TÍN TÂM MINH(*)(31)
+ + +
Vô cùng đạo lớn, lớn vô cùng
Đạo lớn vô cùng,đạo khắp dung.
Bàng bạc mênh mông đâu chẳng đạo
Đạo vô bờ bến,đạo bao trùm.
Đạo thông,thông đạo,thảy đều thông
Khó dễ chi đâu lại bận lòng
Dễ khó tự mình gây khó dễ
Tâm không,vạn sự thảy đều không.
-------------
(*)-“Đại đạo thể khoan
Vô dị vô nan”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
Dẫn :
-“Bồ đề bổn tự tánh
Khởi tâm tức thị vọng
Tịnh tâm tại vọng trung
Đản tránh vô tam chướng”.
(Pháp Bảo Đàn)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.426)
CHẲNG PHẢI PHÁP (*)
“Giả tá tứ đại dĩ vi thân”
+ + +
Thân có do bốn phần giả lập
Tứ đại là tố chất tạo thành
Ngũ tạng,lục phủ nhân thân
Bốn trăm lẻ bốn bệnh căn phù trầm.
Thân là một pháp trong các pháp
Do chúng duyên sở tác tạo ra
Nên thân vốn là không ta
Vô thường, vô ngã, đó là hẳn nhiên.
Vô thường lại gắn liền với khổ(1)
Khổ chẳng phải tịnh thổ lạc bang
Vì thế cho nên biết rằng
Khổ là do bởi pháp trần duyên sanh.
Quán vô thường,khổ,không,vô ngã
Bất tịnh là đúng quá chớ gì ?
Đối với các pháp hữu vi
Còn pháp chẳng phải pháp thì quán sao ?
Nếu pháp pháp thảy đều huyễn giả
Là vô thường, vô ngã, khổ đau
Vậy thì pháp thân thế nào
Như lai, Phật tánh lẽ đâu vô thường ?
Nếu như thế thì buồn lắm đấy
Tu, không tu cũng vậy mà thôi
Không tu mất xác đành rồi
Tu thì cũng chẳng còn thời cái chi !
Vậy hỏi tu làm chi cho mệt
Ai ai rồi cũng chết như nhau
Cũng quằn quại,cũng thương đau
Cũng hết hy vọng nương vào tương lai.
Còn thường lạc ai bày ra vậy ?
Và ngã, tịnh ai lại nói ra ?
Thảy đều do đức Thích Ca
Tại sao lại có chuyện mà trái ngang ?
Phật tánh vốn thường hằng bất biến
Như Lai vốn chẳng chuyển chẳng lai
Niết Bàn chẳng ở trong ngoài(3)
Giải thoát chẳng có tướng nầy tướng kia.
Vậy ở đâu có ra cảnh khổ ?
Và ở đâu chẳng chỗ tịnh thanh ?
Vô ngã sao có Tịnh danh ?(4)
Vô thường sao Phật Phật Hằng hà sa ?
Đức Tỳ Lô Giá Na biến khắp
Chỗ nào không có Phật hóa thân ?
Người nào chẳng Phật trong lòng ?
Khi cần cái biết hiện trong tánh mình.
Phật là biết, ai sinh cái biết ?
Phật không sinh thì diệt cái chi ?(5)
Không sinh,không diệt vậy thì
Đâu phải là pháp do vì duyên sanh ?(6)
Phật bảo cái gì không phải pháp
Đó là Tịnh, là Lạc, là Thường
Là chân ngã có mặt luôn
Hoàn toàn khác với chủ trương ban đầu.
Bởi người trước chấp vào thường kiến
Cho cuộc đời miên viễn vĩnh hằng
Tham cầu dục ái thế gian
Nên đau khổ luôn ngập tràn khắp nơi !
Phật nhân đó bảo đời giả tạm
Thân xác nầy hôi hám tanh nhơ
Đau thương khổ não tràn bờ
Vô ngã, vô chủ, gá nhờ duyên sanh.
Nay đệ tử lão thành hết cả
Còn Ngài thì sắp xả báo thân
Nên đem lời thật lẽ chân
Chỉ dạy tỏ rõ chỗ gần chỗ xa.
Thấy giả, phải thấy ra cái thật
Thấy không,phải thấy cái chẳng không.(7)
Nhìn đời phải dung,phải thông
Như mu bàn tay với lòng bàn tay. (8)
Kinh Niết bàn quá hay, quá tuyệt
Nếu không thì chẳng biết tìm đâu
Thường,lạc,ngã,tịnh tựa đầu
Bởi tập khí đã ăn sâu quá rồi !
Khổ khổ khổ, than ơi ! quá khổ !
Cõi đời không có chỗ dựa nương
Vô ngã, bất tịnh, vô thường
Chỉ còn biết hướng tây phương mù mờ !
Nay thì đã nhận ra cớ sự
Khổ hay không do tự chính ta
Tâm chưa từng sanh diệt mà
Không sanh,không diệt đó là Như lai.
Tánh Như lai xưa nay vẫn thế
Như ánh trăng tự thể sáng trong
Như vàng ròng đang lẩn trong
Lớp quặn cát vẫn mười phân vẹn mười.
Nếu ai đó nghe rồi chấp nhận
Thì tự thân có đặng Niết bàn
Bằng không thì cứ than van
Vô thường,bất tịnh,khổ càng khổ thêm !
Mượn ý kinh tạo nên văn vẻ
Qua lớp sơn mới mẻ chút thôi
Chớ kinh đã khó hiểu rồi
Diễn tả không khéo,khó thời khó thêm !
Nếu có thể hãy nên tham khảo
Kinh Niết bàn(phẩm)Sư tử rống vang
Sau đó rồi hãy luận bàn
Như vậy sẽ giúp dễ dàng hiểu hơn.
Còn hiện tại xin đừng câu chấp
Vì việc nầy quả thật khó khăn
Thay đổi cách nhìn ngàn năm
Mà phần đông chẳng ai cần quan tâm !
Chỉ những người nhàn công rỗi việc
Hoặc là sắp chấm hết cuộc đời
Mới muốn tìm hiểu thử coi
Niết bàn thực sự buồn vui thế nào.
---------------------
(*)-“Thường lạc ngã tịnh”
(Phẩm Sư tử hống kinh Niết bàn)
(**)-“Giả tá tứ đại dĩ vi thân”
(Phật Tỳ Xá Phù)
(1)-“Nhược bất tùng nhân duyên
Vân hà đương hữu khổ
Vô thường thị khổ nghĩa
Định tánh vô vô thường”.
(Trung Luận-Long Thọ)
(2)-“Thọ chư nhân duyên cố
Luân chuyển sanh tử trung
Bất thọ chư nhân duyên
Thị danh vi Niết bàn”. (nt)
(3)-“Giải tam giới chi triền phược
Thoát tâm đồ chi phiền não”. (?)
(4)-“Tịnh giả tánh giả
Danh giả tướng giả
Tánh tướng bất nhị
Cố hiệu Tịnh danh”.
