SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
31-THIỀN SƯ HƯNG HÓA TỒN TƯỞNG (830-888)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường, họ Khổng, quê ở Khúc Phu, Thiểm Tây. Là hậu duệ của Khổng Tử, nối nghiệp Nho gia. Sư quy y tu Phật và thọ giới cụ túc năm lên 21 tuổi. Từng theo hầu thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền .
Sau sư đến chỗ thiền sư Đại Giác. Một hôm Đại Giác gọi :
-Ta nghe ông nói :”Nhắm phương Nam đi hành cước, một phen gặp được đầu gậy, mà chẳng từng tìm ra một người hỏi Phật pháp”. Ông y cứ vào đạo lý gì mà nói như thế ?
Sư liền thét !
Đại Giác liền đánh .
Sư lại thét !
Đại Giác lại đánh .
Hôm sau sư đi ngang qua pháp đường. Đại Giác gọi : Viện chủ !
-Ta vẫn còn nghi hai tiếng thét của ông hôm qua .
Sư lại hét !
Đại Giác lại đánh .
Sư lại hét !
Đại Giác lại đánh .
Sư nói :
-Tôi ở chỗ sư huynh Tam Thánh học được câu khách chủ, nay bị sư huynh bẽ gãy; xin hãy cho tôi pháp môn an lạc .
Đại Giác bảo :
-Cái gã mù, đến trong ấy đã chịu thua; cởi áo nạp ra đánh đòn một trận .
Ngay lời nói nầy, sư hiểu được đạo lý tiên sư Lâm Tế vì sao bị ăn gậy ở chỗ Hoàng Bá .
Khi nọ vua Đường Trung Tông đến viếng sư, thưa hỏi :
-Trẫm thu phục Trung Nguyên, nhận được hòn ngọc quý, chưa từng có người trả giá .
Sư nói :
-Xin bệ hạ cho xem ?
Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân .
Sư nói :
-Ngọc quý của quân vương, ai dám trả giá .
Vua Trung Tông rất vui, ban tử y và hiệu húy, sư từ chối, chỉ nhận ngựa của vua cho .
Sư cỡi ngựa, ngựa hất té gãy chân, sư bảo viện chủ chuốt cho một chân gỗ, sư cắp chân gỗ khập khểnh đi quanh viện, hỏi tăng chúng :
-Các ngươi có biết lão tăng chăng ?
Chúng tăng đáp :
-Làm sao lại không biết Hòa thượng .
Sư bảo :
-Pháp sư què, nói được đi chẳng được .
Sư đến Pháp đường, bảo Duy na đánh chuông họp chúng.
Sư bảo:
-Lại biết lão tăng chăng ?
Chúng không đáp .
Sư ném chân cây, ngồi ngay thẳng thị tịch .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 185 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (8). tr 6855 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 837 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 78,239 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
32-THIỀN SƯ VĂN HỶ (820-899)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, họ Chu, quê ở Ngữ Khê, Gia Hòa. Xuất tục làm tăng năm lên bảy tuổi, đến năm 20 tuổi thọ giới cụ túc. Sau đó mấy năm gặp lúc Pháp nạn, sư hoàn tục, giấu kín thân phận, chí thoát trần không giảm. Trải qua 5 năm khốn đốn, đến khi thế sự an bình sư lại làm tăng tiếp tục .
Sư đến tham vấn thiền sư Tánh Không ở núi đại từ. Ngài Tánh Không bảo : “Sao ngươi không đi tham vấn các nơi ?”.
Sư vâng lời đi thẳng đến núi Ngũ Đài, ghé chùa Huê Nghiêm. Lễ bái động Kim Cang, gặp ông già dắt trâu mời sư vào chùa. Đến chùa ông già gọi : Quân Đề ! Có Đồng tử lên tiếng dạ và ra đón.
Ông già hỏi sư ở đâu đến ?
Sư thưa :
-Ở phương Nam đến .
Ông già hỏi :
-Phương Nam Phật pháp thế nào ?
Sư thưa :
-Thời đại mạt pháp, ít Tỳ kheo giữ giới .
Ông già hỏi :
-Chúng nhiều ít ?
Sư thưa :
-Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm .
Sư hỏi lại ông già :
-Ở đây Phật pháp trụ trì thế nào ?
Ông già bảo :
-Rắn rồng lẫn lộn, phàm thánh chung ở .
Sư hỏi :
-Chúng nhiều ít ?
Ông già bảo :
-Trước ba ba, sau ba ba .
-Đồng tử bước ra dâng trà, sư uống vào cảm thấy sảng khoái .
Ông già đưa chung trà lên hỏi :
-Phương nam lại có cái nầy chăng ?
Sư thưa :
-Không .
Ông già bảo :
-Vậy hàng ngày lấy cái gì uống trà ?
Sư không đáp được . Thấy trời tối, sư xin nghỉ lại qua đêm .
Ông già bảo :
-Ông còn chấp tâm chẳng đặng nghỉ .
Sư thưa :
-Tôi đâu có chấp tâm .
Ông già bảo :
-Ông đã thọ giới chưa ?
Sư thưa :
-Thọ đã lâu .
Ông già bảo :
-Nếu ông chẳng chấp tâm, đâu cần thọ giới .
Sư từ tạ .
Đồng tử tiễn chân .
Sư hỏi Đồng tử :
-Trước ba ba, sau ba ba là nhiều hay ít ?
Đồng tử gọi:
-Đại đức !
Sư ứng thinh dạ !
Đồng tử hỏi :
-Đó là nhiều hay ít ?
Sư lại hỏi :
-Đây là chỗ nào ?
Đòng tử bảo:
-Đây là chùa Bát Nhã trong động Kim Cang .
Sư biết đó là ngài Văn Thù, lòng buồn nhưng chẳng biết làm sao gặp lại ! Sư quay sang Đồng tử xin một lời từ biệt .
Đồng tử tặng sư bài kệ :
Trên mặt không sân đồ cúng dường
Trong miệng không sân xuất diệu hương
Trong lòng không sân là trân báu
Không nhơ, không nhiễm là chân thường.
Âm :
“Diện thượng vô sân cúng dường cụ
Khẩu lý vô sân thổ diệu hương
Tâm lý vô sân thị trân bảo
Vô cấu, vô nhiễm thị chân thường”.
Một hôm, có vị tăng lạ, đến xin bữa cơm trưa, sư bớt phần cơm của mình cúng dường .
Ngưỡng Sơn dự biết hỏi :
Vừa rồi có người đã vào quả vị đến, ngươi có cấp phần ăn chăng?
Sư thưa: Đã bớt phần ăn của con cúng dường .
Ngưỡng Sơn bảo :
-Ngươi được sự lợi ích lớn .
Thời gian về sau có vị tăng đến hỏi sư :
Thế nào là tướng Niết Bàn ?
Sư bảo :
-Chỗ khói hương hết, nghiệm !
Tăng lại hỏi :
-Thế nào là đại ý Phật pháp ?
Sư bảo Viện chủ đến ,nói ông nầy bị bệnh điên .
Tăng lại hỏi tiếp :
-Thế nào là tự mình ?
Sư lặng thinh .
Vị tăng mờ mịt, lập lại câu vừa hỏi .
Sư bảo :
-Trời trong ,bụi mù chẳng nhắm bên mặt trăng bay
Ngày 27 tháng 10 niên hiệu Quang Hóa năm thứ hai. Sư có chút bệnh, đến giữa đêm bảo chúng :
-“Tâm tam giới bất tức Niết bàn”.
Nói xong, sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 80 tuổi, 60 tuổi hạ .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 197 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 956
*-Thiền uyển dao lâm. tr 276 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
33-THIỀN SƯ TOÀN KHOÁT (828-887)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường, họ Kha, quê ở Tuyên Châu. Sư xuất gia khi còn niên thiếu, thọ học với ngài Nghị Cộng ở Thanh Nguyên và thọ giới cụ túc ở chùa Bảo Thọ, Trường An. Sư học tập đủ các kinh luận .
Sau sư dạo khắp thiền uyển, làm bạn với Nghĩa Tồn Tuyết Phong và chư vị thiền sư đương thời. Sư nương ở với thiền sư Đức Sơn, chẳng bao lâu lại bái biệt .
Đức Sơn hỏi :
-Đi về đâu ?
Sư thưa :
-Tạm từ Hòa thượng hạ sơn .
Đức Sơn hỏi :
-Ông về sau làm gì ?
Sư thưa :
-“Chẳng quên”.
Đức Sơn hỏi :
-Ông nương vào đâu mà nói lời nầy ?
Sư thưa :
_Đâu chẳng nghe : ” Trí vượt hơn thầy mới nên truyền trao, trí ngang bằng thầy kém thầy nửa đức”.
Đức Sơn bảo :
-“Đúng thế ! Đúng thế ! Phải khéo hộ trì” .
Về sau khi trụ hóa hành đạo, sư thường dạy chúng :
-“Nếu có người hỏi thế nào là thiền ? Nên đáp với họ : ”Bịt lỗ
đít lại, mới có ít phần hơi hám, mới biết cạn sâu lớp lớp”…
-“Anh em ! Thấy cùng chăng ? Nói thế hội chăng ? Chớ có trọn ngày rầm rĩ, sẽ chẳng có ngày xong. Muốn được dễ hội, cần biết ở trước thanh sắc chẳng bị muôn cảnh làm hoặc loạn, tự nhiên hiện rõ ràng, tự nhiên nên vô sự. Tiến tới trước thanh sắc mà vẫn thản nhiên, in tuồng một đám lửa lớn, chạm đến liền cháy, lại còn có việc gì ? Đâu không nghe nói : ”Chẳng phải trần, chẳng xâm phạm ta”. Khi ta vô tâm nó tự cháy .
Về sau có người hoặc hỏi Phật, hỏi pháp, hỏi đạo, hỏi thiền, sư đều hư lên một tiếng. Sư lại thường bảo chúng : ”Khi lão già ra đi, sẽ hư một tiếng lớn”.
Đời Đường, sau thời Quang Khải. Trung Nguyên giặc cướp nổi dậy, chúng tăng đều lẫn tránh, riêng sư vẫn an nhiên ở lại. Một hôm giặc đến, chúng trách sư chẳng có gì dâng nạp, nên đã đâm sư. Sư thần sắc không thay đổi, chỉ rống lên một tiếng lớn rồi chết. Tiếng rống của sư vang xa, nhiều người chung quanh đều nghe nhận .
-------------
*-Thiền sư trung hoa (2). tr 206 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (8) tr 6803 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
34-THIỀN SƯ NGHĨA TỒN TUYẾT PHONG (822-908)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường, họ Tằng, quê ở Nam An, Tuyền Châu. Sư sinh trưởng trong một gia đình Phật giáo, 9 tuổi xuất gia, cha mẹ không cho. Năm lên 12 tuổi, nhân theo cha đến chùa Ngọc Giám ở Bồ Điền, được luật sư Khánh Huyền nhận làm thị giả, 17 tuổi cạo tóc làm tăng và sau đó đến yết kiến Đại sư Hằng Chiếu ở Phù Dung .
Ở Động Sơn, sư làm phạn đầu, đang lúc đãi gạo. Khâm Sơn đến hỏi sư :
-Đãi cát bỏ gạo, hay đãi gạo bỏ cát ?
Sư đáp :
-Gạo cát đồng bỏ .
Khâm Sơn bảo :
-Đại chúng lấy gì ăn ?
Sư liền lật úp thao đãi gạo .
Khâm Sơn bảo :
-Cứ theo nhân duyên nầy, huynh hợp với chỗ Đức Sơn .
Khi sắp tịch, sư tự chế tháp và làm bài minh :
-“Phàm từ duyên mà có, là trước sau thành hoại, chẳng từ duyên mà được, muôn kiếp thường vững; vững thì hằng còn, hoại thì tổn giảm. Tuy nhiên ly tán chưa đến, ngại gì dự bị sắp đặt ? Sở dĩ chất đá làm nền nhà, cưa cây đóng hòm, bưng đất đổ đống làm khám. Các việc đã đủ, đầu xây hướng Nam, chân về hướng Bắc, nằm ngang qua núi .
Chỉ mong đến giờ, đồng đạo chớ trái ý ta. Người biết tâm ta, thì chẳng đổi chí ta, dặm chân ! Lại dặm ! “…
Đời Lương, niên hiệu Khai Bình năm thứ hai. Vào cuối xuân, sư có chút bệnh. Mân soái sai lương y đến xem mạch. Sư bảo : Ta chẳng phải bệnh, nên chẳng uống thuốc. Sư trao pháp và để kệ tụng :
Tấc bóng thời gian qua rất mau
Cuộc đời mây nổi có là bao
Ba mươi năm lẻ vừa ra núi
Bốn chục về Mân tính cũng dư
Người quấy chẳng cần ta kẻ vạch
Ta sai nên phải gắp sửa trừ
Nhắn hàng vương tước trong triều rõ
Quyền quý Diêm Vương chẳng sợ đâu.
Âm :
“Nhân sinh thúc hốt tạm du du
Phù thế na năng đắc cửu cư
Xuất lĩnh thỉ niêm tam thập nhị
Nhập Mân tảo thị tứ tuần dư
Tha phi bất dụng tần tần cử
Dó quá ứng tu toàn toàn trừ
Vi báo mãn triều chu tử đạo
Diêm Vương bất phạ bồi kim ngư”.
