SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
121-Thiền Sư NHƯ TRỪNG LÂN GIÁC (1696-1733)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, họ Trịnh, tên Thập, sanh ngày 5 tháng 5 năm Bính Tý, niên hiệu Chánh Hòa thứ 17, là con
của Phổ Quang Vương .
Khi tuổi trưởng thành, vua Lê Hy Tông gã nàng Công chúa thứ tư cho. Tuy sống trong lầu son, gác tía, nhưng tâm hồn luôn gởi chốn thiền môn. Sư có dinh thự riêng tại Thọ Xương ở phường Bạch Mã, Hà Nội với ao vườn 6 mẫu, có gò cao ở phía sau .
Một hôm cho lính tráng đào ao để nuôi cá quý. Đang khi đào đất gia đinh thấy một cọng sen lớn, liền đến trình sư. Sư cho
đó là điềm xuất tục, nhân đây sư sửa nhà làm chùa, đặt hiệu Liên Tông, viện tên Ly Cấu. Từ đây sư nỗ lực cần tu, chuyên
hành thiền quán .
Trải qua một thời gian, sư dâng sớ xin xả tục, được Quân vương chấp thuận. Liền thẳng đến huyện Đông Triều, chùa Long Động trên núi Yên Tử, đảnh lễ ngài Chân Nguyên Chánh Giác xin cạo tóc xuất gia .
Ngài Chân Nguyên bảo :
-“ Duyên xưa gặp gỡ, vì sao đến muộn vậy ?”
Sư thưa :
-“Thầy trò hội hiệp, thời tiết đến thì gặp”.
Chân Nguyên bảo :
-“Trùng hưng Phật Tổ sau nầy, trông cậy ở ông “.
Từ đây, sư ngày đêm nghiên cứu suốt thông ba tạng Kinh,
Luật, Luận .
Hôm nọ, sư oai nghi tề chỉnh, đảnh lễ Bổn sư xin thọ giới cụ
túc. Được thầy chấp thuận và đồng thời truyền trao tâm
pháp. Nhận được yếu chỉ, sư về lại chùa Liên Tông, hoằng
khai đạo lý, đồ chúng đến theo học rất đông .
Năm sư 37 tuổi, bỗng cho gọi đồ chúng đến dạy rằng :
-“Sắp đến giờ ra đi, nay ta trao lại tâm pháp đã được nơi ngài Chân Nguyên cho các ngươi :
Hãy nghe ta kệ đây :
Gốc từ không gốc
Từ không lại đây
Từ không lại đi
Ta không đi đến
Sanh tử hệ gì ?
Âm :
“Bổn tùng vô bổn
Tùng vô vị lai
Hoàn tùng vô vi khứ
Ngã bổn vô khứ lai
Tử sanh hà tằng lụy”.
Sư lại nói tiếp :
-“Thân tứ đại nầy không thể giữ lâu”. Nói xong, sư an nhiên
ngồi mà mất, thọ 37 tuổi. Nhằm niên hiệu Long Đức thứ hai .
------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 414 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5185 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
122-Thiền Sư TÍNH TUYỀN (1674-1744)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, họ Huỳnh, quê ở Đa Nhất,
Võ Tiên, Nam Định. Năm 12 tuổi, thế phát xuất gia với ngài Thượng Sĩ ở chùa Liên Tông, trải 6 năm thờ kính thầy và siêng năng học tập kinh điển không biếng trễ .
Một hôm, Thượng Sĩ nhìn sư than rằng : “Nay đang là thời mạt pháp, lòng người rối loạn, đạo đức suy vi, giới luật lỏng
lẻo, không kẻ để tâm tham cứu. Ngươi nên tha phương cầu học, ngõ hầu đem pháp chánh trừ dẹp những dị đoan tà mị,
thì chẳng còn gì quý hơn. Ngài lại trao sư pháp kệ :
Rừng thiền chôn lấp kính xưa
Quên mình vì đạo pháp, chưa mấy người.
Đồng tử tham vấn khắp nơi
Năm(mươi)ba yếu chỉ tuyệt vời tròn gom.
Âm :
“Thiền lâm cổ kính cửu mai trần
Vị pháp vong thân kỷ hứa nhân
Ngũ thập tam tham kim cổ tại
Bát tuần hành cước dã tâm cần”.
Sư nghiền ngẫm tư duy thâm nhập được yếu lý, nên khởi tâm phát nguyện nghiên tầm kinh luật .
Khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) Sư trèo non vượt suối ước độ 6 tháng, đến được chùa Khánh Vân ở Quảng
Châu Trung quốc, được ngài Kim Quang Đoan thu nhận vào học chúng. Sau 3 năm cần chuyên tu học, sư được thọ Tỳ
kheo và Bồ tát giới, bấy giờ sư đã 25 tuổi .
Ở Trung quốc tu học được 6 năm, sư xin phép trở về cố
quốc và thỉnh về gần gàn quyển Kinh, Luật, Luận. Ngài Kim Quang Đoan tiễn sư bài kệ :
Về mà chẳng ngộ
Ngộ mà chẳng mê
Tâm không mê ngộ
Thật ngồi tòa sen.
Âm :
“Hoàn nhi bất ngộ
Ngộ nhi bất mê
Tâm vô mê ngộ
Chơn tọa liên hoa”.
Sư về nước thì ngài Thượng Sĩ đã tịch. Sư cho chở Tam tạng đến chùa Càn An. Tăng ni đến cầu học và xin thọ giới rất
đông. Từ đây sư phát huy hoằng truyền tông Luật .
Năm sư 70 tuổi, một hôm bảo đánh chuông nhóm chúng,
gọi đệ tử Hải Quýnh : “Giáo môn ta thạnh hành là nhờ ngươi vậy”. Hãy nghe ta trao kệ :
Đạo tuyệt không lời
Pháp cũng không hai
Cửa vào vô số
Chẳng của riêng ai.
Âm :
“Chí đạo vô ngôn
Nhập bất nhị môn
Pháp môn vô lượng
Thùy thị hậu côn”.
Nói xong, sư ngồi kiết già mà mất .
----------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 418 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
123-Thiền Sư HẢI QUÝNH TỪ PHONG (1728-1812)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Nguyễn, họ Nguyễn, quê ở thôn Nghiêm Xá, huyện Quế Dương, Bắc Ninh .
Năm 16 tuổi, sư đến chùa Liên Tông lễ ngài Bảo Sơn Tính Dược cầu xin xuất gia thế độ .
Tính Dược bảo :
-Ngươi thân như mọi rợ, đâu thể kham lãnh đại pháp .
Sư thưa :
-Thân tuy mọi rợ, mà tâm đồng Phật Tổ .
Tính Dược bảo :
-Ta hỏi một câu nếu ngươi đáp được, thì sẽ thế độ cho,
bằng không đáp được, sẽ cho một tiền đi tìm Thiện trí thức
khác .
Sư thưa :
-Xin thỉnh ngài hỏi :
Tính Dược hỏi :
-Ngươi là người hay là Phật ? Là thật hay là giả ?
Sư thưa :
-Người Phật vốn không, huống là có thật giả .
Tính Dược khen :
-Hay lắm ! Ngươi liễu đạo vậy !
Từ đó sự học vấn của sư càng ngày càng tiến, đạo hạnh
càng ngày càng thăng cao. Sư được bổn sư cho thọ giới cụ
túc, lại càng tinh chuyên tu tập, không lúc nào xa rời tâm
đạo. Sư thích sống đạm bạc, giản dị, không gần chỗ thế
quyền cao sang. Đồ chúng quy tụ về theo thụ giáo với sư rất đông .
Năm Quý Mùi, niên hiệu Gia Long thứ 10. Một hôm sư bảo chúng đánh chuông nhóm họp, gọi đệ tử Tịch Truyền dạy
rằng :
-“Giờ quy tịch của ta đã đến, nay trao pháp kệ cho ngươi” :
Các pháp không tướng
Chẳng sanh chẳng diệt
Chẳng lấy gì được
Là thật Phật nói .
Âm :
“Chư pháp không tướng
Bất sanh bất diệt
Dĩ vô sở đắc
Thị chân Phật thuyết”.
Nói xong, sư ngồi yên lặng mà hóa, tọ 84 tuổi .
----------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 422 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 2766 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
124-Thiền Sư NGUYÊN THIỀU (1648-1728)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời Lê Nguyễn, họ Tạ, pháp danh Nguyên Thiều, hiệu Hoán Bích, gốc người Trung hoa, quê
ở Triều châu, Quảng Đông. Sư xuất gia năm 19 tuổi, thọ
giáo với ngài Bổn Khao Khoán Viên ở chùa Báo Tư. Là sơ
Tổ thiền phái Nguyên Thiều ở Việt Nam .
Năm Ất TỴ (1665) niên hiệu Cảnh Trị thứ 3 đời Lê Huyền Tông (đời Nguyễn Phúc Tần thứ 17) Sư theo thuyền buôn
đến Quy Ninh (Bình Định) tại đây sư sáng lập Viện Phật học, xây cất chùa Di Đà Thập Tháp. Sau đó lần lượt lập chùa Hà Trung ở Thuận Hóa và chùa Quốc Ân ở Thừa Thiên .
Phụng mệnh vua Nguyễn Phúc Trân, sư trở về Trung quốc mời các danh tăng, trong số có ngài Thạch Liêm và thỉnh thêm kinh sách, tượng vật về cho nước ta .
Chúa Nguyễn kính sư, sắc chỉ trụ trì chùa Hà trung .
Hơn nửa thế kỷ sống và hành đạo tại Việt Nam, ngoài việc
xây dựng chùa tháp, lập trường học giáo dục tăng ni; sư còn đào tạo nên những danh tăng thạc đức truyền thừa Phật pháp cho Phật giáo nước nhà như các ngài : Minh Giác Kỳ Phương, Minh Vật Nhất Tri, Minh Hải Pháp Bảo và Minh
Hoằng Tử Dung .v.v…
Về già sư có bệnh, một hôm cho họp môn đồ để dặn dò và
trao pháp kệ :
Không bóng gương kia lặng lẽ
Không hình châu nọ chói chang
Không vật, vật rỡ ràng đó
Không mà chẳng phải không ngoan.
Âm :
“Tịch tịch kính vô ảnh
Minh minh châu bất dung
Đường đường vật phi vật
Liêu liêu không vật không”.
Thuyết kệ xong, sư ngồi yên lặng mà mất, thọ 81 tuổi.
nhằm ngày mười chín tháng mười năm 1728, niên hiệu
Bảo Thái thứ 10 .
------------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 432 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 171 .
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong (1). tr 91,103,148 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ TƯ)
125-Thiền Sư LIỄU QUÁN (1667-1742)
+ + +
Thiền sư Việt Nam, thời hậu Lê, họ Lê, tên Thiệt Diệu, sanh
giờ Thìn ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi, quê ở làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, Phú Yên. Sư xuất thân từ gia đình nghèo,
mẹ mất sớm. Năm 12 tuổi theo cha lui tới chùa Hộ Tông.
Buổi đầu thọ giáo với thiền sư Tế Viên, kế đến học đạo với
thiền sư Giác Phong và sau cùng tỏ ngộ với thiền sư Tử Dung .
Sư tham câu :
-“Muôn pháp về một, một về chỗ nào ?”.
(Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ ?).
Ngày đêm không gián đoạn, suốt 8 năm vẫn chưa lãnh hội. Một hôm nhân đọc Truyền đăng lục, đến câu :”Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ”. Thoạt nhiên tỏ ngộ, sư tụng kệ :
Sớm biết đèn là lửa
Cơm chín đã lâu rồi.
Âm :
“Tảo tri đăng thị hỏa
Thục thực dĩ đa thì”.
Sáng ngày 21 tháng 11 năm Quý Hợi, sư bảo đệ tử mang
giấy bút đến để viết kệ pháp phó chúc :
Hơn bảy mươi năm ở cõi trần
Không không, sắc sắc vẫn dung thông
Sáng nay nguyện mãn về quê cũ
Há nhọc chạy tìm hỏi Tổ tông.
Âm :
“Thất thập dư niên thế giới trung
Không không, sắc sắc việc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý
Hà tất bôn man vấn Tổ tông “.
Viết kệ xong, sư điềm nhiên ngồi uống trà. Đại chúng đến
làm lễ, than khóc, sư dạy :
-“Các người đừng khóc, chư Phật thị hiện còn phải Niết bàn,
nay tôi đường đi nẻo về tự mình tỏ rõ, chẳng có việc gì mà
phải khóc”.
Mọi người im lặng, giây lát sư hỏi :
-Đã đến giờ Mùi chưa ?
