KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(18)
Dịch âm : Đệ nhị thập cữu chương .
-Phật ngôn : Thận vật thị nữ sắc diệc mạc cộng ngôn ngữ. Nhược dữ ngữ giả, chánh tâm tư niệm : Ngã vi Sa môn xử ư trọc thế,
đương như liên hoa bất vi nê ô. Tư kỳ lão giả như mẫu, trưởng
giả như tỷ, thiểu giả như muội, trĩ giả như tử ; sanh độ thoát tâm,
tức diệt ác niệm .
Dịch nghĩa : Chương hai mươi chín .
-Phật dạy : Phải dè dặt chớ nhìn ngó nữ sắc, cũng chớ cùng nói chuyện. Nếu phải cùng người nữ nói chuyện, thì nên chánh tâm
suy nghĩ : Ta là bậc Sa môn ở trong đời ác trược, phải như hoa sen chẳng bị bùn làm ô uế, tưởng người già như mẹ, người lớn như chị, người nhỏ như em, bé thơ như con, mà sanh lòng độ thoát,
thì diệt được niệm xấu .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Tương ứng với chương hai mươi chín, trong kinh Tạp A Hàm, tập
4, trang 214, ấn hành năm 1995, do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu
và Thanh Từ dịch. Có đoạn như sau :
. . . Vua nước Bà sa tên Ưu đà duyên na hỏi Tôn giả Tân đầu lô :
-Do duyên gì, nhân gì mà các Tỳ kheo trẻ tuổi mới tu học, xuất gia
ở trong Pháp Luật nầy chưa bao lâu, được sống an lạc, các căn vui vẻ, dung mạo trong sáng, da dẻ tươi tốt, ưa tĩnh, ít động, tùy duyên sinh sống, tâm thong dong như thú rừng … trọn đời, tu trì Phạm hạnh, thanh tịnh thuần nhất ?
Tôn giả Tân đầu lô đáp :
-Như lời Phật đã dạy, Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, với sở tri, sở kiến vì các Tỳ kheo mà nói rằng : “ Nầy các Tỳ kheo ! Nếu gặp ngư nữ lớn tuổi thì hãy xem như mẹ, gặp người nữ ngang tuổi thì hãy xem như chị và gặp người nữ nhỏ tuổi thì hãy xem như em gái. Do nhân duyên nầy nên các Tỳ kheo trẻ tuổi dù xuất gia chưa bao lâu ở trong Pháp Luật nầy vẫn được sống an ổn, các căn vui vẻ,
tướng mạo thanh tịnh, da dẻ tươi mát, ưa tĩnh, ít động, tùy duyên sanh sống, tâm thong dong như thú rừng,… trọn đời, tu trì Phạm hạnh, thuần nhất thanh tịnh ”.
-Lại trong kinh Đại Bảo Tích, tập 3, trang 420, ấn bản năm 1999, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Phật dạy :
-Nầy Xá Lợi Phất ! Lúc thực hành Thi la Ba la mật, đại Bồ tát quan sát các hữu tình ở nơi ác đạo, thấy nữ sắc đẹp sanh lòng tham luyến thì phải phát khởi bốn ý tưởng chán lìa đó là những ý tưởng thối thất, té ngã, đi cầu tiêu và mủ chảy cứt thúi dơ .
Nầy Xá Lợi Phất ! Các hữu tình ở ác đạo mà có hiểu biết, thấy người nữ đẹp còn phải có những ý tưởng như trên, huống là loài người .
Nầy Xá Lợi Phất ! Các Thiện nam tử ở Đại thừa, những người chán lìa tất cả pháp hữu vi khi thấy nữ sắc đẹp phải khởi bốn ý tưởng : Thối thất, té ngã, đi cầu tiêu, mủ cứt, nếu còn sinh lòng tham thì phải phát sanh ba ý tưởng thân thuộc ; nếu bằng mẹ thì tưởng là mẹ, bằng chị em thì tưởng là chị em, bằng con cháu thì tưởng là con cháu .
Nầy Xá Lợi Phất ! Đại Bồ tát nghe Phật giảng dạy mà khéo hiểu được thì phải tùy thuận kinh điển Thi la Ba la mật như vậy.Tại sao? Vì khó có chúng sanh nào từ đời lâu xa đến nay mà chẳng đã từng làm mẹ ta, nếu gần kề thê thiếp nữ nhân, đó là gần kề bà mẹ đời quá khứ vậy .
Và trong các bản kinh khác cũng có những đoạn tương tợ như kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 3, trang 110, ấn bản năm 1998, do Hòa thượng Thanh Từ và Hòa thượng Thiện Siêu dịch .
-Lúc ấy Tôn giả A Nan bạch Thế Tôn :
-Phải làm thế nào khi gặp người nữ ? Bởi vì hiện nay Tỳ kheo đúng thời đắp y mang bát đi từng nhà khất thực, tạo phước độ sanh .
Phật bảo A Nan :
-Đừng gặp gỡ họ. Nếu có gặp đừng nói chuyện với họ. Nếu cùng nói chuyện phải giữ tâm ý chuyên nhất .
Bấy giờ Thế Tôn nói kệ :
Đừng giao thiệp người nữ
Cũng đừng nói chuyện chung
Người có thể xa lìa
Ắt lìa khỏi tám nạn.
Còn trong kinh trường A Hàm, tập 1, trang 205, ấn bản năm 1991,
do Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm dịch. Phật dạy ngài A Nan thế nầy :
. . . Tôn giả A Nan bạch Phật :
-Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, có những người nữ đến xin thụ giáo thì làm sao ?
Phật dạy :
-Chớ cho họ gặp .
-Giả sử phải gặp thì làm sao ?
-Chớ nói chuyện với họ .
-Giả sử phải nói chuyện với họ thì làm sao ?
-Lo thu nhiếp tâm ý .
Và sau cùng trong Trường Bộ kinh, tập 1, trang 644, ấn bản năm 1991. Phật dạy Tôn giả A Nan :
-Bạch Thế Tôn, chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào ?
-Nầy Ananda, chớ có thấy chúng .
-Bạch Thế Tôn, nếu phải thấy chúng, thì phải như thế nào ?
-Nầy Ananda, chớ có nói chuyện với chúng .
-Bạch Thế Tôn, nếu phải nói chuyện với chúng, thời phải làm thế
nào ?
-Nầy Ananda, phải an trú chánh niệm .
---------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19)
Dịch âm : Đệ tam thập nhị chương .
-Phật ngôn : Nhơn tùng ái dục sanh ưu, tùng ưu sanh bố, nhược ly ư ái, hà ưu hà bố ?
Dịch nghĩa : Chương ba mươi hai .
-Phật dạy : Người từ ái dục sanh lo, từ lo sanh sợ, nếu xa được ái dục, thì có gì phải lo sợ !
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Chương ba mươi hai, có thể nói là chương có số chữ ít nhất nhưng lại liên hệ đến các kinh nhiều nhất. Sau đây là những đoạn kinh tương ưng liên hệ :
-Trung Bộ kinh, tập 2, trang 596, ấn bản năm 1992, do Hòa thượng Minh Châu dịch .
-Đức Thế Tôn nói :
Thật sự là như vậy, nầy Bà la môn. Thật sự là như vậy, nầy Bà la môn. Sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái .
Nầy Bà la môn, đây là một pháp môn, do pháp môn nầy, cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái. Nầy Bà la môn, thuở xưa, ở tại Savatthi nầy, bà mẹ của một người đàn bà mệnh chung. Từ khi bà ta mệnh chung, người đàn bà nầy phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường nầy qua đường khác, từ ngã tư đường nầy qua ngã tư đường khác và nói: “Người có thấy mẹ tôi đâu không ? Người có thấy mẹ tôi đâu không ?”.
Nầy Bà la môn, đây là một pháp môn, do pháp môn nầy, cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái. Nầy Bà la môn, thuở xưa ở tại Savatthi nầy, người cha của một người đàn bà mệnh chung, hay người anh mệnh chung, người chị mệnh chung, hoặc người con trai mệnh chung, người con gái mệnh
chung, và người chồng mệnh chung. Từ khi người chồng mệnh chung, người đàn bà nầy phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường nầy qua đường khác, đi từ ngã tư đường nầy qua ngã tư đường khác và nói : “ Người có thấy chồng tôi đâu không ? Người
có thấy chồng tôi đâu không ?”.
Nầy Bà la môn, đây là một pháp môn, do pháp môn nầy cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái. Nầy Bà la môn, thuở xưa, ở tại Savatthi nầy, người mẹ của một người đàn ông mệnh chung. Từ khi bà ta mệnh chung, người đàn ông nầy phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường nầy qua đường khác, đi từ ngã tư đường nầy qua ngã tư đường khác và nói : “Người có thấy mẹ tôi đâu không ? Người có thấy mẹ tôi đâu không ? Người có thấy mẹ tôi đâu không ?”.
Nầy Bà la môn, đây là một pháp môn, do pháp môn nầy cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh, hiện hữu từ nơi ái. Nầy Bà la môn, thuở xưa, ở tại Savatthi nầy, người cha của một người đàn ông mệnh chung, hay người anh mệnh chung, người chị mệnh chung, hoặc người con gái mệnh chung, người con trai mệnh chung
và người vợ mệnh chung. Từ khi người vợ mệnh chung, ngươi đàn
ông nầy phát điên cuồng, tâm tư hỗn loạn, đi từ đường nầy qua đường khác, đi từ ngã tư đường nầy qua ngã tư đương khác, và nói : “ Người có thấy vợ tôi đâu không ? Người có thấy vợ tôi đâu không ?”.
Nầy Bà la môn, đây là một pháp môn, do pháp môn nầy cần phải được hiểu là sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái. Nầy Bà la môn, thuở xưa chính tại thành Savatthi nầy, một người đàn bà đi về thăm gia đình bà con. Những người bà con ấy của người đàn bà muốn dùng sức mạnh bắt người đàn bà ấy phải xa chồng và muốn gả cho một người đàn ông khác, người đàn bà ấy không chịu. Rồi người đàn bà ấy nói với chồng mình : ” Nầy Hiền phu, những người bà con nầy muốn dùng sức mạnh bắt tôi phải xa anh và muốn gả tôi cho một người đàn ông khác. Nhưng tôi không muốn như vậy. “ Rồi người ấy chặt người đàn bà ấy làm hai, rồi tự vận,nghĩ rằng: “Hai chúng ta sẽ gặp nhau trong đời sau.” Nầy Bà la môn, do pháp môn nầy cần phải được hiểu rằng sầu, bi, khổ, ưu, não do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 1)
Tiếp theo :
Trong kinh Tạp A Hàm, tập 3, trang 290, ấn bản năm 1994, do Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Có đoạn :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật du hành tại xứ Lực Sĩ, đến vùng đất Uất tỳ la, rừng Anh Vũ Diêm phù đang nói pháp về nguyên nhân của khổ và sự dứt khổ hiện tại .
“Ta đến Sa môn Cù đàm. Nếu ta đến Sa môn Cù đàm chắc chắn Ngài sẽ vì ta nói về nguyên nhân của khổ và sự dứt khổ hiện tại .Thôn chủ suy nghĩ xong, vội vàng đi đến làng Uất tỳ la, nơi Phật đang trụ, đảnh lễ Phật rồi lui ngồi một bên, bạch Phật :
-Bạch Thế Tôn : Con nghe Thế Tôn thường hay vì người thuyết pháp về nguyên nhân của khổ và sự dứt khổ hiện tại. Lành thay ! Thế Tôn ! xin vì con nói về nguyên nhân của khổ và sự dứt khổ hiện tại !
Phật bảo thôn chủ :
-Nếu Ta nói pháp quá khứ khổ, nguyên nhân của khổ(khổ tập)và sự dứt khổ, biết người đối với pháp ấy là tin hay không tin, là muốn hay không muốn, là nghĩ nhớ hay chẳng nghĩ nhớ, là ưa thích hay chẳng ưa thích ? Hiện tại ông có khổ không ? Nếu Ta nói về nguyên nhân của khổ và sự diệt khổ vị lai, biết Ông với điều ấy có tin hay không tin, muốn hay chẳng muốn, nghĩ đến hay chẳng nghĩ đến, ưa thích hay chẳng ưa thích ? Hiện tại Ông có khổ không ? Hôm nay Ta sẽ nói nguyên nhân của khổ và sự chấm dứt khổ hiện tại .
Nầy thôn chủ ! Nếu chúng sanh có các thứ khổ, tất cả đều do dục làm cội gốc, dục sinh, dục tập, dục khởi, dục làm nhân, dục làm duyên phát sanh khổ .
Thôn chủ bạch Phật :
-Thế Tôn thuyết pháp quá sơ lược, chẳng phân biệt rộng rãi, con không hiểu được. Xin Thế Tôn giải thích rộng hơn cho con được hiểu .
Phật bảo thôn chủ :
-Bầy giờ Ta hỏi Ông, tùy ý Ông đáp. Nầy thôn chủ ! Ông nghĩ sao, nếu chúng sanh ở trong làng Uất tỳ la, hoặc bị đánh, hoặc bị trói,
hoặc bị quở trách, hoặc bị giết hại, tâm Ông có cảm thấy lo buồn,
khổ não không ?
Thôn chủ bạch Phật :
-Thưa Thế Tôn ! Cũng không phải chỉ có một bề như thế đâu ! Nếu chúng sanh ở trong làng Uất tỳ la nầy đối với con có dục, có tham,
có yêu mến, có nghĩ nhớ, cùng nhau gần gũi, thân thiết thì họ bị trói hoặc bị đánh, hoặc bị quở trách hay bị sát hại, chắc chắn con sẽ sanh lo buồn khổ não. Nếu những người ấy đối với con không có dục,tham, không có yêu mến, nghĩ nhớ và không gần gũi thân thiết thì họ bị trói, bị đánh, bị quở trách, bị giết hại con đâu có can hệ gì mà sanh lo buồn khổ não ?
Phật bảo thôn chủ :
-Nên biết, chúng sanh có những thứ khổ phát sinh, tất cả đều do
dục làm cội gốc, dục sinh, dục tập, dục khởi, dục làm nhân, dục làm duyên sanh ra các thứ khổ. Thôn chủ ! Ông nghĩ thế nào, Ông nương nhờ cha mẹ mà chẳng thấy nhau thì có sanh thương nhớ không ?
Thôn chủ nói :
-Thưa Thế Tôn ! Không .
-Nầy thôn chủ ! Ông nghĩ sao, nếu Ông gần gũi cha mẹ, thường thấy, thường nghe, sẽ khởi thương nhớ không ?
Thôn chủ đáp :
-Thưa có .
Phật lại hỏi :
Thôn chủ ! Ý Ông nghĩ sao, nếu cha mẹ của người ấy hoặc vô thường, hoặc biến đổi khác đi, người ấy có khỏi lo buồn, khổ não không ?
Thôn chủ đáp :
-Thưa Thế Tôn ! Đúng như vậy, nếu cha mẹ của người đó vô thường hoặc thay đổi khác đi, người ấy sẽ khổ đến gần chết, chớ đâu phải chỉ lo buồn, khổ não không thôi .
Phật bảo thôn chủ :
-Nên biết, nếu chúng sanh có các thứ khổ phát sinh, tất cả đều do ái dục làm cội gốc, dục sinh, dục tập, dục khởi, dục làm nhân, dục làm duyên phát sinh khổ .
Thôn chủ nói :
-Lạ thay Thế Tôn ! Ngài khéo nói những ví dụ về sự nương cậy cha mẹ, con cũng có cha mẹ đang ở nơi khác, hằng ngày con thường sai người thăm hỏi cha mẹ đang ở nơi khác, hằng ngày con thường sai người thăm hỏi cha mẹ được an ổn, người nhà chưa trở về, con đã lấy làm lo lắng khổ sở, huống chi cha mẹ vô thường mà không buồn khổ .
Phật bảo thôn chủ :
-Thế nên, Ta nói chúng sanh có các ưu, khổ, tất cả đều do dục làm cội gốc, dục sinh, dục tập, dục khởi, dục làm nhân, dục làm duyên phát sinh buồn khổ .
Phật bảo thôn chủ :
-Nếu có bốn đối tượng ái niệm mà bị vô thường biến đổi thì sẽ có bốn ưu khổ phát sinh, nếu có ba, hai hoặc một đối tượng ái niệm mà bị vô thường, thay đổi thì có ba, hai, một ưu khổ phát sinh. Nầy thôn chủ ! Nếu người không ái niệm thì không có trần lao ưu khổ .
Phật liền nói kệ :
Nếu không có ái niệm thế gian
Thời không nạn trần lao ưu khổ
Tất cả ưu, khổ tiêu diệt hết
Giống như hoa sen chẳng dính nước.