Ngày mùng hai tháng năm, sáng sư đi dạo Lam Điền, chiều về sư tắm gội, nửa đêm sư nhập diệt, thọ 87 tuổi, 59 tuổi hạ .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 213 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 4752 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 281 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
35-THIỀN SƯ VÂN MÔN VĂN YỂN (864-949)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Đường và Ngũ Đại, họ Trương, quê
ở Gia Hưng, Triết Giang. Chí chẳng nhiễm trần từ nhỏ, lớn lên xuất gia với ngài Chí Trừng và sau đến Tỳ Lăng thọ giới cụ túc. Sư đọc qua nhiều kinh điển, nghiên cứu sâu bộ luật Tứ phần. Thờ thầy trải mấy năm, sư thấy việc mình chưa sáng, nên xin đi hành cước tham học các nơi .
Trước tiên sư đến Mục Châu tham vấn Trần Tôn Túc. Vừa thấy sư, Tôn Túc liền đóng cửa. Sư đến gõ cửa. Tôn Túc hỏi :
-Ai ?
Sư thưa :
-Con, Văn Yển .
Tôn Túc hỏi :
-Làm gì ?
Sư thưa :
-Việc mình chưa sáng, xin thầy chỉ dạy .
Tôn Túc mở cửa, trông thấy sư liền đóng lại, liên tiếp như thế, trải qua ba ngày .
Tôn Túc lại mở cửa, sư lại chen vào. Tôn Túc nắm lại bảo :
-Nói ! Nói !
Sư vừa suy nghĩ, Tôn Túc liền xô ra bảo :
-“Cây dùi đời Tần xoay lăn”, rồi đóng cửa lại, làm dập một bàn chân của sư .
Qua cái đau thấu xương ấy, chợt làm sư bừng tỉnh, hội nhập được yếu môn .
Sau nầy sư đến chùa Linh Thọ, thiền sư Tri Thánh dự biết, sai chúng đánh ba hồi chuông trống ra cửa rước sư .
Một hôm Quảng Chủ họ Lưu muốn cử binh, đích thân vào viện thỉnh Linh Thọ tiên tri kiết hung thế nào. Linh Thọ biết trước, liền từ giả chúng an nhiên thị tịch. Quảng Chủ hỏi Tri sự :
-Hòa thượng bệnh bao lâu ?
Tri sự đáp :
-Chẳng từng có bệnh. Hòa thượng có để lại phong thơ, xin trình Đại Vương. Quảng Chủ mở thư xem, thấy nói : “Con mắt của nhân thiên là Thủ tọa trong chùa nầy”. Ông hiểu ý chỉ của Linh Thọ, liền dừng binh và thỉnh sư trụ trì chùa Linh Thọ .
Đối với đồ chúng, sư thường dạy :
-“Các Hòa thượng con ! Dù ông có nói việc gì vẫn là trên đầu thêm đầu, trên tuyết thêm sương, trong quan tài trợn mắt, trên vết phỏng để bổi đốt; cái ấy một trường bừa bãi chẳng phải việc nhỏ. Các ông phải làm sao mỗi người tự tìm lấy chỗ thác sanh của mình; tốt nhất chớ dạo chơi thành thị, nắm bắt những lời nói rỗng. Đợi Hòa thượng già mở miệng liền hỏi thiền, hỏi đạo, hướng thượng, hướng hạ, làm sao, thế nào, ghi chép thành quyển sách to nhét trong đãi da để suy gẫm. Đến bên lò lửa, ba người, năm người giụm đầu, miệng đọc lẩm nhẩm, lại nói : Cái ấy là lời công tài, cái ấy là lời từ đạo xuất, cái ấy là lời đến trên việc nói, cái ấy là nói thể. Ông già bà già trong thất ăn cơm xong chỉ cần nói mộng, nói ta hội Phật pháp xong. Sẽ biết rằng ông đi hành cước dến năm lừa mới được thôi dứt” .
-“Huynh đệ ! Các bậc cổ đức một thời vì các ông không phải thế, sở dĩ phương tiện buông một lời, nửa câu là khai thông cho các ông thấy đường vào. Bao nhiêu việc bên nầy thảy đều gom ném một bên, riêng tự đem hết khí lực chú mục vào, thì đâu chẳng được ít phần tương thân”.
Thích thay ! Thích thay ! Thời giờ chẳng đợi người, hơi thở ra chẳng bảo đảm hít vào, thử hỏi thân tâm còn dùng vào chỗ rảnh rỗi nào khác ? Cần phải chú ý ! Chú ý ! Trân trọng !
Niên hiệu Càn Hòa năm thứ bảy nhà Hán. Ngày mùng mười tháng tư, sư ngồi ngay thẳng thị tịch. 8 năm sau khai tháp, thấy nhục thân sư vẫn còn nguyên vẹn, râu tóc vẫn ra dài .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 275,290 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 8977 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 267 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 416 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 330 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
36-THIỀN SƯ HÀNH NHƠN PHẬT THỦ NHAM ( ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, hậu Đường, quê ở Nhân Môn, Sơn Tây. Xuất gia và thọ học với ngài Xử Chơn. Sau sư đến Lô sơn, phía bắc hòn núi nầy có đỉnh dựng như năm ngón tay, dưới có hang sâu. Sư yên ở nơi đây, nên có biệt hiệu là Phật Thủ Nham .
Sư không thu nhận đệ tử, chỉ có vị tăng ở gần đó tới lui trợ giúp. Quanh sư chim chóc tụ hội, nai gấu thân cận. Quốc chủ Giang Nam là Lý Thị nghe danh ngưỡng mộ, ba phen sai sứ thỉnh cầu, sư chẳng dời chân. Sau sứ thần cố thỉnh cho bằng được, nên buộc lòng sư phải hạ sơn, đến chùa Thê Hiền khai pháp .
Có vị tăng đến hỏi :
-Thế nào là đối hiện sắc thân ?
Sư đưa một ngón tay lên .
Ở đây chưa đầy tháng, sư lại lẻn trở về núi .
-Một hôm sư có bệnh, bảo vị tăng bên cạnh rằng :
-“Trời đúng ngọ ta đi vậy”.
Vừa đúng ngọ, vị tăng vào bảo cho sư hay .
Sư bước xuống giường đi tới mấy bước, rồi đứng sửng mà tịch, thọ hơn bảy mươi tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2) tr 294 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 539 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
37-THIỀN SƯ PHONG HUYỆT DIÊN CHIỂU (896-973)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Bắc Tống, quê ở Dư Hàng, Chiết Giang, họ Lưu. Thuở nhỏ khôi ngô tuấn tú, đọc rất nhiều sách nhưng không có tâm mong cầu danh lợi, quyền thế. Cha mẹ ép sư đi thi làm quan, trên đường đi đến Kinh đô, sư ghé vào chùa khai Nguyên xin xuất gia thọ giáo với luật sư Trí Cung .
Bước đầu sư nghiền ngẫm tinh sâu bộ Pháp Hoa huyền nghĩa, c ần chuyên tu tập chỉ quán, định huệ và rốt sau phát chí du phương tham học .
Sư đến Nam Viện . . .
Nam Viện hỏi :
-Trước khi đến đây đã gặp người nào rồi ?
Sư thưa :
-Ở Nhượng Châu chùa Hoa Nghiêm, cùng nhập hạ với thị giả Khoách .
Nam Viện bảo :
-Cần kẻ tác gia. Lại hỏi : Phương Nam một gậy thương lượng thế nào ?
Sư thưa :
-Thương lượng rất kỳ đặc. Lại hỏi : Ở đây Hòa thượng thương lượng thế nào ?
Nam Viện cầm gậy lên bảo :
-“Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy thầy”.
Ngay câu nói nầy, sư triệt ngộ, ở lại đây 6 năm .
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Phàm con mắt người tham học, gặp cơ liền phải đại dụng hiện tiền, chớ tự ràng buộc nơi tiểu tiết. Giả sử lời nói trước tiến được vậy vẫn còn kẹt vỏ dính niệm, dù là dưới câu liền được tinh thông, chưa khỏi phạm đến lại là thấy cuồng. Xem thấy hết thảy các ông đều là nhằm đến nương người tìm hiểu, sáng tối hai lối vì các ông một lúc quét sạch, dạy thẳng mỗi người các ông như sư tử con gầm gừ rống lên một tiếng, đứng thẳng như vách cao ngàn trượng, ai dám để mắt nhìn đến, nhìn đến là mù mắt y”.
Nhà Tống niên hiệu Khai Bảo năm thứ sáu. Ngày mùng một tháng tám, sư lên tòa đọc kệ :
Phải thời truyền đạo lợi quần sanh
Chẳng quảng hương xa tự vươn lên
Năm khác có ngươi giòng giống đó
Ngày ngày hương khói đèn đêm đêm.
Âm :
“Đạo tại thừa thời tu tế vật
Viễn phương lai mộ tự đằng đằng
Tha niên hữu tẩu tình tương tự
Nhựt nhựt hương yên dạ dạ đăng”.
Đến ngày rằm, sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 78 tuổi, 59 tuổi hạ.
-----------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 296 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (2). tr 625 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
38-THIỀN SƯ QUẾ SÂM (867-928)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Lý, quê ở Thường Sơn, Chiết Giang. Thuở bé sư đã ăn chay, ngày một bữa, mở miệng lời nói khác thường; lớn lên thụ giáo xuất gia và thọ cụ túc giới với Đại sư Vô Tế ở chùa Vạn Tuế. Sư chuyên học tạng Luật .
Sư du phương tham vấn chư Thiền đức các nơi. Khi đến Huyền Sa yết kiến Đại sư Tông Nhất, vừa nghe một câu khai phát, liền rỗng suốt không ngờ .
Huyền Sa hỏi sư :
-Tam giới duy tâm, ngươi hội thế nào ?
Sư chỉ cái ghế dựa hỏi :
-Hòa thượng gọi cái ấy là gì ?
Huyền Sa đáp :
-Ghế dựa .
Sư thưa :
-Hòa thượng không hội tam giới duy tâm .
Huyền Sa bảo :
-Ta gọi cái đó là tre gỗ, ngươi gọi là gì ?
Sư thưa :
-Con cũng gọi là tre gỗ .
Huyền sa bảo :
-Tận đại địa tìm một người hội Phật pháp cũng không có. Sư nhân đây càng được thêm phấn khích .
Sau nầy sư thượng đường dạy chúng :
-“Chư thiền đức ! Các ông gọi cái gì là bình thật ? Nắm cái gì làm viên thường ? Kẻ hành cước, nhà bên cần phải biện rành, chớ để chôn vùi ; được một ít thanh sắc văn tự chứa trong đầu tâm, nói ta hội giải, khéo hay giảng biện”.
-“Các ông hội cái gì ? Ghi nhớ được danh tự ấy, giải biện được thanh sắc ấy. Nếu chẳng phải thanh sắc danh tự, các ông làm sao ghi nhớ giải biện”.
-“Gió thổi thông reo, cũng là thinh, tiếng ếch, nhái, chim, quạ kêu cũng là thinh, sao chẳng trong ấy lắng nghe để giản trạch đi. Nếu trong ấy có hình thức, ý tứ, thì cũng như trong miệng các thầy già có bao nhiêu ý tứ cùng các Thượng tọa. Chớ lầm !”.
-“Hiện nay thinh sắc dẫy đầy, là đến nhau, hay chẳng đến nhau ? Nếu đến nhau thì linh tánh Kim cang mật của ông nên có hoại diệt. Vì sao có như thế ? Vì thinh xỏ lủng lỗ tai ông, vì sắc đâm đui con mắt ông và duyên thì lấp mất huyễn vọng của ông. Càng chẳng dễ dàng vậy. Nếu chẳng đến nhau, thì chỗ nào được thinh sắc. Hội chăng ? Đến nhau, chẳng đến nhau, thử biện rành xem! ?
Đời hậu Đường, niên hiệu Thiên Thành năm thứ hai. Mùa thu sư trở về chùa xưa ở thành Mân, đi thăm hết các chùa quanh thành. Sau đó ít hôm, sư có bệnh, tắm gội xong, từ giã chúng, ngồi ngay thẳng thị tịch, thọ 60 tuổi, 40 tuổi hạ .
-----------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 308 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 5870 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 619 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỹ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
39-THIỀN SƯ THÔNG HUỆ THỦ SƠ (910-990)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Phó, quê ở Phương Tường, Thiểm Tây .
Đầu tiên sư đến tham vấn Vân Môn. Vân Môn hỏi :
-Vừa rời ở đâu ?
Sư thưa :
-Tra độ .
Vân Môn lại hỏi :
-Mùa hạ rồi ở đâu ?
Sư thưa :
-Ở chùa Báo Từ Hồ Nam .
Vân Môn hỏi tiếp :
-Rời nơi ấy lúc nào ?
Sư thưa :
-Ngày 25 tháng 8 .
Vân Môn bảo :
-Tha ngươi ba gậy .
Ngày hôm sau, sư lại đến thưa hỏi tiếp :
-Hôm qua nhờ Hòa thượng tha cho ba gậy, con không biết lỗi
tại chỗ nào ?
Vân Môn bảo :
-“Cái túi cơm ! Giang Tây, Hồ Nam liền thế ấy”. Ngay câu nói nầy sư đại ngộ. Thưa rằng :
-Sau nầy sẽ nhằm chỗ không người, không khói, chẳng chứa một hạt gạo, chẳng trồng một cọng rau, tiếp đãi khách mười phương qua lại, trọn vì họ nhổ đinh, tháo chốt, gỡ bỏ cái khăn
bịt mỡ, cởi cái áo da bọc xương thúi, dạy họ thảnh thơi phóng khoáng làm nạp tăng vô sự, há chẳng thích thú sao ?”.