(Duy Ma Cật)
(5)-“Tỳ da thành lý bất tằng sanh
Ta la thọ gian bất tằng diệt”
(Nghi mộc dục)
(6)-“Nhân duyên sở sanh pháp”
(Trung luận-Long Thọ)
(7)-“Kiến nhất thiết không,bất kiến bất không,
bất danh trung đạo.
-Kiến nhất thiết vô ngã,bất kiến ngã giả,
bất danh trung đạo.
(Kinh Niết Bàn)
(8)-“Khai quyền nguyên thị chưởng”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
Gia Thất Am 11.05.2015 – 23.03.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015.(1.427)
TÍN TÂM MINH (*)(32)
+ + +
Ở giếng mà dòm trời cao
Trời cao bằng miệng giếng đào hẳn nhiên
Với kẻ kiến chấp nhỏ nhen
Đối việc trọng đại dễ sanh nghi ngờ.
Bên đây muốn sang kia bờ
Chẳng dùng phương tiện,chẳng nhờ thuyền ghe
Một mình xô đạp sóng kia
Giữa dòng đuối sức thế là cóng chơn.
Muốn nhanh nào ngờ chậm hơn.
-------------
(*)-“Tiểu kiến hồ nghi
Chuyển cấp chuyển trì”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
Dẫn :
-“Thượng sĩ nhất quyết nhất thiết liễu
Trung sĩ đa văn đa bất tín”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
-“Thượng sĩ văn đạo cần nhi hành chi.
Trung sĩ văn đạo nhược tồn nhược vong.
Hạ sĩ văn đạo đại tiếu chi”.
(Lão Tử)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.428)
DIỆT – DIỆT (1)
(Phẩm Thánh Hạnh Kinh Niết Bàn)
+ + +
“Chư hạnh vô thường
Thị sanh diệt pháp
Sanh diệt diệt (diệc)dĩ(+)
Tịch diệt vi lạc”.
+ + +
Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi.
Chỉ câu nầy nuốt không trôi
“Sanh diệt diệt dĩ ”, diệt thời làm sao ?
+ + +
Sanh diệt, làm cách nào để diệt
Vì muôn đời nghìn kiếp đến nay
Sanh điệt vẫn diệt sanh hoài
Nếu không sanh diệt,lấy ai ở đời ?
Diệt sanh diệt. Chao ơi ! quá khó !
Vậy thì làm sao có an vui ?
Nhưng nếu để mặc sự đời
Diệt sanh,sanh diệt đổi dời như nhiên.
Liệu có được bình yên không vậy ?
Khi chẳng còn bươn chải bon chen
Nắm bắt,buông bỏ,chê khen
Diệt tận,tận diệt. Căn nguyên nơi nào ?
Nếu không sanh thì đâu cần diệt
Nhưng không sanh có được hay chăng ?
Lại phải một mực khăng khăng
Diệt sanh,diệt diệt. Ai làm,được chưa ?
Nay muốn được xin thưa,xin hỏi
Nhờ thầy, bạn hay giỏi chỉ cho
Câu nầy quả thật mù mờ !
Nếu nay không hiểu,bao giờ hiểu đây ?
Không sanh, thì chẳng ai có mặt
Không diệt,thì chẳng đất dung thân
Không sanh, thì chẳng canh tân
Không diệt,thì cũng đâu cần phải sanh ?
Diệt sanh diệt, có nên không vậy ?
Nếu không, sao lại có câu nầy ?(diệt diệt)
Kinh chẳng khi nào chép sai ?
Còn Phật cũng chẳng thuyết hai ba lời.
Nhưng sao ít có người giải thích
Hoặc thuyết minh cho thật khoái tai
Nỡ để người học thở dài
Ngán ngẩm chẳng biết đúng sai thế nào ?
Thắc mắc tại vì sao phải diệt
Diệt cái sanh diệt, diệt thế nào ?
Cái sanh thì diệt làm sao ?
Cái diệt đã diệt, diệt vào nơi đâu ?
Diệt sanh diệt nhằm vào tâm thức
Hay là mớ vật chất vô tình ?
Có diệt thì chúng cũng sinh
Bởi vì vạn hữu muôn hình thiên sai.
Chúng sanh chẳng có ai diệt được
Vì chúng chẳng phải một duyên sanh
Tứ đại bốn chất liên doanh
Noản,thai,thấp,hóa,bốn ngành chuyển lưu.
Còn cái tâm làm sao diệt được ?
Chỉ quen mồm bắt chước nói thôi
Tâm chẳng do nhân(duyên)sanh thời
Tâm chẳng thể diệt, là lời Thế tôn.(Kinh Niết Bàn)
Diệt sanh diệt vẫn còn nan giải
Không giải được phải trái rõ ràng
Thì làm sao có Niết bàn
Làm sao an ổn nhẹ nhàng yên vui ?
Vậy xin phép tạm thời giải lược
Các hành là nghiệp thức vô thường
Sanh diệt biến dị luôn luôn(diệc)
Thì có chi lại đau buồn xót xa ?
Không vui buồn, đó là tịch diệt
Tịch diệt thì vui biết chừng nào
Còn pháp sanh diệc như nhau(diệc)
Cứ sanh, cứ diệt, hơi đâu bận lòng.
----------------
(+)-Diệt(diệt) theo những dịch bản
thường dùng.
-Diệc(diệc) theo Khoa ngữ học.
Học Viện Phật Giáo Việt Nam Tp.HCM.
-(Viết nhân nghe giảng Kinh Niết Bàn
ở trường Cao Trung Phật Hoc Tp.HCM)
- - -
Gia Thất Am 10.05.2.015-01.04.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.429)
TÍN TÂM MINH(*)(33)
+ + +
Pháp luôn luôn đổi thay sinh động
Pháp tùy duyên ứng dụng khắp nơi
Pháp không riêng cho một người
Pháp luôn linh hoạt tùy thời đối cơ.
Chấp trước chi pháp kia, pháp nọ
Pháp gì rồi cũng bỏ mà thôi
Nếu như pháp vẫn không rời
Lạc mất tông chỉ, rớt rơi đường tà.
--------------
(*)-“Chấp chi thất độ
Tất(+)nhập tà lộ”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(+)-Bản dịch của Trúc Thiên tiên sinh
dùng chữ (Tâm).
Dẫn :
-“Pháp pháp bổn vô pháp
Vô pháp pháp diệc pháp
Kim phó vô pháp thời
Pháp pháp hà tằng pháp”.
(Thích Ca Mâu Ni Phật-
Phật Tổ Thiền Uyển Kế Đăng Lục)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.430)
DIỆT – DIỆT (2)
(Sanh diệt diệt dĩ Kinh Niết Bàn)
+ + +
1-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Vậy thì chớ có hỏi đòi
Đừng sanh đừng diệt,mới thời được vui.
2-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Diệt sanh, sanh diệt muôn đời
Đừng đòi diệt hết,hết rồi mới vui.
3-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Có sanh thì phải diệt thôi
Diệt hết sanh diệt,có thời hợp chăng ?
4-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt cứ diệt sanh thôi
Đừng chờ diệt hết,sau thời mới vui.