----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 2)
Tiếp theo :
-Còn trong kinh Tạp A Hàm, tập 3, trang 501, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch. Phật dạy :
. . . Nầy Man Nhàn Đề, cũng như người mắc bệnh cùi, thân thể lở lói, bị trùng đục khoét mà lấy tay gãi, cào rách các mụt rồi hơ trên bếp lửa, như vậy chỉ làm cho các mụt lở lói hơn trước mà thôi,
nhưng bệnh nhân thì lấy sự ghẻ cùi làm thích thú. Nầy Man Nhàn Đề, cũng như thế, chúng sanh chưa ly dục, bị dục ái nhai nuốt, bị
dục nhiệt đốt cháy, mà cứ chạy theo dục. Nầy Man Nhàn Đề, chúng sanh ấy, vì chưa ly dục, bị dục ái nhai nuốt, bị dục nhiệt đốt cháy,
mà cứ chạy theo dục, thì nhiệt chỉ làm cho dục tăng trưởng, làm cho ái bành trướng thêm mà thôi; nhưng chúng sanh ấy thì lại lấy ái dục làm sự khoái lạc. Nếu chúng sanh ấy không đoạn dục, không ly dục
ái mà đã an trụ, sẽ an trụ, hay đang an trụ với nội tâm tịch tĩnh, thì điều đó không thể xảy ra. Vì sao ? Vì đó không phải là đạo lý để đoạn dục, để ly dục ái, mà là chạy theo dục. Nầy Man Nhàn Đề,
cũng như vua và đại thần hưởng năm dục dễ dàng chớ không khó. Nếu các vị ấy không đoạn dục, không ly dục ái mà đã an trụ, sẽ an trụ hay đang an trụ với nội tâm tịch tĩnh, thì điều đó không có được. Vì sao ? Vì đó không phải là đạo lý để đoạn dục, để ly dục ái mà là chạy theo dục. Cũng vậy, nầy Man Nhàn Đề, chúng sanh chưa ly dục, bị dục ái nhai nuốt, bị dục nhiệt thiêu đốt, mà chạy theo dục,
thì nầy Man Nhàn Đề, chúng sanh ấy chỉ làm cho dục tăng trưởng
làm cho dục ái bành trướng thêm mà thôi; nhưng chúng sanh ấy thì lấy dục ái làm sự hoan lạc. Nếu chúng sanh không đoạn dục,
không ly dục ái mà đã an trụ, đang an trụ và sẽ an trụ với nội tâm tịch tĩnh, thì điều đó không thể xảy ra được. Vì sao ? Vì đó không phải là đạo lý để đoạn dục, để ly dục ái mà là chạy theo dục .
Nầy Man Nhàn Đề, cũng như người mắc bệnh cùi, thân thể lở lói,
bị trùng đục khoét, lấy tay gãi, cào rách các mụt, hơ bên bếp lửa; có người xót thương mưu cầu thiện lợi và hữu ích, an ổn và khoái lạc nên cho một thứ thuốc hay nào đó. Khi được cho thứ thuốc hay nào đó, trị bệnh có hiệu quả, không làm hư hoại các căn, người bệnh khỏi đặng bệnh cùi, thân thể tráng kiện, bình phục như cũ. Sau khi lành bệnh, nếu thấy ai mắc bệnh cùi, thân thể lở lói, bị
trùng đục khoét, lấy tay gãi, cào rách các mụt, hơ bên bếp lửa, nầy
Man Nhàn Đề, thấy vậy, người ấy có hoan hỷ ngợi khen chăng ?
Man Nhàn Đề đáp :
-Dạ không, thưa Cù Đàm. Vì sao ? Vì có bệnh mới cần thuốc, chớ không bệnh thì không cần .
-Nầy Man Nhàn Đề. Ông nghĩ thế nào ? Người mắc bệnh cùi ấy
chữa bệnh có kết quả, không hư hoại các căn, thoát khỏi bệnh cùi,
thân thể khỏe mạnh hoàn toàn, bình phục như cũ. Có hai người lực sĩ bắt người ấy hơ trên bếp lửa, người ấy hoảng hốt né tránh vì cảm thấy quá nóng. Nầy Man Nhàn Đề, Ông nghĩ thế nào, bếp lửa bấy
giờ lại nóng, khiến cho rất khổ, nguy hiểm hơn trước nhiều lắm chăng ?
Dạ không, thưa Cù Đàm. Trước kia còn mắc bệnh cùi, thân thể lở lói, bị trùng đục khoét, bệnh nhân lấy tay gãi, cào rách các mụt, hơ bên bếp lửa. Đối với sự nóng bức của lửa, bệnh nhân lại cảm thấy hoan lạc; ấy là do tâm mê loạn mà có ý tưởng điên đảo. Thưa Cù Đàm, bây giờ trị bệnh có kết quả, không hư hoại các căn, thoát khỏi bệnh cùi, thân thể khỏe mạnh hoàn toàn bình phục như cũ, người ấy đối với
sự khổ bức của lửa lại cảm thấy khổ sở, như vậy là do tâm sáng suốt, không có ý tưởng điên đảo .
-Nầy Man Nhàn Đề, người mắc bệnh cùi, thân thể lở lói, bị trùng đục khoét, bệnh nhân lấy tay gãi, cào rách các mụt, hơ trên bếp lửa; đối với sự khổ bức của lửa, bệnh nhân lại thấy khoan khoái; ấy là do tâm mê loạn, có ý tưởng điên đảo. Cũng vậy, nầy Man Nhàn Đề,
chúng sanh không ly dục, bị dục ái nhai nuốt, bị dục nhiệt đốt cháy mà chạy theo dục; những kẻ ấy đối với khổ dục lại có ý tưởng dục lạc; ấy là do tâm mê loạn, có ý tưởng điên đảo .
Nầy Man Nhàn Đề, người trị bệnh đã có kết quả, không hư hoại các căn, đã khỏi bênh ghẻ cùi, thân thể khỏe mạnh, hoàn toàn bình phục như cũ; người ấy đối với sự khổ bức của lửa thì cảm thấy đau
khổ; ấy là do tâm yên ổn, không có ý tưởng điên đảo, cũng vậy, nầy Man Nhà Đề, Ta đối với khổ dục, thì có ý tưởng về khổ dục đúng như thật, không có ý tưởng điên đảo. Vì sao ? Nầy Man Nhàn Đề, vì dục quá khứ là bất tịnh, xấu xa, rất đáng ghê tởm, không thể hướng đến, não hại, gây đau khổ; dục vị lai và hiện tại cũng bất tịnh, xấu xa rất đáng ghê tởm, không thể hướng đến, não hại, cảm thọ khổ. Cho nên, nầy Man Nhàn Đề, Như Lai, bậc Vô Sở Trước Đẳng Chánh Giác nói rằng : “ Không bệnh là thiện lợi bậc nhất, Niết bàn là sự an lạc
tối thượng ”.
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 3)
Tiếp theo :
-Lại trong kinh Tạp A Hàm, tập 2, trang 593, ấn bản ăm 1992, (nt).
Đức Thế Tôn dạy như sau :
-Nầy Ma Ha Nam, có đặc tính của năm dục, đáng yêu, đáng mơ
tưởng, hoan hỷ, đi đôi với dục, khiến cho người ta ham thích. Những gì là năm : Đó là mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi
hương, lưỡi nếm vị và thân cảm xúc .
Nầy Ma Ha Nam, vị ngọt của dục chỉ cùng cực đến đó chớ không hơn nữa, nhưng tai hoạn của nó thì lại rất nhiều. Nầy Ma Ha Nam,
thế nào là tai hoạn của dục ? Nầy Ma Ha Nam, một Thiện nam tử tuỳ theo kỹ thuật riêng để mưu sinh hoặc làm ruộng, buôn bán,
hoặc đọc sách, hoặc giỏi toán thuật, biết công số, khéo in khắc, làm văn chương, tạo thủ bút, hoặc hiểu kinh, thư, hoặc làm võ tướng,
hoặc phụng sự vua. Người ấy khi gặp lạnh phải chịu lạnh, khi gặp nóng bị đói khát, mệt nhọc, bị muỗi mòng châm chích; người ấy phải làm nghề nghiệp như thế để mong kiếm được tiền của. Nầy Ma Ha Nam, Thiện nam tử ấy bằng những phương tiện như vậy,
làm những công việc như vậy, để mong cầu như vậy, nhưng nếu không kiếm được tiền của thì sinh khổ sở, lo buồn, rầu rĩ, tâm hồn
si ám và nói rằng : “Luống công làm lụng, khổ công vô ích mà không có kết quả”.Nầy Ma Ha Nam, Thiện nam tử ấy, bằng những phương tiện như vậy, làm những công việc như vậy, mong cầu như vậy, nếu kiếm được tiền của, người ấy sanh yêu quí, giữ gìn, cất giấu, vì sao vậy ? “Tài vật nầy của ta, đừng để bị vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu,
hư hại, mất mát, hoặc xuất tài vô lợi, hoặc làm việc gì mà không thành tựu”. Người ấy giữ gìn, cất giấu như vậy, nhưng nếu rủi bị vua đoạt, giặc cướp, lửa thiêu, hư hại, mất mát, thì sinh khổ sở, lo buồn, rầu rĩ, tâm tánh si ám và cho rằng : “Vật ta yêu quý nhớ nghĩ suốt đêm ngày nay đã không còn”. Nầy Ma Ha Nam, đó là nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc, nên mẹ tranh giành với con, con tranh giành với mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con, dòng họ giành giựt lẫn nhau. Vì giành giựt lẫn nhau như vậy nên mẹ bêu xấu con, con bêu xấu mẹ, cha con, anh em, chị em, bà con dòng họ bêu xấu lẫn nhau;
thân thích còn vậy, huống nữa là người ngoài. Đó là những nỗi khổ
ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên vua tranh giành với vua; Phạm chí tranh giành với Phạm chí; Cư sĩ tranh giành với Cư sĩ; dân tranh giành với dân; nước nầy tranh giành với nước nọ. Bởi tranh giành nên thù nghịch nhau rồi dùng đủ loại binh khí để làm hại nhau, hoặc nắm tay thoi, ném đá, hoặc dùng gậy đánh, dao chặt. Trong khi giao đấu kẻ chết, người sợ hãi, khổ sở vô cùng. Nầy Ma Ha Nam, đó là những nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục,
lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoát trường bào, cầm giáo, cung tên, hoặc cầm đao, thuẫn, đi vào quân trận, hoặc đánh nhau bằng voi, bằng ngựa, bằng xe, hoặc dùng bộ binh đánh nhau, hoặc cho trai gái đánh nhau. Trong khi giao đấu kẻ chết, người sợ hãi,
khổ sở vô cùng. Nầy Ma Ha Nam, đó là nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoát trường bào, cầm giáo,
cung tên, hoặc cầm đao, thuẫn, đi tranh đoạt nước người, công thành, phá lũy, chống đối lẫn nhau, thúc trống, thổi kèn, bắt loa kêu réo, hoặc dùng chùy đập, hoặc lấy mâu đâm, hoặc dùng bánh xe bén cắt, hoặc lăn đá đè, hoặc dùng nõ lớn, hoặc rót nước đông sôi vào mắt. Trong khi giao đấu kẻ chết, người sợ hãi, khổ sở vô cùng. Nầy Ma Ha Nam, đó là nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục,
lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên mang áo giáp, khoát trường bào, cầm giáo,
cung tên hoặc cầm đao, thuẫn vào xóm, vào ấp, vào nước, vào thành đục vách, phá kho, cướp đoạt tài vật, chận đường giao thông,
hoặc đến ngõ khác phá xóm, phá làng, phá thành diệt nước. Lúc đó hoặc bị người của vua bắt được, đem khảo trị đủ cách, chặt tay,
chặt chân, chặt cả tay chân, cát tai, cắt mũi, hoặc cắt cả tai mũi,
hoặc lóc từng miếng thịt, bứt râu, bứt tóc, hoặc bứt cả râu tóc, hoặc nhốt vào cũi quấn vải hỏa thiêu, hoặc ủ trong cát, buột cỏ rồi đốt, hoặc bỏ vào bụng lừa sắt, hoặc bỏ vào miệng heo sắt, hoặc đặt vào miệng cọp sắt rồi đốt, hoặc bỏ vào vạc đồng, hoặc bỏ vào vạc
sắt rồi nấu, hoặc chặt ra từng khúc, hoặc dùng xoa bén đâm, hoặc lấy móc sắt móc, hoặc nằm trên giường sắt rồi lấy dầu sôi rót, hoặc bắt ngồi trong cối sắt rồi lấy chày sắt giã, hoặc cho rắn rít mổ cắn,
hoặc dùng roi quất, hoặc dùng gậy thọc, hoặc dùng dùi đâm, hoặc đem thây bêu ở nguyên quán, hoặc chém đầu rồi bêu lên trên cây.
Trong thường hợp đó, kẻ ấy hoặc chết, hoặc sợ hãi, khổ sở vô cùng.
Nầy Ma Ha Nam, đó là những nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục,
duyên nơi dục, lấy dục làm gốc.
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam, vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu, ý làm ác. Người ấy về sau bị bệnh nằm liệt giường, hoặc nằm lăn trên đất vì khổ bức
thân, toàn thân cảm giác khổ sở vô cùng, không còn được yêu thích. Người ấy vì lúc trước thân làm ác, khẩu ý làm ác khi sắp chết chúng che ngay trước mắt, giống như mặt trời sắp lặn, bóng sườn núi lớn che lấp mặt đất. Cũng vậy, người ấy bị những ác nghiệp của thân, khẩu và ý che lấp trước mắt người ấy nghĩ rằng :“Các ác hạnh
ta làm trước kia, bây giờ chúng che lấp trước mắt ta. Trước kia ta không tạo phước nghiệp mà chỉ tạo toàn ác nghiệp. Giả sử có ai chỉ làm ác nghiệp, hung bạo, không tạo phước, không hành thiện,
khi sống không biết lo sợ, gần chết không chỗ nương cậy, không chỗ quay về. Người ấy thác sinh về chỗ nào thì ta cũng thác sinh về chỗ đó”. Do đó, sinh hối hận mà chết không an lành, chết không được phước. Nầy Ma Ha Nam, đó là những nỗi khổ ở đời nầy, nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Lại nữa, nầy Ma Ha Nam vì chúng sanh nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc nên thân làm ác, khẩu, ý làm ác nên nhơn nơi đó, duyên nới đó mà khi thân hoại mạng chung phải đến chỗ ác,
sinh vào địa ngục. Nầy Ma Ha Nam, đó là những nỗi khổ ở đời sau,
nhơn nơi dục, duyên nơi dục, lấy dục làm gốc .
Nầy Ma Ha Nam, vì vậy nên biết dục tuyệt đối không có lạc, chỉ toàn là khổ hoạn. Đa văn Thánh đệ tử nếu không biết đúng như thật, vị ấy bị dục ngăn che, chẳng được xả dục và vô thượng tịch tĩnh. Nầy Ma Ha Nam, vị Đa văn Thánh đệ tử như vậy sẽ nhơn nơi dục mà bị thối chuyển. Nầy Ma Ha Nam, Ta biết là dục không có lạc mà chỉ toàn là khổ hoạn. Nầy Ma Ha Nam, Ta biết đúng như thật nên không bị dục ngăn che, cũng không bị ác pháp ràng buộc, vì vậy được xả, lạc và vô thượng tịch tĩnh. Nầy Ma Ha Nam, vì vậy Ta không nhơn nơi dục mà bị thối chuyển .
- + -
. . . ( Như kinh trên, chỉ khác phần sau nầy : )
-Thế nào là sự xuất yếu của dục ? Nếu đoạn trừ dục, xả ly dục, diệt hết dục, vượt qua khỏi dục, như vậy gọi là sự xuất yếu của dục .
Nếu Sa môn, Phạm chí nào không biết đúng như thât vị ngọt của dục, tai hoạn của dục, sự xuất yếu của dục, thì không bao giờ có thể tự mình đoạn dục huống nữa là đoạn dục cho kẻ khác. Nếu Sa môn, Phạm chí nào biết đúng như thật vị ngọt của dục, tai hoạn của dục,
sự xuất yếu của dục, thì có thể tự mình đoạn dục và có thể đoạn dục cho kẻ khác. (Kinh Khổ Ấm A-B).
----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 4)
Tiếp theo :
-Còn trong kinh Trung A Hàm, tập 4, trang 707, ấn bản năm 1991,
(nt). Chép rằng :
Tôi nghe như vầy :
-Một thời Phật du hóa tại nước Xá Vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp Cô Độc .
Bấy giờ, có một người Phạm chí, chỉ có độc nhất một đứa con,
trong lòng hết sức yêu thương, tâm ý khắng khít, chìu chuộng. Sau khi đứa con mạng chung, người Phạm chí ấy ưu sầu, không thể ăn uống được, quên cả áo chăn, quên cả trang sức, chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm .
Rồi Phạm chí lang thang khắp nơi, đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong
ngồi xuống một bên, Thế Tôn hỏi :
-Ông sao nay hình như các căn không trú tự tâm ?
Phạm chí đáp :
-Tôi làm sao các căn có thể an trú tự tâm được ? Vì sao vậy ? Vì tôi chỉ có một đứa con độc nhất, trong lòng hết sức thương yêu, tâm ý khắng khít, chìu chuộng, nhìn hoài không chán. Bỗng nhiên nó mạng chung. Sau khi nó mạng chung, tôi ưu sầu, không thể ăn uống được, quên cả áo chăn, quên cả trang sức, chỉ biết đi ra bãi tha ma mà khóc, nhớ tưởng chỗ con nằm .
Thế Tôn hỏi :
-Thật vậy, nầy Phạm chí. Thật vậy, nầy Phạm chí. Nếu khi ái sanh,
thì phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não.
Phạm chí nói :
Cù Đàm, sao lại nói khi ái sanh, thì cũng phát sanh những sầu bi,
khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não ? Cù Đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc .
Thế Tôn đến ba lần nói như vậy .