Vân Môn bảo :
-“Cái túi cơm ! Thân người bằng cây liễu mà mở miệng to như thế. Sư liền bái tạ !
Về sau sư dạy chúng :
-“Lời không dính việc, nói chẳng hợp cơ ; nương lời là mất, kẹt câu là mê. Nơi đây, trong bốn câu nói thấy được rõ ràng. Làm một nạp tăng khoáng đạt, nhơn một cây đòn tay, một miếng ngói, một bữa cháo, bữa cơm cũng có thể vì người làm Thiện tri thức. Nơi đây, nếu chẳng rõ sẽ trở thành kẻ bướng bỉnh”. Sư có bài tụng :
“CON CHÓ THEO TRÂU”
-Nhà có một con chó
Nhỏ xíu người khó thấy
Trọn ngày đi theo trâu
Chưa tỉnh khiến người gọi
Thấy khách chẳng biết sủa
Thấy người riêng hay giỏi
Toan tính trên cửa vào
Sớm đã lấy đồ người
Khéo léo bảo thiền sư
Cần để tinh thần xét
Dù ông người khôn lanh
Chẳng biết thành kẻ chết.
Âm :
“Gia hữu nhất cẩu chi
Ngãi tiểu nhơn nan kiến
Chung nhật tùy ngưu khứ
Vị tỉnh sử nhân hoán
Kiến khách bất tác thinh
Kiến nhơn thiên năng thiện
Nghĩ nghị thượng môn lai
Tảo thị thâu tha tiện
Hảo hảo báo thiền sư
Tu trước tinh thần khán
Nhậm nhữ linh lợi nhơn
Bất tác vi tử hán “.
Đời nhà Tống, niên hiệu Thuần Hóa năm đầu. Vào mùa thu, sư không bệnh, ngồi kiết già thị tịch, thọ 80 tuổi .
-----------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 327 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt . tr 778 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 421 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
40-THIỀN SƯ TỈNH NIỆM (926-993)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Địch, quê ở Lai Châu, Sơn Đông. Sư xuất gia tại chùa Nam Thiền, thọ giới cụ túc xong lại đi du phương tham học các nơi. Sư thường tụng kinh Pháp Hoa, nên người đương thời gọi là Niệm Pháp Hoa .
Sư đến chỗ thiền sư Phong Huyệt thụ nghiệp. Một hôm Phong Huyệt rơi lệ nói cùng sư :
-Bất hạnh ! Đạo Lâm Tế đến ta, sắp chìm lặng vậy .
Sư thưa :
-Xem trong chúng nầy, đâu chẳng có người kế thừa Hòa
thượng ?
Phong Huyệt bảo :
-Người thông minh thì nhiều, kẻ thấy tánh thì ít !
Sư thưa :
-Như con đây, Hòa thượng xem thế nào ?
Phong Huyệt bảo :
-Ta tuy trong mong ở ngươi đã lâu, nhưng vẫn còn lo ngại ngươi đắm mến kinh nầy không thể buông rời .
Sư thưa :
-Việc nầy có thể làm được, mong nghe ý chỉ ấy .
Phong Huyệt thượng đường, nhắc lại việc : “Thế tôn dùng con mắt như hoa sen xanh nhìn đại chúng”. Ngài hỏi :
-“Chính khi ấy, hãy bảo nói cái gì ? Nếu bảo chẳng nói mà nói,
lại là chôn vùi Thánh trước. Hãy bảo nói cái gì ?
Sư liền phủi áo đi ra .
Phong Huyệt ném cây gậy, liền trở về phương trượng .
Thị giả chạy theo sau thưa :
-Nhân sao chẳng đáp lời Hòa thượng ?
Phong Huyệt nói :
-Niệm Pháp Hoa đã hội .
Về sau sư dạy chúng :
-“Chư Thượng tọa ! Chẳng được hét cuồng, hét loạn. Trong ấy bình thường nói với các ông, khách trước sau vẫn là khách, chủ thì sau trước vẫn là chủ. Khách chẳng có hai khách, chủ chẳng có hai chủ, nếu có hai chủ, hai khách, tức là hai gã mù”.
-“Do đó, nếu khi ta đứng thì các ông phải ngồi, đứng thì cùng đứng. Tuy nhiên như thế, đến trong ấy phải để mắt cho lanh mới được. Trong khoảng con mắt dừng chớp là xa ngàn dặm, muôn dặm. Vì sao như thế ? Ví như từ cửa sổ nhìn con ngựa chạy qua, vừa suy nghĩ liền không dính dáng”.
-“Chư Thượng tọa ! Đã vậy, nơi đây phải chính chắn lưu tâm
chẳng cần ôm rỗng, ngày kia, giờ khác sẽ lừa mất các ông vậy”.
Đời Tống, niên hiệu Thuần Hóa năm thứ ba. Ngày mùng bốn tháng chạp, đúng ngọ, sư thượng đường nói kệ :
Năm nay ta đã sáu mươi bảy
Già bệnh tỳ duyên sống qua ngày
Bây giờ biết được việc năm tới
Năm tới nhớ lấy việc sáng nay.
Âm :
“Kim niên lục thập thất
Lão bệnh tùy duyên thả khiển nhật
Kim niên ký khước lai niên sự
Lai niên ký trước kim triêu nhật”.
Năm sau, đến giờ ngọ như đã dự báo, sư thượng đường từ biệt chúng với bài pháp kệ sau cùng :
Thân kim sắc thế giới bạch ngân
Tình cùng không tình đều là chân
Sáng tối chẳng còn thì chẳng chiếu
Mặt trời sau ngọ thấy toàn thân.
Âm :
“Bạch ngân thế giới kim sắc thân
Tình dữ phi tình cộng nhất chân
Minh ám tận thời câu bất chiếu
Nhật luân ngọ hậu kiến toàn thân”.
Nói kệ xong, trời cũng vừa quá ngọ, sư ngồi yên thị tịch, thọ 68 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 348-377 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (7). tr 6429 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
41-THIỀN SƯ VĂN ÍCH TỊNH TUỆ (885-958)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, sống vào thời Ngũ Đại, quê ở Dư Hàng, Chiết Giang. Sư xuất gia năm lên 7 tuổi, trước học luật với ngài Minh Châu Hy Giác, lại nghiên cứu Nho học, được khen
là Tử Du, Tử Hạ. Sau học thiền với ngài Trường Khánh Huệ Lăng, trải thời gian khá lâu nhưng không khế ngộ .
Sư đến viện Địa Tạng gặp thiền sư Quế Sâm. Quế Sâm hỏi :
-Đi làm gì thế nầy ?
Sư thưa :
-Hành cước .
Quế Lâm hỏi :
-Việc hành cước là thế nào ?
Sư thưa :
-Chẳng biết .
Quế Lâm bảo :
-Không biết rất là thân thiết. Lại hỏi :
Trong Triệu luận nói: “Trời đất cùng ta đồng gốc”. Vậy sơn hà đại địa cùng chính thân Thượng tọa là đồng hay khác ?
Sư thưa : Khác .
Quế Sâm đưa hai ngón tay .
Sư nói : Đồng .
Quế Sâm lại đưa hai ngón tay rồi bỏ đi .
Cuộc lữ tiếp tục, sư đến từ giã, Quế Sâm đưa ra tận cỗng, lại hỏi :
-Bình thường Thượng tọa nói : ”Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Vậy phiến đá dưới chân nầy là ở ngoài tâm hay ở trong tâm ?
Sư thưa :
-Ở trong tâm .
Quế Sâm bảo :
-Người hành cước mắc cái gì lại để phiến đá lên đầu tâm ? Sư không đáp được, xin ở lại viện tham cứu thêm .
Hơn tháng sau, sư trình kiến giải, nói đạo lý .
Quế Sâm bảo :
-Phật pháp không phải thế ấy .
Sư bảo :
-Con đã hết lời, cùng lý rồi !
Quế Sâm bảo :
-Nếu luận Phật pháp thì tất cả hiện hành. Qua câu nói nầy sư đại ngộ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Thấy đạo là gốc, sáng đạo là công, liền hay được sức đại trí tuệ. Nếu chưa được như thế, thì việc đáng yêu thích nhất trong tam giới phải dẹp bỏ hết, vừa có một mảy may vẫn là chưa được. Như các ông khi ngủ không sân thì hỷ, đây là cảnh giới hôn loạn, huân tập đã thuần thục ở trong tam giới. Không tỉnh táo thì hôn loạn,
bởi duyên các ông tạp loạn gây nên. Cổ nhân gọi đó là vàng hóa ra mà lầm cho đó là vàng ròng, nó còn thua vàng trong mỏ. Nếu nhìn thấy tột xương, thấu tủy, ấy là sức sêu thoát của các ông. Nếu chưa được như thế, nên xem xét cái gì là lầu đài điện các ? Chư Thánh chưa hẳn thường nắm tay ông, ông chưa hẳn nương theo mà đi, xưa nay như thế vậy”.
Niên hiệu Hiển Đức năm thứ 5 nhà Châu. Ngày 17 tháng 7 năm Mậu Ngọ, sư có bệnh. Quốc chủ đích thân đến thăm hỏi. Ngày mùng 5 tháng nhuần, sư tắm gội, từ giã chúng, ngồi kiết già thị tịch, thọ 74 tuổi, 54 tuổi hạ. Sau đây là bài “Hoa Nghiêm lục tướng nghĩa”. Một trong những bài tụng của sư
để lại :
“Nghĩa sáu tướng Hoa Nghiêm”
-Trong đồng lại có dị
Dị nếu dị nơi đồng
Toàn chẳng phải Phật ý.
Ý chư Phật thảy biệt
Đâu từng có đồng dị
Trong thân kẻ nam nhi vào định
Trong thân người nữ chẳng lưu ý.
Chẳng lưu ý bặt danh tự
Vạn tượng rỡ ràng không sự lý.
Âm :
“Hoa Nghiêm lục tướng nghĩa:
-Đồng tuy hoàn hữu dị
Dị nhược dị ư đồng
Toàn phi chư Phật ý.
Chư Phật ý tổng biệt
Hà tằng hữu đồng dị ?
Nam tử thân trung nhập định thời
Nữ tử thân trung bất lưu ý.
Bất lưu ý tuyệt danh tự
Vạn tượng minh minh vô lý sự”.
------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 351-363 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 8944 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 957 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 371-373 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỹ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
42-THIỀN SƯ HƯU PHỤC NGỘ KHÔNG ( ? – 943)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Vương, quê ở Bắc Hải. Sư xuất gia lúc còn nhỏ, năm lên 19 thọ giới cụ túc. Sư thường tự nói : “ Nếu bám vào kinh điển tức là mắc kẹt vào vào thuyền bè ” toan tiến đến chỗ lóng lặng lại ngại rơi vào không, tới lui khó quyết định, bỏ cả hai thời không được. Sư phát chí đi khắp nơi tham kiến chư thiền đức .
Sư đến thiền hội của ngài Quế Sâm, ở đây nhiều năm vẫn không khế ngộ. Sư mắc bệnh nằm nơi nhà Niết bàn. Một đêm nọ Quế Sâm ghé thăm, nhân tiện hỏi :
-Thượng tọa Phục an vui chăng ?
Sư thưa :
-Con vì nhân duyên trái với Hòa thượng .
Quế Sâm chỉ chiếc lồng đèn hỏi :
-Thấy chăng ?
Sư thưa :
-Thấy .
Quế Sâm bảo :
-“Chỉ cái ấy không trái”.
Sư nhân câu nói nầy có chút tỉnh .
Khi khác có thầy Thiện Tu đến thăm,nhân hỏi Quế Sâm :
-Con trăm kiếp nghìn đời cùng Hòa thượng trái nhau đến đây, lại gặp Hòa thượng chẳng an .
Quế Sâm dựng đứng cây gậy nói :
-“Cái nầy chẳng trái”. Sư bổng nhiên khế hội .
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Thánh xưa khi sanh ra liền đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương nói: “Trên trời dưới đất chỉ ta độc tôn”. Ngài có cái phương tiện kỳ đặc; còn chư Thượng tọa khi mới sanh ra, có cái gì kỳ đặc, thử nêu lên xem ? Nếu nói rằng “không” tức là đối diện mà kiêng tránh . Nếu nói “có” lại làm sao không được tin tức ấy ? Lại hội chăng ? Thượng tọa hân hạnh có việc kỳ đặc, nhân sao chẳng biết ? Trân trọng !”.
Có vị tăng hỏi :
-Thế nào là đạo :
Sư đáp :
-Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi bặm ?
Tăng lễ bái .
Sư bảo :
-Chớ lầm hội !
Tăng hỏi :
-Thế nào là một hạt bụi vào chánh định ?
Sư đáp :
-Sắc tức không .
Tăng hỏi :
-Thế nào là cát bụi từ tam muội dậy ?
Sư đáp :
-Không tức sắc .
