạ lắm: "Bốn mốt độ bốn. Mê sảng.". Bóng trắng nhòa đi. Chị trôi nhanh hơn. Hóa ra chị bị sốt. Đâu thế kia? Cầu Long Biên. Phải rồi. Vẫn còn khói bom khét lẹt. Cầu vừa mới bị bom bứng đi mất một nhịp giữa. Tiếng ai đó: "Trung đội khoa Văn đâu rồi? Nhanh lên. Văn với viếc các bố là chúa lề mề đấy.". Cháy. Rốc két bắn vào khu lao động Phúc Tân. Cháy ghê quá. Chị chạy ra mép sông. Xác một con đò vật vờ trên sóng, một đầu dềnh vào bãi cát. Chị chõ loa xuống mặt nước: "Có ai bị thương không?". Sông rền rền hú lại: "... Thương... không...". Chị bật cười. May, ai nhìn thấy thì chết. Đồng bào đang lâm nạn, mình lại cười, vô duyên thế. Anh vẫn mắng đùa chị vô duyên. Ghét thật. Đi mà tìm duyên khác mặn mòi. Mẹ bảo: "Con gái vô tâm hay cười, sau này lấy chồng sẽ khổ.". Mẹ ơi, thế thì con sẽ ở với mẹ suốt đời, lấy chồng làm gì cho khổ. Nhưng kệ, khổ mà được cười là tốt rồi mẹ ạ.”.

Chị vẫn trôi nhanh. Bây giờ có cảm giác chị bay thì đúng hơn, chị đã lên đến sân thượng. Anh đâu rồi, chậm thế. Ban nãy chị hỏi: "Có dám lên sân thượng chết cho tình yêu không?". Trả lời: "Mai tớ đi B rồi. Sợ đếch!". Chị từ nơi trường sơ tán cố về kịp để tiễn anh. May quá, còn trọn cả một đêm. Ngồi cạnh nhau, chị muốn tựa vào anh mà vẫn cố tình nhích xa thêm. Điệu thế mới là con gái. Anh hỏi: "Học khổ không?". Vờ vẫn, ai chả biết vừa tốt nghiệp đã được bổ làm phóng viên mặt trận. Đây mới năm thứ ba. Thời gian nhanh lắm nhé. "Ờ nhanh, nào hôn đi.". Phải mọi khi xem, chị sẽ làm bộ giận. Còn hôm nay, chị ngả hẳn người vào anh. Người đâu tham thế, ngạt quá. Còi hú. Mặc kệ. Còi lại hú. Báo động cấp ba rồi. Mặc kệ. Xoẹt trên đầu, sao nó bay thấp thế. Đạn cao xạ lừ lừ bay, nở đầy trời. Bom nổ, hắt lên những quầng sáng vàng vọt. Ngôi nhà tầng chao đảo. Anh áp thân thể che kín người chị: "Xuống nhé?". Không, chị lại cồn cào tìm môi anh. Mảnh văng rào rào. Anh gằn giọng: "Thôi đi xuống . Nguy hiểm lắm.". - "Anh sợ à?". - "Không. Anh lo cho em.". Chị lắc đầu. Giọng chị xa xôi: "Em muốn ở bên anh mãi mãi!". Lòng chị rộn ràng, chị xiết chặt anh như muốn truyền sang cho anh tất cả những gì chị có. Tình yêu. Cả thành phố lửa cháy rừng rực. Sân gác thượng hồng lên. Bỗng chị thảng thốt:

- Không! Không được đâu anh!

- Anh yêu em!

- Đừng, đừng. Đó là điều thiêng liêng. Em không muốn nó xảy ra vào lúc thảm khốc này.

- Em yêu. Mai anh đi rồi. Vào lúc nào nữa?

- Bao giờ chiến thắng, anh về và cưới em.

- Nhưng bao giờ thì chiến thắng. Mười năm hay một trăm năm?

- Em không biết.

- Chả nhẽ chúng mình cứ phải đợi mãi?

- Đừng, đừng nói thế. Hãy tin em. Tình yêu của em.

Sau đó chị khóc rất lâu. Anh thầm thì xin lỗi. Không, anh không có lỗi gì cả. Chúng mình yêu nhau cơ mà. Em chỉ muốn...

Hừng đông, trời đã rạng. Chị thấy thương anh vô cùng. Thành phố lúc ban mai trở nên yên tĩnh lạ thường. Dường như tất thảy những gì xảy ra trong đêm đều không phải là sự thật. Chị thấy tĩnh tâm trở lại. Anh cũng thế. Cái đêm đau đớn ấy của chiến tranh như đã lùi thật xa. Anh nồng nàn hôn chị. Chị hiểu rằng nỗi đau đớn của chia ly bây giờ mới thực sự bắt đầu.

*

* *

Trận sốt ác tính quật chị nằm hơn hai tháng trời tại bệnh viện của mặt trận. Bệnh tật tàn phá ghê gớm cơ thể chị. Nhưng điều đó cũng chẳng quan trọng lắm. Câu chuyện xảy ra bên bờ suối sáng ấy hằn vết vào tâm hồn chị. Chị nhớ lại ngày nhận được tin anh hy sinh. Chị đã nấc lên. Nấc nghẹn ngào mà không hề có nước mắt. Thì ra thế, nước mắt không thể dành cho những nỗi đau đến tận cùng. Anh ơi, đau đớn quá. Thời gian nào có xa, mới chỉ cách đêm chia tay không đầy ba tháng. Người chị rộc đi. Chị sụm xuống. Có lẽ những ngày ấy nếu không có mẹ, chắc hẳn chị đã hoàn toàn gục đổ vì tuyệt vọng. Tấm lòng của người mẹ từng nếm trải đau đớn của mất mát, với nỗi cảm thông vô bờ, đã tỏa truyền hơi ấm, sưởi nóng trái tim, tưởng chừng đã lạnh băng của chị. Chị xin phép mẹ đặt ảnh anh lên bàn thờ bố. Rồi chị tình nguyện vào chiến trường. Mãi mãi chị biết ơn mẹ. Chiến tranh khốc liệt đã nhanh chóng cuốn chị vào guồng quay khổng lồ của nó. Chị hy vọng bằng trách nhiệm của người lính, bằng thời gian chị sẽ phần nào nguôi ngoai nỗi đau đớn mất anh. Nhưng buổi sáng khắc nghiệt ấy đã tàn nhẫn quất mạnh vào vết thương của chị. Vết thương chưa kịp lành miệng lại bật ra, tứa máu. Anh có thế không? Nếu linh hồn anh đang lang thang với niềm tiếc nuối kia thì chị quả là có tội. Sao đêm ấy, chị không dâng hiến tất cả sự trinh bạch của đời con gái cho anh? Sao lại không? Chị ân hận quá chừng.

Ý nghĩa ấy ám ảnh dày vò chị. Buổi rời viện về đơn vị, một mình trên con đường mòn xuyên rừng, nỗi ám ảnh ấy càng gia tăng khủng khiếp. Cứ mỗi bước đi, chị lại thấy anh ở đâu đó. Lần thì chị thấy anh thấp thoáng sau một gốc săng lẻ già. Tiếng anh thoảng trong gió: "Anh yêu em!". Có lúc chị lại thấy anh bị treo lơ lửng giữa những tầng cây. Người anh đầy máu. Tiếng anh đứt quãng: "Bao giờ thì hòa bình hả em?". Chị cố bước thật nhanh không dám trả lời. Trong hoang vắng của rừng, cái hoang vắng mà từ lâu chị đã quen thuộc không hề sợ hãi, nỗi ám ảnh ấy cứ lớn mãi, lớn mãi, dày vò chị không ngừng. Có lúc không đành được chị phải dừng lại. Vẫn anh, cánh tay băng bó và khuôn mặt đầm đìa máu, tay kia anh thả từng trang bản thảo. Gió tạt những tờ giấy về phía chị. Tiếng anh: "Đọc đi em. Nhật ký chiến trường đấy. Có em nửa phần trong ấy". Chị ôm lấy đầu. Chị không thấy sợ hãi. Càng tuyệt nhiên không thấy trống vắng, cô đơn. Ý niệm cô đơn kể từ ngày anh mất đã không còn tồn tại trong chị. Chị dừng lại giản đơn chỉ vì thấy tủi thân quá. Chị òa khóc. Lẫn trong nước mắt, trong tiếng nấc nghẹn ngào, là âm thanh tức tưởi: "Nhưng tôi có tội tình gì?". Không có ai trả lời chị. Chị khóc càng lớn. Nỗi tủi quạnh dâng đầy. Khóc chán chị lại đi. Bây giờ chẳng có ai dỗ dành chị cả. Mẹ ở xa quá. Chị đi đến bờ một con suối rất rộng. Trong veo. Chị ngắm mình dưới nước. Chị bàng hoàng không nhận ra nổi mình. Sau cơn sốt chị như già đi hàng chục tuổi. Chị thấy cả bóng anh bên cạnh, anh tư lự. Chị thảng thốt: "Anh chán em rồi sao?". Thoắt cái bóng anh biết mất. Chị sợ hãi ngẩng tìm. Anh đã ở bên kia con suối. Tiếng anh xa rền: "Yêu em mãi đến ngàn năm!". Anh vừa dứt lời, nước suối bỗng réo ùng tục. Tiếng nổ rền rĩ phía thượng nguồn. Đất dưới chân chị rùng rùng chuyển. Nước biến thành màu máu đỏ, ào lên. Thôi chết, lũ, lũ lớn. Chị quáng quàng quay trở lại. Nước bén gót. Chị bám vội vào một thân cây leo thật nhanh. Bỗng chị giật mình. Có tiếng người ở trên cao: "Đừng sợ lính T10 đây. Chị ở kho binh trạm phải không? Lũ cường đấy, leo nhanh lên.". Nước tiếp tục dâng cao. Chị và người lính trẻ tìm được một chạc cây có thể nghỉ tàm tạm. Mưa tạt xối xả. Lẫn trong tiếng mưa, thoảng ầm ì tiếng động cơ máy bay C130. Tiếng ầm ì nặng dần. Phút chốc cánh rừng ngập nước bỗng run bần bật. Uột... ù... ộ... uột... Đạn bốn mươi ly vãi tung tóe từng tràng. Chị nép người dưới chạc cây. Một loạt đạn nổ sát sạt. Mảnh cây cứng ráp bị đạn băm trúng, văng khắp người chị. Lại một loạt đạn nữa gần hơn. Người lính đẩy chị xuống, lấy thân mình đè lên che cho chị. Chạc cây chao động. Một quầng lửa lóe sáng. Mái “tăng” hai người vừa căng để che mưa bị bốc gọn. Thiếu chút nữa cả chị và người lính trẻ đã bị hất tung xuống nước. Hơi thở người con trai xa lạ phả nóng rực một bên tóc chị. Chị có cảm giác mình đang ở trên sân thượng đêm nào và nỗi ám ảnh ấy lại ùa đến. Chị đột ngột quyết định. Chị vít mạnh đầu chàng trai áp vào ngực mình. Thực ra ý định dâng hiến sự trinh bạch của chị đã mãnh liệt ngay từ loạt bắn đầu tiên của kẻ thù. Có lẽ không phải thế, ý định ấy đã đến với chị từ trước. Nó hình thành ngay từ buổi sớm hôm nào bên bờ suối. Chị không hề đắn đo. Còn đắn đo gì nữa, biết đâu chỉ trong khoảnh khắc cả chị và người lính sẽ không còn. Chàng trai trẻ thế. Không, em ơi hãy nhận một chút ít tâm hồn chị để trở thành người đàn ông thực sự, để đừng phải mang niềm tiếc nuối giản đơn kia, nếu chẳng may em vĩnh viễn ra đi từ cuộc chiến tranh khốc liệt này.

Người lính thoáng chút ngỡ ngàng. Rồi anh chợt hiểu. Anh run rẩy áp thân thể thanh xuân của mình vào chị. Tràn ngập trong chị cảm giác hạnh phúc đến mãn nguyện. Chị nín thở cố giữ thật lâu niềm hạnh phúc ấy. Hạnh phúc ơi! Đấy là nỗi ám ảnh đã dày vò chị. Đấy là mất mát chia ly làm đau đớn chị. Đấy là niềm nuối tiếc trẻ trai, chị cần san sẻ. Đấy là sự dâng hiến của chị. Hạnh phúc. Dòng máu ấm, âm ỉ lan tỏa khắp cơ thể chị. Nước bỗng rút. Mưa bỗng tạnh. Đạn ngừng nổ. Tiếng máy bay câm bặt. Và thời gian ngừng trôi.

Chị hoàn toàn mãn nguyện. Sau này, khi có những chàng trai trẻ đi qua cuộc đời chị, trở thành đàn ông, chị vẫn giữ nguyên vẹn được cảm giác mãn nguyện của lần đầu tiên dâng hiến. Người lính trẻ xúc động tràn nước mắt: "Chị, đời con gái của chị...". Lúc ấy, chị khe khẽ lắc đầu. Hình như chị đã mỉm cười. Chị âu yếm vuốt tóc người lính. "Đừng khóc em. Kìa nín đi. Đàn ông sao lại khóc.". Chị thoáng thấy bóng anh. Mặt anh rạng rỡ. Nỗi ám ảnh nhẹ dần. Đúng là chị đã mỉm cười. "Suốt đời, không bao giờ em quên được chị". Chẳng cần phải thế đâu em. Chị hạnh phúc lắm rồi.

Cảm giác mãn nguyện của hạnh phúc làm chị vững tin. Vững tin đến lạ thường. Ngay cả lúc chị đứng trước cơn giận dữ của đồng đội đang kết tội, chị vẫn thấy lòng mình thanh thản. Chị im lặng đón nhận sự giận dữ tất yếu ấy.