Chúng thưa, đã đến giờ Mùi .
Sư nói tiếp :
-“Sau khi tôi đi, mọi người phải nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng của đời người, mà siêng năng tu tập trí tuệ,
chớ quên lời dặn bảo của tôi”.
Nói xong, sư yên lặng ra đi trong tư thế ngồi kiết già, thọ
76 tuổi .
--------------
*-Thiền sư Việt Nam. tr 443 .
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong. tr 290 .
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 182 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (2). tr 201 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
126-Hòa Thượng TIÊN GIÁC HẢI TỊNH (1788-1875)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Nguyễn, tên Tâm Đoan sanh ngày 30 tháng 5 năm Mậu Thân, con của võ quan Nguyễn
Hầu Cẩm và bà Nguyễn thị Hiền ở Gia Định .
Năm 15 tuổi, sư được cha mẹ dẫn đến chùa Từ Ân ở Gia Định, cầu xin xuất gia học đạo với ngài Phật Ý Linh Nhạc. Sau
đó thầy được gởi đến chùa Giác Lâm để thọ học với ngài Tổ Tông Viên Quang và được đặt pháp danh là Tâm Giác, pháp
hiệu là Hải Tịnh .
Từ đó, thầy chuyên tâm tu học, cần mẫn nghiên cứu sâu rộng Phật lý giáo nghĩa, thực hành thiền định nghiêm túc. Trải qua thời gian chẳng bao lâu, thầy đã trở nên vị tăng có kiến thức uyên bác về Phật học, đủ khả năng cáng đáng phật sự chốn tòng lâm. Chẳng dừng lại với những thấy biết mà mình
đã được, thầy còn đến cầu pháp với ngài Thiệt Thoại Tánh Tường ở chùa Huê Nghiêm, Thủ Đức, nên lại có pháp danh là
Tế Giác Quảng Châu.
Thầy từng giữ chức Tăng Cang các chùa Thiên Mụ, chùa Giác Hoàng trong kinh thành Huế, chùa Quốc Ân Khải Tường, chùa Giác Lâm và chùa Sắc tứ Từ Ân ở Gia Định .
Ngoài việc đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong đạo, thầy còn đứng ra trùng tu viện Quan Âm thành chùa Giác Viên. Khai mở đại Giới đàn, chứng minh các trường hạ, đào
tạo một số chư tăng cốt cán .
Năm Kỷ Tỵ (1869) thầy đã 82 tuổi, biết mình còn trụ thế chẳng bao lâu nữa, nên đã sắp đặt giao việc chùa lại cho các
đệ tử lo liệu.
Ngày mùng tám tháng mười năm Ất Hợi, thầy cho gọi môn
đồ vân tập về chùa Giác Lâm để khuyên dạy :
-“Các ngươi phải chăm lo tu học, nghiên cứu kinh điển, trau dồi đạo đức phẩm hạnh, không nên ham thích theo học khoa ứng phú, vì dễ bị sa ngã, mà cần phải tu tập thiền định, để giải thoát luân hồi”.
Đến giờ Ngọ, thầy an nhiên từ biệt mọi người lặng lẽ ra đi,
thọ 88 tuổi .
-----------------
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong (2). tr 297 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 449 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 289 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
127-Hòa Thượng HẢI THUẬN DIỆU GIÁC (1806-1892)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Đỗ, tên Lương Duyên, sanh năm Bính Dần ,tại làng Bích Khê, Quảng Trị .
Năm 13 tuổi, thầy xuất gia làm điệu ở chùa Thiên Thọ (Báo Quốc). Năm 20 tuổi, thọ cụ túc giới với ngài Tăng Cang Tế Chánh Bổn Giác
Năm 1837, thầy được ngài Tánh Thiện Nhất Định, Tăng
Cang chùa Linh Hựu ban cho pháp danh là Hải Thuận và
truyền trao kệ pháp :
Duyên lành ngộ được ví đầu kim
Đạo hợp tâm cơ xứng pháp truyền
Phước huệ gồm tu không gián đoạn
Nối Tổ truyền tông mãi sáng lên.
Âm :
“Lương duyên hội ngộ giới châm đầu
Đạo hợp tâm truyền xứng sở cầu
Huệ phước song tu vô gián đoạn
Quang dương Tổ ấn vĩnh truyền lưu”.
Thầy được kế truyền đời thứ 40 dòng thiền Lâm Tế và pháp thế thứ 6,thuộc pháp phái Liễu Quán .
Năm 1849, thầy được cử làm trụ trì chùa Diệu Đế và được
cử làm Tăng Cang vào đời vua Tự Đức .
Năm 1859, thầy được cử làm trụ trì chùa Báo Quốc. Trong thời gian ở đây, thầy đứng ra chủ xướng đại trùng tu chùa
nầy và sau đó trùng tu thêm các chùa Kim Tiên, Huệ Lâm …
Ngoài việc trang nghiêm tôn tạo chùa tháp, thầy còn mở
đại Giới đàn tiếp độ tăng ni thời ấy và những vị tăng đã thọ
pháp với thầy đều được đặt pháp húy là “Thanh” và pháp tự
là “Tâm” .
Ngày mười ba tháng giêng năm Ất Mùi, thầy cho gọi môn
đồ nhóm họp, khuyên nhắc việc tu hành, xong tuần trà thiết
đãi, chư tăng đến gần bên, thầy nhỏ nhẹ nói :
-“Thỉnh quý vị thiện trí thức đến mà thật chẳng có người
thù tiếp…” và thầy an nhiên từ biệt mọi người, thọ 90 tuổi,
71 tuổi đạo.
-------------
*-Việt Nam Phật giáo sử lược. tr 201 .
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong (1). tr 346 .
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế. tr 314 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
128-Hòa Thượng HẢI HỘI CHÁNH NIỆM (1834-1905)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Đỗ, tên Chánh Tâm,
sanh năm Giáp Ngọ tại Song Cầu, Phú Yên .
Bước đầu, thầy quy y thọ giới với ngài Tánh Như Phổ Tế.
Sau đó du phương hành đạo trải qua các nơi, từ Trung vào Nam và cuối cùng dừng lại chùa Long Hòa, ở làng Long
Thạnh, Bà Rịa .
Thầy có biệt tài nuôi trẻ con khó nuôi và trị bệnh người
bằng mật chú. Do đó, nên khi thầy mới về ở chùa nầy,
không được tín đồ hoàn toàn tin tưởng, nên họ đã tìm nhiều cách để thử thầy .
Như một lần nọ, họ sắp đặt cho một cô gái đẹp trong làng
lẻn vào thất khi thầy lên chánh điện tụng kinh. Thời kinh
tụng xong, thầy trở về phương trượng, cô gái liền xuất hiện
ôm thầy hôn tới tấp. Thầy thản nhiên bảo :
-Sao mầy hôn tao ?
Cô gái bụm miệng thầy, bảo đừng la lớn, vì em thương thầy .
Nhưng thầy vẫn nói to :
-Mầy hôn tao chi thế ?
Từ đây mọi người không còn nghi ngờ thầy nữa .
Thầy rất rộng lượng, luôn ôn hòa trong những lúc tiếp xúc
với đồ đệ. Thầy không trực tiếp la rầy, luôn tìm cách khôi hài nhắc nhở. Như có lần các chú nhỏ tổ chức đánh bài, thầy bắt gặp nhưng vẫn thản nhiên đến gần, rồi nói : “Bây chia tiền
như thế chừng nào mới xong ? Hãy lấy tiền đem chia đều ra
cho mỗi đứa đi ! “.
Thầy không hay nhắc lại chuyện đã qua, cũng không trực
tiếp nhận tiền bạc của Phật tử cúng dường, tất cả đều do
ban hộ tự lo liệu .
Thầy sống nhàn hạ thản nhiên trước tháng ngày an tịnh,
dù tuổi già nhưng sức khỏe rất tốt. Có lẽ thầy đã biết trước được ngày giờ thác hóa của mình, nên sáng ngày mười tám tháng năm, năm Ất Tỵ , thầy bảo bà hộ pháp nấu cho nồi
cháo trắng và một nồi nước lá xả để thầy tắm .
Sau khi dùng cháo sáng và tắm gội xong, đến giờ ngọ thầy
mặc pháp phục tề chỉnh, bảo đệ tử đánh ba hồi trống Bát
nhã, thầy nằm xuống quy tịch. Tín đồ hay tin đổ về than khóc,
có người không cầm đặng, đến cắn vào ngón chân cái của
thầy giựt dậy. bất chợt thầy ngồi dậy bảo rằng :
-“Nay đã đến ngày giờ ta trở về quê xưa, đừng nên than khóc, hãy để ta ra đi an ổn”.
Nói xong, thầy nằm xuống tạm biệt mọi người lặng im
thác hóa, thọ 72 tuổi .
---------------
*-Lịch sử phật giáo đàng trong (1). Tr 375 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
129-Hòa Thượng HOẰNG ÂN MINH KHIÊM (1850-1914)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Nguyễn, tên văn Khiêm sanh ngày rằm tháng bảy năm Canh Tuất, tại làng Bà Điểm, Gia Định trong một gia đình nông dân .
Năm lên 9 tuổi, chiến tranh đã cướp mất của thầy cả cha lẫn mẹ, sau đó thầy tìm đến quy y thọ giới với ngài Tiên Giác Hải Tịnh ở chùa Giác Lâm, với pháp danh là Liễu Khiêm Chí Thành .
Cửa thiền thanh tịnh, đạo chúng an hòa, chuông chiều, mõ sớm, không khí trong lành đã giúp người tu sĩ trẻ siêng năng
tu tập, chánh niệm tỉnh thức, nhanh chóng tiếp thu giáo nghĩa thượng thừa, khiến đạo nghiệp sớm thành tựu và phát triển .
Năm 20 tuổi thầy được ngài Tiên Giác đặt để làm trụ trì chùa Giác Viên .
Năm 26 tuổi, tại giới đàn chùa Từ Ân, thầy được đề cử làm Giáo thọ. Nếu không có tài đức, làm gì được đại chúng tôn trọng như thế ?
Năm 1898, thầy đứng ra chủ trương trùng tu chùa Giác
Viên và chùa Giác Lâm. Ngoài việc trùng tu chùa tháp, thầy còn tổ chức khắc in các bộ kinh luật như :
-Tỳ ni nhật dụng yếu lược .
-Nhơn quả thực lục toàn bản .
-Lăng Nghiêm kinh tán…
Thầy lại lên đường du hóa khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu long như : Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên,
Châu Đốc, và những nơi thầy dừng chân hóa đạo lâu nhất,
đó là hai tỉnh Mỹ Tho và Châu Đốc .
Chính thầy đã vẽ kiểu và chứng minh xây dựng chùa Vĩnh Tràng, là ngôi chùa nổi tiếng nhất miền tây Nam bộ. Còn tại Châu Đốc, thì đồng bào Phật tử tôn trọng gọi thầy là “Tổ núi Sam”.
Những ngày cuối cùng trong đời, sức khỏe của thầy vẫn tốt, thần sắc vẫn tươi nhuận, trí tuệ vẫn ngời sáng. Có lẽ thầy tự biết mình hơn ai hết, nên đã tận tụy khuyên nhắc đệ tử châm lo tu học, phụng trì Tam bảo .
Đến ngày hai mươi chín tháng giêng năm Giáp Dần, thầy
cho gọi các đệ tử đến bên, rồi chầm chậm đọc :
“Phật pháp miên trường
Chúng sanh dị độ “.
Nói xong, thầy từ từ nhắm mắt từ biệt mọi người, thọ 65
tuổi .
---------------
*-Lịch sử Phật giáo đàng trong (2). tr 315 .
*-Thiền sư Việt Nam. tr 500 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam(Thế kỷ 20 (1). tr 35 .
*-Thiền tăng truyện ký. tr 295 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
130-Ni Sư DIÊN TRƯỜNG (1863-1925)
+ + +
Ni giới Bắc tông Phật giáo Việt Nam, thời Nguyễn, là vị Tỳ
kheo ni đầu tiên của Ni bộ Thuận Hóa. Ni sư họ Hồ, tên Đắc Nhàn, sanh năm Quý Hợi tại làng An Truyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Cha là Hồ Đắc Tuấn, mẹ là Công nữ Thức Huấn, con gái của Tùng Thiện Vương .