-Nhà Tấn, niên hiệu Thiên Phúc năm thứ 8 . Ngày mùng một tháng mười, sư sai tăng đến viện Bảo Ân mời Pháp Nhẫn đến phương trượng, dặn dò; lại viết thơ từ giã Quốc Chủ. Đến giữa đêm ngày mùng ba, sư ngồi ngay thẳng, nhắc chúng rằng : “Không bỏ quang ảnh” dứt lời liền yên lặng nhập diệt .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 364 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 330 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
43-THIỀN SƯ KỈNH HUYỀN (943-1027)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, đời Tống. Năm 19 tuổi đã làm đại tăng, nghe kinh Viên Giác, trong pháp hội không ai bì kịp. Sau đó sư du phương tham học, trước đến Long Sơn gặp thiền sư Duyên Quán. Sư hỏi :
-Thế nào là đạo tràng Vô tướng ?
Lương Sơn chỉ Bồ tát Quán Âm, nói :
-Cái nầy là do Ngô Xứ Sĩ vẽ .
Sư suy nghĩ để trình lời .
Lương Sơn nhanh miệng nói :
-Cái nầy có tướng, cái kia không tướng .
Sư nhân đây tỉnh ngộ. Liền bái tạ .
Lương Sơn bảo :
-Sao không nói lấy một câu ?
Sư thưa :
-Nói thì chẳng từ, sợ e chỉ trên giấy mực .
Lương Sơn cười nói :
-Lời nầy vẫn còn ghi trên bia .
Sư dâng kệ tụng :
Xưa con học đạo cứ lầm sai
Muôn núi nghìn sông kiếm thấy nghe
Luận cổ bàn kim càng khó hội
Vô tâm nói thẳng lại sanh nghi.
Nhờ thầy chỉ rõ kính thời Tần
Soi thấy cha mẹ lúc chưa sanh
Như nay giác ngộ đâu còn đắc
Đêm thả gà đen trong tuyết bay.
Âm :
“Ngã tích sơ cơ học đạo mê
Vạn thủy thiên sơn mích kiến tri
Minh kim biện cổ chung nan hội
Trực thuyết vô tâm chuyển cánh nghi.
Mong sư điểm xuất Tần thời cảnh
Chiếu kiến phụ mẫu vị sanh thì
Như kim giác liễu hà sở đắc
Dạ phóng ô kê đới tuyết phi”.
Sau nầy sư thượng đường dạy chúng :
-Chư thiền đức ! Phải rõ câu bình thường vô sanh, câu diệu huyền vô tư, câu thể minh vô tận. Câu thứ nhất không một đường. Câu thứ hai không chủ khách. Câu thứ ba bao gồm. Câu thứ nhất nói được là sư tử phùn mang. Câu thứ hai nói được là sư tử nhảy lồng. Câu thứ ba nói được là sư tử ngồi xổm. Buông ra thì khắp mười phương, nắm lại thì một lúc rồi dứt. Chính khi ấy làm sao thông được tin tức ? Nếu chẳng thông được tin tức, thì đến triều dâng Sở vương xem”.
Sư tinh thần kỳ lạ, từ bé đã ăn chay ngày một bữa, ở núi Đại Dương 50 năm chẳng rời địa phận, chiếu chẳng dính hông .
Nhà Tống, niên hiệu Thiên Thánh năm thứ 6. Ngày 16 tháng 7, sư từ biệt chúng. Ba ngày sau sư viết bài kệ gởi Thị Lang Vương Thự .
Lược rằng :
Ta tuổi tám mươi lăm
Tu nhơn đến thế ấy
Hỏi ta đi về đâu
Đảnh tướng trọn khó thấy.
Âm :
“Ngô niên bát thập ngũ
Tu nhơn chí ư thử
Vấn ngã quy hà xứ
Đảnh tướng chung nan đổ”.
Sư dừng bút, liền thị tịch .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 380 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 431 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
44-THIỀN SƯ THIỆN CHIÊU PHẦN DƯƠNG (947-1024)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Du, quê ở Thái Nguyên, Sơn Tây. Thuở bé thông minh mẫn tuệ, tất cả văn tự thông hiểu một cách tự nhiên, không do thầy dạy. Năm lên 14 tuổi, cha mẹ lần lược qua đời, sư phát tâm xuất gia học Phật. Khi thọ giới cụ túc xong, sư du phương tam học khắp nơi, trải qua 71 vị thiền đức, nhưng vẫn chưa khai sáng được chỗ ẩn khuất. Cuối cùng sư đến thiền hội của Thủ Sơn Tịnh Niệm .
Thủ Sơn lên tòa .
Sư bước ra hỏi :
-“Bá Trượng cuốn chiếu, ý chỉ thế nào ?”.
Thủ Sơn đáp :
-Áo rồng vừa phất, toàn thể hiện .
Sư nói :
-Ý thầy thế nào ?
Thủ Sơn đáp :
-Chỗ tượng vương đi bặt dấu chồn .
Qua câu nói nầy, sư bừng tỉnh . Lễ tạ rồi thưa :
-“Muôn xưa đầm biếc nguyệt trong không, ba phen gạn lọc mới được biết”. ( Vạn cổ bích đàm không giới nguyệt, tái tam lao lộc thủy ưng tri ). Sư dừng lại đây khá lâu .
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Cổ đức, xưa đi hành cước. Nghe một nhân duyên mà chưa liễu ngộ, thì ăn uống chẳng biết ngon, nằm ngồi chẳng yên ổn, gấp rút giải quyết, chớ cho là việc nhỏ, Vì vậy mà Đại giác lão nhơn vì một đại sự nhân duyên xuất hiện ra đời .
Xét ra, các ngài từ trước đến nay, đi hành cước chẳng phải vì du sơn ngoạn thủy, xem những vẻ đẹp của thành thị; thọ dụng manh áo chén cơm, đều vì tâm thánh chưa thông. Do đó mà ruổi dong hành cước, quyết trạch chỗ sâu kín, rộng hỏi các bậc tiên tri, gần gũi các hàng cao đức. Bởi vì muốn tiếp nối ngọn đèn Phật tâm, kế thừa chư Tổ, truyền bá phô trương, làm rạng rỡ hạt giống Thánh để tiếp dẫn kẻ hậu lai, tự lợi và lợi tha vậy”.
Y Lý Hầu phủ Long Đức, ba phen thỉnh sư trụ trì chùa Thừa Thiên sư đều từ chối, Sứ giả bị phạt. Lần nầy Y Lý Hầu quyết thỉnh sư cho bằng được, lại sai Sứ đến thưa : “Quyết thỉnh thầy đồng đi, nếu thầy không đi, tôi chỉ còn liều chết mà thôi !”.
Sư cười bảo : “Bởi nghiệp già bệnh không thể xuống núi, giả sử nếu đi phải có trước sau, tại sao lại phải đồng đi ?”.
Sứ thưa :
-“Thầy chịu đi, thì trước sau tùy chọn lựa”.
Sư bảo chúng sửa soạn hành lý, lại gọi chúng bảo :
-Lão tăng đi, có người nào theo được ?
Có vị tăng thưa :
-Con theo được .
Sư hỏi :
-Một ngày ông đi được bao nhiêu dặm ?
Vị tăng thưa :
-Năm mươi dặm .
Sư bảo :
-Ngươi theo ta chẳng được .
Có vị tăng khác ra thưa :
-Con theo được .
Sư hỏi :
-Một ngày ông đi được bao nhiêu dặm ?
Tăng thưa :
-Bảy mươi dặm .
Sư bảo :
-Ông theo ta cũng chẳng đặng .
Thị giả ra thưa :
-Con theo được. Hòa thượng đến đâu, thì con đến đó .
Sư bảo :
-Ông theo lão tăng được .
Nói xong, sư bảo Sứ giả: “Ta đi trước nghe” liền thị tịch. Thị giả đứng khoanh tay tịch theo. Sư thọ 78 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2) tr 386-397 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (9). tr 8304 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
45-THIỀN SƯ QUI TỈNH ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Đổ, quê ở Ký châu. Khi vừa khôn lớn, sư đến viện Bảo Thọ ở Dịch Châu cầu xin thế phát xuất gia. Sau khi đã thọ giới cụ túc, sư du phương tham học các nơi .
Bước đầu đến tham kiến thiền sư Thủ Sơn
Một hôm, Thủ Sơn đưa cây lược tre lên hỏi :
-Gọi là lược tre thì xúc chạm, chẳng gọi lược tre thì trái mất, vậy gọi là cái gì ?
Sư chụp cây lược ném xuống đất, nói :
-Là cái gì ?
Thủ Sơn bảo :
-Mù !
Sư nhận lời nầy, hoát nhiên đốn ngộ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Thiền sư hành cước cần phải để tâm tham học, phải đủ con mắt tham học, kiến địa phải được câu kiến địa, mới có phần tương thân, không bị các cảnh làm lầm, cũng chẳng rơi vào đường ác .
Cứu cánh xong xuôi thế nào ? Có khi câu đến mà chẳng đến,
quên duyên cảnh trước phân biệt việc bóng dáng. Có khi ý đến mà câu chẳng đến, như mù rờ voi, mỗi người có lối nói khác. Có ý câu đều đến, đập nát cõi hư không, ánh sáng soi mười phương. Có khi ý câu đều chẳng đến, người mù chạy ngang, bỗng nhiên rơi xuống hầm!”
Có vị tăng hỏi về cây “Bách” của Triệu Châu .
Sư bảo :
-Ta chẳng tiếc nói với ngươi, nhưng ngươi có tin không ?
Tăng thưa :
-Lời nói của Hòa thượng quý trọng, con đâu dám chẳng tin .
Sư bảo :
-Ngươi có nghe giọt mưa trước thềm không ?
Vị tăng bỗng nhiên, bất giác thốt ra tiếng “Chao” !
Sư hỏi :
-Ông thấy đạo lý gì ?
Vị tăng tụng kệ đáp :
Giọt mưa trước thềm
Rành rẽ rõ ràng
Đập nát càn khôn
Liền đó tâm dứt .
Âm :
“Thiềm đầu thủy đích
Phân minh lịch lịch
Đả phá càn khôn
Đương hạ tâm tức”.
Sư vui vẻ khứng nhận .
Lúc sắp tịch, sư có bệnh, vị tăng khám bệnh đến hỏi :
-Hòa thượng tứ đại vốn không, bệnh từ chỗ nào đến ?
Sư bảo :
-Từ chỗ Xà lê đến .
Tăng thưa :
-Khi con chẳng hỏi thì sao ?
Sư đáp :
-Xuôi tay nằm dài trong hư không .
Tăng thốt “Chao” ! Sư liền tịch .
----------
*-Thiền sư trung hoa (2). tr 398 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
46-THIỀN SƯ TUYẾT ĐẬU TRÙNG HIỂN (980-1052)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống họ Lý, tự Ẩn Chi, quê ở Toại Ninh, Tứ Xuyên. Thuở nhỏ theo Nho giáo, lớn lên sư quy hướng Phật đạo quyết chí cầu giải thoát, được thế độ bởi Nhân Săn thượng nhân. Sư nghiên cứu kinh luật đến chỗ thâm áo, nhưng sau đó lại tham cứu Thiền học .
Sư đến gặp thiền sư Trí Môn, xin tham vấn :
-Chẳng khởi một niệm, tại sao có lỗi ?
Trí Môn gọi sư lại gần, cầm phất tử đánh vào miệng sư .
Sư toan mở miệng .
Trí Môn lại đánh .
Sư hoát nhiên khai ngộ. Ở lại đây 5 năm để huân thâm chỗ sâu mầu .
Sau nầy sư dạy chúng :
“Trời người khắp nhóm họp, phát minh cái việc gì ? Đâu thể lầm lẫn phân chủ khách, đuổi theo vấn đáp là đúng tông thừa. Môn phong quảng đại, oai đức tự tại, sáng vượt xưa nay, nắm đứng càn khôn, ngàn thánh chỉ nơi”. Tự biết “ năm thừa đâu thể kiến lập. Sở dĩ trước lời ngộ ý chỉ vẫn làm mối ngoái xem, qua lời nói ngộ được tông môn còn bị lầm hiện bày của tình thức”.
-“Quý vị cần biết tướng chân thật chăng ? Chỉ là vì trước không đeo dính, về sau bặt thân mình, tự nhiên tướng quang hiện tiền mỗi mỗi vách đứng ngàn thước, lại biện minh được hay không ? Chưa biện thì biện lấy, chưa minh thì minh lấy. Đã biện minh được hãy cắt đứt dòng sinh tử, đồng ở ngôi Phật Tổ, diệu viên siêu ngộ chính ở khi nầy, kham đến cái ân chẳng đến, dùng giúp giáo hóa pháp vô vi”
Sư thuyết kệ :
Núi xuân chồng chất xanh
Nước xuân long lanh biếc
Thênh thang bầu trời không
Đứng riêng trông rất tuyệt.
Âm :
“Xuân sơn điệp loạn thanh
Xuân thủy dạng hư bích
Liêu liêu thiên địa gian
Độc lập vong hà cực”.
Một hôm, sư dạo núi nhìn bốn phía, bảo thị giả : “Ngày nào lại đến ở đây”. Thị giả xin kệ di chúc. Sư bảo : “Bình sanh chỉ lo nói quá nhiều”.
Hôm sau, sư đem giày dép, y hậu, vật dụng chia cho đồ chúng, rồi nói : “Ngày bảy tháng bảy lại gặp nhau”.
Đúng ngày mùng bảy tháng bảy, sau khi tắm gội xong, sư nằm xoay đầu về hướng Bắc thị tịch. Nhằm năm Hoàng Hựu thứ tư đời Tống. Thọ 73 tuổi,50 tuổi hạ .