Chị không một lời thanh minh. Thanh minh điều gì nữa. Mọi thứ đã rõ ràng. Chị thấy thương đồng đội của mình. Họ tốt quá. Họ vất vả vì chị. Chị biết ơn họ. Đồng đội ơi, tôi xin gánh chịu tất cả. Chỉ đến khi người ta lôi ra từ bồng của chị vài thứ kỷ vật nho nhỏ, những người lính để lại khi chia tay, thì lòng chị thực sự cồn lên. Mặt chị tái đi. Bất giác chị đưa tay áp vào vùng bụng. Ở đấy phát ra những nhịp thở mỏng manh, yếu ớt. Chiếc bút máy, tấm ảnh ghi dòng địa chỉ, một cánh bằng lăng ép khô, chiếc huy hiệu, cái lược từ xác máy bay, có cả một chiếc nhẫn bằng bạc để chị đeo kỵ gió... Từng khuôn mặt hiện lên. Họ đã trở thành đàn ông. Những người nào trong số ấy đã nằm xuống. Chị lảo đảo ôm chặt lấy bụng. Niềm hạnh phúc của chị đang quẫy đạp. Anh ơi, con của chúng mình...

*

* *

À ơi, con ngủ cho ngoan.

Chị sẽ được làm mẹ. Vào những lúc một mình, chị khe khẽ hát bài ru con. Chị mong nó sẽ là con trai để được mang hình hài anh. "À ơi con ngủ cho ngoan!", câu hát ấy lần đầu tiên bật ra trong giây phúc chị dâng hiến cho một người lính trẻ. Chẳng hiểu sao người lính ấy cứ mãi rúc khuôn mặt non tơ của mình vào ngực chị. Chị thấy âm ấm vùng ngực. Có một dòng máu rần rật chuyển. Ngực chị cương lên. Chị thấy lòng ấm áp quá. Cảm giác lạ lùng lần đầu tiên òa đến khiến chị xao xuyến. Chị thấy thân thể mình lớn vút và hồn mình rộng ra, rộng mãi. Cõi lòng chị mênh mông, bao dung. Có một cái gì đấy nhè nhẹ, nhè nhẹ... động cựa nơi bụng chị. Cảm giác ấy rõ dần. Chị thấy váng vất. Ý nghĩ về hạnh phúc được làm mẹ vụt đến lớn quá. Chị sẽ được làm mẹ! Và câu hát ru của ngàn đời, chẳng biết ký thác vào tâm hồn chị từ bao giờ, khoảnh khắc ấy bật ra, ngân nga: "À ơi con ngủ cho ngoan!". Cả chị, cả người đàn ông đang thiêm thiếp trên ngực chị đều sửng sốt, lặng đi trước lời ru dịu dàng của mẹ. Hạnh phúc! Chị sắp được làm mẹ.

Đêm nay, chị cố thức để khâu xong cho con bộ quần áo lọt lòng. Giá không có chặp bom lúc nửa đêm hẳn chị đã hoàn tất công việc. Vừa khâu chị vừa khe khẽ hát. Chợt một bóng người lao vào hầm. Đèn pin lấp lóe rọi thẳng vào mặt chị. Chị giơ tay. Bộ quần áo bé xíu thành tấm chắn luồng sáng độc ác. Chị không lạ gì hắn. Người đó cùng đơn vị. Từ lâu hắn đã khao khát chị. Rất nhiều lần chị đã thẳng thừng cự tuyệt nỗi ô nhục ấy. Giọng hắn rít lên khác thường:

- Sao? Cô không biết gì à? Trận bom vừa rồi tám đồng chí của chúng ta đã trở thành liệt sĩ. Vậy mà cô vẫn thản nhiên chuẩn bị cái công việc nhơ nhuốc kia. Thật xấu hổ.

Chị đứng phắt dậy. Chị có thể bị nhục mạ, có thể mất mát tất cả và chịu đựng đến cùng. Song, chị không thể để đứa con của chị, đứa con của những người lính bị xúc phạm. Ánh đèn pin quét xuống ngực chị. Linh cảm chẳng lành, chị lùi lại, lấy tay che ngực. Khoảnh khắc của dục vọng. Người đàn ông sấn đến, hổn hển: "Tôi đã giữ cô ở lại. Tôi đã bỏ qua cho cô tất cả. Hôm nay chúng ta sòng phẳng. Cô hãy cho tôi điều mà những người lính khác được làm.". Một cảm giác kinh tởm ập đến. Làm sao chị có thể chấp nhận điều nhục nhã ấy. Chị phải đâu sống cho đam mê của bản thân mình. Giọng chị đau đớn van vỉ: "Xin anh đừng làm thế. Đừng làm nhục đứa bé. Đừng làm nhục những người lính từng làm cha của nó. Có thể trong số họ có người đã nằm xuống. Xin hãy để linh hồn họ thanh thản yên nghỉ...". Chỉ kịp nói đến đấy, chị bỗng thấy mình tối tăm mặt mũi. Chị bị quật xuống nền đất. Chị giãy giụa thật mạnh. Chị chồm dậy được, cố nhoài tay với khẩu AK treo trên vách. Không kịp. Một lần nữa chị bị quật ngã. Lần này mạnh hơn. Chưa bao giờ chị phải gánh chịu đau đớn đến thế. Con ơi! Thế là hết. Mẹ không giữ được con rồi. Tha lỗi cho mẹ.

Chị bươn bả chạy khắp rừng. Trong đêm tối, không định hướng chị vẫn lần tìm được đến khúc suối dạo nọ. Ban mai. Sương bàng bạc. Nước bàng bạc. Da thịt chị cũng bàng bạc. Tất cả một mầu bàng bạc. Chị bất động giữa dòng suối như một pho tượng tạc vào thiên nhiên, im lặng tận hưởng đến cùng hạnh phúc và khổ đau vừa nếm trải. Chị khỏa nước nhè nhẹ. Chị áp tay vào bụng và chị hát thật khẽ: "À ơi con ngủ cho ngoan!". Chị thấy lòng mình ấm áp. Vào chính giây phút ấy, chị hiểu rằng, linh hồn anh không hề lang thang với niềm tiếc nuối. Anh đã bình yên an nghỉ. Và họ, những người đàn ông đi qua cuộc đời chị, có ai trong số đó đã hy sinh vì Tổ quốc, chắc chắn trước lúc vĩnh viễn ngã xuống họ đã nghĩ đến chị.

III

Khi tôi vào chiến trường, câu chuyện về người đàn bà ấy đã lan truyền khắp các hướng mặt trận như một huyền thoại.

Ở mặt trận phía Đông, người ta kể rằng, xác người đàn bà trôi dạt đến cuối nguồn. Phải đến tuần lễ sau mới tìm được. Không có một cỗ áo quan nào vừa thân thể chị. Phải hạ một cây dẻ to để lấy gỗ đóng hòm. Một trung đội công binh mất đến ngày trời mới hoàn thành nhiệm vụ. Đó là chiếc áo quan to nhất, xưa nay chưa từng có ở chiến trường.

Ở mặt trận phía Tây, người ta kể rằng, không biết bằng cách nào người đàn bà leo lên được và treo cổ chết trên ngọn cây chò lớn vài chục người ôm, cao đến trăm mét và sống đến ngàn năm có lẻ. Phải vất vả mới hạ được xác chị an toàn. Sau đó một hôm, không bom đạn, không gió, mưa, sấm, sét, bỗng dưng cây chò sập đổ. Trước đấy, kể cả B52 cũng không đánh gục được nó.

Ở mặt trận phía Nam, người ta kể rằng, sớm ấy, bất thần bom tọa độ chụp xuống khúc suối. Xác chị văng thành ngàn, vạn mảnh. Sau đó khu rừng trở nên tốt tươi kỳ lạ. Hoa lá, cỏ cây, chim chóc chen chúc ríu rít. Bom đạn, chất độc tàn phá thế nào cũng không hủy diệt nổi.

Còn ở binh trạm, người ta xếp chị vào quân số mất tích. Không ai biết gì hơn về số phận của chị.

*

* *

Tôi không có cách nào để trả lời cô gái. Có điều, tôi nghĩ rằng, người đàn bà năm xưa hẳn phải có một khuôn mặt dịu dàng, thánh thiện như cô sinh viên năm thứ tư này. Tôi đành câm lặng chịu lời kết tội là kẻ độc ác của cô gái. Duy nhất, tôi chỉ có thể làm được mỗi một việc, là viết lại câu chuyện này để ít nhiều tôn trọng một sự thật. Quyền phán xét nó thuộc về bạn đọc.

Các nhà văn đóng phim hãi lắm

Dạo còn ở sân văn chưa bước chân vào làng biên kịch, mít đặc cái món phim ảnh, tôi vô cùng hâm mộ cụ Nguyễn Tuân và Kim Lân. Hâm mộ ở cái nhẽ hai cụ là những bậc đại thụ văn chương thì rõ rồi nhưng thú thực sự xuất hiện của hai cụ trên màn ảnh mới là nhẽ chính. Kẻ hậu sinh như tôi làm sao có được vinh hạnh gặp gỡ Nguyễn Tuân cho nên được ngắm cụ trong phim dẫu chỉ là cái vai chánh tổng lên ngựa, xuống ngựa tôi coi đấy là diễm phúc hiếm có. Hiếm chứ, đọc vô khối giai thoại về cái sự “hách”, sự “chơi” lập dị của Nguyễn Tuân giờ lại được tường dung nhan cụ thì chí ít cũng tin những giai thoại kia là có cơ sở, “trông mặt bắt hình dong” mà lị, nom cụ Nguyễn trên phim oai vệ lắm, người tướng mạo như thế lại ngất ngưởng ở ngôi cao trong chốn “văn trường bút trận” như cụ có “hách” có “lập dị” cũng là phải lẽ.

Kim Lân thì khác. Vai lão Hạc cụ đóng cứ như không. Tài ơi là tài. Không hề phét lác, từ ngày nhỏ đọc Nam Cao trong trí óc tôi đã mường tượng, đã hình dung một lão Hạc đúng như vậy, không hề sai một vảy da, mấu mũi. Cái sự “giống” này chắc chỉ có duyên trời mới tạo ra được như thế. Ngoài đời, cụ Kim Lân không “hoàn cảnh” như lão Hạc, có một đời sống ung dung nhưng con người cụ luôn giản dị, thậm chí khiêm nhường và rất đỗi nhân hậu. Điểm này chắc chắn lão Hạc nếu có thật ngoài đời chắc phải gọi Kim Lân là sư phụ. Cho đến khi chuyển về làm biên kịch nghĩa là vào được tận nơi “phim cùng ảnh thẳm” biết mọi ngóc ngách ngón “nghề” tôi vẫn không hiểu tại sao cụ Kim Lân lại vào vai ngọt đến thế, sắc đến thế, diễn viên chuyên nghiệp cũng ít người sánh được với cụ. Không quá một chút nào, bằng vai lão Hạc trong “Làng Vũ Đại ngày ấy” cụ xứng đáng là nhà văn đóng phim hay nhất “mọi thời đại” ở ta từ xưa đến nay. Sau thành công vai lão Hạc, cụ Kim Lân có tham gia diễn một, hai vai nữa nhưng rồi cụ tiệt hẳn nghề diễn này. Nghe nói vì cách thức làm phim ở ta ngày càng nhuôm nhoam nên cụ…chán. Đã chán thì còn nói làm gì, đến văn chương không thích cụ còn gác bút nữa là. Riêng cái thằng tôi từ dạo được mục kích hai “tiền bối” đóng phim đâm dở chứng mơ ước hão huyền một ngày nào đó cái bản mặt ma chê quỷ hờn của mình được lên phim dẫu chỉ vài giây thì có chết cũng cứ gọi là sướng…hơn tiên.

Đạo diễn Quốc Trọng, một người rất ham mê và hâm mộ văn chương xuất thân từ diễn viên điện ảnh chuyên nghiệp. “Xuân tóc đỏ” trong phim “Số đỏ” là vai diễn nói không ngoa ngoắt chút nào quyết định toàn bộ cuộc đời Quốc Trọng. Vai diễn đã cách một vài chục năm nhưng bây giờ dù đã là một đạo diễn có thương hiệu thì Quốc Trọng vẫn không thoát nổi “kiếp nạn” tay nhặt banh ten nit “Xuân tóc đỏ” thuở nào. Tóc đã bạc trắng nhưng vào hàng bia, quán nhậu và những nơi công cộng, bất kì ai ( dù đấy là một gã choai choai tóc nhuộm xanh, vàng thời trang) đã xem phim thuộc mặt biết tên cũng đều ngoắc tay chỉ mặt: “Ê Xuân tóc đỏ, làm một li chứ”. Đại loại thế, sự mến mộ này khiến Trọng nhiều khi dở mếu dở cười. Anh ca cẩm khốn khổ cho cái kiếp “bán mặt”. Tôi đồ rằng vĩnh viễn Trọng không đi ra khỏi được cái bóng của “Xuân tóc đỏ”. Lan man về “Xuân tóc đỏ” vì gã đạo diễn mê văn chương này “đánh đu” với khá nhiều nhà văn. Và chính gã biến mơ ước của tôi thành hiện thực vào dịp Tết Mậu Dần 1998. Năm đó Quốc Trọng được Hãng phim truyền hình nơi tôi công tác giao làm một phim tuyện ngắn phát sóng vào đúng giao thừa có tên là “Đêm hội làng năm ấy”. Trọng nổi hứng mời tôi và mấy nhà văn bạn: Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Quang Lập, Phạm Xuân Nguyên vào vai các lý dịch tụ họp ở đình làng phân xử một vụ trai gái yêu nhau bị khép tội ngoại tình. Khỏi nói tôi sung sướng đến chừng nào. Trước đấy trong vai trò biên tập, biên kịch không ít lần tôi gợi ý khéo nhưng đạo diễn nào (kể cả kẻ mới ra trường làm phim tập sự) cũng đều thẳng thừng hoặc lịch sự từ chối “nhu cầu” làm diễn viên của tôi.