-Thật vậy, nầy Phạm chí. Thật vậy, nầy Phạm chí. Khi ái sanh thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Phạm chí cũng đến ba lần nói :
-Cù Đàm, sao lại nói ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não ? Cù Đàm nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh, tâm hoan lạc .
Lúc bấy giờ, khi Phạm chí nghe những lời Phật nói, không cho là phải, mà lại bác bỏ, rồi rời chỗ ngồi, đứng dậy, lắc đầu bỏ đi .
Bấy giờ ở trước cổng Thắng lâm, có một số người thị dân đang đánh bạc. Phạm chí từ xa trông thấy, bèn nghĩ rằng : “Trong đời nếu có những người thông minh, trí tuệ, cũng không thể hơn được những kẻ đánh bạc. Ta hãy đến đó. Những gì vừa được thảo luận với Cù Đàm, ta sẽ kể lại hết cho họ nghe”. Rồi Phạm chí đi đến chỗ đông những người đang đánh bạc ấy, và đem những gì vừa được thảo luận với Thế Tôn kể lại hết cho họ nghe. Những người thị dân đang đánh bạc nầy nghe xong, nói rằng :“Sao lại nói khi ái
sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền
muộn, áo não ? Phạm chí nên biết, khi ái sanh thì hỷ cũng sanh,
tâm hoan lạc”.
Phạm chí nghe xong, bèn nghĩ rằng : “Điều mà người đánh bạc nói rất phù hợp với ta”. Và ông gật đầu rồi đi.
Rồi vấn đề nầy lần lượt được truyền rộng ra, cho đến lọt vào vương cung. Ba tư nặc, vua nước Câu tát la, nghe đồn Sa môn Cù đàm nói như vậy : “Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não”. Vua bèn nói với hoàng hậu Mạt lỵ rằng :
-Tôi nghe đồn Sa môn Cù đàm nói như vầy : “Nếu khi ái sanh thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não” .
Hoàng hậu nghe xong, thưa :
Thật vậy, Đại vương. Thật vậy, Đại vương. Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Vua Ba tư nặc, nước Câu tát la nói với hoàng hậu Mạt lỵ :
-Nghe Tôn sư nói gì, thì đệ tử cũng nhất định đồng ý. Sa môn Cù đàm là Tôn sư của Khanh cho nên Khanh nói như vậy. Khanh là vị đệ tử của Ngài nên Khanh nói như vậy; “Khi ái sanh thì, liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não”.
Hoàng hậu Mạt lỵ thưa :
-Đại vương, nếu không tin, hãy đích thân đến mà hỏi, hoặc hãy sai
sứ đi .
Rồi vua Ba tư nặc nước Câu tát la bèn gọi Phạm chí Na lỵ ương già đến và bảo :
-Ông đi đén chỗ sa môn Cù đàm, thay ta mà chào hỏi Sa môn Cù đàm Thánh thể mạnh khỏe, bình an, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng. Rồi nói như vầy : “ Vua Ba tư nặc nước Câu tát la, có lời hỏi thăm Thánh thể mạnh khỏe, khí lực bình thường chăng . Sa môn Cù đàm có thật nói rằng ; “ Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não”chăng ?. Nầy Na lỵ ương già, nếu Sa môn Cù đàm có nói những gì. Ông hãy khéo ghi nhớ và thuộc kỹ. Vì sao ? Vì những người như vậy không bao giờ nói láo .
Phạm chí Na lỵ ương già vâng lời vua, đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong, ngồi qua một bên và bạch :
-Bạch Cù đàm, vua Ba tư nặc, nước Câu tát la, có lời thăm hỏi
Thánh thể mạnh khỏe, bình an, không bệnh, đi đứng thoải mái, khí lực bình thường chăng. Sa môn Cù đàm có thật nói như vầy : “Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền
muộn, áo não chăng ?”.
Thế Tôn nói :
Nầy Na lỵ ương già. Ta nay hỏi Ông, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Na lỵ ương già, Ông nghĩ sao ? Giả sử một người có mẹ đã chết, người ấy phát cuồng, loạn trí, cởi áo, cởi quần, trần truồng mà chạy rong khắp các ngã đường và nói như vầy : “Nầy các Người, có thấy mẹ tôi chăng ? Nầy các Người, có thấy mẹ tôi chăng ?”. Nầy Na lỵ ương già, do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Cũng vậy, nếu cha chết, anh, chị, em chết, con cái chết, vợ chết,
Người ấy phát cuồng, loạn trí, cởi áo, cởi quần, trần truồng chạy rong khắp các ngỏ đường và nói như vầy : “Nầy các Người, có thấy vợ con tôi chăng ? Nầy các Người, có thấy vợ con tôi chăng ?”.Nầy
Na lỵ ương già, do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não.
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 5)
Tiếp theo :
Nầy Na lỵ ương già, thuở xưa, có một người đàn bà về thăm gia đình, các thân tộc của người nầy muốn cưỡng bức cải giá. Người đàn bà ấy tức tốc trở về nói với bên nhà chồng, nói với chồng rằng;
“Nầy Ông, hãy biết cho, thân tộc của tôi muốn cướp đoạt vợ của Ông để gả cho người khác, Ông có mưu kế gì chăng ?”. Người ấy nắm cánh tay bà vợ dẫn vào trong nhà nói rằng : “Chết chung, sang đời khác với nhau ! Chết chung, sang đời khác với nhau !”, rồi lấy con dao bén chém vợ, và mình cũng tự sát luôn. Nầy Na lỵ ương già, do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh
những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Phạm chí Na lỵ ương già, sau khi nghe những lời Phật nói, khéo ghi nhớ và thuộc kỹ, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi quanh ba vòng, rồi
trở về. Về đến chỗ vua Ba tư nặc nước Câu tát la tâu :
-Tâu Thiên vương, Sa môn Cù đàm quả thật có nói như vầy : “Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ,
phiền muộn, áo não”.
Vua Ba tư nặc nước Câu tát la nghe rồi, nói với hoàng hậu Mạt lỵ :
-Sa môn Cù đàm quả thật có nói như vầy : “Nếu khi ái sanh, thì
liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não”.
Hoàng hậu Mạt lỵ tâu :
-Đại vương, tôi hỏi Đại vương, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời.
Ý Đại vương nghĩ sao ? Đại vương có thương yêu đại tướng Bệ lưu
la chăng ?
-Thật sự có yêu thương .
Mạt lỵ lại hỏi :
-Nếu đại tướng Lưu la bị biến dịch, đổi khác, thì Đại vương sẽ như thế nào ?
-Nầy Mạt lỵ, nếu đại tướng Bệ lưu la bị biến dịch, đổi khác, thì tôi
tất sanh sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Mạt lỵ tâu :
-Do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thì liền phát sanh những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muôn, áo não .
Mạt lỵ lại hỏi :
-Vương có thương yêu đại thần Thi lỵ a đồ, yêu con voi Nhất bôn
đà ly, yêu đồng nữ Bà di ly, yêu Vũ nhật cái, yêu nước Ca thi và
Câu tát la chẳng ?
-Thật sự có yêu thương .
Mạt lỵ lại hỏi :
-Nếu nước Câu thi và Câu tát la bị biến dịch, đổi khác, thì Vương
sẽ ra sao ?
-Nầy Mạt lỵ, tôi được hưởng thụ thỏa mãn năm thứ diệu dục là
do ở hai nước nầy. Nếu Câu thi và Câu tát la mà bị biến dịch, đổi khác, thì mạng sống tôi cũng không còn, nói gì đến những sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Mạt lỵ tâu :
-Do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thời liền phát sanh những sầu bi, khóc than, phiền muộn, áo não .
Mạt lỵ lại hỏi vua :
-Ý Đại vương nghĩ sao ? Đại vương có yêu thương thần thiếp chăng ?
Vua đáp :
-Thật sự tôi rất thương yêu Khanh .
Mạt lỵ lại hỏi :
-Nếu thần thiếp bất thần bị biến dịch, đổi khác, thì Vương sẽ ra sao ?
-Nầy Mạt lỵ, nếu Khanh bất thần bị biến dịch, đổi khác, thì tôi tất sanh sầu bi, khóc than, ưu khổ, phiền muộn, áo não .
Mạt lỵ tâu :
-Do sự kiện nầy mà biết rằng : Nếu khi ái sanh, thời liền phát sanh những sầu bi, khóc than, phiền muộn, áo não .
Vua Ba tư nặc nước Câu tát la nói :
-Nầy Mạt lỵ, kể từ hôm nay Sa môn Cù đàm do sự kiện nầy là thầy của tôi, tôi là đệ tử của Ngài. Nầy Mạt lỵ, tôi nay tự quy y Phật,
Pháp và chúng Tỳ kheo. Cúi mong Thế Tôn nhận con làm Ưu bà tắc
kể từ hôm nay, trọn đời tự quy y cho đến khi mạng chung .
Đức Phật thuyết như vậy; vua Ba tư nặc nước Câu tát la và hoàng hậu Mạt lỵ sau khi nghe lời Phật dạy xong hoan hỷ phụng hành .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 6)
Tiếp theo :
-Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 1, trang 154, ấn bản năm 1997,
Do nhị vị Hòa thượng Thanh Từ và Thiện Siêu dịch. Cũng có một đoạn kinh giống hệt như đây, chỉ khác cách dịch, nên xin phép không trích dẫn .
Còn trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 4, trang 514, ấn bản năm 1993,
do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có đoạn ghi lại như sau :
. . . Nầy thôn trưởng Bhadraka, ở tại Uruvelakappa nầy có những người, nếu họ bị giết hay bị tù, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích,
nhưng con không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não .
Do nhân gì, do duyên gì, nầy thôn trưởng, đối với một số người ở
tại Uruvelakappa, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, thời Ông có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não ? Do nhân gì,
do duyên gì, nầy thôn trưởng, đối với một số người ở
Uruvelakappa, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị
chỉ trích, nhưng Ông không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não ?
Đối với một số người ở tại Uruvelakappa, bạch Thế Tôn, nếu họ
bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, con có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não, là vì con có dục tham đối với họ. Nhưng đối
với một số người ở Uruvelakappa, bạch Thế Tôn, nếu họ bị giết,
hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, nhưng con không khởi
lên sầu, bi, khổ, ưu, não, là vì con không có dục tham đối với họ .
-Ông nói : “Con có lòng dục tham đối với họ. Con không có lòng dục tham đối với họ”. Nầy thôn trưởng, có phải Ông được thấy,
được biết, được đạt tới tức thời, được thể nhập nhờ pháp nầy. Ông uốn nắn phương pháp (naya) theo phương pháp ấy đối với quá khứ, vị lai ? Nếu có khổ nào khởi lên trong quá khứ, tất cả khổ
ấy khởi lên lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân. Dục là căn bản của khổ. Phàm có khổ nào khởi lên trong tương lai, tất cả khổ
ấy khởi lên lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân. Dục là căn bản của khổ .
-Trong Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 74, ấn bản năm 1999, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Phẩm Pháp cú kệ Phật thuyết :
212-Do ái sanh sầu ưu
Do ái sanh sợ hãi
Ai thoát khỏi tham ái
Không sầu, đâu sợ hãi ?
213-Ái luyến sanh sầu khổ
Ái luyến sanh sợ hãi
Ai giải thoát ái luyến
Không sầu, đâu sợ hãi ?
214-Hỷ ái sanh sầu ưu
Hỷ ái sanh sợ hãi
Ai giải thoát hỷ ái
Không sầu, đâu sợ hãi ?
215-Dục ái sanh sầu ưu
Dục ái sanh sợ hãi
Ai thoát khỏi dục ái
Không sầu, đâu sợ hãi ?
216-Tham ái sanh sầu ưu
Tham ái sanh sợ hãi
Ai thoát khỏi tham ái
Không sầu, đâu sợ hãi ?
-Trong Tiểu Bộ kinh, tập 7, trang 683, ấn bản năm 2002, do Trần Phương Lan dịch. Kệ viết :
Cứ mỗi dục tham được bỏ đi
Một niềm hạnh phúc đến liền khi
Người nào muốn hưởng tròn an lạc
Phải bỏ mọi tham dục tức thì .
-Trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 1, trang 55, ấn bản năm 1993, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Phật nói kệ :
Họa từ dục vọng sanh
Khổ từ dục vọng khởi
Dục vọng được nhiếp phục
Nhờ vậy họa nhiếp phục
Tai họa được nhiếp phục
Nhờ vậy khổ nhiếp phục…
-Trong Tương Ưng Bộ kinh, tập 2, trang 197, ấn bản năm 1993, do (nt) . Phật dạy :
-Nầy các Tỳ kheo, những ai trong quá khứ là Sa môn hay Bà la môn thấy những gì khả ái, hấp dẫn ở đời là vô thường, thấy là khổ, thấy
là vô ngã, thấy là bệnh, thấy là đáng sợ hãi, những người ấy từ bỏ
ái .
Những ai từ bỏ ái, những người ấy từ bỏ sanh y. Những ai từ bỏ sanh y, những người ấy từ bỏ đau khổ. Những ai từ bỏ đau khổ,
những người ấy đã được giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Ta nói rằng họ đã giải thoát khỏi đau khổ .
-Trong kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 221, ấn bản năm 1995, do
Hòa thượng Thiện Siêu và Thanh Từ dịch. Phật lại nói :
. . . Có hành là do ái; nói ngã, ấy là ái; nói ngã sở, ấy là ái; nói vị lai
sẽ có, ấy là ái; nói vị lai sẽ không, ấy là ái; nói sẽ có sắc, ấy là ái; nói
sẽ không sắc, ấy là ái; nói sẽ có tưởng, ấy là ái; nói sẽ không tưởng
ấy là ái; nói sẽ chẳng phải tưởng, chẳng phải không tưởng, ấy là ái,
vì ái là bệnh, ái là ung nhọt, ái là mũi nhọn, nên phải khéo tư duy quán sát ái sanh ra khổ, phải thường xa lìa tham ái, chánh niệm,
chánh trí .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(19 tiếp 7)
Tiếp theo :
-Trong Trung Bộ kinh, tập 2, trang 600, ấn bản năm 1992, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Trong bản kinh Ái sanh có chép :
. . . Chính liên hệ đến sự tình nầy, tâu Đại vương, mà Thế Tôn, bậc
Trí giả, Kiến giả, bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác đã nói : “ Sầu, bi,
khổ, ưu, não khởi lên do ái sanh ra, hiện hữu từ nơi ái ”. Tâu Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Đại vương có khởi lên sầu, bi, khổ,
ưu, não không ?
-Nầy Mallika, nếu có một sự biến dịch, đổi khác xảy đến cho Hoàng hậu, thì sẽ có một sự đổi khác xảy ra cho mạng sống của ta thì làm
sao không khởi lên nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não ?
-Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (âm nghĩa) trang 140, ấn bản năm 1964,
do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Phật thuyết kệ :
Nếu lại có chúng sanh
Không rõ biết gốc khổ
Quá say nơi khổ nhơn
Chẳng tạm rời bỏ được
Phật vì hạng người nầy
Dùng phương tiện nói dạy
Nguyên nhân có các khổ
Tham dục là cội gốc
Nếu dứt được tham dục
Khổ không chỗ nương đổ
Dứt hết hẳn các khổ…
Âm Hán :
“Nhược hữu chúng sanh
Bất tri khổ bổn
Tham trước khổ nhơn
Bất năng tạm xả
Vị thị đẳng cố
Phương tiện thuyết đạo
Chư khổ sở nhơn
Tham dục vi bổn
Nhược diệt tham dục
Vô sở y chỉ
Diệt tận chư khổ”.
-Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 1, trang 422, ấn bản năm 1967,
do Hòa thượng Trí Tịnh dịch. Ở phẩm Thánh hạnh có ghi lại như
vầy :. . . Ví như Quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc
thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thì các kiết sử cũng
đi theo .
Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy,
chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó .
Ví như đất ướt thì có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sanh tất
cả mầm nghiệp phiền não .
Ví như có người lấy gái La sát làm vợ, gái La sát nầy hể sanh con
là ăn thịt, ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sanh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn luôn cả người, làm cho phải đọa địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ .
Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc,
liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm hại, sau khi chết
bị đọa trong ba đương ác .
Như sao chổi mọc thời trong thiên hạ phải bệnh tật, đói kém,
họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho
phàm phu cơ cùng thiếu thốn sanh bệnh phiền não lưu chuyển
trong sanh tử mang nhiều sự khổ .
Như người bị ung nhọt, trong nhọt sanh thịt thúi, người bệnh
nầy phải chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mảng thời thịt thúi
sanh trùng có thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng vậy, ái sanh trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không
điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác .
-Liên hệ đến chương nầy, kinh Bát Đại Nhân Giác cũng có đoạn tương ứng :
-Điều giác ngộ thứ hai : Tham muốn nhiều là khổ, bao sanh tử nhọc nhằn, đều từ tham dục ra; nếu ít muốn vô vi, thân tâm
được tự tại. (Kinh Bát Đại Nhân Giác, Hòa thượng Tinh Vân giảng, Thích Minh Quang dịch, ấn bản năm 2001) .
Và Hòa thượng Thanh Từ có dịch ra văn vần như sau :
-Điều thứ hai lại cần giác biết :
Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm nhiều.
Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu
Bởi chưng tham dục, mà chiêu khổ nầy.
Bớt lòng tham dục chẳng gây
Thân tâm tự tại, vui nầy ai hơn ?
