Nguyễn Du-Sở Kiến Hành
Nguyên tác:
所見行
有婦攜三兒
相將坐道旁
小者在懷中
大者持竹筐
筐中何所盛
藜藿雜枇糠
日晏不得食
衣裙何框禳
見人不仰視
淚流襟浪浪
群兒且喜笑
不知母心傷
母心傷如何
歲饑流異鄉
異鄉稍豐熟
米價不甚昂
不惜棄鄉土
苟圖救生方
一人竭傭力
不充四口糧
沿街日乞食
此計安可長
眼下委溝壑
血肉飼豺狼
母死不足恤
撫兒增斷腸
奇痛在心頭
天日皆為黃
陰風飄然至
行人亦悽惶
昨宵西河驛
供具何張黃
鹿筋雜魚翅
滿棹陳豬羊
長官不下箸
小們只略嘗
撥棄無顧惜
鄰狗厭膏粱
不知官道上
有此窮兒娘
誰人寫此圖
持以奉君王
Phiên âm Hán - Việt:
Sở kiến hành
Hữu phụ huề tam nhi,
Tương tương tọa đạo bàng.
Tiểu giả tại hoài trung,
Ðại giả trì trúc khuông.
Khuông trung hà sở thịnh?
Lê hoắc tạp tì khang.
Nhật án bất đắc thực,
Y quần hà khuông nhương!
Kiến nhân bất ngưỡng thị,
Lệ lưu khâm lang lang.
Quần nhi thả hỉ tiếu,
Bất tri mẫu tâm thương,
Mẫu tâm thương như hà?
Tuế cơ lưu dị hương.
Dị hương sảo phong thục,
Mễ giá bất thậm ngang.
Bất tích khí hương thổ,
Cẩu đồ cứu sinh phương.
Nhất nhân kiệt dung lực,
Bất sung tứ khẩu lương.
Duyên nhai nhật khất thực,
Thử kế an khả trường.
Nhãn hạ ủy câu hác,
Huyết nhục tự sài lang.
Mẫu tử bất túc tuất,
Phủ nhi tăng đoạn trường.
Kỳ thống tại tâm đầu,
Thiên nhật giai vị hoàng.
Âm phong phiêu nhiên chí,
Hành nhân diệc thê hoàng.
Tạc tiêu Tây Hà dịch,
Cung cụ hà trương hoàng!
Lộc cân tạp ngư xí,
Mãn trác trần trư dương.
Trưởng quan bất hạ trợ,
Tiểu môn chỉ lược thường.
Bát khí vô cố tích,
Lân cẩu yếm cao lương.
Bất tri quan đạo thượng,
Hữu thử cùng nhi nương.
Thùy nhân tả thử đồ,
Trì dĩ phụng quân vương.
Dịch nghĩa:
Những điều trông thấy
Có người đàn bà dắt ba đứa con,
Cùng nhau ngồi bên đường,
Ðứa bé thì ẵm trong lòng,
Ðứa lớn xách giỏ tre.
Trong giỏ đựng những gì?
Rau cỏ lẫn tấm cám.
Trưa rồi vẫn chưa có gì ăn,
Áo quần thật lam lũ.
Gặp ai không dám nhìn,
Nước mắt thấm áo đầm đìa,
Lũ trẻ vẫn cười vui,
Không biết lòng mẹ đau xót.
Lòng mẹ đau xót như thế nào?
Năm đói, lưu lạc quê người,
Quê người mùa màng càng khá hơn
Giá gạo không cao lắm.
Bỏ làng đi cũng chẳng quản,
Tạm tìm phương cứu sống
Một người làm mướn hết sức,
Không đủ nuôi bốn miệng ăn.
Hàng ngày đi xin dọc đường phố,
Kế ấy lâu dài sao được!
Cảnh chết lăn bên ngòi rãnh, trông thấy trước rồi.
Máu thịt nuôi sài lang.
Mẹ chết không đáng tiếc,
Vỗ về con mà càng đứt ruột
Lòng đau xót vô cùng,
(Trông lên) trời, mặt trời vàng uá
Gió lạnh bỗng đâu ào tới
Khách qua đường cũng cảm động xót thương.
Ðêm qua ở trạm Tây Hà
Mâm cổ cung đốn sao mà linh đình!
Nào là gân hươu, vây cá,
Ðầy bàn thịt lợn, thịt dê.
Quan lớn không chọc đũa,
Người tùy tùng chỉ nếm qua.
Đồ bỏ không hề tiếc,
Chó hàng xóm cũng chán thức ngon.
Không biết trên đường cái quan,
Có mẹ con nhà này cùng cực đến thế!
Ai người vẽ bức tranh này,
Ðem dâng lên nhà vua!
Nguyễn Hữu Bổng dịch thơ:
Một mẹ cùng ba con,
Lê la bên đường nọ,
Đứa bé ôm trong lòng,
Đứa lớn tay mang giỏ.
Trong giỏ đựng những gì?
Mớ rau lẫn tấm cám,
Nửa ngày bụng vẫn không,
Áo quần vẻ co dúm.
Gặp người chẳng dám nhìn,
Lệ sa vạt áo ướt,
Mấy con vãn cười đùa,
Biết đâu lòng mẹ xót.
Lòng mẹ xót vì sao?
Đói kém phải phiêu bạt.
Nơi đây mùa khá hơn,
Giá gạo không quá đắt.
Quản chi bước lưu ly,
Miễn sống qua thì đói.
Nhưng một người làm thuê ,
Nuôi bốn miệng sao nổi!
Lần phố xin miếng ăn,
Cách ấy đâu được mãi!
Chết lăn rãnh đến nơi,
Thịt da béo cầy sói.
Mẹ chết có tiếc gì,
Thương đàn con vô tội,
Nỗi đau như xé lòng,
Trời cao có thấu nổi?
Gió lạnh bỗng đâu về
Khách đi đường rầu rĩ,
Đêm qua trạm Tây hà
Mâm cổ sang vô kể?
Nào vây cá, gân hươu,
Lợn dê mâm đầy ngút,
Quan lớn không gắp qua,
Các thầy chỉ nếm chút.
Thức ăn thừa đổ đi
Quanh xóm no đàn chó,
Biết đâu bên đường quan,
Có mẹ con cực khổ!
Ai vẽ bức tranh này
Dâng lên nhà vua rõ!