Trước Tết chừng một tháng, đoàn phim khởi quay ở một làng ngoại thành. Mấy vị nhà văn kia không hăm hở như tôi nhưng cũng có vẻ khoái. Bằng chứng là cả đám miệt mài đọc kịch bản, tỉ mẩn chọn quần áo. Nguyễn Quang Lập ‘tinh tướng” nhất bọn luôn mồm chỉ đạo (vị nhà văn này ở đâu cũng nổi trội vai trò thủ lĩnh). Cảnh quay có độ dài quãng vài phút nhưng phải chuẩn bị mất gần buổi sáng. Chúng tôi xúng xính khăn xếp, áo the. Trời lạnh run cầm cập “các cụ” diễn viên liên tục xuýt xoa…sử dụng đạo cụ thuốc lá, thuốc lào và trà nóng ( cả ruợu nữa). Chưa quay, họa sĩ bối cảnh đã phải liên tục tiếp tế, vừa làm anh ta vùa ca cẩm tốn kém. Tốn thật sự, trầu, nước chẳng nói làm gì, xưa nay những cảnh uống ruợu chỉ là cảnh đóng, nghĩa là rượu “dởm” bằng nước lọc hoặc nước trà đóng chai, đằng này đám diễn viên nhà văn dứt khoát đòi diễn bằng rượu thật. Thế nó mới không bị giả, hiểu chưa. Mới chỉ là tập thử trước khi bấm máy các cụ lý dịch này đã xơi tái cả chai rượu đạo cụ tổ bố, báo hại thật. Còn nữa, số quần áo chức dịch không biết nhân viên phục trang kiếm ở đâu ra vừa ẩm ướt lại vừa bốc mùi hôi két mũi. Trung Trung Đỉnh tính đánh bài chuồn nhưng bị Quốc Trọng phát hiện được, ngăn kịp.

Mãi rồi cũng đến lúc khởi quay. Ai cũng tưởng đóng phim sung sướng thế nào nhưng nội chỉ việc bị hết đạo diễn thị phạm đến quay phim, họa sĩ…quát tháo đã thấy khiếp vía. Chưa hết, lúc quay thật đám diễn viên nghiệp dư còn chí chóe cãi nhau phải vung tay thế này, phải quẹt trầu thế nọ. Lập mắng bạn diễn sa sả: “Ngu! Ăn trầu phải quẹt từ trên xuống. Bọ ăn trầu từ nhỏ bọ biết, Quảng Bình quê choa…”. Tôi không ăn trầu nhưng từ bà nội, bà ngoại đến mẹ tôi đều ăn trầu có bao giờ thấy ai quẹt dọc bao giờ mà phải quẹt ngang từ hai bên vào giữa nhưng làm sao tôi cãi lại được với ông “bọ” thủ lĩnh kia được đành thúc thủ nghe theo cho xong chuyện. Phạm Xuân Nguyên không quen ăn trầu say đứ đừ ngất xỉu khiến đoàn phim chạy tá hỏa suýt vỡ trận, vỡ lẽ ra vì vội nên ông “lý dịch” gốc Nghệ này vội…chưa kịp ăn sáng. Phải mất đến “đúp” thứ 8 cái trường đoạn “lịch sử” này mới quay xong. Diễn viên ho khù khụ vì trầu vì thuốc vì lạnh vẫn cố rặn ra hơi thở phào kiểu như xong một kiếp nạn. Thành phần đoàn phim còn sung sướng hơn nhiều, đói lòi mắt nhưng ai cũng tươi tắn như bắt được của, thoát nạn đấy mà. “Xuân tóc đỏ” mặt méo xệch chắp tay buột thành lời: “Con lạy các bố từ giờ Xuân này xin cạch đến già. Vái các bố ba lạy mong các bố tha cho nhà con sống, phim với phọt hai đận thế này chỉ có nước giải nghệ.”. Đã hết đâu, bấy giờ đã qua ngọ từ lâu, đám diễn viên nhà văn nhất định không chịu nhận phong bì cát xê, dứt khoát bắt đạo diễn trả thù lao bằng…nhậu. Phải nhậu thôi, đời nào bạn bè lại lấy tiền của nhau, thế thì có khác gì người dưng nước lã. Khốn khổ cho gã nhặt banh mất đứt buổi quay chiều để trả nợ diễn viên. Cả chủ lẫn khách say đứ đừ đư đúng như cảnh lý dịch phạt vạ đánh chén tại đình làng trong phim.

Phim chiếu đúng giao thừa. Đám diễn viên loạn xị gọi điện từ Bắc vào Nam kêu gọi bạn bè…xem ủng hộ để gỡ gạc lại cái “đận” đóng phim kinh hoàng kia. Mấy lão bạn thế nào không biết, riêng tôi tiền điện thoại tròm trèm mất cả nửa triệu và điều này mới tai vạ. Sau khi trút được bộ quần áo ẩm xì kia người tôi dị ứng phát ban. Sau thì phát hiện bị ghẻ, phải vất vả gãi…chữa lử lả đến ngót tháng trời. Không thành văn nhưng sau đó các đoàn phim kiên quyết không chấp nhận mời nhà văn đóng phim. Đám nhà văn diễn viên không tuyên ngôn nhưng từ đấy tịnh không ai nhắc đến chuyện đóng phim đóng phiếc nữa. Trước đó Nguyễn Quang Lập có ý định làm một phim để chơi, chuyển thể từ truyện ngắn “Đôi mắt” của Nam Cao với tiêu chí tất cả các thành phần chính từ biên kịch, đạo diễn đến diễn viên đều là nhà văn nhưng từ bấy đến nay sau rất nhiều kịch bản đã dàn dựng, cái phim trong mơ kia chưa bao giờ được Lập nhắc lại. Trung Trung Đỉnh bị nhiễm lạnh viêm phổi oán không biết trút vào đâu, từ đấy ở nơi giao tiếp nào, bao giờ cũng xỏ xiên giới thiệu tôi là biên kịch chứ nhất định không gọi nhà văn. Phạm Xuân Nguyên còn tệ hơn. Sau khi đóng phim, gã lẳng lặng chuồn khỏi chức danh cộng tác viên ăn lương của Hãng phim và đến tận bây giờ gã vẫn ác cảm với phim ảnh bằng cách “chê” không tha một phim nào. Tôi ngờ rằng cú ấy dứt khoát tên Nguyên cũng bị ghẻ như tôi nên mới “thâm thù” dai ban như vậy. Còn tôi vẫn bám trụ với nghề biên kịch nhưng tuyệt nhiên không bao giờ dám vác mặt tới phim trường nữa (trừ một lần vào vai đánh bạc vì tiếc cái đầu trọc mới cắt, xin hẹn viết vào một dịp khác).

Nhưng nói thật lòng tôi vẫn vô cùng ngưỡng mộ hai cụ Nguyễn Tuân và Kim Lân trong phim. Và nữa ước mơ của tôi dẫu đã tắt nhưng tôi lại dở người nung nấu na ná ý Nguyễn Quang Lập, một ngày nào đó viết được một kịch bản tâm đắc tự mình thủ vai chính, biết đâu tôi sẽ trở thành nổi “mặt” như gã “Xuân tóc đỏ” tội nghiệp kia. Tại sao không?

Tai nạn

Thành phố giờ tan tầm là một tổ kiến hổng bị vỡ đen đặc những người là người. Chưa bao giờ lại sẵn người như bây giờ. Nhìn kìa, xe cộ người ngợm đan vào nhau ào ào chuyển động hoặc như lốc cuốn hoặc tắc nghẽn dí dị ép vào nhau bết bệt thảm hại. Một đàn kiến vĩ đại khổng lồ và hỗn loạn. Ai cũng cố tranh cướp để lấn đường, để lán để vượt dù rằng thời gian bây giờ đâu phải là thứ quý giá nhất.

Đại lộ chính từng được phong thần bằng tấm biển gắn trên bức phù điêu sừng sững nơi giao lộ: con đường mẫu, đẹp nhất, sạch nhất thành phố, giờ cũng chung số phận. Đông đặc và nghẹt thở. Tuy thế, nhờ có dải phân cách nổi nên trật tự phần nào được thiết lập. Mỗi chiều đường hai làn xe, ô tô ở giữa, xe máy bất kể làn, cứ thế thành một khối chuyển dịch. Khói bụi và ỗn ã âm thanh. Bỗng kịch mạnh lạnh cả người. Tiếng va chạm khô khốc. Người văng ra nằm sõng soài. Chiếc xe máy lật ngửa.

Tai nạn, tai nạn rồi. Nhoằng một cái, thủ phạm của cú va chạm kia-có lẽ thế-là một chiếc xe máy khác đã rồ ga vút lên lạng lách rất tài. Chỉ loáng nhoáng nhìn thấy tấm lưng trai trẻ uốn lượn trên yên xe.

-Bắt, bắt lấy nó.

-Bắt…bắt…

Bắt vào mắt. Chiếc xe máy đã mất dạng. Cũng chả có ma nào đuổi. Có đuổi cũng giời thánh mà kịp. Khốn khổ cho nạn nhân. Nằm sấp. Mái tóc buông gần kín chỉ hở ra một phần bầu má trăng trắng căng tràn. Một cô gái trẻ. Máu kìa, ri rỉ bò chầm chậm lan dần từ bầu má xuống mặt đường nhựa. Thân người sõng sượt không một dấu hiệu cử động.

-Chết rồi. Có lẽ chết.

-Nằm im thế kia. Không nhúc nhích. Chắc chết!

-Hay là ngất. Đập đầu rõ mạnh.

-Máu! Kìa máu!

Trên hè phố nhanh chóng hình thành một đám tụ tập chỉ trỏ bàn tán. Họ từ những ngôi nhà gần đấy? Khách bộ hành? Không thể biết! Nhưng mà đông. Rất đông. Xúm xít tít mù.

Chướng ngại bất ngờ trên đường khiến dòng chảy ô tô, xe máy tõe thành đôi. Ô tô lừ lừ tiến theo vệt đường sát dải phân cách. Xe máy bám lề thành khối riêng không thể dừng lại. Trời đông lất phất mưa rây. Tiếng bình phẩm trên hè dồn dập.

-Chết! Chết thật rồi.

-Gọi cấp cứu đi.

-Gọi! Gọi cấp cứu.

Ai gọi? Đám đông trên hè vón cục lại. Xe cộ vẫn tõe thành hai dòng, trôi qua chướng ngại lại nhập thành một. Có chiếc ô tô nhấn phanh. Lập tức còi bóp inh ỏi. Một chiếc xe máy ngần ngừ. Cả khối đen đặc phía sau dích lên cuốn đi. Không một chiếc xe nào dừng lại. Nạn nhân vẫn bết bệt trên nền đường nhựa. Và mưa. Lất phất, lây rây đủ láng ướt mặt đường.

-Thế nào bây giờ?

-Phải làm gì chứ?

Nghi vấn, khơi gợi. Mặc kệ. Đám đông vỉa hè không nhúc nhích. Nhưng kìa, từ bên kia đường một bóng người lao sang. Vất vả người thanh niên cũng vượt được qua dòng chảy người xe bất tận. Qua dải phân cách, người thanh niên lách, nhảy. Ơn giời, anh ta đã đến được bên nạn nhân. Rất nhanh anh cúi xuống xốc cô gái lên. Khuôn mặt nạn nhân đã thấm đẫm máu. Người thanh niên bế cô gái quỳ hẳn gối xuống đường, tay khua rối rít. Tiếng anh gào thất thanh.

-Dừng lại đi. Dừng lại.

Sự việc xảy ra quá nhanh. Đám đông trên hè không kịp buông một lời bình phẩm. Hình ảnh người thanh niên quỳ giữa đường như một biểu tượng lay thức nhân tình. Hiệu ứng lan truyền. Ngần ấy người ào xuống đường chặn đứng dòng sông xe cộ. Hai, ba người cùng xúm tay vào cô gái.

-Chặn một chiếc xe con.

-Bệnh viện gần ngay đây thôi.

-Chặn đi.Chặn!

-Nhanh, kẻo nguy mất.

Không khó khăn gì, cô gái được đưa lên xe. Lại vẫn hai, ba người hăng hái theo hẳn lên cho nạn nhân vào bệnh viện. Chiếc xe máy tai nạn được khiêng lên vỉa hè giao cho người trông cẩn thận. Đại lộ tắc nghẽn. Mấy bóng cảnh sát giao thông áo vàng trờ đến.

Trật tự đã vãn hồi. Đại lộ mẫu hoàn toàn thông thoáng. Dòng người xe lại ầm ào lao như cuồng như không hề biết có một tai nạn, một bi kịch vừa xảy ra. Nhưng trên hè đám đông vẫn còn nấn ná. Bây giờ thì họ đã có đủ thời gian để bình phẩm. Sao thế nhỉ, cái việc cứu người, ai cũng biết, ai cũng thấy vẫn phải đợi một hành động cụ thể. Cô gái nguy kịch cũng có thể không sao. Cái thằng trời đánh lạng lách đánh võng nữa. Bắt được nó phải tùng xẻo. Mọi ánh mắt dồn vào chàng trai trẻ. Máu của cô gái loang thành vệt trên áo. Một bà hảo tâm te tái chạy về nhà lấy hẳn chiếc khăn bông mới đưa cho chàng trai. Nụ cười bẽn lẽn. Anh ta lau qua quýt rồi lững thững bỏ đi. Tất cả nhìn theo. Không biết anh ở đâu, tên gì nhưng thế cũng đủ ấm lòng giữa ngày đông buốt giá. Một anh hùng vô danh. Đích thị thế, người thanh niên cứu nạn kia thật sự là một người anh hùng trong lòng những người chứng kiến.

***

Ẩn lặng, khuất lấp là phẩm chất số một của anh hùng vô danh.

Người anh hùng vô danh của chúng ta đang lững thững trong một ngõ nhỏ gần đại lộ mẫu. Ngõ vắng lặng. Người anh hùng bình thản rút tay từ túi quần ra. Trên tay anh ta bây giờ là một chiếc nhẫn vàng hai chỉ còn nhấp nhánh máu.

Liệu đây có gọi là một tai nạn?