----------------
*-Thiền sư trung hoa (2). tr 409-417 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (10). tr 8813 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 877 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
47-THIỀN SƯ ĐỨC THIỀU (891-972)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Trần, quê ở Long Tuyền, Xử Châu. Sư xuất gia năm 15 tuổi, năm 18 tuổi thọ giới cụ túc. Sau đó du phương tham vấn 54 vị Thiện trí thức, cuối cùng đến yết kiến thiền sư Pháp Nhãn Văn Ích .
Một hôm Pháp Nhãn thượng đường, có vị tăng ra hỏi :
-Thế nào là một giọt nước ở nguồn Tào ?
Pháp Nhãn đáp :
-Là giọt nước ở nguồn Tào .
Vị tăng mờ mịt thối ui. Sư ngồi bên nghe hoát nhiên khai ngộ . Những mối nghi ngờ thường ngày dường như băng tiêu, cảm xúc đến rơi nước mắt. Sư trình chỗ ngộ cho Pháp Nhãn .
Pháp Nhãn bảo :
-“Người nầy sau sẽ làm thầy Quốc vương, khiến ánh sáng đạo của Tổ sư càng rộng lớn, ta không sánh bằng”.
Sau nầy sư thượng đường dạy chúng :
-“Cổ nhân nói : ”Thế nào là thiền ? Tam giới miên miên. Thế nào là đạo ? Thập phương hạo hạo”. Vì sao nói tam giới miên miên ? Chỗ nào là lý của thập phương hạo hạo ? Cần hội chăng ? Bít mắt lại, bít tai, mũi, lưới, thân, ý lại ; không chỗ nào rỗng thiếu, không chỗ chuyển động. Các vị hội chăng ? Ngang cũng chẳng được, dọc cũng chẳng được, buông bỏ cũng chẳng được, đoạt lấy cũng chẳng được, chẳng có chỗ dụng tâm, cũng chẳng có chỗ lập bày. Nếu hội được như thế, mới là pháp môn bặt chọn lựa. Tất cả ngôn ngữ dứt rỉ chảy”.
Có vị tăng hỏi :
-Người xưa nói : ”Người thấy Bát nhã liền bị Bát nhã trói. Người chẳng thấy Bát nhã cũng bị Bát nhã trói”. Đã thấy Bát nhã, vì sao lại bị Bát nhã trói ?
Sư đáp :
-Ngươi nói Bát nhã thấy cái gì ?
Tăng thưa :
-Chẳng thấy Bát nhã vì sao cũng bị Bát nhã trói ?
Sư đáp :
-Ngươi nói Bát nhã chỗ nào chẳng thấy ? Sư lại bảo : Nếu thấy Bát nhã chẳng gọi là Bát nhã, nếu chẳng thấy Bát nhã cũng chẳng gọi là Bát nhã. Hãy bảo nói cái gì là thấy, chẳng thấy ?
Sở dĩ cổ nhân nói :”Nếu thiếu một pháp chẳng thành pháp thân, nếu thừa một pháp cũng chẳng thành pháp thân; nếu có một pháp chẳng thành pháp thân, nếu không một pháp cũng chẳng thành pháp thân. Đây là chân tông Bát nhã vậy”.
Sư có kệ tụng :
Trên đỉnh thông huyền
Chẳng phải nhân gian
Ngoài tâm không pháp
Đầy mắt núi xanh .
Âm :
“Thông huyền phong đảnh
Bất thị nhân gian
Tâm ngoại vô pháp
Mãn mục thanh san”.
Đến niên hiệu Khai Bảo thứ tư, ngày 28 tháng 6, tại Liên Hoa Phong, sư có bệnh, họp chúng từ biệt, ngồi kiết già thị tịch, thọ 82 tuổi, 65 tuổi hạ .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 428 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (3). tr 2557 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 242 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 375-377 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
48-THIỀN SƯ THÁI KHÂM PHÁP ĐĂNG (910-974)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Quý, quê ở Ngụy Phủ,
Hà Bắc. Sư có trí thông minh lạ thường, lại thêm biện tài vô ngại, nên trong hội của ngài Pháp Nhãn, được toàn chúng ngưỡng mộ ngợi khen .
Một hôm ngài Pháp Nhãn hỏi chúng :
-Cổ cọp mang lục lạc, người nào mở được ?
Toàn chúng không ai đáp được. Sư vừa đến, Pháp Nhãn hướng về sư hỏi ?
Sư thưa :
Người cột mở được .
Pháp Nhãn bảo chúng :
-Chớ khinh người nầy .
Về sau, sư trụ viện Hộ Quốc. Có vị tăng hỏi :
-Khéo hành đạo Bồ tát chẳng nhiễm các pháp tướng, vậy thế nào là đạo Bồ tát ?
Sư đáp :
-Tướng các pháp .
Tăng hỏi :
-Thế nào được chẳng nhiễm ?
Sư đáp :
-Nhiễm dính chỗ nào ?
Sau cùng, sư trụ trì tại đạo tràng Thanh Lương ở Kim Lăng. Đến niên hiệu Khai Bảo năm thứ bảy, sư có bệnh, bảo chúng rằng :
-“Lão tăng nằm bệnh, gắng lôi thân đến đây cùng các ông thấy nhau ! Hiện nay đạo tràng mỗi chỗ rõ ràng là Hóa thành. Hãy nói thế nào là Hóa thành ? Đâu chẳng thấy Đạo sư xưa nói : “ Bảo sở chẳng xa cần phải tiến tới ”. Khi đến thành rồi lại nói : “Do ta hóa ra”.
Nay các ông thử nói đạo lý xem ? Các ông tuy là kẻ sanh muộn cần biết Quốc chủ của ta, nơi nào có thắng cảnh đều dựng lập Đạo tràng, việc cần dùng chẳng thiếu, chỉ cần các ông mở miệng. Hiện nay chẳng có gì hơn, biết cái chi là miệng của các ông ? Đâu cần xét đến công Tứ ân, Tam hữu. Muốn được hội chăng ? Chỉ biết cái miệng là không lỗi, nếu có lỗi tại các ông có ngã. Nay gió lửa ép nhau, đi đứng là đạo thường .
Lão tăng trụ trì sắp qua một kỷ (12 năm) mỗi mỗi nhờ Quốc chủ giúp, những đến mười phương thí chủ. Tăng lữ thì từ Chủ sự đến chú tiểu đều hết lòng vì ta, lặng lẽ mà khó nói. Hoặc mang gai, mặc vải, đây tức là thuận tục; ta nói trái với chơn. Hãy nói thuận là tốt, hay trái là tốt ? Song, thuận theo ta nói là không điên đảo .
Di hài của ta để tại núi Nam, bên phải, bên trái của Hòa thượng Đại Trí Tạng xin hai phần huyệt. Sự thăng trầm rất rõ ràng không nên dời đổi. Cố gắng ! Trân trọng !
Nói xong, sư ngồi yên thị tịch, nhằm ngày 24 tháng 8 năm 974 .
--------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 440 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (9). tr 7575 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 683 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
49-THIỀN SƯ NGHĨA THANH (1.032-1083)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Lý, quê ở Thanh Đổ, Hà Nam. Sư xuất gia năm lên 7 tuổi, tại chùa Diệu Tướng, trước học luận Bách pháp, sau học kinh Hoa Nghiêm, khi học đến câu “Tức tâm tự tánh” liền có chỗ tỉnh ; tự nói :”Pháp lìa văn tự, tại sao có thể giảng đặng ư ?”. Sư cất bước du phương, trải qua nhiều thiền hội .
Khi đến hội thiền của ngài Viên Giám. Thiền sư dạy sư khảo câu :
Ngoại đạo hỏi Phật : ”Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời”. Trải hơn ba năm sư luôn khảo câu thoại nầy .
Một hôm Viên Giám hỏi ;
-Ông ghi được thoại đầu chăng, thử nêu xem ?
Sư đang nghĩ đáp lại, bị Viên Giám bụm miệng. Bỗng nhiên sư tỉnh ngộ, liền đảnh lễ .
Viên Giám hỏi :
-Ngươi diệu ngộ huyền cơ chăng ?
Nếu có cũng phải mửa bỏ .
Thị giả đứng bên nói :
-Hoa Nghiêm Thanh ngày nay như người bệnh được ra mồ hôi .
Sư quay sang bảo :
-Ngậm miệng chó lại, nếu nói lăng xăng. Ta buồn nôn !
Sau sư đến hội của thiền sư Viên Thông, không thưa hỏi chi cả, chỉ ăn xong rồi ngủ. Tri sự thấy thế, bạch với Viên thông : Trong Tăng đường có vị tăng cả ngày ăn no rồi lại ngủ, xin thực hành theo quy chế.
Viên Thông hỏi :
-Người nào ?
Tri sự thưa :
-Thượng tọa Thanh .
Viên Thông bảo :
-Khoan ! Đợi ta xét qua .
Thiền sư Viên Thông cầm gậy đi vào tăng đường, thấy sư đang nằm ngủ. Viên Thông gỏ vào giường quở: trong đây chẳng có cơm dư cho Thượng tọa ăn xong rồi lại ngủ .
Sư thưa :
-Hòa thượng dạy tôi làm gì ?
Viên Thông bảo :
-Sao chẳng tham thiền ?
Sư thưa :
-Món ăn ngon không cần với người bụng no .
Viên Thông bảo :
-Tại sao có nhiều người không chấp nhận Thượng tọa ?
Sư thưa :
-Đợi họ chấp nhận để làm gì ?
Viên Thông hỏi :
-Thượng tọa đã gặp ai rồi đến đây ?
Sư thưa : Phù Sơn .
Viên Thông bảo :
-Lạ ! Được cái gì mà làm biếng thế ! Liền nắm tay sư, cả hai cùng cười, rồi Viên Thông trở về phương trượng .
Về sau sư thường dạy chúng :
-“Nếu luận việc nầy như loan phụng bay giữa hư không, chẳng để dấu vết, như con linh dương mọc sừng, ai tìm được dấu chân; rồng vàng chẳng giữ đầm lạnh, thỏ ngọc đâu gá bóng cóc .
Nếu lập chủ khách thì phải ngoài cõi Oai Âm lay đầu, hỏi đáp nói bày vẫn là bên lề huyền lộ đề xướng. Nếu hay như thế vẫn còn ở giữa đường. Nếu đứng tròng nhìn sững, chẳng nhọc
thấy nhau”.
Niên hiệu Nguyên phong năm thứ sáu nhà Tống. Ngày mùng bốn tháng năm, sư tắm gội, thượng đường từ biệt chúng, viết kệ :
Trụ trì hai nơi
Không thể giúp đạo
Trân trọng các ngươi
Chẳng cần tìm thảo.
Âm :
“Lưỡng xứ trụ trì
Vô khả trợ đạo
Trân trọng chư nhơn
Bất tu tầm thảo “.
Viết xong, sư ném bút liền tịch .
---------------
*-Thiền sư trung hoa (2). tr 448 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 4753 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 480 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
50-THIỀN SƯ THẠCH SƯƠNG TỪ MINH (986-1039)
+ + +
Thiền sư trung hoa, thời Tống, họ Lý, tên Sở Viên, quê ởThanh Sương, Toàn Châu. Thuở nhỏ sư là một Nho sinh, chuyên cần học tập, năm 22 tuổi xuất gia tại chùa Ẩn Tỉnh, Tương Sơn.
Nghe đồn ngài Thiện Chiêu là đệ nhất thiên hạ, sư tìm đến ở đây trải 2 năm, nhưng chưa một lần được vào thất. Mỗi lần sư đến yết kiến đều bị mắng chửi, hoặc nói xấu chỗ nầy, chỗ khác ; hoặc hướng dẫn những lời thô bỉ tục tằng .
Một hôm, sư đang than trách, thì bị Thiện Chiêu nhìn thẳng vào mặt mắng rằng :
-Đồ ác tri thức ! Ngươi dám trách ta à ? Lại cầm gậy đánh đuổi .
Sư toan giải bày, Thiện Chiêu liền bụm miệng. Ngay đấy sư chợt tỉnh ngộ. Liền thốt ; ”Đúng là đạo của Lâm Tế vượt xa người thường tình”. Sư ở lại hầu thầy suốt 12 năm để thâm
hội ý chỉ .
Về sau sư dạy chúng :
-“Hãy nói Tổ sư thiền có cái gì đặc biệt ? Nếu trong lời nói mà nhận là lừa bịp người sau. Dù dưới gậy lãnh lấy vẫn còn cô phụ Thánh trước. Muôn pháp vốn yên lặng, chỉ tự người ồn náo. Do đó, sơn tăng ở Phước Nghiêm chỉ thấy cảnh giới Phước Nghiêm, sáng dậy sớm, tối đi ngủ. Mây nổi trên ngọn xanh, trăng lặn dưới đầm lạnh, tiếng chim kêu hót dưới đài Bát nhã, hương hoa Sa la rơi khẩn vái trên sường núi. Cầm gậy tre ngồi bên bàn đá, cùng thiền sinh ngũ hồ nói lời huyền vi”.
-“Thay đầu đổi mặt đến trụ Hưng Hóa, chỉ thấy gia phong Hưng Hóa, đón đến, đưa đi, cửa liền với thành thị, xe ngựa rộn ràng, ca hát tiêu tương, vượn ca nhạc lộc, tiếng đàn ca, ngâm vịnh luôn rót vào tai. Lại cung bậc cao hơn trong tứ hải, mỗi ngày bàn thiền đạo, năm tháng quên mất .