(Kinh Bát Đại Nhân Giác, Thich Thanh Từ dịch, ấn bản năm 1973).
Sau đây là chính văn của đoạn kinh trên :
-Đệ lục giác tri : “Đa dục vi khổ, sanh tử bì lao, tùng tham dục
khởi, thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”.
-Cảm hứng với bài kinh nầy, tôi cũng thi hóa như sau :
Ham muốn nhiều những điều bất chánh
Là nguy cơ gồng gánh thương đau
Tử sanh, sanh tử bì lao
Nhọc nhằn thể xác, tiêu hao tinh thần !
Thảy đều do muốn ham quá đáng
Ngũ dục lạc chẳng chán món nào
Nếu muốn từ nay về sau
Bớt khổ thì phải hồi đầu tỉnh tâm.
Thiểu dục nuôi dưỡng tinh thần
Tam thường bất túc thân tâm an nhàn.
Nếu như có thời giờ chúng ta cũng nên suy gẫm xem, vì sao lại
có quá nhiều kinh điển đề cập đến ái và dục. Chăng lẽ ái và dục
có tầm cở quan trọng đến như thế ư ? Nếu không, sao Phật lại
nhắc đến nhiều như vậy ? Nếu thế, thì chúng phải hành xử như
thế nào để không phụ lời dạy của Thế Tôn ?
-“ Nam Mô Ly Bố Úy Như lai ”. Há chẳng phải là ly Ái, ly Dục đó
hay sao ??? .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20)
Dịch âm : Đệ tam thập tam chương .
-Phật ngôn : Phù vi đạo giả, thí như nhất nhơn dữ vạn nhơn chiến, quải khải xuất môn, ý hoặc khiếp nhược, hoặc bán lộ nhi thối, hoặc cánh đấu nhi tử, hoặc đắc thắng nhi hoàn; Sa môn học đạo ưng
đương kiên trì kỳ tâm, tinh tấn dũng nhuệ bất úy t iền cảnh, phá
diệt chúng ma nhi đắc đạo quả
Dịch nghĩa : Chương ba mươi ba .
-Xét ra người hành đạo thí như một người chiến đấu cùng muôn
người, mang áo giáp ra cửa, ý hoặc khiếp nhược, hoặc nửa đường rồi lui, hoặc chống cự đến chết, hoặc đắc thắng mà về. Sa môn học đạo phải nên giữ chắc tâm mình, tinh tấn lướt tới chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma chứng được đạo quả .
(Hoàn Quan Thích Giải Kinh dịch)
Dẫn :
-Tương ưng với chương ba mươi ba trên. Trong Tăng Chi Bộ kinh,
tập 2, trang 459, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch.
Kinh ghi lại thế nầy :
-Có năm người chiến sĩ nầy, nầy các Tỳ kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là năm ?
Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đao cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Người ấy, trong trận chiến ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực và hăng hái như vậy, đánh người ấy và áp đảo người ấy. Như
vậy, ở đây ở đây nầy các Tỳ kheo, có hạng người chiến sĩ như vậy. Đây là hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các người bà con. Khi chở người ấy đi và chưa đến các bà con, người ấy mệnh chung ở giữa đường. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có một hạng chiến sĩ như vậy. Đây là hạng chiến sĩ thứ hai, nầy các Tỳ kheo, có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương và khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các người bà con. Và những người bà con săn sóc và nuôi dưỡng người ấy. Người ấy trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi dưỡng bị mệnh
chung vì vết thương ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có một hạng người chiến sĩ như vậy. Đây là hạng người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có người chiến sĩ cầm kiếm và mâu
đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác làm cho người ấy bị thương, và khiêng người ấy đi, chở người ấy đến các người bà con. Và những bà con săn sóc và nuôi dưỡng người ấy. Người ấy, trong khi được các người bà con săn sóc và nuôi dưỡng,được chữa lành khỏi vết thương ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo có hạng người chiến sĩ như vậy. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có người chiến sĩ cầm kiễm và mâu
đeo cung và tên, tham gia vào chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong chiến trận ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có hạng chiến sĩ như vậy. Nầy các Tỳ kheo, ở đây là hạng chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời .
Năm hạng chiến sĩ nầy, nầy các Tỳ kheo, có mặt, hiện hữu ở đời .
-----------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiêp-1)
Tiếp theo :
Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, có những hạng người được ví dụ với năm hạng người chiến sĩ nầy có mặt, hiện hữu giữa các vị Tỳ kheo. Thế nào là năm ?
Ở đây, nầy các Tỳ kheo, một Tỳ kheo sống dựa vào ngôi làng hay thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đấp y, cầm bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, không phòng hộ thân, không phòng hộ lời, không phòng hộ tâm, niệm không an trú, các căn không được bảo vệ. Vị
ấy ở đấy thấy một nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công tâm vị ấy. Tâm bị tham dục tấn công,
không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học pháp, vị
ấy rơi vào hành dâm .
Ví như người chiến sĩ ấy, nầy các Tỳ kheo, cầm gươm và mâu, đeo cung và tên tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến
ấy nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy hăng hái nỗ lực như vậy, đánh người ấy và áp đảo người ấy. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có một hạng người như vậy. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng người được ví dụ với hạng chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo sống dựa vào một làng hay một
thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng ấy hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng hộ, với lời không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các căn không được bảo vệ. Ở đây, vị ấy thấy một nữ nhơn ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Được thấy nữ nhơn ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy, với tâm bị tham dục tấn công nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy nghĩ : “Ta hãy đi về khu vườn (chỗ Tăng ở) báo tin cho các Tỳ kheo : “Nầy các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh, tôi không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, tôi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục”. Vị ấy, trên con đường đi đến khu vườn, còn ở giữa đường, biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về đời sống thế tục .
Ví như, nầy các Tỳ kheo, người chiến sĩ cầm kiếm và mâu, đeo
cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy, trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác, trong khi người ấy nỗ lực hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy
đi, chở người ấy và đưa người ấy đến các người bà con. Khi chở người ấy đi và chưa đưa đến bà con, người ấy mệnh chung giữa đường. Nầy các Tỳ kheo, tuyên bố người nầy giống với ví dụ ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có một hạng người như vậy. Nầy các Tỳ kheo,
đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiêp-2)
Tiếp theo :
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, vị Tỳ kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào làng hay thị trấn để khất thực, thân không phòng hộ, lời không phòng hộ, tâm không phòng hộ, niệm không an trú, các căn không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, hay ăn mặc không kín đáo. Sau khi thấy nữ nhân ăn mặc không tề chỉnh, ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tâm tham dục bị tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu cháy. Vị ấy suy nghĩ như sau : “Ta hãy đi đến khu vườn báo tin cho các Tỳ kheo : “Nầy các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi khôg có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, tôi tuyên bố sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về đời sống thế tục”. Vị nầy đi đến khu vườn,
báo tin cho các Tỳ kheo : “Nầy các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh; sau khi biểu hiện sự yếu kém trong học tập, tôi từ bỏ học pháp, sẽ trở về với đời sống thế tục”. Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới, khuyên bảo như sau : “Nầy Hiền giả, Thế Tôn đã nói : “Các dục
vị ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đời đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một khúc xương khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại càng nhiều hơn.
Các dục được Thế Tôn ví dụ như bó đuốc bằng cỏ, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một hố than hừng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như một cơn mộng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như vật dụng mượn dùng, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví như quả của cây, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như lò thịt, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như cây gậy nhọn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn. Các dục được Thế Tôn ví dụ như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự
nguy hại ở đây lại nhiều hơn. “Tôn giả hãy tìm sự thoải mái trong Phạm hạnh ! Tôn giả chớ biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp và trở lui đời sống thế tục”.
Vị ấy được các vị đồng Phạm hạnh giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy, liền nói như sau : “Nầy các Hiền giả, dù cho Thế Tôn có nói các dục ngọt ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn, nhưng tôi không thể tiếp tục sống Phạm hạnh. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi sẽ trở về đời sống thế tục”. Sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, sau khi từ bỏ học pháp, vị ấy trở lại đời sống thế tục .
Ví như, nầy các Tỳ kheo, người chiến sĩ ấy, sau khi cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên tham gia vào trận chiến khốc liệt. Vị ấy, trong chiến trận ấy, nỗ lực, hăng hái. Nhưng các người khác trong khi có
nỗ lực, hăng hái như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy, và đưa người ấy đến các người bà con. Các người bà con săn sóc nuôi dưỡng người ấy. Người ấy tuy được các người bà con săn sóc nuôi dưỡng, nhưng bị mệnh chung vì vết thương ấy. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy được ví như ví
dụ ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có hạng người như vậy. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
--o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiếp 3)
Tiếp theo :
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo sống dựa vào làng hay thị trấn.
Vị ấy vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào ngôi làng hay thị trấn ấy để khất thực, với thân không phòng hộ, với lời không phòng hộ, với tâm không phòng hộ, với niệm không an trú, với các că không được bảo vệ. Vị ấy ở đấy, thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề, ăn mặc không kín đáo. Sau khi thấy nữ nhân ăn mặc không chỉnh tề,
ăn mặc không kín đáo, tham dục tấn công vị ấy. Vị ấy với tâm bị tham dục tấn công, nên thân bị thiêu cháy, tâm bị thiêu đốt. Vị ấy suy nghĩ như sau : “Ta hãy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỳ kheo : “Nầy các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh. Tôi không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh. Tôi tuyên bố
sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, trở về với đời sống thế tục”. Vị ấy đi đến khu vườn, báo tin cho các Tỳ kheo : “Nầy các Hiền giả, tôi bị tham dục tràn ngập, bị tham dục ám ảnh, tôi không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh; sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, tôi trở về với đời sống thế tục”. Các vị đồng Phạm hạnh giáo giới, khuyên bảo như sau : “Nầy Hiền giả,
Thế Tôn đã nói : “Các dục ngọt ít, đắng nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại càng nhiều hơn … Các dục được Thế Tôn ví dụ như đầu rắn, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hại ở đây lại nhiều hơn”. Tôn giả hãy tìm thoải mái trong Phạm hạnh. Hiền giả chớ có biểu lộ sự yếu kém trong học tập, từ bỏ học pháp, và trở lui đời sống thế tục” .
Vị ấy được các đồng Phạm hạnh giáo giới như vậy, khuyên bảo như vậy, nói như vầy : “Thưa các Hiền giả, tôi sẽ nỗ lực. Thưa các Hiền giả, tôi sẽ cố gắng. Thưa các Hiền giả, tôi sẽ sống thoải mái.
Nay tôi không biểu hiện sự yêu kém trong học tập, từ bỏ học pháp,
trở lui về đời sống thế tục”.
Ví như, nầy các Tỳ kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu, đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Vị ấy trong trận chiến ấy, nỗ lực hăng hái. Nhưng các người khác trong khi người ấy hăng hái nỗ lực như vậy, làm cho người ấy bị thương, khiêng người ấy đi, chở người ấy và đưa người ấy đến các người bà con. Các người
bà con săn sóc người ấy, nuôi dưỡng người ấy. Người ấy nhờ các bà con săn sóc nuôi dưỡng, được chữa lành khỏi vết thương. Ta tuyên bố rằng, nầy các Tỳ kheo, người nầy giống như ví dụ ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có hạng người như vậy. Người nầy, nầy các Tỳ kheo, được ví dụ với người chiến sĩ thứ tư có mặt hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiếp 4)
Tiếp theo :
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Vị ấy vào buổi sáng dắp y, cầm bát vào làng hay vào thị trấn ấy khất thực, với thân được phong hộ, với lời được phong hộ,
với tâm được phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được bảo vệ. Vị ấy khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên,
vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ
trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng … mũi ngửi hương … lưỡi nếm vị … thân cảm xúc … ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến
ý căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác, bất thiện phát khởi lên, vị Tỳ kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn,
thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến một chỗ sàng tọa trống trải, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe núi, hang núi, bãi tha ma, cao nguyên, ngoài trời,
đống rơm. Vị ấy đi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, ngồi kiết già, lưng thẳng, để niệm trước mặt. Vị ấy đoạn tận tham ở đời, an trú với tâm ly tham, gột sạch tâm khỏi
tham, sau khi đoạn tận sân, an trú với tâm ly sân, có lòng thương tưởng đến tất cả loài hữu tình và chúng sanh, gột sạch tâm khỏi
sân hận ; sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên, an trú với tâm ly
thụy miên hôn trầm, với tưởng ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác,
gột sạch tâm khỏi hôn trầm thụy miên ; sau khi đoạn tận tâm trạo cử hối quá, an trú với tâm không trạo cử, nội tâm tịch tịnh,
gột sạch tâm khỏi trạo cử hối quá; sau khi đoạn tận nghi, an trú
với tâm vượt khỏi nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm
khỏi nghi ngờ đối với các thiện pháp. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái nầy, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ,
ly dục, ly các pháp bất thiện … chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy với tâm định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, ly
các tùy phiền não, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động,
hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy như thật rõ biết:
“Đây là khổ, như thật rõ biết : “Đây là khổ tập” như thật rõ biết : “Đây là khổ diệt”; như thật rõ biết: “Đây là con đường đưa đến
khổ diệt”; như thật rõ biết: “Những pháp nầy là những lậu hoặc”; như thật rõ biết; “Đây là lậu hoặc tập khởi”; như thật rõ biết ;
“Đây là lậu hoặc đoạn diệt”; như thật rõ biết đây là con đường
đưa đến lậu hoặc đoạn diệt”. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, trí khởi lên: “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, nay không còn trở
lui trạng thái nầy nữa”. Đây là sự chiến thắng trong trận chiến
đối với các vị ấy .
Ví như, nầy các Tỳ kheo, người chiến sĩ ấy cầm kiếm và mâu,
đeo cung và tên, tham gia vào trận chiến ác liệt. Người ấy, sau khi chiến thắng trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng đầu trong chiến trận ấy. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có một hạng người như vậy. Đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ năm, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
Nầy các Tỳ kheo, có những hạng người được ví dụ với năm hạng người chiến sĩ nầy, có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiếp 5)
Tiếp theo :
-Lại trong Tăng Chi Bộ kinh, tập 2, trang 450, phẩm Người chiến sĩ (1), cũng có đoạn kinh tương tợ :
-Nầy các Tỳ kheo, có năm hạng người chiến sĩ nầy có mặt, hiện hữu
ở đời. Thế nào là năm ?
Ở đây, nầy các Tỳ kheo, có người chiến sĩ chỉ thấy bụi mù dấy lên
đã chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy, ở đây nầy các Tỳ kheo, là một hạng người chiến sĩ. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham gia chiến trận. Như vậy
ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người chiến sĩ ở đời. Nầy các
Tỳ kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể
tham gia chiến trận. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người chiến sĩ. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ ba
có mặt hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, nhưng khi bị thương trong chiến trận, liền thất kinh, tán đởm. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người chiến sĩ. Nầy các Tỳ kheo, đây là hạng người chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, ở đây có hạng người chiến sĩ có thể chịu đựng bụi mù dấy lên, chịu đựng cờ xí dựng lên, chịu đựng tiếng la hét, chịu đựng cuộc xáp chiến. Vị ấy, sau khi thắng trận, dự phần vào chiến thắng, cầm đầu trong chiến thắng. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ keo, là một hạng chiến sĩ. Đây là hạng chiến sĩ thứ năm, nầy các Tỳ kheo, có mặt, hiện hữu ở đời .
Năm hạng người chiến sĩ nầy, nầy các Tỳ kheo, có mặt, hiện hữu
ở đời .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiêp 6)
Tiếp theo :
- Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, được ví dụ với năm hạng chiến sĩ nầy, có năm hạng người có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo. Thế nào là năm ?
Ở đây, nầy các Tỳ kheo, khi thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân,
rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là bụi mù dấy lên đối với vị ấy ?
Ở đây, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo được nghe : “Tại một làng hay một thị trấn kia, có người phụ nữ hay thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen”.Khi được nghe vậy, vị Tỳ kheo ấy liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm,
không thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục
. Đây là nghĩa bụi mù dấy lên đối với vị ấy .
Ví như, nầy các Tỳ kheo, hạng người chiến sĩ ấy, khi mới thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tham dự chiến trận. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người. Đây là người, nầy các Tỳ kheo, được ví dụ với hạng người chiến sĩ thứ nhất có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, có Tỳ kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là cờ xí dựng lên đối với vị ấy ? Ở đây, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo không có nghe : “Tại một làng hay thị trấn kia, có người phụ nữ hay người thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm đẹp lòng người với sắc mặt đẹp, thù thắng như hoa sen”, nhưng vị ấy
tự mình thấy một phụ nữ hay một thiếu nữ đẹp đẽ, khả ái, làm
đẹp lòng người với sắc mặt đẹp thù thắng như hoa sen. Vị ấy, sau khi thấy người phụ nữ hay người thiếu nữ ấy, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Đây là nghĩa cờ xí dựng lên đối với vị ấy.