“Đường chúng ta đi”

Tản bút

Xin lỗi nhà văn Nguyên Ngọc khi tôi mượn cái tên tuỳ bút “Đường chúng ta đi” rất nổi tiếng dạo chiến tranh chống Mỹ của ông để đặt tít cho bài tản bút này. Sở dĩ phải mượn vì chẳng còn cái tên nào khả dĩ hơn dù rằng cùng là con đường nhưng con đường mà người lính nhà văn Nguyên Ngọc cùng những thế hệ thời của ông đi mấy chục năm trước xuyên qua chiến tranh đến với cái đích chiến thắng giải phóng đất nước, khác xa một trời một vực với con đường tôi đề cập trong bài viết. Con đường nào vậy? Xin thưa rất đơn giản là con đường chúng ta đi hàng ngày trong thành phố để đến với công sở, trường học, nhà máy… đến nơi mà mỗi người hoặc là để kiếm sống, hoặc là để học tập, làm việc hay thư giãn nghỉ ngơi và rồi hết mỗi ngày lại ngược trở lại hành trình về với ngôi nhà của mình. Con đường hôm nay chúng ta đi không có hy sinh, tất nhiên! Nhưng mất mát thì chẳng thiếu, tai nạn xảy ra hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm nếu thống kê lại chẳng thua gì cái giá phải trả cho chiến thắng của một trận đánh lớn. Gian khổ cũng không! Có cái gì việc đi lại mà gian khổ nhưng cũng đừng đùa, đầy rẫy khó nhọc gian truân đấy, thậm chí còn là nỗi ám ảnh khôn cùng. Và nữa, người lính của con đường năm xưa trước giờ ra trận đầy trăn trở ý thức, cảm xúc trào dâng đến độ thiêng liêng của dâng hiến tự nguyện thì chúng ta hôm nay trước mỗi lần ra đường không trăn trở nhưng phải toan tính, chẳng xúc cảm dâng hiến cũng phập phồng tâm trạng, căng thẳng âu lo.

Tôi có may mắn được sinh ra và bây giờ được sống ở Hà Nội. Cái thành phố thân yêu của tôi dạo nào nhỏ bé, cổ kính giờ đã hoá thạch trong ký ức tuổi thơ. Thay vào đó là một Hà Nội mở rộng, lớn lao vô biên trong mọi ngóc ngách ngữ nghĩa. Khu phố cổ thu mình lại ẩn dật, mặc cảm trước sự lấn lướt của đô thị hiện đại hoành tráng xô bồ. Những đại lộ dọc ngang như những cánh tay chi chít vươn ra tứ phía cùng những cao ốc, chung cư bề thế khiến Hà Nội già cỗi như được hồi sinh trẻ lại. Và người! Dân số thành phố của tôi đông đúc thêm từng ngày. Đất rộng ra, người đặc lại vì tất tật cùng nhau nắm tay tiến vào trung tâm. Cuộc sống đi lên, chiếc xe đạp thứ tài sản quý giá dạo nào giờ thành cổ tích với những tiện nghi thời thượng xe máy, ô tô. Quy luật! Sự đi lên nào cũng là quy luật. Nào có ai chối bỏ nó. Bây giờ thật hiếm nhà nào không có xe máy. Ô tô cũng không còn là thứ phương tiện xa xỉ, có rất, rất nhiều người đang sở hữu thứ tiện nghi hiện đại này. Nói vậy để thấy rất nhiều gia đình Hà Nội “tàng trữ” cùng lúc một tập hợp các phương tiện đặc trưng của mỗi thời. Tất cả dồn lên đường phố. Những con đường Hà Nội gồng oằn mình gánh cả biển người cùng phương tiện. Không cần phải liệt kê, phải kể lể, tôi vốn không thích những con số, càng không phải làm cái việc điều tra chi tiết tình trạng giao thông, tôi chỉ muốn nói ra, viết ra cái tâm trạng ngổn ngang khi đi trên đường của mình hiện giờ.

Đường chúng ta đi, tôi thật sự muốn nói đến điều đó. Khi đi trên đường, nhân dân chúng ta đang làm những cuộc hành quân vĩ đại mỗi ngày. Trí tưởng tượng dù ít ỏi đến đâu ai cũng có thể hình dung ra cả biển người như nước loang tràn chảy lấp kín mọi chỗ. Một ngã tư, một đại lộ, một hẻm ngõ, ở đâu, lúc nào chỉ cần một chướng ngại bất kỳ là đoàn người ( tất nhiên phương tiện) lập tức khững lại, rồi cứ thế rùng rùng di chuyển tiến về phía trước bất chấp phải trái, bất chấp luật lệ. Tiến, tiến lên cứ những kẽ nứt hở mà tiến, ôi đoàn người hùng mạnh có khác gì đoàn quân xung trận dạo nào. Họ dồn cục, đối đầu trong cái thế của dê đen, dê trắng húc nhau qua cầu trong câu chuyện ngụ ngôn, chẳng ai chịu ai. Và thế là tắc, là ùn là cãi là vã, là vô thiên lủng những chuyện rắc rối xảy ra. Không quá chủ quan khi khẳng định có đến tám, chín chục phần trăm tắc đường và tất tật các vấn nạn giao thông là do đám đông chúng ta thiếu ý thức. Không còn sự nhường nhịn, không còn luật lệ, buồn thay đó là thực trạng đã thành báo động đỏ. Đấy chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến sự hỗn loạn giao thông hiện nay. Tất nhiên còn nhiều thứ khác. Nhỏ là vài ba cái biển báo đặt bất hợp lý, dăm bẩy cái ngã tư đèn tín hiệu vô tác dụng, lớn là chế tài xử phạt lỗi thời, cứng nhắc, là quỹ đường ít ỏi so với số lượng khổng lồ của phương tiện. Ti tỉ thứ khác nữa nhưng tất cả chẳng là gì so với ý thức của nhân dân chúng ta trên những con đường.

Nhà tôi ở Mai Động. Nơi làm việc của tôi là Đài truyền hình Việt Nam. Chặng đường chỉ ngót nghét chục cây số nhưng với tôi luôn luôn là một thử thách lớn lao không vượt không được. Ấy là nói vào giai đoạn hiện tại, nghĩa là chỉ tính tròm trèm quãng vài chục ngày nay kể từ mốc các công sở Hà Tây sáp nhập vào Hà Nội để công chức hai nơi nhập vào làm một tấp nập xuôi ngược đi về. Đó là mới chỉ tính công chức bắt buộc phải đi lại làm việc thường nhật chứ chưa dám kể tới lực lượng đông đảo quần chúng nhân dân vì nhiều lý do buộc phải vào nội đô để hoàn thành nghĩa vụ bổn phận của một công dân Thủ đô mới. Trước đấy, tình trạng giao thông Hà Nội cũng đã ngột ngạt căng thẳng nhưng tình hình không đến nỗi ách tắc nghiêm trọng như bây giờ, đặc biệt là từ ngày khai giảng năm học mới. Tôi đã ngoài năm mươi tuổi, việc đi đứng qua lại không còn hùng dũng mà đã co lại rụt rè nói theo ngôn ngữ vỉa hè là “cóng”. Hoàn toàn đúng, cóng, rất cóng. Không cóng hoạ có là mất trí khi đi trên đường cùng với thập cẩm các loại phương tiện cố sống, cố chết lạng lách giành giật nhau từng tấc đường. Đời sống khá lên, một bộ phận người dân đã không còn phải so đo tính toán hôm nay ăn gì, mặc gì. Không còn canh cánh lo ăn lo mặc mỗi ngày nhưng “đi” gì thì có đấy. “Đi” ở đây nghĩa là phải lựa chọn phương tiện phù hợp với công việc của ngày hôm ấy và chọn con đường nào để ta đi cho nó thông đồng bén giọt. Mỗi người trước thực trạng đi lại hiện nay luôn biết tạo ra cho mình phản xạ thích ứng nhanh nhạy với hoàn cảnh để tìm ra phương cách di chuyển hữu hiệu nhất.

Thôi, không nói trời nói bể cứ suy từ thằng tôi ra cho nó tiện. Tôi thừa kinh nghiệm trong những chuyện này. Tốt nhất là đi thật sớm, Hà Nội trước 6 rưỡi sáng đường khá thoáng. Đi vào giờ này dùng loại phương tiện gì cũng được. Nếu phải đi đúng giờ tầm, dễ thôi, hãy chọn một con đường mình đi quen nhất để luồn lách, hãy tránh xa những giao lộ không có cảnh sát giao thông. Ở những điểm đó dứt khoát tắc ùn vì “dê đen dê trắng”. Nếu là đường độc đạo phải đi qua những “điểm đen” nổi tiếng thì chỉ cần tính toán thời gian dôi ra chút ít là ổn, bởi những điểm này luôn túc trực đông đảo bóng dáng áo vàng cảnh sát. Yên tâm, chỉ ùn chậm lưu thông chứ không thể tắc. Còn nữa, nếu không bị câu thúc thời gian thì hãy tìm quán cà phê nào đó nhấm nháp đợi hết giờ tầm. Chao ôi, thật là cách rách, thật kinh hồn táng đởm. Đã có bao nhiêu dự án tiền tỉ, bao nhiêu cơ quan tham mưu, bao nhiêu chỉ đạo sâu sát, cực nhọc nhất là công lao của bao nhiêu người, đêm ngày bám mặt đường gìn giữ trật tự giao thông nhưng vẫn cứ đâu hoàn đấy, tắc vẫn hoàn tắc, tử vẫn hoàn tử. Thời gian tiền bạc của cá nhân, của xã hội nhìn thấy bay đi một cách vô công mà xót xa bất lực.

Không phải chúng ta không nhìn thấy những vô lý trong phát triển giao thông, thậm chí nhìn rõ sự chậm trễ tiến độ của một vài công trình cầu đường có thể coi đó là tội ác, ai cũng biết dù đã rất cố gắng thì hàng trăm cán bộ chiến sĩ cảnh sát giao thông cũng chỉ như muối bỏ bể so với cả biển người, phương tiện hỗn loạn hàng ngày, biết hết nhưng chúng ta đã làm được những gì?

Thay vì đi gặp những người có trách nhiệm, những cơ quan có trách nhiệm để kiếm tìm tài liệu như hàng trăm đồng nghiệp đã làm, tôi lái xe lao vào đưòng cấm cố tình mắc lỗi vi phạm để làm một tét thử. Phạt, tất nhiên. Giấy tờ bị giữ. Phương tiện được dùng để đi đến kho bạc nộp tiền phạt sau đó quay lại nộp biên lai nhận lại giấy tờ. Vô lý! Nhanh cũng phải mất hàng tiếng đồng hồ. Tại sao lại không phải là những tờ biên lai trực tiếp do cảnh sát giao thông xử lý ngay tại hiện trường. Một sự lãng phí thời gian quá lớn. Cả phiền phức nữa cho người đại diện pháp luật xử phạt và người bị phạt. Chính sự phiền phức này đã tạo ra những kẽ hở để pháp luật bị mất đi tính công minh. Một cú điện thoại, một tấm thẻ ngành, một nhà báo, một nghệ sĩ quen mặt, một quan hệ quen biết và ai dám đảm bảo không có sự dích dắc về tiền bạc chỗ này. Chính cơ chế xử phạt đã gián tiếp làm luật lệ xói mòn. Mức xử phạt cũng vậy, quá thấp. Tôi cứ giả dụ một người đi xe máy vượt đèn đỏ, lỗi ấy trảm bằng tờ biên lai có giá trị hàng triệu đồng bằng nửa tháng lương của người lao động bình thường, liệu cái người ấy có dám vi phạm khi chính anh ta có mức lương như vậy. Không đời nào. Chúng ta đang hướng cả xã hội theo kinh tế thị trường vậy tại sao không thị trường hoá quy định xử phạt. Nâng mức phạt lên gấp năm, gấp mười cũng có khác gì giá xăng, giá điện, giá gạo, giá muối đang tăng. Phạt, phạt thật nặng, bất kể giầu nghèo, tôi đồ rằng khi phải móc ví ai cũng như ai đều không thể xem thường. Điều đó có nghĩa khi ai đó định lấn trái, định vượt đèn đỏ, định lạng lách đi vào đưòng cấm, vân vân và vân vân tóm lại là những hành vi nhờn luật sẽ không có cơ tồn tại. Quy định chính là một dạng của luật lệ. Con người làm ra luật lệ thì tại sao lại không thể sửa đổi nó?

Sẽ có người phản biện lại, dào ôi vẽ chuyện, người đâu mà duy trì ở tất cả các nút, mối giao thông để mà xử với chả lý. Có một thực tế thế này, ngã tư nào không có cảnh sát thì ở đấy hệ thống đèn tín hiệu không còn hiệu lực. Cũng chính là luật lệ không còn hiệu lực. Dân ta không sợ luật mà sợ cảnh sát tức là sợ phạt. Đừng ảo tưởng dùng các biện pháp tuyên truyền giáo dục có thể nâng cao được nhận thức và tính tự giác của người dân. Đúng là phòng cảnh sát giao thông Công an Hà Nội không đủ lực lượng để rải đều khắp thành phố mà chỉ tập trung vào những nút giao thông trọng yếu. Còn những lực lượng khác thì sao? Công an phường nào chả có một ô tô sáng sáng, chiều chiều chở quân đi dẹp hàng rong vỉa hè. Không suy bì so sánh nhưng hàng rong vỉa hè sao nguy cấp bằng tắc nghẽn giao thông, hãy ưu tiên cái gì cần thiết hơn. Cấp quận nữa, quân số chẳng phải dư thừa nhưng cũng không thể nói không huy động được cho nhiệm vụ tối quan trọng này. Tại sao lại không thể sử dụng những lực lượng này cho nhiệm vụ cảnh sát giao thông? Hãy mạnh dạn giao quyền cho họ bằng chính những tập hoá đơn xử phạt trực tiếp. Tại sao công an thành phố không quy hoạch địa bàn cho từng địa phương cụ thể? Cấp Phòng của Sở đảm nhiệm những vị trí then chốt, trọng điểm trong thành phố. Quận lo địa bàn quận với những địa điểm quan trọng thứ hai sau cấp Sở. Còn phường nhận nốt phần còn lại. Sẽ nảy sang chuyện kinh phí. Không khó, kinh phí lấy từ tập hoá đơn tiền phạt kia, tiếc làm gì dăm ba chục phần trăm trích ra cũng trực tiếp từ những tấm hoá đơn phạt. Cái được sẽ lớn hơn rất nhiều.

Có lạc quan không khi ai đó nói rằng nếu thay đổi chế tài xử phạt, nếu địa bàn hoá và nói vui kiểu nghệ thuật “xã hội hoá lực lượng” thì một ngày nào đó sẽ không còn nhiều vi phạm, lúc đó kinh phí đâu ra để duy trì lực lượng. Nếu được như thế, tôi tin rằng xã hội sẽ mở hầu bao, ngân sách sẽ mở khoá két. Bởi vì ít người vi phạm đồng nghĩa với việc đường sẽ thông thoáng, cùng với những điều kiện khác trả lại cho giao thông Hà Nội sự yên bình vốn có.