5-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Diệt sanh, sanh diệt thế thôi
Diệt hết sanh diệt, còn vui nỗi gì ?
6-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt cũng là vậy thôi(diệc)
Đâu cần hết sanh diệt,thời mới vui ?
7-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Đã là pháp sanh diệt thời
Cần gì phải diệt, diệt rồi mới vui ?
8-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt,tịch diệt song đôi(diệc)
Diệt sanh diệt,tịch diệt thời cũng tiêu.(1)
9-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt ai đã diệt rồi ?
Diệt rồi,sao vẫn còn thời diệt sanh ?
10-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Diệt cái sanh diệt, chao ơi !
Sanh diệt thì làm sao thời diệt đây ?
11-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt nếu diệt hết thời
Còn cái gì nữa ở đời mà vui ?
12-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt, ai diệt xin mời
Sanh diệt diệt được,nghìn đời kính tôn.
13-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Diệt sanh, sanh diệt rõ rồi
An nhiên giữa chốn cuộc đời diệt sanh.
14-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Tịch diệt là nói vậy thôi
Sanh diệt vẫn cứ muôn đời diệt sanh.
15-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt cũng như thế thôi(diệc)
Tịch diệt,sanh diệt đều thời như nhau.
16-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt,tịch diệt không rời(diệc)
Tỉnh biết như vậy tức thời an vui.
17-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt chỉ là trò chơi (diệc)
Trò chơi sanh diệt, buồn vui làm gì ?
18-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt đã như vậy thời(diệc)
Đâu cần tịch diệt, tịt ngòi làm chi ?
19-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là pháp sanh diệt lẽ đương nhiên rồi
Sanh diệt chẳng diệt sanh thời
Chỉ còn ngậm miệng im lời mà thôi !
20-Các hành nghiệp vốn vô thường
Là sanh diệt pháp lẽ đương nhiên rồi
Đã biết pháp vô thường thời(diệc)
Sanh diệt biến dị đổi dời luôn luôn.
Thì đâu có chi vui buồn
Lại phải diệt tận, tận nguồn diệt sanh ?
“Sanh diệt diệt dĩ”phải chăng
Tịch diệt,sanh diệt cùng đang hiện hành ?
Sanh diệt thì cứ diệt sanh
Tịch diệt thì cứ lặng thầm tịch nhiên ?
Pháp nào có từ nhân duyên
Là pháp sanh diệt không riêng pháp nào.
Còn cái vốn chẳng đuôi đầu
Không phải lệ thuộc dựa vào nhân duyên
Cái đó vốn vẫn như nhiên
Không bị chi phối biến thiên đổi dời
Như Lai Phật tánh thế thôi
Thường lạc ngã tịnh,vượt ngoài chúng duyên.
Chẳng pháp nào tự làm phiền
Pháp nào trong cái sở duyên trùng trùng.
Tự thể pháp vốn thông dung
Bản lai thường tịch dù trong cảnh nào.(2)
Trên cành liễu hót thanh tao
Chim hoàng oanh vẫy cánh chào mùa xuân.
Cỏ cây lớn nhỏ reo mừng
Trăm hoa đua nở giữa rừng chồi non.
-----------------
(1)-“Ba thủy danh tuy dị
Khai hàm nãi nhất hoa”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
(2)-a/”Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng”
(Kinh Pháp Hoa)
- b/”Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng”.
(Cảnh Sơn-Thiên Tùng ?)
*-Bốn tháng nghe kinh Niết bàn
Ít nhiều cũng được có phần đã thông.
Thắc mắc chẳng phải là không
Nhưng chỉ xin hỏi lòng vòng một câu :
“Sanh diệt diệt dĩ” thế nào ?
Diệt trước là diệt, diệt sao diệt gì ?
+ + +
Gia Thất Am 19.05.2.015-02.04.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015(1.431)
TÍN TÂM MINH(*)(34)
+ + +
Buông đi,buông đi,buông đi
Hãy buông bỏ hết đến khi chẳng còn
Cái gì buông nữa để buông
Thỏng tay dạo phắp phố phường rong chơi.
Đến đi như chỗ không người
Không nơi dừng bước,không nơi quay đầu.
Hỏi chi đi đâu, về đâu
Vốn không nơi chốn,chốn nào khứ lai.
--------------
(*)-“Phóng chi tự nhiên
Thể vô khứ trụ”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
Dẫn :
-“Kiến nguyệt phi quan chỉ
Hoàn gia mạc vấn trình”.
(Thiền Sư Hương Hải)
-“Hưu vấn tử sanh ma dữ phật
Chúng tinh cũng bắc,thủy triều đông”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
-“Vô niệm,vô tác,phi tu,phi chứng”.
(Chương thứ 2 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.432)
VÔ NGÃ QUÁN (*)
(Phẩm Ai Thán Kinh Niết Bàn)
+ + +
Quán vô ngã muốn mau thành tựu
Thì phải cần quán đủ hai phần
Vô ngã pháp, vô ngã nhân
Bằng chẳng như vậy khó hòng xả ly.
Nếu chỉ có mình là vô ngã
Vẫn chưa đủ đả phá xan tham
Có của nên mới thich ham
Có mình nên mới sẵn sàng hy sinh.
Vậy nên nếu quán mình vô ngã
Thì cũng quán tất cả vật người
Không có gị ở trên đời
Chẳng vay,chẳng mượn lại thời có ra ?
Hữu tình thời thêm cha với mẹ
Còn vô tình cứ thế quẩn quanh
Gá nương bốn đại duyên sanh
Ngắn dài tùy hành nghiệp trong mỗi loài.
Vậy thì ai là người có ngã
Khi mọi người mất cả chủ quyền
Không ai được sống tư riêng
Nếu như thiếu vắng các duyên thông thường…
Thế mới biết vô thường, vô ngã
Con người không có cả cái quyền
Sống yên hay là chết yên
Vì bốn đại,chúng thường xuyên chống kình.(1)
Chúng bất an, thì mình bất ổn
Còn cảnh ngoài hổn độn bất hòa
Nghịch mùa,trái tiết xảy ra
Cỏ cây xơ xác, bịnh tà dịch ôn.
Trời đất thì nỗi cơn ái ố
Núi thì long, đất lở, sóng thần
Chiến cuộc khắp giáp thôn lân
Sản nghiệp tan nát,gia thân chẳng còn !
Vô thường gắn kết,không,vô ngã
Khổ, bất tịnh theo đó hiện hành
Muốn khổ não chẳng khởi sanh
Hãy dứt tham ái,than danh,tham tài.
Đã biết cái thân nầy không thật
Bởi vì mớ vật chất phù hoa
Đều chẳng phải của riêng ta
Vô ngã, vô chủ, mê mà làm chi ?
Được như thế, có khi lại khỏe
Hơn lặn hụp trong bể ái hà
Không ta và không của ta
Không tham,không đắm,thật là khỏe ru.
Vô ngã quán, quán như thế đấy
Mình cũng không,của cải cũng không
Không thật có thì chẳng mong
Chẳng mơ,chẳng tưởng,chẳng lòng ước ao.