Ví như, nầy các Tỳ kheo, hạng người chiến sĩ ấy chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cớ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra trận xáp chiến. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người. Đây là người, nầy các Tỳ kheo,
được ví dụ với hạng chiến sĩ thứ hai có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên,
chịu đựng được cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục. Thế nào là tiếng la hét đối với vị
ấy ? Ở đây, nầy các Tỳ kheo, một nữ nhân đi đến vị Tỳ kheo tại khu rừng, dưới gốc cây hay tại ngôi nhà trống, cười nhạo Tỳ kheo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả. Tỳ kheo bị nữ nhơn cười nhạo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng, cợt nhả, liền chùn chân,
rủn chí, không còn can đảm, không có thể tiếp tục đời sống Phạm hạnh, sau khi biểu lộ sự yếu kém trong học tập, liền bỏ học pháp, trở lại lại đời sống thế tục. Đây là nghĩa của tiếng la hét đối với vị ấy.
Ví như người chiến sĩ ấy, nầy các Tỳ kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, nhưng khi nghe tiếng la
Hét liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không có thể ra
trận xáp chiến. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như
ví dụ ấy. Như vậy ở đây, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người. Nầy
các Tỳ kheo, đây là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ ba có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiêp 7)
Tiếp theo :
- Lại nữa, nầy các Tỳ kheo,Tỳ kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên,
chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng bị thương trong khi xáp chiến lâm trận liền thất kinh tán đởm. Thế nào là xáp chiến lâm trận đối với vị ấy ? Ở đây, nầy các Tỳ kheo, khi
Tỳ kheo đi đến một khu rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, một nữ nhân đến Tỳ kheo ấy, ngồi sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve mơn trớn,Tỳ kheo ấy được nữ nhân ngồi sát một bên, nằm sát một bên, được vuốt ve mơn trớn, không từ bỏ học tập, không biểu lộ sự yếu kém trong học tập, hành dâm (với nữ nhân ấy). Đây là nghĩa xáp chiến lâm trận đối với vị ấy .
Ví như người chiến sĩ ấy, nầy các Tỳ kheo, chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng khi lâm trận xáp chiến, bị thương, thất kinh, tán đởm. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Như vậy, ở đây nầy các Tỳ kheo, là một hạng người. Nầy các Tỳ kheo,
đây là hạng người được ví dụ với chiến sĩ thứ tư có mặt, hiện hữu giữa các Tỳ kheo .
-Lại nữa, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo chịu đựng được bụi mù dấy lên,
chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được tiếng la hét, chịu đựng được xáp chiến lâm trận. Vị ấy sau khi chiến thắng chiến trận
ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong chiến trận ấy. Thế nào là sự chiến thắng trong chiến trận dối với vị
ấy ? Ở đây, nầy các Tỳ kheo, khi vị Tỳ kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, có nữ nhân đi đến vị ấy, ngồi
sát một bên, nằm sát một bên, vuốt ve, mơn trớn. Vị ấy khi được
nữ nhân ngồi sát một bên, nằm sát một bên, vuôt ve, mơn trớn,
liền gỡ mình ra, gỡ thoát ra, và ra đi chỗ nào mình muốn. Vị ấy đi
đến một chỗ trống trải, khu rừng, gốc cây, ngọn núi, khe đá, hang núi, nghĩa địa, cao nguyên, ngoài trời. Rồi vị ấy đi đến khu rừng, đi đến gốc cây hay đi đến ngôi nhà trống, lưng thẳng, và để niệm trước mặt. Vị ấy, sau khi đoạn tận tham, an trú với tâm ly tham,
gột sạch tâm khỏi tham; sau khi đoạn tận sân, an trú với tâm ly
sân, có lòng thương tưởng đến tất cả loài hữu tình và chúng sanh,
gột sạch tâm khỏi sân hận; sau khi đoạn tận hôn trầm thụy miên,
an trú với tâm ly thụy miên hôn trầm, với tưởng ánh sáng, chánh niệm, tỉnh giác, gột sạch tâm khỏi hôn trầm thụy miên; sau khi đoạn tận trạo cử hối quá, an trú không trạo cử, nội tâm tịch tịnh,
gột sạch tâm khỏi trạo cử hối quá; sau khi đoạn tận nghi, an trú với tâm vượt khỏi nghi ngờ, không còn nghi hoặc, gột sạch tâm
khỏi nghi ngờ đối với các thiện pháp. Vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái nầy, những pháp làm uế nhiễm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, ly dục, ly các pháp bất thiện … chứng đạt và an trú Thiền thứ tư. Vị ấy, với tâm định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu uế, ly các tùy phiền não, nhu nhuyến, kham nhẫn, kiên trì, bất động, hướng tâm về trí đoạn tận các lậu hoặc. Vị ấy, như thật rõ biết : “Đây là
khổ, như thật rõ biết : “Đây là khổ tập”; như thật rõ biết : “Đây là khổ diệt”; như thật rõ biết : “ Đây là con đường đưa đến khổ diệt ”; như thật rõ biết : “ Những pháp nầy là những lậu hoặc ”; như thật rõ biết ; “Đây là lậu hoặc tập khởi”; như thật rõ biết : “Đây là lậu hoặc đoạn diệt”; như thật rõ biết : “Đây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt”. Do vị ấy biết như vậy, thấy như vậy, tâm được
giải thoát khỏi dục lậu, tâm được giải thoát khỏi hữu lậu, tâm
được giải thoát khỏi vô minh lậu. Trong sự giải thoát, trí khởi lên : “Ta đã được giải thoát”. Vị ấy rõ biết : “Sanh đã tận, Phạm hạnh
đã thành, các việc nên làm đã làm, nay không còn trở lui trạng
thái nầy nữa”. Đây là sự chiến thắng trong trận chiến đối với vị ấy.
Ví như, nầy các Tỳ kheo, người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí dựng lên, chịu đựng được các tiếng la hét, chịu đựng được sự xáp chiến. Vị ấy, sau khi chiến thắng chiến trận ấy, chiến thắng trong chiến trận, vị ấy vẫn đứng hàng đầu trong trận chiến ấy. Nầy các Tỳ kheo, Ta tuyên bố người nầy giống như ví dụ ấy. Như vậy, nầy các Tỳ kheo, là một hạng người. Nầy các Tỳ kheo, đấy là hạng người được ví dụ với người chiến sĩ thứ năm có mặt, hiện hữu ở đời .
Những người nầy, nầy các Tỳ kheo, được ví dụ với năm chiến sĩ
có mặt, hiện hữu ở các vị Tỳ kheo .
------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(20 tiếp 8)
Tiếp theo :
-Và trong kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 2, trang 281, ấn bản năm 1998, do Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Có đoạn tương ứng :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật ở nước Xa vệ, rừng Kỳ đà, vườn Cấp cô độc .
Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ kheo :
-Có năm loại trượng phu mạnh mẽ, có thể chiến đấu, xuất hiện ở đời. Thế nào là năm ?
Ở đây, có người mặc giáp, cầm gậy vào trận chiến đấu, từ xa thấy gió bụi lền sợ hãi. Đó là hạng người chiến đấu thứ nhất .
-Lại nữa, hạng chiến đấu thứ hai, mặc giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến; thấy gió bụi không sợ hãi, nhưng thấy cờ xí liền ôm lòng sợ hãi, không thể tiến đánh. Đó là người thứ hai .
-Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ ba, mặc áo giáp, cầm gậy muốn vào trận chiến đấu; thấy gió bụi hay cờ xí không sợ hãi, nhưng thấy cung tên liền sợ hãi, chẳng thể chiến đấu. Đó là hạng người thứ ba.
-Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ tư, mặc giáp, cầm gậy vào trận đánh nhau; thấy gió bụi hay cờ xí, hoặc cung tên chẳng sợ hãi,
nhưng lúc vào trận bị người khác bắt hoặc bị giết chết. Đó là người chiến đấu thứ tư .
-Lại nữa, hạng người chiến đấu thứ năm, mặc áo giáp, cầm gậy muốn vào trận đánh; thấy gió bụi,cờ xí, hoặc thấy cung tên, hoặc bị người khác bắt, cho đến chết không sợ hãi, có thể đánh tan quân địch trong ngoài mà thống lãnh nhân dân. Đó là người chiến đấu thứ năm .
Như thế Tỳ kheo ! Thế gian có năm loại người nầy .
Nay trong chúng Tỳ kheo cũng có năm loại người nầy xuất hiện ở đời. Thế nào là năm ?
Hoặc có Tỳ kheo dạo trong thôn xóm người; ông ta nghe trong thôn có phụ nữ đoan chính vô song, mặt như màu hoa đào. Ông ta nghe xong, đến giờ đắp y, ôm bát vào thôn khất thực, gặp cô gái
sắc đẹp vô song nầy liền khởi dục tưởng rời bỏ ba y, trả lại cấm giới của Phật, làm cư sĩ. Ví như người chiến đấu nọ, thấy gió bụi đã sợ hãi; Tỳ kheo nầy cũng vậy .
-Lại nữa, có Tỳ kheo nghe có cô gái ở trong thôn xóm đoan chánh
vô song, đến giờ đắp y, ôm bát vào thôn khất thực, nếu gặp nữ nhân không khởi dục. Nhưng nếu cùng cô gái ấy đùa cợt, chuyện trò, do sự đùa cợt chuyên trò nầy, ông ta liền bỏ pháp phục trở về làm Cư sĩ. Như người thứ hai kia, thấy gió bụi không sợ, nhưng thấy cờ xí liền ôm lòng sợ hãi; Tỳ kheo nầy cũng vậy .
-Lại nữa, có Tỳ kheo nghe trong thôn xóm có cô gái dung mạo đoan chánh, hiếm có ở đời, như màu hoa đào. Ông ta đến giờ đắp
y, mang bát vào làng khất thực; nếu thấy cô gái chẳng khởi dục tưởng, dù cùng cô gái trò chuyện cũng không khởi ý dục. Nhưng cùng cô gái kia nắm tay, chạm nhau, hoặc cùng nắm kéo, khi đó khởi dục tưởng, ông ta bỏ ba pháp y, trở lại làm Cư sĩ, tập tành gia nghiệp; như người thứ ba, lúc vào trận thấy gió bụi, thấy cờ xí không sợ hãi, thấy cung tên lại ôm lòng lo sợ .
-Lại nữa, có TỲ kheo nghe trong thôn xóm có cô gái mặt mũi đoan chánh, thế gian ít có. Đến giờ đắp y, ôm bát vào xóm khất thực; nếu ông ta thấy cô gái lại chẳng khởi dục tưởng, dù cùng nói chuyện cũng không khởi dục tưởng, nếu cùng cô gái nắm kéo liền khởi dục tưởng, nhưng không bỏ pháp phục mà học tập gia nghiệp như người thứ tư vào trận bị người bắt hoặc đoạn mạng sống
không thể ra khỏi .
-Lại nữa, có Tỳ kheo ở trong thôn xóm, ông ta nghe ở trong thôn có cô gái. Đến giờ, ông đắp y, ôm bát vào làng khất thực; nếu ông ta thấy cô gái, chẳng khởi dục tưởng; dù cùng nói cười cũng chẳng
khởi dục tưởng; dù cùng nắm kéo cũng không khởi dục tưởng. Bấy giờ Tỳ kheo quán ba mươi sáu thứ trong thân nầy dơ xấu chẳng sạch : “ Ai dính mắc vào đây ? Do đâu mà khởi dục ? Dục nầy ngừng ở đâu ? Từ đầu chăng ? Từ thân thể ra chăng ? Quán các vật nầy
trọn chẳng có gì cả. Từ đầu đến chân cũng lại như vậy. Những vật thuộc ngũ tạng, không có tưởng tượng cũng không chỗ đến”. Ông
ta quán nguyên nhân chẳng biết từ đâu đến ! Ông lại nghĩ : “Ta
quán dục nầy từ nhân duyên sanh”.
Tỳ kheo ấy quán như thế rồi, tâm dục lậu hết, được giải thoát, tâm hữu lậu được giải thoát, tâm vô minh lậu được giải thoát, liền được trí giải thoát. Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong,
không còn tái sanh nữa, như thật mà biết. Như người chiến đấu thứ năm kia, không sợ bị nạn bởi quân địch mà tự du hóa. Do đó nên nay Ta nói người nầy xả bỏ ái dục, vào chỗ vô úy, được đến thành Niết bàn .
Đó là, nầy Tỳ kheo có năm hạng người xuất hiện ở đời .
Bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ :
Dục, ta biết gốc ngươi
Ý do tư tưởng sanh
Tư tưởng ta chẳng sanh
Thì ngươi không có được.
Như thế, các Tỳ kheo ! Hãy quán uế ác, dâm là hạnh bất tịnh, hãy trừ bỏ sắc dục ! Như thế, các Tỳ kheo, hãy học điều nầy .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(21)
Dịch âm : Đệ tam thập tứ chương .
-Sa môn dạ tụng Ca Diếp Phật di giáo kinh, kỳ thinh bi khẩn, tư hối nhược thối .
Phật vấn chi viết : Nhữ tích tại gia tằng vi hà nghiệp ?
-Đối viết : Ái đàn cầm .
Phật ngôn : Huyền hoãn như hà ?
-Đối viết : Bất minh hỷ .
-Huyền cấp như hà ?
-Đối viết : Thinh thuyệt hỷ .
-Cấp hoãn đắc trung như hà ?
-Đối viết : Chư âm phổ hỷ .
Phật ngôn : Sa môn học đạo diệc nhiên, tâm nhược điều thích, đạo khả đắc hỷ. Ư đạo nhược bạo, bạo tức thân bì; kỳ thân nhược
bì ý tức sanh não; ý nhược sanh não, hạnh tức thối hỷ; kỳ hạnh ký thối, tội tất gia hỷ. Đản thanh tịnh an lạc, đạo bất thất hỷ .
Dịch nghĩa : Chương ba mươi bốn .
-Có thầy Sa môn ban đêm tụng kinh Di giáo của Phật Ca Diếp, tiếng ông buồn thảm, lo ngại muốn sụt lùi. Phật hỏi ông rằng ?
Trước kia ở nhà ông đã từng làm nghề gì ?
-Thưa rằng : Ưa khải đàn cầm .
Phật hỏi : Dây đàn dùn thì sao ?
-Thưa rằng : không kêu được .
-Dây thẳng thì sao ?
-Thưa rằng : Tiếng kiêu cụt ngẳng .
-Dùn thẳng vừa chừng thì sao ?
-Thưa rằng : Đủ các âm thanh .
Phật dạy : Bậc Sa môn học đạo cũng thế, tâm nếu giữ chừng mực
thì đạo có thể chứng được. Đối với đạo, nếu gấp quá thì thân mõi mệt, thân mõi mệt, thì ý liền sanh phiền não; ý nếu sanh phiền não, thì hạnh liền sụt lùi đi; hạnh nếu đã sụt lùi, thì tội ắt thêm lên. Chỉ
có thanh tịnh an lạc, đạo mới không mất được .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Tương ứng với chương ba mươi bốn, trong Tăng Chi Bộ kinh tập 3,
trang 155, ấn bản năm 1996, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có đoạn chép lại như sau trong Đại phẩm :
-Như vầy tôi nghe :
Một thời, Thế Tôn trú tại Ràjagaha (Vương Xá) núi Gijjhakùta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Tôn giả Sona trú ở Rajagaha, tại rừng Sìta. Rồi Tôn giả Sona, trong khi độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên :“ Những ai là đệ tử Thế Tôn, sống tinh cần tinh tấn,
ta là một trong những vị ấy. Nhưng ta còn chấp thủ, tâm chưa giảỉ thoát khỏi các lậu hoặc. Gia đình ta có tài ản, và ta có thể hưởng thọ tài sản và làm các công đức ”. Rồi Thế Tôn với tâm của mình biết được tâm của Tôn giả Sona, như một người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra, biến mất từ núi Gijjhakùta, hiện ra trước mặt Tôn giả Sona, ở rừng Sìta. Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Tôn giả Sona đảnh lễ Thế Tôn,
rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Sona đang ngồi
một bên :
-Nầy Sona, có phải trong khi thầy độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên : “Những ai là đệ tử Thế Tôn, sống tinh cần tinh tấn, ta là một trong những vị ấy. Nhưng ta còn chấp thủ, tâm chưa giải thoát các lậu hoặc. Gia đình ta có tài sản, ta có thể hưởng thọ
tái sản ấy và làm các công đức. Vậy ta hãy từ bỏ học pháp, hoàn tục hưởng thọ tài sản và làm các công đức”.
-Thưa vâng, bạch Thế Tôn .
-Thầy nghĩ thế nào, nầy Sona ? Có phải thuở trước khi còn là gia chủ, Thầy giỏi đánh đàn Tỳ bà có dây ?
-Thưa vâng, bạch Thế Tôn .
-Thầy nghĩ thế nào, nầy Sona ? Khi những sợi dây đàn Tỳ bà của Thầy quá căng thẳng, trong khi ấy đàn Tỳ bà của Thầy có phát âm hay sử dụng được không ?
-Thưa không, bạch Thế Tôn .
-Thầy nghĩ thế nào nầy Sona ? Khi những sợi dây đàn Tỳ bà của Thầy quá chùng, trong khi ấy, đàn Tỳ bà của Thầy có phát âm hay
xử dụng được không ?
-Thưa không, bạch Thế Tôn .
-Nhưng nầy Sona, khi những sợi dây đàn Tỳ bà của Thầy không quá căng thẳng, không quá chùng xuống, và vặn đúng mức trung bình,
trong khi ấy, đàn Tỳ bà của Thầy có phát âm hay sử dụng được không ?
-Thưa được, bạch Thế Tôn .