Đó dầu sao cũng chỉ là một ước mơ không phải của riêng tôi. Dù chỉ là ước mơ thì đêm nay tôi cũng đã thức trắng để viết những dòng này. Như người lính trong “Đường chúng ta đi” với một đêm trăn trở để sớm mai ra trận bằng niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng “Sáng rồi. Phương Đông rực rỡ một màu hồng chói lọi.”, tôi cũng vậy, sáng mai đây, khi lái xe ra đường, tôi tin con đường của chúng ta đi sẽ không còn tắc nghẽn. Vẫn biết đó chỉ là giấc mơ./.

XÍCH CHÓ

Truyện ngắn

“Kẻ nào không yêu súc vật, kẻ đó chẳng yêu nổi con người.”. Ông hàng xóm của tôi khi nào cao hứng đều tuyên ngôn như vậy.

Ông có thú nuôi chó. Nhiều đời chó ông nuôi tôi đã được chứng kiến, thôi thì đủ hết các loại tuần tự, có loại chó gì ông nuôi loại đó. Con chó phốc hiện tại của ông bé quắt chỉ to hơn cổ tay của tôi một ít nhưng khôn lọc, khôn lõi. Điều này tôi đã được mục sở thị. Con phốc đang chễm trệ trên lòng ông chợt tru lên thảm thiết. Đang tiếp trà tôi, ông cười hì hì bảo nó buồn tiểu. Sau đó ông mời tôi vào xem. Cửa toilet mở, con phốc phóng vào, tót lên bệ xí và thật kỳ lạ, nó ghếch chân đái roè roè không để văng một vẩy nước ra ngoài, sau đó nó dùng mõm đẩy cái gạt giật nước. Ông viên mãn một cách nghiêm trọng: “Nhà văn thấy chưa, cái này nhân loại gọi là thuần hoá. Bất kỳ một nền văn minh nào cũng có thể tiếp nhận được dù đó là đối tượng gì. Cái chính là văn hoá ứng xử trong tiếp nhận”. Khoản này, tôi không có gì để tranh luận nổi với ông. Tóm lại tôi kính trọng tình yêu súc vật của ông và chạnh lòng về nhà mình. Tôi cũng quý súc vật nhưng sợ chó vì bị tiêm chó cắn phòng dại một lần hồi nhỏ đủ hai mốt phát vào rốn. Tôi chỉ thích mèo vì yêu đặc tính hoang dã không khuất phục của nó. Đã ai sai được mèo làm gì chưa dù nó đã sống với con người từ hồi tám hoánh. Hồi chưa lấy vợ, tôi thậm chí còn cho cả mèo nằm ngủ cùng giường, để đến nỗi một lần cu cậu nhờn, vác cả chuột tẩn trên bụng tôi, khiến tôi bị một phen kinh hồn táng đởm. Dù vậy tôi vẫn thích mèo đến mức rước về một cô vợ tuổi mão, và đẻ cả hai cô con gái cùng cầm tinh mèo. Tuy nhiên tai hoạ lại đến từ đám tinh mão ấy. Vợ tôi nhất quyết bài trừ súc vật trong nhà, kể cả mèo vì sợ tật bệnh. Cúm gà đấy thôi, còn biết làm thế nào, được vợ thì mất thói quen, bởi thế tôi thán phục những người như ông hàng xóm ghê gớm. Suy cho cùng không có loài vật sống cùng, con người chắc phải cô đơn lắm, thế mới có bảng mười hai con giáp ứng với tuổi người. Không có tình yêu kiểu như ông hàng xóm thì đúng thật là gay go to.

Nước nôi thành phố càng ngày càng tệ. Khu phố tôi ở mất nước soành soạch. Thiếu nước, niềm tự hào của ông hàng xóm thành báo hại. Con phốc tinh khôn giật nước liên tục khiến ông buộc phải thay đổi. Đúng như ông nói, con phốc thích nghi nhanh chóng với văn minh đứng đường. Chỉ có điều nó đại, tiểu tiện bao giờ cũng chếch sang cửa nhà khác chứ không chịu làm vấy bẩn cửa nhà mình. Những phiền hà này thật không đáng kể với tình yêu của ông nhưng thật sự làm hàng xóm khó chịu. Mọi người góp ý nên xích nó lại không để tự do như thế. Ông thanh minh con chó quá nhỏ không có xích cỡ đó, còn dùng thứ khác xích buộc, nom tội nghiệp và tàn nhẫn không chịu nổi, ông đang nhờ người làm xích chưa được. Chuyện rồi cũng qua. Đến một hôm, tôi đi công tác nước ngoài, vào một chợ chó, thấy cơ man là chó và xích, chợt nhớ ra ông hàng xóm, bèn mua một sợi xích nhỏ rất xinh, làm bằng thép không gỉ. Hôm về nhà chưa kịp sang tặng thì nhà ông hàng xóm có chuyện. Nguyên ông có cậu con trai thi đại học trượt. Cậu này được ông đầu tư khá lớn, gần như nuôi nhốt trong nhà, thuê gia sư dạy dỗ nhưng trượt vẫn hoàn trượt. Hàng xóm kinh hãi vì cơn phẫn nộ của ông. Đang trút nỗi thất vọng vì bị xúc phạm như lời ông chửi thì khốn kiếp, con phốc chạy lăng xăng bị ông dẫm phải, cáu tiết tợp đến oẳng một cái vào chân ông. Hàng xóm tá hoả khi thấy ông lăm lăm con dao trong tay, rượt theo con chó nhỏ. Con phốc hụt hơi và hơn cả kinh hoàng khiến nhiều người nhắm mắt. Ông hàng xóm phập một nhát sắc ngọt đứt đôi con phốc.

Tôi hoang mang vì mâu thuẫn nơi con người ông hàng xóm, càng không đủ can đảm tả lại cú chém của ông. Tối ấy buồn, tôi uống ruợu thật say, lần mần mang sợi dây xích giờ đã thành vô dụng ra ngắm. Tự nhiên tôi nghĩ đến con mèo từng ăn thịt chuột trên bụng tôi dạo tôi chưa lấy vợ.

“Ma làng” và thi sĩ bạc mệnh

(Rút từ tập: “Chân dung của ruợu”-Phạm Ngọc Tiến)

I

Sẽ không có những dòng viết này nếu như Ngô Đăng Khoa, vị thi sĩ tôi gọi là bạc mệnh khi anh từ giã cõi đời ở cái tuổi 55 không còn trẻ nhưng chưa hẳn già với sự khắc nghiệt tận cùng của số phận. Không thể không cầm bút viết ít dòng tri ân về anh, bởi nếu không có anh thì có lẽ “Ma làng” chưa thể ra đời được. “Ma làng” là cái gì, tại sao nó lại liên quan đến một nhà thơ bạc mệnh? Xin thưa “Ma làng” tức là bộ phim 19 tập về nông thôn miền núi vừa phát sóng trên VTV1 được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn đất Tuyên Quang Trịnh Thanh Phong mà tôi là đồng biên kịch với đạo diễn Nguyễn Hữu Phần. Ui dào, tưởng gì, cái món phim truyền hình ở xứ ta có gì đáng bàn mà phải thi sĩ với bạc mệnh gắn vào, rách việc. Sẽ có những người không ưa phim nói thế, cũng chẳng sai. Lằng nhằng quá thể, nhưng sự đời nó là vậy thì phải nói vậy, cái anh thi sĩ bạc mệnh kia chưa đọc một dòng kịch bản, cũng không xem một phút phim nào (anh mất vì căn bệnh ung thư trước khi phim phát sóng chừng 3 tháng) nói không quá lại chính là nguồn căn nguyên cớ để hơn trăm trang tiểu thuyết chuyển thành kịch bản của bộ phim không dám nói hay nhưng ít nhiều cũng tạo được sức hút dư luận.

Cuộc đời có những gặp gỡ hết sức lạ lùng, tình cờ ngẫu nhiên nhưng lại in hệt như một sắp xếp tiền định. Cái sự gặp của tôi và Ngô Đăng Khoa cũng vậy. Bây giờ khi mọi chuyện xong xuôi, phim đã phát sóng hết và ông cũng đã phiêu diêu ở một nơi nào đó rất xa, ngẫm nghĩ lại tôi mới giật mình để nhận ra rằng sự ra đời của “Ma làng” kỳ lạ lại được quyết định ở chính cái sự gặp vô tình này. Âu cũng là số phận.

Cuối năm 2005 tôi lên Tuyên Quang dự đám cưới con trai nhà văn Trịnh Thanh Phong, tác giả cuốn tiểu thuyết “Ma làng”. Đây là cuốn sách được in từ năm 2001. Vốn là một cuốn sách khá hay viết rất mạnh tay về những vấn đề nông thôn miền núi trước thời kỳ khoán 10 bằng một thứ giọng đặc biệt sắc sảo đầy trào lộng có sức công phá mạnh với những nhân vật vô cùng ấn tượng về tính cách. Cũng phải nói thật cuốn sách không có tiếng vang vì có lẽ tác giả cũng như nhiều nhà văn tỉnh lẻ khác luôn chịu thiệt thòi về xuất bản cũng như quảng bá. Tôi đọc thấy giật mình vì những vấn đề đặt ra trong đó. Diện mạo nhân vật với ngôn ngữ miền núi sống động luôn ám ảnh tôi. Nhưng cũng thời điểm ấy tôi cùng nhà văn Khuất Quang Thụy đã viết kịch bản “Đất và người” chuyển thể từ tiểu thuyết “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của nhà văn Nguyễn Khắc Trường với những vấn đề tương tự về nông thôn nên chưa thể triển khai chuyển thể được. Tôi luôn ấp ủ một ngày nào đó sẽ chuyển “Ma làng” thành phim nhưng cứ lần lữa mãi vì lý do trên một phần, phần khác vì quy mô phim “Ma làng” với bối cảnh miền núi cũng phải có thời gian chuẩn bị kỹ càng. Lại nói chuyện đám cưới. Vào thời điểm ấy tôi vừa phát hiện bệnh hiểm nghèo nên buộc phải kiêng ruợu. Trong đám thực khách có một số nhà văn từ Hà Nội lên chén chú chén anh với đám nhà văn Tuyên Quang và Hà Giang xuôi về. Đừng nói đám cưới, bất cứ cuộc hội ngộ nào kiểu này thì cánh nghệ sĩ bốn mùa kia bao giờ cũng vui vẻ tung trời. Tôi biết thân biết phận ngồi dạt ra nép vào góc, cũng vờ vẫn nâng ly cụng chan chát nhưng tiệt không dám dốc vào cuống họng giọt nào. Dối trá cũng được, có thân thì tự thương lấy mình, cứ thế tôi tránh ruợu như tránh đòn thù, thoát được ly nào khấp khởi mừng như bắt được của ly ấy. Đám văn sĩ thực khách mải la đà cũng dần quên bản mặt cái thằng tôi ở mâm tiệc. Thêm nữa ông nhà văn Trung Trung Đỉnh đi từ Hà Nội, một tiền bối của làng ruợu văn chương, là thầy văn kiêm thầy rượu của tôi, cũng động lòng trắc ẩn nên thi thoảng lúc nâng ly lại nhắc mọi người: “Quên cái thằng Tiến tham sống sợ chết ấy đi. Bây giờ nó là đàn bà!”. Tiếng cười cợt của dân rượu lại làm thằng tôi khoái trá. Vâng, kính các bác, sống thì ai chả ham, hèn cũng được, đàn bà càng tốt, khoác váy mặc xịp cũng xong miễn là các bác tha cho em, nhất là bác “tửu”, chai lớn, chai bé, can nhỏ, can to em đánh đu hầu hạ bác mấy chục năm nay rồi, hết vào Nam ra Bắc, miền xuôi, mạn ngược, biển cả, núi cao, rừng sâu, đất Tây, đất Ta đủ cả, giờ thì bác cứ việc khinh em, tránh em đi cho em còn có cơ sống. Nhưng rồi khắc tinh ruợu của tôi xuất hiện. Đó chính là Ngô Đăng Khoa.