Sau khi con trai chết, rồi đến chồng chết. Cảm nhận được
lý vô thường, sanh diệt biến dị, hư ngụy vô chủ ; nhìn sự thế như phù vân, công danh như bọt biển, ni sư đã đến chùa Từ Hiếu xin thế phát xuất gia với ngài Hải Thiệu Cương Kỷ,
được ngài hoan hỷ thu nhận và đặt cho pháp danh là Thanh Linh, pháp tự Diên Trường, bấy giờ ni sư vừa tròn 36 tuổi .
Hơn 10 năm thúc liễm thân tâm, dứt bỏ duyên trần, tinh chuyên học Phật, ni sư được giới thiệu vào Quảng Nam thọ
giới cụ túc do ngài Vĩnh Gia làm Hòa thượng đàn đầu .
Từ đây ni sư nỗ lực tu tập tinh tấn hơn nữa, được ngài
Cương Kỷ ủy thác về làm trụ trì chùa Phổ Quang ở Bến Ngự,
để lo việc trùng tu lại chùa nầy, làm cơ sở riêng cho ni chúng .
Chùa Phổ Quang trùng tu xong, lại gặp duyên chướng, ni sư tìm đến làng Dương Xuân Thượng, dựng lập chùa Trúc Lâm trên một ngọn đồi gần Cầu Lim. Nhưng khi chùa hoàn thành,
ni sư lại thỉnh ngài Giác Tiên đến trụ trì, còn mình thì lập
riêng một ni xá để tiếp dẫn hàng sơ cơ hậu học .
Vừa tôn tạo già lam, vừa trùng tu tự viện, vừa kiến lập đạo tràng, tịnh xá dẫn độ chư ni. Ni sư đã được đại chúng cung thỉnh làm Y chỉ sư cho ni giới tại đại Giới đàn chùa Từ Hiếu
năm 1924 .
Vào ngày Phật đản năm 1925, ni sư thỉnh các ngài Tâm Tịnh chùa Tây Thiên, Huệ Pháp chùa Thiên Hưng đến Trúc Lâm tự khai tụng Pháp Hoa kinh. Đến trưa, khi bộ kinh được tụng
xong, ni sư làm lễ tạ nhị vị Tôn túc và đại chúng đồng tu, liền
vào trượng thất ngồi kiết già an nhiên bỏ xác, thọ 64 tuổi .
Thiền sư Viên Thành có làm kệ tán như sau :
“Lành thay nữ đạo sư
Bậc giải thoát hào kiệt
Bỏ vinh hoa cuộc đời
Tìm vui nơi thiền duyệt.
Pháp bát kính hành trì
Nếp trường trai tinh khiết
Uẩn, giới như mây bay
Biển não phiền khô kiệt.
Chuông khua tỉnh thức đời
Bè từ độ oan kết
Công đức như rừng trầm
Mát như vầng tuệ nguyệt.
An nhiên bồ đoàn ngồi
Chứng quả vô sanh diệt
Lời kia là suối reo
Thân kia là núi biếc.
Xưa chưa hề có sanh
Nay cũng không từng diệt
Bờ bên kia bước lên
Đài sen hương diệu khiết”.
---------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (1). tr 152 .
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế . tr 434 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
131-Hòa Thượng CHÍ THIỀN PHI LAI (1861-1933)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, đời 36 thiền phái Lâm Tế, thầy quê ở xã Vân Sơn, huyện Di Xuyên, Quảng Nam, họ Nguyễn, tên văn Hiển, là con của Hộ quốc công Nguyễn
Công Thành .
Thầy không thích danh lợi, chỉ ưa mến xuất trần, nên dù
được làm quan vẫn chẳng quên hoài bão. Thầy từ quan, tha hương cầu đạo, vào Gia Định thành, đến chùa Giác Viên ở
Chợ Lớn, xin xuống tóc xuất gia với Hòa thượng Minh
Khiêm Hoằng Ân. Được Hòa thượng hoan hỷ thế độ, đặt
cho pháp danh là Như Hiền và pháp hiệu là Chí Thiền .
Thầy siêng năng chấp tác, lao dịch chuyện lớn nhỏ trong chùa chẳng ngại gian khó. Sau khi chuyện xây dựng chùa tháp tạm xong, thầy phát nguyện nhập thất ba năm .
Việc tu hành thầy chẳng những cần chuyên, mà việc lợi ích nhân sinh thầy cũng hết lòng tận tụy .
Năm Giáp Thìn 1904, trận bão lụt lớn nhất ở miền Nam lúc bấy giờ, gây nên nỗi kinh hoàng thảm hại với dân chúng Gò Công. Thầy đích thân huy động thuyền bè, đôn đốc tăng ni,
tín đồ trực tiếp đến cứu vớt, giúp cho hàng vạn người thoát khỏi cơn khốn khó hiểm nguy . Khi nước rút, thầy lại ra tay
điều động mọi người xây dựng lại những cửa nhà hư hao
đổ nát ; ủy lạo về vật chất, an ủi về tinh thần đối với những
gia đình không may có người thân mất mát .
Khoảng giữa năm 1905-1906, thầy rời chùa Giác Viên, đến vùng Châu Đốc tìm chỗ ẩn tu, được dân chúng vùng nầy
thỉnh thầy về chùa Phi Lai an trú .
Năm 1907, lại một trận lụt khác đến với người dân Châu
Đốc, thầy đem hết vật thực trong chùa ra cứu giúp, và ngôi
chùa lại làm nơi che chở tạm dung thân cho dân chúng trong vùng .
Sau những trận thiên tai, quá nhiều những đau thương tổn thất đến với người dân, thầy lập đàn cầu nguyện và thệ
chẳng ăn cơm, chỉ dùng rau trái, thời gian trải 12 năm .
Do công đức tu hành và hạnh nguyện xả thân vì nhân loại, danh thơm vang khắp 6 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
tăng ni, tín đồ quy tựu về nương tựa tu họ rất đông. Chẳng những thầy vang danh trong nước, mà cả đến ngoài nước
như Lục cả chùa Tà Lạp Cao Miên cũng gởi cúng một tượng Phật bằng vàng vào năm1925.
Đầu năm Quý Dậu, thầy có bệnh, an dưỡng tại thiền thất.
Thầy dự báo sẽ quy tịch vào ngày Phật nhập Niết Bàn. Đúng như lời tiên báo, vào ngày rằm tháng hai, thầy kêu môn đệ đến dặn bảo và chấp tay nói kệ :
“Nhất niệm viên quang tội tánh không
Đẳng đồng pháp giới hàm thanh tịnh”.
Nói xong,thầy an ổn ra đi, thọ 73 tuổi .
------------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (3). tr 65 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 415 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)) tr 81 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
132=Hòa Thượng KHÁNH HÒA (1877-1947)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Lê, tên Khánh Hòa,
sanh năm Nhâm Thân tại làng Phú Lễ, quận Ba Tri, Bến Tre ; thuộc gia đình trung lưu, chịu ảnh hưởng Nho giáo. Thuở
trẻ, tánh hạnh ôn hòa đoan trang, thông minh hiền hậu .
Năm 19 tuổi, thầy đến chùa Long Phước, Ba Tri xin xuất gia học đạo. Kế đến chùa Kim Cang, Long An thọ học với ngài
Long Triều. Thầy rất siêng năng cần mẫn học tập, nên được
chư tôn túc để ý thương mến .
Năm 1904, thầy nhập hạ tại chùa Long Huê, Gò Vấp, được
sự khuyến khích của chư tôn đức, thầy bắt đầu giảng bộ
kinh Kim Cang chư gia rất thành công. Đây là bước khởi đầu cho sự nghiệp Hoằng pháp sau nầy của thầy .
Năm 1916, thầy đang làm trụ trì chùa Tuyên Linh, Bến Tre.
Nhờ đi nhiều nơi, tiếp giao nhiều thành phần tu sĩ, thầy nhận thấy Phật giáo Việt Nam trên đà tuột dốc, nên thường than :”Do tăng già thất học, không đoàn kết, làm cho Phật pháp
suy đồi !”. thầy nghĩ mình cũng có phần trách nhiệm, nên đã đứng ra kêu gọi chư tôn túc các sơn môn, cùng chung vai
chỉnh đốn hàng ngũ Tăng già .
Năm 1920, Hội Lục hòa ra đời, thầy cùng chư tôn đức đứng
ra lập trường Phật học đào tạo tăng tài, cùng soạn dịch Kinh, Luật, Luận chữ Hán ra tiếng nước mình, để quần chúng dễ
dàng nghe đọc .
Về sau, các học đường Phật giáo được thành lập, các hội nghiên cứu được mở cửa, các tờ báo đạo được phát hành,
như tờ : Pháp Âm, Từ Bi Âm, Duy Tâm .v.v… Mở đường cho
sự chấn hưng Phật giáo sau nầy .
Để chuẩn bị cho những ngày cuối của cuộc đời, thầy đã viết những dòng “Di thư” để lại cho môn đệ như sau :
-“Phật giáo đang hồi suy vi, mà tôi chẳng làm được gi, nên
sau khi chết rồi, chỉ tẩn liệm thân huyễn nầy với y hậu vải thường, không nên dùng gấm lụa, đừng làm Long vị sơn son thếp vàng, cần tiết kiệm để dành bố thí giúp đỡ cho người nghèo khổ. Còn ngôi chùa do tôi đứng ra tạo lập, nên giao lại
cho thầy Tỳ kheo nào có đủ tài đức, giới luật tinh nghiêm trụ
trì kế nghiệp. Còn tài sản của chùa phải đem ra nuôi dưỡng chúng tăng tu học, không được dùng làm của riêng. Người
nào không y theo lời tôi dặn thì không phải môn đồ của đạo Phật”.
Ngày mười chín tháng sáu năm Đinh Hợi, thầy an nhiên qua đời tại chùa Tuyên Linh, thọ 70 tuổi đời, 40 tuổi đạo .
-------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam(Thế kỷ 20 (1)) tr 179 .
----o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
133-Hòa Thượng HUỆ ĐĂNG THIÊN THAI (1873-1953)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Lê, tên Quang Hòa,
sanh năm Quý Dậu tại xã An Đông, Bình Khê, Bình Định.
Thuộc gia đình Nho phong lễ giáo. Bẩm chất hiền lành, thông minh, hiếu học, thuộc lòng sách Nho từ nhỏ .
Năm 1900, một hôm đang dạo bước lên đồi Chân Tiên,
chợt nghe tiếng chuông chùa ngân vang thanh thoát, lòng
trần dâng xúc cảm, bao ưu tư trĩu nặng về cuộc sống thăng trầm, bỗng hòa theo tiếng chuông nhập vào cõi hư không vô
tận. Người thanh niên đang ở cái tuổi căng tràn sức sống, lại quay đầu tìm đến chốn thiền môn.
Chùa Long Hòa đang hiện ra trước mắt, sư cụ Hải Hội Chánh Niệm đang ôn hòa chăm chú nhìn chàng thanh niên,
qua gương mặt và dóc dáng, cụ biết ngay người nầy đã có duyên trước, nên đem giáo pháp hết òng nhũ khuyên. Kết quả, thầy đã gác lại chuyện thế tình, phát tâm hướng cầu
Phật đạo, được sư cụ truyền trao quy giới và đặt pháp danh
là Thiện Thức .
Năm sau, sư cụ gởi thầy đến Song Cầu, Phú Yên tham học
với ngài Trí Hải, chùa Thiên Thai Sơn Thạch. Siêng năng tu,
cần mẫn học, chỉ hơn ba năm, thầy đã trở nên người thông
thạo kinh luật, biện luận uyên bác .
Năm 30 tuổi, trở vè chùa cũ, thầy được thọ cụ túc giới và sư
cụ lại đặt cho pháp danh là Thanh Kế, pháp hiệu Huệ Đăng từ đó. Sư phụ lại gởi thầy đến chùa Giác Viên ở Chợ Lớn, thọ
học với ngài Hoằng Ân .
Sau khi bổn sư viên tịch, thầy trở về trông nom chùa cũ, trong khoảng thời gian nầy thầy lại vào núi Dinh, khai phá thạch động làm nơi chuyên tu thiền định. Qua hai năm hành
trì miên mật, kết quả danh đức của thầy vang khắp và từ đó thầy đã đóng góp rất nhiều cho Sơn môn trong việc hoằng truyền thuyết giảng .
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, đã phát sinh nhiều hội đoàn do các bậc tôn túc khởi xướng. Thầy cũng đã đứng
ra thành lập hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông và cho xuất bản
tờ báo Bát Nhã âm, để cùng chung lo cho đạo pháp .
Thầy thường nói cùng đồ chúng :
-“Muốn duy trì và phát huy Phật pháp, cái chính là phải mở rộng việc hoằng hóa lợi sanh, giáo dục mọi người gieo căn
lành, trồng cội đức”.