-Cũng vậy, nầy Sona, khi tinh cần tinh tấn quá căng thẳng, thời đưa đến dao động; khi tinh cần tinh tấn quá thụ động, thì đưa đến
biếng nhác. Do vậy, nầy Sona, Thầy phải an trú tinh tấn một cách bình đẳng, thể nhập các căn một cách bình đẳng, rồi tại đấy nắm giữ tướng .
-Thưa vâng, bạch Thế Tôn .
. . .
-Rồi Tôn giả Sona, sau một thời gian an trú tinh tấn một cách bình đẳng, thể nhập các căn một cách bình đẳng và tại đấy nắm giữ tướng. Rồi Tôn giả Sona sống độc cư, an tịnh, không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu, do mục đích gì các thiện nam tử chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, vị ấy ngay trong hiện tại, tự mình với thẳng trí chứng ngộ và chứng đạt vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy rõ biết : “ Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc gì nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái nầy nữa”. Tôn giả Sona trở thành một vị A la hán. Sau khi chứng được A la hán, Tôn giả Sona nghĩ như sau : “Ta hãy đến Thế Tôn;
sau khi đến, ta hãy nói lên ý nghĩa nầy với Thế Tôn”. Rồi Tôn giả Sona đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, Tôn giả Sona bạch Thế Tôn :
Bạch Thế Tôn, Tỳ kheo nào là bậc A la hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt mục đích, hữu kiết sử đã trừ diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí; vị ấy có sáu chỗ để xu hướng, xu hướng xuất ly, xu hướng viễn ly, xu hướng vô sân, xu hướng ái diệt, xu hướng thủ diệt, xu hướng vô si…
-----------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(21 tiếp 1)
Tiếp theo :
-Cũng với bản kinh đó, trong kinh Tăng Nhất A Hàm, tập 1, trang
420, ấn bản năm 1997, do hai vị Hòa thượng Thanh Từ và Thiện
Siêu dịch. Lại diễn tả :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật ở nước Chiêm bà, bên bờ hồ Lôi thanh .
Bấy giờ, Tôn giả Nhị thập ức nhĩ (Sona) ở trong chỗ vắng, tự tu
pháp bổn, chẳng bỏ mười hai pháp hạnh Đầu đà, ngày đêm kinh hành chẳng lìa lời dạy về Ba mươi bảy đạo phẩm, hoặc ngồi, hoặc đi thường tu chánh pháp. Đầu đêm, cuối đêm, giữa đêm hằng tự gắng gỏi, chẳng bỏ trong chốc lát, nhưng lại không thể ở pháp dục lậu,
tâm được giải thoát .
Tôn giả Sô na đi kinh hành bị đứt gân chảy máu nhiều khắp lề đường, giống như chỗ mổ trâu, quạ diều đến hút máu, mà lại chẳng thể đối với dục lậu mà tâm được giải thoát. Tôn giả Sô na liền nghĩ : “Trong đệ tở tinh tấn khổ hạnh của Phật Thích Ca Văn, ta là đệ nhất. Nhưng hôm nay, ta tâm lậu chẳng được giải thoát. Lại nữa, gia nghiệp của ta nhiều tiền lắm của, đáng nên xả bỏ pháp phục trở về làm Cư sĩ, đem tài vật rộng bố thí. Nay làm Sa môn rất khó, chẳng phải dễ dàng”.
Bấy giờ Thế Tôn từ xa biết được tâm niệm của Sô na, liền đi đến
chỗ ông ta kinh hành, trải tòa mà ngồi. Khi ấy Tôn giả Sô na đến chỗ Phật ngồi cúi lạy rồi ngồi một bên .
Thế Tôn hỏi Sô na rằng :
-Vừa rồi cớ sao Thầy lại nghĩ : “Trong số đệ tử tinh tấn khổ hạnh
của Phật Thích Ca Văn, ta là đệ nhất. Nhưng hôm nay ta lậu tâm chẳng được giải thoát. Lại gia nghiệp ta lám tiền nhiều của báu,
nên xả bỏ pháp phục, trở về làm Cư sĩ, lấy tài vật rộng bố thí, nay
làm Sa môn thật khó, chẳng phải dễ dàng”.
Sô na đáp :
-Đúng vậy, bạch Thế Tôn .
Thế Tôn bảo :
-Nay Ta lại hỏi Thầy, Thầy tùy đó mà đáp lời ta. Thế nào Sô na ? Xưa lúc Thầy ở nhà, đánh đàn có giỏi không ?
Sô na đáp :
-Đúng vậy, Thế Tôn ! Xưa con ở nhà đánh đàn rất rành .
Thế Tôn bảo :
-Thế nào Sô na ! Nếu dây đàn quá căng thì tiếng chăng đều. Lúc đó tiếng đàn nghe có hay không ?
Sô na đáp :
-Bạch Thế Tôn, không !
Thế Tôn bảo :
-Thế nào Sô na ? Thế nào Sô na, nếu dây đàn lại chùng, thì tiếng đàn nghe có hay không ?
Sô na đáp :
-Bạch Thế Tôn, không !
Thế Tôn bảo :
-Thế nào Sô na ? Nếu dây đàn không chùng, không căng thì bấy giờ tiếng đàn nghe có hay không ?
Sô na đáp :
-Đúng vậy, Thế Tôn ! Nếu dây đàn không chùng cũng không căng,
bấy giờ tiếng đàn có thể nghe hay .
Thế Tôn bảo :
-Đây cũng như thế. Người quá tinh tấn giống như điều hý (trạo cử).Nếu người giải đãi, người nầy sẽ đọa vào tà kiến. Nếu người có thể ở giữa hai điều nầy, thì đây là thượng hạnh, như thế chẳng bao lâu sẽ thành bậc vô lậu
Thế tôn thuyết pháp vi diệu cho Tỳ kheo Sô na xong, trở về bên bờ hồ Lôi âm .
Khi ấy Tôn giả Sô na tư duy lời dạy của Thế Tôn, ở chỗ vắng vẻ tu hành pháp nầy không hở một giây. Sở dĩ người dòng giỏi vọng tộc,
xuất gia học đạo, cạo bỏ râu tóc, tu Phạm hạnh vô thượng, sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã lập, việc cần làm đã xong, không thọ thân sau nữa, như thật mà biết. Tôn giả Sô na liền chứng A la hán .
Bấy giờ thế Tôn bảo các Tỳ kheo :
-Trong hàng Thanh văn của Ta, đệ tử tinh cần, khổ hạnh đệ nhất là
Tỳ kheo Sô na .
Bấy giờ các Tỳ kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(21 tiếp 2)
Tiếp theo :
-Còn trong kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 49, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch. Cũng diễn tả lại :
Tôi nghe như vầy :
-Một thời Phật du hóa tại nước Xa vệ, trong rừng Thắng lâm, vườn
Cấp Cô Độc .
Bấy giờ Tôn giả Sa môn Nhị Thập Ức, cũng du hóa tại nước Xá vệ,
trong rừng Thắng lâm, đầu đêm, cuối đêm học tập đạo phẩm tinh cần chuyên chú. Khi ấy Tôn giả Nhị Thập Ức sống nơi yên tĩnh, cô độc, thiền tọa tư duy, tâm khởi lên ý niệm : “Nếu có đệ tử nào của đức Như Lai tinh cần học tập pháp luật chân chánh thì ta là người bậc nhất, thế mà tâm vẫn chưa giải thoát được các lậu. Nhà cha mẹ ta cực kỳ phú quý, có nhiều tiền của, nay ta có nên xả giới, bỏ đạo hạnh, chuyên việc bố thí, tu tập phước nghiệp chăng”?
Bấy giờ đức Thế Tôn bằng tha tâm trí biết rõ tâm niệm của Tôn giả Nhị Thập Ức, liền nói với một thầy Tỳ kheo :
-Thầy hãy đi đến chỗ kia, gọi Sa môn Nhị Thập Ức về đây .
Thầy Tỳ kheo ấy bạch :
-Thưa vâng .
Rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, thầy Tỳ kheo ấy cúi đầu đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng, bước ra đi, đến chỗ Tôn giả Nhị Thập Ức và nói :
-Đức Thế Tôn cho gọi Thầy .
Tôn giả Nhị Thập Ức nghe vị Tỳ kheo ấy nói, liền đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi ngồi một bên, đức Thế tôn dạy :
-Sa môn, có phải vừa rồi Thầy ở nơi yên tĩnh, cô độc, thiền tọa tư duy, tâm khởi lên ý niệm : “Nếu có đệ tử nào của đức Thế Tôn tinh cần học tập pháp luật chân chánh, thì ta là người bậc nhất, thế mà tâm vẫn chưa giải thoát được các lậu. Nhà cha mẹ ta cực kỳ phú quý, có nhiều tiền của, nay ta nên xả giới, bỏ đạo hạnh, chuyên việc bố thí, tu tập phước nghiệp chăng”? hay không ?
Khi ấy Tôn giả Nhị Thập Ức thẹn thùa, xấu hổ, lòng đầy kinh sợ,
biết đức Thế Tôn đã thấu hiểu tâm trạng của mình, liền chấp tay hướng về đức Phật và bạch :
-Bạch Thế tôn, quả thật con có ý nghĩ như vậy .
Đức Thế Tôn dạy :
-Sa môn, nay Ta hỏi Thầy, hãy tùy theo sự hiểu biết mà trả lời. Ý Thầy nghĩ sao, khi Thầy ở tại gia giỏi đánh đàn cầm nên tiếng đàn hòa điệu với lời ca, lời ca ăn khớp với tiếng đàn, có pải vậy chăng ?
Tôn giả Nhị Thập Ức thưa :
-Bạch Thế Tôn, đúng vậy .
Đức Thế Tôn lại hỏi :
-Ý Thầy nghĩ sao, nếu dây đàn căng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng ?
Sa môn Nhị Thập Ức thưa :
-Bạch Thế Tôn, không .
Đức Thế Tôn lại hỏi :
-Ý Thầy nghĩ sao, nếu dây đàn chùng quá thì tiếng hòa âm có đáng ưa chăng ?
Sa môn Nhị Thập Ức thưa :
-Bạch Thế Tôn, không .
Đức Thế Tôn lại hỏi :
-Ý Thầy nghĩ sao, nếu dây đàn lên vừa phải, không căng quá, cũng không chùng quá, thì tiếng hòa âm có đáng ưa không ?
Sa môn Nhị Thập Ức thưa :
-Bạch Thế tôn, đáng ưa .
Đức Thế Tôn dạy :
-Cũng vậy, nầy Sa môn, quá sức tinh tấn sẽ khiến tâm rối loạn,
nhưng nếu không tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Như vậy, Thầy hãy phân biệt thời gian nào nên quán sát tướng nào, chớ nên phóng dật .
Bấy giờ, Tôn giả Nhị Thập Ức sau khi nghe đức Phật dạy, khéo thọ lãnh, khéo ghi nhớ, từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra. Tôn giả nầy lãnh thọ ví dụ đàn cầm do đức Phật dạy, rồi liền ở nơi xa vắng, cô độc, tâm không phóng dật, tu hành tinh tấn để đạt đến mục đích mà một thiện nam tử, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chí tín, lìa bỏ gia đình, sống không gia đình, học đạo, là duy chỉ mong thành tựu Phạm hạnh vô thượng ngay trong đời nầy, tự tri, tự giác, tự thân chứng ngộ,
thành tựu và an trụ, biết một cách như thật rằng : “Sự sanh đã dứt, Phạm hạnh đã vững, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa”.
Tôn giả Nhị Thập Ức đã biết pháp rồi, liền chứng quả A la hán .
Lúc bấy giờ, sau khi đã chứng quả A la hán, Tôn giả Nhị Thập Ức nghĩ : “Nay đã đến thời, ta có nên đi đến chỗ đức Thế Tôn, trình bày về sự chứng quả cứu cánh trí của mình chăng ?”. Rồi, Tôn giả Nhị Thập Ức đi đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ, ngồi xuống một bên
và bạch :
-Bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ kheo chứng đắc vô sở trước, dứt trừ các lậu, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, hữu kiết đã giải trừ, tự thân đạt được thiện nghĩa,
biết rằng đã giải thoát tức khắc, vị ấy liền được hoan lạc với sáu điều : Hoan lạc với sự vô dục, hoan lạc với sự viễn ly, hoan lạc với
sự vô tránh, hoan lạc với sự ái tận, hoan lạc với sự thủ tận, và hoan lạc với tâm không di động .
Bạch Thế Tôn, nếu có người nghĩ : “ Vị Hiền giả nhờ ý trụ vào tín tâm nên được hoan lạc với sự vô dục ”, thì người ấy không nên quán như vậy. Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu
si thì mới được hoan lạc với sự vô dục .
Bạch Thế Tôn, nếu có người nghĩ : “VỊ Hiền giả nầy vì thích được khen ngợi, muốn được cúng dường, cho nên hoan lạc với sự viễn ly”. Con nghĩ, người ấy không nên quán như vậy. Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si thì mới được hoan lạc với
sự viễn ly .
Bạch Thế Tôn, nếu có người nghĩ : “Vị Hiền giả nầy nhờ ý trụ vào giới luật nên được hoan lạc với sự vô tránh”. Con nghĩ, người ấy không nên quán như vậy. Chỉ khi nào dứt trừ được tham dục, sân nhuế và ngu si thì mới được hoan lạc với sự vô tránh, hoan lạc với
sự ái tận, hoan lạc với sự thủ tận, hoan lạc với tâm không di động .
Bạch Thế Tôn, nếu có Tỳ kheo chứng đắc vô sở trước, dứt trừ các lậu, Phạm hạnh đã vững, điều cần làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, hữu kiết đã giải trừ, tự thân đạt được thiện nghĩa, biết rằng đã giải thoát, thì vị ấy tức khắc liền được hoan lạc với sáu điều nầy…
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(21 tiếp 3)
Tiếp theo :
-Vẫn với bản kinh trên, nhưng khác cách diễn dẫn. Trong kinh Tạp A Hàm, tập 1, trang 480, ấn bản năm 1993, do nhị vị Hòa thượng Thiện Siêu và Thanh Từ dịch. Kinh số 254 cũng lập lại như sau :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca lan đà.
Bấy giờ Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ ở núi Kỳ xà quật, thường tinh cần tu tập pháp Bồ đề phần. Khi ấy Tô giả Nhị Thập Ức Nhĩ một mình tư duy, khởi nghĩ rằng : “Ở trong hàng Thinh văn tinh cần của Thế Tôn, ta là người trong số đó, nhưng hôm nay ta chưa dứt hết các lậu. Ta là người dòng quý tộc, có nhiều tài sản quý báu, nay thà ta hoàn tục, hưởng thọ ngũ dục, rồi làm phước bố thí rộng rãi tốt hơn”.
Bấy giờ Thế Tôn biết được ý nghĩ trong tâm của Nhị Thập Ức Nhĩ,
Ngài bảo một Tỳ kheo :
-Thầy hãy đến chỗ Nhị Thập Ức Nhĩ, nói là Thế Tôn gọi.
Tỳ kheo vầy vâng lời đi đến chỗ Nhị Thập Ức Nhĩ, nói rằng :
-Thế Tôn gọi Hiền giả .
Nhị Thập Ức Nhĩ nghe Tỳ kheo kia nói bậc Đạo sư gọi, liền vội vàng đến chỗ Thế Tôn, lễ dưới chân, rồi ngồi xuống một bên .
Thế Tôn bảo Nhị Thập Ức Nhĩ :
-Thầy có thật một mình ở chỗ vắng tư duy, khởi lên ý nghĩ như vầy : “Trong hàng Thanh văn tu tập tinh cần của Thế Tôn, ta là người trong số ấy, nhưng ta nay chưa được lậu tận, giải thoát. Ta là người dòng quý tộc, có nhiều tiền tài, thà hoàn tục thọ hưởng ngũ dục,
làm phước bố thí rộng rãi”, có phải như thế không ?
Khi ấy Nhị Thập Ức Nhĩ nghĩ rằng : “Thế Tôn đã biết tâm của ta”,
kinh ngạc, sợ hãi, lông dựng đứng, bạch Phật :
-Bạch Thế Tôn, thật vậy .
Phật bảo Nhị Thập Ức Nhĩ :
-Nay ta hỏi Thầy, Thầy tùy ý trả lời Ta. Nầy Nhị Thập Ức Nhĩ, lúc Thầy còn ở thế tục, Thầy đàn hay lắm phải không ?
-Dạ,đúng vậy .
Thế Tôn lạy hỏi :
-Ý Thầy nghĩ sao, khi Thầy đàn, nếu sợi dây đàn thẳng quá thì âm thanh có hòa nhã, vi diệu không ?
-Thưa không .
Thế Tôn lại hỏi :
-Thế nào, nếu sợi dây đàn chùng quá, thì có phát ra âm thanh hòa nhã, vi diệu không ?
-Thưa không .
Thế Tôn lại hỏi :
-Thế nào, nếu dây đàn điều chỉnh, không chùng, không thẳng, thì tiếng đàn có phát ra âm thanh vi diệu chăng ?
-Đúng vậy, bạch Thế Tôn .
Phật bảo Nhị Thập Ức Nhĩ :
-Người tinh tấn thái quá chỉ tăng thêm trạo hối, người thiếu tinh tấn thì sanh ra biếng nhác. Thầy nên giữ mức tu tập điều độ, chớ đắm trước, chớ buông lung, chớ chấp tướng .
Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nghe Phật dạy xong, vui mừng làm lễ lui
về .
Bây giờ Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ thường nghĩ đến thí dụ về đàn cầm mà Thế Tôn dạy. Tôn giả một mình ở chỗ vắng tư duy, thiền định những lời nói trên cho đến lậu tận, tâm được giải thoát, thành
A la hán. Bấy giờ Tôn giả Nhi thập Ức Nhĩ chứng đắc A la hán, bên trong cảm giác an lạc giải thoát, khởi nghĩ rằng : “Nay ta nên đến thăm viếng Thế Tôn”. Tôn giả liền đi đến chỗ Phật, lễ chân Phật,
ngồi xuống một bên, bạch Phật :
-Bạch Thế Tôn, ở trong pháp của Thế Tôn, con đắc A la hán, sạch các hữu lậu, việc làm đã xong, như trút bỏ gánh nặng, được lợi ích cho chính mình, dứt sạch các hữu kiết, chánh trí, tâm giải thoát; ngay lúc đó giải thoát sáu xứ. Thế nào là sáu ?
Lìa dục được giải thoát .
Lìa nhuế được giải thoát .
Xa lìa được giải thoát .
Ái sạch được giải thoát .
Dứt thủ được giải thoát .
Tâm không quên niệm được giải thoát .
Bạch Thế Tôn, nếu có người nương nơi một ít tín tâm mà nói lìa dục giải thoát, điều nầy chẳng đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch, thì
gọi là chân thật lìa dục giải thoát. Lại nếu có người nương nơi một
ít trì giới mà nói được lìa nhuế, giải thoát, điều nầy cũng không đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch mới gọi là chân thật giải thoát. Lại nếu có người nương nơi tu tập, xa lìa lợi dưỡng mà nói xa lìa được giải thoát, điều nầy cũng không đúng. Tham, nhuế, si dứt sạch mới
là chân thật xa lìa giải thoát. Tham, nhuế, si dứt sạch cũng gọi là lìa ái, cũng gọi là lìa thủ, cũng gọi là lìa thất niệm, được giải thoát. Như
thế, bạch Thế Tôn, nếu các Tỳ kheo chưa đắc A la hán, chưa sạch các lậu, đối với sáu xứ nầy, không được giải thoát. Nếu lại có Tỳ kheo còn ở học địa, chưa được tăng thượng an vui Niết bàn, bèn tu tập hướng về trụ tâm, bấy giờ thành tựu học giới, thành tựu học căn, sau đó được lậu tận, không còn phiền não, tâm giải thoát…”…
tự biết không còn thọ thân sau”, ngay hiện tại được vô học giới,
được vô học các căn. Thí như đứa trẻ sơ sinh nằm ngửa, ngu ngơ,
khi ấy chỉ thành tựu các căn của một đứa trẻ, rồi sau đó dần dần tăng trưởng thành tựu các căn; bấy giờ mới thành tựu các căn của người lớn. Người còn ở học địa cũng lại như vậy, chưa được tăng thượng an lạc,…thành tựu vô học giới, vô học các căn. Nếu mắt thường phân biệt sắc thì vẫn trọn không chướng ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong đã đủ vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt cho đến vô thường. Tai phân biệt âm thanh, mũi phân biệt mùi hương, lưỡi phân biệt vị, thân phân biệt xúc, ý phân biệt pháp trần thì cũng không thể chướng ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong đã tu vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt. Thí như ở gần thôn ấp, có núi lớn không chẻ, không đập vỡ, không đục thủng được vì núi dầy đặc; giả sử gió bốn phương thổi đến không thể làm lay động, không thể xuyên qua. Bậc vô học kia cũng lại như thế. Mắt thường phân biệt sắc,…ý thường phân biệt pháp, cũng không thể trở ngại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Vì ý đã kiên trụ, bên trong tu vô lượng thiện giải thoát, quán sát sanh diệt .
Bấy giờ Nhị Thập Ức Nhĩ lập lại bằng bài kệ :
Lìa dục tâm giải thoát,
Không nhuế, cũng giải thoát,
Xa lìa, tâm giải thoát,
Tham ái trọn không còn.
Tâm giải thoát các thủ,
Và ý không thất niệm,
Rõ ràng nhập xứ sanh,
Nơi kia tâm giải thoát.
Người được tâm giải thoát,
Tỳ kheo ý dừng nghỉ,
Các việc đã làm xong,
Không còn việc để làm.
Giống như núi đá lớn,
Bốn gió không thể động,
Sắc, thanh, hương, vị, xúc,
Và những pháp tốt xấu,
Đối diện sáu nhập xứ,
Không thể động tâm kia,
Tâm thường trụ vững chắc,
Quán sát pháp sanh diệt.
Khi Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nói pháp nầy Đa văn Phạm hạnh nghe những điều Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nói ra, đều rất hoan hỷ. Bấy
giờ Tôn giả Nhị Thập Ức Nhĩ nghe đức Phật thuyết pháp xong, vui
vẻ tùy hỷ, làm lễ lui ra .
-Tuy cùng một cốt truyện, nhưng cách diễn tả và văn vẻ lại khác nhau, khó hoặc dễ hiểu. Vì lẽ đó, nên xin chép lại đầy đủ để chúng
ta cùng học hỏi suy nghiệm .
------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22)
Dịch âm : Đệ tam thập ngũ chương .
-Phật ngôn : Như nhơn đoàn thiết, khứ chỉ thành khí, khí tức timh hảo; học đạo chi nhơn, khử tâm cấu nhiễm, hạnh tức thanh tịnh hỷ.
Dịch nghĩa : Chương ba mươi lăm .
-Phật dạy : Như người luyện sắt, bỏ quặng thành đồ dùng, đồ dùng liền được tinh hảo; người học đạo bỏ tâm cấu nhiễm, thì hạnh liền thanh tịnh .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Tương đồng với chương ba mươi lăm, trong Tăng Chi Bộ kinh, tập
1, trang 459, ấn bản năm 1996, do Hòa Thượng Minh Châu dịch. Có đoạn tường thuật :
-Nầy các Tỳ kheo, có những uế nhiễm thô tạp của vàng như cát, đá,
sạn và đá sỏi. Người đãi lọc bụi hay đệ tử người đãi lọc bụi đem đổ vào trong cái máng, rồi rửa sạch qua rửa sạch lại, rửa sạch thêm nữa. Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại những uế nhiễm bậc trung của vàng, như cát đá, sạn tế nhị và các hột cát thô tạp. Người đãi lọc bụi hay đệ tử người đãi lọc bụi rửa sạch, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, còn lại những uế nhiễm
tế nhị, như cát mịn và cát bụi đen. Người đãi lọc bụi hay đệ tử
của người đãi lọc bụi lại rửa sạch nữa, rửa sạch thêm nữa, rửa sạch hoàn toàn .
Làm xong như vậy, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại bụi vàng.
Rồi người thợ vàng hay đệ tử người thợ vàng bỏ bụi vàng ấy vào trong cái lò, rồi thụt ống bệ, thụt ống bệ thêm, thụt ống bệ cho đến khi vàng bắt đầu chảy, nhưng không chảy ra khỏi miệng lò. Vàng ấy được thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ thêm nữa,
nhưng không chảy ra khỏi miệng lò, chưa được làm xong, chưa sạch các uế nhiễm, chưa có nhu nhuyến, chưa có kham nhận, chưa có sáng chói. Vàng ấy còn có thể bể vụn và chưa có thể được tác thành tốt đẹp .
Có một thời, nầy các Tỳ kheo, người thợ vàng ấy hay đệ tử người thợ vàng ấy lại thụt bệ, thụt bệ thêm nữa, thụt bệ hơn nữa, cho
đến khi vàng chảy ra khỏi lò. Vàng ấy được thụt bệ. Vàng ấy được
thụt bệ, được thụt bệ thêm nữa, được thụt bệ hơn nữa, cho đến
khi vàng chảy ra khỏi lò, được làm xong, được sạch các uế nhiễm,
được nhu nhuyến, được kham nhận và được chói sáng. Vàng ấy không bị bể vụn, và có thể được tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý muốn .
Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thô tạp, thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành.
Tỳ kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho sanh khởi lại .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử thuộc bậc trung, dục tầm, sân tầm, hại tầm. Tỳ kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch,
chấm dứt, không cho chúng sanh khởi .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, Tỳ kheo tu tập tăng thượng tâm, còn tồn tại các kiết sử tế nhị, như tư tưởng về gia tộc, tư tưởng về quốc độ, tư tưởng không bị khinh rẽ. Tỳ kheo có tư lự, có thông minh, từ bỏ, gột sạch, chấm dứt, không cho chúng sanh khởi .
Làm như vậy xong, làm như vậy hoàn tất, chỉ còn lại các pháp tầm
(tư duy hay tưởng về pháp).
Định như vậy không có an tịnh, không có thù thắng, không được khinh an, không đạt đến nhất tâm, nhưng là một trạng thái chế ngự thường xuyên, dằn ép. Nhưng đến một thời, nầy các Tỳ kheo, tâm của vị ấy được nội trú, lắng đứng lại, được nhất tâm, được định tĩnh. Định ấy được an tịnh, được thù diệu, được khinh an, đạt đến nhất tâm, không phải một trạng thái chế ngự, thường xuyên dằn ép, tùy theo pháp gì vị ấy hướng đến để thắng tri, để chứng ngộ; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc loại xứ nào.
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22 tiếp 1)
Tiếp theo :
-Nếu vị ấy muốn : “Ta sẽ chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện hình biến
hành đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, ngồi kiết già bay trên
hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên”; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
-Nếu vị ấy ước muốn : “Với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng chư Thiên và loài Người”; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
-Nếu vị ấy ước muốn : “Mong rằng với tâm của mình có thể biết được tâm của các loài chúng sanh khác, tâm của các loài người khác như sau : Tâm có tham biết là tâm có tham. Tâm không tham biết là tâm không tham. Tâm có sân biết là tâm có sân. Tâm không sân biết là tâm không sân. Tâm có si biết là tâm có si. Tâm không si biết là tâm không si. Tâm chuyên chú biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn biết là tâm toán loạn. Đại hành tâm biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm biết không phải là đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng biết
là tâm vô thượng. Tâm thiền định biết là tâm Thiền định. Tâm
không thiền định biết là tâm không Thiền định. Tâm giải thoát biết
là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát”; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
Nếu vị ấy ước muốn : “Ta sẽ nhớ đến nhiều đời sống quá khứ,
như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp; vị ấy nhớ rằng : “Tại chỗ kia,
ta có tên như thế nầy, dòng họ như thế nầy, giai cấp như thế nầy,
thọ khổ lạc như thế nầy, tuổi thọ đến mức như thế nầy. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh tại đây”. Vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến tạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
--------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22 tiếp 2)
Tiếp theo :
Nếu vị ấy muốn : “Với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ chúng sanh, người hạ liệt,
kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh,
đều do hạnh nghiệp của họ. Các chúng sanh ấy làm các ác nghiệp về thân, ngữ và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người nầy sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh về cõi dữ ác thú, địa ngục, đọa xứ. Các chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậcThánh,
theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những vị nầy sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi thiện, cõi trời, cõi
đời nầy. Như vậy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta có thể
thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta có thể biết rằng chúng sanh,
người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ”; vị ấy có khả năng,
có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
-Nếu vị ấy muốn : “Do đoạn diệt các lậu hoặc ngay trong hiện tại,
với thắng trí, ta chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”; vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến trạng thái ấy, dầu thuộc loại xứ nào .
Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, cần phải
thỉnh thoảng tác ý ba tướng. Cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng định, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng cần, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả .
Tỳ kheo siêng năng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng định, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến thụ động. Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, nếu một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chân chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu hoặc. Nhưng nếu Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, nếu thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy trở thành nhu nhuyến, kham nhận, chói sáng, không
bể vụn, chơn chánh định tĩnh để đoạn tận cá lậu hoặc.
Ví như, một thợ làm vàng, nầy các TỲ kheo, hay đệ tử người làm vàng, xây lên các lò đúc. Sau khi xây các lò đúc, người ấy nhóm lửa đốt miệng lò. Sau khi đốt miệng lò, với cái kềm người ấy cầm vàng
và bỏ vào miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thụt ống bệ, thỉnh thoảng người ấy rưới nước, thỉnh thoảng người ấy quan sát kỹ lưỡng. Nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, nầy các Tỳ kheo, một chiều thổi ống bệ, thì có sự kiện vàng ấy bị chảy. Nếu
người làm vàng hay đệ tử người làm vàn, nầy các Tỳ kheo,một chiều rưới nước, thì có sự kiện vàng ấy bị nguội lạnh. Nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, nầy các Tỳ kheo, một chiều quán sát kỹ lưỡng, thời có sự kiện vàng ấy không đi đến chơn chánh thuần thục. Còn nếu người làm vàng hay đệ tử người làm vàng, nầy các Ty kheo,
thỉnh thoảng thổi ống bệ vàng ấy, thỉnh thoảng rưới nước, thỉnh thoảng quan sát kỹ lưỡng, thời vàng ấy trở thành nhu nhuyến,
kham nhận, chói sáng, không có bể vụn, và được tác thành tốt đẹp. Và loại trang sức nào người ấy ước muốn, như vàng lá, hay nhẫn, hay vòng cổ, hay dây chuyền, người ấy có thể làm thành như ý
muốn .
Cũng vậy, nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm,
cần phải thỉnh thoảng tác ý ba tướng, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng định, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, cần phải thỉnh thoảng tác ý tướng xả. Nếu Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm,nầy các Tỳ kheo, một chiều tác ý tưởng định, thời có sự kiện
tâm vị ấy đi đến thụ động. Nếu Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, một chiều tác ý tướng tinh cần, thời có sự
kiện tâm vị ấy đi đến trạo cử. Nếu Tỳ kheo siêng tu tập tăng
thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, một chiều tác ý tướng xả, thời có sự kiện tâm vị ấy không chơn chánh định tĩnh để đoạn diệt các lậu
hoặc. Nhưng nếu Tỳ kheo siêng tu tập tăng thượng tâm, nầy các Tỳ kheo, thỉnh thoảng tác ý tướng định, thỉnh thoảng tác ý tướng tinh cần, thỉnh thoảng tác ý tướng xả, tâm vị ấy thành nhu nhuyến,
kham nhận, chói sáng, không bể vụn, chơn chánh định tĩnh để
đoạn tận các lậu hoặc. Tùy thuộc theo pháp gì, tâm vị ấy hướng
đến thắng tri, để chứng ngộ, vị ấy có khả năng, có năng lực đạt đến pháp ấy, dầu thuộc lạo xứ nào .
----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22tiếp 3)
Tiếp theo :
Đồng nghĩa với bản kinh trên, trong kinh Tạp A Hàm, tập 4, trang 421, ấn bản năm 1995, do Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa thượng Thanh Từ dịch. Thuật lại như sau :
-Tôi nghe như vầy :
Một thời Phật trú tại nước Xá vệ, rừng cây Kỳ đà, trong vườn Cấp
cô độc .
Bấy giờ Thế Tôn bảo Các Tỳ kheo :
-Như người thợ luyện vàng, hốt cả quặng và đất cát bỏ vào máng,
rồi lấy nước dội những thứ mày mún, đát đá rắn theo nước trôi đi, nhưng vẫn còn lại những hạt cát thô dính mắc. Lại dùng nước dội cho những hạt cát thô ấy theo nước trôi đi, rồi lại dùng nước đãi cho hết những đất cát nguyên và mịn ấy, sau đó mới có sanh kim nhưng vẫn còn những thứ cát nhỏ đất đen dính mắc, lại lấy nước dội những hạt cát nhỏ, đất đen cho nó trôi đi, sau đó chơn kim thuần tịnh nhưng vẫn còn thứ mày mún li ti tợ vàng. Người thợ vàng đem nó bỏ vào lò đốt lửa nấu cho chảy ra, trừ hết cấu bẩn, nhưng chất sanh kim vẫn còn lại như cũ, chưa nhẹ, chưa sáng bóng,
co lại duỗi ra thì gảy .