Bữa tiệc gần tàn, một người vừa phải không cao không thấp, không béo không gầy, ngoài năm chục tuổi, nom khắc khổ, quần áo xoàng xĩnh đơn giản, mặt mũi tưng bừng đỏ lựng từ rãnh dọc dọc rãnh ngang nhất là cái mũi đỏ tía lừ đừ tiến vào. Đi đến đâu anh ta cũng bắt tay, cụng chén ngửa cổ quật tơi bời hết chén này đến chén khác. Tôi rùng mình vì khiếp sợ. Lúc ấy đột nhiên trong tôi liên tưởng đến Triệu Tử Long thời Tam quốc bên Tàu một mình đeo ấu chúa xông xáo giữa vòng vây trùng điệp chém tướng, đâm quân cứu chúa. Tiếng ai đó ở mâm của tôi reo lên: “Ngô Đăng Khoa”. Tôi hoàn toàn không biết tẹo nào nhân vật này. Cũng phải đến mươi lăm phút tính từ lúc vào anh ta mới đến được chỗ chúng tôi ngồi. Trịnh Thanh Phong giới thiệu. Chưa kịp nghe hết Khoa đã ríu rít: “Bận quá, bận quá. Nhưng không sao vẫn còn đến kịp.”. Rồi Khoa lôi từ túi quần ra một nắm tiền không nhỏ dúi vào tay chủ nhà: “Em không kịp chuẩn bị, thôi thầy miễn cho em cái khoản phong bì.”. Trịnh Thanh Phong quắc mắt: “Cất đi. Không tiền nong gì hết, chú làm thế là tôi không chơi nữa.”. Anh ta cười hà hà cất tiền như không có chuyện gì: “Thầy mắng thì em thôi, để em mừng cháu sau vậy.”. Dường như quên ngay chuyện ấy, Khoa bập vào Trung Trung Đỉnh bằng một ly sóng sánh: “Để em chào bàn nhà văn Trung ương.”. “Chát!”. Tôi nghe rõ âm thanh của sành sứ và vội quay mặt để tránh nhưng không được, anh ta dí ly ruợu sát sạt mặt tôi: “Nhà văn Trung ương này chắc ít tuổi hơn tôi, không được khinh nhau thế”. Tôi dở mếu dở cười. Trung Trung Đỉnh có ý bênh: “Thằng Tiến ốm, không uống được đâu.”. Lời qua tiếng lại, lằng nhằng một lúc nói thế nào cũng không được, cứ cò kéo dai ban anh ta kiên quyết không chịu buông tha tôi. Bằng kinh nghiệm “trận mạc” mấy chục năm nâng lên đặt xuống tôi biết tỏng ông nhà thơ này đã khướt khườn khượt nên mới hung hãn thế. Tôi cố gắng kiềm chế và vẫn một mực từ chối. Nhưng không ngờ anh ta buông một câu hết sức phũ phàng: “Không uống! Nhìn bản mặt kìa, ông giả vờ giỏi lắm, Trung ương mà kém thế à, không được, không được!”. Trời cao đất dày, thực tình cách xuất hiện của anh ta khiến tôi không mấy thiện cảm, thêm nữa lời giới thiệu về cái công ty gì gì đó mà Khoa là giám đốc khiến tôi càng khó chịu. Lại thêm một đại gia cậy tiền chơi thơ phú đây. Được, đã sàng sỗ đến mức ấy thì chơi. Tôi biết thừa chỉ vài ba chén nữa là ông đại gia này sẽ đổ kềnh đổ càng. Chút tự ái dâng lên khiến công lao chịu đựng từ đầu thành dã tràng, tôi sẵng giọng thách đố. Liền tù tì dăm chén, tôi tỉnh queo hả hê nhìn điệu bộ của một tửu đồ đã đến cữ cuối cùng, thân xác lảo đảo, lưỡi ríu, giọng khê. Khoa gần như đổ vật vào người tôi, tay quàng, tay quờ từ đỉnh đầu tôi xuống mặt: “Hay…hay lắm…tối nay tôi mời ông và anh Đỉnh ngủ…ngủ…”. Khốn khổ thân tôi, đã chay tịnh thì thoát, đằng này tự mình đâm đầu vào lọng. Đám bạn uống ào ào tấp chén, tôi có hơi men bèn hăng tiết nghe rần rật máu chuyển trong người bèn bất chấp uống như người chết khát. Ồn ã quăng quật tơi bời rồi thì bữa tiệc cũng tàn. Ngô Đăng Khoa mất hút từ lúc nào quên béng lời mời…ngủ. Tôi cũng chẳng hiểu lời mời ngủ ấy là thế nào. Đầu óc váng vất tôi lèo nhèo vài câu về vị khắc tinh không mấy cảm tình kia rồi cũng chết vật.

Sáng hôm sau, Ngô Đăng Khoa mò đến khách sạn tôi và Trung Trung Đỉnh ở từ sáng sớm. Một con người khác hẳn xuất hiện trước mặt tôi. Quần áo có phần chải chuốt hơn, giọng nói vẫn bỡn cợt nhưng nhỏ nhẹ. Anh xin lỗi vì tối qua say quá không còn biết trời đất gì nên không thu xếp được chỗ nghỉ cho chúng tôi. Trung Trung Đỉnh gạt đi nhưng Khoa một mực đòi thanh toán tiền nghỉ theo lời mời. Kế đó anh rủ chúng tôi đi nhậu lòng lợn tiết canh. Lại nhậu. Tôi từ chối nhưng anh nói chả mấy khi được gặp nhau. Các ông không biết tôi chứ thằng Khoa này xưa nay từ nghèo đến giầu lúc nào cũng vẫn là Khoa, chân thành, mộc mạc, hết mực vì bạn vì bè. Cứ xưng xưng như vậy hàng tràng. Thái độ của Khoa cùng với sự thân mật của bạn bè xứ Tuyên với anh khiến tôi dịu đi, vẫn là cảm giác dặt dè không mấy tin tưởng nhưng đã không còn khó chịu. Trong bữa ăn sáng ngắn ngủi, Khoa vẫn kịp ép mọi người uống hơn một chai cối ruợu…mật lợn. Lần đầu tiên tôi chứng kiến mọi người uống thứ rượu quái dị này. Vẫn là Khoa bông phèng về tác dụng của mật. Và tất nhiên như mọi nhà thơ khác, anh kịp đọc lấy vài bài thơ ruột của mình. Một thói quen không biết là đáng yêu hay đáng ghét của tất tật các nhà thơ.

Tôi gặp Ngô Đăng Khoa lần đầu như vậy. Anh có đưa tấm cạc với lời mời hôm nào đó đến công ty anh chơi. Lời mời có vẻ thành thật. Dù vậy tôi vẫn chỉ coi đó là sự xã giao. Tuy nhiên có một chi tiết khiến tôi sau đó thay đổi cách nhìn nhận về con người mang danh đại gia này. Anh tặng tôi tập thơ đánh máy đang chuẩn bị in. Một tập thơ hay đến không ngờ. Chuyện đó nói sau.

Quãng giữa năm hai lẻ sáu, tôi có ý định mang “Ma làng” ra chuyển nhưng cũng chưa biết chọn đạo diễn nào. Một hôm, nhân lúc rỗi rãi tào lao ở cơ quan, tôi đột nhiên cao hứng kể về tiểu thuyết “Ma làng” với đạo diễn Nguyễn Hữu Phần. Vị đạo diễn này trước đây từng làm đồng đạo diễn phim “Đất và người” rất khoái đề tài nông thôn dù là dân thành thị thứ thiệt trăm phần trăm. Anh Phần đã cao tuổi nhưng còn khoẻ và khá nhanh nhẹn, tác phong cũng như nhiệt tình, đám đạo diễn thanh niên còn mướt mới theo kịp. Nghe kể, vị đạo diễn có vẻ hứng khởi nhưng vẫn lạnh lùng đầy nghi vấn: “Sao tôi không nghe gì về tiểu thuyết này. Hay thì nó phải nổi tiếng chứ. Thôi được, ông cứ đưa đây ngó thử. Để xem thế nào.”. Điện ảnh, truyền hình là một nghề tuy là sáng tạo tập thể nhưng vai trò đạo diễn ở bậc thứ nhất nên nói chung các đạo diễn ở ta luôn thấy mình quan trọng và không ít người tự dành cho mình cái quyền lệnh khệnh ít khi chịu ai. Không ngờ khi đọc xong “Ma làng” Nguyễn Hữu Phần khoái quá khen nức, khen nở. Ông bập vào ngay quyết định sẽ làm “Ma làng”. Hơn thế ông còn làm cái việc thổi bùng ngọn lửa đam mê vào các thành phần trong ê kíp của ông. Rất nhanh, từ quay phim, hoạ sĩ đến các thành phần khác đều tỏ ra thích thú. Tất nhiên tôi không bỏ lỡ dịp may này để thoả ấp ủ bấy nay. Cũng lạ, xưa nay chẳng hề có chuyện kịch bản chưa có nhưng mọi người đã hào hứng quyết tâm làm. Khỏi bàn, đoàn phim phi ngay lên Tuyên Quang. Gọi đoàn phim cho oách chứ thực ra ngoài hoạ sĩ, quay phim đi thị sát bối cảnh, đạo diễn và tôi còn có một nhiệm vụ nặng nề phải tìm được nơi ăn chốn ở cho cả đoàn mấy chục con người mới hòng bàn được đến chuyện làm phim. Nhân chuyện này cũng xin nói thêm, với kinh phí hiện cấp thì có tài thánh cũng không thể làm được phim ở nơi cách xa nhà hàng trăm cây số. Tất nhiên bây giờ đã có chủ trương xã hội hoá nên đoàn phim có thể trông đợi vào tài trợ nhưng chết nỗi “Ma làng” nội dung tái hiện lại cuộc sống nông thôn miền núi những năm 80 thì chịu chết không có một ai lại chịu mất chi phí khi chẳng trông đợi gì được vào việc cài cắm sản phẩm cũng như thương hiệu trong phim, dẫu chỉ là chai nước khoáng nhỏ nhoi nhất cũng không phù hợp. Bối cảnh Tuyên Quang tuyệt vời cho phim vì đây là vùng quê tác giả đề cập trong tiểu thuyết. Nhưng rồi niềm hứng khởi nhanh chóng chuyển thành thất vọng tràn trề. Bàn đi tính lại chán chê mê mỏi, mọi người quyết định bỏ cuộc, không thể có cách nào để phim thực hiện được ở Tuyên Quang. Lý do giản đơn thôi cũng chỉ là kinh phí, giá kể lo được ít phòng ngủ thì còn dám sân siu từ khoản nọ sang khoản kia để khả dĩ cầm cự được mấy tháng ở hiện trường. Khỏi nói tôi chán đến mức nào. Đúng lúc bi đát nhất chợt nhà văn Trịnh Thanh Phong vớt vát bằng sáng kiến hay là ta quay ở Hà Giang, có thể nhờ được một người bạn làm thơ. Ngô Đăng Khoa, vụt loé trong tôi cái con người thực lòng tôi không mấy khi nhớ đến dù đã đọc và rất thích thơ anh. Một cú điện thoại được tác giả tiểu thuyết “Ma làng” phóng đi, lập tức có sự hồi đáp. Ngô Đăng Khoa nhận lời giúp đoàn phim.

Khu suối khoáng nước nóng nằm trong khuôn viên công ty dịch vụ du lịch suối khoáng Thanh Hà (Vị Xuyên-Hà Giang) nơi Ngô Đăng Khoa dự kiến cho đoàn phim trú ngụ miễn phí trong suốt quá trình làm phim thực chất là một khu nghỉ đầy đủ tiện nghi như khách sạn. Không thể lý tưởng hơn cho một đoàn phim quen sống dã chiến. Chúng tôi mừng rỡ vì sự giúp đỡ bất ngờ đầy hào hiệp này. Thì ra Khoa từ lâu đã mê mẩn tiểu thuyết “Ma làng”. Anh rất mừng vì được góp công sức vào việc chuyển tiểu thuyết thành phim. Thậm chí Khoa còn vô tư đòi được giúp đoàn phim cả về bối cảnh và chi phí ăn uống nhưng đạo diễn Nguyễn Hữu Phần đã từ chối. Ông chỉ chấp nhận sự giúp đỡ về nơi nghỉ. Vậy là phim “Ma làng” được quyết định tại đại bản doanh của vị nhà thơ kiêm giám đốc công ty Thanh Hà dù lúc ấy mọi thứ vẫn nằm tròm trèm trong hơn trăm trang tiểu thuyết.

Đó là lần thứ hai tôi gặp Ngô Đăng Khoa. Cũng là lần vì vui sướng tôi phớt lờ bệnh tật, thả phanh uống cùng anh. Lý do tôi buông thả tự cho phép mình nâng ly uống để mừng…thắng lợi lúc đó còn nằm trong tưởng tượng. Chưa thể quên những cảm giác ban đầu về Khoa nhưng tôi đã ít nhiều nhận thấy ở con người anh những điều khác thường. Không chỉ vì sự giúp đỡ kia, cũng không chỉ là cách hành xử thường thấy cùng những giai thoại nhiều chiều về cuộc sống một đại gia xứ cao nguyên đá mà ở chính những bài thơ của anh. Những bài thơ mộc mạc, dân dã và chân thành đến kỳ lạ. Tiếc thay và cũng là điều không thể ngờ, thời gian chỉ chưa đầy một năm sau đó, số phận liên tiếp giáng vào Ngô Đăng Khoa những đòn chí tử.

II

Ngô Đăng Khoa sinh năm 1952 tại Thanh Hoá. Năm 1972 anh nhập ngũ vào chiến trường B. Lăn lộn qua mấy cuộc chiến, hết biên giới Tây nam đến biên giới phía Bắc, năm 1983 đang là cán bộ chỉ huy một tiểu đoàn công binh thuộc sư đoàn 314 anh đột ngột xin ra quân. Đã có một đời vợ dang dở ở quê (mất vì trọng bệnh), anh tái hôn với một thiếu nữ dân tộc Tày, chị Hoàng thị Chiên và lấy luôn Bắc Quang (Hà Giang) quê vợ làm quê hương thứ hai của mình. Tại đây chàng cựu quân nhân đã dấn mình lập nghiệp bằng con đường kinh doanh. Từng là lính thú thật tôi không hiểu được quyết định này của anh. Tôi cũng chưa bao giờ biết lý do việc ra quân, có thể cuộc tình với cô gái Tày lúc đó chỉ 17 tuổi khiến anh đã từ bỏ quân ngũ. Tôi đã nghe chị Chiên vợ anh kể về những ngày tháng gian khó này. Thật khó hình dung một đại gia thực sự sau này ban đầu lại khởi nghiệp bằng nghề buôn gà vịt. Từ gà vịt đi lên, 15 năm sau- năm 1999 Ngô Đăng Khoa chính thức thành lập công ty dịch vụ du lịch suối khoáng Thanh Hà (tên ghép của hai quê Thanh Hoá và Hà Giang) với một cơ ngơi bề thế bao gồm cả khu suối khoáng của tỉnh giao cho công ty quản lý. Đây thực sự là một điểm nghỉ ngơi, du lịch lý tưởng của Hà Giang. Các thành viên của đoàn phim đã rất lý thú với khu nghỉ này. Họ có thể yên tâm thoải mái với điều kiện nghỉ ngơi chưa bao giờ có được trong khi làm phim. Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần là người kỹ tính ông có vẻ băn khoăn khi nhẩm tính con số Ngô Đăng Khoa trợ giúp nơi nghỉ. Một con số khổng lồ lên đến hàng trăm triệu khi đoàn phim quay ít nhất phải trong ba tháng với quân số mấy chục con người. Vẫn điệu cười hà hà thường nhật Ngô Đăng Khoa bảo: “Bác đừng lăn tăn làm gì. Em là dân kinh doanh tính toán nhanh lắm. Không có con số ấy đâu. Phòng ốc em có sẵn, nước suối khoáng nóng có sẵn, chỉ phải chi tiền điện thôi, thêm nữa là tiền củi nấu ăn, tiền nhân viên phục vụ. Tất tật chỉ vài chục triệu đồng.”. Nghe có lý, một cách tính tiền đầy tình cảm. Sau khi thoả thuận miệng như vậy, đạo diễn Nguyễn Hữu Phần bắt tay cùng tôi làm kịch bản. Một không khí khẩn trương bao trùm đoàn phim. Hoạ sĩ trần Hùng cùng quay phim Phạm Quang Minh những người đặc biệt yêu thích “Ma làng” hăm hở tác nghiệp. Họ chọn bối cảnh chính ở địa phận xã Việt Lâm, huyện Bắc Quang. Cũng là núi là rừng, cũng ruộng bậc thang, cũng những người dân gần giống trong tiểu thuyết.