Ngoài việc đi đó đây thuyết giảng, trùng tu chùa tháp, thầy
còn để tâm diễn dịch các kinh thường tụng ra nghĩa nôm như : Di Đà, Vu Lan, Bát Nhã kinh nghĩa và các bài sám, như sám
Hồng Trần .v.v…
Đến ngày mười một tháng bảy năm Quý Sửu, thầy hướng
về Tây ngồi kiết già niệm Phật quá vãng, thọ 81 tuổi đời, 50
tuổi đạo .
----------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)) tr 233 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
134-Hòa Thượng KHÁNH THÔNG (1870-1953)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, quê ở làng An Thủy, huyện Ba Tri, Bến Tre, họ Hoàng, tên Hữu Đạo, thuộc thành phần gia phong Nho giáo. Thầy bẩm tính thông minh, viết chữ đẹp, thư phú hay, biện luận giỏi, trí nhớ tốt, được nhiều người ưa mến .
Một hôm, đang suy gẫm chuyện thế tình, thầy chợt nhớ đến câu :
Mỏng manh giấy trắng tình người
Cuộc cờ xoay chuyển, trò đời đổi thay.
Âm :
“Nhân tình tợ chỉ, trương trương bạc
Thế sự như kỳ, cuộc cuộc tân”.
Lẽ vô thường thấm thía, hạt giống Phật nẩy mầm. Năm 27 tuổi (1897) thầy tìm đến chùa Long Khánh, xã Bình Tây xin
quy y với ngài Chấn Bửu. Sau đó thầy đến chùa Kim Cang
ở Long An cầu pháp với ngài Chánh Tâm Minh Lương, được ngài đặt cho pháp danh Như Tín, pháp hiệu Khánh Thông (Là huynh đệ đồng môn với ngài Khánh Hòa) .
Năm 1907, thầy về làng An Thủy, khuyến hóa mọi người tạo dựng được ngôi chùa Bửu Sơn khang trang. Nhân ngày lễ lạc thành thầy kết hợp khai mở Giới đàn, để Tăng Ni các nơi về
thọ nhận luật giới huân tu .
Thầy là người có căn bản Nho học, thông Tam giáo, Cửu lưu, nay lại thêm đức độ tu hành nghiêm túc, nên đồ chúng theo về xin nương tựa tu học rất đông. Với ngôi nhà chung của Phật giáo Việt Nam, thầy cũng đóng góp rất nhiều trong
phong trào chấn hưng và đào tạo Tăng Ni tài đức để cung
ứng cho thế hệ Phật giáo tương lai .
Vào ngày mùng ba tháng tám năm Giáp Ngọ. Sau khi thọ trì kinh xong, cảm thấy trong người không khỏe, thầy cho gọi
đệ tử đến gần, lược kể chuyện học đạo, hành đạo của mình thuở trước, rồi khuyên đệ tử xuất gia cùng tại gia nên bền
lòng chăm lo tu học, chớ theo thế tình âu sầu buồn thảm .
Nói xong, thầy vui vẻ nhắm mắt ra đi, thọ 83 tuổi đời, 55 tuổi đạo.
--------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)). tr 243 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
135-Hòa Thượng KHÁNH ANH (1895-1961)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Võ, tên Hóa, sanh năm
Ất Mùi tại xả Phổ Nhì, Mộ Đức, Quảng Ngãi. Gia đình chịu
ảnh hưởng Nho giáo, thuở nhỏ tánh tình hiền hậu, dung mạo khôi ngô, thông minh học giỏi .
Năm 21 tuổi, trực nhận lý vô thường, nhìn vạn vật đổi thay, chìm nổi, thầy tìm đến chùa Cảnh Tiên quy y thọ giới .
Năm 22 tuổi, thầy được nhập chúng tu học ở chùa Quang
Lộc với pháp danh Chơn Húy. Nhờ có căn bản Hán học từ nhỏ, nên khi quay sang nghiên cứu Phật học, thầy nhanh chóng hội nhập và phát triển .
Lần lượt thầy được truyền thọ đầy đủ các giới luật của một
tu sĩ như : Sa Di, Tỳ Kheo và Bồ Tát giới với pháp hiệu Khánh Anh .
Năm 30 tuổi, thầy được mời đi giảng dạy khắp các chùa và
sau đó thầy tham gia viết báo, cũng như thường có mặt cùng
các vị Tôn túc đương thời trong công cuộc chấn hưng Phật
giáo .
Năm 1959, thầy được suy tôn lên ngôi Pháp chủ, lãnh đạo miền Nam Phật giáo .
Ngoài công việc giảng dạy, viết báo, giáo dục Tăng Ni, thầy còn biên soạn, phiên dịch kinh sách, để lại cho hàng hậu học, như : Nhị khóa hiệp giải, Nguyên nhân sanh tử luận, 25 bài thuyết pháp của Thái Hư Đại sư. v.v Vẫn còn đang lưu hành
rộng rãi .
Dù nhận lãnh nhiều trách nhiệm của Giáo hội giao phó, thầy vẫn không xao lãng việc công phu tu trì, luôn giữ câu niệm
Phật .
Đầu năm 1961, thầy cảm thấy tứ đại trong người thay đổi
báo hiệu cơ duyên hoằng hóa chẳng còn dài, nên cho gọi
môn đồ đến nhủ khuyên dặn bảo :
-“Rán cố gắng học đạo và hành đạo”.
Nói xong, thầy niệm Phật an nhiên quy tịch, thọ 66 tuổi đời,
45 tuổi đạo .
---------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (3). tr 344 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)) tr 301 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). tr 3471 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
136-Hòa Thượng PHƯỚC HUỆ (1875-1963)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, triều Nguyễn, quê ở làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, Quảng Trị, họ Nguyễn, tên Văn Cự, 12 tuổi sớm mất mẹ, 16 tuổi cha qua đời, một thân côi cút, nương tựa cửa chùa, tháng năm kinh kệ thấm nhuần; thầy
đến cầu xin xuất gia với ngài Viên Giác ở chùa Hải Đức, Nha Trang .
Thuở nhỏ, thầy vốn có học Nho, nay quay sang nghiên cứu kinh Phật, nên nhanh chóng thông đạt lý nghĩa. Năm 20 tuổi, thầy đến chùa Từ Hiếu, cầu học với ngài Hải Thiệu Cương
Kỷ, và được thọ cụ túc giới, tại giới đàn chùa Báo Quốc .
Năm Kỷ Hợi (1899) thầy xin phép dựng một am tranh ở làng Bình An gần đấy, để tiện bề chuyên tâm tu niệm, lấy hiệu Hải Đức am và đó là tiền thân của chùa Hải Đức hiện nay .
Năm thầy 30 tuổi, niên hiệu Thành Thái thứ 15 (1904) thầy đắc pháp với pháp huynh là ngài Thanh Minh Tâm Truyền ở
Tổ đình Báo Quốc với pháp hiệu là Phước Huệ và bài kệ trao pháp sau đây: :
“Thượng thừa Phật Tổ chấn tông phong
Phó kệ truyền đăng pháp pháp đồng
Thiện quả viên thành tăng Phước Huệ
Tương kỳ đạo đức vĩnh hưng long”.
Cuộc đời tu nhành của thầy cũng giống như pháp hiệu của thầy đã thọ nhận .
Thầy chủ trương tu Tịnh độ, thường khuyến hóa môn đồ niệm Phật, đồng thời không ngừng tôn tạo xây dựng chùa tháp. Thầy vừa hổ trợ Giáo hội đào tạo lớp Tăng Ni kế thừa,
vừa hiến cúng cơ sở vật chất để Giáo hội có phương tiện làm đạo .
Những ngày sau cùng trong cuộc đời, thầy thường nói :
-“Ta ra đời nhằm ngày Đản sanh của đức Từ phụ, thì sau nầy
ta cũng chọn ngày ấy ra đi”.
Đến ngày mùng tám tháng tư năm Quý Mão, thầy chẳng
thấy cờ phướn trang hoàng như hằng năm, hỏi ra mới biết
Giáo hội đã dời lại ngày rằm. Thầy nói : “Thì ta cũng đợi đến ngày rằm”.
Đúng như lời thầy đã nói. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày rằm tháng tư, thầy an nhiên thoát xác, thọ 89 tuổi đời, 68 tuổi
đạo .
-----------------
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế. tr 515 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)) tr 345 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 5670 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
137-Hòa Thượng VĨNH ĐẠT (1911-1987)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, quê ở xả Mỹ Nhơn, huyện
Ba Tri, tỉnh Bến Tre, họ Nguyễn, tên Hồng Hạnh, thuộc gia
đình nông dân hiền lành mộ Phật .
Năm thầy lên 9 tuổi, cha mẹ cho theo ngài Khánh Thông, chùa Bửu Sơn ở Tân Thủy xuất gia học đạo. Năm10 tuổi, thầy thọ giới Sa Di và được bổn sư gởi cho theo học với ngài
Khánh Hòa ở Bến Tre, sau đó thầy được đưa lên Chợ Lớn học với thầy Từ Phong ở chùa Giác Hải .
Năm 20 tuổi, thầy được thọ giới cụ túc và lần lượt đi tham học các nơi. Với tư chất dân quê hiền lành, luôn khiêm cung hòa nhã lại thêm nết hạnh nghiêm trang, nên đi đến đâu cũng được huynh đệ thương mến tương trợ .
Năm 24 tuổi, thầy được bổn sư khả nhận và ban pháp kệ thừa truyền :
Phát huy rộng lớn nối tông phong
Hòa hạnh tròn hành phước huệ thông
Mãi mãi truyền nhau tăng lẫn tục
Tỏ ngộ chơn thuyên rốt ráo không.
Âm :
“Hồng huy kế chánh tông
Hạnh hòa phước huệ thông
Vĩnh truyền tăng tục đạo
Đạt ngộ liễu chơn không”.
Sau đó, thầy được bổ nhiệm làm trụ trì nhiều tự viện và làm giảng sư qua nhiều trường hạ. Ngoài ra thầy còn tôn tạo chùa tháp, xây dựng tăng xá, học đường, thư khố, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ tiếp theo .
Năm 1987, thân huyễn xem chừng sắp hoại, song thầy vẫn giữ vững chánh niệm, dù tứ đại nội thân bất ổn .
Này rằm tháng chín năm Đinh Mão, thầy tắm gội, chuẩn bị thân thể sạch sẽ, tối đến cho gọi đệ tử tựu họp, thầy dạy bảo
và gao lại việc chùa .
Thấy đồ chúng buồn khóc, thầy nhắc lại lời cổ đức khuyên
nhủ :
Từ đâu sanh lại đây
Chết rồi đi về đâu
Biết được chỗ đi đến
Là người học đạo mầu.
Âm :
“Sanh tùng hà xứ lai
Tử tùng hà xứ khứ
Tri đắc lai khứ xứ
Phương danh học đạo nhơn”.
Đọc xong, thầy an nhiên từ biệt đại chúng, thọ 76 tuổi đời,
56 tuổi đạo .
-----------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20(1)). tr 767 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
138-Hòa Thượng NGỘ CHÂN TỬ (1901-1988)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, quê ở Thái Bình, họ Trần, tên Rinh, sinh ngày 3 tháng 3 năm Tân Sửu trong một gia
đình Nho giáo .
Sớm chịu ảnh hưởng Nho học cùng tập tục truyền thống
của gia đình, nhưng trong tâm trí thầy vẫn hướng về Phật
đạo; nên khi vừa khôn lớn, thầy quay sang nghiên cứu kinh Phật. Lại nhờ sự hướng dẫn dắt dìu của ngài Quang Huy, cộng thêm sự siêng năng cần mẫn học tập của thầy, nên
chẳng bao lâu tâm lành sớm phát, chí xuất tục nẩy mầm, thôi thúc thầy nhanh chóng quyết định hướng cầu đạo giải thoát.
Sau thời gian tha phương cầu đạo, thầy may mắn gặp được ngài Hư Không đang trên đường du hóa. Duyên xưa hạnh
ngộ, trò thầy gặp gỡ; thầy được ngài Hư Không trao truyền
quy giới và ban đặt pháp danh là Ngộ Chân Tử .
Từ đây thầy kiên trì tu học, từng bước thể nghiệm đạo lý thâm huyền và về sau được đắc pháp với sư cụ chùa Bà Đá,
Hà Nội .
Với bổn nguyện cần cầu giải thoát, với hạnh nguyện xả kỷ
lợi tha, Thầy đã về lại quê cũ, tìm đủ các duyên khuyến hóa
gia đình đem hết tài sản cúng dường Tam bảo và đồng phát nguyện xả tục tu hành .