Không vì của giết nhau chiếm hữu
Không vì mình bảo thủ chấp nê
Sống không ham hố đam mê
Sống với đạo lý tràn trề yêu thương.
----------------------
(1)-“Tuy nãi tứ đại phò trì thường tương
vi bội.”
(Quy Sơn Linh Hựu)
(2)-“Trí bất đắc hữu vô
Nhi hưng đại bi tâm”.
(Kinh Lăng Già)
Gia Thất Am 21.05.2015 – 04.04.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015.(1.433).
TÍN TÂM MINH(*)(35)
+ + +
Ngay nơi tự tánh ấy gìn
Ngay nơi tự tánh ấy nhìn suốt thông.
Đạo vốn chẳng ở ngoài tâm
Giữ thể tánh ấy hợp cùng đạo kia.
Thong dong dạo bước đi về
Rỗng rang vô sự mọi bề vẹn an.
Còn gì để hỏi, để han
Còn gì phiền não và không não phiền ?
---------------
(*)-“Nhậm tánh hợp đạo
Tiêu dao tuyệt não”.
(Tam Tổ Tăng xán)
Dẫn :
-“Tịnh tâm thủ chí
Hội kỳ chí đạo”
(Chương 13 kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-“Phiền não nhân tâm cố hữu
Vô tâm phiền não hà cư”.
(Thiền Sư Hương Hải)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.434)
TÍN TÂM MINH(*)(36)
+ + +
Còn niệm, là niệm chưa lìa
Còn niệm, là niệm nọ kia vẫn còn.
Vẫn còn niệm khởi chưa buông
Chưa buông khởi niệm,là còn cách chơn.
Không niệm, lại còn tệ hơn
Không niệm,khó thoát bóng đêm hôn trầm.
Niệm, mà không niệm mới chân(+)
Không niệm,niệm dứt hỏi còn ích chi ?
---------------------
(*)-“Hệ niệm quai chơn
Hôn trầm bất hảo”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(+)-“Vô niệm niệm tức chánh”.
(Pháp Bảo Đàn)
Dẫn :
-“Vô niệm niệm giả
Tức niệm chân như”.
(Thần Hội-Hiển Tông Ký)
-“Ngô pháp niệm vô niệm niệm”.
(Chương 18 Kinh Tứ Thập Nhị Chương)
-“Thùy vô niệm,thùy vô sanh”.?
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
-“Bất dụng tương tâm thấu bạc,
đản tình bất pụ vật,
vật khởi ngại nhân”.
(Quy Sơn Cảnh Sách)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.435)
TÍN TÂM MINH(*)(37)
+ + +
Càng lao lung,càng thất công
Cớ sao lại khiến tinh thần lao lung ?
Tốt xấu chi lại bận lòng
Cho dù chẳng tốt cũng không hệ gì.
Tốt nhất là hãy thực thực thi
Thân sơ gì cũng bỏ đi cho rồi.
Chẳng thân sơ ai buồn vui
Không xấu tốt, ai là người lao tâm ?
----------------
(*)-“Bất hảo lao thần
Hà dụng sơ thân”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
Dẫn :
-“Tòng tha báng,nhậm tha phi
Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì
Ngã văn kháp tự ẩm cam lộ
Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.436)
VI TẾ - THÔ TẾ
(“Vi tế tương dung an lập môn”.?
Thập huyền môn Hoa Nghiêm tông)
+ + +
Vi và tế chẳng phải hai
Làm sao có thể an bày tương dung ?
Lập như thế có ổn không
Hãy xem xét lại vẫn còn thời gian ?
+ + +
Thô và tế hoàn toàn đối lập
Quả đúng là một cập luận đề
Giữa cái thô kệch vụng về
Với cái nhỏ nhiệm không hề chướng nhau.
Như Tu di(sơn) để vào hạt cải
Mà chẳng có chi ngại với ngăn
Hoặc như thế giới ba ngàn
Trong một tâm ấy hàm tàng bao dung.
Chẳng phải người xưa không nghiêm túc
Mà có thể do lúc in sai
Vậy xin kiến nghị các Ngài
Nên tu chỉnh lại giữa hai từ nầy.
Có bản khác trình bày”Quảng hiếp”(+)
Rộng và hẹp dung nhiếp lẫn nhau
Từ nầy hợp lý xác xao
“Thập huyền duyên khởi” y vào lẽ đây.
“Thập huyền môn”nghĩa nầy chuẩn xác
Vì Hoa nghiêm quả thật khó vào
Nhờ có hai bản khác nhau
Đối chiếu so sánh chỗ nào đúng sai.
Thiếu thì thêm, sai thì chửa lại
Thừa thì bớt, có hại chi đâu
Chỉ cần cẩn trong làm sao
Đừng nên làm mất nghĩa mầu lý chân.
Học Phật đạo phải nên mạnh mẽ
Chớ yếu hèn như kẻ tội nhân
Phải trái gì cũng dạ vâng
Đúng sai gì cũng chẳng cần quan tâm.
Xin chớ có lặng thầm như thế
Hãy tích cực thừa kế phát huy
Thụ hưởng thì phải làm gì ?
Chớ nên để mai một đi gia tài !
--------------
(+)-“Quảng hiếp tự tại vô ngại môn”.
-Đã xem lại giữa 2 bản cựu và tân Thập
Huyền môn và Thập huyền duyên khởi
của 2 Ngài Pháp Tạng và Trừng Quán
qua 2 bản Hoa Nghiêm huyền ký cùng
Hoa Nghiêm sớ sao.
-Mong được góp ý !
Gia Thất Am 08.06.2.015-22.04.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.437)
TÍN TÂM MINH(*)(38)
+ + +
Thinh văn, Bồ tát, Phật thừa
Tiểu đại tối thượng đều là giả danh.
Muốn đến cùng tột lý chân
Phương tiện mở cửa quyền môn nhất thừa.
Còn đi là đường vẫn còn
Còn đến là hẳn còn phương tiện dùng.
Ghét chi giận chi lục trần
Một đóa sen nở giữa dòng trầm luân.
---------------
(*)-“Dục thú(1)nhất thừa
Vật ố lục trần “.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Bản dịch của HT Duy Lực dùng chữ (thủ).
Dẫn :
-Tửu bất túy nhơn,nhơn tự túy.
Hoa bất mê nhơn,nhơn tự mê.
(Cổ nhơn)
-“Văn thinh kiến sắc cái thị tầm thường”.
(Quy Sơn Linh Hựu)
-“Thật tế lý địa bất thọ nhất trần
Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”.(nt)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.438)
DIỆT ĐỘ
( Nghe kinh Kim Cang)
+ + +
Chúng sanh,sanh do chúng duyên
Chúng duyên diệt,chúng sanh liền diệt theo.
Diệt sanh, sanh diệt thảy đều
Là hữu vi pháp bọt bèo huyễn hư.
Vô ngã, vô chủ khởi từ
Vô minh vô thỉ có như không nầy.
Vậy thì lấy ai độ ai ?