Những ngày này dù rất bận bịu với công việc (Ngô Đăng Khoa còn kinh doanh nhận thầu công trình, đường sá…) nhưng anh tận tình giúp đoàn phim trong việc tìm bối cảnh, liên hệ với địa phương. Phải công nhận người dân Hà Giang thuần khiết hết lòng ủng hộ đoàn phim. Chính quyền từ xã Việt Lâm đến huyện Bắc Quang và cả các cơ quan trong tỉnh đều nhiệt tình giúp đỡ. Dẫu chỉ là tinh thần nhưng đó là điều đáng quý không dễ gì có được. Tôi khó lòng quên nổi một buổi giao lưu giữa đoàn phim( chỉ những thành phần chính đi chọn cảnh) với lãnh đạo xã Việt Lâm. Hôm ấy, chúng tôi được chiêu đãi một bữa thịt dê núi tại nhà sàn của một cán bộ xã. Cuộc rượu tưng bừng khiến tất cả nghiêng ngả. Tôi hầu như quên đi bệnh tật uống như thuở nào còn sung sức. Rượu ngon, bạn hiền, ca khúc Trọng Đài phổ thơ Ngô Đăng Khoa, do ca sĩ Mai Hoa hát vang lên da diết: “Anh chạm vào chiếc lá-Biết là thu qua rồi-Anh chạm vào ngọn gió-Biết là em xa xôi...Mưa thì quá vô tư-Nắng cứ vàng như lụa- Chỉ anh là lá úa-Chỉ anh là bão giông…” Có ca khúc này là do đạo diễn Nguyễn Hữu phần nhờ nhạc sĩ Trọng Đài làm nhạc phim ( sau này nhóm nhạc của Hồng Quang thay thế). Đã từng đi nhiều hầu như khắp đất nước nhưng tôi phải công nhận không dễ gì có những cuộc ruợu vui vẻ như vậy. Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần là người không biết uống ruợu nhưng lần đầu tiên tôi chứng kiến anh uống như một “tửu đồ” chính hiệu. Cũng trăm phần trăm như ai. Kết quả vị đạo diễn này bất tỉnh nhân sự để rồi đến sáng hôm sau anh bảo tôi: “Bây giờ thì tôi biết vì sao các ông thích say sưa rồi. Mệt bỏ mẹ nhưng sướng.”. Anh nói thêm sướng là sướng ở cái tình của người uống rượu. Quá hay, có lẽ vị đạo diễn không ruợu kia chẳng thể hiểu được những kẻ như tôi dấn thân vào nghiệp ruợu đâu phải chỉ ham uống ham ăn. Uống ở đâu, nhậu với đồ gì không quan trọng bằng uống với ai, đó là chân lý của những người biết uống. Nhưng chính từ cái “sướng” đột xuất ấy, một quyết định quan trọng đã làm thay đổi bối cảnh phim “Ma làng”. Sự nhiệt tình của địa phương và bản thân Ngô Đăng Khoa đã khiến các thành viên đoàn phim ý thức nhiều hơn về trách nhiệm với “Ma làng” giờ đã được họ coi là máu thịt. Lúc này kịch bản đã hoàn tất chỉ còn đợi xong bối cảnh là bấm máy. Đầu tiên là sự ngãng ra của hoạ sĩ và quay phim. Họ bảo phim của đêm trước đổi mới nghĩa là nghèo đói, bối cảnh no đủ, rừng núi tươi tốt của Hà Giang thì làm sao tái hiện được thời kỳ đó, quay lên có mà giả khườn khượt ai xem. Kế đến là đạo diễn. Ông chợt nghĩ ra khó có thể điều động diễn viên được với xa cách địa lý mấy trăm cây thế này. Và cái lý này mới quan trọng. Có một chút tự ái, mình làm phim Nhà nước đàng hoàng có chế độ hẳn hoi sao lại phải nhong nhong nhờ vả khắp nơi mãi như vậy. Vả lại những người như Ngô Đăng Khoa quá tốt với đoàn phim mình sao có thể đành lòng lạm dụng. Chấp nhận khó khăn, khổ sở thiếu thốn, mọi người thống nhất đồng cam cộng khổ trở về “căn cứ địa phim trường” Lương Sơn (Hoà Bình). “Ma làng” đã nhanh chóng được bấm máy ngay sau đó. Và đó là một quyết định sáng suốt.

Ngô Đăng Khoa buồn thật sự về tin này. Anh về Hà Nội gặp tôi tỏ ý tiếc. Tôi thay mặt đoàn phim cảm ơn anh và nói rõ lý do. Cảm thông nhưng vẫn buồn. Sau này khi Ngô Đăng Khoa bị công an Hà Giang khởi tố bắt giam ngay sau khi “Ma làng” bấm máy được non nửa thời gian, tôi vẫn không hiểu vì sao đoàn phim lại có một quyết định may mắn đến thế. Vẫn biết là ai làm nấy chịu, cũng không rõ Khoa làm ăn thế nào mà lại có một kết cục bi đát như vậy nhưng chúng tôi vẫn không khỏi giật mình hú vía. Lòng tốt của anh suýt nữa đẩy chúng tôi vào một tình thế khó xử, thậm chí không tránh khỏi thảm hoạ vỡ bối cảnh. Dù gì thì vẫn phải cảm ơn anh. Ai cũng thương Khoa nhưng bất lực không thể làm gì.

Cái tin Ngô Đăng Khoa bị bắt đã gây chấn động trong bạn bè văn chương. Anh là hội viên văn học nghệ thuật của cả Hà Giang lẫn Tuyên Quang, đồng thời là Hội viên Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Với hai tập thơ “Hồn quê” và “Mưa nắng quê nhà” đã xuất bản, bằng chất lượng thực sự, tôi tin nếu không có kết cục kia chỉ một thời gian nữa, chắc chắn Ngô Đăng Khoa sẽ trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam như anh từng ao ước. Thật tiếc. Thơ Ngô Đăng Khoa nghiêng về đồng nội, thấm đẫm hồn đất tinh quê với những tứ thơ chân chất giản dị và những câu thơ mộc mạc chân thành:“Thơ tôi thơ của quê mùa-Cây sung góc ruộng, khế chua cuối vườn…”. Bài “Thầy tôi” của anh viết về người cha thân yêu cảm động đến rơi nước mắt dù đó chỉ là một câu chuyện đời thực kể bằng vần điệu. Nhà văn Phù Ninh từng phát biểu rất chí lý về Khoa: “Thằng đó doanh nghiệp có tiền nhưng thơ nó hay thật.”. Trịnh Thanh Phong kể lại lý do Ngô Đăng Khoa gia nhập Hội văn học nghệ thuật Tuyên Quang vì có tình cảm với Tuyên Quang và muốn có thơ in ở vùng quê hương Việt Bắc. Có lẽ Ngô Đăng Khoa là thế, làm doanh nghiệp như một thứ “phu nghiệp” còn với thơ có lẽ đấy mới là thứ anh theo đuổi suốt đời. Vợ anh, chị Chiên một lần ngậm ngùi nói với tôi sau khi anh đã mất: “Chỉ thơ là quan trọng với anh ấy thôi…”. Tôi nhìn đôi mắt ngầng ngậng nước của chị chợt hiểu rằng thơ là gánh nặng của đời anh và đó cũng là khởi nguyên bi kịch. Khi chuẩn bị viết bài này tôi đã tìm chị để tìm hiểu thêm về đời sống vợ chồng anh. Người đàn bà giờ thay anh điều hành công ty và gia đình với ba đứa con đã trưởng thành, đầy mệt mỏi không nói gì nhiều. Chị không muốn nói nhưng lại nói ra điều ít người biết: “Thực ra dạo chuẩn bị làm phim “Ma làng” vợ chồng em giận nhau. Nếu không có vụ anh ấy bị bắt thì bọn em đã li dị.”. Tôi không thể hỏi gì thêm. Chẳng cần hỏi, tôi cũng mang máng đoán ra sự thể. Đó là bi kịch của người làm thơ có tiền. Nhưng thôi giờ anh đã đi xa thật xa nói lại điều ấy chẳng ích gì.

Bẵng một dạo sau khi Khoa bị bắt, vài tháng sau tôi được tin anh đã được tự do bèn gọi điện hỏi thăm. Không còn hà hà cười như trước, giọng anh buồn bã, mệt mỏi. Khoa hứa sẽ về Hà Nội chơi. Lại bẵng một dạo rồi nghe nói Khoa bị ung thư phổi hay vòm họng gì đấy. Vài cuộc điện thoại thăm hỏi rồi bỗng nhiên một lần anh gọi điện cho tôi bảo lên gấp anh muốn gặp. Giọng Khoa yếu ớt khiến tôi phát hoảng. Tôi cùng Trung Trung Đỉnh vội bổ lên cùng với Trịnh Thanh Phong. Không thể ngờ đó lại là những ngày cuối cùng của Khoa. Anh đã suy sụp đến giới hạn cuối cùng. Khoa không còn nằm được nữa phải ngồi thu lu ôm lấy một góc chân giường vì khối u đã di căn phát trướng ổ bụng. Anh hối thúc vợ con làm cơm và ép lũ chúng tôi phải ăn cùng với anh bữa cơm chia tay. Tôi đã từng tiễn biệt bạn bè, người thân với nhiều cái chết khác nhau nhưng chia tay kiểu này thì thật sự khó chịu đựng nổi. Mệt nhưng anh nói có bạn nên rất vui. Hình như Khoa cố gượng gồng để ăn hết đến hai lưng cơm. Anh nói với tôi: “Tiếc là tôi với ông gặp nhau quá muộn, chỉ dăm lần. Nếu sớm hơn thì chúng ta có thể giúp nhau được nhiều…”. Giúp được gì hả anh? Tôi cũng chỉ là môt kẻ rong chơi vô tích sự gần chót đời cũng đã làm được việc gì ra hồn đâu. Lúc này bệnh gan của tôi đang nặng nhưng tôi không thể không uống. Tôi rót rượu và đặt lên tay anh chiếc chén không cụng tượng trưng, chợt nhớ đến lần đầu gặp nhau mà lòng xa xót. Tôi uống với lời nhủ thầm chén này tôi uống hộ anh. Chén này, chén nữa…ruợu vào đến đâu thành nước mắt tràn ra đến đấy. Rồi Khoa bảo, tôi gọi ông lên để tặng ông một món quà. Đó là bình rượu quý ngâm mật gấu nguyên chiếc và gần chục chiếc tay gấu đặc sánh. Bình rượu to vật cỡ dăm chục lít. Ai có thể nỡ lấy đi lúc ấy bình rượu kỷ vật. Và tôi cũng có còn uống được đâu mà lấy. Tôi bảo Khoa, bình ruợu này cứ để ở đây dùng chung. Anh bảo vợ niêm phong lại ghi tên Đỉnh, Khoa, Tiến. Ai đi trước thì hai người kia chia nhau, tôi ngờ rằng anh và anh Đỉnh sẽ được uống phần của tôi. Khoa thoáng cười. Nụ cười chua chát của một người biết mệnh mình. Sau này tôi nghe nói một bạn văn nào đó đã xin và mang đi bình rượu ấy lúc Khoa còn đang sống. Ruợu ơi là rượu sao buồn thế, chào mi.

Người bệnh ung thư tỉnh táo đến lúc chết. Anh đòi được chôn mình trên lưng chừng núi sau nhà. Nghe kể trước khi chết anh đòi mang ra từ Thanh Hoá một số món quà quê chỉ nhìn chứ không ăn. Và nữa, anh đòi nhòm bằng được chiếc quan tài của mình. Thấy rồi thì lặng lẽ gật đầu. Một cái chết được biết trước thật đáng sợ. Một kết cục được nhìn thấy, có lẽ thế còn đáng sợ hơn. Tôi cứ vân vi mãi về chuyện anh bị bắt. Con người thơ trong anh hẳn sẽ vô cùng phẫn nộ với con người đại gia được cóp lại từ những chặng đường kinh doanh của anh. Liệu có thể dung hoà hai con người ấy. Chỉ có anh mới hiểu. Nhưng dù có thế nào thì anh vẫn là Ngô Đăng Khoa, một người bạn mới quen nhưng để lại nhiều kỷ niệm. Lại nhớ cái hôm anh dẫn chúng tôi đi liên hệ tuyển diễn viên ở Hà Giang. Giữa buổi chợt có cú điện thoại báo có con gấu ốm bỏ ăn. Anh quyết định rất nhanh, bỏ ăn thì thịt. Con gấu hơn tạ bị xẻ thịt. Khoa giữ lại chiếc mật gấu còn thì nấu nướng đãi đằng và mang cho bằng hết. Chiếc mật gấu anh giữ trong tủ lạnh, cứ mỗi ngày lại chọc ngoáy xi ranh rút ra một ít pha ruợu uống. Đến lúc hết chiếc mật gấu thì bị bắt. Lại là sự sắp xếp tiền định chăng?

Cái hôm Ngô Đăng Khoa mất, tôi có từ Hà Nội lên viếng anh nhưng không thể đưa Khoa lên núi vì phải vội về. Ít ỏi nhưng có lẽ thế là đủ. Đạo diễn Nguyễn Hữu Phần không đi được gọi tôi gửi gắm đồ viếng. Tôi đặt một vòng hoa thay mặt đoàn phim “Ma làng” viếng anh. Đoàn phim “Ma làng” kính viếng! Không còn từ ngữ nào hơn, cũng không có cách gì khả dĩ hơn để biểu thị lòng thương tiếc của những người làm phim với anh. Giờ thì “Ma làng” đã phát sóng xong và anh cũng đã phiêu diêu ở đâu đó thật xa. Vâng! Đó có thể là số phận. Cũng có thể chỉ là những sắp đặt vô tình. Không quan trọng, bởi vì chúng ta đã được sống đầy đủ cuộc sống của chính mình. Dẫu đó là hạnh phúc hay bất hạnh. Và những dòng này xin được chắt lại thành một ly rượu mời anh. Một thi sĩ bạc mệnh!