Người thợ vàng và đệ tử người thợ vàng lại bỏ nó vào trong lò,
đốt lửa nấu, luyện lọc cho đến khi vàng nhẹ mềm, sáng bóng, co lại duỗi ra không gãy. Bấy giờ tùy theo ý muốn làm những đồ trang sức như cà rá, bông tai, vòng xuyến .v.v…
Tỳ kheo thường hướng tâm thanh tịnh cũng như thế, những phiền não thô, nghiệp ác, bất thiện, tà kiến ác dần dần đoạn hết. Giống
như đãi vàng lần đầu bỏ đi những đất và đá. Lại nữa, Tỳ kheo hướng đến tâm thanh tịnh, tiếp trừ bỏ dần những cấu thô về dục tưởng, nhuế tưởng, hại tưởng, giống như đãi vàng bỏ đi những hạt cát thô. Lại nữa, Tỳ kheo hướng đến tâm thanh tịnh ,tiếp trừ bỏ cấu
vi tế về thân lý tưởng, nhân chúng tưởng, và sanh thiên tưởng, phải
tư duy trừ lọc hết như lọc vàng bỏ hết bụi bặm, cát mịn và đất đen. Lại nữa, Tỳ kheo hướng đến tâm thanh tịnh, có giác tưởng về pháp lành cũng phải tư duy trừ diệt hết để cho tâm thanh tịnh, giống như lọc vàng bỏ đi những thứ giống như vàng để trở thành vàng ròng. - Lại nữa, Tỳ kheo còn có sự hành trì về các tam muội, nắm giữ,
giống như bờ giữ chung quanh ao nước. Bị pháp nắm giữ thì không được tịch tĩnh thắng diệu, không được an lạc sạch hết các lậu; như người thợ vàng lọc bỏ những dơ bẩn, nhưng vàng vẫn chưa nhẹ, chưa mềm, chưa sáng bóng, co duỗi bị gảy, không thể làm đồ trang
sức theo ý muốn. Lại nữa, Tỳ kheo được các tam muội không còn
có sự hành trì nắm giữ, được tịch tĩnh thắng diệu, được đạo an lạc,
nhất tâm, nhất ý, sạch hết các hữu lậu; như thầy trò thợ luyện lọc vàng cho đến khi nó nhẹ, mềm, sáng bóng, tùy ý co duỗi, không bị
gảy. Lại nữa, Tỳ kheo lìa các giác quán cho đến đắc đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, như thế chánh định thuần nhất thanh tịnh, lìa các phiền não, chơn thật nhu nhuyến, không dao động, ở nơi định xứ kia muốn nhập định xứ, muốn cầu tác chứng đều được tác chứng. Như người thợ vàng, luyện vàng đến mức nhẹ nhàng, sáng bóng, không gảy, muốn làm đồ trang sức gì tùy theo ý muốn; cũng vậy,
Tỳ kheo trụ tam muội chánh định … ở nơi các nhập xứ định, đều được tác chứng .
Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22 tiếp 4)
Tiếp theo :
Vẫn không ngoài ý nghĩa trên, trong kinh Trung A Hàm, tập 3, trang 647, ấn bản năm 1992, do Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức Nha Trang dịch. Có ghi lại như sau nơi kinh Phân biệt giới :
. . .
-Nầy các Tỳ kheo, cũng như thợ nấu vàng lành nghề dùng lửa đốt thỏi vàng, dát cho thật mỏng, rồi lại bỏ vào lò nung, đốt lửa đều đặn và đúng độ, luyện kỹ cho đến lúc tinh ròng, rất mềm mại và có ánh sáng. Nầy Tỳ kheo, thứ vàng nầy là do thợ vàng đã đốt lửa đều đặn và đúng độ, luyện kỹ thật tinh ròng, rất mềm mại và có ánh sáng. Như vậy rồi, thợ vàng ấy làm theo ý mình, như làm dính vào tơ lụa
để trang sức áo mới, làm nhẫn tay, vòng tay, xuyến, chuỗi, lưới tóc. Cũng vậy, Tỳ kheo, vị Tỳ kheo ấy nghĩ rằng : “Ta với xả thanh tịnh
nầy, nhập Vô lượng không xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó,
trú vào đó, vững vàng nơi đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó. Ta với xả thanh tịnh nầy, nhập vào Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi
hữu tưởng phi vô tưởng xứ, tu tập tâm như vậy, nương vào đó, trú vào đó, vững vàng nơi đó, duyên vào đó, gắn chặt vào đó”. Tỳ kheo ấy lại nghĩ : “Ta với xả thanh tịnh nầy, nương vào Vô lượng không xứ, như vậy thuộc pháp hữu vi. Pháp hữu vi là vô thường, cái gì là vô thường, cái ấy là khổ. Nếu là khổ, thì biết là khổ. Khi đã biết khổ
thì xả, không du nhập Vô lượng không xứ nữa. Ta với xả thanh tịnh nầy, nương vào Vô lượng thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng Phi vô tưởng xứ, vẫn là thuộc pháp hữu vi. Nếu là pháp hữu vi thì vô thường, cái gì vô thường cái ấy là khổ. Nếu là khổ thì liền biết là khổ. Khi đã biết khổ thì xả, không du nhập Vô lượng Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ nữa”. Nầy Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo nào dùng tuệ quán bốn xứ nầy, biết như thật tâm không thành tựu, không du nhập, thì bấy giờ xả ấy không còn là hữu vi nữa, vị ấy
không suy tư gì đến hữu và vô nữa. Vị ấy cảm giác về thọ thân tối hậu, thì biết về cảm giác về thọ thân tối hậu, cảm giác về thọ sanh mạng tối hậu, thì biết cảm giác về thọ sanh mạng tối hậu, và biết
khi thân hoại mạng chung, sanh mạng chấm dứt, những gì được
cảm thọ, tất cả đều tịch diệt, tịch tịnh, tĩnh chỉ, và biết là sẽ rất
nguội lạnh .
-------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(22 tiếp 5)
Tiếp theo :
Vẫn chưa hết, trong Trung Bộ kinh, tập 3, trang 550, ấn bản năm 1992, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có ghi :
. .Lại nữa, xả còn lại được trong sạch, trong sáng, nhu nhuyến, dễ uốn nắn, chói sáng. Ví như, nầy Tỳ kheo, một người thợ vàng thiện xảo hay người đệ tử sửa soạn lò đúc; sau khi sửa soạn lò đúc xong, người ấy đốt lửa miệng lò đúc, người ấy dùng kềm kẹp lấy vàng và đặt vàng vào trong miệng lò; rồi thỉnh thoảng người ấy thổi trên ấy,
thỉnh thoảng người ấy rưới nước trên ấy, thỉnh thoảng người ấy, quan sát thật kỹ … vàng ấy trở thành sáng sủa, thanh tịnh, gột sạch, các uế tạp được đoạn trừ, các tỳ vết được trừ sạch, nhu nhuyến,
dễ uốn nắn và chói sáng … và nếu người ấy muốn làm đồ trang sức
nào, hoặc vàng nhẫn, hoặc bông tai, hoặc vòng cổ, hoặc vòng hoa vàng, thì vàng ấy có thể dùng vào mục đích ấy. Cũng vậy, nầy Tỳ kheo, lại nữa xả lại còn được trong sạch, trong trắng, nhu nhuyến,
dễ uốn nắn, chói sáng. Người ấy tuệ tri như sau : “Nếu ta tập trung xả nầy như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ, và
tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả nầy y cứ vào đấy, chấp thủ
tại đấy được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả nầy thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Thức vô biên xứ, và tu tập của ta tùy theo pháp ấy, thì xả nầy y cứ vào đấy,
chấp thủ tại đấy được an trú nơi ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả nầy vào thanh tịnh như vầy,
trong trắng như vậy vào Vô sở hữu xứ, và tu tập tâm ta tùy theo pháp ấy, thời xả nầy y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi
ta trong một thời gian dài. Nếu ta tập trung xả nầy thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời xả nầy y cứ vào đấy, chấp thủ tại đấy, được an trú nơi ta trong một thời gian dài”.
Người ấy tuệ tri như sau : “ Nếu ta tập trung xả nầy thanh tịnh như vậy, trong trắng như vậy vào Hư không vô biên xứ … Thức vô biên xứ … Vô sở hữu xứ … Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và tu tập tâm của ta tùy theo pháp ấy, thời (xả) ấy trở thành pháp hữu vi”.
Vị ấy không tác thành, không suy tưởng đến hữu hay phi hữu, vị ấy không chấp thủ một sự vật gì ở đời; chấp thủ không quấy rối vị ấy;
do chấp thủ không quấy rối vị ấy, vị ấy tự chứng Niết bàn và vị ấy tuệ tri : “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những điều nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái như thế nầy nữa”. Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, vị ấy tuệ tri :”Thọ ấy là vô thường”; vị ấy tuệ tri :
“Không nên đắm trước”; vị ấy tuệ tri : “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu vị ấy cảm giác khổ thọ, vị ấy tuệ tri : “Thọ ấy là vô thường”; vị ấy tuệ tri : “Không nên đắm trước”; vị ấy tuệ tri : “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, vị ấy tuệ tri : “ Thọ ấy là vô thường ”; vị ấy tuệ tri : “Không nên đắm trước”; vị ấy tuệ tri : “Không phải là đối tượng để hoan hỷ”. Nếu cảm giác lạc thọ, không có hệ phược, vị ấy cảm giác thọ ấy. Nếu vị ấy cảm giác bất khổ bất lạc thọ, không có hệ phược,
vị ấy cảm giác thọ ấy. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu, vị ấy tuệ tri :“Ta cảm giác một cảm thọ với thân là tối hậu”. Khi vị ấy cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu, vị ấy tuệ
tri : “Ta cảm giác một cảm thọ với sinh mạng là tối hậu”; vị ấy tuệ
tri : “Sau khi thân hoại mạng chung, mọi cảm thọ ở đây trở thành thanh lương”.
------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(23)
Dịch âm : Đệ tam thập lục chương .
-Phật ngôn :
Nhơn ly ác đạo đắc vi nhơn nan .
Ký đắc vi nhơn, khử nữ tức nam nan .
Ký đắc vi nam, lục căn hoàn cụ nan .
Lục căn ký cụ, sanh trung quốc nan .
Ký sanh trung quốc, trực Phật thế nan .
Ký trực Phật thế, ngộ đạo vi nan .
Ký đắc ngộ đạo, hưng tín tâm nan .
Ký hưng tín tâm, phát Bồ đề tâm nan .
Ký phát Bồ đề tâm, vô tu vô chứng nan .
Dịch nghĩa : Chương ba mươi sáu .
-Phật dạy :
Người ra khỏi ác đạo, được làm thân người là khó .
Đã được làm người, bỏ thân nữ được thân nam là khó .
Đã được thân nam, sáu căn đầy đủ là khó .
Sáu căn được đầy đủ, sanh vào giữa nước là khó .
Đã sanh vào giữa nước, gặp Phật ra đời là khó .
Đã gặp được Phật ra đời, mà gặp được đạo là khó .
Đã gặp được đạo, phát khởi tín tâm là khó .
Đã khởi tín tâm, mà phát tâm Bồ đề là khó .
Đã phát tâm Bồ đề, mà đến được chỗ vô tu vô chứng là khó.
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
Dù không hoàn toàn tương ứng với đoạn kinh ở chương ba mươi sáu, song trong kinh Đại Bát Niết Bàn, tập 1, trang 65, ấn bản năm 1967, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch, cũng có một đoạn ngắn nơi phẩm Ai thán thuật lại như sau :
-Nầy các Tỳ kheo ! Phật ra đời là khó, được thân người là khó, gặp Phật sanh tín tâm, việc đây cũng khó, nhẫn sự khó nhẫn lại là khó hơn, đầy đủ giới hạnh chứng quả A la hán cũng là việc khó. Như tìm cát vàng cùng hoa Ưu đàm bát la .
----------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền)
---o---
TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG KINH(24)
Dịch âm : Đệ tam thập thất chương .
-Phật ngôn :
Phật tử ly ngô số thiên lý, ức niệm ngô giới tất đắc đạo quả. Tại ngô tả hữu, tuy thường kiến ngô, bất thuận ngô giới, chung bất đắc đạo .
- Dịch nghĩa : Chương ba mươi bảy .
Phật dạy :
-Phật tử xa Ta vài ngàn dặm, mà luôn nhớ nghĩ giới pháp của Ta, thì nhất định sẽ chứng được đạo quả; còn ở hai bên Ta, tuy thường được thấy Ta, mà chẳng y theo giới pháp của Ta, cũng vẫn không chứng được đạo .
(Hoàn Quan Thích Giải Năng dịch)
Dẫn :
-Thật là một sự trùng hợp hy hữu, khi người biên soạn vô tình
không có ý xắp xép kết thúc ở đây, nhưng khi biên tập thì đến đây lại là chương cuối của loạt bài sưu tập. Vậy xin tiếp tục nêu dẫn chỗ tương ứng nhau giữa chương 37 và các kinh :
Trong Tiểu Bộ kinh, tập 1, trang 420, ấn bản năm 1999, do Hòa thượng Minh Châu dịch. Có một đoạn ghi lại như sau :
-Nầy các Tỳ kheo, nếu một Tỳ kheo nắm lấy viền áo Tăng già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác,
thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy. Vì cớ sao ? Nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo ấy không thấy pháp. Do không thấy pháp nên không thấy Ta. Nầy các Tỳ kheo, nếu Tỳ kheo sống xa đến một trăm do tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy. Vì cớ sao ? Nầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo ấy thấy pháp. Do thấy pháp nên thấy Ta .
Nếu có thể bước theo,
Nhưng nhiều dục bực phiền,
Hãy xem người như vậy,
Thật là xa, rất xa,
Xa giữa người ái dục,
Và người không ái dục,
Xa giữa người lắng dịu,
Và người không lắng dịu,
Xa giữa người tham ái,
Và người đã trừ ái.
Sau khi thắng tri pháp,
Bậc Hiền trí biết pháp.
Như ao không gió thổi,
Không dao động tịnh chỉ.
Hãy xem người như vậy,
Thật là gần, rất gần,
Gần giữa người không ái,
Và người không có ái,
Gần giữa người lắng dịu,
Và người được lắng dịu,
Gần giữa người không tham,
Và người trừ tham ái .
-Gần gũi và đơn giản nhất là đoạn sau đây trong kinh Đại Bảo Tích,
tập 7, trang 376, ấn bản năm 1999, do Hòa thượng Trí Tịnh dịch :
. . . . . . .
-Nầy Đại Tiên ! Có người dầu thấy thân ta mà họ chẳng giữ giới của
ta dạy thì có lợi ích gì. Như Đề Bà Đạt Đa dầu gặp được Phật mà ông ấy vẫn phải đọa địa ngục .
Trong đời sau, có người siêng thật hành đúng giới pháp của Phật,
người nầy rất hy hữu như đã được thấy Phật không khác .
---------------------
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền
---o---
KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Hậu bạt !
-Qua mười tám chương kinh vừa nêu, và sáu mươi mốt đoạn kinh trưng dẫn, kẻ hậu học không dám luận bàn, thêm thắt, vì tự nghĩ,
dù sao mình cũng là hàng tục gia thiển cận, kém đức .
Do lẽ nầy, nên tôi chỉ làm công việc đơn thuần là góp nhặt, xâu kết từng bộ phận kinh điển với những gì mình có, mình biết; còn lại những cái không có, những điều không biết, xin trang trọng nhường lại cho những ai có điều kiện, hiểu biết hơn bổ xung thêm; hoặc về sau, khi có thêm phương tiện đọc học, tôi sẽ thực hiện thêm những chương chưa trưng dẫn .
Còn bầy giờ xin xếp lại phần Văn kinh, để chúng ta cùng Tư duy,
cùng Tu tập pháp yếu, qua kim ngôn, ngọc ngữ của đức Từ phụ
Thich Ca Mâu Ni Phật .
------------------
Gò Vấp,mùa An cư năm Giáp Thân 2004.
Chơn Pháp Nguyễn Bá Quang
KINH và KINH
(Kinh Tứ Thập Nhị Chương và
Tạng Kinh Nam Bắc Truyền
---o---
KINH TỨ THẬP NHỊ CHƯƠNG
Sách Kinh ứng dụng :
1-Kinh Tứ Thập Nhị Chương. Hoàn Quan dịch, ấn bản năm 1971.
2-Kinh Trường A Hàm 1, 2 . Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm dịch, ấn bản năm 1991 .
3-Kinh Trung A Hàm 1, 2, 3, 4 . Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức
Nha Trang dịch, ấn bản năm 1992 .
4-Kinh Tăng Nhất A Hàm 1, 2, 3 . Hòa Thượng Thanh Từ và Hòa thượng Thiện Siêu dịch, ấn bản năm 1997…
5-Kinh Tạp A Hàm 1, 2, 3, 4 . Hòa thượng Thiện Siêu và Hòa
thượng Thanh Từ dịch, ấn bản năm 1993 …
6-Trường Bộ kinh 1, 2 . Hòa thượng Minh Châu dịch, ấn bản năm
1991 .
7-Trung Bộ kinh 1, 2, 3 . Hòa thượng Minh Châu dịch, ấn bản
năm 1991 .
8-Tăng Chi Bộ kinh 1, 2, 3, 4 . (nt) ấn bản năm 1996 .
9-Tương Ưng Bộ kinh 1, 2, 3, 4, 5 . (nt) ấn bản năm 1993 .
10-Kinh Hoa Nghiêm 1, 2, 3, 4 . Hòa thượng Trí Tịnh dịch, ấn bản
năm 1966-1968 .
11-Kinh Đại Bát Niết Bàn 1, 2 . Hòa thượng Trí Tịnh dịch, ấn bản
năm 1967 .
12-Kinh Đại Bảo Tích 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 . Hòa thượng Trí Tịnh
dịch, ấn bản năm 1999 .
13-Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (âm nghĩa). Hòa thượng Trí Tịnh dịch,
ấn bản năm 1964 .
14-Tiểu Bộ kinh 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 . Hòa thương Minh Châu và
Trần Phương Lan dịch, ấn bản năm 1999 … 2003 .
15-Kinh Bát Đại Nhân Giác. Hòa thượng Thanh Từ dịch, ấn bản
năm 1973 .
16-Kinh Bát Đại Nhân Giác. Thích Minh Quang dịch, ấn bản năm
2001 .
17-Thức Biến. Hòa thượng Thiện Siêu, ấn bản năm 2002 .
18-Nắng và Hoa. Cao Huy Thuần, ấn bản năm 2003 .
----------------
H Ế T