Đó là diệt độ chín loài chúng sanh.
Bởi do giả chúng duyên thành
Vậy duyên nào là duyên sanh ban đầu ?
Nguyện độ khắp giáp rộng sâu
Nhưng chẳng có chúng sanh nào độ qua.
Do vì chúng sanh đều là
Giả chúng sanh,tạm gọi mà chúng sanh.
Nên chẳng ai đắc ai thành
Đó là độ tận chúng sanh Ta bà.
Không kẻ độ,chẳng người tha
Thừa còn chẳng có huống là có dư.
Niết bàn tự tánh Chân như.
----------
Gia Thất Am 19.06.2.015-04.05.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015 (1.439)
TÍN TÂM MINH(*)(39)
+ + +
Nhiễm ô nên gọi là trần
Không ô,không nhiễm gọi bằng cái chi ?
Trần đâu có tội vạ gì
Nếu không trần sắc, cái chi là đời ?
Do vì huân tập đấy thôi
Lâu dần nên bị dẫn lôi luân trầm.
Nay thì đã rõ giả chân
Cớ sao còn để cho lòng ố hoen ?
Bội trần hợp giác đương nhiên
Trần là trần có chi phiền, oán, than ?
-------------
(*)-“Lục trần bất ố (1)
Hoàn đồng chánh giác”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Bản dịch cua Trúc Thiên Tiên sinh
dùng âm Ác.
Dẫn :
-“Kiến sắc phi can sắc
Văn thinh bất thị thinh”.
-“Tình phàm thánh dứt,thể lộ chân thường.
Sự lý không hai,tức như như Phật”.
(Quy Sơn Linh Hựu)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.440)
BẤT KIẾN ĐẠO (*)
+ + +
Kiến đạo là kiến cái chi
Khi tâm vẫn cứ hoài nghi ngỡ ngàng.
Nghĩa tình vẫn cứ nặng mang
Ái ân vẫn cứ mang mang trong lòng.
Dáng người xưa vẫn nhớ mong
Bóng người nay vẫn ngóng trông đợi chờ.
Vẫn còn phân biệt thân sơ
Thân thì mời đón, sơ xô ra ngoài.
Thương thì thương mãi thương hoài.
Ghét thì ghét đắng ghét cay suốt đời.
Hận thì hận oán thấu trời
Nhớ thì nhớ đến nụ cười, cái răng.
Tình cảm cứ mãi lăng nhăng
Lặng thầm nhưng vẫn ngập tràn bão giông.
Ngấm ngầm giấu kín bên trong
Ngoài mặt bộ dạng như không có gì.
Âm thầm ôm mối tình si
Đến khi vỡ lẽ hận thời khôn nguôi.
Kẻ thì hủy hoại cuộc đời
Kẻ thì từ tạ tháo lui hậu trường.
Kẻ thì che giấu vết thương
Kẻ thì ngao ngán chán chường buông xuôi.
Nhơn hoài ái dục khôn thôi
Thấy gì, sáu nẻo luân hồi tử sinh ?
Đạo ở đâu đó mà trình
Mà thưa,mà thốt rằng mình thấy ra.
Khi lòng đầy ấp dại tà !
---------------
(*)-“Nhơn hoài ái dục bất kiến đạo giả”.
(Kinh Tứ thập nhị chương)
(Chương thứ 16)
Gia Thất Am 20.06.2015 – 05.05.Ất Mùi
-Tiếng chuông chiều 3 – 2015.(1.441)
TÍN TÂM MINH(*)(40)
+ + +
Trí giả chẳng phải không làm
Việc làm người trí không tâm tham cầu.
Không vì lợi dưỡng cá nhân
Nên làm mà vẫn như không có làm.
Còn kẻ ngu luôn tính toan
Chưa làm mà đã đa mang khổ sầu.
Bởi vì không hiểu rõ câu
“Nhất thiết pháp giả”cơ cầu ước mong.
Tự cột, tự trói lấy thân .
------------
(*)-“Trí giả vô vi
Ngu nhơn tự phược”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
Dẫn :
-“Nội ngoại chư pháp tận tri bất thật,
Tùng tâm biến khởi,tức thị giả danh”.
-“Tảo phỏng minh sư
Thân cận cao đức
Quyết trạch thân tâm
Khử kỳ kinh cức”.
(Quy Sơn Cảnh Sách)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.442)
BẢN MẶT (TÁNH)
+ + +
Bản thể vốn tịnh thanh trong sáng
Như ánh trăng tỏ rạng trên cao
Chợt mây rủ gió cùng nhau
Kéo về ngăn bít lối vào nhà trăng.
Trên đám mây,trăng hằng tỏa sáng
Dưới đám mây, bị áng trăng mờ
Chớ trăng có tối bao giờ
Chỉ vì ta quá dại khờ cả tin...
Bản thể vốn không hình không tướng
Không tướng hình, há vướng mắc chi ?
Tốt xấu, thiện ác là gì
Mà tính, mà toán, mà bì, mà so ?
Không tính toán so đo thiện ác
Gương mặt xưa có khác chi đâu ?
Mày ngang,mũi dọc như nhau
Ngàn xưa cho đến ngàn sau vậy mà !
Không nhận ra do ta cố chấp
Dựa vào cái giả lập đặt tên
Biến kế nhiều quá nên quên
Hãy buông bỏ hết, tuổi tên hiển bày.
Huệ Minh ngay nơi đây tỏ ngộ
Còn chúng ta ái ố chưa buông
Thiện ác vẫn còn ghét thương
Làm sao thấy được chính khuông mặt mình ?
----------------
(Viết cho một người thắc mắc về sở ngộ
của Huệ Minh qua câu nói của Huệ Năng
trong Pháp Bảo Đàn.)
Gia Thất Am 13.01.2.018-27.11.Đinh Dậu.
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.443)
TÍN TÂM MINH(*)(41)
+ + +
Cái chi là pháp, pháp là chi ?
Pháp vốn “giả danh bất thật tri”.(1)
Pháp”chúng nhân duyên sở sanh pháp”.(2)
Pháp”vô bổn pháp” pháp truyền ghi.(3)
“Nhất thiết thế gian động tĩnh gì,
Bất an bại hoại pháp suy vi “(4)
Vọng tự chấp nê sanh ái trước
Pháp nầy như thị, pháp kia phi.
----------------
(*)-“Pháp vô dị pháp
Vọng tự ái trước”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-“Bất minh bạch nhất thiết thị giả,
vị chi vô minh”.
(Phật học giáo khoa thư)
(2)-“Nhân duyên sở sanh pháp”.
(Trung Luận-Long Thọ)
(3)-“Pháp pháp bổn vô pháp”.
(Thích Ca Phật ngôn)
(4)-“Nhất thiết thế gian động bất động pháp,
giai thị bại hoại bất an chi tướng”.
(Tiết 19 Kinh Phật Di Giáo)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.444)
AN CÁI CHI
(Nghe kinh Kim Cang)
+ + +
Cái tâm là cái chi chi
Lại tìm cách trụ, lại đi phục hàng ?