Hãy nói ở núi sâu, trụ đô thành, lại có ưu liệt hay không ? Thử nói xem ?
Sư im lặng giây lâu, lại nói : “Chỗ chỗ đều Từ Thị, cửa cửa thảy Thiện tài”.
Niên hiệu Bảo Nguyên. Lý Đô Úy sai Sứ đến thỉnh sư, thư viết :
“Bạn pháp trong nước, chỉ có thầy cùng Dương Đại Niên. Đại Niên bỏ tôi đi trước, năm nay tôi thấy già suy đến gấp, cái chết chực sẵn, mong được cùng thầy hội kiến lần chót !”
Sư cảm thương, cùng thị giả đáp thuyền đến Kinh đô, thuyền đi trên sông, sư làm kệ :
Sông dài đi chẳng tột
Đế đô đến bao giờ ?
Đã gặp gió lành tốt
Gác chèo nghỉ chơi thôi.
Âm :
“Trường giang hành bất tận
Đế lý đáo hà thời
Ký đắc lương phong tiện
Hưu tương lỗ trạo thi”.
Đến Kinh đô, sư cùng Lý Đô Úy hội kiến, luận bàn đạo lý. Sau hơn một tháng, quả nhiên Đô Úy sắp tịch. Giờ phút chót Đô Úy vẽ hình tròn và làm thơ tặng sư :
Thế giới không nương
Núi sông chẳng ngại
Đại hải vi trần
Tu di hạt cải
Gỡ phắt chiếc khăn
Cởi bỏ lưng thắt
Nếu tìm tử sanh
Hỏi lấy cái đãi “.
Âm :
“Thế giới vô y
Sơn hà phi ngại
Đại hải vi trần
Tu di nạp giới
Niệm khởi phóc đầu
Giải hạ yêu đời
Nhược mích tử sanh
Vấn thủ bì đại”.
Sư hỏi :
-Thế nào là Phật tánh xưa nay ?
Lý đáp :
-Ngày nay nóng như ngày hôm qua. Liền đó, Lý hỏi lại sư :
-Một câu sắp đi thế nào ?
Sư đáp :
-Xưa nay không ngăn ngại, tùy chỗ mặc vuông tròn .
Lý nói :
-Chiều đến, mỏi mệt không đáp thoại .
Sư bảo :
-Chỗ không Phật làm Phật .
Lý công vui vẻ thị tịch .
Vua Tống Nhân Tông cho thuyền đưa sư về. Giữa đường, sư bảo thị giả : Ta vừa bệnh phong. Nhìn thấy sư miệng bị phong giật méo qua một bên, Thị giả dậm chân xuống thuyền nói :
-Tại làm sao lúc bình thường quở Phật, mắng Tổ, hôm nay lại thế nầy ?
Sư nói :
-Đừng lo, ta sẽ vì ngươi sửa ngay lại .
Sư lấy tay sửa miệng ngay lại như cũ, rồi nói : Từ nay về sau chẳng nhọc đến ngươi .
Năm sau sư đến Hưng Hóa. Ngày mùng năm tháng giêng. Sau khi tắm gội xong, sư ngồi kiết già, từ biệt chúng thị tịch. Thọ 54 tuổi, 32 tuổi hạ. Sư là tác nhân của câu : ”Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”.
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 457-469 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (9). tr 7556 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 640 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 283 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
51-THIỀN SƯ NGHĨA HOÀI THIÊN Y (989-1060)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Trần, quê ở Lạc Thanh, Vĩnh Gia. Thuở nhỏ theo cha đánh cá, cha được con nào trao cho, sư đều lén thả hết. Lớn lên sư tìm đến chùa Cảnh Đức xin xuất gia tu học. Sau đó du phương tham vấn nhiều nơi, nhưng nẻo lòng vẫn mù mịt .
Đến hội của thiền sư Trùng Hiển, sư làm ban vận thủy. Một hôm đang gánh nước, chợt đòn gánh bị gãy, để rơi cập thùng liền làm kệ:
Một, hai, ba, bốn, năm, sáu, bảy
Muôn trượng núi cao đứng một chân
Dưới hàm rồng dữ đoạt minh châu
Một lời khám phá Duy Ma Cật .
Âm :
“Nhất nhị tam tứ ngũ lục thất
Vạn nhẫn phong đầu độc túc lập
Ly Long hàm hạ đoạt minh châu
Nhất ngon khám phs Duy Ma Cật”.
Ngài Trùng Hiển vỗ bàn khen hay và ấn khả cho sư .
Về sau sư thượng đường dạy chúng :
-“Phàm làm Tông sư, phải đoạt trâu của kẻ đi cày, cướp thức ăn của người đói, gặp nghèo thì sang, gặp sang thì nghèo, đuổi trâu của người đi cày, khiến cho lúa mạ tốt tươi. Cướp thức ăn của người đói, khiến họ hàng dứt đói khát. Gặp nghèo thì sang nắm đất thành vàng; gặp sang thì nghèo biến vàng thành đất .
Lão tăng cũng chẳng đuổi trâu của người cày, cũng chẳng cướp thức ăn của kẻ đói. Sao gọi là trâu của người cày, ta nào cần dùng.
Thức ăn của kẻ đói ta nào muốn ăn. Ta cũng chẳng nắm đất thành vàng, cũng chẳng biến vàng thành đất. Sao vậy ? Vì vàng là vàng, đất là đất, ngọc là ngọc, đá là đá, Tăng là Tăng, tục là tục. Trời đất xưa nay, nhật nguyệt xưa nay, núi sông xưa nay,
con người xưa nay. Tuy nhiên như thế, đập nát cái cổng mê sẽ gặp đức Đạt Ma .
Sư về già có bệnh, riêng dựng một thảo am ở Sam sơn. Có đệ tử là Trí Tài thỉnh sư về hầu hạ. Trí Tài có việc đi Thành Tô. Sư cho người gọi về gấp. Trí Tài về đến cửa, sư bảo :”Giờ đến đi đây”. Trí Tài thưa :
-Thầy có để lời gì dạy đệ tử chăng ?
Sư nói kệ :
Đất nhật trời hồng soi
Đảnh hoa mây lạnh quấn
Canh ba vượt thiết vi
Sừng ly long bẻ gãy.
Âm :
“Hồng nhật chiếu phù tang
Hàm phong vân hoa nhạc
Tam canh hóa thiết vi
Tạt chiếc ly long giác”.
Trí Tài thưa :
-Tháp trứng đã thành, thế nào là việc cứu cánh ?
Sư đưa nắm tay chỉ : Đó ! Liền đến bên giường xô ghế thị tịch, thọ 72 tuổi .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 473 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (6). tr 4748 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 479 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 455 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
52-THIỀN SƯ NGỘ Ở PHÁP XƯƠNG ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Lâm, quê ở Chương Châu. Sư xuất gia từ thuở bé, tại chùa Sùng Phước, có chí khí cao viễn. Sau khi đã thọ giới cụ túc, sư vân du khắp nơi tham học đạo thiền .
Trải qua các thiền hội Phù Sơn, Bắc Thiền, đối đáp thiền ngữ trôi chảy, nhưng vẫn chưa được vào cửa. Một hôm, sau khi vấn đáp, lúc tạm nghỉ uống trà, thiền sư Trí Hiền hỏi sư :
-Quê ở đâu ?
Sư thưa :
-Chương Châu .
Trí Hiền hỏi :
-Ở đó làm gì ?
Sư thưa :
-Nói thiền, nói đạo .
Trí Hiền hỏi :
-Tuổi bao nhiêu ?
Sư thưa :
-Cùng cột cái đồng tuổi .
Trí Hiền bảo :
-Có cột cái nên lấy đó so sánh, nếu không cột cái tuổi bao nhiêu ?
Sư thưa :
-Nếu không cột cái một tuổi cũng chẳng ít .
Trí Hiền bảo :
-Nửa đêm thả gà đen .
Nhân đó sư kính làm thầy và ở lại đây khá lâu để lãnh thọ thêm yếu lý .
Về sau sư dạy chúng :
-“Ở thành Tỳ Da im lặng phỏng theo tông thừa. Thú lãnh giở cành hoa trở thành thuốc độc. Chín năm xây mặt vào vách làm ngu độn tông Tổ tiên. Nửa đêm truyền y là gạt kẻ hậu học. Mã Tổ tức tâm là Phật, in tuồng ôm gốc cây đợi thỏ. Bàn Sơn phi tâm phi Phật, có thể là hòa bùn hợp nước. Những tri kiến như vậy là bại hoại Tổ phong, dối Thánh, gạt Hiền. Hậu học vô tội, gặp người chỉ chú .
Nếu luận về việc nầy, thì chư Phật chưa từng ra đời, cũng không một pháp cho người. Tổ Đạt Ma chẳng tây sang. Huệ Khả chẳng đạt tủy, liền được gió lành bát ngát, lão què gõ nhịp ca vang. Tâm không chỗ trụ, hạnh không chỗ nương, nghe thiền cùng đạo dường thấy oan gia, nói sắc nói tâm nh gặp cọp dữ. Nhiên Hậu, Pháp Xương cho ông chon rau rừng, giã gạo thái làm cơm hòa la, nấu canh cốt đổng, đói thì ăn, mệt thì ngủ, không do các vị mà được sùng cao, chớ học tam thừa mà lập ra thời khóa”.
Trước một ngày viên tịch, sư viết kệ gởi cho Từ Công Hy, là người bạn cùng sư khi còn áo vải .
Kệ rằng :
Năm nay tuổi bảy bảy
Ra đi chọn ngày kiết
Đêm qua hỏi quẻ rùa
Nói rằng sáng nay tốt.
Âm :
“Kim niên thất thập thất
Xuất hành tu trạch nhật
Tạc nhật vấn qui ca
Báo đạo kim triêu kiết”.
Từ Hy xem xong, hoảng hốt, mời thiền sư Thanh ở Linh Nguyên cùng đến. Sư đang ngồi trong thất, đem việc chùa dặn dò Tri sự :
“Ta ở núi nầy đã 23 năm, gìn giữ của thường trụ chẳng sai sót. Các ngươi phải cố gắng tu hành”. Nay ta đi vậy !
Dặn bảo xong, sư cầm gậy nói : ”Hãy nói cái nầy trao lại cho
ai ?”.
Cả thảy đều im lặng. Sư ném bỏ gậy, nằm lên giường, lấy tay gối đầu liền tịch .
--------------
*-Thiền sư Trung Hoa (2). tr 481 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
53-THIỀN SƯ PHẬT ẤN LIỄU NGUYÊN (1032-1098)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Lâm, quê ở Phù Lương, Giang Tây. Sư thuở nhỏ dung mạo đẹp đẽ lạ thường, nối nghiệp nhà Nho, suốt thông kim cổ. Xuất gia năm 19 tuổi, tại chùa Bảo Tích.
Sau khi thọ xong giới cụ túc, sư du phương tham học các nơi và khế hợp với thiền sư Thiện Xiêm ở chùa Khai Tiên Lô Sơn .
Sau nầy sư thượng đường dạy chúng :
-“Lạnh lạnh, gió gõ tiếng tre khô, nước đông cá lội rích, rừng thưa chim ngủ khó, thảy là uy thế của sương. Đâu kham hành khách áo đơn, thôi nghĩ hoa tía núi ngàn đóa, hãy vây lò lửa một phen dùi, buông đi thù du không cọc tre, lật ngược Ca Diếp trước cửa cột phướn”.
Sư lại nói tiếp : ” Chẳng hội, suy nghĩ càng không manh mối ”.
Tham !
Một hôm cư sĩ Tô Đông Pha đi thẳng vào thất viếng sư. Sư bảo :
-Trong nầy không có ghế ngồi, cư sĩ đến đây làm gì ?
Đông Pha nói :
-Tạm mượn thân của Phật Ấn làm ghế .
Sư bảo :
-Sơn tăng có một câu hỏi, nếu cư sĩ nói được thì mời ngồi, bằng nói chẳng đặng, thì xin cởi ngọc đái để lại .
Tô Đông Pha vui vẻ nói :
-Xin cứ nói :
Sư bảo :
-Vừa rồi cư sĩ nói : “Tạm mượn thân tứ đại của sơn tăng làm ghế”. Như sơn tăng đây tứ đại vốn không, năm uẩn chẳng có, vậy cư sĩ lấy chỗ nào ngồi ?
Tô Đông Pha không đáp được, đành cởi ngọc đái để lại .
Sư rất giỏi thư pháp và văn thơ. Trích đoạn dưới đây là những bài sau cùng :
Nằm dưới vũng bùn trâu ngửi gió
Chẳng có cây khô trong tuyết tươi
Rành rành trước mắt mà không biết
Vào lúc thái bình thân tự do.
Âm :
“Nê ngưu mạn hướng phong tiền khứu
Khô mộc vô đoan tuyết lý xuân
Đối hiện đường đường câu bất thức
Thái bình thời đại tự do thân “.
Ngày mùng bốn tháng giêng, niên hiệu Nguyên Phù năm đầu. Sư đang cùng khách nói chuyện có người ngộ được tâm, sư cười một cái rồi tịch, thọ 67 tuổi, 52 pháp lạp .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 487 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (5). tr 3725 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 407 .
*-Thiền uyển dao lâm. tr 181 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
54-THIỀN SƯ HUỆ NHẬT TRÍ GIÁC (904-975)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Ngũ Đại, họ Vương, quê ở Dư Hàng. Lúc thiếu thời sư đã hướng Phật pháp, không ăn thịt cá, chỉ ăn ngày một bữa, chuyên trì kinh Pháp Hoa, cảm nhận được chỗ thâm diệu.