Ngọn gió ngàn đã lặng

Ngọn gió của đại ngàn Trường sơn đã lặng lại, ngừng thổi. Còn có thể là gì khác được nữa-Phạm Tiến Duật- ông chính là ngọn gió ấy, ngọn gió thi ca của Trường sơn máu lửa, của những cánh rừng, ngọn núi, dòng sông, lạch suối, của cây lá tươi xanh, của bầu trời, ký ức trùng trùng điệp điệp trong muôn nẻo ước vọng trẻ trai của những con người cầm súng trong năm tháng chiến tranh. Ngọn gió Phạm Tiến Duật đã rời bỏ đại ngàn để lạc vào một cõi khác. Không hề bất ngờ, sự ra đi của ông đã được số phận gióng chuông cảnh tử, ngót 5 tháng lâm trọng bệnh, những người yêu thơ ông đã trả lại cho Phạm Tiến Duật đầy đủ những gì ông đáng được hưởng. Hiếm có một nhà thơ Việt nam nào lại giành được sự quan tâm đặc biệt của người hâm mộ như vậy. Đó là gì, nếu không phải là sự vinh danh, vâng một sự vinh danh không phải nhà thơ nào cũng xứng đáng được nhận.

Viết gì về ông đây, cũng chỉ là một người yêu thơ ông nhưng tôi có may mắn được đi qua đường mòn Trường sơn trong những năm tháng cuối chiến tranh, được nghe thơ ông từ chiếc đài bán dẫn National chiến lợi phẩm trong phiên gác đêm giữa rừng già miền Đông Nam Bộ, được gặp ông trong những giao tiếp nghề nghiệp, không nhiều nhưng đủ để cảm nhận về một con người với gia sản thơ đã trở thành huyền thoại. Viết gì? Sự nghiệp, con người, thân thế, những tột đỉnh vinh quang, những tận cùng khắc khoải của kiếp người, những day dứt trăn trở cùng những bến bờ thăng trầm số phận của ông đã có bao người viết, bao người biết. Tự nhiên tôi nghĩ đến cái dáng đi lòng khòng của ông xiêu xiêu, tay toòng teng xâu thuốc nam cách đây gần hai tháng trong cái ngách nhỏ của ngõ Văn Chương, nơi ông trú ngụ những ngày cuối cùng trước khi nhập viện để rồi không bao giờ còn được quay trở lại, chợt nhận ra một Phạm Tiến Duật không hào quang, còm cõi, vất vả thậm chí đơn độc trong sự gắng gượng cuối cùng chống lại số phận.

Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi, giữa một tượng đài thơ với một con người thực cùng với bao nhiêu hành trang bề bộn của đời sống thường nhật thì cái gì tạo ra khoảng cách xa vời kia? Hỏi đấy nhưng chịu chết không bao giờ tìm được câu trả lời.

Dạo tôi vào chiến trường B2 năm 1974, đại đội cao xạ 57 li của tôi tuy đa phần đều là lính Hà Nội nhưng trong số đấy quá nửa là những nông dân ngoại thành. Họ ít học, có người cả đời chưa cầm đến một cuốn sách văn học nhưng có một điều kỳ lạ tất cả đều thuộc ít nhất vài khổ thơ Phạm Tiến Duật. Sách báo chiến trường hiếm hoi, chủ yếu cánh lính tráng chúng tôi tiếp cận với văn học đất nước bằng sóng radio. Không một chương trình văn nghệ nào bị bỏ sót. Và thơ Phạm Tiến Duật được ví như một món ăn tinh thần không thể thiếu. Bài “Lửa đèn” dẫu chỉ được đọc vài ba lượt trên sóng nhưng lính tráng có người thuộc làu làu. Dạo đó tôi cũng đang tập tọng làm thơ nên khỏi phải nói, chết mê chết mệt với bài thơ này. Chỉ số IQ của tôi không được cao, phàm những gì phải cần đến trí nhớ sao chép là tôi mít đặc, thế nên tôi phải huy động cả khẩu đội tập trung trí tuệ để đọc lại cho tôi chép vào cuốn sổ nhật ký. Chất giọng ồm ồm của tôi chẳng dùng được vào việc gì ra hồn may sao lại hợp với âm hưởng “Lửa đèn” khiến tôi có đất dụng võ. Chỉ cần bập bập bùng bùng mấy nốt dạo ghi ta là tôi đã có thể hào sảng trình diễn ở bất cứ chỗ nào, kể cả giữa trận địa còn nghi ngút khói bom, khói súng giữa hai đợt đánh. Riêng đoạn “đọc” ở trận địa này không phải theo ngẫu hứng của tôi mà là thứ nghi lễ hẳn hoi theo mệnh lệnh của chính trị viên đại đội nhằm động viên tinh thần bộ đội. Mấy chục năm đã trôi qua, cuộc đời tôi đã rơi rụng, đã đánh mất nhiều thứ quý giá nhưng cuốn sổ nhỏ nhoi đã trở thành kỷ vật đó vẫn còn. Bài “Lửa đèn” chép tay bằng bút máy Hồng Hà với mực Cửu Long xịn mang vào từ Hà Nội vẫn còn nguyên dạng dẫu thời gian đã bào mòn nét chữ. Nhiều lần có dịp bên Phạm Tiến Duật tôi đã định khoe ông cái sự sùng bái thần tượng kia nhưng rồi cứ lần lữa không thành. Ngại thì không nhưng cũng thấy bất tiện, cái việc chép thơ ấy với nhà thơ khác là những cảm xúc đặc biệt thì với Duật có lẽ nó chỉ có phần nào ý nghĩa bởi chắc chắn chẳng riêng mình tôi mà hầu như gần trọn vẹn một thế hệ thuộc và chép thơ ông.

Trở lại với cái khoảng cách kia, có lần tôi đã hỏi thẳng Phạm Tiến Duật. Ấy là vào lúc tôi đã có một vài tác phẩm, được vinh dự tiếp xúc làm quen với thần tượng của mình. Phạm Tiến Duật nhún vai không trả lời ngay, ông ngước cặp mắt nhìn lên bầu trời trong sân của khu nhà 51 Trần Hưng Đạo bị che khuất bởi vô số tán cây cổ thụ, không buồn bã, ánh mắt chỉ thoáng sẫm lại rất nhanh rồi lắc đầu. Mãi sau ông mới rủ rỉ buông ra một câu tưng tửng không rõ nghĩa nhưng đầy ám dụ: “Cứ sống đi Tiến ạ…”. Cũng có lần mượn men ruợu tôi lấy tư cách độc giả hâm mộ yêu cầu ông giải thích về sự đứt đoạn sáng tác thơ của ông giữa hai thời kỳ nhất là dở chừng trường ca “Những vùng rừng không dân” mà tôi rất thích. Lần này cũng vậy, Phạm Tiến Duật trả lời như tự thán: “Ít người hiểu Duật lắm.”. Ai cũng biết ông có những nỗi buồn riêng, đã đành cuộc đời chẳng bao giờ suôn sẻ, nào chuyện gia đình, nào những công lênh sự nghiệp nhưng tôi hiểu ông là người dẫu yếu đuối đa cảm nhưng không bao giờ bi luỵ. Nói vậy là ông muốn tránh đi những phiền toái luôn rình rập ngáng trở cuộc sống những người nổi tiếng như ông. Càng về sau này tôi càng ngạc nhiên về sự lận đận của ông trên đường đời. Dạo còn làm Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ, có lần ông mời tôi về làm biên tập văn xuôi cho ông. Mời đấy nhưng ngay lập tức ông đã thở dài: “ Nói vậy thôi, chẳng ai chịu về chỗ tôi cả, ít tiền lắm.”. Nhiều người luôn ái ngại cho ông về cái sự luôn chậm trễ trong thời cuộc, lộc lá chia chác chẳng được nhiều. Cái chức vụ Tổng biên tập kia thực chất là cái ghế trống chẳng ai muốn làm, ông phải đành nhận. Còn một vài chức vụ khác nữa, như phó ban đối ngoại Hội nhà văn chẳng hạn thì cũng là hữu danh vô thực. Phạm Tiến Duật biết nhưng ông bình thản sống, dưòng như thơ ca với ông mới là quan trọng. Với vật chất cũng vậy, tôi có cảm giác ông nghèo khó nhưng không bao giờ túng quẫn. Ông có thể viết một bài báo, nói chuyện thơ hoặc làm MC dẫn chương trình để kiếm những đồng nhuận bút ít ỏi một cách vui vẻ. Những tài thơ hiếm hoi như ông lẽ ra không phải chịu cảnh chật chội thiệt thòi như mấy căn nhà ông từng được ở. Nhiều người bảo ông dại, nhiều người khác lại bảo ông khôn nhưng ít người biết chuyện đất cát nhà cửa với ông chẳng bao giờ là quan trọng. Điều này thì tôi kiểm chứng. Cách đây hai năm, khu đô thị Mỗ Lao ở Hà Đông do một nhóm Việt kiều đầu tư có phân lô bán, Phạm Tiến Duật chơi thân với Đỗ Quân, Tổng giám đốc của TSQ là Tổng công ty đầu tư khu đô thị này. Vị doanh nghiệp yêu thơ kia có nhã ý mời ông cùng một vài thi hữu khác đăng ký mua với giá ưu đãi. Lợi nhuận nhìn thấy ngay được, chỉ cần đăng ký, nộp ít tiền ban đầu rồi đợi giá đất lên là sang nhượng hợp pháp, tiền tỉ thì chưa dám nhưng lời ròng tiền trăm tiền triệu là điều rõ như ban ngày. Tịnh không một ai trong đám ông làm việc này. Nguyễn Trọng Tạo cười hề hề: “Đất cát gì, chết đi cũng chỉ hai mét là hết.”. Tôi không bình luận điều này chỉ biết đây là sự thật, những năm cuối đời, Phạm Tiến Duật không có một căn nhà để ở, ông tá túc tại nhà một người bạn ở ngõ Văn Chương.

Đầu tháng Bẩy dương lịch, Phạm Tiến Duật phát hiện trọng bệnh. Hai khối u ở phổi phải đã tuyên án tử hình ông một cách phũ phàng. Ông chỉ điều trị một thời gian ngắn rồi xin ra viện. Đấy là ông sợ bệnh viện. Nghe mách bảo, Phạm Tiến Duật khăn gói lên Lập Thạch, Vĩnh Phúc cắt thuốc của thầy Quang, một lương y xuất thân bác sĩ quân y, người cũng rất đam mê văn chương từng có truyện ngắn in ở Văn nghệ quân đội. Chính ông rủ tôi đi lên đó cắt thuốc chữa bệnh gan. Tôi đang bệnh vái tứ phương bèn hẹn sẽ mang xe đón ông nhưng Duật gạt đi bảo không cần phải lãng phí thế, có xe của một người bạn rồi. Tôi không ngờ chuyến đi đó lại là lần cuối cùng tôi được đi cùng ông, được nghe ông nói những câu cuối cùng về văn chương, nói nhiều hơn cả là bệnh tật, ăn bữa cơm cuối cùng và hình ảnh ông xiêu xiêu xách dây thuốc nam trong ngõ hẹp Văn Chương cũng chính là hình ảnh cuối cùng của ông trong tôi. Khi sức khoẻ của ông đang có cơ tốt lên tưởng sẽ dần hồi phục thì căn bệnh quái ác đến ngày tuyên án. Hai khối u ban đầu ở phổi sau khi uống thuốc đã tan chỉ còn lại một vệt trắng mờ đúng như lời thầy thuốc tiên lượng thì nhiều khối u khác đã lại mọc lan trong phổi, trong não. Bệnh đã đến giai đoạn di căn. Mệt, không thể gượng dậy được, cắn răng chịu đựng cơn đau đầu nhưng Phạm Tiến Duật nhất định không chịu vào bệnh viện. Có vẻ như ông đã biết đến hồi kết của mình. Bạn bè ông phải cương quyết mới đưa được ông vào bệnh viện. Lần này viện 108 đã tiếp nhận ông với tất cả sự nhiệt thành tôn vinh một tài năng thơ Trường sơn nhưng tất cả đã muộn.

Phải đến khi ông lâm bệnh, tôi mới mang đến cuốn sổ nhật ký chiến trường chép bài thơ “Lửa đèn” cho ông xem. Trái với hình dung của tôi, ông lặng đi xúc động. Mãi sau ông mới bảo: “Giờ Duật mới biết Tiến cũng yêu thơ.”. Tôi khoe mình từng mơ khởi nghiệp bằng thơ với vốn liếng không ít. Trong cuốn sổ đó tôi cũng lưu được ít bài. Ông xem lướt rồi cũng như trước đây khen truyện ngắn của tôi, ông đọc to lên hai câu: “Mẹ cho tôi tiếng cười-và tự tôi cho tôi tiếng khóc…Đây là thơ đấy! Tự cho mình tiếng khóc, hay, đúng cuộc đời là như vậy mà. Tiến tin Duật đi hãy dùng hai câu này làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết của đời Tiến.”. Ông nói một cách đầy say sưa trước mấy người bạn của ông, ngay trong phòng khám của vị lương y già trong khi chờ đến lượt khám bệnh.

Tôi biết mình không làm được thơ nhưng làm sao tôi lại dám nghi ngờ lời nói của ông, một người đang ở điểm đến cuối cùng. Cũng biết đến bao giờ tôi mới viết được cuốn tiểu thuyết đời của mình. Tôi tin. Tôi tin. Như tất cả mọi người tin vào ông, một con người thơ với tượng đài Trường Sơn sừng sững mãi được lưu giữ trong những tâm hồn thơ, trái tim thơ. Tin, rất tin dẫu ngọn gió Phạm Tiến Duật đã bất chợt tắt lặng, ngừng thổi rời bỏ đại ngàn lạc vào cõi khác./.