Thầy vừa lo việc trùng tu chùa tháp, vừa lo xây dựng cơ sở
dạy nuôi trẻ thơ côi cút, cùng hoạn dưỡng người già yếu cô đơn. Vừa mở lớp hướng nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người nghèo khó cải thiện đời sống, vừa lo truyền bá giáo lý,
ấn tống kinh sách, hiển chánh, phá tà, trừ mê khai ngộ, vừa
mở mang đạo tràng Thiền học cùng niệm Phật đường, để
Tăng Ni tín đồ có chỗ tĩnh tâm tu học .
Ngoài những việc làm lợi lạc quần sanh tiêu biểu, thầy còn
để tâm biên soạn kinh sách truyền lưu, ngõ hầu phát huy
giáo pháp sâu rộng và dài lâu về sau .
Nay tuổi đời của thầy đã cao, biết chẳng thể ở thế làm đạo
lâu dài thêm nữa được. Thầy cho gọi đệ tử đến khuyên dạy :
-“Hãy để tôi đi, không nên nuối tiếc”. Và thầy đã an ôn từ biệt mọi người vào lúc 11 giờ 30 phút ngày mười sáu tháng mười năm Mậu Thìn, thọ 88 tuổi đời, 65 tuổi đạo .
-----------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)). tr 785 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
139-Hòa Thượng LIỄU NGỌC (1826-1900)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Trần, tên Viên Ngoan, sanh năm Bính Tuất, tại làng Bình Thủy, Vĩnh Định, Cần Thơ. Thuộc thành phần trung lưu, chịu ảnh hưởng Nho giáo; thuở nhỏ thông minh nết hạnh, thường lui tới chùa Phật .
Được huân tập giống Phật, chí xuất trần khởi phát, cha sớm
vội qua đời, thầy xin phép mẹ đến chùa Long Quang cầu học đạo, được sư trụ trì đặt cho pháp danh là Liễu Ngọc .
Năm tháng dần qua, kệ kinh sớm tối, lòng trần gột sạch,
tánh giác hiển bày, thầy đã có những bước tiến khá vững
chắc trên lộ trình Phật đạo .
Năm 1946, sau thời Tịnh độ đầu hôm, chợt nhìn thấy cánh
hoa héo tàn rơi trên Phật điện, thầy bỗng nhiên tỉnh thức.
Sau đó thầy xin phép bổn sư đến chùa Giác Lâm ở Chợ lớn, tham học với ngài Tiên Giác Hải Tịnh. Trong thời gian ở đây, thầy được ngài Hải Tịnh ấn chứng cho chỗ sở ngộ và đặt
pháp hiệu là Minh Ngọc tự Châu Hoàn. Đồng thời thầy được truyền thọ đại giới và giữ ở lại chùa để bồi dưỡng thêm kiến thức Phật học và phụ giúp Hòa Thượng trong công cuộc hoằng hóa .
Năm 1949, thầy được bổ xứ làm trụ trì chùa Hội Phước ở Rạch Nha Mân, Sa Đéc. Đây cũng là bước đầu mở đường cho
sự nghiệp làm đạo của thầy sau nầy .
Suốt một đời, thầy tu đạo, hành đạo chẳng biết mệt mỏi,
nào giảng hóa giáo lý tiếp kẻ hạ cơ, nào dắt dìu dẫn độ tăng chúng, nào tôn tạo trang nghiêm Phật điện, nào xây dựng
Già lam, Tăng xá, nào khai Hương, mở Hạ .v...v…
Năm Canh Tý, vào ngày mùng ba tháng ba, thầy có chút bệnh, cho gọi môn đệ đến khuyên dạy :
-“Hãy tinh tấn tu học, gắng trau dồi giới hạnh, luôn giữ vững đạo tâm và hết lòng phụng trì giáo pháp”.
Nói xong, thầy chấp tay niệm Phật thanh thản ra đi, thọ 75 tuổi đời, 54 tuổi đạo .
--------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (2)). tr 27 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
140-Tăng Sĩ TRÍ THUYÊN (1923-1947)
+ + +
Tăng sĩ Việt Nam, thời Nguyễn, họ Trần, tên Trọng Thuyên, sanh năm Quý Hợi, tại xả Tịnh Long, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, theo ngài Chơn Trung Diệu Quang, chùa Thiên Ấn từ thuở còn nhỏ. Tư chất thông minh, ngoan hiền, được bổn sư thương mến gởi cho đi ăn học ở nhiều chùa có tiếng trong tỉnh, như chùa Long Sơn, chùa Viên Giác…
Năm 1934, phong trào chấn hưng Phật giáo ở thời kỳ cao điểm, các trường Phật học đào tạo Tăng già cùng đồng loạt mọc lên ở khắp các tỉnh miền Trung. Thầy là một tu sĩ trẻ trong các vị tăng ưu tú thời bấy giờ như Thiện Minh, Trí
Quang…
Sau gần 10 năm thọ học ở An Nam Phật học đường chùa Trúc Lâm, Huế. Năm 1943, thầy tốt nghiệp Đại học Phật giáo khóa đầu tiên của phong trào. Sau đó thầy tiếp tục ở lại Huế học diễn giảng và nghiên cứu chuyên sâu thêm Phật pháp .
Năm 1944, thầy thọ đủ đầy giới pháp và ngài Giác Nhiên là Hòa Thượng Đàn đầu, đồng thời cũng từ đây thầy được công nhận là vị giảng sư trẻ có sức thuyết phục quần chúng nhất .
Thầy luôn sống với tinh thần Bi, Trí, Dũng, luôn thương yêu cứu giúp kẻ khó nghèo, tham gia giảng dạy các lớp xóa nạn
mù chữ, nhịn bớt phần ăn giúp kẻ đói, khiến thực dân Pháp nghi ngờ và tùng lâm Kim Sơn bị theo dõi cô lập .
Năm 1946, tất cả chư tăng chùa Kim Sơn đều di tản, chỉ riêng mình thầy tình nguyện ở lại trông nom chùa .
Đến chiều ngày ba tháng ba năm Đinh Hợi, quân Pháp mở trận càn quét vùng Lưu Bảo, Kim Sơn, chúng bắt thầy và đối xử như những người Việt Nam yêu nước chống thực dân khác. Thầy nói tiếng Pháp với chúng :
-“Xin để tôi đọc xong bài kinh ngắn rồi hãy bắn”.
Thầy ngồi kiết già uy nghi trầm tỉnh tụng kinh trước những họng súng đen ngòm đang chực sẵn .
Bài kinh vừa tụng xong, lời thầy vừa chấm dứt, thì tiếng súng cũng bắt đầu nổ giòn như tiếng vỗ tay tán thưởng con người vừa hoàn thành xong nhiệm vụ trọng đại .
Thân thầy ngả xuống, máu thầy tuôn ra, nhưng tinh thần Bi,
Trí, Dũng vẫn không thay đổi trên gương mặt thanh thản của người tu sĩ trẻ. Với 24 năm góp mặt làm người .
------------------
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế. tr 507 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (2)). tr 135 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
141-Hòa Thượng DIỆU PHÁP (1882-1959)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Lê, tên Viễn, sanh năm Nhâm Ngọ tại làng Mỹ Thạnh, An Nhơn, Bình Định, thuộc gia đình Phật giáo thuần thành, là môn đồ của chùa Thập Tháp .
Mặc dù chịu ảnh hưởng chung của thời kỳ Nho học, nhưng
tín ngưỡng riêng của gia đình vẫn là đạo Phật; nên chất Phật vẫn ngấm ngầm phát triển đều đặn trong tâm hồn chất phát, hiền hậu của người trai trẻ nhỏ tuổi .
Năm lên 14, thầy xin cha mẹ cho được thế phát xuất gia với ngài Phước Huệ, chùa Thập Tháp, được bổn sư đặt cho Pháp danh là Không Đàm. Sau gần 5 năm thờ thầy học đạo, năm 1900, thầy xin bổn sư được du phương tham học. Thầy bắt
đầu vào Nam và nơi dừng bước đầu tiên là chùa Phước Minh, huyện Cầu Ngang, Trà Vinh .
Sau hai năm đã thọ đầy đủ giới pháp, năm 1903, thầy lại phải về quê kế vị người chú là ngài Bửu Quang, trụ trì chùa Linh Tuyền. Trong thời gian nầy nhận thấy tuổi đời mình còn nhỏ, tuổi đạo cũng chưa nhiều, Phật pháp còn non kém, nên thầy đã quyết định giao chùa lại cho huynh đệ đồng môn, tiếp tục lên đường tầm sư học đạo .
Thầy tìm đến chùa Tuyên Linh ở Bến Tre, thọ học kinh luật với ngài Khánh Hòa. Sau hơn 5 năm chuyên cần học tập
nghiên cứu thực hành sâu đạo lý; nay thì thầy có thể tạm gọi
là người hội đủ điều kiện làm một Như lai sứ giả .
Thầy bắt đầu tham gia công việc phật sự của Giáo hội như, chịu trách nghiệm phát hành nguyệt san Từ Bi Âm ở Trà Vinh, sáng lập Liên đoàn Phật học xã, vận động thỉnh Đại tạng kinh
ở Trung quốc về nước mình, cùng sáng lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học, cùng phát hành tờ báo Duy Tâm, mở trường gia
giáo, dạy nội, ngoại điển cho chư tăng .v...v…
Ngày hai mươi tám tháng sáu năm Kỷ Hợi, biết được cơ duyên hoằng hóa sắp mãn, thầy đem việc phật sự dặn dò đệ
tử, nhắc nhở đồ chúng, sau khi thầy tịch chỉ làm lễ trà tỳ một cách đơn giản, rồi thầy an nhiên từ biệt mọi người, thọ 77
tuổi đời, 57 tuổi đạo .
-------------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (2)). tr 209 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
142-Cư Sĩ TÂM MINH (1897-1969)
+ + +
Cư sĩ tại gia trí thức Việt Nam, họ Lê, tên Đình Thám, sanh năm Đinh Dậu, tại làng Đồng Mỹ, Phú Khương, Điện Bàn, Quảng Nam, thuộc gia đình quyền quý, tộc họ nhiều đời làm quan. Thuở nhỏ ông thông minh xuất chúng, có khiếu văn chương, thi phú, lại thường đứng đầu trong các kỳ thi .
Năm 1930, ông thi đậu Y khoa Bác sĩ, được bổ đi làm việc ở
các tỉnh; trong thời gian nầy, ông để tâm nghiên cứu thêm triết học Đông phương mà nhất là về Tam giáo .
Khi làm việc ở Hội An, một hôm nhân vãng cảnh ở chùa
Tam Thái, chợt đọc được bài kệ : “Bồ đề bổn vô thọ” của ngài Huệ Năng ghi trên vách chùa, gây cho ông một ấn tượng sâu
sắc về Thiền học Phật giáo .
Năm 1928, ông về làm việc ở Huế, đây là dịp ông được tiếp xúc nhiều với các vị cao tăng thạc đức. Ông lên chùa Trúc Lâm gặp Hòa Thượng Giác Tiên, liền nhờ ngài khai mở yếu lý của bài kệ “Bồ đề bổn vô thọ” mà tự bấy lâu nay ông luôn
vương vấn trong lòng. Được Hòa thượng đả thông tâm yếu, khiến ông hoàn toàn thay đổi đời mình từ đây. Ông phát nguyện quy y Tam bảo, thọ trì ngũ giới, chay tịnh trang nghiêm, được Hòa thượng ban đặt cho pháp danh là Tâm Minh và pháp hiệu là Chiêu Hải .
Sau đó, ông lại thọ học với ngài Phước Huệ ở chùa Thập
Tháp và được ngài khuyến khích tham khảo tài liệu hành đạo thuyết pháp của Thái Hư Đại sư, để dung hợp làm đạo ở xứ mình .
Năm 1932, Hội An Nam Phật học ra đời và ông là Hội trưởng. Hội hoạt động đa năng, nào mở trường đào tạo Tăng tài, nào thành lập Hội Thanh niên Đức dục, nào chủ trương phát hành báo Nguyệt san Viên Âm và tạo lập, cũng
cố các Tòng lâm để có chỗ cho Tăng Ni an trú tu học .
Trong khoảng thời gian từ năm 1934 đến năm 1945, ông
là một trong các giảng sư nổi bật, chịu trách nhiệm giảng
giải kinh luận, hướng dẫn cho lớp Tăng Ni trẻ lúc bấy giờ ở
các Phật học đường. Và điểm nổi bật đáng lưu ý nhất, là ông luôn khiêm cung lễ độ đối với Tăng Ni, khi ông lên pháp tòa giảng giải .