Năm 28 tuổi, sư làm quan trấn ở Hoa Đình, thường tới lui hỏi đạo với ngài Thúy Nham. Đạo tâm thuần thục, tinh tấn không dừng, cảm đến Văn Mục Vương, cho phép sư tùy sở nguyện xuất tục làm tăng .
Bước đầu thờ thiền sư Thúy Nham, sư hết lòng tôn kính, phục vụ quên mình, uống ăn đạm bạc, áo vải đơn sơ. Sau sư đến yết kiến Quốc sư Đức Thiều, được thừa nhận và trao cho yếu chỉ .
Về sau có vị tăng hỏi sư ?
-Há chẳng phải rời thức tánh riêng có chân tâm ư ?
Sư đáp :
-“Như lai Thế tôn trên hội Lăng Nghiêm vì ngài A Nan giảng biệt rất rõ, mà ngươi vẫn cố chẳng tin. Ngài A Nan lấy cái suy xét theo đuổi đó là “thức” vậy. Nếu lấy cái biết pháp, theo tướng là phiền não, thì gọi là thức, chẳng gọi là tâm. Ý là nhớ, nhớ tưởng cảnh trước khởi vọng, đều là vọng thức, chẳng can
gì đến việc của tâm. Tâm chẳng phải có không, có không chẳng nhiễm .
Tâm chẳng phải cấu tịnh, cấu tịnh chẳng nhơ. Cho đến mê ngộ, phàm thánh, đi đứng, ngồi nằm đều là vọng thức, chẳng phải tâm vậy. Tâm xưa chẳng sanh, nay cũng chẳng diệt. Nếu biết tâm mình như thế, đối chư Phật cũng vậy. Cho nên ông Duy Ma nói : ” Trực tâm là đạo tràng”. Vì chẳng có hư giả vậy .
Sư muốn đem giáo pháp một đời của đức Phật, lưu truyền ở cõi nầy, xem qua lối phán giáo của ngài Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân, chia các tông Tánh Tướng.v.v…trở thành mâu thuẫn, khiến khó khăn thêm cho người học đạo. Sư lấy yếu điểm của Tâm tông làm nhân chiết trung, góp các kinh Phương đẵng.v.v…Sáu mươi bộ, những lời dạy của ba ba vị tổ Ấn Hoa, để giúp nghĩa cho Tâm tông, soạn thành bộ sách 100 quyển, tựa đề Tông Cảnh lục, lưu truyền hậu thế .
Niên hiệu Khai Bảo năm thứ tám. Sư có bệnh, ngày hai mươi sáu tháng chạp, sáng sớm, sư thấp hương từ biệt chúng, ngồi kiết già thị tịch, thọ 72 tuổi, 42 pháp lạp .
----------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 493 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
55-THIỀN SƯ BỔN TIÊN(Ở)ĐOAN LỘC (942-1008)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Trịnh, quê ở Vĩnh Gia. Sư xuất gia lúc còn nhỏ tại viện Tập Khánh, thọ giới cụ túc tại chùa Quốc Thanh, Thiên Thai .
Sư tham vấn Quốc sư Đức Thiều. Quốc sư nêu câu :”Chẳng phải gió phướn động, mà tâm nhơn giả động”. Sư được giải ngộ .
Khi sư về trụ chùa Đoan Lộc, chân chẳng dạo thành ấp, tay chẳng nhận tiền bạc, chẳng dùng mền nệm, chẳng mặc tơ lụa, ngày ăn một bữa, tọa thiền suốt ngày, trọng ba mươi năm không đổi thay ý chí .
Sư dạy chúng ;
-“Ta lúc mới gặp Thiên Thai, vừa nghe câu nói liền tiến được .Nhưng khoảng một ngàn ngày đầu trong bốn oai nghi in tuồng có vật ngại nơi ngực, như đồng ở với kẻ thù. Một ngàn ngày về sau, một hôm vật ngại bỗng tan, không còn chung ở với kẻ thù. Từ đó an vui, chợt nhận ra lỗi trước”…
-“Tất cả các ngươi ! Ban đêm ngủ mê chẳng biết chi cả, thử hỏi khi ấy các ngươi có tánh xưa nay chăng ? Nếu nói khi ấy có tánh xưa nay, mà khi ấy lại chẳng biết chi cả, vậy thì cùng chết không khác ?
Nếu nói khi ấy chẳng có tánh xưa nay, sao chợt thức giấc liền biết như xưa ? Lại hội chăng? Chẳng biết chi hết, cùng chết không khác, ngủ mê chợt thức giấc liền biết như xưa. Những khi như thế, là cái gì ?
Nếu chẳng hội, mỗi người hãy tự thân cứu lấy !”.
Niên hiệu Đại Trung Tường Phủ năm đầu. Vào tháng hai sư chợt bảo đệ tử là Như Trú :
-Nên xây tháp cho ta, rằm tháng tư ta tịch .
Như Trú vâng lời, xây tháp xong. Dân chúng xa gần truyền tai nhau đến chiêm ngưỡng .
Đúng ngày chẳng thấy hiện tượng gì lạ, vẫn cho tham vấn bình thường. Đến giờ ngọ, sư ngồi yên nơi phương trượng tay kiết
ấn. Lại bảo Như Trú :
-Người xưa nói :”Cỡi đầu cọp, nắm đuôi cọp”. Việc ở khoảng giữa thế nào ?
Như Trú đáp :
-Cũng chỉ là Như Trú .
Sư bảo :
-Ngươi hỏi lại ta .
Như Trú hỏi :
-Cỡi đầu cọp, nắm đuôi cọp, việc khoảng giữa Hòa thượng nói thế nào ?
Sư bảo :
-Ta cũng chẳng nói ra .
Nói xong, sư hé một con mắt ra xem, rồi an nhiên thị tịch, thọ 67 tuổi, 42 pháp lạp .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 503 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 38 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
56-THIỀN SƯ ĐẠO GIAI (ở) PHÙ DUNG (1043-1118)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Thôi, quê ở Nghi Thủy, Nghi Châu. Tính tình cương trực, lúc thiếu thời đã vào ẩn trong núi Y Dương, học đạo nhịn cơm. Sau sư đến chùa Thuật Đài tại Kinh đô, ở đây thọ giới cụ túc và học tập kinh luật .
Trên đường du phương, sư đến ra mắt thiền sư Nghĩa Thanh ở chùa Hoa Nghiêm, núi Đầu tử .
Sư nói : Ngôn giáo của Phật Tổ như việc cơm cháo thường ngày, lìa việc nầy riêng có chỗ vì người hay chăng ?
Đầu Tử đáp :
-Ngươi nói sắc lệnh của Thiên tử trong cõi nầy, lại nhờ các vua trước như Vũ, Thang, Nghiêu, Thuấn hay chăng ?
Sư đang suy nghĩ để đáp lại, Đầu Tử lấy phất trần bịt miệng sư, nói :
-Ngươi phát ý ra đã đáng ăn ba mươi gậy rồi .
Ngay câu nói nầy, sư tỉnh ngộ, liền đảnh lễ ra đi .
Đầu Tử gọi :
-Xà lê hãy lại đây .
Sư chẳng ngó lại .
Đầu Tử nói :
-Người đến chỗ chẳng nghi chăng ?
Sư liền bịt tai .
Sau nầy,sư trông coi việc nhà bếp .
Đàu Tử hỏi :
-Ngươi thổi cơm ư ? Nấu cháo ư ?
Sư thưa :
-Nhơn công đãi gạo nhóm lửa, trị nhật nấu cháo, thổi cơm .
Đầu Tử hỏi :
-Còn ngươi làm gì ?
Sư thưa :
-Nhờ ơn Hòa thượng từ bi cho con rảnh rang .
Do sư không nhận Tử y (y màu tía) và danh hiệu của vua ban tặng, khiến vua Tống Huy Tông nổi giận, ra lịnh tống giam
sư và tra khảo .
Quan Hữu ty biết sư là người trung hậu, khiến trái ý vua nên hỏi :
-Trưởng lão thân gầy yếu thế, vậy có bệnh chăng ?
Sư đáp :
-Thường ngày cũng có bệnh, nhưng hiện nay thì không .
Hữu ty lại nói :
-Nếu khai có bệnh, thì đối với pháp luật được miễn phạt hình .
Sư bảo :
-Đâu dám dối trá nói bệnh, để mong khỏi hình phạt .
Hữu ty ngậm ngùi !
Sư điềm nhiên nhận chịu hình phạt .
Sau đó, lại bị đày ra Tri Châu, mặc áo nô dịch. Tăng tục xót thương rơi lệ, riêng sư khí sắc vẫn nhàn hạ .
Sư thường dạy chúng :
-“Phàm là người xuất gia, vì chán trần lao, cầu thoát sanh tử, thôi tâm, dứt niệm, cắt đứt dây leo, gặp thanh gặp sắc như hoa trồng trên đá, thấy lợi thấy danh như bụi rơi vào mắt. Vì từ vô thủy đến giờ, những cái ấy đâu phải chưa từng trải qua, cần gì lại nhọc nhằn tham luyến ? Hiện nay chẳng dứt, còn đợi khi nào ? Thời gian dứt sạch, lại còn việc gì ? Nếu được trong tâm vô sự, thì Phật Tổ vẫn là oan gia, tất cả thế sự tự nhiên lạnh nhạt, mới là phù hợp bên nầy”.
-“Ngày nay sơn tăng đối với các vị nói về gia môn đã là chẳng tiện. Đâu thể đăng đường, nhập thất, niêm chùy, dựng phất, nhướng mày, chớp mắt, động gậy, tay hét, in tuồng bệnh động kinh phát hiện. Đâu chẳng thấy tổ Đạt Ma ngồi xây mặt vào vách đá chín năm. Nhị tổ Huệ Khả đứng trong tuyết, chặt lấy tay, có thể nói chịu tột gian khổ. Nhưng tổ Đạt Ma chưa từng nói một lời. Nhị tổ chưa từng hỏi một câu. Thế là, nói Đạt Ma chẳng vì người được chăng ? Huệ Khả chẳng cầu thầy được chăng ?
Niên hiệu Chánh Hòa năm thứ tám. Ngày mười bốn tháng năm, Sư bảo đem giấy mực viết kệ :
Ta tuổi bảy mươi sáu
Duyên đời nay đã đủ
Sống chẳng thích thiên đường
Chết chẳng sợ địa ngục
Buông tay đi ngang ngoài tam giới
Mặc tình vươn bổng nào buộc ràng.
Âm :
“Ngô niên thất thập lục
Thế duyên kim dĩ túc
Sanh bất ái thiên đàng
Tử bất phạ địa ngục
Tán thủ hoành thân tam giới ngoại
Đằng đằng nhậm vận hà câu thúc”.
Viết kệ xong, sư liền tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). Tr 509-518 .
*-Từ điển thiền tông Hán Việt. tr 192 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
57-THIỀN SƯ HUỆ NAM HOẰNG LONG (1002-1069)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Dương, quê ở Ngọc Sơn, Giang Tây. Năm 16 tuổi, theo thầy Trí Loan xuất gia, đến năm 19 tuổi thọ giới cụ túc .
Sư du phương tham học nhiều nơi, trải qua thiền hội của các thiền sư Tự Bảo, Thê Hiền, Hoài Trừng, Văn Duyệt .v.v… cuối cùng đến ra mắt thiền sư Từ Minh. Sư thưa :
-Huệ Nam do tối dốt, trông đạo mà chưa thấy, giờ tham thiền khi hôm, xét lời thầy dạy như người đi lạc phương hướng, may nhờ được kim chỉ nam. Cúi xin Hòa thượng đại từ bố thí pháp, khiến con dứt hết lòng nghi .
Từ Minh cười bảo :
-Thơ ký đã lãnh đồ chúng và du phương nổi tiếng khắp tùng lâm, nếu còn nghi ngờ chẳng cần khổ cầu như vậy, hãy ngồi mà thương lượng .
Từ Minh gọi Thị giả đem ghế mời sư ngồi .
Sư từ chối và tha thiết khẩn cầu, xin chỉ dạy .
Từ Minh bảo :
-Thơ ký học thiền Vân Môn ắt không được ý chỉ ấy. Như nói : “Tha Động Sơn ba gậy” . Động Sơn khi ấy nên đánh hay không nên đánh?
Sư thưa :
-Nên đánh .
Từ Minh nghiêm nghị bảo :
-Nghe tiếng ba gậy liền cho là nên ăn gậy. Vậy ông từ sáng đến chiều nghe tiếng chim kêu, tiếng trống đánh, tiếng chuông ngân, tiếng bảng gõ .v.v… cũng nên ăn ba gậy. Ăn gậy đến khi nào mới thôi ?
Sư chỉ còn biết nhìn sửng lặng thinh !
Từ Minh bảo :
-Tôi lúc đầu nghĩ không thể làm thầy ông, giờ thì đã đủ tư cách. Vậy ông hãy lễ bái đi .
Sư vâng lời lễ bái .
Từ Minh nhắc lại lời trước : Nếu ông hội được ý chỉ Vân Môn như triệu Châu thường nói : “Bà già ở Đài Sơn bị ta khám phá”. Thử chỉ ra chỗ khám phá xem ?
Sư mặt mũi nóng rực, mồ hôi ướt đẫm, không biết phải đáp thế nào, bị Từ Minh đuổi ra .