Cái tâm xác quyết rõ ràng
Mới an,mới trụ,mới hàng được tâm.
Cái tâm khó thể kiếm tầm(+)
Kiếm mà không đặng,hàng nhằm như chơi !
Cái mà theo ta không rời
Cái luôn rõ biết ta thời là ai ?
Chỉ là một, hay là hai
Tâm mình chẳng biết,thì ai biết mình ?
Không biết, lại giữ lại gìn
Cái không biết đó vô tình nhận ra.
Cái không biết cũng chính là
Cái biết trong các cái ta đang tầm.
Muốn an,muốn trụ cái tâm
Muốn hàng,muốn phục phải tầm cho ra.
Cái tâm đó nó chính là
Giả lập, giả gọi, giả mà đặt tên.
Thì đâu cần phải bớt thêm
“Ưng vô sở trụ” vượt lên đôi bờ.
Bỉ thử, ngã nhân, thân sơ
Không an thì biết bao giờ an đây ?
-Ngoài trời giờ đã tan mây
Trăng khuya trong sáng tròn đầy hiện ra.
Ta nhìn trăng, trăng nhìn ta
Ta cười,trăng tít ngàn xa cũng cười !
-------------------
(+)-“Tâm tâm tâm
Nan khả tầm
Khoan thì biến pháp giới
Trách giả bất dung châm”.
(Tuệ Trung Thượng Sĩ)
Gia Thất Am 21.06.2.015-06.05.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.445)
TÍN TÂM MINH(*)(42)
+ + +
Cái tâm là cái chi chi
Mà sao lại lắm người đi kiếm tầm ?
Lấy cái gì để tìm tâm
Chẳng lẽ tâm nọ lại tầm tâm kia ?
Lấy cái gì để ngăn dè
Lấy cái gì để giải mê phá tà ?
Vậy là ta đã lầm to
“Bính Đinh cầu hỏa”(2)bày trò”Diễn Đa”(3)
-------------------
(*)-“Tương tâm dụng tâm
Khởi phi đại thác”.(1)
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Bản dịch của HT Duy Lực dùng âm: Thố.
(2)-Đồng tử Bính Đinh xin lửa.
(Thiền Sư Huyền Tắc-
Ngũ Đăng Hội Nguyên)
(3)-Diễn Nhã Đạt Đa.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Dẫn :
-“Tự tâm thủ tự tâm
Phi huyễn thành huyễn pháp”.
(Kinh Thủ Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.446)
THIỆN ÁC (BẤT TƯ)
(Tiếp theo bài Bản Mặt(tánh))
+ + +
Thiện và ác lanh quanh đối đãi
Không ác, thiện há lại có sao ?
Thiện ác là như thế nào
Ác thiện,thiện ác dựa vào nơi đâu ?(1)
Không hẳn giúp đỡ nhau là thiện
Nếu trợ giúp những chuyện gian ngoa ?
Còn như giải độc trừ tà
Phá mê, diệt dục lại là ác sao ?
Nếu ta cứ dựa vào hình tướng
Mà không nương”Thánh giáo lượng”ngôn
Hoặc là “tỷ lượng” thế nhơn
Thì càng xa cách lý chân dặm ngàn !(1)
Không nhận ra thế gian gỉa tạm
Nếu nhận ra, đâu dám tham tranh
Cái nào là cái của anh
Cái nào là cái đang nằm tay tôi ?
Tất cả là cuộc chơi huyễn hóa
Không thật có, vô ngã, vô thường
Biến kế, giả lập, danh ngôn
Thiện ác cũng là một trong thứ nầy.
Nên người trí ngay đây thí xả
Có chẳng theo,không nọ chẳng buông(3)
Đến đi thư thả bình thường
Ra vào ba cõi, sáu đường an nhiên.
Còn những ai kết duyên thế sự
Xem như là tạng phủ trong ta
Thì cứ sầu khổ xót xa
Trải lòng ái kiến,chan hòa sẻ chia.
Nếu đã nhận nơi kia là thật
Thì nơi đây quả thật khó vào
Không vào được thì làm sao
Thấy được,biết được ngỏ nào chui ra ?
Để một lần thấy qua khuông mặt
Thật, xưa nay mày mắt thế nào
Và để mãi mãi về sau
Không còn lầm nhận ảnh bào là ta.
--------------
(1)-”Vô tội phước,vô tổn ích
Tịch diệt tánh trung mạc vấn mích”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
(2)-“Thị bất thị,phi bất phi
Sai chi hào ly thất thiên lý”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
(3)-“Định vô tắc trước đoạn
Định hữu tắc trước thường
Thị cố hữu trí giả
Bất ưng trước hữu vô”.
(Trung Luận-Long Thọ)
Gia Thất Am 15.01.2.018-29.11.Đinh Dậu.
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.447)
TÍN TÂM MINH(*)(43)
+ + +
Tỉnh mê, động tịnh lăng xăng
Vừa khởi niệm tịnh là tâm động rồi.
Tịch lặng, động loạn mê mờ
Mê trầm thủ tịch, mê sa trần hồng.
Tốt xấu nhơ sạch bất phân
Tỉnh ra mê ngộ đều không có gì.
---------------
(*)-“Mê sanh tịnh loạn
Ngộ vô hảo (1) ố”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Bản dịch của Trúc Thiên Tiên sinh
dùng âm : Hiếu.
Dẫn :
-:Liễu liễu kiến vô nhất vật
Diệc vô nhân, diệc vô Phật
Đại thiên sa giới hải trung âu
Nhất thiết thánh hiền như điển phất”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn Niên 2.000.(1.448)
TRỤ CÁI CHI
(Nghe Kinh Kim Cang)
+ + +
Ba tâm, an cái tâm nào
Ba tâm không có dựa vào đâu an ?(1)
Lại đòi, lại hỏi phục hàng
Không tâm, thì lấy chi an với bày ?
Không tâm thì tự tâm nầy
Không chơn,không vọng,lấy ai phục hàng ?
Ưng trụ thì đã bất an
Bởi vì các pháp thế gian vô thường.
Hàng phục chỉ là nói suông
Không tâm thì lấy chi nương gá vào ?
Vì có cái chi thật đâu
Mà trói, mà cột, mà cầu thoát ra ?
Tâm sanh các pháp cơ mà(2)
Không tâm thì pháp nào là pháp đây ?
Tâm không,pháp không xưa nay
Không an,thì xin chấp tay vái chào !
Vậy mà không ngộ mới đau !
-Làm sao độ chúng sanh vào Vô dư ?
Niết bàn, Phật tánh, Chân như
Còn dư thì vẫn xem như còn thừa.
Còn thừa thì vẫn dây dưa
Sáng trưa chiều tối thỉnh thưa hỏi đòi.
Hãy diệt độ cả chín loài
Chúng sanh nội ngoại ở ngay hiện tiền.
Chúng sanh sanh do chúng duyên
Chúng sanh giả hợp,thảy liền độ qua.
Độ mà không người,không ta
Làm gì có cảm thọ và chúng sanh ?