Ông đã dâng hết đời mình cho Phật pháp, ngoài việc phụ vụ nhân sinh, thời giờ còn lại ông chuyên tâm nghiên cứu, phiên dịch, sáng tác, như bộ kinh Lăng Nghiêm do ông dịch và chú giải đang được lưu hành rộng khắp trong giới học Phật .
“Bồ đề bổn vô thọ”. Bài kệ mà ông hằng tâm đắc, đã thay đổi hẳn cuộc đời của ông. Vốn đã không gốc gác, vô sanh lý hiển
bày.
”Người Cư sĩ thời nay đã nhìn thấu cái nhìn của người Cư sĩ
thời xưa” .
Ông bệnh, Hòa thượng Đôn Hậu đến thăm, tăng tục đạo
đàm, Duy Ma hạnh ngộ Văn Thù. Hòa thượng quay về, ông nhắm mắt xuôi tay thanh thản ra đi. Nhưng ông có đi đâu, vì :”Bản lai vô nhất vật” cơ mà !
Ngày tháng năm ông chết : 23-04-1969. Nhằm ngày mùng bảy tháng ba năm Kỷ Dậu, đời 73 tuổi, đạo 42 năm phụng trì Tam bảo.
-----------------
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (3). tr 95,117 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)). tr 951 .
*-Lịch sử Phật giáo xứ Huế. tr 562 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
143=Trưởng Lão GIÁC AN (1901-1971)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thế kỷ 20, họ Nguyễn, tên Văn Ngàn
sanh ngày mùng sáu tháng sáu năm Tân Sửu, tại làng Hòa Long, Tổng An Thới Lai Vun, Sa Đéc, trong một gia đình nông
dân thuần hậu chơn chất.
Cha mẹ sớm mất khi thầy mới lên 17 tuổi, một thân phải
chăm lo cho cả đàn em còn nhỏ dại .
Năm 25 tuổi lập gia thất, 20 năm lặn hụp trong biển tình, chợt người bạn tình vĩnh biệt trần ai. Cha chết, mẹ chết, vợ chết, còn gì thấm thía hơn lẽ vô thường sanh diệt, diệt sanh, sớm còn tối mất !
Như người chợt tỉnh cơn mê, thầy nguyện sớm cắt thế
duyên tìm cầu giải thoát .
Từ đó, thầy đến chùa An Phú, ở gần chợ tỉnh, đảm trách
công việc xem mạch, hốt thuốc từ thiện giúp đỡ mọi người,
trải qua 4 năm. Một hôm, nhân ngài Minh Đăng Quang đến
mở đạo thuyết pháp tại tịnh xá Ngọc Quang cạnh bên chùa, thầy đến cầu pháp và xin quy y thế độ ; ngài Minh Đăng Quang thu nhận, cho xuất gia nhập chúng và ban đặc pháp
danh là Giác An, bấy giờ thầy vừa tròn 48 tuổi .
Sau 2 năm thờ thầy, giữ giới hạnh nghiêm túc, thầy được trao truyền giới Sa Di. Làm Tăng sĩ sống trong Tăng đoàn,
trải 4 năm thu nhiếp 6 căn, nghiêm trì giới luật, học hỏi tông thừa, thực hành thiền định, được đại chúng tin tưởng đề nghị lên Giáo hội truyền cụ túc giới cho thầy vào ngày rằm tháng
bảy năm Ất Mùi (1955).
Trải 8 năm sống chung hòa hợp trong Tăng đoàn, bước chân người “Khất sĩ” đã du hóa khắp các tỉnh miền tây Nam bộ, đem Phật pháp thuyết giảng, đem hạnh lành nhiếp hóa, đã
ảnh hưởng không nhỏ trong mọi tầng lớp người dân đồng
bằng sông Hậu .
Sau khi ngài Minh Đăng Quang vắng bóng, thầy một y, một bát, một thân, thẳng ra miền Trung mở đầu cuộc khai hóa. Trước tiên thầy thu nhận Tăng chúng, kế đến thầy xây dựng đạo trường Tịnh xá và thành lập Tăng đoàn đi hành đạo
thuyết pháp đó đây .
Hơn 20 năm học đạo, tu đạo và hành đạo, thầy đã tạo dựng hơn 20 ngôi Tịnh xá, dẫn độ hơn trăm Tăng Ni, còn tín độ
Phật tử thì cả hằng muôn vạn .
Đối với Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam, thầy là hàng lãnh đạo cấp cao, với chức vị Đệ nhị Phó Tăng Chủ .
Những ngày sau cùng, dường như thầy biết trước cơ duyên hóa đạo của mình sắp mãn, nên đã sắp đặt sẵn mọi việc giao lại cho các đệ tử lớn đảm đang, như việc lãnh đạo Tăng đoàn, việc duy trì Tông phong, việc phát huy giáo pháp .v...v…
Năm Tân Hợi, Đại lễ Tự Tứ Tăng và Vu Lan, tổ chức tại Tịnh
xá Ngọc Cát ở Phan Thiết. Thầy đến chứng minh, dạy đạo cho bá tánh cư gia và chứng minh cho Tăng Ni Tự Tứ. Đại lễ đã nghiêm hành xong, đến phần họp đại chúng, phân bổ Tăng trụ xứ ở các miền Tịnh xá, cũng như nghe đạo từ của thầy nhủ khuyên dạy bảo trước khi mỗi người trở về trú xứ của mình
làm đạo .
Thầy ân cần dạy dỗ chư tăng, chăm lo tu học, cắt đặt mọi việc, có ý bảo từ đây đệ tử phải tự lo liệu, thầy sẽ không tham dự nữa .
Nói xong, thầy chợt đưa tay lên vỗ đầu ba cái, rồi chỉ thẳng lên trời an nhiên thác hóa, đúng vào lúc 3 giờ 30 phút sáng ngày mười sáu tháng bảy năm 1971, giữa đại chúng trong tư thế ngồi kiết già chứng minh, trước Chánh điện .
---------------
*-Lưu kỷ. tr 28-36 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003.
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
144-Hòa Thượng ĐẠT THANH (1851-1973)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Võ, tên Minh Thông, sanh năm Quý Sửu, triều Tự Đức năm thứ 6, tại làng Tân Thới Tây, Tân Bình, Gia Định. Thuộc gia đình trung lưu, chịu
ảnh hưởng Nho học đương thời, song luôn kính tin Tam bảo.
Tư chất thông minh hiếu học và siêng năng .
Năm 12 tuổi, nhân theo cha mẹ đi lễ chùa Linh Nguyên ở Đức Hòa, hình ảnh mới, gợi lại dĩ vãng xưa, cảnh thiền môn siêu tục, khiến thầy vương vấn mãi. Cuối cùng, chỉ một tháng sau thầy đã xin phép cha mẹ đến chùa Linh Nguyên, xuất gia
học đạo với ngài Minh Phương Chơn Hương .
Trải 2 năm thờ thầy học đạo, thầy đã học thuộc hết các bộ kinh thường dùng và rất siêng năng cần mẫn việc chùa. Thầy được bổn sư dẫn đến chùa Giác Lâm gởi theo học với ngài Minh Vi Mật Hạnh .
Qua 6 năm công phu tu tập, đạo pháp thấm nhuần, thầy đã
có đủ mắt sáng nhìn nhân sinh thế sự. Nhận thấy phong trào khoa nghi ứng phú đang nổi lên mạnh mẽ, mà nhất là tại chùa Giác Lâm, khiến cho chư tăng mất quá nhiều thì giờ trong việc cúng tụng, chẳng còn ai để tâm đến sự nghiên cứu, tu học. Thầy lại xin qua chùa Giác Viên, vì nơi nầy vẫn
còn tạm yên, để tham học thêm với các ngài Hoằng Ân Minh Khiêm, Như Nhã Từ Phong. Sau thời gian tu học ở đây, thầy
đã thực thụ trở thành một tăng sĩ đủ khả năng đảm đang
công việc của Giáo hội .
Thầy đã du hóa khắp các tỉnh miền Tây nam bộ, đã tá túc
nhiều đạo tràng, tự viện; trong số có chùa Châu Long ở Châu Đốc và các chùa Trường Thạnh, Sùng Đức, Chưởng Thánh.
v...v…ở Gia Định, Chợ Lớn .
Năm 1951, thầy được suy tôn giữ chức Pháp Chủ Giáo hội Tăng già Việt Nam, và sau nầy thầy đã trao lại cho ngài Huệ Quang vì tuổi già, sức yếu .
Năm 1973, mặc dù thân xác đã hoàn toàn khô kiệt, song tinh thần thầy vẫn sáng suốt thông tuệ. Thầy cho gọi môn đệ các nơi về chùa đúng ngày 12 âm lịch để gặp thầy. Đúng 12 giờ trưa, đồ chúng vân tập đầy đủ, thầy bảo đỡ ngồi dậy, dựa
lưng vào bàn Tổ.
Thầy bắt đầu nói chuyện nhỏ nhẹ, nhủ khuyên mọi người về
lý vô thường, về sự biến chuyển đổi thay của vạn vật, các
pháp, nên chẳng có gì phải bi thương thống thiết. Thầy
truyền đọc pháp kệ và bảo mọi người lên chánh điện thiền
tọa và nhập Từ Bi quán .
Đến 15 giờ 30 phút, thầy bảo đánh trống Bát nhã, đến khi nào thầy bảo ngưng mới được thôi. Đến 16 giờ thầy an
nhiên từ biệt mọi người, trên tay vẫn còn nắm chặt xâu
chuỗi Kim cang. Thầy thọ 120 tuổi đời, 99 tuổi đạo .
-------------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (2)). tr 375 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
145-Cư Sĩ CHÁNH TRÍ (1905-1973)
+ + +
Cư sĩ trí thức Việt Nam, thế kỷ 20, họ Mai, tên Thọ Truyền, sanh ngày 01.04.1905.trong một gia đình trung lưu tại làng Long Mỹ, tỉnh Bến Tre. Tánh tình hiền hậu, liêm khiết, chính trực, học giỏi thi đậu làm quan trải nhiều triều đại. Chốn quan trường càng ngày ông càng được thăng quan tiến chức
và những chức vụ ở cuối đời là chức vị Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hóa kiêm Viện Trưởng Kiểm Soát Viện miền Nam Việt Nam .
Trong những ngày làm việc ở miền Tây Nam bộ, ông bắt đầu
để tâm nghiên cứu về Phật học. Sự cần chuyên học hỏi của ông, đối với người học Phật đương thời, khó có ai vượt qua được, nhưng ông vẫn chưa thỏa mãn. Đến một hôm, nhân
gặp ngài Hành Trụ tại chùa Long An ở Sa Đéc, ông mới thật
sự quy hướng về với Phật đạo, được ngài Hành Trụ đặt cho pháp danh là Chánh Trí. Từ đây ông đem hết khả năng hiểu
biết của mình, phụng sự cho nhân sinh và hộ trì Phật pháp .
Trong phong trào chấn hưng Phật giáo, ông là một trong những trụ cột lớn của phong trào. Mang thân Cư sĩ Tể quan nhưng tâm hồn vị tha Bồ tát; ông giới trai thanh tịnh và tích
cực không ngừng phát huy giáo pháp .
Ông là người vận động thành lập Hội Phật học Nam Việt, xây dựng chùa Xá Lợi, xuất bản tạp chí Từ Quang, mở các
lớp Phật học, và ông luôn là đầu tàu trong mọi công việc .
Đối với Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất sau pháp nạn, ông là Ủy viên soạn thảo Hiến chương,
là Phó Viện Trưởng Viện Hóa Đạo nhiệm kỳ đầu, và là Phụ tá Viện Trưởng kiêm Tổng thơ ký Viện Đại học Vạn Hạnh thời
kỳ mới thành lập .
Ngoài việc tham gia làm Phật sự với Giáo hội, ông còn phải điều động Hội Phật học Nam Việt và đi giảng huấn các nơi. Tuy nhiên ông vẫn để tâm nghiên cứu, phiên dịch, trước tác
kinh luận và cho ấn loát phát hành rộng rãi . (Các dịch phẩm được các nhà nghiên cứu Phật học biết đến như Pháp Hoa huyền nghĩa, Địa Tạng mật nghĩa. v...v…).