Hôm khác sư vào thất, Từ Minh lại mắng chửi. Sư hổ thẹn nhìn những người hai bên nói : ”Chính vì chưa hiểu câu quyết nghi, mắng chửi đâu phải quy củ từ bi thí pháp !”.
Từ Minh cười bảo :
-Đó là mắng chửi sao ?
Ngay câu nầy sư đại ngộ. Liền làm kệ tụng :
Giỏi vượt tùng lâm chính Triệu Châu
Lão bà khám phá mối manh đâu
Hiện nay bốn biển như gương sáng
Người đi, đường ghét thế là sao ?
Âm :
“Kiệt xuất tùng lâm thị Triệu Châu
Lão bà khám sứ một lai do
Như kim tứ hải thanh như cảnh
Hành nhơn mạc dĩ lộ vi thù”.
Về sau sư dạy chúng :
“Chư Thượng tọa : cái nào gọi là dạo núi sông ? Cái nào gọi là tầm sư ? Cái nào gọi là tham thiền ? Cái nào gọi là hỏi đạo ? Nhằm Hoài Nam, Lưỡng Chiếc, Lô Sơn, Nam Nhạc, Vân Môn, Lâm Tế mà cầu thầy hỏi đạo. Động Sơn, Pháp Nhãn mà tham thiền, ấy là nhằm bên ngoài tìm cầu, gọi là ngoại đạo.
Nên lấy tánh Tỳ Lô làm biển trí Bát nhã, tịch diệt làm thiền, gọi là cầu bên trong. Nếu cầu bên ngoài thì ngươi chạy mãi,
nếu dừng lại cầu bên trong năm uẩn là ngươi bị trói mãi .
Thế nên, thiền chẳng phải trong ngoài, chẳng phải có không, chẳng phải thực hư. Đâu chẳng nghe nói : ”Thấy trong, thấy ngoài đều lầm; Phật đạo, ma đạo đều ác”. Chợt bỏ đi chừ trăng lặn núi tây, lại tìm danh sắc chừ, nơi nào dung mạo ?”.
-“Đã ra khỏi cửa thì lay tay đi thẳng, chẳng cần biết có kẻ gác cửa.
Từ người gác cửa hỏi phải chẳng phải, đó là chưa qua khỏi cửa vậy.”
Sư ở Hoàng Long hoằng hóa rất thạnh, dám so bì với Mã Tổ, Bá Trượng. Đến niên hiệu Hy Ninh năm thứ hai. Ngày mười bảy, tháng ba, sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 68 tuổi, 50 tuổi hạ .
------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). Tr 522-532 .
*-Thơ thiền Đường Tống. tr 282 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (4). Tr 3071 .
*-Ngũ đăng hội nguyên. tr 445 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
57-THIỀN SƯ TÔNG BỔN VIÊN CHIẾU (1020-1099)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Quản, tự Vô Triết, quê ở Vô Tính, Thường Châu. Sư dung mạo đoan nghiêm, tính tình thuần hậu. Năm 19 tuổi xuất gia theo ngài Đạo Thăng ở chùa Thừa Thiên, khổ tu đến 10 năm mới thọ giới cụ túc .
Sư đến Trì Dương tham kiến thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài. Thiên Y dẫn câu chuyện Bồ tát Thiên Thân theo đức Di Lặc vào nội cung. Khi trở về Bồ tát Vô Trước hỏi : Cõi nhân gian bốn trăm năm, tại cung trời Đâu Suất một ngày đêm. Đức Di Lặc trong một thời dạy xong năm trăm ức vị Thiên tử chứng pháp nhẫn vô sanh, chưa biết nói pháp gì ? Thiên Thân đáp : “ Chỉ nói pháp ấy ” Thế nào là pháp ấy ?
Trải qua thời gian khá lâu, sư mới khai ngộ .
Một hôm Thiên Y ở trong thất hỏi sư :
-Khi tức tâm tức Phật, thì thế nào ?
Sư thưa :
-Giết người, đốt nhà có gì là khó .
Về sau, vua Tống Thần Tông thỉnh sư trụ trì chùa Huê Lâm. Lại thỉnh sư vào điện Diên Hòa để hỏi đạo .
Vào điện, sư ngồi kiết già, vua hỏi :
-Thầy xuất gia nơi chùa nào ?
Sư tâu :
-Chùa Thừa Thiên, Vĩnh An, Tô Châu .
Vua vui vẻ mời uống trà .
Sư bưng chung trà hớp từng ngụm dài, lay động tự tại .
Vua nói :
-Thiền tông mới hưng thạnh, nên khéo mở đường .
Sư tâu :
-Bệ hạ biết có đạo nầy như mặt trời soi xuống, thần đâu dám bê trễ .
Sư từ tạ trở về, vua đưa mắt nhìn theo và nói với kẻ ta hữu rằng :
-Đây là vị thánh tăng chân thật phước huệ .
Sau sư viện cớ già yếu, xin trở về rừng núi, được nhà vua chấp thuận, cho sư được tùy ý .
Sư đánh trống, nhóm chúng từ biệt, nói kệ :
Vốn là thân không nhà
Nay được tùy ý đạo
Thuận gió theo nhịp chèo
Dương Châu thuyền thẳng đáo.
Âm :
“Bổn thị vô gia khách
Na kham nhậm ý du
Thuận phong da lỗ trạo
Thuyền Tử hạ Dương Châu”.
Sư thượng đường dạy chúng
-Nơi đầu một sợi lông hiện cõi Bảo vương, ngồi trong hạt bụi chuyển bánh xe pháp .
Sư đưa gậy lên nói :
-Cái nầy là bụi, làm sao nói đạo lý chuyển bánh xe pháp. Sơn tăng ngày nay chẳng tiếc lông mày, cùng tất cả các ngươi nói pháp. Đưa lên thì nước biền dậy sóng, núi Tu di lung lay; buông xuống thì biển cả càn khôn yên tịnh. Thử hỏi các ngươi : “ Đưa lên là phải, hay hạ xuống là phải. Nên đoạn chẳng nên đoạn, hai lớp công án”.
Đến niên hiệu Nguyên Phù năm thứ hai. Tháng chạp, sư sắp tịch, tắm gội xong, nằm dài dưới đất. Đệ tử thấy thế đỡ sư lên giường, thưa :
-Hòa thượng truyền đạo khắp thiên hạ, hôm nay chẳng lẽ không để kệ ?
Sư nhìn thẳng bảo : “ Kẻ si, ta bình thường không thích làm kệ, ngày nay các ngươi mong làm gì ? Thường ngày ta ưng nằm thì nằm, chẳng lẽ ngày nay lại chuyên ngồi ? Hãy đem bút lại ! Sư cầm
bút viết :
-“Việc sau trao cho Thủ Vinh”. Liền ném bút, nằm xuống tịch, thọ 80 tuổi .
-------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). tr 539 .
*-Từ điển Phật học Huệ Quang (8). tr 6860 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
59-THIỀN SƯ PHÁP TÚ VIÊN THÔNG ( ? -1090)
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Tân, quê ở Thành Lũng, Tần Châu. Khi thọ thai sư, mẹ mộng thấy có vị lão tăng đến xin nghỉ trọ, sau sanh ra sư, 3 tuổi đã gởi vào chùa Ứng Càn theo Hòa thượng Lỗ. 19 tuổi thọ giới cụ túc, thông suốt kinh luật, tinh thuần kinh Viên Giác, Hoa Nghiêm .
Trên đường du phương tham học, sư đến hội thiền của thiền sư Nghĩa Hoài. Nghĩa Hoài hỏi :
-Tọa chủ giảng kinh gì ?
Sư thưa :
-Kinh Hoa Nghiêm .
Nghĩa Hoài hỏi :
-Kinh Hoa Nghiêm lấy gì làm tông ?
Sư thưa :
-Lấy pháp giới làm tông .
Nghĩa Hoài hỏi :
-Pháp giới lấy gì làm tông ?
Sư thưa :
-Lấy tâm làm tông .
Nghĩa Hoài hỏi :
-Tâm lấy gì làm tông ?
Sư không đáp được .
Nghĩa Hoài bảo :
-Có sai hào ly, cách xa trời đất, ông hãy tự khán có thể phát minh.
Sau, sư nhân nghe vị tăng nhắc việc Bạch Triệu đến tham vấn Báo Từ : “ Khi tình chưa sanh thì thế nào ? ”. Báo Từ đáp : “Cách”. Sư hốt nhiên đại ngộ, liền chạy đến phương trượng trình chỗ sở chứng .
Nghĩa Hoài bảo :
=Ngươi thật là pháp khí, tông của ta sau nầy đi theo ngươi vậy .
Về sau sư dạy chúng :
-“Theo gió điều khiển bườm, chính là theo gió nương sóng, cắt đứt các dòng chưa khỏi như xưa rỉ chảy. Xét tài bổ chức đâu ngoài hay dở, mua mũ vừa đầu khó được khít khao. Dù cho trên chẳng thấy trời, dưới chẳng thấy đất. Tông đây chẳng chia, Nam, Bắc chẳng phân, có chỗ nào mà dùng ? Dù là thép cứng, do trui luyện mà thành, cũng phải trên trán đổ mồ hôi. Thấy chẳng thế ấy, làm sao thương lượng ?”.
-Trời lạnh, mưa ríu rắc, gió thổi cát bay, đá chạy cây tróc, chim kêu, các người thảy đều biết. Hãy nói, gió có hình sắc gì ? Nếu bắt được, chấp nhận ngươi có đủ mắt sáng, nếu chẳng biết,
chớ lấy làm lạ lừa nhau ! Tham !
-Thiếu lâm chín năm ngồi lặng, lại bị Thần Quang ngó thủng. Hiện nay ngọc, đá khó phân, chỉ được dây cột, giấy gói. Lại hội chăng ? Cười ta thì nhiều, nhận ta thì ít !
Niên hiệu Nguyên Hựu năm thứ 5. Khi sắp tịch, sư bảo chúng :
-Lão tăng sáu chỗ trụ trì, có phiền Tri sự, Thủ tọa, Đại chúng, ngày nay tứ đại chẳng chắc, gió lửa sắp tan, mỗi người nên lấy đạo tự an, không trái lời ta di chúc .
Khi đến không vật lúc đi không
Nam bắc đông tây việc vãn đồng
Trụ trì sáu chỗ không ai bổ
Sư im lặng giây lâu, Giám tự Huệ Đăng thưa :
-Sao Hòa thượng không nói câu rốt sau ?
Sư nói : Trân trọng ! Trân trọng !
Nói xong, sư liền tịch .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (2). Tr 545 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .
SỐNG HAY CHẾT (SINH Ư-TỬ Ư)
60-THIỀN SƯ TỀ LIÊN (Ở) ĐẠI TRÍ ( ? - ? )
+ + +
Thiền sư Trung hoa, thời Tống, họ Mậu, quê ở Trung Giang, Đồng Xuyên. Thuở bé sư chẳng ham mê trần tục, 13 tuổi xuất gia, sau đến chùa Hộ Thánh thọ giới cụ túc .
Năm sau sư đến chùa Pháp Hoa ở Kinh đô học luận Bách pháp, thông hiểu Duy thức học, nghiền ngẫm câu : “Thử tức
vô lậu giới, bất tư nghì thiện thường, an lạc giải thoát thân,
đại mâu ni danh pháp”. Dường có tỉnh. Vị thầy hướng dẫn không thể giải thích thõa mãn. Sư than rằng : “Ta bỏ nhà vì việc lớn, ở đây chỉ đọc lại những lời trên giấy mực, ví như mặt trời mặt trăng vẽ, há lại có ánh sáng sao ?”. Sư lại từ giã sang miền Nam .
Trước hết sư đến tham vấn thiền sư Đạo Giả ở Thanh Khê, được Đạo Giả thầm nhận. Sư lại tham vấn thiền sư Diễm ở Ngũ Tổ, thiền sư Triết ở Chân Như, thiền sư Túc ở Bá trượng, thiền sư Tâm ở Hối Đường, nhưng vẫn chưa có chỗ tỉnh, mặc dù sư chí thiết tham vấn ngày đêm .
Cuối cùng sư đến thiền hội Đại Dương, ra mắt thiền sư Phù Dung. Nơi đây thầy trò vui vẻ khế hợp. Một hôm, nghe tiếng bảng buổi sáng, sư hoát nhiên đại ngộ, chạy đến trình ngài Phù Dung. Phù Dung ấn khả. Lại bảo sư giữ tạng kinh và phân tòa thuyết pháp.
Sư ở chùa Đại Trí được tám năm, thiền khách các nơi tìm đến rất đông, khiến cho chùa nấy trở thành ngôi Bảo Xã, và cũng nhân đó sư ứng tiếp đơn sơ.
Một hôm, sư chợt trở bệnh, có người đến thăm hỏi sức khỏe.
Sư bảo : Ta không khổ. Bỗng sư bảo Chủ sự :
-Hãy vì ta làm một cái kiệu lam, ta sẽ có chỗ dùng .
Hôm sau, ngày mười tám tháng mười một năm 1146 niên hiệu Thiệu Hưng thứ 15, sư ngồi kiết già cầm bút viết kệ xong, lặng lẽ thị tịch, thọ 73 tuổi .
---------------
*-Thiền sư Trung hoa (3). Tr 13 .
---o---
Gò Vấp mùa thu năm Kỷ Mão 2.003 .