Bốn tướng đã chẳng hình thành
Sáu căn, sáu cảnh, sáu trần cũng không.
Thì còn chi nữa mà mong
Khử trừ đoạn diệt cái không có gì.
Không có thực thể mắc chi
Lại vướng, lại mắc, bảo thì không an ?
----------------
(1)-“Tam tâm bất khả đắc”.
(Kinh Kim Cang)
(2)-“Ngoài tâm không có pháp”.
(Vạn Pháp Quy Tâm Lục)
Gia Thất Am 22.06.2.015-07.05.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.449)
ĐÂU CẦN PHẢI
+ + +
Đâu cần phải trải qua gian khổ
Người ta mới tỏ ngộ đạo chân ?
Vì do nhận định sai lầm
Nên mãi lẩn quẩn lanh quanh tri tầm.
Cứ ngỡ đạo cao thâm khó thấy
Phải cầu từ bên ấy Ấn, Hoa
Hoặc là đạo ở rất xa
Tà Lơn, Ông Cấm,Bắc Hà,Trúc Lâm.
Nhớ không lầm(Trần)Thái Tông hoàng đế
Lên núi cao lánh thế tu hành
Thiền sư Viên Chứng bảo rằng
Trên núi không Phật, chỉ toàn có tâm.
Luôn tỉnh lặng nhưng hằng thấy biết
Đó mới là chính thiệt bản tâm(1)
Ý mình là ý muôn dân
Đừng quên tham cứu nghiên tầm điển Kinh.
Chớ người đâu bảo mình phải ở
Trên núi rừng chịu khổ nhiều năm
Hoặc là bỏ ngủ, bỏ ăn
Khổ hành ép xác mới thành Phật tiên ?
Xưa Thích Ca lục niên khổ hạnh
Rốt cuộc rồi chẳng đặng thứ chi
Là bởi do thiếu nghĩ suy
Tưởng rằng tìm đạo phải đi vào rừng.
Song Ngài đã biết dừng ngay đó
Dòng Ni Liên gột rửa cấu nhơ
Thoải mái hít thở ra vô
Tựa lưng ngồi dưới gốc Bồ Đề cây.
Và chính tại nơi nầy Ngài đã
Nhận ra mình trót đã lầm sai
Và cũng chính tại nơi đây
Ngài đã chuyển đổi tương lai của mình
Giác ngộ là đã nhìn ra được
Sự thật ngay ở trước mắt mình
Mọi thứ đều từ duyên sinh
Mọi khổ đều từ vô minh mê mờ.
Vậy là đâu phải nhờ vất vả
Đâu phải cần công quả nhọc nhằn(2)
Hoặc là nhịn khát, nhịn ăn
Người ấy mới đặng vinh danh thánh hiền ?
Mà phải nhờ tham thiền, nhập định
Định phải minh,phải chính,phải chơn
Còn thiền phải xả, phải buông(3)
Phải“Diệu quán sát”tận tường tướng duyên.(4)
Định, mà cứ du miên, du mộng
Thiền,mà cứ tưởng bóng,tưởng hình
Rằng có các đấng siêu linh
Phóng quang,tiếp dẫn Thiên đình,Tây phang.
Là đã lạc vào hàng si định
Là tà thiền, là ám chứng rồi
Trí Giả(Đại Sư)xưa có dạy người(5)
Chớ chẳng phải là do tôi lắm lời.
Rảnh rỗi nói chút chơi lý đạo
Nếu như ai có hảo ý nghe
Hoặc như nếu có kẻ chê
Cũng xin được kết bạn bè giao lưu.
---------------
(1)-“Sơn bản vô Phật
Duy tồn hồ tâm
Tâm tịch nhi tri
Thị vi chân Phật”.
(Thiền Sư Viên Chứng)
Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam Toàn Tập
Lê Mạnh Thát
(2)-“Kiến tánh là công
Bình đẳng là đức”…
(Pháp Bảo Đàn)
(3)-1/Xa ma tha.
-2/Tam ma bát đề.
(4)-Diệu quan sát trí.
(5)-Tu Tập Tọa Thiền Yếu Chỉ.
Gia Thất Am 17.01.2.018-01.12.Đinh Dậu.
-Tiếng vọng 3 – 2.018.(1.450)
TÂM LÀ CHI
(Nghe Kinh Kim Cang)
+ + +
Khi biết được tâm mình chẳng phải
Là cái đang chạy nhảy leo chuyền
Đó là ý mã tâm viên
Chớ chẳng phải cái tâm nguyên ban đầu.
Vậy thì cái tâm nào tâm bổn
Để khỏi phải hao tốn thời gian
Biết tâm thì mới phục hàng
Biết tâm thì mới dễ dàng an tâm.
Không biết tâm, lại tầm lại kiếm
Lại mong cầu hoán chuyển đổi tâm
Như vậy có đáng tiếc chăng
Cho bao công sức nhọc nhằn gian lao ?
Không biết tâm làm sao hàng phục
Tâm không biết, há được an tâm ?
Đó là quan niệm bình dân
Giản dị thực tế nhất trong cuộc đời.
Không phải chẳng tuân lời,thưa hỏi…
Vì đó là giềng mối tu hành
Nhưng cái gì là cái tâm
Cái tâm là cái nắm cầm được chăng ?
Cái tâm nó vốn không hình tướng
Thì tâm lại mắc vướng thứ chi
Cái vướng mắc là cái gì
Cái gì vướng mắc có thì thật không ?
Cái gì có đều không thật có
Không thật có, cái đó ra sao ?
Không thật thì nói cách nào
Cũng là sáo ngữ,tầm phào bong long.
Không nầy là nghĩa không thật có
Do cái nầy cái nọ sanh ra
Hôm nay khác với hôm qua
Hôm sau nữa chẳng còn là thứ chi.
Vậy thì mắc mớ gì than thở
Mắc cái gì khổ sở xót xa
Có gì tham luyến thiết tha
Có gì chấp thủ bảo là của tôi.
Của chẳng thật, tôi thời chẳng có
Thì lấy gì tám gió bão giông(2)
Lấy gì sáu giặc tấn công
Ba đường,sáu nẻo nào hòng lại qua ?
Còn gì nữa để mà mơ tưởng
Còn gì nữa mà tượng trứng thai
Hữu hình hữu hoại xưa nay
Sắc không không sắc đọa đày nhốt giam ?
Chín loại chúng sanh trong tâm tưởng
Cùng chín loài có tướng bên ngoài
Hãy nhớ cho rõ điều nầy
Chúng sanh là do chúng loài duyên sanh.
Có thì có nhưng không thật có
Sanh thì sanh nhưng chúng duyên sanh
Các pháp tự chúng vận hành
Sanh diệt tịch diệt chẳng cần bận tâm.
Diệt độ hay là không diệt độ
Thảy đều từ ở chỗ nhận ra
Các pháp duyên sanh đều là
Hư huyễn thì độ tận qua dễ dàng.
An, không an rõ ràng thấy biết
Trụ, không trụ còn thiết tha chi
Nơi nào cũng an ổn thì
Không an ổn ở, lại đi nơi nào ?