Ngày 15 tháng 4 năm 1973. Hội Phật học Nam Việt nhóm
đại hội, ông cùng các Đại biểu thảo luận tâm đắc về đường hướng phát triển Phật học trong tương lai. Đại hội bế mạc,
mọi người ra về, ông vẫn bình thường. Đến lúc 8 giờ 15 phút ngày 17.04.1973, tức vào ngày rằm tháng ba năm Quý Sửu,
ông nằm ngay thẳng, nhẹ nhàng thanh thản từ biệt mọi
người, thọ 69 tuổi .
---------------
*-Việt Nam Phật Giáo tranh đấu sử. tr 438-439 .
*-Việt Nam Phật giáo sử luận (3). tr 266 .
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (1)). tr 962 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
146-Hòa Thượng QUẢNG ÂN (1891-1974)
+ + +
Cao tăng Việt Nam, thời Nguyễn, họ Lê, tên Văn Bảy, sanh
năm Tân Mão, tại làng Mỹ Phước, quận Bén Tranh, Mỹ Tho, trong gia đình uyên thâm Nho học .
Năm 13 tuổi nhân chứng kiến cái chết của người chị dâu,
nỗi thắc mắc “ Tại sao người ta phải chết ? ”cứ mãi miên
man trong tâm tưởng. Đến khi gặp được thầy Thiện Trung
giải thích rõ về lý vô thường sanh tử, tất cả chỉ là huyễn,
mộng, ảnh, bào; nếu muốn vượt thoát khỏi vòng lẩn quẩn
ấy, ngoài pháp Phật chẳng có pháp nào khác .
Ý tưởng tu hành nhen nhúm, duyên thế sự mòn dần, thầy
đem chí nguyện thưa cùng cha mẹ. Ban đầu cả nhà chẳng
vui, nhưng sau đó song thân đã đồng ý, dẫn thầy đến chùa Khánh Quới cầu xuất gia học đạo với thầy Phước Chí và
được ngài đặt cho pháp danh là Thiện Chiên. Mặc dù còn
nhỏ tuổi, nhưng ý chí tu học vững vàng và rất siêng năng
cần mẫn, nên thầy luôn được sư phụ thương mến .
Năm 1904, thầy thọ Sa Di giới và thọ cụ túc giới năm 1914. Trong khoảng thời gian nầy, thầy đã tham dự nhiều khóa học Phật pháp và luật học ở các chùa Sắc tứ Từ Ân Tân Hóa,
chùa Sùng Đức Chợ Lớn, chùa Linh Nguyên Đức Hòa, chùa
Linh Phước và chùa Khánh Đức .v...v…
Nhờ tham học nhiều nơi, nhờ gần gũi chư Tôn đức, nhờ
tiếp thu được nhiều kiến thức sâu rộng, thầy đã nhanh
chóng trở nên người hữu dụng trong hàng ngũ Tăng sĩ
Phật giáo đương thời .
Năm 1931, thầy là Hội viên sáng lập Hội Lưỡng Xuyên
Phật học. Năm 1952, là Tăng trưởng Giáo hội Lục Hòa Tăng, Ngoài việc chứng minh, đôn đốc, khuyến khích đại chúng
tinh cần tu học, thầy còn di dời, trùng tu nhiều ngôi chùa
trong vùng .
Ngày mùng năm tháng mười năm Giáp Dần, nhận biết sức khỏe trong người suy kém, thầy cho họp đệ tử lại để dạy
bảo và phó chúc kệ pháp :
-“Ngàn thu an giấc khỏe thân ơi !
Cái nợ trầm luân đã phủi rồi
Thẳng đến Niết bàn vào cõi Phật
Thầy trò tạm biệt kiếp nầy thôi”.
Nói xong, thầy an ổn nhắm mắt, thọ 84 tuổi đời, 60 tuổi đạo .
---------------
*-Tiểu sử danh tăng Việt Nam (Thế kỷ 20 (2)). Tr 397 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
147- Sư PHÁP MINH (1918-1993)
+ + +
Thiền tăng Việt Nam, thế kỷ 20. Họ Nguyễn, tên Văn Long, sanh ngày mười lăm tháng ba năm Mậu Ngọ, tại làng Phước Hải, Long Điền, Bà Rịa, trong một gia đình thuần hậu, kính tin Tam bảo. Tính tình hiền lành, cầu tiến,hiếu học .
Cuộc sống thăng trầm, trò đời dâu biển, quẩn quanh chỉ lợi
ảo, danh hư. Tất cả những thứ ấy không đáp ứng được nhu
cầu tri thức hướng thượng của người thanh niên đang dồn hết trí lực sống với nội tâm .
Hạt giống Phật gieo vào lòng người con Phật, qua năm
tháng vun bón chắt chiu; duyên lành hội tụ, thầy được thầy
Bửu Chơn ở chùa Bửu Minh Gò Vấp, thu nhận cho xuất gia nhập chúng và thọ Sa Di, bấy giờ thầy đã 47 tuổi .
Tuổi đời càng cao, ý thức về vô thường càng rõ rệt và ý chí
tu học cũng vững vàng thêm lên. Chỉ sau 3 năm học đạo,
thầy được ngài Giới Nghiêm truyền trao Tỳ Kheo giới, thực thụ là một Tăng sĩ đúng như pháp trong hàng ngũ Tăng già
Phật giáo Nguyên Thủy .
Trong khoảng thời gian đầu đã xuất gia, thầy du phương tham học khắp các chùa, viện, tịnh xá, như tịnh xá An Lạc ở
Bắc Mỹ Thuận, chùa Bửu Quang ở Gò Dưa, chùa Phước Hải
ở Vũng Tàu .v...v.
Sau gần 10 năm tham học, nghiên cứu, thực hành tu tập,
thầy bắt đầu du hóa, dẫm chân khắp các vùng Rạch Giá, Hà
Tiên theo hạnh Đầu đà. Cuối cùng thầy trở về chùa Bửu
Quang, tận dụng số vốn sẵn có Anh, Pháp, Thái, Khmer, Pàli, soạn dịch các kinh điển Phật giáo và trước tác thêm nhiều
tác phẩm Phật học khác .
Dù nhập vào thiền môn trễ muộn, nhưng khi đã là Tăng,
thầy kiên quyết tu trì không gián đoạn. Thực hành hạnh Đầu
đà khất thực sinh sống, thường ngồi, không nằm, tinh chuyên
tu tập thiền quán và phát huy rộng trong môn nhơn hệ phái .
Nhưng thường sự, thế gian vẫn là vô thường, tử sanh vẫn
phải sanh tử. Khi bốn đại đã vay mượn, thì không thể giữ
mãi được, dĩ nhiên phải có ngày hoàn trả và ngày ấy đã đến .
Ngày mùng năm tháng giêng năm Quý Dậu, vào lúc 9 giờ sáng thầy ngồi kiết già an nhiên thác hóa, thọ 75 tuổi đời,
28 tuổi đạo .
-------------------
*-Tiểu sử danh tăng Vệt Nam (Thế kỷ 20 (2)). tr 583 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
148-Ni Sư TẠNG LIÊN (1916-2002)
+ + +
Ni giới Khất sĩ Việt Nam, thế kỷ 20, họ Ngô, tên Thị Sến,
sanh năm Đinh Tỵ, tại xả Bình Tâm, tỉnh Long An, thuộc
thành phần nông dân thuần lương ,gia giáo .
Chịu ảnh hưởng trong một gia đình đạo đức, nên ni sư đã
sớm hướng thiện, phát tâm ăn chay trường năm lên12 tuổi .
Năm 22 tuổi, nghiệp trần ai chưa dứt, nợ tình ái chưa xong, vâng lệnh mẹ cha, thị Sến phải tòng phu xuất giá .
Mười năm hương lửa, duyên cầm sắc giao hòa, nghĩa trúc
mai gắn bó, tưởng tơ tóc trăm năm bạc đầu. Nào ngờ chỉ
trong một thoáng chưa trọn 30 ngày, mà đã có đến10 người trong gia tộc vĩnh viễn ra đi ! Cay đắng nhất, là trong số
những người chết có cả 3 đứa con ruột của mình !
Vô thường là thế, nhưng thấm thía như thế có mấy ai ? Tử sanh là vậy, nhưng chứng kiến như vậy được mấy người ?
Đã thấy, đã biết, đã thân chứng rõ ràng cảnh sanh ly tử biệt. Tâm nào chẳng hồi ? Lòng nào chẳng hướng ? Ni sư chỉ còn
biết hoài vọng ở một ngầy nào đó được thế phát ly gia .
Sau gần tám tháng, ổn định lại cuộc sống gia đình, chợt duyên lành xuất hiện. Có một Tăng đoàn Khất sĩ, do ngài
Minh Đăng Quang dẫn đầu, đang đến hành đạo thuyết pháp
ở tỉnh nhà. Không thể chờ đợi lâu hơn nữa, ni sư đã đến cầu xin ngài Minh Đăng Quang, cho phép quy y xuất gia nhập
đạo. Được ngài hoan hỷ thu nhận, ban đặt pháp danh Tạng
Liên và sau đó giao lại cho Ni trưởng Huỳnh Liên hướng dẫn
tu tập. Bấy giờ ni sư đã 32 tuổi.
Qua năm tháng chuyên cần, đọc học kinh, luật, nghiên cứu giáo nghĩa, rèn luyện đạo tâm. Vào ngày rằm tháng bảy năm
1950, ni sư được ngài Minh Đăng Quang trao truyền giới pháp Tỳ kheo ni, chính thức thuộc hàng ni giới Khất sĩ ưu tú
của Giáo hội ni lúc bấy giờ .
Trải 10 năm theo thầy, nương bạn, dạo khắp đó đây thuyết pháp lợi sanh, ni sư được phân bổ về địa phận Vũng Tàu khai hóa, xây dựng đạo trường, tạo thêm cơ sở cho Giáo hội .
Lại thêm 10 năm khai sơn phá thạch, trải lắm khó khăn, ni
sư đã hoàn thành xong nhiệm vụ, xây dựng và trang nghiêm
đạo tràng tịnh xá Ngọc Bích .
Ngoài việc tu tạo Già lam, Thánh tượng, ni sư còn dẫn độ
ni chúng khuyến hóa mọi người, đôn đốc việc tu học, đào tạo
tài năng trẻ cho tương lai và hun đúc đội ngũ kế thừa hiện tại .
Việc đạo đã thế, việc đời ni sư cũng chẳng bỏ xót bất cứ
một việc làm từ thiện nào, như tham gia Hội Liên hiệp phụ
nữ, Hội chữ thập đỏ, Ban cứu trợ đồng bào thiên tai bão lục
của tỉnh nhà, mặc dù ni sư nay tuổi đã già, sức khỏe đã kém .
Những ngày cuối cùng, dù tứ đại bất an, thân thể dẫy đầy bệnh tật, nhưng ni sư vẫn thản nhiên tươi tỉnh. Trong dịp
sám hối cuối năm, đang lúc chứng minh cho chư ni tự giác
khai lỗi sám hối, bất chợt ni sư bảo : “Tôi muốn đi”.
Đệ tử thưa : Tết đến rồi, thầy định đi đâu ?
Ni sư đáp : “ Tôi đi về với Phật; nhưng thôi !...để chậm lại ngày mùng ba, mùng bốn đi cũng được”.
Không ngờ lời nói trước đó mấy hôm, nay đã trở thành
hiện thực. Sau đầu giờ ngày mùng ba, thân thể ni sư bắt đầu thấm mệt, nhưng thần sắc vẫn sáng rỡ. Sức khỏe suy yếu
dần, mãi đến giữa trưa ni sư bảo đỡ dậy, kêu môn đồ đến
dạy bảo :
-“Rán lo tu hành, không được làm náo động, không mở băng tụng kinh, không hộ niệm, hãy để yên cho tôi nhập thiền
định thoát xác từ từ”.
Sau đó, ni sư đã nghiên mình nằm xuống, nhiếp niệm, đều
tức đến 12 giờ trưa ngày mùng bốn thì an ổn xả thân, quy
tịch, thọ 80 tuổi đời, 54 tuổi đạo .
Những chức vụ quan trọng mà ni sư đang đảm nhiệm :
-Ủy viên Hội đồng Tri sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam .
-Trưởng Ni giới hệ phái Khất sĩ .
----------------
*-Kỷ yếu tang lễ Ni trưởng Tạng Liên .
*-Người biên soạn có mặt lúc Ni sư khuyến chúng .
*-Ni sư Đàn Liên, tịnh xá Ngọc Duyên, Ni sư Viên Liên, Tịnh
xá Ngọc Phương, giúp bổ khuyết năm sinh và Ni tịch.