+ + +
Phật ơi ! con quá tự hào
Lời Ngài dạy bảo trước sau tận tường.
Chỉ vì thọ giả, ngã nhơn
Cải lời Ngài dạy, nên con luân trầm.
Nay xin sám hối tự tâm
Quyết chẳng tái phạm lỗi lầm trước đây.
Luôn an trụ thân tâm nầy
Giữa cõi huyễn mộng đủ đầy tướng duyên.
----------------
(1)-“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh”.
(Kinh Kim Cang)
(2)-“Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng”.
(Kinh Pháp Hoa)
Gia Thất Am 23.06.2.015-08.05.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.451)
TÍN TÂM MINH(*)(44)
+ + +
Giả chân, thiện ác, chánh tà
Trắng đen,phải trái,Phật ma,thánh phàm.
Hữu vô,thượng hạ, sắc tâm
Đoạn thường,hung kiết,dị đồng, tế thô.
Bỉ thử, nhân ngã, khen chê
Đều do toan tính so bì cân phân.
Đo lường,thương ghét,oán thân
Khiến nên tất cả biến thành nhị biên.
--------------
(*)-“Nhất thiết nhị biên
Vọng tự(1)châm chước”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Bản dịch của HT Duy Lực dùng chữ :
Lương do.
Dẫn :
-“Bất cầu chân, bất đoạn vọng
Liễu tri nhị pháp không,vô tướng
Vô tướng,vô không,vô bất không
Tức thị Như lai chân thật tướng”.
(Chứng Đạo Ca-Huyền Giác)
-“Cảnh lập tâm hiện hữu
Tâm vô cảnh bất sanh”.
(Minh Châu Hương Hải)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.452)
KIẾN GIẢI-NGỘ GIẢI
(Nghe Kinh Kim Cang)
+ + +
Ngay câu hỏi tự sanh lý giải
Nếu muốn an trụ phải làm gì ?
Chớ chẳng thể an đang khi
Chúng sanh quằn quại sầu bi trong lòng ?
Thế nên sự thực hành rất thiết
Hành cách nào phục chiết được tâm
Ngoài sự cố gắng hành thâm
Phải hành như thể là không có hành.
Buông bỏ hết chúng sanh,thọ giả
Xả ly hết cả ngã và nhân
Sáu trần hương,vị,sắc,thanh
Sáu căn,mũi,lưỡi,thân phần,mắt,tai.
Bố thí hết chẳng hoài nghĩ tưởng
Người cho và kẻ hưởng lợi quyền
Vật chất của cải bạc tiền
“Tam luân không tịch”chẳng phiền bận tâm.
Không bằng lòng và không ưng thuận
Thọ thứ gì và nhận thứ chi
Do biết các pháp hữu vi
Sẽ chẳng tồn tại,khác chi ảnh bào.
Vì chẳng chấp mắc vào các pháp
Luôn hòa nhập mà chẳng hòa tan
Nên không có những bất an
Và khỏi ray rức phục hàng làm chi.
Nói tóm lại trước khi hàng phục
Có nghĩa là muốn được tâm an
Thì phải xác quyết rõ ràng
Tâm là gì, mới dễ dàng thực thi.
Không khéo, có đôi khi lầm lẫn
Hàng phục tâm dẫn đến vô tâm
Không không,không nghe,không làm
Không tu,không học,không tham,không thiền !
Không, thì rất bình yên lặng tĩnh
Nhưng coi chừng vướng bịnh chấp không
Vì chẳng có chi không không
Không va,không chạm,thành công cái gì ?
Không là đang khi trong lúc có (1)
Chuyện nầy hoặc chuyện nọ chuyện kia
Nghịch hay thuận với lòng ta
Mà không hề có xảy ra sự tình.
Không, là không để mình hụt hẩn
Khi biết rằng năm uẩn là không(thật)
Không ôm,không ấp trong lòng
Chứng đắc,vượt thoát khỏi vòng tử sanh.
Cắt đứt hết thê thằng tử phược
Cắt đứt hết ràng buột lợi danh
Nhưng tương quan Phật chúng sanh
Có còn tương tác trở thành Phật không ?
Hỏi để học để cho thông suốt
Tùy khả năng giải được bao nhiêu
Chướng ma,chướng cảnh giảm theo
Hành thâm chiếu kiến ít nhiều trong ta.
----------------
(1)-“Chẳng ở không thấy không
Chẳng rời không thấy không
Người thấy được như vậy
Gọi đó là thấy không”.
(Kinh Đại Bảo Tích)
(2)-“Chúng sanh vô biên thề nguyện độ.
Phiền não vô tận thề nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thề nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành”.
Gia Thất Am 26.06.2.015-11.05.Ất Mùi .
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.453)
TÍN TÂM MINH(*)(45)
+ + +
Đã biết là không hoa huyễn mộng
Mộng huyễn không thật,giống không hoa(1)
Hữu hình hữu tướng đều là
Huyễn mộng,thì có chi mà bận tâm ?
Rượt đuổi chi cho thêm phí sức
Rốt cuộc rồi có được gì đâu ?
Còm lưng, bạc tóc, phờ râu
Răng long,gối lỏng, mắt mờ được chi ?
-----------------
(*)-“Mộng huyễn không hoa
Hà lao bả tróc”.
(Tam Tổ Tăng Xán)
(1)-Như hoa đóm giữa hư không.
Dẫn :
-“Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh”.
(Kinh Kim Cang)
-“Chân tánh hữu vi không
Duyên sanh cố như huyễn
Vô vi vô khởi diệt
Bất thật như không hoa”.
(Kinh Lăng Nghiêm)
Nhặt cánh vô ưu 9
-Giáp Thìn niên 2.000.(1.454)
DIỆT ĐỘ (2)
(Lắng nghe Kim Cang Bát Nhã)
+ + +
Chỉ vì chấp có chúng sanh
Cho nên ta mới lao tâm nhọc hình.
Hỏi cái chi là chúng sinh ?
Chúng là nhiều thứ đồng tình chung nhau.
Kết hợp nhiều loại chủng vào
Tùy theo nghiệp thức,khác nhau tướng hình.
Có, hay không có chúng sinh ?
Có ! nhưng phải nói thật tình là không.
Vì không vĩnh viễn trường tồn
Luôn theo quy luật vô thường đổi thay.
Vốn không có mặt lâu dài
Nên tạm gọi cái có nầy như không.
Đã chẳng thật có chúng sanh
Thì ai độ tận ? Ai thành Phật đây ?
Nếu chẳng có ai độ ai
Đó là diệt độ các loài chúng sanh.
Diệt độ còn chi để thành
Chúng sanh,thọ giả,ngã,nhân dối lừa.
Có ai đâu để mà đưa
Mà dẫn, mà độ, mà thừa, mà dư ?
Nên dù làm mà vẫn như
Như chưa từng có-vô tư-Niết bàn.
------------
Gia Thất Am 28.06.2.015-13.05.Ất Mùi.
-Tiếng chuông chiều 3 – 2.015.(1.455)