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
HẬU BẠT
---o---
Từ sau khi tôi biết cảm nhận cuộc sống, thì cũng ngay đấy tôi lại bắt đầu sợ chết. Có lẽ suốt cuộc đời tôi luôn bị cái chết ám ảnh, dày xéo, hành hạ khốn đốn. Nguyên do, bởi những ý
tưởng ấu trĩ, ngây ngô, khờ khạo của thời niên thiếu, đã bị
huân tập, xông ướp, trao truyền, nhồi nhét theo quan điểm
học Phật thiển cận, bình dân của gia tộc theo kiểu cha truyền, con nối thông tục .
Vì thế, nên trong đầu óc tôi luôn tâm niệm rằng :
-“SỐNG CHẾT LÀ VIỆC LỚN, VÔ THƯỜNG LÀ NHANH CHÓNG”.
Khiến tôi đăm ra, âu sầu, áo não, hồi hộp, chán nản, bi quan, thất vọng ê chề ; khi phải chứng kiến cảnh ngộ của một con người không còn sự sống !
Tiếc thương, buồn tủi, ta thán, héo don, rũ rượi, rã rời, khi
cái chết bất chợt đến với những người thân quen. Thế rồi,
từ đó cái chết được tôi quan tâm theo dõi, khám nghiệm .
Qua nhiều năm tháng suy tư, trăn trở, trằn trọc, miên man
nghĩ ngợi về lẽ “ Tử Sanh “. Bỗng một hôm chợt nghe người hành khất mù hát dạo, ngồi khảy độc huyền cầm cất tiếng ngân vang, ngâm nga :
“Sau lần tắm nước Tào Khê
Não phiền trần cấu u mê sạch liền.
Tử sanh, mộng mị, đảo điên
Từ nay dứt khoát chẳng liên quan gì”.
Hỏi ra mới biết, đó là một trích đoạn trong bài ca Chứng
đạo của nhà thi sĩ áo nâu Vĩnh Gia Huyền Giác .
Tôi vô cùng cảm kích, thán phục và chân thành xin được
chép lại đoạn thơ trên, để chiêm nghiệm với cả nguyên âm :
-“Du giang hải, thiệp sơn xuyên
Tầm sư phỏng đạo vị tham thiền
Tự tùng nhận đắc Tào Khê lộ
Lễu tri sanh tử bất tương can”.
Thật là kỳ diệu lạ lùng thay ! Khi đoạn thơ vừa ghi xong, thì
tự dưng tôi cũng vừa thuộc lòng nốt, và trong tâm trí tôi
bỗng nhiên chẳng còn trĩu nặng lo âu về chuyện “ Sống Chết “ nữa .
Tôi thấy toàn thân nhẹ nhỏm, như người vừa trút được gánh nặng trên vai, mà bao năm tháng đã uể oải mang vác
trên lộ trình khúc khuỷu, quanh co, gồ ghề, và đã bao lần
tưởng chừng phải ngã quỵ vì kiệt sức !
Quá sung sướng, đến nỗi tôi chẳng còn kềm chế được mình, nên cũng đã bắt chước Tiền nhân, nguệch ngoạc mấy câu, thập thò trình chỗ nửa tỉnh, nửa mê :
-Sanh đã không thật
Chết lại thật sao ?
Sống chết, chết sống
Không đầu, không đuôi.
Tỏ rõ sống chết
Mãi mãi an vui
Chẳng hiểu chết sống
Sống chết ngậm ngùi.
Và tự mình chuyển âm :
“Sanh chi vô thực, tử hà thực
Sanh tử, tử sanh vô cùng cực
Liễu tri sanh tử, vĩnh vô ưu
Bất thức tử sanh, sanh tử bức”.
Để đền ơn người xưa, thiết nghĩ phải làm gì đó cho người
nay. Thế là tôi bắt đầu ngồi lại, lục lọi sử, luận, ngữ lục, thơ, truyện mà mình đã được đọc qua cũng như hiện có trong
tủ sách gia đình, để biên soạn nên tập sưu khảo nhỏ nầy .
Với những tiểu truyện của những vị tu sĩ Phật giáo Trung
Hoa, Việt Nam, xưa cũng như nay, chẳng phân Giáo, Tông,
Thiền, Tịnh, mà thông thường được người trong môn phái cũng như người đời tôn tặng, kính xưng là: Tổ sư, Thiền sư,
Đại sư, Cao tăng, Hòa thượng, Thượng tọa .v...v…được nêu
ra đây; với chủ đích là giới thiệu những cái chết giản dị,
bình thường, thoải mái, vui đùa, ngộ nghĩnh của các vị. Để
người đọc dần dà làm quen và có thể tự chọn cho mình một
cách chết nào đó, nếu như thấy hợp lý, hợp tình, vừa ý.
Bằng chẳng đặng vậy, thì ít nhất cũng giúp cho người đọc
giảm thiểu được phần nào nỗi ưu tư, phiền muộn, hoảng
hốt, kinh khiếp khi mặt phải đối mặt với tử thần, ở một
ngày nào đó trong cuộc đời của mình .
Mỗi cốt truyện lược kể trong đây, đều dựa vào 4 tiêu
chuẩn sau :
1-Ảnh hưởng gia thế, tư chất bẩm sinh lúc thiếu thời .
2-Lý do khởi phát lòng mộ đạo và nguyên nhân dẫn đến tỏ
ngộ .
3-Công nghiệp hành hóa, thiền ngữ, thiền thoại, pháp kệ,
di ngôn, thị chúng, truyền thừa, phó chúc .
4-Thể hiện thực chất chứng ngộ qua giây phút cuối của đời mình bằng cái chết an nhiên, tự tại, sáng thông, tỉnh giác .
Vì lẽ đó, nên danh mục của chư vị được nêu dẫn trong tập
nầy có phần hạn chế .
Trong thời gian sưu tập, biên soạn, trích dẫn, tôi có tham khảo, đối chiếu nhiều dịch phẩm, tác phẩm, biên soạn phẩm
của nhiều tác giả, dịch giả, soạn giả; và hẳn nhiên là tôi đã
vay mượn quá nhiều công sức của các Tiền bối, mà chưa hề được sự đồng ý và cho phép. Xin vì chúng sanh chung mà
thực hành pháp thí bình đẳng “Tam luân không tịch”.
-Trân trọng tri ân và chân thành xin được thứ lỗi !
Thiện chí không thiếu, đạo tình không thiếu, kiến thức
không thiếu, tuy nhiên nếu thiếu kinh nghiệm, thiếu học
vấn, thì khó tránh khỏi sơ sót về nhiều mặt, xin được học
hỏi, cầu tiến.
(Tel : 094.515.3968. Đ/c : 93/9 Nguyễn Du, Gò Vấp)
Sách đã biên soạn xong, nhưng chưa biết phải đặt tên đề
tựa là gì, do đó không có phần giải lời tựa ở đầu sách như thông lệ. Tuy nhiên, lời hậu bạt nầy được xem như lời tâm
tình của người biên soạn, có dịp thố lộ cùng người đọc,
sau những tháng ngày độc cư, độc hành, độc bộ, độc diễn,
độc thoại…
Để tóm kết những dòng cuối sách, tôi xin mượn lời của
thầy Tiệm Nguyên hỏi ngài Đạo Ngô, khi hai thầy trò đứng trước áo quan của một người vừa mới tắt thở :
“ SANH Ư - TỬ Ư “
Tạm đặt cho tập tiểu truyện nầy với tựa đề là :
“ SỐNG HAY CHẾT “
----------
Gò Vấp những ngày cuối thu năm Kỷ Mão 2003.
Trân trọng
Chân Pháp Nguyễn Bá Quang
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
Thư Mục Tham Khảo
+ + +
1-Thiền Sư Trung Hoa (1,2,3) Thích Thanh Từ, ấn bản năm
1995 .
2-Chư Tổ Thiền Ấn Hoa. Thích Minh Tuệ, bản in năm 1991.
3-Thiền Uyển Tập Anh. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch,
ấn bản năm 1993 .
4-Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh. Lê Mạnh Thát, bản
in năm 1999 .
5-Tuệ Trung Ngữ Lục. Trúc Thiên dịch, bản in năm 1969 .
6-Thiền Sư Việt Nam. Thích Thanh Từ, ấn bản năm 1995 .
7-Pháp Bảo Đàn Kinh. Đoàn Trung Còn dịch, bản in năm
2002 .
8-Thánh Đăng Lục. Thích Thanh Từ dịch giảng, bản in năm
1999 .
9-Thiền Tăng Truyện Ký. Thích Thanh Ninh, Nguyễn Thế Vinh,
Đinh Thế Hinh biên soạn, bản in năm 2002 .
10-Cao Tăng Dị Truyện. Hạnh Huệ biên soạn, bản in năm 2001 .
11-Đường Về Cực Lạc (1,2) Thích Trí Tịnh, bản in năm 1970.
12-Hương Quê Cực Lạc. Thích Thiền Tâm, bản in năm 1973 .
13-Lịch Sử Phật Giáo đàng trong (1,2). Nguyễn Hiền Đức,
bản in năm 1995 .
14-Tiểu Sử Danh Tăng Việt Nam Thế kỷ 20 (1,2) Thich Đồng Bổn, chủ biên, ấn bản năm 1996,2002 .
15-Tam Tổ Thực Lục. Thích Phước Sơn dịch, bản in năm 1995.
16-Phật Tổ Thiền Uyển Kế Đăng Lục. Thích Tuệ Hải, ấn bản năm 1964 .
17-Việt Nam Phật Giáo Sử Luận (1,2,3). Nguyễn Lang, ấn bản năm 1994 .
18-Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Thích Mật Thể, ấn bản năm
1996 .
19-Lịch Sử Phật Giáo Xứ Huế. Hải Ấn, Hà Xuân Liêm, bản in năm 2001 .
20-Ngũ Đăng Hội Nguyên Tiết Dẫn. Thích Phước Hảo, Thích Thông Phương, ấn bản năm 1991 .
21-Lưu Kỷ. Nguồn Sống xuất bản năm 1991 .
22-Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (1,2,3). Lê Mạnh Thát, bản in năm 1999,2001,2002 .
23-Thơ Thiền Việt Nam (1). Thích Phước Sơn, Thích Trì Liên,
ấn bản năm 2002 .
24-Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc. Thích Thanh Kiểm, ấn bản năm 1991 .
25-Huyền Trang nhà Chiêm Bái và Học Giả. Thích Minh Châu
(nguyên bản anh văn) Việt dịch Thích Nữ Trí Hải ấn bản năm 1966 .
26-Lâm Tế Ngữ Lục. Minh Quang, Minh Thành, bản in năm 1998 .
27-Thiền Luận (1,2,3) Su Zu Ki. Trúc Thiên và Tuệ Sĩ dịch, bản
in năm 1971,1973 .
28-Tiểu Truyện các Thiền Sư Việt Nam. Nguyễn Thụy Hòa,
ấn bản năm 1974 .
29-Tam Tổ Trúc Lâm dịch giảng. Thích Thanh Từ, bản in năm
1997 .
30-Toàn tập Minh Châu Hương Hải. Lê Mạnh Thát, bản in
năm 2000 .
31-Toàn tập Trần Nhân Tông. Lê Mạnh Thát, bản in năm 2000 .
32-Thiền học Trần Thái Tông. Nguyễn Đăng Thục, ấn bản năm
1996 .
33-Thơ Thiền Đường Tống. Đỗ Tùng Bách, bản in năm 2000.
34-Tham Đồ Hiển Quyết và thi tụng các Thiền Sư đời Lý.
Thích Thanh Từ giảng giải, bản in năm 1997 .
35-Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử. Tuệ Giác, ấn bản năm
1964 .
36-Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn -Thông Thiền, ấn
bản năm 2002 .
37-Từ điển Phật Học Huệ Quang (Cảo bản 10 tập). Thích
Minh Cảnh, Chủ biên .
38-Lăng Nghiêm Tông Thông (1,2). Hòa Thượng Mẫn Tuế
dịch, ấn bản năm 1997 .
39-Huyền Trang (1,2). Võ Đinh Cường, ấn bản năm 1960 .
40-Lời Thiền. Viên Thông-Ngô Ánh Tuyết, bản in năm 1995.
41-Pháp Bảo Đàn Kinh. Nguyên Hồng dịch và chú thích,
bản in năm 2000 .
42-Kỷ Yếu Tang Lễ Ni Trưởng Thích Nữ Tạng Liên. Chủ biên
Ni Trưởng Đàn Liên. Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, ấn hành
năm 2003 .
43-Tuệ Trung Ngữ Lục. Dịch giải và chú thích Lý Việt Dũng,
bản in năm 2003 .
44-Thiền uyển Dao Lâm. Thông Thiền dịch, ấn bản năm 2001 .
----------------